You are on page 1of 21

Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân

cách

MỤC LỤC

NỘI DUNG
TRANG

MỞ ĐẦU............................................................................................................... 3
CHƯƠNG I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ NHÂN CÁCH VÀ CẤU TRÚC
TÂM LÍ NHÂN CÁCH.........................................................................................3
1.1. Khái niệm nhân cách.......................................................................................3
1.2. Khái niệm cấu trúc nhân cách.........................................................................3
1.3. Một số kiểu cấu trúc Tâm lí nhân cách theo quan điểm phương Tây........3
CHƯƠNG II. TÌM HIỂU PHÂN TÂM HỌC VỀ NHÂN CÁCH......................4
2.1. SIGMUND FREUD.........................................................................................4
2.1.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp của Sigmund Freud......................4
2.1.2. Nội dung lý thuyết nhân cách của Sigmund Freud.........................5
2.1.2.1.Cấu tạo của nhân cách...................................................................6
2.1.2.2. Các giai đoạn phát triển nhân cách...............................................8
2.1.2.3.Tính động lực của nhân cách.........................................................9
2.1.3. Đánh giá học thuyết phân tâm của Sigmund Freud..............................9
2.2. CARL JUNG - PHÂN TÂM HỌC MỚI VỀ NHÂN CÁCH........................10
2.2.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp của Carl Jung...............................10
2.2.2. Nội dung lý thuyết nhân cách của Carl Jung........................................11
2.3. ALFRED ADLER............................................................................................11
2.3.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp của Alfred Adler..........................11
2.3.2. Đóng góp của Alfred Adler cho học thuyết..........................................12
2.4. ERICH FROMM..............................................................................................14
2.4.1. Tiểu sử và cuộc đời của Erich Fromm.................................................14
2.4.2. Đóng góp của Erich Fromm cho học thuyết.........................................15

­1­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

Chương III. Một số nhận xét về học thuyết phân tâm học...........................16
3.1. Đánh giá học thuyết phân tâm học của Sigmund Freud...............................16
3.2. Đánh giá học thuyết phân tâm học theo các cấp độ.....................................17
KẾT LUẬN...........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................20

­2­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ NHÂN CÁCH VÀ CẤU TRÚC TÂM LÍ


NHÂN CÁCH
1.1. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người.
1.2. Khái niệm cấu trúc nhân cách
Cấu trúc là sự thống nhất toàn vẹn các thành phần và sự liên hệ về mọi mặt gi ữa
chúng. Cấu trúc nhân cách là sự sắp xếp các thuộc tính hay các thành phần của nhân cách
thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong mối liên hệ và quan hệ nhất định.
1.3. Một số kiểu cấu trúc Tâm lí nhân cách theo quan điểm phương Tây
- Tâm lý học phương Tây có lịch sử nghiên cứu nhân cách từ rất sớm (cuối thế kỷ XIX).
- Theo các nhà nghiên cứu lịch sử Tâm lí học, trong tâm lí phương Tây có 3 dòng (l ực
lượng) chính:
• Dòng phái Tâm lí học phân tích với các đại diện như Sigmund Freud (1856 -1929),
Carl Jung (1875-1961), …
• Dòng phái Tâm lí học hành vi với các đại diện như J. Watson, B. F. Skinner, …
• Dòng phái Tâm lí học nhân văn (hiện sinh) với các đại diện như Abraham Maslow
(1908-1972), Carl Rogers (1902-1987),…
- Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn chia thành 6 nhóm:
• Nhóm 1: Các thuyết về kiểu - nhân cách.
• Nhóm 2: Các thuyết về nét nhân cách - ứng xử con người.
• Nhóm 3: Các thuyết tâm động.
• Nhóm 4: Các thuyết nhân văn
• Nhóm 5: Thuyết học tập và nhận thức xã hội

­3­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

• Nhóm 6: Thuyết nhận thức và học tập xã hội với các thuyết nhận thức học tập
xã hội của Mischel.
 Các dòng phái Tâm lí học này có nhiều lý thuyết khác nhau về nhân cách và
sự phát triển nhân cách. Trong mỗi lý thuyết có nhiều tác giả khác nhau. Tuy nhiên,
trong giới hạn cho phép, chúng ta sẽ tìm hiểu về dòng phái Tâm lí học phân tích mà
đại diện là Sigmund Freud. Theo các nhà Tâm lí học nhân cách phương Tây, có 3 vấn
đề cơ bản cần giải quyết là:
• Sự khác biệt cá nhân, tính ổn định của nhân cách.

• Sự thích nghi, các quá trình nhận thức, xã hội, văn hóa.
• Các yếu tố sinh vật, sự phát triển của trẻ em, sự phát triển của người lớn
Trên thực tế, mỗi tác giả có thể quan tâm nhiều hơn đến một số trong các vấn đ ề
nói trên nhưng nhìn chung tất cả đều được đề cập ở mức độ này hay mức độ khác.
Theo Sigmund Freud, Tâm lí con người được tạo ra bởi 3 khối: vô thức, ý thức và siêu
thức (tiềm thức).

CHƯƠNG II. TÌM HIỂU PHÂN TÂM HỌC VỀ NHÂN CÁCH


2.1. SIGMUND FREUD
2.1.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp của Sigmund Freud
Sigmund Freud sinh ngày 6/5/1856 tại Freibeirg,
Moravi, Áo. Cha là người buôn bán vải, tính khí khắc
nghiệt và gia trưởng nên ông ngay từ nhỏ đã có thái độ sợ
hãi lẫn với yêu mến. Ngược lại, mẹ ông lại là người phụ
nữ dịu dàng và chu đáo. Do vậy, ông luôn cảm thấy gắn
bó hơn với mẹ.
Về học vấn, khi còn nhỏ ông luôn là học sinh xuất
sắc, tốt nghiệp phổ thong loại ưu. Ông có năng khiếu
thiên bẩm về ngoại ngữ nên rất được cưng chiều. Mặc

­4­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

dù trong gia đình có 8 anh chị em nhưng vì có trí thông minh lạ th ường nên đ ược cha
thương yêu nhất nhà và dành cho một sự dạy dỗ đặc biệt.
Năm 1873 Freud đỗ vào ngành Y trường Đại học tổng hợp Viên. Năm 1881 Freud nhận
được học vị Tiến sĩ y học và thực hành với tư cách nhà thần kinh lâm sàng. Năm 1882-
1885 Freud làm việc tại Viện đa khoa Viên, đi sâu vào phần não và bệnh lí học th ần
kinh. Tháng 10/1885 Freud đi qua Paris. Ông đã sử dụng nhiều phương pháp trị liệu mới
như phương pháp thôi miên và thanh trừ, phương pháp liên tưởng tự do. Nmă 1885, ông
cùng với Breuer xuất bản cuốn “Nghiên cứu về Hysteri”. Đây được coi là khởi đ ầu
chính của Phân tâm học.Năm 1896 Freud đọc báo cáo tại hội tâm thần và than kinh học
Viên về hiệu quả tiến hành các buổi chữa bệnh rối nhiễu Tâm lí bằng liên tưởng tự do.
Năm 1900 ông cho ra đời cuốn “Đoán giải những giấc mơ”. Năm 1905 xuất bản cuốn
“Ba tiểu luận về học thuyết tính dục”. Những năm sau đó, Freud đã cho ra đời hàng loạt
tác phẩm.
Năm 1923 Freud bị ung thư vòm họng, hơn 16 năm bị dày vò bệnh tật. Ngày 23/9/1939
ông mất tại London.
Suốt cuộc đời Freud đã làm việc với nghị lực, sức lực, ý chí, lòng dũng cảm phi
thường và một thái độ cầu thị khoa học hiếm có. Mặc dù, trong quá trình làm việc, ông
cũng bị chỉ trích từ nhiều phía nhưng những cái đó không làm ông nản chí và chùn bước
trước những lựa chọn của mình để cống hiến cho sự nghiệp, cho đời.
2.1.2. Nội dung lí thuyết nhân cách của Sigmund Freud
Trong trào lưu chống lại Tâm lí học duy tâm chủ quan vào đầu thế kỷ 20 xuất hiện một
dòng Tâm lí học với cương lĩnh xây dựng một nền Tâm lí học khách quan. Đó chính là lý
thuyết Phân tâm của Sigmund Freud. Lý thuyết nhân cách của Sigmund Freud gồm 3
mặt:
• Cấu tạo của nhân cách
• Sự phát triển của nhân cách
• Tính động lực của nhân cách

­5­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

2.1.2.1.Cấu tạo của nhân cách


 Vô thức - cái nó, ấy (Id): đó là nhu cầu bản năng vô thức của con người
chẳng hạn: bản năng tình dục, bản năng ăn uống, bản năng tự vệ…
Khối vô thức là khối bản năng. Khối vô thức bao gồm bản năng sống và bản năng
chết. Một bản năng sống chiếm vị trí trung tâm trong thuyết Freud là bản năng tình dục,
năng lượng libido.
Về bản năng tình dục (libido): nó là cội nguồn, năng lượng tình dục, năng lượng
kích thích tình dục, phấn khích tình yêu… và chi phối đời sống nội tâm. Ở điểm này
libido được xem như là “nguyên tắc khoái lạc”.Nó vừa là sự phát triển tình dục c ủa
người lành mạnh và được mở rộng cho đến các hoạt động khoa học, mỹ thuật của cá
nhân, lại vừa là căn nguyên của bệnh lý.
Về bản năng chết: nó diễn ra theo chiều hướng ngược lại khi tùy vào mức độ tăng
tốc của năng lượng trong bản năng đi đến đỉnh cao như tức tối, giận dữ… làm tăng
huyết áp, ngất xỉu, tử vong…
Bản năng có những tính chất cơ bản sau:
• Bản năng của con người thường bị kìm nén. Đó là nguồn năng l ượng dồi dào và
là động lực cơ bản cho mọi hoạt động cá nhân.
• Mục đích của bản năng là hướng đến thỏa mãn nhu cầu bằng cách trực tiếp hay
gián tiếp.
• Thế giới bên ngoài là đối tượng để bản năng thỏa mãn. Nó hướng tới đối tượng
và đòi thỏa mãn một cách trực tiếp ngay lập tức.
• Bản năng chi phối toàn bộ hoạt động đời sống tâm lí của con người.
Khối vô thức là một thùng năng lượng tâm thần chất chứa những khát vọng bản
năng sôi sục. Nó là hệ thống căn bản khởi thủy của nhân cách và sống theo nhu cầu của
sinh lí. Hoạt động theo nguyên tắc khoái cảm đòi hỏi sự thỏa mãn ngay lập tức những

­6­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

khát vọng bản năng để trở về trạng thái cân bằng (nều không đáp ứng thì trở nên ức
chế). Vô thức là cái ngấm ngầm điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người.
 Ý thức - cái tôi (Ego): là hoạt động hiện tại có ý thức của con người để
thỏa mãn bản năng.
Khối ý thức tương đương với cái “tôi”. Cái tôi được thành lập do áp l ực th ực t ại
bên ngoài đến toàn bộ khối bản năng. Nó đảm bảo các chức năng tâm lý như chú ý, trí
nhớ… hoạt động bình thường. Con người thường phải dùng một năng lượng đáng kể
để kiềm chế những bản năng phi lý ấy. Hoạt động của cái tôi theo nguyên tắc thực tại.
Nhiệm vụ của “cái tôi” là làm cho “cái ấy” thỏa mãn mà không làm tổn hại đến cơ thể,
làm giảm sự căng thẳng một cách tốt nhất.
Ý thức (Freud còn gọi là thức ngã) bao gồm những suy nghĩ, ý thức của con người
về các quy định của các quy luật cuộc sống và các mối quan hệ thường ngày, cách thức
ứng xử đã tập luyện được trong cuộc sống bằng kinh nghiệm. Nó kìm hãm việc thỏa
mãn các động cơ của thức ngã hoặc hướng dẫn các động cơ đó biểu hiện những hình
thức được xã hội chấp nhận, giúp con người thích nghi với hoàn cảnh thực tế của đ ời
sống. Cái tôi có tính tự chủ, nó tự chủ về nguồn năng lượng, về việc chọn lọc các kích
thích từ môi trường.
 Siêu thức (tiềm thức) - siêu thức (Superego): là ý thức về những chuẩn
mực xã hội mà cá nhân tiếp thu: quy tắc, chuẩn mực đạo đức, pháp luật, phong tục,
truyền thong xã hội…
Siêu thức tương ứng với “siêu tôi” là tổ chức bên trong gồm các phạm trù xã hội,
các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, tôn giáo… tiếng nói của đạo đức, tìm kiếm sự hoàn
thiện. Siêu thức hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt, ngăn cấm những thúc đẩy của
bản năng. Cả ba khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương đối:
con người lúc ấy ở trạng thái bình thường. Nhưng cả ba khối này luôn luôn xung đột với
nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần. Từ quan niệm như trên, Freud
nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý của con người. Đó là cơ chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ
chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế suy thoái.

­7­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

Con người sống gồm các bản năng. Xu hướng của các bản năng này là luôn v ươn
lên chiếm đoạt những cái khác (cái tôi và siêu tôi). Nhưng cái bản năng luôn bị s ự chèn
ép, kiểm duyệt của cái tôi. Do đó, nó phải biến dạng bằng một hình thức nào đó nh ư
bệnh tâm thần, nói lắp, nói nhịu. Trong trường hợp không thoát lên đ ược thì nó siêu
thăng. Chẳng hạn như trường hợp của danh họa Leôna Đơ Vanhxi đã biến cái say mê
tình dục thành nghệ thuật hội họa. Cái siêu tôi thể hiện ở sự dạy dỗ, quy đ ịnh của Bố
mẹ, thể hiện trong truyền thống của thế hệ trước truyền lại. Cơ chế tâm lý của việc
hình thành siêu tôi là sự đồng hóa - cá nhân đồng nhất với cha mẹ và những người giáo
dục.
Phần thưởng của siêu tôi là cảm giác tự hào và quý trọng mình. Còn hình phạt c ủa siêu
tôi là sự mặc cảm tội lỗi và tự ti.
2.1.2.2. Các giai đoạn phát triển nhân cách
Sigmund Freud chia sự phát triển nhân cách con người từ lúc sơ sinh đến tuổi thành
thành 4 giai đoạn:
• Giai đoạn môi miệng (Oral sensory) 0 - 1 tuổi: Có từ lúc trẻ mới sinh, trẻ tìm
được sự khoái lạc, thõa mãn ở miệng qua việc mút vú mẹ. Bất cứ cái gì cũng đưa
lên miệng ngậm mút.
• Giai đoạn hậu môn (muscular anal) 1 - 3 tuổi: Ở giai đoạn này, trẻ bắt đầu có
khoái cảm ở hậu môn.
• Giai đoạn âm vật và dương vật (phallic) 3 - 6 tuổi: Giai đoạn này, tr ẻ chú ý đ ến
bộ phận sinh dục, nảy sinh ra tình cảm lãng mạn đối với cha hoặc mẹ, người
khác giới.
• Trong ba giai đoạn trên, cá nhân hướng đến bản thân mình. Đến giai đoạn thứ tư,
cá nhân mới bắt đầu chú ý đến những người xung quanh, để tâm đầy đủ đến các
vai trò xã hội. Cá nhân hướng ra đối tượng bên ngoài bắt đầu từ tuổi dậy thì. Các
năng lượng của con người được sử dụng ở mục đích khác nhau như đi học, vui
chơi, bắt chước, hướng ra đối tượng khác giới… và ham thích tình dục với người
khác giới.

­8­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

Ba giai đoạn đầu là giai đoạn tiền sinh dục còn giai đoạn thứ tư là giai đoạn sinh
dục, bắt đầu ở tuổi dậy thì. Ở một trong ba giai đoạn đầu nếu gặp phải quá nhiều s ự
thất vọng gay gắt, bất ổn trong tinh thần sẽ trở thành “cố định hóa”, lúc trưởng thành sẽ
có những hội chứng nhân cách.
2.1.2.3.Tính động lực của nhân cách
Phân tâm học cho rằng, những tư tưởng và hành vi của cá nhân là do những động
cơ là những bản năng và những thúc đẩy của vô thức biểu lộ ra ngoài. Động cơ có th ể
bị dồn nén do không biểu lộ được trực tiếp và bị chèn ép, kiểm soát của ý th ức, siêu
thức, hoặc có thể biểu lộ dưới hình thức cải biến, ngụy trang như những hành vi s ơ
suất, giấc mơ, sự lãng quên… Động cơ của cái vô thức tồn tại mà cá nhân ít biết đ ến
nên được gọi là động cơ tiềm thức. Hoạt động của động cơ tiềm thức là động lực của
nhân cách.
2.1.3. Đánh giá học thuyết phân tâm của Sigmund Freud
Học thuyết phân tâm học của Sigmund Freud đã đưa ra giả thuyết về vô thức tiềm
thức là những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý con người. Sigmund Freud đã khám
phá một thế giới vô thức mà trước đây chưa được khám phá. Mặt khác, đóng góp của
Sigmund Freud còn ở chỗ là đưa ra một số cơ chế Tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén,
mặc cảm, đồng nhất hóa, các giai đoạn phát triển nhân cách. Sigmund Freud đã lần đầu
tiên đưa ra được mô hình tâm lý để chữa bệnh tâm thần có hiệu quả. Phương pháp chữa
bệnh bằng “liên tưởng tự do” đã được sử dung khá rộng rãi và hiệu quả trong điều tr ị
bệnh tâm thần.
Tuy nhiên, Sigmund Freud đã quá nhấn mạnh đến mặt vô thức trong con người,
không thấy được mặt bản chất trong ý thức tâm lý của con người, không thấy được bản
chất xã hội - lịch sử của các hiện tượng tâm lý người. Mặt khác, quan niệm về con
người và nhân cách con người của Sigmund Freud bộc lộ những khía cạnh không đúng
đắn: con người trong học thuyết phân tâm là con người sinh vật, con người c ơ th ể b ị
phân ly ra nhiều mảng, con người với những mong muốn là những đam mê tình dục luôn
đối lập với xã hội. Hơn nữa, những quan điểm của Sigmund Freud khó được chứng

­9­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

minh bằng thực nghiệm, đồng nhất tâm lý trẻ em với tâm lý người lớn, tâm lý người bị
bệnh và tâm lý người bình thường.
Chính vì những hạn chế nói trên, một số nhà tâm lý học từng theo quan đi ểm của
Sigmund Freud đã tách ra thành phân tâm học mới.
2.2. CARL JUNG - PHÂN TÂM HỌC MỚI VỀ NHÂN CÁCH
2.2.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp của Carl Jung
Carl Gustav Jung sinh ngày 26 tháng 7 năm 1875 tại Kesswil, Thụy Sĩ, là con trai duy
nhất của một mục sư Tin Lành. Là Bác sĩ Tâm thần. Ông là người đã khởi xướng Phân
tích tâm lý.
Vào năm 1900 Jung tốt nghiệp Y tế của
trường Đại học Basel và bắt đầu sự nghiệp chuyên
nghiệp của mình tại Đại học Zurich. Tại
Burghöltzi, các tị nạn Zürich mất trí và tâm thần
bệnh viện, ông làm việc cho đến năm 1909.
Những năm đã quyết định cho phát triển sau
này của Jung.
Năm 1902, ông hoàn tất luận văn Tiến sĩ Y
khoa “Góp phần nghiên cứu về Tâm lý học và
bệnh học đối với những hiện tượng huyền bí”.
Carl Jung nghiên cứu về Tâm thần phân liệt, triệu chứng mất trí và làm quen với những
công trình của S. Freud từ năm 1902. Nhiều bài viết của ông đã trích dẫn Freud và c ố
gắng áp dụng tư tưởng của Freud. Năm 1912 ông công bố tác phẩm “Những biến hóa và
tượng trưng của libido”. Năm 1933 là tổng biên tập tạp chí tâm lý học. Năm 1933 Jung
đã được đề cử chủ tịch Tổng hội Y khoa Tâm lý trị liệu, một tổ chức mà có các kết nối
của Đức Quốc xã. Năm 1957, Jung lập Hội Tâm lý học phân tích Thụy Sĩ, 1958 Hội
quốc tế Tâm lý học phân tích.
Carl Jung mất năm 1961.

­10­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

Jung không đồng ý với Freud bắt đầu trong sự nhấn mạnh của cơ quan này về tình
dục một mình là nhân tố chi phối trong động cơ vô thức. " Mỗi hình thức cai nghiện là
xấu". Jung sau đó nói: "Không có vấn đề hay không được uống rượu hoặc ma tuý hay
chủ nghĩa duy tâm morphine."
2.2.2. Nội dung lý thuyết nhân cách của Carl Jung
Carl Jung cho rằng hành vi con người được điều chỉnh bằng vô thức và c ả ý th ức.
Đó là quá trình điều chỉnh tổng hợp, là một hệ thống tự điều chỉnh. Ông cho rằng con
người có vô thức đạo đức bẩm sinh. Các hoạt động của con người có tính chất bản
năng và tạo thành vô thức tập thể. Điều đó được thể hiện trong nền văn hóa dân t ộc
cũng như nghệ thuật. Ông cho rằng có vô thức tập thể bởi vì mỗi người đ ều tiềm tàng
trong mình một di sản tinh thần được truyền từ nhiều thế hệ trong một nền văn hóa dân
tộc và nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy, hình thức phản ứng của mỗi cá nhân cũng
giống nhau. Carl Jung không thừa nhận bản năng tình dục là quyết định tâm lí con người
như Sigmund Freud quan niệm, nhưng ông lại thừa nhận trong con người có vô thức. Vì
vậy, bản chất học thuyết của Jung vẫn là học thuyết phân tâm được cải biến thành học
thuyết phân tâm học mới. Trong cấu trúc nhân cách của Carl Jung, cái tôi là trung tâm
của ý thức. Nhân cách là mẹ của ý thức. Vô thức là mẹ của tâm lí tập thể và tâm lí cá
nhân. Quan điểm của Jung về nhân cách còn gọi là lý luận nhân cách tầng sâu. Lý luận
nhân cách tầng sâu xuất phát từ quan niệm vô thức. Vô thức được xác định bằng những
sự kiện của hành vi, đó là những bản năng trực tiếp và bản năng tức thời. Lý luận nhân
cách tầng sâu là một khám phá mới về vô thức. Song điều này chưa đ ủ đ ể nói lên bộ
mặt nhân cách con người. Nhân cách con người còn thể hiện những phẩm chất cũng
như bộ mặt đạo đức trong nó.
2.3. ALFRED ADLER
2.3.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp của Alfred Adler
Alfred Adler (1870- 1937) sinh ngày 7 tháng 1 tại
một ngoại ô thành phố Vienna. Tuổi thơ khốn khổ vì
sức khỏe ốm yếu, đặc biệt với căn bệnh hen xuyễn. Ông

­11­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

là một đứa bé ốm yếu luôn nghĩ mình lùn tịt và xấu xí. Ông cũng có sự ganh tị với anh
trai ông. Tất cả những hồi ức này có thể đã ảnh hưởng đến kiểu lý thuyết mà ông đã
triển khai về nhân cách. Năm 1895, ông tốt nghiệp nhành Y.
Như Jung, Adler biết về tâm phân học của Freud nhờ đọc cuốn Giải Thích Các
Giấc Mơ. Adler viết một bài bênh vực lý thuyết của Freud và được Freud mời gia nhập
Hội Tâm Phân Học Vienna, rồi trở thành chủ tịch của hội năm 1910. Nhưng các khác
biệt giữa Adler và Freud bắt đầu xuất hiện, và năm 1911 những khác biệt ấy tr ở nên
trầm trọng đến nỗi Adler phải từ chức chủ tịch Hội Tâm Phân Học Vienna. Sau chín
năm gắn bó với Freud, tình bạn nay đã đổ vỡ, và hai người không bao giờ nhìn mặt nhau.
Freud tố cáo Adler là nổi tiếng nhờ việc làm biến chất tâm phân học thành thứ lương tri
của giới nghiệp dư. Về Adler, Freud nói, "Tôi đã biến người lùn thành kẻ khổng l ồ".
Lịch sử cho thấy hai người không bao giờ có nhiều điểm chung, và rất có thể là Adler đã
sai lầm khi gia nhập trường phái Freud.
Năm 1926 Adler sang thăm Hoa Kỳ và được đón tiếp nồng hậu. Năm 1935, một
phần vì mối đe doạ của Đức Quốc Xã ở châu Âu, ông sang định cư ở Hoa Kỳ. Ông mất
ngày 28 tháng 5 năm 1937 trong chuyến đi diễn thuyết ở Aberdeen, Tô Cách Lan.
2.3.2. Đóng góp của Alfred Adler cho học thuyết
Là một nhà tâm thần học, thành viên của Hội Phân Tâm học của Áo, sau đó là Chủ
tịch của Hội. Ông đi theo phân tâm học của Freud rồi chấm dứt liên hệ với Phân tâm học
ấy và thành lập một nhóm riêng gọi là “Tâm lý học cá nhân” (Individual Psychology).
Adler đã xuất bản hơn một trăm tập sách, trong đó tập “Thực hành và lý thuyết của Tâm
lý cá nhân” có lẽ là tập giới thiệu tốt nhất về lý thuyết Nhân Tính của Adler.
 Định nghĩa các thuật ngữ của lý thuyết Adler:
- Bù trừ nghĩa là đương sự có thể điều chỉnh một sự yếu kém ở một phần của cơ thể
của cơ thể bằng cách phát triển sức mạnh ở những phần khác. Ví dụ một người mù có
thể phát triển đặc biệt năng khiếu thính giác.

­12­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

- Bù trừ quá mức nghĩa là hoán chuyển sự yếu kém thành một sức mạnh. Ví dụ các
trường hợp của Teddy Roosevelt, vốn là đứa trẻ ốm yếu nhưng đã trở thành một nhà thể
thao ngoài trời, một người vốn tật nói lắp nhưng đã trở thành nhà hùng biện lớn.
Khi Alder giới thiệu quan niệm này, ông là một Bác sĩ, và các nhận xét của ông rõ
ràng phù hợp với nền Y khoa thực chứng duy vật thời ấy.
- Cảm quan của sự yếu kém nghĩa là Adler nhận thấy rằng mọi người đều bắt đầu cuộc
đời hoàn lệ thuộc vào người khác để sống còn vì thế mọi người đều có các cảm quan
này.
- Mặc cảm tự ti nghĩa là những người quá bức xúc vì các cảm giác yếu kém khiến họ
làm được rất ít hay không làm được gì.
- Lối sống nghĩa là phương tiện mà một người chọn để đạt sự trổi vượt.
- Quan tâm xã hội nghĩa là một phần mục tiêu của lối sống phải là làm việc để hướng
tới một xã hội cống hiến một đời sống tốt đẹp hơn cho mọi người.
- Lối sống sai lầm nghĩa là lối sống mà không có sự quan tâm xã hội thoả đáng.
- Ngã sáng tạo : Adler rời xa tận gốc rễ các lý thuyết của Freud và Jung bằng cách nói
rằng con người không phải nạn nhân của môi trường của họ hay bởi sự di truy ền sinh
vật học. Mặc dù môi trường và sự di truyền cung cấp nguyên vật liệu của nhân cách,
con người có tự do sắp xếp các vật liệu theo bất kỳ kiểu nào. Ví dụ, các c ảm quan v ề
sự yếu kém giúp tăng trưởng hay làm suy yếu một người là tuỳ vào thái độ cá nhân của
người ấy. Nếu một người coi đời sống là vô nghĩa, thì họ sẽ tự do tạo ra ý nghĩa và rồi
hành động "như thể" nó là đúng. Với ý niệm về ngã sáng tạo, Adler đi theo niềm tin
hiện sinh cho rằng con người có tự do chọn số phận của chính mình.
Trái ngược với giả định của Freud cho rằng tánh hạnh của con người là các bản
năng bẩm sinh kích động, trái ngược hẳn với tiền đề chính của Jung cho rằng tánh hạnh
của con người là do các mẫu hình tâm lý bẩm sinh chế ngự. Adler thì cho r ằng con
người chủ yếu bị kích động bởi các thúc đẩy xã hội. Con người tự mình liên hệ với
những người khác, dấn thân vào các hoạt động có tính cách hợp tác và xã hội, đặt sự an
lạc của xã hội lên trên cái lợi của cá thể ích kỷ, và có một nếp sống nổi bật sắc thái xã

­13­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

hội... Freud nhấn mạnh dục tính, Jung nhấn mạnh mẫu tư tưởng từ ban sơ, và Adler
nhấn mạnh lợi ích xã hội. Ông cho rằng tất cả các hành vi của con người đều chịu ảnh
hưởng xã hội. Nhân cách thống nhất với hoàn cảnh và môi trường xã hội. Ông v ẫn cho
vô thức bản năng và năng lượng tâm hồn là những cơ chế của tính tích cực, xung đột và
bảo vệ. Theo ông, con người luôn muốn hơn người khác, khi có nhược điểm trong lĩnh
vực này lại siêu đẳng trong lĩnh vực khác. Đó chính là cơ chế bù tr ừ xuất phát t ừ đ ộng
cơ xã hội (Freud xuất phát từ động cơ tính dục). Sự bù trừ thì có thật trong đời sống con
người. Nhưng sự bù trừ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố xã hội có tính
chất quyết định. Tuy nhiên, ở đây Adler quá thổi phồng tính chất bù trừ trong con người
mà không thấy vai trò hoạt động của con người trong xã hội.
Sự đóng góp lớn thứ hai của Adler vào lý thuyết Nhân Tính là lý thuyết của ông về
cái ngã sáng tạo. Nét đặc trưng thứ ba của tâm lý học của Adler làm tâm lý học ấy khác
hẳn Phân tâm học cổ điển là điểm nhấn mạnh vào tính độc đáo của Nhân Tính.
Sau cùng Adler xem ý thức là trung tâm của Nhân Tính, khiến Adler trở nên người
tiên phong trong việc phát triển một tâm lý học - hướng - đến - ý thức. Sự khám phá hữu
ích nhất của lý thuyết Nhân Tính của Adler là nhấn mạnh vào lợi ích xã hội, cái ngã sáng
tạo và ý thức là trung tâm của Nhân Tính. Khám phá này đem lại một sự đóng góp ý
nghĩa vào lãnh vực các lý thuyết Nhân Tính. Tuy nhiên, dưới ánh sáng duyên khởi, ý thức
chỉ là hậu quả của sự vận hành của hai chi phần Vô minh và Hành, mà không phải là
trung tâm điểm của Nhân Tính. Bằng cách nào rồi lý thuyết của Adler cũng c ần đ ược
điều chỉnh như lý thuyết của Freud và Jung.
2.4. ERICH FROMM
2.4.1. Tiểu sử về cuộc đời và sự nghiệp
của Erich Fromm
Erich Fromm sinh ngày 23 tháng 3 năm 1900,
tại Frankfurt am Main. Ông bắt đầu nghiên cứu học
thuật của ông vào năm 1918 tại Đại học Frankfurt
am Main với hai học kỳ của Khoa Học Luật Pháp.

­14­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

Trong giữa thập niên 1920, ông được đào tạo để trở thành một tâm lý thông qua
Frieda Reichmann của điều dưỡng tâm lý tại Heidelberg. Ông bắt đầu thực hành lâm
sàng của riêng mình vào năm 1927. Năm 1930, ông gia nhập Frankfurt Viện Nghiên cứu
Xã hội và hoàn thành đào tạo psychoanalytical của mình. Sau khi tiếp quản quyền l ực
của Đức Quốc xã ở Đức, Fromm chuyển đến Geneva và sau đó, năm 1934, đến Đại học
Columbia ở New York. Vào năm 1943, và vào năm 1946 đồng sáng lập của William
Alanson White Viện Tâm thần học, tâm lý, và Tâm lý học.
Năm 1949, ông trở thành một giáo sư tại Đại học Quốc gia tự trị của Mexico
(UNAM) và một tâm lý phần được thành lập tại trường y khoa ở đó. Ông giảng dạy tại
UNAM cho đến khi nghỉ hưu, năm 1965, và tại Hội Mexico của tâm lý (SMP) cho đ ến
năm 1974. Trong khi đó, ông dạy như là một giáo sư tâm lý tại Đại học bang Michigan
1957-1961 và là một giáo sư trợ giảng về tâm lý tại bộ phận tốt nghiệp của Nghệ thuật
và Khoa học tại Đại học New York sau năm 1962. Năm 1974 ông chuyển từ Mexico
City để Muralto , Thụy Sĩ, và qua đời tại nhà riêng vào năm 1980. Tất cả, trong khi,
Fromm duy trì thực hành lâm sàng của chính mình và công bố một loạt các cuốn sách.
2.4.2. Đóng góp của Erich Fromm cho học thuyết
Fromm có ý đồ pha trộn phân tâm học của Freud và học thuyết xã hội của Mác vào
nhau và xây dựng nên lý thuyết “Chủ nghĩa nhân đạo mới”. Về Tâm lý học, Fromm cho
rằng, cơ chế tự nhiên và xã hộ trong con người là vô thức, đó là cái phi lý, hạt nhân của
nhân cách. Nó biểu hiện sự mong muốn vươn tới cái hài hòa toàn diện của con người.
Sự tiến bộ xã hội là do tâm lý con người tạo ra.
Ông đưa ra mô hình con người mới giữa các đặc điểm sau:
• Con người mới phải từ bỏ vật chất để sống thanh thản.
• Con người phải làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
• Phải có lòng yêu thương và trân trọng cuộc sống.
• Phải trau dồi tình yêu thương vốn có.

­15­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

• Phải khắc phục được tính tự yêu mình và chấp nhận tính chất hạn chế trong
cuộc sống con người.
Tất cả những đặc điểm này thật đáng quý nhưng đó chỉ là con người trừu tượng,
chung chung không thể thực hiện trong xã hội tư bản. Cái sai của Fromm là dung hòa
giữa chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Mác. Sự thật không thể có cơ sở tự nhiên nào do
Freud tạo ra làm cơ sở cho chủ nghĩa Mác. Đồng thời, sự tiến bộ xã hội do đ ộng l ực
kinh tế quyết định chứ không do yếu tố tâm lý nào như Fromm giải thích.
Trong Thần ái tình và nền văn minh Herbert Marcuse lên án Fromm, mà trong đầu
ông là một nhà lý luận cực đoan người sau đó đã chuyển sang phù hợp. Marcuse cũng
cho rằng Fromm, cũng như đồng nghiệp gần Sullivan và Karen Horney, loại bỏ ham
muốn tình dục lý thuyết của Freud và các khái niệm căn bản khác, mà do đó gi ảm phân
tâm học cho một tập đạo đức duy tâm, mà chỉ chấp nhận hiện trạng. Phản ứng của
Fromm, trong cả hai Hội Sane và Giải phẫu sự phá hoại của con người, lập luận rằng
Freud thực sự xứng đáng tín dụng đáng kể để công nhận tầm quan trọng trung tâm c ủa
tiềm thức, nhưng cũng là ông có xu hướng reify khái niệm của mình rằng, mô t ả b ản
thân như kết quả thụ động của bản năng và kiểm soát xã hội, với tác ý r ất nhỏ hoặc
biến đổi. Fromm cho rằng các học giả sau này như Marcuse chấp nhận những khái niệm
này là giáo điều, trong khi tâm lý - xã hội đòi hỏi phải có một cách tiếp cận lý thuyết và
thực nghiệm năng động hơn.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THUYẾT PHÂN TÂM HỌC
3.1. Đánh giá học thuyết phân tâm của Sigmund Freud
Học thuyết phân tâm học của Sigmund Freud đã đưa ra giả thuyết về vô thức tiềm
thức là những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý con người. Sigmund Freud đã khám
phá một thế giới vô thức mà trước đây chưa được khám phá. Mặt khác, đóng góp của
Sigmund Freud còn ở chỗ là đưa ra một số cơ chế Tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén,
mặc cảm, đồng nhất hóa, các giai đoạn phát triển nhân cách. Sigmund Freud đã lần đầu
tiên đưa ra được mô hình tâm lý để chữa bệnh tâm thần có hiệu quả. Phương pháp chữa

­16­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

bệnh bằng “liên tưởng tự do” đã được sử dung khá rộng rãi và hiệu quả trong điều tr ị
bệnh tâm thần.
Tuy nhiên, Sigmund Freud đã quá nhấn mạnh đến mặt vô thức trong con người,
không thấy được mặt bản chất trong ý thức tâm lý của con người, không thấy được bản
chất xã hội - lịch sử của các hiện tượng tâm lý người. Mặt khác, quan niệm về con
người và nhân cách con người của Sigmund Freud bộc lộ những khía cạnh không đúng
đắn: con người trong học thuyết phân tâm là con người sinh vật, con người c ơ th ể b ị
phân ly ra nhiều mảng, con người với những mong muốn là những đam mê tình dục luôn
đối lập với xã hội. Hơn nữa, những quan điểm của Sigmund Freud khó được chứng
minh bằng thực nghiệm, đồng nhất tâm lý trẻ em với tâm lý người lớn, tâm lý người bị
bệnh và tâm lý người bình thường.
3.2. Đánh giá học thuyết phân tâm học theo các cấp độ
Phân tâm học được đánh giá ở các cấp độ khác nhau: Y học, Tâm lý học, Triết
học…
 Đối với Y học (cụ thể tâm thần học) thì học thuyết này có giá trị là đã đ ưa ra

một phương pháp trị liệu tâm lý mới (liệu pháp tâm lý phân tích). Chỉ ra một số
nguyên nhân của bệnh tâm căn xuất phát từ vô thức. Những sai lầm trong lý
thuyết của phân tâm học thể hiện trong lý thuyết của các bệnh tâm căn. Lý thuyết
này cho rằng nguyên nhân về các bệnh tâm căn là do “những mặc cảm tình dục
ấu thơ”.
 Đối với Tâm lý học: Phân tâm học đặt ra một loạt các vấn đề. Tâm lý học quan

trọng như vô thức, động cơ bị che dấu của hành vi người bệnh, tu hút sự chú ý
vào tầm quan trọng của yếu tố vô thức trong đời sống cá nhân. Các khái niệm
của phân tâm học được sử dụng phổ biến trong tâm lý học hiện đại.
Hạn chế của phân tâm học thể hiện ở cơ sở phương pháp luận: coi cái tôi vô thức
là yếu tố quan trọng nhất của toàn bộ nhân cách, xem đối tượng của tâm lý học là vô
thức. Phân tâm học đã sinh vật hóa con người và xem nhẹ vai trò của ý thức và đi ều
kiện xã hội trong sự phát triển nhân cách.

­17­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

 Đối với Triết học: Phân tâm học là một triết thuyết phản khoa học và phản

động đã phủ nhân vai trò của nhân tố xã hội trong ý thức, biện hộ cho các giai cấp
thống trị của xã hội tư bản trong các hành vi phạm tội và làm sa đ ọa tầng l ớp
thanh niên trong sự tuyên truyền, cổ động cho cuộc “cách mạng tình dục”.

KẾT LUẬN

Một trong những học thuyết về tâm lý có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh
vực cuộc sống và có giá trị thực tiễn cho đến ngày hôm nay là thuy ết phân tâm học. Nó
gắn liền với tên tuổi của thiên tài Sigmund Freud và đã trở nên quá quen thuộc với nhiều
người. Ý nghĩa và giá trị của học thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử phát triển của
tâm lý học. Chính Freud đã cho rằng sự ra đời của phân tâm học đã tạo ra cú sốc thứ ba
cho lịch sử phát triển loài người sau phát hiện của Côpernius và học thuy ết của Charler
Đarwin.Học thuyết phân tâm đã nổi tiếng đối với nhiều tầng lớp, nhiều lĩnh vực: Tâm
lý, ý thức học, giáo dục,văn học nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức… Sau 40 năm ngày mất
của ông tạp chí “New week” đánh giá rằng tư tưởng của Freud đã đi sâu vào ý th ức
chúng ta đến nỗi khó mà tưởng tượng thế kỷ XX lại thiếu ông. Ông thuộc về một trong
số ít nhà tư tưởng làm thay đổi cái nhìn căn bản của chúng ta về bản thân mình. Phần
cống hiến quan trọng trong học thuyết phân tâm của Freud là quan điểm về cấu trúc
nhân cách con người. Ông đã vạch ra hướng nghiên cứu mới về nhân cách trong cách
nhìn mới với sự xuất hiện vai trò của vô thức. Bất kỳ học thuyết về nhân cách nào cũng
chứa đựng trong nó hệ thống các đơn vị cấu trúc nhân cách.
Tâm lý học Freud hiện nay là một lý thuyết khá phổ biến ở phương Tây. Từ nghệ
thuật, văn học, hội họa cho đến triết lý thường ngày trong đông đảo các tầng lớp tiểu tư

­18­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

sản và tư sản đều đượm màu quan hệ tình dục tràn lan, bản năng trên hết. Trong xu thế
đó, phân tâm học mới với các đại biểu như Atle, Carl Jung, Fromm đang phát triển cũng
đã bổ sung được những yếu tố mới vào vào lý luận của người sáng lập ra phân tâm học
và hi vọng sẽ bổ sung thêm được nhiều yếu tố mới nữa để phát triển cho học thuyết.
Họ định đem những yếu tố xã hội công một cách máy móc với các yếu tố bản năng đ ể
lý giải yếu tố tinh thần, tâm lý của con người. Nhưng trong phép tính cộng máy móc ấy,
các yếu tố bản năng vẫn giữ vai trò chủ đạo. Do đó, họ không vượt qua giới hạn, bế
tắc của tâm lý học Freud.
Tóm lại, tâm lý học phân tâm mới bước lên đường xây dựng tâm lý học khách quan,
nhưng với quan điểm cơ bản về con người và tâm lý người còn chưa thoát khỏi phạm vi
của thuyết sinh vật hóa con người và tâm lý người, chưa thấy được bản chất xã hội -
lịch sử của con người và tâm lý người. Cho nên tâm lý học phân tâm cũng nh ư tâm lý
học hành vi và tâm lý học Ghestan đều chưa đạt tới đích thực sự nghiên cứu thế giới tâm
lý trong cuộc sống thực của con người.

­19­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Minh Hạc, Tuyển tập Tâm lý học, Nxb chính trị quốc gia, năm 2005.

2. TS. Nguyễn Thanh Hằng, Bài giảng môn Lịch sử Tâm lý học, năm 2010.

3. Th.S Nguyễn Hồng Phan, Bài giảng môn Tâm lý học nhân cách, năm 2011.

4. Tài liệu từ Internet.

­20­
Môn Tâm lý học nhân cách Học thuyết phân tâm học về nhân
cách

­21­

You might also like