Professional Documents
Culture Documents
Lời mở đầu:
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa học – kỹ
thuật và kinh tế thị trường, ngành công nghiệp hóa học cũng đang phát triển nhanh
chóng và chiếm lấy một vị trí vô cùng quan trọng tròn nhiều lĩnh vực đời sống xã hội,
đặc biệt là ngành công nghiệp sản xuất chất dẻo. Người đặt nền móng cho ngành hóa
học cao phân tử là Staudinger vào đầu những năm 20 của thế kỷ 20. Ra đời còn non trẻ
nên mãi đến những năm 30-40 ngành mới phát triển và đóng dấu bằng sự ra đời của
hàng loạt các ngành công nghiệp sản xuất cao su, tơ sợi tổng hợp, chất dẻo, sơn phủ
các loại,...
Đối với ngành công nghiệp chất dẻo thì phát triển nhất phải kể đến đó là ngành
công nghiệp nhựa. Nhựa được ứng dụng rất lớn trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật và cả
trong đời sống xã hội do có nhiều tính chất tốt như: độ bền cơ lý cao, độ ổn định hóa
học, độ cách điện, cách nhiệt, cách âm tốt, đàn hồi, dễ gia công hơn rất nhiều so với
kim loại và các vật liệu vô cơ khác. Ngoài ra, nhựa còn có giá thành rẻ, nguyên liệu
tổng hợp phong phú nên được nhiều nhà khoa học trên thế giới ngày càng quan tâm,
đầu tư nghiêm cứu lĩnh vực này.
Trong số các loại nhựa tổng hợp thì nhựa Polyester không no (unsaturated
polyester), gọi tắt là UPE là một trong những loại nhựa được ứng dụng rộng rãi, phổ
biến ngày nay và kể cả trong tương lai. UPE được tổng hợp đầu tiền vào năm 1847, do
Berzelius nấu polyester no từ acid tararic với glycerin. Sau đó thì UPE được Vorlander
nghiên cứu thành công từ glycol maleic vào năm 1894. Tuy vậy, mãi đến năm 1920
Wollace Carother mới được công nhận nhận UPE từ etylen glycol và acid không no,
các anhydric như: acid fumaric, anhydric maleic.
Nhựa UPE là một loại hợp chất cao phân tử và là một sản phẩm trùng ngưng
phân tử tương đối thaaos giữa polyacid mà trong đó có polycol hoặc polyacid hoặc cả
hai đều chứa nối đôi. Chính nối đôi này làm cho UPE có khả năng tạo ra mạng lưới
không gian khi phản ứng trùng hợp các monomer có khả năng khâu mạch như Styrenn,
Vinyltoluen, Vinylacetate, Methylmethacrylate, tert-butylstyren,... để chế tạo sản
phẩm nhựa nhiệt rắn không nóng chảy, không hòa tan, bền cơ học và môi trường.
Ngoài UPE còn là một trong những sản phẩm nhựa cao cấp có tính bền nhiệt và đàn
hồi.
UPE có thể đóng rắn ở áp suất thấp hoặc không có áp suất, không những khi
đun nóng mà ngay cả nhiệt độ thường. Thành phần của UPE là nhân tố quyết định tính
chất của nó, người ta thường sử dụng UPE trong hỗn hợp của nó với các monomer như
styren, methylmethacrylate,... và chất khơi mào (thường là các Peroxyde) để đóng rắn.
Bên cạnh đó, UPE còn chứa các nhóm không no như: ,
,... UPE có độ nhớt trung bình hay thấp là tùy thuộc vào các cấu tử nguyên liệu ban
đầu hay điều kiện tổng hợp nên, khi trộn với monomer đồng trùng hợp thì chúng là
chất lỏng đồng nhất.
Với những tính ưu việt trên, UPE được ứng dụng rộng rãi trong kỹ thuật như
làm vật liệu đúc khuôn, vật liệu cách điện trong kỹ thuật ô tô, tàu thủy, và đặc biệt là
ứng dụng để tổng hợp vật liệu compositee một loại vật liệu được tổng hợp có tính chất
cơ lý trung gian rất cao và đang phát triển rộng rãi.
Phản ứng trùng ngưng là quá trình tổng hợp polymer dựa vào phanr ứng của các
monomer có chưa những nhóm chất, tạo thành những liên kết mới trong mạch polymer
và đồng thời sinh ra hợp chất phụ như nước, HCl,…
Điều kiện cần về cấu tạo của monome tham gia phản ứng trùng ngưng là trong
phân tử phải có ít nhất hai nhóm chức có khả năng phản ứng.
Monomer tham gia phản ứng trùng ngưng phải chứa ít nhất hai nhóm chức khác
nhau như diol, diacid. Trong trường hợp monomer có chứa ba nhóm chức trở lên thì
sản phẩm tạo thành là nhựa polyester mạng lưới không gian.
Phần lớn các chất tham gia là các monome của protein:
HO - CH 2 - CH 2 – OH etylenglycol
Polimer được điều chế bằng phản ứng trùng ngưng polietilen. Nilon-6,6.
(polimetyl metacrylat)
Nhóm chức là nhóm quyết định nên tính chất hóa học của một loại hợp chất hóa
học trong phản ứng. Ví dụ: -OH, -COOH-, - NH 2, -Cl,…
Số chức của monomer là số trung tâm hoạt động có khả năng tạo liên kết đồng
hóa trị trong quá trình trùng ngưng polimer. Tùy thuộc vào điều kiện phản ứng hóa học
xảy ra mà số chức của monomer có thể thay đổi so với hợp chất cấu tạo ban đầu.
Ví dụ: Glixerin có ba nhóm chức OH, tại điều kiện nhiệt độ 180 ° C số chức bằng
2, nhưng nhiệt độ lớn hơn 180° C thì số chức lại bằng 3.
Xét cơ chế trùng ngưng nhựa polyester từ diol và diacid. Ở dạng tổng quát ta có
phương trình phản ứng:
+ Đầu tiền là phản ứng ngưng tụ giữa diol và diacid tạo monoester:
Trùng ngưng đồng thể: Đây là loại phản ứng mà khi trùng ngưng chỉ có một
loại monomer có thể tham gia phản ứng.
Trùng ngưng dị thể: Đây là loại phản ứng mà khí trùng ngưng sẽ có từ hai loại
monomer trở lên tham gia.
Trùng ngưng hai chiều được biết đến chính là một dạng polimer mạch thẳng
hay phân nhánh.
Trùng ngưng ba chiều được biết là khả năng tạo thành một dạng mạch không
gian. Lúc đó thì một trong những monomer tham gia phản ứng sẽ có tới ba nhóm chức.
1.5.3. Trùng ngưng cân bằng và trùng ngưng không cân bằng
Phản ứng này vốn là phản ứng tạo ra polimer đồng thời kèm theo các hợp chất
thấp phân tử. Do đó thành phần cơ bản của hợp chất cao phân tử tạo ra sau phản ứng
sẽ không trùng với các thành phần cơ bản của chất ban đầu.
Phản ứng này có được là bởi sự tương tác giữa các nhóm chức. Do đó, để xảy ra
trùng ngưng thì cần co các hợp chất với các nhóm chức khác loại có thể phản ứng với
nhau.
Bên cạnh đó thì phản ứng này cũng có thể xảy ra giữa hai (hoặc nhiều hơn) hợp
chất. Trong đó mỗi hợp chất sẽ có ít nhất hai nhóm chức giống nhau có thể phản ứng
với các nhóm chức của hợp chất trong hỗn hợp phản ứng.
Nếu như hợp chất thấp phân tử được tạo ra khi trùng ngưng có khả năng tương
tác với polimer tạo thành (trong các điều kiện của phản ứng này) thì quá trình của phản
ứng sẽ đạt tới cân bằng.
Đây là một trong những phương pháp phổ biến nhất và được nghiên cứu kỹ
nhất trong các phương pháp trùng ngưng polymer. Đặc điểm của phương pháp này là
quá trình được thực hiện ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ nóng chảy của polymer tạo thành
khoảng 15-20° C.
Để thực hiện kỹ thuật này, các hợp chất ban đầu được đưa vào bình phản ứng
với tỷ lệ đương lượng chính xác và đun nóng đến nhiệt độ cao (thường là 250-300 ° C)
trong môi trường khí trơ. Giao đoạn kết thúc phản ứng được thực hiện trong chân
không.
Trùng ngưng tròn dung dịch tiến hành với monomer và polymer không bền
nhiệt ở nhiệt độ nóng chảy.
Thực hiện phản ứng khi có mặt dung môi, trong đó monomer đều tan trong
dung môi còn polymer có thể tan hoặc không.
Ưu điểm của trùng ngưng trong dung dịch là nhiệt độ tương đối thấp nên hạn
chế được các phản ứng phụ.
Nhược điểm: Do có sử dụng dung môi nên phải có hệ thống tách dung môi và
thu hồi chúng, công nghệ phức tạp và tốn kém. Ngoài ra dung môi sẽ làm giảm nồng
độ monomer dẫn đến tốc độ phản ứng bé và tăng xác suất phản ứng đóng vòng, đây là
một phản ứng không mong muốn.
Trùng ngưng nhũ tương xảy ra trong hệ hai pha, trong đó vùng phản ứng là thể
tích của một trong hai pha đó, nghĩa là phản ứng xảy ra chỉ trong một pha. Giai đoạn
quyết định tốc độ quá trình chính là phản ứng hóa học để tạo thành đại phân tử
polymer vì sự chuyển khối và khuếch tán xảy ra nhanh hơn phản ứng hóa học.
Để tiến hành trùng ngưng, hệ nhũ tương đơn giản và dễ thực hiện nhất là chất
lỏng hữu cơ trong nước. Khi sử dụng monomer có khả năng phản ứng cao, quá trình
trùng ngưng tiến hành có lợi nhất là trong pha hữu cơ. Muốn vậy, cần lựa chọn các cấu
tử của hệ nhũ tương sao cho cả hai monomer đều có thể dịch chuyển sang pha hữu cơ.
Đặc trưng định lượng cho trạng thái phân bố cân bằng được gọi là hệ số phân bố các
chất giữa pha K. (K bằng tỷ lệ nồng độ một chất trong pha hữu cơ và pha nước).
Thường tiến hành giữa các cấu tử ở hai pha lỏng nhưng không tan vào nhau. Sử
dụng để tổng hợp polyamide, polyester, polyurethane.
Phản ứng xảy ra trên bề mặt phân chia pha nên đây là phản ứng thuận nghịch.
Tốc độ phản ứng cao ở nhiệt độ phòng nên đôi khi cần làm lạnh hệ phản ứng.
Polymer tạo thành có khối lượng phân tử rất cao mà các phương pháp khác
không đạt được.
Sản phẩm thường tạo ra dưới dạng màng trên về mặt phân chia pha và được kéo
liên tục ra khỏi thiết bị phản ứng dưới dạng sợi hoặc màng, sản phẩm phụ thoát ra
phân tán vào môi trường nước (nếu là HCl thì dùng dung dịch soda để hấp thụ).
Nhựa polyester là một loại nhựa nhiệt rắn, được sử dụng rộng rãi trong công
nghệ composite, polyester loại này thường là loại không no, có khả năng đóng rắn ở
dạng lỏng hoặc ở dạng rắn nếu có điều kiện thích hợp. Thông thường người ta gọi
polyester không no là nhựa polyester hay ngắn gọn hơn là polyester.
UPE có nhiều cách phân loại nhưng thông thường người ta phân loại theo hai
cách sau:
2.3.2. UPE acrylate: ngoài diol và diacid còn có một acid không no một chức. UPE
dạng acrylate là loại mạch thẳng, cuối mạch có một nối đôi.
Ví dụ: Anhydric phtalic + Ethylenglycol + Acid methacrylic.
2.4. PHÂN LOẠI THEO MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG VÀ ĐẶC TÍNH CỦA NHỰA
2.4.1. UPE thông thường
Loại UPE được tổng hợp từ Ethylen glycol (EG), Anhydric phtalic (AP),
Propylen glycol (PG), Anhydric maleic (AM). Trong đó PG có tác dụng tăng cường
khả năng tương hợp với Styren. Nhựa tổng hợp từ PG có độ nhớt không cao lắm, dùng
để gia công chế tạo các sản phẩm như: cano, bồn tắm,…
Loại này được tổng hợp bằng cách thay đổi một phần AP bằng một acid hai chức
mạch thẳng như acid adipic haowjc một acid đơn chức hoặc một glycol mạch dài như
diethylen glycol, dipropylen glycol. Nhựa này dùng để đúc các chi tiết nhỏ, trang trí
sản phẩm gỗ, đồ mỹ nghệ,…
Để UPE bền trong môi trường người ta thay một phần AP bằng acid isophatlic.
Nhờ khả năng ổn định nhiệt, bền cơ học, bền hóa chất hơn acid phtalic nên UPE tổng
hợp từ loại này được ứng dụng làm lớp phủ bề mặt. Tuy nhiên, giá thành sản xuất
tương đối cao.
Để giảm độ co ngót của nhựa, người ta tạo thành những lỗ xốp bên trong nhựa
khi đóng rắn sẽ bù trừ cho sự co ngót của nhựa, bằng cách bổ sung một lượng nhựa
nhiệt dẻo như Oligomer styren hay Oligomer methyl-methacrylat hòa tan trong
polymer. Khi đó ta thu được UPE có độ co ngót thấp.
Đây là loại nhựa có khả năng tránh đổi màu hoặc phân hủy bởi ánh sáng mặt trời
hay bức xạ tử ngoại. Người ta thêm vào nhựa chất ổn định quang như Benzophenol
hoặc thay một phần Styren bằng Methyltmethacrylat.
Thay một phần acid không no AM bằng acid no như acid phtalic, acid adipic,
acid isophtalic. Nhờ sự phân bố tốt của các đoạn chứa nối đôi nằm ở giữa hay ở hai
đầu mạch polymer, độ bền đàn hồi tăng lên do khoảng cách trung bình của các nối đôi
tăng, mật độ liên kết ngang giản đi. Dựa và đặc trưng này, người ta ứng dụng Upe để
chế tạo các chi tiết chịu được va đập, chịu tải trọng cao.
Các vòng thơm được đưa vào bằng cách thay EG bằng Bis-phenol A và Bis-
glycol (oxit propylen) sẽ làm tăng độ bền hóa và độ bền cơ lý của nhựa. Dùng loại
nhựa này để chế tạo ống dẫn, thùng chứa hóa chất.
Bằng cách thay một phần AP bằng một acid hai chức được halogen hóa như acid
tetracphtalic, tetrabromphtalic hay hexacloroendomethylen tetrahydrophtalic (HET).
Các gốc của halogen này sẽ hấp thụ gốc tự do, có khả năng chát rất thấp, bền hóa
chất nên tạo được nhựa UPE có khả năng chịu nhiệt và tự dập tắt khi cháy.
Nguyên liệu để sản xuất UPE là các polyol và polyacid, nhưng thông thường
người ta dùng các diol và diacid không no. Diol và diacid có nhiều loại, do đặc tính
của chúng khác nhau nên UPE tổng hợp cũng có tính chất khác nhau.
Poliacid: Thường các poliacid ở dạng ankydric để tổng hợp nhựa vì các anhydric
có hoặt tính cao hơn và không tạo sản phẩm phụ.
Trong quá trình tổng hợp nhựa UPE, ngoài những thành phần nguyên liệu chính
thì còn các nguyên liệu phụ thêm vào để việc tổng hợp đạt hiệu quả hơn và nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Trùng ngưng nhựa polyester không no là phản ứng tổng hợp ester xảy ra do sự
kết hợp các nhóm chức -OH và -COOH của nguyên liệu diol và diacid không no với
nhau tạo thành nhóm chức ester và liên các các phần còn lại của các cấu tử tham gia
phản ứng đồng thời tách ra sản phẩm phụ (H 2O). Monomer tham gia phản ứng trùng
ngưng phải chứa ít nhất hai nhóm chức khác nhay như diol, diacid. Trong trường hợp
monomer có chứa ba nhóm chức trở lên thì sản phẩm tạo thành là polyester mạng lưới
không gian.
Xét cơ chế trùng ngưng nhựa polyester từ diol và diacid. Ở dạng tổng quát ta có
phương trình phản ứng:
n HO R OH + nHO C R' C OH
O O
O O n
Đầu tiên là phản ứng ngưng tụ giữa diol và diacid tạo monomer:
HO R OH + HO C R' C OH
O O
H2O + HO R O C R' C OH
O O
HO R O C R' C OH + HO R OH
O O
H2O + HO R O C R' C O R OH
O O
O O O O
O O O O
Hoặc trùng hợp với các nối đôi giữa các mạch phân tử với nhau:
H
C C
H
C C + C C H
H H H H C C
H
O R' C O
Các phản ứng phụ này xảy ra làm đứt mạch đại phân tử, gây gel hóa làm khối
lượng phân tử trung bình giảm, do đó tính chất cơ lý cũng giảm theo.
Khắc phục: Thay hệ thống sinh hàn ngược bằng sinh hàn chưng cất để tách loại
nước và glycol dư. Nâng nhiệt độ lên 200-250° C, cho chất ổn định vào để nhựa không
bị gel hóa. Sục khí CO 2 vào thiết bị phản ứng để tạo môi trường khí trơ, tách loại sản
phẩm phụ, quá trình trộn hợp được tốt hơn. Để nước được lô cuốn tách ra nhanh hơn,
người ta cho xylen vào nồi phản ứng vì nó tạo hỗn hợp đẳng phí với nước, như vậy
nhựa tạo ra có khối lượng phân tử trung bình cao.
Tiếp tục nâng nhiệt độ để các monomer đa tụ tạo thành polyester. Các phản ứng
xảy ra trong quá trình diễn ra như sau:
Hoặc trùng hợp với các nối đôi giữa các mạch phân tử với nhau:
H
C C
H
C C + C C H
H H H H C C
H
Các phản ứng trên gây ra hiện tượng gel hóa nhựa, đặc biệt khi có mặt oxy
nguyên tử.
O R' C O
Các phản ứng phụ xảy ra làm đứt mạch phân tử, làm khối lượng phân tử trung
bình giảm, do đó tính chất cơ lý cũng giảm theo.
Phương pháp tiến hành: Thay hệ thống sinh hàn ngược bằng sinh hàn chưng cất
để tách loại nước và glycol dư. Nâng nhiệt độ lên 200 ÷ 250 ° C , cho chất ổn định vào để
nhựa không bị gel hóa. Sục khí CO 2 vào thiết bị phản ứng để tạo môi trường khí trơ,
tách loại sản phẩm phụ, quá trình trộn hợp được tốt hơn. Để nước được lôi cuốn tách
ra nhanh hơn, người ta cho xylen vào nồi phản ứng vì nó tạo hỗn hợp đẳng phí với
nước, như vậy nhựa tạo ra có khối lượng phân tử trung bình lớn.
Nhựa UPE có liên kết đôi của AM nên có khả năng tham gia phản ứng trùng hợp
với các monomer khác để tạo ra mạng lưới không gian. Khi tạo mạng lưới không gian
thì tính chất cơ lý của nhựa sẽ ổn định hơn. Quá trình tạo mạng lưới không gian gọi là
quá trình đóng rắn nhựa. Quá trình này xảy ra theo cơ chế gốc, nghĩa là tạo ra các gốc
hoạt động. Các gốc này sẽ tương tác với các polymer để chuyển thành các gốc đại
phân tử (trung tâm hoạt động) và gây hoạt hóa cho phản ứng trùng hợp với các
monomer khâu mạch tạo thành mạch nhánh trong phân tử.
Quá trình tạo ra gốc hoạt tính có thể sử dụng chất kích động hay bức xạ. Tuy
nhiên, dùng bức xạ thì chi phí cao nhưng năng suất không cao, do đó ở đây ta dùng
chất kích động. Chất đóng rắn ở đây là styren với hàm lượng khoảng 35%.
Chất khơi mào có tác dụng phân hủy tạo ra gốc tự do khơi mào cho phản ứng
đồng trùng hợp polyester không no và styren. Người ta thường sử dụng các hợp chất
sau:
N C C N N C C N 2N C C* + N2
N-nitroso acetanilide.
N C C CH3
N O
C N N
Peroxyde benzoyl.
C O O C
O O
Peroxyde diacety.
CH3 C O O C CH3
O O
Methyl ehtyl ketone peroxyde (MEKP) là hỗn hợp gồm các chất:
Mỗi loại peroxyde, hydroperoxyde có một chế độ làm việc nhất định.
O O O
RO OR + Co3+ RO O* + H+ + Co
2+
Hay:
Co2+
2RO OH RO O* + RO* + H2O
Sau đó các gốc tự do này tấn công vào monomer styren và polyester không no để
tạo ra trung tâm hoạt động.
R-O* + M1 → R-O-M1*
R-O* + M2 → R-O-M2*
Với M1: Monomer styren.
M2: Polyester không no chưa đóng rắn.
- Giai đoạn phát triển mạch: Ở giai đoạn này các gốc tự do tấn công vào các
phân tử M1, M2 để kéo dài mạch.
R-O-M1* + M1 → R-O-M1M1*
R-O-M1* + M2 → R-O-M1M2*
R-O-M2* + M1 → R-O-M2M1*
R-O-M2* + M2 → R-O-M2M2*
- Giai đoạn ngắt mạch: Giai đoạn này xảy ra chủ yếu theo cơ chế tái hợp gốc, là
sự kết hợp giữa hai gốc tự do hoạt động tạo ra những phần tử không có khả
năng tham gia phản ứng với quá trình trùng hợp.
M1* + M1* → M1M1
M1* + M2* → M1M2
M2* + M1* → M2M1
M2* + M2* → M2M2
Sau khi đóng rắn thì nhựa thu được có tính chất cơ lý khá cao.
Tỉ lệ AM/AP được khảo sát trong khoảng 1/1 – 2/1 mol so với hai loại nguyên
liệu EG và PG.
Khi giảm tỉ lệ AM/AP thì độ bền nhiệt kém, khó đóng rắn, khả năng tương hợp
với Styren thấp.
Việc sử dụng EG cho sản phẩm có tính năng thỏa mãn các yêu cầu về kỹ thuật và
làm giảm giá thành của sản phẩm. Tuy nhiên sản phẩm nhựa tạo thành sẽ giòn và khả
năng tương hợp với Styren kém, do đó yêu cầu sử dụng thêm PG trong nguyên liệu.
Propyl glycol (PG) làm tăng độ dẻo, độ bền uốn của nhựa và cải thiện khả năng tương
hợp với Styren. Còn EG có tác dụng làm đảm bảo độ cứng, độ bền nén, giảm thời gian
gel hóa của nhựa. Điều này có thể giải thích do EG có độ kết tinh cao, độ bền uốn
giảm do đó độ linh động của nhựa sẽ giảm làm cho thời gian gel hóa được rút ngắn.
Khi sản xuất nhựa UPE cho phép sử dụng EG với tỉ lệ cao mà vẫn đảm bảo độ
bền cơ lý của nhựa, theo các số liệu thống kê được thì PG/EG có tỉ lệ 0,5/1 là tốt nhất.
Hàm lượng Styren sử dụng cần phải phù hợp với nối đôi có trong AM để đảm
bảo quá trình đóng rắn hoàn toàn và khoảng cách giữa các nối ngang là thích hợp để
đảm bảo độ linh động của nhựa.
Khi tăng hàm lượng Styren thì thời gian gel hóa sẽ dài, do hàm lượng Styren
nhiều dẫn đến độ linh động của nhựa cao hơn, nên nhựa đóng rắn hoàn toàn hơn.
Độ hòa tan của nhựa trong Styren cho phép đánh giá sơ bộ khả năng đồng trùng
hợp giữa Styren với nhựa, qua đó ta thấy tỷ lệ Styren trong khoảng 33-37% là thích
hợp nhất, vì ở đó lượng Styren vừa đủ để đóng rắn và phản ứng đóng rắn là hoàn toàn,
do đó độ hòa tan trong Styren cũng thỏa mãn các tính chất khác.
3.4.4. Ảnh hưởng của các chất xúc tiến, chất xúc tác
Khi cần đóng rắn UPE đòi hỏi phải có một hệ thống đóng rắn thích hợp ở nhiệt
độ thường, do đó ở đây chủ yếu sử dụng các chất như sau:
Để hạn chế hiện tượng tự trùng hợp của nhựa, người ta dùng chất kìm hãm, ở đây
thường dùng hydroquinon 0,01%.
Khi dùng với hàm lượng này thì giữ được sự ổn định của nhựa lâu hơn, tránh
hiện tượng tự trùng hợp không cần thiết nhưng nó lại là tác nhân cản trở quá trình phản
ứng. Vì vậy cần phải tính toán dùng với hàm lượng thích hợp cho mỗi mẻ nhựa.
Vai trò của Hydroquinon là làm chậm phản ứng bằng phản ứng khử sản phẩm,
kết hợp monomer với peroxide, hoặc bản thân nó bị oxy hóa khi có mặt oxy không khí
biến thành chất có khả năng tác dụng với gốc tự do nên làm đứt mạch đại phân tử.
Nhiệt độ càng cao thì tốc độ phản ứng càng lớn, tách nước càng triệt để, hiệu suất
càng lớn. Nhưng khi nhiệt độ quá cao, phản ứng xảy ra càng mạnh, nhựa tạo gel sớm
hoặc có thể đóng vòng phân tử làm giảm khối lượng phân tử. Do đó người ta khống
chế nhiệt độ từ 190-205° C với sự có mặt của chất ức chế Hydroquinon.
Oxy không khí kết hợp với các liên kết đôi của UPE để tạo ra hợp chất Perpxide
qua cầu nối Oxy, tạo cấu trúc nhánh lớn, hậu quả là nhựa bị đóng rắn sớm và sẫm màu.
UPE sau khi tổng hợp ở trạng thái lỏng nhớt, màu vàng hoặc hồng, độ nhớt đạt
khoảng 1800-2000 cP. Ở điều kiện bảo quản không tiếp xúc với không khí và nhiệt độ
thường, UPE có thể sống được 6-8 tháng mà không bị gel hóa. Khi có không khí và
nhiệt độ bảo quản trên 40° C , UPE chỉ sống dưới 4 tháng.
Ở trạng thái đóng rắn, nhựa UPE là vật liệu rắn trong suốt hoặc không trong suốt.
Vật liệu trong suốt cho ánh sáng đi qua đến 92%, khi có tác dụng của tia sáng có độ
dài sóng nhỏ hơn 390 μm thì nhựa bị vàng. Sau khi đóng rắn, UPE có độ bền cơ lý cao,
chịu môi trường dung môi tốt, chịu được sương muối, tử ngoại, chịu được môi trường
acid HCl 15%, HNO3 7%, kém bền trong môi trường NaOH trên 2%. Đối với
polyester maleic đóng rắn thì bền trong môi trường acid, dung dịch muối trung tính và
các dung môi có cực. Nhưng không bền kiềm, ketone, anilin, disunfua cacbon và acid
nóng. Ngoài ra nó còn có độ ngót lớn, chịu nhiệt không cao, độ bền va đập không cao,
có tính cháy. Để giảm tính cháy ta thêm các phụ gia vô cơ hoặc hữu cơ vào (PVC,
trioxide, arsenic).
UPE có tính thấm ướt với chất độn và dễ dàng đóng rắn.
hợp. Hiện nay loại vật liệu này được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực như: hàng
không, hàng hải, xây dựng, đồ mỹ nghệ, đồ gia dụng,…
Hiện nay một số cơ sở sản xuất vật liệu composite để sản xuất các vật liệu cao
cấp, ứng dụng nhiều trong thực tiễn và đạt độ bền khá cao, đáp ứng yêu cầu sử dụng
của người tiêu dùng. Ngoài ra do dễ tạo dáng, có độ bóng cao, tính mỹ thuật cũng như
độ bền cao nên còn được sử dụng để sản xuất các sản phẩm như:
Việc nghiên cứu các phản ứng biến tính polymer vẫn đang được tiến hàng một
cách tích cực, từ đó tìm ra phương pháp tối ưu để sản phẩm tạo ra đáp ứng theo đúng
yêu cầu kỹ thuật và sử dụng, đồng thời chi phí cho sản xuất và nghiên cứu là thấp nhất
cũng như hiệu quả kinh tế cao nhất.
Thông thường người ta biến tính polymer bằng các phương pháp sau:
Tùy theo mục đích sử dụng mà người ta có thể bổ sung hoặc thay thế hoặc biến
tính nguyên liệu ban đầu để tổng hợp nhựa có tính chất theo yêu cầu.
Phương pháp biến tính này rất có hiệu quả, dễ dàng tạo nhựa theo yêu cầu sử
dụng. Tuy nhiên, quá trình này được sử dụng từ khâu đầu tiên do vậy một số monomer
không sản xuất được trong nước thì không thể thực hiện được. Do đó nó sẽ không có ý
nghĩa khi chúng ta không thể sản xuất được trong nước.
Người ta có thể thay đổi cấu trúc của nhựa bằng cách đưa một số polymer khác
hay các phụ gia vào để thay đổi cấu trúc, sắp xếp lại mạch polymer. Để thực hiện
người ta sử dụng phương pháp cơ học (khuấy, trộn, cán) ở những nhiệt độ khác nhau.
Do đó phương pháp này còn gọi là phương pháp vật lý.
Cơ sở của phương pháp này là sử dụng phản ứng trùng ngưng (ete hóa, este hóa)
hay có thể trùng hợp (ít sử dụng hơn) dựa vào khả năng phản ứng của các nhóm chức
trên mạch polymer nahwmf tạo thêm một số tính chất cần thiết cho nhựa. Phương pháp
này còn gọi là phương pháp chuyển hóa polymer tương tự.
Lựa chọn dây chuyền công nghệ quyết định năng suất, chất lượng, giá thành sản
phẩm và cũng là yếu tố quyết định đến thành bại của một nhà máy sản xuất. Các thiết
bị trong dây chuyền công nghệ sản xuất đóng góp tích cực vào việc giảm nhẹ công
việc của nhân công, hiện đại hóa quy trình sản xuất, đưa chỉ tiêu kinh tế nhà máy đi
lên. Vì vậy, việc lựa chọn quy trình công nghệ sản xuất phải đảm bảo được các yêu
cầu trong quá trình sản xuất, thuận lợi trong việc bố trí các công đoạn sản xuất để công
nhân thao tác được dễ dàng và đảm bảo được an toàn lao động.
5.1.1. Các thiết bị sản xuất cần đạt hai yêu cầu chính
Năng suất.
Nguyên liệu và năng lượng gồm nhiên liệu, nước, hơi nước không khí, điện năng
tiêu thụ. Tiêu hao cho mỗi đơn vị tính theo khối lượng hoặc thể tích trên một sản phẩm
phụ thuộc vào các yếu tố như:
- Ưu điểm:
+ Lượng chất thoát ra ngoài ít.
+ Hiệu suất tổng hợp nhựa cao.
+ Quá trình vận hành, khống chế phản ứng dễ dàng.
+ Nhựa thu được có khối lượng phân tử cao.
+ Chất lượng sản phẩm được nâng cao.
- Nhược điểm:
Trong quy trình sản xuất này, ta sử dụng hỗn hợp diphenyl để gia nhiệt cho thiết
bị phản ứng vì hỗn hợp diphenyl không những đáp ứng được khả năng tải nhiệt cho
phản ứng, dễ điều chỉnh nhiệt độ cho từng giai đoạn của phản ứng mà còn phù hợp với
tính năng kinh tế cũng như ít ảnh hưởng đến môi trường.
Quá trình tổng hợp nhựa UPE được tiến hành qua các giai đoạn sau:
Nguyên liệu EG và PG có sẵn trong thùng chứa, được bơm li tâm bơm lên thùng
lường, với một lượng vừa đủ cho một mẻ sản xuất nhựa. Sau đó mở van cho nguyên
liệu chảy vào thiết bị phản ứng.
Cho hỗn hợp tải nhiệt diphenyl đã được đun nóng vào vỏ áo thiết bị phản ứng với
lưu lượng đủ để gia nhiệt hỗn hợp nguyên liệu lên 70° C trong thời gian 30 phút.
Nạp AM, AP, AA và gia nhiệt hỗn hợp phản ứng đến 200 ° C. Nạp
(AM+AP+AA) tan hết. Nhiệt độ ban đầu của hỗn hợp đạt khoảng là 200 ° C (nhiệt độ
sôi của hỗn hợp) là phù hợp.
GVHD: Mai Thị Phương Chi Trang 25
SV. Nguyễn Xuân Sơn Hoàng ĐỒ ÁN VẬT LIỆU POLYMER
Ngừng tăng nhiệt độ để phản ứng tạo monomer xảy ra và nhiệt độ có xu hướng
giảm xuống. Sau 2 giờ nhiệt độ của phản ứng còn khoảng 170 ° C, duy trì ở nhiệt độ
này khoảng 30 phút để phản ứng xảy ra hoàn toàn.
Trong giai đoạn nà glycol bốc hơi, do đó ta cần phải hồi lưu lượng glycol bốc hơi
này bằng thiết bị ngưng tụ rồi đưa trở lại thiết bị phản ứng. Lúc này nước vẫn chưa
được tách ra nên tiếp tục hồi lưu glycol lại thiết bị phản ứng.
Tăng lượng chất tải nhiệt diphenyl đã đun nóng để tăng nhiệt độ của hỗn hợp
trong thiết bị phản ứng lên 205° C trong 30 phút và thực hiện phản ứng đa tụ các
monoester thành polyesster. Trong giai đoạn này sản phẩm nhựa và nước bắt đầu xuất
hiện, đây là phản ứng thuận nghịch nên việc tách nước ra khỏi hệ phản ứng là điều rất
quan trọng để phản ứng xảy ra theo chiều thuận tạo thành polyester. Để tách nước ra
ngoài người ta dùng xylen. Xylen từ thùng chứa được bơm ly tâm bơm lên thùng
lường, sau đó mở van cho xuống thiết bị phản ứng để tạo hỗn hợp đẳng phí với nước,
sau đó được ngưng tụ ở thiết bị ngưng tụ và qua thiết bị tách. Tại đây nước và xylen
được tách riêng ra, xylen được thu hồi và cho hồi lưu trở về thiết bị phản ứng còn nước
được thải ra ngoài. Thời gian thực hiện giai đoạn này khoảng 240 phút. Khi chỉ số acid
đạt khoảng 30-40 thì kết thúc giai đoạn phản ứng tạo polyester không no. Polyester sau
khi tổng hợp được bổ sung một lượng hydroquinon vào để ổn định nhựa. Sau đó, tháo
sản phẩm và làm vệ sinh thiết bị phản ứng.
Nhựa sau khi tổng hợp xong được cho vào thiết bị tương hợp. Tại đây dùng
nước lạnh để làm lạnh hỗn hợp xuống còn 80 ° C trong khoảng thời gian 1 giờ. Bắt đầu
quá trình trộn hợp với styren, ở đây dùng thêm lượng chất ổn định hydroquinon
(khoảng 0,01%) để làm chậm quá trình trùng hợp tạo nhựa đóng rắn khi chưa gia công,
Styren từ thùng chứa được bơm lên thùng lường sau đó mở van cho xuống thiết bị
tương hợp. Tiến hành khuấy trộn nhựa UPE khoảng 1 giờ.
Sau khi tương hợp xong, nhựa được cho qua thùng chứa trung gian nhờ bơm, và
đưa đến thiết bị để lọc nhựa. Mục đích của giai đoạn này là tách các tạp chất rắn còn
dư. Qua công đoạn kiểm tra, nhựa đạt yêu cầu được chứa ở thiết bị.
Sau quá trình lọc, từ thiết bị nhựa được cho vào các thùng phuy bên trong có mạ
kẽm, sau đó nhập kho và đưa đi sử dụng. Kết thúc một mẻ sản xuất thời gian tổng
cộng khoảng 10 giờ.
- Số ngày sửa chữa, bảo trì máy móc thiết bị, sự cố mất điện là: 10 ngày.
- Như vậy, số ngày sản xuất còn lại trong một năm là:
- Do đó, để đạt được năng suất theo yêu cầu thì năng suất mỗi ngày phân
30000
xưởng phải đạt là: =86,957 tấn/ngày.
345
- Quá trình sản xuất là gián đoạn cho mỗi mẻ, thời gian sản xuất mỗi mẻ là
8 giờ. Do đó, mỗi ngày sản xuất được 3 mẻ và năng suất mỗi mẻ là:
86,957
=28,986 tấn/mẻ.
3
1.2. Lượng nguyên vật liệu để sản xuất 1 tấn sản phẩm
1.2.1. Lượng nguyên liệu tổng hợp nhựa
Để đơn giản, ta tính toán cân bằng vật chất cho 1 tấn sản phẩm, từ đó suy ra
cân bằng cho 1 mẻ và 1 năm sản xuất.
- Giả sử tất cả các nguyên liệu là tinh khiết. Lượng glycol lấy dư 10% (do
bay hơi)
Vì phản ứng tạo nhựa ở giai đoạn đầu chưa có sự thoát hơi nước, hơi nước
chỉ thoát ra ở giai đoạn đa tụ sâu các monoeste và lượng nước này phụ thuộc vào
liên kết este giữa các anhydric với các diol, tức là phụ thuộc vào tỉ lệ giữa các cấu
tử anhydric thành phần.
- Khối lượng Styren chiếm 38% so với nhựa sản phẩm. Nên lượng Styren
có trong 1 tấn nhựa sản phẩm là:
38
mStyren = 1000× =¿380 kg.
100
- Do đó, trong 1 tấn dung dịch sản phẩm thì có 620 kg nhựa.
- Theo yêu cầu, quá trình sản xuất cần khống chế điều kiện tổng hợp để thu
được nhựa có chỉ số axit bằng 40. Nghĩa là 1(g) nhựa sản phẩm cần 40(mg) KOH
để trung hoà hết lượng axit còn lại trong đó.
24,8
nKOH = =0,443 (kmol).
56
- Trong quá trình tạo nhựa, các phản ứng xảy ra với hiệu suất chuyển hoá
không hoàn toàn, nên lượng axit còn lại trong 1 tấn nhựa là:
1.0,443
mAM dư = 98 × = 19,2908 (kg)
(1+1,25)
0,85.0,443
mAPdư = 148 × = 24,763 (kg)
(1+1,25)
0,15.0,313
mAA dư = 128 × = 3,7794 (kg)
(1+1,25)
- Vậy lượng nhựa tinh khiết trong 1 tấn nhựa sản phẩm là:
- Từ (3) và (4) ta có biểu thức đồng nhất về khối lượng nhựa là: 360,5n =
566,177
⇒ n = 1,5871 (mol)
- Vậy khối lượng các cấu tử nguyên liệu tham gia sản xuất 1 tấn nhựa sản
phẩm là:
Vì glycol tổn hao 10% do bay hơi nên lượng lấy dư là:
123,0003
mEG dư = ×10 = 12,3 (kg)
100
120,6196
mPG dư = ×10 = 12,062 (kg)
100
Vậy, tổng lượng nguyên liệu cần dùng thực tế là:
- Lượng nước sản phẩm của phản ứng trùng ngưng là:
18 × n = 18 × 1,5871 = 7,9722
49,1634 × 80,4
mxylen = = 201,6703 (kg)
19,6
Nguyên
liệu m (kg)
AM 155,5358
AP 199,6572
AA 30,4723
EG 123,0003
PG 120,6196
Xylen 201,6703
Styren 380
1.3.2. Cân bằng vật chất ở công đoạn đóng gói có tổn thất 0,25%
Bảng 2: Khối lượng nguyên liệu - sản phẩm ở khâu đóng gói
1.3.3. Cân bằng vật chất ở công đoạn lọc nhựa có tổn thất 0,3%
Bảng 3: Khối lượng nguyên liệu - sản phẩm ở khâu lọc nhựa
Nguyê Lượng Lượng Tổn
n liệu vào (kg) ra (kg) hao (kg)
Styren 382,05 380,95 1,1
1.3.4. Cân bằng vật chất ở quá trình chuẩn bị nguyên liệu với tổn thất 0,25%
Bảng 6: Khối lượng vật chất vào - ra khi sản xuất 1 mẻ sản phẩm
Bảng 7: Khối lượng vật chất vào - ra trong 1 nồi phản ứng
Tổng
Nguyên Lượng Lượng
tổn thất
liệu vào (kg) ra (kg)
(kg)
2254,1 225,41 5,635
AM
8 8 4
2893,6 289,36
AP
32 32 7,234
441,63 44,163
AA
5 5 1,104
1782,6 178,26 4,456
EG
43 43 6
1748,1 174,81 4,370
PG
4 4 3
2922,8 292,28
Xylen
08 08 7,307
5550,8 13,87
Styren
91 - 72
828,06
Nước tách
- 62 -
Nhựa 36,23
(35% styren) - 14493 2
17593, 2032,3 36,23
Tổng cộng
93 7 25
1.3.8. Cân bằng vật chất cho 1 ngày đêm sản xuất:
- Một ngày đêm sản xuất được 3 mẻ, lấy số liệu từ Bảng 6 nhân với 3 ta được
Bảng 8: Khối lượng vật chất vào - ra trong 1 ngày sản xuất
Tổng
Nguyên Lượng Lượng
tổn thất
liệu vào (kg) ra (kg)
(kg)
13525,0 1352,5 33,81
AM
821 081 27
17361,7 1736,1 43,40
AP
908 79 44
2649,81 264,98 6,624
AA
02 1 5
10695,8 1069,5 26,73
EG
6 86 96
10488,8 1048,8 26,22
PG
391 839 21
17536,8 1753,6 43,84
Xylen
459 845 21
33305,3 83,26
Styren
487 - 33
Nước 4968,3
tách - 975 -
Nhựa 217,3
(35% styren) - 86958 95
Tổng 105563, 99152, 481,3
cộng 5772 2203 039
Bảng 9: Khối lượng vật chất vào - ra trong 1 năm sản xuất
Tổng
Nguyên Lượng Lượng
tổn thất
liệu vào (tấn) ra (tấn)
(tấn)
4666,1 466,61 11,66
AM
533 53 53
5989,8 598,98 14,97
AP
178 1 45
914,18 91,418
AA
4 4 2,285
3690,0 369,07 9,225
EG
717 17 1
3618,6 361,86 9,046
PG
495 49 6
6050,2 605,02 15,12
Xylen
118 11 55
11490, 28,72
Styren
3453 - 58
Nước 1620,9
tách - 471 -
Nhựa 30000, 75,00
(35% styren) - 51 12
Tổng 36419, 34114, 166,0
cộng 4341 3659 498
1.4. Lượng Xylen cần dùng để tách nước trong 1 năm
- Từ bảng cân bằng vật chất ta có lượng nước cần tách ra trong 1 mẻ là:
- Lượng Xylen cần dùng để tách nước trong mẻ sản xuất đầu tiên là:
1638,289
Mxylen = ×80,4=5846,4241 (kg)
19,6
- Do lượng Xylen thường được tinh chế và cho hồi lưu lại quá trình khoảng
80% nên lượng Xylen dùng trong mỗi mẻ sau sẽ là:
Vậy tổng lượng Xylen dùng trong 1 năm sản xuất (trừ mẻ đầu tiên) là:
- Lượng Xylen mất mát (0,25% do chuẩn bị nguyên liệu) trong mẻ đầu tiên là:
0,25
mxylen = ×5846,4241=14,61606 (kg)
100
0,25
× 233,84=0,5846(kg)
100
Vậy tổng lượng Xylen cần lấy để dùng trong 1 năm sản xuất là:
Nồi đa tụ là thiết bị chính của quá trình phản ứng, nồi có cấu tạo như sau:
- Thân hình trụ.
- Đáy và nắp có dạng elip có gờ.
- Cánh khuấy dạng mỏ neo.
- Một cửa vệ sinh ở nắp.
- Nắp có các cửa để đưa nguyên liệu vào, bốc hơi, hồi lưu.
- Kính quan sát.
- Đáy có van tháo sản phẩm.
- Nồi có vỏ bọc ngoài để đun nóng hay làm lạnh.
- Thân có gắn 4 tai treo, vật liệu làm nồi phải chịu được áp suất và chịu
được ăn mòn..
Trong đó:
Vn: Thể tích nồi
Vnl: Thể tích nguyên liệu cho vào một mẻ nồi
α: Hệ số dẫn đầy
Với α = 0,6 ÷ 0,7 vì tốc độ cánh khuấy không lớn lắm nên ta chọn α =
0,65
Vnl 3301
Vn = = =¿50,7846 (m3)
α 0,65
D
• Vthân = π ( )2.H
2
1 1 4 D ℿ .. D 3
• Vnắp = Vđáy = . . .ℿ. ( )3 = ( )
2 2 3 2 2 2
1,4 π 5,2
Vn = . π .D3 + 2. .. D3= . π . D3 = 50,7846 (m3)
4 12 12
50,7846 12
D=
√
3
5,2 3,1416
=3,3413 (m)
2.1.3.1. Chiều dày thân hình trụ của nồi phản ứng
Chiều dày thân hình trụ được tính dựa theo công thức XIII-8/350 STTB T2
ta có:
Dt . P
S= + C (m)
2 [ σ ] . ϕ−P
Trong đó:
H1 = hb + h + H0
hb - chiều cao phần lồi đáy hb = 850mm
h - chiều cao phần gờ h = 50mm
H0 - chiều cao phần chất lỏng ở thân.
V −Vđ
H0 = π .( D )2 3,53
2
3
π D
Mà Vđ = = × ( )3 = 3,1416 .3,5 =5,6123 m3
2 2 3
50,7846−5,6123
H0 = 3,52 = 4,695 m = 4695 mm
3,1416 .
4
H1 = 850 + 50 + 4695 = 5595 mm = 5,595 m
2.1.3.1.2. Ứng suất cho phép của thép X18H10T được tính theo công thức XIII-
1 và XIII-2 STTB T2 T355
σ σ
[ k]= và [ c]=
550.106
×
= = 2,6 . 0,9 = 190,385 106 (N/m2)
220.106
= = 1,5 . 0,9 = 132.106 (N/m2)
Do đó ta có thể bỏ qua đại lượng P ở mẫu của công thức tính chiều dày.
3500× 1,039.106
Khi đó: S = = +C=15,909 mm
2.132×10 6 × 0,9
Kiểm tra ứng suất của thành theo ứng suất thử (dùng H2O)
Áp dụng công thức XIII-26 STTB T2 T365
Vậy S = 18mm
Trong đó:
hb- Chiều cao phần lồi của đáy
hb =850 mm
Φh- Hệ số bền của mối hàn hướng tâm Φh = 0,9 (tra bảng XIII-8)
GVHD: Mai Thị Phương Chi Trang 46
SV. Nguyễn Xuân Sơn Hoàng ĐỒ ÁN VẬT LIỆU POLYMER
132.106 .1
Xét = .0,9=114,34 >30
1,039.106
Do đó ta bỏ P ở mẫu
Qui chuẩn S = 16 mm
* Kiểm tra ứng suất thành của đáy và nắp thiết bị theo áp suất thử thủy lực theo
công thức XIII-49 STTB T2 T375:
6
[3500¿¿ 2+2.875 . ( 16−2 ) ].1,31 9.10
σ= ¿ = 163,872.106 (N/m2)
7,6. 1. 0,9.875.(16−2)
σ
Ta thấy σ < Do đó chiều dày đáy và nắp thỏa mãn
1,2
Vậy S=21 mm
Chiều cao phần vỏ bọc ngoài thường lấy cao hơn mặt chất lỏng là 0,3m.
Vậy chiều cao phần thân vỏ bọc: Hv = 6,095 + 0,3 + 0,1 = 6,495 (m)
Do môi trường làm việc của vỏ bọc ít bị ăn mòn, chịu được áp suất tương đối
thấp nên ta chọn thép CT3 làm vỏ bọc và cũng được gia công theo phương pháp hàn .
Chiều dày của vỏ bọc cũng được tính giống như nồi và được tính như
sau:
Trong đó:
Dt - Đường kính trong của vỏ bọc, ta thiết kế vỏ bọc ngoài cách thân thiết
bị là 100mm
180.106
[σk] = .1 =146,154.106 (N/m2)
2,6
240.106
[σc] = .1=¿ 160.106 (N/m2) .
1,5
Thiết bị chính của phân xưởng sản xuất nhựa UPE đó là nồi tổng hợp
nhựa hay thiết bị đa tụ (thiết bị phản ứng). Ta chọn vật liệu làm nồi là thép không gỉ,
chịu nhiệt, loại Cr18Ni10Fe có hàm lượng các chất trong thép như sau: Cacbon 0,1%,
Crom 18%, Niken 10%. Nồi có thân hình trụ làm bằng thép tấm còn đáy và nắp là hình
elip, bích của thân là bích hàn, bích ở nắp là loại đúc sẵn, ghép nắp với thân bằng
bulong. Bên trong nồi có gắn cánh khuấy mỏ neo, bên ngoài có lớp vỏ bọc bằng thép
để chứa chất tải nhiệt là hỗn hợp Difenyl, ngoài ra còn có lớp cách nhiệt bằng bông
thủy tính, áp kế, đồng hồ,…
Thể tích nồi được tính khi lượng hỗn hợp phản ứng trong nồi là
lớn nhất, lúc đó nguyên liệu được cho tất cả vào nồi phản ứng.
Ta có khối lượng các cấu tử tham gia phản ứng trong 1 mẻ sản
xuất là:
mAM = 4508,361 (kg).
mAP = 5787,264 (kg).
mAA = 883,2701 (kg).
mEG = 3565,287 (kg).
mPG = 3496,28 (kg).
⅀m = 18240,4621 (kg).
Trước khi tính thể tích nồi đa tụ ta phải tính thể tích nguyên liệu,
thể tích nguyên liệu được tính theo công thức sau:
Gi
Vi =
ρi
Tra sổ tay quá trình thiết bị - tập 1, ta có khối lượng riêng ác cấu tử như
sau:
ρ AM = 1480 (kg/m3)
ρ AP = 1530 (kg/m3)
ρ AA = 880 (kg/m3)
ρ EG = 1130 (kg/m3)
ρ PG = 1038 (kg/m3)
Vậy, thể tích nguyên liệu cho vào 1 mẻ bằng tổng thể tích nguyên liệu
riêng lẻ:
G AM G AP G AA GEG G PG
Vngl = + + + +
ρ AM ρ AP ρ AA ρ EG ρ PG
= 14,3521
Thể tích nồi đa tụ không được quá lớn cũng không được quá bé, thể tích
nồi đa tụ được tính theo công thức như sau:
V ngl
Vn =
α
14,3521
Vn = = 19,1361 (m3)
0,75
Nồi phản ứng có cấu tạo gồm: thân nồi hình trụ, đáy và nắp dạng elip có
gờ, nên thể tích nồi phản ứng được tính theo công thức sau:
Vn = Vi + Vnắp + Vđáy.
Khi thiết kế thân hình trụ ta có thể dựa vào đường kính trong hoặc
đường kính ngoài, ở đây ta dựa vào đường kính trong.
Gọi: Dt – đường kính trong của nồi.
H – chiều cao thân nồi.
Hlỏng – chiều cao cột chất lỏng trong nồi.
H – chiều cao của gờ.
Ta có công thức tính thể tích thân hình trụ như sau:
Vi = π ( D2 ) . H - π4 D .H (m ).
t 2 2
t
3
Vnắp = Vđáy = . π
1 4
4 3 ( D2 ) - 24π .D (m )
t 3 3
t
3
π 2 π 3 4,6 π . D3t
Suy ra: D . D
Vn = 4 t .1,2Dt + 2. 24 t - – 10 (m3)
12
12.10
→ Dt =
√
3
4,6 π
– 2,025 (m).
Tra bảng [XIII.10, trang 382] sổ tay QTTB tập 1, với D = 2 (m) ta
được:
hđ = 0,25.D1 = 500 (mm).
h = 50 (mm).
Fđáy = 4,66 (m2).
Vnắp = 1,205 (m2).
Hỗn hợp trong nồi phản ứng sẽ chiếm toàn bộ thể tích đáy và một
phần thể tích hình trụ, như vậy:
Vngl = Vđáy + π .(D√ 2)2.H1 (m3).
Trong đó: H1 – chiều cao cột chất lỏng với phần thân thiết bị.
Khi đó, chiều cao của cột chất lỏng trong nồi là:
Hlỏng = hđ + h + H1
= 0,5 + 0,05 + 2,0132 = 2,5632 (m)
(N/m2).
- Giới hạn chảy : σ c = 220.106 (N/m2).
2.3.1. Ứng suất cho phép của thép không gỉ, chịu nhiệt, làm việc ở nhiệt độ
205℃ ÷ 470 ℃ được xác định theo công thức sau:
σ tk
[σ k] = .η (N/m2) [XIII.1, trang 355, sổ tay 2]
nk
σ tc
[σ c] = .η (N/m2) [XIII.2, trang 355, sổ tay 2]
nc
Trong đó:
nk – hệ số an toàn theo giới hạn bền kéo, nk = 2,6 [sổ tay 2, tr 356]..
550.106
[σ tk ] = 0,9 – 190,3846.106 (N/m2)
2,6
220.106
[σ tc ] = 0,9 – 132.106 (N/m2)
1.5
Trong đó:
Áp suất thủy tĩnh của cột chất lỏng được xác định theo
công thức sau:
Pl = g.Hlỏng. ρl [XIII.10, tr360, sổ tay 2].
Trong đó:
như sau:
1 x AM x x x + x PG
¿ +¿ AP +¿ AA + ¿ EG
ρl ρ AM ρ AP ρ AA ρEG ρPG
Trong đó: xAM: xAP: xAA: xKG: xPG là khối lượng của hỗn hợp, ta có:
mAM 4508,361
xAM = = = 0,4702
m 9588,1684
mAP 5787,264
xAP = = = 0,6035
m 9588,1684
mAA 883,2701
xAA = = = 0,0921
m 9588,1684
m EG 3565,287
xAA = = = 0,3718
m 9588,1684
m PG 3496,28
xAA = = = 0,3646
m 9588,1684
→ ρl = 667,9646 (kg/m3)
Vậy:
P = 1,016795.106
GVHD: Mai Thị Phương Chi Trang 54
SV. Nguyễn Xuân Sơn Hoàng ĐỒ ÁN VẬT LIỆU POLYMER
Trong đó:
+ Pth – Áp suất thủy lực, lấy theo bảng [XIII.5, tr 358, Sổ tay QTTB Tập
2]
Dt P
St= +C
2 [ σ ] ϕ−P (m) [XIII.8, tr 360, Sổ tay QTTB Tập 2]
Trong đó:
Tra bảng [XIII.8, tr 362, Sổ tay QTTB Tập 2], ta có: = 0,95
[σ ] 132 . 106
ϕ= . 0 , 95=122 , 1798>50
Ta có: P 1 , 026356 .106
Do đó ta có thể bỏ qua đại lượng P ở mẫu số của công thức trên và khi
đó chiều dày thân tính bằng công thức sau:
Dt P
St= +C
2 [σ ] ϕ
Trong đó:
+ Đại lượng bổ sung do dung sai của chiều dày. Theo bảng
[XIII.9, tr 364, Sổ tay QTTB Tập 2], chọn C3 = 0,8 (mm)
2. 1 , 026356. 106
St= 6
+1,8 . 10−3 =0 , 00998
2 .132 .10 .0 ,95 (m) =9,98 (mm)
Kiểm tra ứng suất theo áp suất thử bằng công thức sau:
σ=
[ D t +(S t −C )] . P 0 ≤ σ c
2( St −C )ϕ 1,2 [XIII.26, tr 365, Sổ tay QTTB Tập 2]
Trong đó:
σ c 220 . 106
= =183 , 333. 106
Xét: 1,2 1,2 (N/m2)
σc
σ≤
So sánh ta được: 1,2 , nên chọn St = 10 (mm) là chấp nhận được.
Dt P D
S nap = . t +C
3,8 [σ k ]. k . ϕ h−P 2 hđ [XIII.47, tr 385, Sổ tay QTTB Tập 2]
Trong đó:
[σ ] 132 .10 6
kϕ = , 1,0 , 95=122 ,1798>30
Xét P h 1 ,026356 . 106
Dt P Dt 2. 1 , 026356. 106 2
Sđ = . +C= 6
. +C
3,8 [ σ k ] kϕ h 2 hđ 3,8 . 132. 10 . 1. 0 , 95 2. 0,5
= 0,00862 + C
Kiểm tra ứng suất theo áp suất thử thủy lực bằng công thức sau đây:
[ D 2t +2 hđ ( S đ −C ) ] . P0 σ c
σ= ≤
7,6 . k .ϕ h hđ (S đ −C ) 1,2 [XIII.49, tr 386, Sổ tay QTTB Tập 2]
Trong đó:
σ c 220 . 106
= =183 , 333. 106
Xét: 1,2 1,2 (N/m2)
σc
σ≤
So sánh ta được: 1,2 , nên chọn Sđ = 14 (mm) là chấp nhận được.
Cánh khuấy mỏ neo có ưu điểm là khuấy trộn đều chất lỏng nhớt, tăng
cường quá trình truyền nhiệt, ngăn cản quá trình kết tủa và lắng cặn trên thành, đáy
thiết bị. Tạo trạng thái lơ lửng, hòa tan của chất rắn trong môi trường lỏng nhớt.
Gọi :
H Dt S
=1 ,11 =1 , 11 =0 ,11
d ; d ; d ; [Bảng IV.1, tr 618, Sổ tay QTTB Tập
1]
hck b
=0 , 44 =0 , 066
d ; d
Dt 2
d= = =1.8182
1,11 1, 11 (m)
Do đó, dựa vài bảng [IV.6, tr 625, Sổ tay QTTB Tập 1], ta chọn n = 0,45
vòng/s.
Trong đó:
N
ξ k =Ett k = 3 5
= A . Remk Fr p
n d ρ [IV.2a, tr 616, Sổ tay QTTB Tập 1]
2
ρ nd
Rek =
μ [6-11, tr 195, Sách Cơ sở QT & TB Tập 1]
−0, 25
nd 2 ρ
ξ k =6,2.
μ ( ) =6,2 n−0, 25 d−0,5 ρ−0 ,25 μ0 ,25
Nlv = 6,2.0,75n2,75d4,50,25
Do chọn cánh khuấy có tỉ số hình học khác nhau nên công suất làm
việc phải nhân thêm hệ số hiệu chỉnh f.
1,1 0,3
H 0,6 Dt 15 hck
f= ( )(
d 1 ,11d )( ) d [IV.9, tr 619, Sổ tay QTTB Tập 1]
1,1
1,11 d
=(1,11) 0,6
1,11 d ( ) (0,44 .15 ) =1,8752 0,3
Nlv = f.6,2.n2,75d4,50.750,25
Nlv = 1,8752.6,2.(0,45)2,75.(1,8182)4,5.(1034,4875)0,75.(1)0,25
= 3476,9216 (W)
Trong đó:
+ Ng – Công suất tiêu tốn để thắng lực quán tính, được xác định
bằng công thức sau:
h ck
k =3 , 87 =3 , 87 .0 , 44=1 , 7028
d
Ng = 3189,4292 (W)
Nm = Nlv – Công suất tiêu tốn trong quá trình làm việc, công này để
thắng lực ma sát.
Với – Hiệu suất (khả năng truyền lực từ động cơ sang cánh khuấy
thường chọn = 0,60,7; ta chọn = 0,65.
6666 , 3508
N đc = =10255 , 9243
Suy ra: 0 ,65 (W) =10,2559 (kW)
Mx
d tr =
√
3
9 ,81 (Sổ tay cơ khí)
3. 106 . N lv
Mx=
Trong đó: Mx – Momen xoắn, πn
6
3. 10 . 3 , 4769
M x= =7378256 , 735
0 , 45 π
3 7378256 ,735
d tr =
√ 9,81
=90, 9414
(mm)
Chiều dày vỏ bọc cũng được tính tương tự như với nồi phản ứng.
Dt P
S= +C
2 [ σ ] ϕ−P (m)
Trong đó:
+ Nhiệt độ cung cấp cho nồi 180230°C thì áp suất hơi bão hòa
của hỗn hợp Difenyl là:
[σ ] 132. 106
.ϕ h = . 0 , 95=2411,5385
Xét: P 0 ,052 .10 6 > 50 (N/m2)
Do đó ta có thể bỏ qua đại lượng P ở mẫu ở công thức trên, khi đó:
Dt P
S= +C
2[σ]ϕ
Với: C = C1 + C2 + C3
Trong đó:
+ Đại lượng bổ sung do dung sai của chiều dày, tra bảng [XIII.8,
tr 364, Sổ tay QTTB Tập 2], chọn C3 = 0,8.
Kiểm tra ứng suất theo áp suất thử thủy lực bằng công thức sau:
σ=
[ D t + ( S−C ) ] . P 0 ≤ σ c
2 ( S−C ) ϕ 1,2
Pl = l.g.Hl’
Chiều cao của cột chất lỏng với phần thân thiết bị, Hl = 2,047 (m).
Do mực chất lỏng gia nhiệt và làm lạnh thường cao hơn mực chất lỏng
trong thân nồi là: 0,3 (m)
Pth – Áp suất thử thủy lực, lấy bảng [XIII.5, tr 358, Sổ tay
QTTB Tập 2]
σ c 220 . 106
= =183 ,333.106
Xét 1,2 1,2 (N/m2)
σc
So sánh, ta thấy > 1,2 . Như vậy chiều dày của thiết bị chưa thỏa
mãn điều kiện làm việc nên ta chọn lại chiều dày thiết bị S = 5 (mm)
σc
So sánh, ta được < 1,2 . Nên chọn S = 5 (mm) là chấp nhận được.
Dt . P Dt
Sđ = . +C
3,8 . [ σ k ] k . ϕh −P 2 hđ
Trong đó:
[σ ] 132 .10 6
kϕh = , 1,0 , 95=2411, 5385>30
Xét P 0 , 052. 106 .
Nên ta có thể bỏ qua đại lượng P ở mẫu trong công thức trên, khi đó:
Do bề dày của thân vỏ bọc là 5 (mm), nên ta chọn bề dày của đáy và nắp
vỏ bọc là 5 (mm).
Kiểm tra ứng suất theo áp suất thử bằng công thức sau đây:
[ D 2t +2 hđ ( S−C ) ] . P0 σ c
σ= ≤
7,6 . k .ϕ h hđ (S−C ) 1,2
Trong đó:
σ c 220 . 106
= =183 , 333. 106
Xét: 1,2 1,2 (N/m2)
σc
σ≤
So sánh ta được: 1,2 , nên chọn Sđ = 5 (mm) là chấp nhận được.
Giả thiết xem quá trình truyền nhiệt từ chất tải nhiệt Difenyl ra môi
trường là đẳng nhiệt.
+ Chênh lệch nhiệt độ giữa Difenyl và mặt trong của vỏ bọc là:
Nhiệt tải riêng của quá trình cấp nhiệt từ chất lỏng Difenyl đến tường
vỏ bọc là:
Nhiệt tải riêng của quá trình dẫn nhiệt qua tường:
Δt 1
q 2=
R [V.2, tr 3, Sổ tay QTTB Tập 2] (2)
Nhiệt tải riêng của quá trình cấp nhiệt từ tường ra môi trường là:
q3 = 3.t2 (W/m2)
Δt 1
α 1 Δt 1= =α 2 Δt 2
R
Δt 1
R=
α 2 . Δt 2
Trong đó:
+ – Hệ số cấp nhiệt.
δ 1 δ2
R= + +r
Mà: λ1 λ2 1 [V.3, tr 3, Sổ tay QTTB Tập 2]
Trong đó:
+ Chênh lệch nhiệt độ giữa mặt trong lớp vỏ bọc đến mặt ngoài
của lớp bảo ôn:
Δt T 190
R= = =1 , 0901
α 2 Δt 2 11 , 62 .15 (W/m2.độ)
δ 1 δ2 δ
Mà:
R= + +r 1
λ1 λ2
δ 2= λ2 R− 1 −r 1
λ1 ( )
+ Bề dày lớp thủy tinh:
0,005
(
δ 2=0,0372 . 1,0901−
16,3 )
−0, 116.10−3 =0,0405 m=40,5mm
Vậy bề dày của lớp bảo ôn bằng bông thủy tinh, ta chọn là 41mm.
Bu-lông K
D D D D iểu bích
D d Z
t b 1 0 1
b (cái)
(h)
2 2 2 2 2 M 4 5
000 280 180 100 020 48 4 0
Dt = 2 (m)
H = 2,5 (m)
= 7900 (kg/m3)
D n 3 Dt 3
2 , 02 3 2 3
1 4
V nap = . . π
4 3 2 [( ) ( ) ]
−
2
1 4
= . .π
4 3 [( ) ( ) ]
2
−
2
= 0 , 03173
(m3)
2 2
Dn Dt 2 , 02 2 2 2
Gthân =
[( ) ( ) ] [(
2
−
2
H πρ=
2 ) ( ) ] . 2,5 . π .7900=1247 , 1337
−
2
(kg)
Dn 3 Dt 3
2 , 23 3 2 , 22 3
1 4
V đáy = . . π
4 3 2
−
[( ) ( ) ]
2
1 4
= . .π
4 3 2 [( ) ( ) ]
−
2
=0 , 0194
(kg)
+ Gthân =
2 2
Dn Dt 2 ,23 2 2 ,22 2
[( ) ( ) ]
2
−
2
. H . π . ρ=
[( ) ( ) ]
2
−
2
.2 , 347 . π .7900
= 648,0698 (kg)
H = 2.347 (m)
= 200 (kg/m3)
Dn 3 Dt 3
2 ,312 3 2, 23 3
1 4
4 3 [( ) ( ) ]
Gđáy = . . πρ
2
−
2
1 4
= . . π . 200 .
4 3 2[( ) ( ) ]
−
2
= 33,219 (kg)
2 2
Dn Dt
+
G thân=
[( ) ( ) ]
2
−
2
.H .π . ρ
2,312 2 2 ,23 2
=
[( ) ( ) ]
2
−
2
. 2, 347. π .200=137 , 3174
(kg)
Dt = 2 (m)
H = 0,05 (m)
= 7900 (kg/m3)
2 2
Dn Dt 2 , 28 2 2 2
[( ) ( ) ]
Gbích =
2
−
2 [( ) ( ) ]
. H . π . ρ=
2
−
2
.0 ,05 . π . 7900=371 , 7824
(kg)
Gọi khối lượng của 1 cái bulông là 0,3 (kg), số lượng của bulông có 44
cái.
Ta có:
Ta có:
Ta có:
Dn = 2,220 (m)
Dt = 2,020 (m)
H = 2,347 (m)
= 887 (kg/m3)
Dn 3 Dt 3
2 , 22 3 2 , 02 3
+
1 4
Gđáy = . . πρ
4 3 2
−
2[( ) ( ) ] 1 4
4 3 [( ) ( ) ]
= . . π . 887 .
2
−
2
= 313,3338 (kg)
2 2
Dn Dt 2 ,22 2 2, 02 2
+
Gthân=
[( ) ( ) ]
2
−
2
. H . π . ρ=
[( ) ( ) ]
2
−
2
.2 , 347 . π .887
= 1386,6094 (kg)
Vì khối lượng nguyên liệu đã được chia ra làm 4 nồi, nên khối lượng
mỗi nồi là:
30945 , 972
Gngl= =7736 , 493
4 (kg)
Vậy tổng khối lượng toàn bộ hệ thống của nồi phản ứng:
G0 = 13341,7703 (kg)
G0 13341 , 7703
G= = =3335 , 4426
4 4 (kg)
Tra bảng [XIII.36, tr 438, Sổ tay QTTB Tập 2], chọn tai treo có tải
trọng cho phép là Q = 4.104 (N)
K
B hối
L B H S l a d
1 lượng
( ( ( ( ( ( (
( 1 tai
mm) mm) mm) mm) mm) mm) mm)
mm) treo
(kg)
1 1 1 2 1 8 2 3 7
90 60 70 80 0 0 5 0 ,35
KẾT LUẬN
Thiết kế phân xưởng hoá chất đòi hỏi người thiết kế phải có kiến thức toàn diện
về mặt lý thuyết cũng như về quá trình công nghệ sản xuất, kỹ năng tính toán, những
kiến thức về xây dựng, kinh tế và đặc biệt là kiến thức chuyên ngành hóa. Do vậy đối
với sinh viên, những người chưa có kinh nghiệm thực tế thì việc thiết kế phân xưởng
hóa chất là cực kỳ khó khăn. Trong đồ án này em đã hoàn thành cơ bản các yêu cầu đề
ra trong đề tài thiết kế gồm: - Lý thuyết chung về nhựa UPE. - Cân bằng vật chất -
Tính toán cơ khí thiết bị chính. Do việc khảo sát thực tế không có, bên cạnh đó việc tra
cứu tài liệu nước ngoài còn hạn chế và sự hiểu biết có hạn nên không thể tránh khỏi
nhữnh sai sót. Vì vậy em rất mong được sự góp ý, xây dựng chân thành của thầy cô
cùng các bạn để bản thân rút ra những kinh nghiệm và củng cố thêm kiến thức ngày
càng hoàn thiện. SVTH: Nguyễn Xuân Sơn Hoàng Lớp: 18VL1 GVHD: Mai Thị
Phương Chi Đồ án: Thiết kế phân xưởng sản xuất nhựa UPE. Qua việc thiết kế phân
xưởng trong đồ án này giúp em nắm vững kiến thức chuyên ngành, hiểu được vai trò
của người thiết kế, tập cho bản thân có tổ chức, kỷ luật và tác phong công nghiệp, để
phục vụ cho một kỹ sư sau này trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẩn tận tình của cô giáo hướng
dẫn Mai Thị Phương Chi cùng sự giúp đỡ của các bạn giúp em hoàn thành tốt nhiệm
vụ thiết kế đồ án này.