You are on page 1of 112

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KHOA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

BÀI GIẢNG
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Tác giả biên soạn: PGS.TS. GVCC. Đặng Thị Vân

Hà Nội, 2020
3
Chương 1. TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT NGÀNH KHOA HỌC

Sau khi học xong chương 1, sinh viên có khả năng:


Xác định được đối tượng, nhiệm vụ và lịch sử hình thành, phát triển của Tâm lý học. Phân
tích bản chất của tâm lý người. Có khả năng phân biệt tâm lý của con người và con vật. Giải thích
được vì sao tâm lý người này khác người kia để có kỹ năng ứng xử phù hợp và linh hoạt với mọi
người xung quanh. Vận dụng kiến thức đã học trong phạm vi chương để giải quyết các tình
huống giả định liên quan đến tâm lý người khi tham gia học phần cũng như những tình huống nảy
sinh trong cuộc sống. Biết sử dụng linh hoạt các phương pháp trong tâm lý học để tìm hiểu về
tâm lý của bản thân và người khác, ứng dụng trong giải quyết nhiệm vụ nghề nghiệp tương lai.

I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC


Với tư cách là một khoa học nghiên cứu về “linh hồn” (bắt nguồn từ gốc chữ La tinh:
Psyche là linh hồn, logos là học thuyết hay gọi là khoa học), là một bộ phận của khoa học Triết
học, Tâm lý học ra đời cách đây hơn 2000 năm trước đây nhưng nó thực sự trở thành một khoa
học thực sự, độc lập mới chỉ cách đây hơn 1 thế kỷ. Khi Tâm lý học trở thành một khoa học độc
lập, có rất nhiều trường phái Tâm lý học khác nhau được chỉ đạo bởi các quan điểm Triết học, bởi
những lập trường, tư tưởng khác nhau.
1.1. Những tư tưởng tâm lý học thời cổ đại
Từ xa xưa, con người đã luôn thắc mắc về những bí mật của thế giới tinh thần. Chính vì
thế, những tìm hiểu về tâm lý người cũng xuất hiện từ rất lâu đời. Tuy nhiên, vào thời kỳ ấy, từ
“tâm hồn”, “linh hồn” được sử dụng và Tâm lý học chưa là một khoa học độc lập, nó xuất hiện và
gắn liền với những tư tưởng của Triết học.
Khi đề cập đến tư tưởng Tâm lý học thời kỳ này, điều quan trọng trước nhất cần nhấn
mạnh là tác phẩm “Bàn về tâm hồn” của nhà Triết học Aristotle. Tác phẩm này được xem như
cuốn sách đầu tiên mang tính khoa học về tâm lý. Bởi lẽ trong đó, ông khẳng định vị trí của tâm
lý học là rất quan trọng, cần phải xếp hàng đầu và tâm hồn thực ra chính là các chức năng của
con người. Theo ông, con người có ba loại tâm hồn tương ứng với ba chức năng: dinh dưỡng, vận
động và trí tuệ.
Ngoài ra, các nhà Triết học thời bấy giờ nghiên cứu về tâm hồn đã đặt những câu hỏi:
Tâm hồn do cái gì sinh ra? Tâm hồn tồn tại ở đâu? Để trả lời những câu hỏi này, có hai quan
điểm đối lập nhau về tâm hồn, đó là quan niệm duy tâm cổ và duy vật cổ.
Theo quan niệm duy tâm cổ, tâm hồn hay linh hồn là do Thượng đế sinh ra, nó tồn tại
trong thể xác con người. Khi con người chết đi, tâm hồn sẽ quay trở về với một tâm hồn tối cao
trong vũ trụ, sau đó sẽ đi vào thể xác khác. Đại điện cho quan niệm duy tâm cổ là nhà Triết học
Socrate và Platon (428 - 348 TCN). Socrate với châm ngôn “Hãy tự biết mình” đã khơi ra một

4
đối tượng mới cho Tâm lý học, đánh dấu một bước ngoặt trong suy nghĩ của con người: suy nghĩ
về chính mình, khả năng tự ý thức, thế giới tâm hồn của con người, khác hẳn với các hiện tượng
Toán học hay Thiên văn học thời đó.
Quan niệm duy vật cổ cố gắng tìm kiếm tâm hồn trong các dạng vật chất cụ thể như đất,
nước, lửa, khí mà tiêu biểu là Democrite (460 - 370 TCN). Ông cho rằng tâm hồn là một dạng vật
chất cụ thể, do các nguyên tử lửa sinh ra, đó là các hạt tròn nhẵn vận động theo tốc độ nhanh nhất
trong cơ thể. Tính chất vận động của những nguyên tử lửa này sẽ quy định tính chất của tâm hồn.
Hay trong Triết học phương Đông, khí huyết trong người được xem là nguồn gốc của mọi hiện
tượng tinh thần. Tâm hồn như một dòng khí, khi các dòng khí này bị tắc nghẽn thì sẽ nảy sinh
bệnh tật ở tâm hồn lẫn cơ thể.
Như vậy, vào thời cổ đại, những tư tưởng về tâm lý, về thế giới tâm hồn con người ra đời
ngay trong lòng của Triết học.
1.2. Những tư tưởng tâm lý học từ nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước
- Thuyết nhị nguyên: R.Đêcac (1596-1650) đại diện cho phái nhị nguyên luận cho rằng vật chất
và tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại. Ông coi cơ thể con người phản xạ như một cái máy.
Còn bản thể tinh thần, tâm lý con người thì không thể biết được. Tuy nhiên, Đêcac cũng đã đặt cơ
sở đầu tiên cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lý.
- Quan điểm của các nhà triết học duy tâm chủ quan:
Đại diện đó là Beccơli (1685-1753), E.Makhơ (1838-1916) cho rằng thế giới không có
thực, thế giới chỉ là “phứ hợp cảm giác chủ quan của con người”. Còn D.Hium (1811-1916) quan
niệm thế giới chỉ là những “kinh nghiệm chủ quan” của con người. Nguồn gốc của kinh nghiệm
là do đâu, ông cho rằng con người không thể biết được (ông là đại diện cho trường phái bất khả
tri)
- Quan điểm của các nhà triết học duy vật: Người đại diện L.Phơbach (1804-1872) là một nhà
duy vật bậc nhất trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, ông khẳng định: Tinh thần, tâm lý không thể
tách rời khỏi não người, nó là sản vật của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não.
1.3. Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập (từ 1879 trở lại đây hay cuối thế kỷ XIX)
Từ đầu thế kỷ XIX, xã hội trên đà phát triển với nền sản xuất đại quy mô, cơ giới hoá, tự
động hoá, đòi hỏi phải có sự hiểu biết thực sự khoa học về con người, về đời sống tâm lý con
người. Hệ thống người - máy, người - người vô cùng phức tạp đòi hỏi con người phải có khả
năng thích nghi. Xã hội ngày càng phát triển, ngày càng hiện đại đòi hỏi con người phải có cơ sở
khoa học, cơ sở tâm lý để đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống mới. Chính xuất phát từ
những điều kiện thuận lợi này Tâm lý học đã thực sự trở thành một lĩnh vực khoa học độc lập.
Thành tựu chính đánh dấu Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập đó là vào năm
1879, nhà tâm lý học người Đức – V.Vuntơ (1832-1920) đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lý
học đầu tiên trên thế giới tại thành phố Lai xích, một năm sau đó, nó trở thành viện tâm lý học
5
đầu tiên trên thế giới, xuất bản các tạp chí tâm lý học. Đầu tiên Vuntơ đại diện cho các trường
phái nội quan khi nghiên cứu tâm lý người (ông coi ý thức chủ quan là đối tượng nghiên cứu của
Tâm lý học và ông nghiên cứu tâm lý, ý thức theo phương pháp tự quan sát), sau đó ông đã bắt
đầu chuyển sang nghiên cứu tâm lý, ý thức theo hướng khách quan bằng quan sát, thực nghiệm,...
Sau 1879, Tâm lý học phát triển mạnh mẽ, xuất hiện nhiều học thuyết về tâm lý con
người. Dưới đây là một vài học thuyết điển hình:
1.4. Các quan điểm cơ bản trong Tâm lý học hiện đại
1.4.1. Thuyết hành vi (Tâm lý học hành vi)
* Thuyết hành vi cổ điển: Người đại diện cho học thuyết này là một nhà tâm lý học người
Mỹ, đó là J.Watson (1878-1958). Học thuyết này đánh dấu một bước tiến bộ trên con đường phát
triển Tâm lý học. Bởi vì theo thuyết này có chủ trương nghiên cứu tâm lý không phải ở trong
vòng khép kín của thế giới nội tâm mà qua hành vi thể hiện ra bên ngoài của đời sống con người
một cách khách quan.
Theo quan niệm của Watson: Tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà
chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể. Toàn bộ phản ứng, hành vi của con người và động vật phản
ánh bằng công thức:
S R
(Stimulant - Reaction)
(Kích thích - Phản ứng)
Với quan niệm trên, Watson đã mở ra một hướng nghiên cứu mới về tâm lý con người đó
chính là nghiên cứu theo hướng khách quan qua hành vi. Bởi hành vi có thể quan sát được,
nghiên cứu được, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử - sai”. Song xuất phát từ
quan niệm máy móc, cơ học coi hành vi là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm
đáp lại một kích thích nào đó, giúp cho cơ thể thích ứng với môi trường xung quanh, đánh đồng
hành vi của con người với hành vi của con vật. Thuyết này đã loại bỏ ý thức, tình cảm, nguyện
vọng của con người (thế giới tâm lý bên trong của con người, hay loại bỏ tính chủ thể, tính xã hội
của tâm lý con người, đồng nhất tâm lý con người với tâm lý động vật).
* Thuyết hành vi mới: Người đại diện đó là Tômmen, Skinơ,...họ vẫn áp dụng công thức S -
R nhưng trong đó có thêm “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, động cơ,
kinh nghiệm sống cá nhân,... nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể. Về cơ bản thì chủ
nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, vẫn đồng nhất tâm lý người với tâm lý động vật.
1.4.2. Thuyết phân tâm (Phân tâm học)
Đại diện cho phân tâm học là một nhà tâm thần học người áo, đó là S.Freud (1859-1939).
Freud chia con người làm ba khối: Cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm cái
bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự vệ, trong đó cái bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm
quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người. Cái tôi là con người thường ngày,
con người có ý thức, cái tôi có ý thức đó là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên

6
trong là cái ấy hay cái nó. Cái siêu tôi là cái tôi lý tưởng mà mỗi cá nhân không bao giờ vươn tới
được. Theo học thuyết phân tâm đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức, phủ nhận ý thức, phủ
nhận bản chất xã hội lịch sử của tâm lý con người, đồng nhất tâm lý con người với tâm lý động
vật hay “sinh vật hoá” tâm lý con người.
Với cách nhìn nhận sinh vật hóa con người, quan điểm của Freud đã khuấy lên làn sóng
phản đối mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, Phân tâm học đương đại đã đóng góp rất nhiều
không chỉ trong việc hiểu và chữa trị các rối loạn tâm lý mà còn giải thích những hiện tượng
trong đời sống hàng ngày như định kiến, tính hung hăng, gây hấn, động cơ. Các lĩnh vực khác
như y khoa, nghệ thuật, văn chương cũng chịu sự ảnh hưởng to lớn từ quan điểm của phân tâm
học.
1.4.3. Thuyết Getstalt (Tâm lý học cấu trúc)
Tâm lý học Ghestal xuất hiện ở Đức vào những năm đầu thế kỷ XX gồm ba nhà Tâm lý
học sáng lập là Max Wertheimer (1880 - 1943), Kurt Koffka (1886 - 1947), Wolfgang Kohler
(1887 - 1964). Đại diện tiêu biểu là Koffka. Học thuyết này xây dựng Tâm lý học theo con đường
khách quan kiểu vật lý học, thuyết này khẳng định: Tâm lý con người là một chỉnh thể có cấu
trúc trọn vẹn, không chia cắt. Trên cơ sở thực nghiệm của các nhà tâm lý học Getstalt khẳng định
các qui luật của ti giác, tư duy và tâm lý của con người do các cấu trúc tiền định của não quyết
định. Theo thuyết này, các tác giả đã không thấy được tính phong phú, đa dạng của từng biểu
hiện trong đời sống tâm lý con người, ít chú ý đến vai trò của vốn kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm xã hội lịch sử của con người.
Tư tưởng của Tâm lý học Ghestal đã hướng khoa học tâm lý xem xét các hiện tượng tâm
lý như một tổng thể trọn vẹn cũng như đưa Tâm lý học đến đối tượng nghiên cứu là quá trình ý
thức, nhận thức của con người hơn là những hành vi quan sát được bên ngoài. Ngoài ra, trường
phái này đã đóng góp rất nhiều cho nền Tâm lý học trong việc xây dựng các quy luật về tư duy và
tri giác nhu quy luật bừng hiểu - insight (là sự khám phá các mối quan hệ có tính chất đột nhiên
dẫn tới một giải pháp giải quyết vấn đề nào đó), quy luật hình nền, quy luật bổ sung. Những quy
luật này ngày nay được vận dụng nhiều trong điện ảnh, hội họa. Hơn nữa, với phương pháp thực
nghiệm trong nghiên cứu. Tâm lý học Ghestal đã thúc đẩy con đường khách quan cho Tâm lý
học.
1.4.4. Tâm lý học nhân văn
Từ chối quan điểm tâm lý được quy định bởi những động lực sinh học, quá trình vô thức
hay môi trường, Tâm lý học nhân văn cho rằng con người khác hẳn loài vật ở chỗ có hình ảnh về
cái tôi. Mỗi cá nhân đều có khuynh hướng phát triển, khả năng tìm kiếm và đạt đến sự hài lòng,
hạnh phúc trong cuộc sống. Giá trị, tiềm năng của con người rất được coi trọng. Đại diện cho
trường phái này là Carl Roger (1902 - 1987) và Abraham Maslow (1908 - 1970). Theo C.Roger,
bản chất con người là tốt đẹp, con người có ý chí độc lập của bản thân và phấn đấu cho cái tôi
trởthành hiện thực. A.Maslow thì chú ý tới động cơ thúc đẩy, đó là hệ thống các nhu cầu của con

7
người, trong đó, nhu cầu tự tìm thấy hạnh phúc, tự hiện thực hóa tiềm năng của bản thân xếp thứ
bậc cao nhất trong bậc thang năm nhu cầu (nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu yêu thương
và thuộc về, nhu cầu tự khẳng định, nhu cầu tự hiện thực hóa tiềm năng bản thân). Trên cơ sở tôn
trọng bản chất tốt đẹp của con người, C.Roger khuyến khích sự tích cực lắng nghe và chấp nhận
vô điều kiện để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển tự do cá nhân, giúp con người phát
triển theo chiều hướng tốt đẹp, giải quyết được nhiều những khó khăn tâm lý.
Trường phái này đưa ra một bức tranh hoàn toàn khác về tâm lý người so với Tâm lý học
hành vi và Phân tâm học. Tuy nhiên, dù nhấn mạnh vào khía cạnh độc đáo tốt đẹp của thế giới
nội tâm con người, Tâm lý học nhân văn có một hạn chế là không giải thích được nguồn gốc của
bản chất tốt đẹp này.
1.4.4. Tâm lý học nhận thức
Đại điện cho trường phái Tâm lý học nhận thức là nhà Tâm lý học người Thụy Sĩ Jean
Piaget (1896 - 1980). Phát triển từ chủ nghĩa cấu trúc và một phần phản ứng lại chủ nghĩa hành
vi, Tâm lý học nhận thức nghiên cứu về mối quan hệ giữa tâm lý với sinh lý, cơ thể và môi
trường thông qua các hoạt động của trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ, tri giác. Trường phái này nhấn
mạnh tìm hiểu cách thức con người suy nghĩ, hiểu và biết về thế giới bên ngoài cũng như ảnh
hưởng của cách con người nhìn nhận về thế giới khách quan đến hành vi, nghĩa là để hiểu được
tâm lý con người, giải thích được hành vi của con người thì cần tìm hiểu cách thức con người tiếp
nhận, gìn giữ và xử lý thông tin. Tâm lý học nhận thức đã xây dựng được những lý thuyết về quá
trình nhận thức của con người. Tuy nhiên, vẫn còn nhìn nhận vai trò chủ thể một cách bị động.
1.4.5. Tâm lý học hoạt động
Những trường phái tâm lý học ở thế kỷ XIX thậm chí cả những năm đầu thế kỷ XX đều
có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lý. Song do hạn
chế của điều kiện lịch sử, xã hội, do thiếu cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng. Các nhà
nghiên cứu lúc đó chưa có quan niệm đầy đủ và đúng đắn về con người. Sự ra đời của một dòng
phái mới đã đóng góp phần đáng kể trong việc khắc phục hạn chế cũng như đưa khoa học tâm lý
ngày một phát triển đó là Tâm lý học Mác xít hay Tâm lý học hoạt động.
Đại diện của dòng phái tâm lý học này đó là các nhà tâm lý học Xô Viết sáng lập, tiêu
biểu là L.X.Vưgôtxki (1896-1934), X.L.Rubinstein (1902-1960), A.N.Lêonchiev (1903-1979),...
Tâm lý học Mác xít hay Tâm lý học hoạt động là sản phẩm, là kết quả của việc vận dụng thế giới
quan và phương pháp luận của Triết học Mác vào nghiên cứu đời sống tâm lý con người. Sự xuất
hiện của Tâm lý học Mác xít đã đánh dấu một bước chuyển mới, một sự phát triển mới của Tâm
lý học và đưa Tâm lý học trở thành một khoa học thực sự.
Tâm lý học Mác xít khẳng định: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
não thông qua hoạt động. Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội lịch sử, tâm lý
người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động, trong các mối quan hệ giao lưu,
giao tiếp của con người trong xã hội.

8
2. BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
2.1. Định nghĩa hiện tượng tâm lý
Tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý người, vậy thực chất hiện tượng tâm lý
người là gì?
Tâm lý bao gồm tất cả các hiện tượng tinh thần nảy ra trong đầu óc con người, chúng gắn
liền với quá trình điều hành, điểu khiển mọi hoạt động của con người.
Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên, là hoạt động thần kinh và hoạt động
nội tiết, được nảy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó mật thiết với các quan hệ
xã hội.
2.2. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não thông qua hoạt động của
chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử.
2.2.1. Tâm lý người là sự phản ảnh hiện thực khách quan vào não thông qua hoạt động của
chủ thể
Tâm lý không có sẵn hay nói cách khác con người vừa mới sinh ra chưa có tâm lý, tâm lý
không phải do thượng đế sinh ra, cũng không phải do não tiết ra giống như gan tiết ra mật, khi
hiện thực khách quan tác động vào bộ não người, não tiếp nhận sự tác động đó và đưa ra phản
ứng hay hiện thực khách quan tác động tới các giác quan, tác động vào não để lại dấu vết trên vỏ
não, những dấu vết đó là hình ảnh về hiện thực khách quan đó với các mức độ phức tạp khác
nhau, hay còn gọi là các hiện tượng tinh thần hay các hiện tượng tâm lý. Các hiện tượng tâm lý từ
đơn giản đến phức tạp đó chính là sản phẩm sau khi hiện thực khách quan tác động vào bộ não
con người.
Một âm thanh, một bản nhạc, một con người, một màu sắc... tác động vào tai, vào mắt ta,
có khi chỉ một lần cũng để lại trong đầu những hình ảnh tương ứng. Hơn nữa những hình ảnh ấy
không phải đơn giản, không phải là một vật chất chết cứng như hình ảnh ở trong gương được tạo
bởi quy luật quang học. Chúng ta có thể gợi lại, tạo dựng lại, cải biên một loạt ấn tượng, suy tư,
cảm nghĩ, thái độ.
Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào tồn tại trong hiện thực khách quan cũng luôn tồn tại bằng
các thuộc tính không gian, thời gian và trong sự vận động, biến đổi của chúng. Phản ánh là thuộc
tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động. Nói một cách tổng quát: Phản ánh là quá
trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả là để lại dấu vết tác động ở cả
hai hệ thống tác động và bị tác động. Chẳng hạn phản ánh cơ học, viên phấn được dùng để viết
lên bảng đen để lại dấu vết trên bảng, ngược lại bảng làm mòn viên phấn. Hay phản ánh hoá học
là: 2H2 + O2 = 2H2O
Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá lẫn nhau: Từ phản ánh cơ,
vật lý, hoá học, sinh vật đến phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý.
* Phản ánh tâm lý là một phản ánh đặc biệt
Tâm lý người là sự phản ánh đặc biệt căn cứ vào những cơ sở sau:

9
+ Sự phản ánh tâm lý là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần kinh,
vào bộ não người – cơ sở vật chất có tổ chức cao nhất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não con người
mới có khả năng nhận tác động từ hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần chứa
đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sin lý, sinh hoá ở trong hệ thần kinh và não bộ.
+ Phản ánh tâm lý chính là bản sao chép, sao chụp về thế giới hay đó chính là kết quả quá trình
phản ánh thế giới khách quan vào não. Hình ảnh tâm lý khác xa so với hình ảnh cơ, vật lý hay
sinh vật ở chỗ:
* Thứ nhất: Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo.
Chẳng hạn: hình ảnh tâm lý về một con người trong đầu của một người biết nhận thức khác xa về
chất với hình ảnh vật lý có tính chất chết cứng của con người đó ở trong gương, hay tấm ảnh
được chụp qua phương tiện là chiếc máy ảnh.
* Thứ hai: Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân, hay nói cách khác
tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
2.2.2. Tâm lý người mang tính chủ thể
Tính chủ thể thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã
đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, khả năng, khí chất... của mình vào trong hình ảnh đó làm
cho nó mang đậm những nét riêng của cá nhân đó hay mang đậm màu sắc chủ quan. Hay nói
khác đi, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua “Lăng kính chủ quan”.
* Biểu hiện của tính chủ thể là:
+ Cùng xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào não của mỗi chủ thể khác nhau sẽ tạo
ra những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái khác nhau.
Chẳng hạn: một bài toán đưa ra cho một nhóm học sinh, học sinh này cho là khó, học sinh
khác thì cho là dễ hay ở mức độ trung bình. Điều này phụ thuộc vào vốn kiến thức toán học của
các em, khả năng nhận thức của các em hay năng khiếu, sở thích...
+ Xuất phát từ một hiện thực khách quan tác động vào một chủ thể nhưng lại ở nhiều thời
điểm khác nhau, ở những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, tinh thần không
giống nhau sẽ tạo ra mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở bản thân chủ thể ấy.
Chẳng hạn: Ở lứa tuổi thanh niên, khi xem một bộ phim, ta sẽ đưa ra một nhận xét khác
với bộ phim ấy được phát lại sau 10 năm, lúc đó ta đang ở lứa tuổi người trung niên với bao thay
đổi của thời cuộc. Hay khi ăn một bát phở ta sẽ cảm thấy ngon miệng và sảng khoái hơn khi ta có
sở thích về nó và lúc sức khoẻ tốt, vẫn là bát phở do một người nấu nhưng lúc ta mệt mỏi hay gặp
một sự trắc trở, vướng mắc nào đó trong cuộc sống ta sẽ cảm thấy bát phở kém đi phần ngon
nguyên vẹn của nó.
+ Chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận và trải nghiệm nó rõ nhất. Chính xuất
phát từ mức độ hay sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể có những cách phản ứng, hành vi
ứng xử, hành động khác nhau trong cuộc sống, trong các mối quan hệ xã hội hay với người khác.

10
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ và hành
vi khác nhau đối với hiện thực.
Ví dụ: Thực hiện chiến dịch bảo vệ môi trường hiện nay có nhiều ứng xử khác nhau ở các
thế hệ, các lứa tuổi, các cá nhân. Người trồng cây xanh, người vệ sinh nhà cửa, khu phố sạch sẽ,
người tham gia cuộc hành trình đi xe đạp,… Tuy nhiên, vẫn có có ít người vẫn vứt rác bừa bãi,
chặt phá cây xanh,…
* Nguyên nhân tạo ra tính chủ thể trong tâm lý con người
Mỗi một cá nhân sinh ra có những đặc điểm riêng về cơ thể hay khác nhau về cơ cấu di truyền,
cấu tạo của hệ thần kinh, bộ não. Hơn nữa, “mỗi cây mỗi hoa” - sống trong hoàn cảnh, điều kiện
khác nhau, môi trường giáo dục khác nhau và cơ bản là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực
trong tính chủ thể thông qua hoạt động, giao lưu khác nhau. Vì thế, tâm lý mỗi người sẽ không
hoàn toàn giống người khác mà có những sắc thái rất riêng, điển hình cho cá nhân đó.
Tóm lại: Tâm lý người là hiện tượng tinh thần có nguồn gốc vật chất từ bên ngoài đó
chính là hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan là yếu tố quy định nội dung tâm lý, còn bộ
não là bộ máy phản ánh tạo nên tâm lý con người. Hay hiện thực khách quan là điều kiện cần và
não là điều kiện đủ làm nảy sinh tâm lý con người. Tâm lý người là hình ảnh chủ quan về thể giới
khách quan khi tác động vào não con người.
2.2.3. Tâm lý người mang bản chất xã hội - lịch sử
Tâm lý người khác xa về chất so với tâm lý động vật. Bởi tâm lý con người được nảy
sinh, hình thành và biến đổi trong các mối quan hệ xã hội và chịu sự chi phối của các mối quan
hệ xã hội đó. Thực chất tâm lý người đó chính là quá trình biến những kinh nghiệm của lịch sử xã
hội thành cái riêng, điển hình cho mỗi cá nhân.
* Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:
+ Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan, mà hiện thực khách quan bao gồm
thế giới tự nhiên, xã hội trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định.
Tâm lý người được hình thành từ các mối quan hệ xã hội từ mối quan hệ kinh tế, đạo đức, pháp
quyền, các mối quan hệ người - người từ quan hệ gia đình, bạn bè, làng xóm, nhóm, tập thể hay
cộng đồng... các quan hệ trên quyết định bản chất tâm lý người. Thực tế cho thấy con người thoát
ly khỏi các mối quan hệ xã hội, quan hệ người - người đều làm cho tâm lý người mất bản tính
người.
+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của con người trong các mối quan
hệ xã hội.
Khi mỗi cá nhân tham gia vào bất kỳ một hoạt động nào đều phải là chủ thể biết nhận thức, chủ
thể tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động, giao lưu đó thì tâm lý sẽ nảy sinh và hình thành
cũng như ngày một hoàn thiện ở mức độ cao làm cho hoạt động mang lại hiệu quả tối ưu, cá nhân
đó sẽ có một đời sống tâm lý phong phú và đa dạng. Hay tâm lý con người được nảy sinh và phát
triển là sản phẩm của cá nhân khi tham gia vào hoạt động với tư cách là một chủ thể xã hội.

11
+ Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã
hội, nền văn hoá xã hội thông qua hoạt động, giao lưu.
+ Tâm lý của mỗi cá nhân hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch
sử cá nhân, lịch sử dân tộc, cộng đồng, xã hội. Tâm lý người chịu sự chế ước bởi lịch sử cá nhân,
cộng đồng và của xã hội.
Mối quan hệ xã hội của con người không tĩnh tại, không bất biến mà nó luôn vận động, biến đổi
cùng quá trình lịch sử cá nhân, cộng đồng và xã hội. Do đó, tâm lý người phải biến đổi theo sao
cho phù hợp với điều kiện đang sống.
3. CHỨC NĂNG CỦA TÂM LÝ
Các hiện tượng tâm lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân, nó
ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển mọi mặt của đời sống con người, đặc biệt là đời
sống tinh thần. Mọi hoạt động, hành vi trong cuộc sống của cá nhân đều do yếu tố tâm lý điều
hành, điều khiển. Cụ thể qua một số chức năng cơ bản sau:
+ Tâm lý có chức năng chung là định hướng mọi hoạt động của con người. Hay nói một
cách khác hoạt động mà con người sẽ thực hiện hay tiến hành xuất phát từ động lực nào? hay
động cơ, mục đích nào? Động cơ có thể là một nhu cầu nhận thức, nhu cầu muốn hiểu biết hay
khám phá, cũng có thể là một lý tưởng, một lương tâm hay một tấm lòng nhân ái... tất cả những
khía cạnh đó đều là biểu hiện tâm lý con người. Động cơ có thể thúc đẩy nhưng cũng có thể kìm
hãm con người hành động sao cho phù hợp đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người.
+ Tâm lý là động lực thôi thúc, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục mọi khó khăn để
vươn tới mục đích đã đề ra.
Chẳng hạn bằng sức mạnh của nghị lực, của lòng kiên trì và tình cảm cao qúy mà con
người có thể hoàn thành tốt công việc tưởng chừng không làm được “yêu nhau tam tứ núi cũng
trèo, thất bát sông cũng lội...”
Thực tế chứng minh rằng “có thực mới vực được đạo” ý muốn đề cập đến sức mạnh vật
chất thật cần thiết nhưng sức mạnh tinh thần đó là sức mạnh tâm lý còn lớn hơn. Tâm lý có thể
làm tăng hay giảm sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất của con người. Nó có thể làm cho
con người trở nên tươi trẻ và đầy sức sống, có thể làm được những điều kỳ diệu không thể lường
trước. Nó có thể làm cho con người đang bình thường trở thành yếu đuối, bạc nhược.
+ Tâm lý điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế hoạch, phương
pháp, cách thức làm cho hoạt động trở lên có ý thức và đạt hiệu quả cao.
+ Tâm lý giúp cho con người điều chỉnh hoạt động phù hợp với mục tiêu xác định đồng
thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế cho phép.
Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh của tâm lý mà con người thực
hiện hoạt động có hiệu quả trên cơ sở đó giúp con người không chỉ thích ứng với điều kiện, hoàn
cảnh, yêu cầu của thực tại khách quan mà còn giúp con người nhận thức sâu sắc, cải tạo và sáng
tạo ra thế giới mới, con người mới và cải tạo chính bản thân mình.

12
4. PHÂN LOẠI HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
4.1. Căn cứ vào diễn biến của các hiện tượng tâm lý
Theo căn cứ này thì tâm lý người bao gồm ba loại sau: các quá trình tâm lý, các trạng thái
tâm lý và các thuộc tính tâm lý.
Các quá trình tâm lý là các hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, diễn biến và kết thúc một
cách rõ ràng, diễn ra trong thời gian ngắn. Các quá trình tâm lý bao gồm các quá trình nhận thức
(cảm giác, tri giác, tư duy...), các quá trình cảm xúc (biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu,
khó chịu, nhiệt tình, thờ ơ...) và quá trình hành động ý chí.
Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra với mở đầu, diễn biến và kết thúc
một cách không rõ ràng, không cụ thể và diễn ra trong thời gian tương đối dài (chú ý, tâm
trạng...)
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý khó hình thành, khó mất đi và nó được
hình thành trong thời gian lâu dài và phức tạp, chúng tạo thành những nét riêng của nhân cách
(xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực).
Các hiện tượng tâm lý thuộc cùng một thể loại hay ở một thể loại khác đều có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, chúng không tồn tại một cách biệt lập và tách rời nhau mà hiện tượng tâm
lý này là cơ sở để nảy sinh hiện tượng tâm lý khác và ngược lại.
4.2. Căn cứ vào sự tham gia của ý thức
Tâm lý cá được nảy sinh trong hoạt động, trong giao lưu và trong hoạt động, giao lưu
muốn đạt hiệu quả phải có sự tham gia của ý thức con người. Do đó, ý thức tham gia vào việc nảy
sinh các hiện tượng tâm lý, nhưng đôi khi có những hiện tượng tâm lý nảy sinh mà không có sự
tham gia của ý thức. Theo căn cứ này thì tâm lý bao gồm các loại sau: Hiện tượng tâm lý có ý
thức (tình cảm, nhận thức, ý chí, thế giới quan, nhu cầu...) là các hiện tượng tâm lý chủ đạo, các
hiện tượng tâm lý vô thức mang tính chất bệnh lý (ảo giác, hoang tưởng, những hiện tượng tâm lý
xảy ra trong trạng thái ức chế, thôi miên, ngủ mê, hiện tượng trực giác - “vụt sáng”.
Như vậy, thế giới nội tâm hay đời sống tâm lý của con người vô cùng phong phú, phức
tạp và đa dạng. Tâm lý người có nhiều cấp độ, mức độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau
và chuyển hoá cho nhau.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Bất kỳ một khoa học nào nếu trở thành một khoa học độc lập đều phải có đối tượng cụ thể
hay trả lời cho câu hỏi khoa học đó nghiên cứu cái gì? hay nghiên cứu vấn đề gì? Đó chính là đối
tượng nghiên cứu của khoa học đó. Đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý là gì?
Khi xem xét, đánh giá một con người cụ thể nào đó, một nhóm người hay một cộng đồng
người trong xã hội với những khía cạnh, biểu hiện như khả năng nhận thức (sự hiểu biết nói
chung), thái độ đối với thế giới xung quanh (tự nhiên, xã hội, người khác), sự nỗ lực cố gắng
trong cuộc sống của họ để đạt được mục đích trong cuộc sống,...Tất cả những biểu hiện đó của

13
con người phát sinh, biểu hiện và ngày một biến đổi trong cuộc sống của con người tâm lý học
gọi là các hiện tượng tâm lý và tâm lý học đi nghiên cứu các hiện tượng tâm lý đó, xem xét chúng
trong một mối quan hệ tổng thể, sự tác động qua lại, tương hỗ, kết hợp giữa chúng đặc trưng cho
giá trị của con người trong xã hội hay nhân cách của một con người.
Đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý là các hiện tượng tâm lý người, các quy luật
nảy sinh, hình thành, phát triển cũng như cơ chế hình thành các hiện tượng tâm lý đó.
Các hiện tượng tâm lý đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống của con người,
trong quan hệ giữa con người với con người trong xã hội loài người.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tâm lý học là khoa học về tâm lý hay nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý người, nhưng
hiện tượng tâm lý có bản chất ra sao? cơ chế nảy sinh, hình thành như thế nào? chúng có mối
quan hệ gì? Đó là nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học.
Nhiệm vụ cơ bản của tâm lý học là nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý, các quy
luật nảy sinh và phát triển của các hiện tượng tâm lý đó cũng như cơ chế diễn biến và thể hiện
tâm lý, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý với nhau. Các nhiệm vụ cụ thể là:
* Tâm lý học nghiên cứu những yếu tố khách quan cũng như chủ quan nào làm nảy sinh các hiện
tượng tâm lý.
Để nảy sinh bất kỳ một hiện tượng tâm lý nào cũng xuất phát từ những yếu tố chủ quan và
khách quan. Chẳng hạn: Khi ta nghe một bản nhạc ta thấy bản nhạc đó hay, nhận ra thể loại nhạc,
nội dung của bản nhạc,... yếu tố khách quan đó là bản nhạc, không gian khi bản nhạc cất lên, còn
yếu tố chủ quan đó là do người cảm thụ âm nhạc, do khả năng nhận thức, nhu cầu, sở thích,... của
người nghe bản nhạc đó.
* Chỉ ra cơ sở sinh lý của các hiện tượng tâm lý tương ứng
Chẳng hạn: Con người nghe được âm thanh đó là một hiện tượng tâm lý hay tâm lý học
gọi là cảm giác nghe. Cơ sở sinh lý của cảm giác nghe đó là cơ quan phân tích tai (thính giác) và
bộ não.
* Phân biệt được các hiện tượng tâm lý
Khi đề cập hay nghiên cứu đời sống tâm lý con người là chúng ta phải xem xét trong sự
phong phú, đa dạng và phức tạp. Bởi lẽ đời sống tâm lý con người không chỉ bao hàm một hiện
tượng tâm lý, một dạng hiện tượng tâm lý mà bao gồm đa dạng hoá các hiện tượng tâm lý khác
nhau đó là nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, thế giới quan,... mà ta cần phân biệt được chúng.
* Nghiên cứu mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý
Sự phong phú, phức tạp của đời sống tâm lý con người đó chính là do các hiện tượng tâm
lý không tồn tại một cách biệt lập mà chúng tồn tại trong một mối quan hệ chỉnh thể, tác động
tương hỗ làm thành đời sống nội tâm con người. Bởi con người là một tổng thể thống nhất các bộ
phận, do đó khi nảy sinh các hiện tượng tâm lý tì chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
* Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý

14
Các hiện tượng tâm lý được nảy sinh, hình thành, biểu hiện và phát triển như thế nào
trong đời sống của con người nói chung, trong hoạt động, trong quan hệ với người khác.
* Nghiên cứu chức năng, vai trò của các hiện tượng tâm lý đối với đời sống con người nói chung,
nghề nghiệp nói riêng
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu xoay quanh các biểu hiện của tâm lý con người , Tâm
lý học đã đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lý người, sử dụng
tâm lý trong nhân tố con người để phát huy yếu tố nội lực trong bất cứ lĩnh vực nào nhằm phát
triển đời sống xã hội nói chung. Tuy nhiên để thực hiện một cách có hiệu quả những nhiệm vụ
nêu trên, Tâm lý học cần phải kết hợp chặt chẽ với các lĩnh vực khoa học khác.
6. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC
6.1. Các nguyên tắc phương pháp luận của Tâm lý học
6.1.1. Nguyên tắc khách quan
Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý một cách khách quan có nghĩa là không được thêm bớt
một cái gì vào hiện tượng đó mà phải nghiên cứu nó như nó vẫn có trong thực tế.
6.1.2. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Tâm lý học đã đưa ra nguyên tắc phương pháp luận cho việc lý giải nguyên nhân quyết
định nảy sinh các hiện tượng tâm lý. Đó là nguyên tắc quyết định luận duy vật các hiện tượng
tâm lý.
Nội dung của nguyên tắc này nêu rõ: mọi hiện tượng tâm lý người đều phụ thuộc một
cách tất yếu và có tính quy luật vào những nhân tố xác định, đó là các tác động từ bên ngoài; các
điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể. Các tác động từ bên ngoài tác động vào con người đóng vai trò
quyết định thông qua các điều kiện bên trong.
Nguyên tắc này khẳng định:
- Nguyên nhân quyết định của các hiện tượng tâm lý người là từ các tác động bên ngoài -
các điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.
- Con đường tác động: các nhân tố bên ngoài tác động vào con người thông qua các điều
kiện bên trong.
Các tác động bên ngoài đó từ thế giới khách quan bên ngoài con người, bao gồm tất cả
những điều kiện, đặc điểm của hoàn cảnh xã hội - lịch sử cụ thể; đặc điểm của nền kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội của cả loài người và của riêng mỗi nước, mỗi khu vực; đặc điểm môi trường
xã hội với tất cả các mối quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia vào đó; các điều kiện sống và làm
việc của cá nhân và gia đình v.v... Các tác động từ bên ngoài cũng còn là chính các trạng thái, các
quá trình sinh vật xảy ra trong cơ thể con người ở thời điểm cụ thể (Chẳng hạn, trạng thái sinh lý
thuận lợi, khỏe mạnh hay ốm yếu của cơ thể con người ở vào một thời điểm cụ thể nào đó).
Các điều kiện bên trong (còn gọi là nhân tố bên trong) chính là những cái quy định đặc
điểm tâm, sinh lý cá thể, bao gồm các đặc điểm sinh vật của cá thể (chiều cao, cân nặng, sức
mạnh của cơ bắp, độ tinh của mắt, độ thính của tai v.v...); các đặc điểm hoạt động thần kinh cấp

15
cao với các quy luật của nó (đặc trưng của các quá trình hưng phấn, ức chế, các quy luật hoạt
động thần kinh...); các đặc điểm tâm lý của nhân cách biểu hiện ở trình độ hiểu biết, vốn sống,
kinh nghiệm, nhu cầu, các đặc điểm về xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực hoạt động v.v...
Các điều kiện bên ngoài ( nhân tố bên ngoài) là nguyên nhân quyết định việc nảy sinh các
diễn biến tâm lý khác nhau của con người, nhưng chúng muốn phát huy tác dụng phải thông qua
các điều kiện bên trong của chủ thể.
Nhấn mạnh tính quyết định xã hội - lịch sử trong việc nảy sinh tâm lý người, nhưng tâm
lý học hoạt động không phủ nhận vai trò của cái sinh vật trong việc nảy sinh hình thành cái tâm
lý. Trong hoạt động tâm lý người, cái sinh vật, yếu tố sinh vật là tiền đề vật chất tự nhiên đầu tiên
có khả năng thuận lợi hay không thuận lợi cho sự nảy sinh, hình thành và phát triển của cái tâm
lý nhưng không quyết định nội dung của cái tâm lý.
Nguyên tắc quyết định luật duy vật các hiện tượng tâm lý người đòi hỏi phải thực hiện
một cách nhất quán và cần được cụ thể hoá trong thực tiễn nghiên cứu:
- Khi nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá các hiện tượng tâm lý người phải nhìn thấy những yếu
tố mang tính quyết định từ trong điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, tức là từ các đặc điểm, môi
trường hoàn cảnh xã hội cụ thể với các quan hệ xã hội mà các con người cụ thể tham gia
trong đó.
- Nghiên cứu các diễn biến khác nhau của đời sống tâm lý người, cần phải xem xét mối liên
hệ giữa những nhân tố sinh vật của cơ thể, các đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao với các quá
trình, trạng thái, thuộc tính tâm lý của nhân cách. Sự kết hợp tất cả các phương diện đó mới cho
phép đưa ra một cách khách quan kết quả nghiên cứu.
- Những dữ liệu và những kết luận được rút ra từ những dữ liệu phải hoàn toàn xuất phát từ
hiện thực khách quan, không mang tính chủ quan, đặc biệt không mang tình cảm hoặc mong
muốn cá nhân vào trong quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học.
- Nghiên cứu cách tác động vào hoàn cảnh sống, biến đổi, cải tạo môi trường xã hội và
hoạt động của con người là con đường cơ bản nhằm hình thành, biến đổi, cải tạo tâm lý, xây dựng
nhân cách con người phù hợp với những đòi hỏi của điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.
6.1.3. Nguyên tắc phát triển
Nội dung của nguyên tắc này chỉ rõ, mọi hiện tượng tâm lý đều có quá trình nảy sinh, vận
động, phát triển và biến đổi chứ không phải là những cái gì cố định, bất biến. Bởi thế, nghiên
cứu, đánh giá, luận giải, dự đoán tâm lý con người và nhóm người phải trong sự vận động, phát
triển biến đổi, trong sự tác động qua lại của các hiện tượng cũng như các thành phần tạo thành
chúng.
Khi sinh ra con người chưa phải đã là một nhân cách, chưa có sẵn ngay các phẩm chất
tâm lý cần thiết mà mới chỉ có những nhu cầu bản năng của cơ thể được quy định bởi di truyền
với những tiền đề sinh vật tạo khả năng để phát triển tâm lý- ý thức, nhân cách. Dưới ảnh hưởng

16
của những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, thông qua hoạt động và giao tiếp, tâm lý con người
phát triển, nhân cách được hình thành và ổn định.
Đối với tâm lý học nguyên tắc phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì các hiện
tượng tâm lý mà nó nghiên cứu đều có sự biến động vô cùng lớn. Trong quá trình phát triển tâm
lý, tính kế thừa và sự xuất hiện cái mới, sự đồng nhất và sự khác biệt, sự dự định và sự biến đổi
gắn bó với nhau một cách biện chứng. Sự phát triển tâm lý thể hiện ở chỗ trong các giai đoạn lứa
tuổi khác nhau, các đặc điểm, thuộc tính tâm lý mới về chất được hình thành.
Nguyên tắc phát triển của tâm lý cũng đòi hỏi các nhà tâm lý học nghiên cứu tâm lý của
cá nhân và các nhóm, tập thể trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển để có các dự báo
chuẩn xác được phát triển của chúng theo đòi hỏi của cuộc sống đa dạng, phong phú trong điều
kiện mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế.
Ý nghĩa của nguyên tắc này đối với thực tiễn nghiên cứu ở chỗ, khi xem xét đánh giá một
nhân cách cụ thể, hiện tượng tâm lý của một nhóm, một tập thể người cụ thể nào đó, cần phải
nhìn nhận đối tượng nghiên cứu trong sự vận động phát triển của nó, không được chủ quan, định
kiến.
6.1.4. Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động
Dựa trên luận điểm của chủ nghĩa Mác: con người là sản phẩm hoạt động của chính mình
tâm lý học chỉ rõ: tâm lý con người được biểu hiện trong hoạt động và là thành phần tất yếu của
hoạt động, đóng vai trò định hướng và điều khiển hoạt động; đồng thời thông qua hoạt động, tâm
lý, ý thức con người được nảy sinh, hình thành và phát triển. Tâm lý, ý thức và hoạt động của con
người là thống nhất trong mối quan hệ biện chứng.
Nghiên cứu lao động- một dạng hoạt động cơ bản thực tiễn của con người, chúng ta nhìn
thấy rõ thái độ, tình cảm, suy nghĩ của chính con người. Tâm lý con người được thể hiện trong
tính cần cù, óc sáng tạo, sự nỗ lực trong công việc...Hoạt động lao động của con người không thể
có nếu thiếu nhu cầu, dự định, động cơ. Bất cứ hoạt động nào đều xuất phát từ những động cơ
nhất định và nhằm đạt được mục đích nhất định. Động cơ là thành phần chủ đạo trong cấu trúc
tâm lý của hoạt động đóng vai trò định hướng điều khiển hoạt động của con người.
Tâm lý, ý thức con người được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động. Trong
quá trình hoạt động, con người tác động vào đối tượng, đem tinh lực của con người hóa vào sản
phẩm lao động do con người làm ra và đồng thời có sự tác động trở lại từ đối tượng tới con
người, làm xuất ở con người những nhận thức, cảm xúc, tình cảm mới, ý chí quyết tâm mới. Các
phẩm chất tâm lý mới được nảy sinh hình thành chính trong hoạt động của con người. Như thế,
tâm lý, ý thức và hoạt động của con người có sự gắn bó hữu cơ với nhau, thống nhất biện chứng
không thể chia cắt. Tâm lý con người được thể hiện trong hoạt động và hoạt động của con người
chính là cơ sở để hình thành tâm lý con người.
Khi nghiên cứu tâm lý con người cần đứng trên quan điểm là tâm lý, ý thức và hoạt động
là sự thống nhất trong cả quá trình trong những hoàn cảnh nhất định. Cũng có các hiện tượng tâm

17
lý bị giữ lại phần lớn ở bên trong, phần biểu hiện ra bên ngoài lại rất yếu ớt và khó quan sát thấy
xem xét trong cả quá trình về cơ bản nó vẫn được bộc lộ ra bên ngoài, thống nhất với hành vi,
hoạt động cụ thể của con người. Hành vi của người có sự biến đổi, có cấu trúc phức tạp, chẳng
hạn trong những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau, mỗi người lại hành động khác nhau. Các hành
động hiện tại đều có liên quan đến hành động quá khứ và tương lai. Tham gia vào hành động hiện
tại có kỹ năng, kỹ xảo, tri thức được hình thành trong quá khứ, những điều kiện cụ thể hiện tại
ảnh hưởng đến mục đích, động cơ, thái độ, tình cảm...Bởi vậy, khi nghiên cứu tâm lý của cá
nhân, cần xem xét quá trình hình thành những biểu hiện của chúng ra hành vi trong quá trình
sống và hoạt động của cá nhân đó.
Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động có ý nghĩa trong thực tiễn nghiên
cứu:
- Nghiên cứu, xác định tâm lý người phải thông qua các biểu hiện trong hành vi và hoạt
động cụ thể. Bởi vì tâm lý, ý thức và hoạt động là thống nhất nên các biểu hiện trong hành vi và
hoạt động là những bằng chứng khách quan giúp cho chúng ta đoán biết có căn cứ khoa học
những diễn biến tâm lý, tư tưởng của từng con người cụ thể.
- Sự thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động là sự thống nhất trong cả quá trình. Bởi
vậy, trong nghiên cứu các hiện tượng tâm lý cần căn cứ vào quá trình biểu hiện của chúng ra
hành vi bên ngoài để thận trọng trong xem xét đi đến những kết luận chính xác, khách quan.
6.1.5. Nguyên tắc tiếp cận nhân cách
Phải nghiên cứu tâm lý của một con người cụ thể, một nhóm người cụ thể, chứ không
nghiên cứu một cách chung chung, nghiên cứu tâm lý ở một con người trừu tượng.
6.2. Những phương pháp cơ bản của Tâm lý học
6.2.1. Phương pháp quan sát
Một trong những phương pháp sử dụng phổ biến trong nghiên cứu tâm lý người là
phương pháp quan sát. Phương pháp quan sát là quá trình tri giác các hiện tượng tâm lý có tổ
chức, có chủ định và có mục đích rõ rệt.
Quan sát khoa học khác quan sát đời thường ở chỗ:
- Tuân theo mục đích nghiên cứu.
- Tuân theo cách thức nhất định.
- Được ghi chép theo cách thức nhất định.
- Mang tính hệ thống.
- Thông tin thu được phải được kiểm tra tính ổn định và tính hiệu lực.
Phương pháp quan sát một cách khoa học được xác định bởi các đặc điểm chủ yếu sau:
Phương pháp quan sát hướng vào quá trình, ý nghĩa của các hành động riêng lẻ và mối
liên hệ của các hành động.
Quan sát biểu hiện bên ngoài, thông qua đó để đoán biết những đặc điểm tâm lý bên
trong. Có thể quan sát nét mặt, cử động tay, chân, di chuyển cơ bản, tốc độ, phương hướng,

18
chuyển động, sự va chạm của cá nhân với các vật thể và người khác, nội dung của lời nói, thể
hiện ở nguôn từ, ngữ điệu, âm điệu, cường độ của lời nói, sử dụng định hướng, tần số của cử
chỉ... kết hợp lại để xác định hành vi chung của con người.
Quan sát trong tâm lý học cũng tuân thủ những nguyên tắc chung cho bất kỳ quan sát
khoa học nào. Đó là, phù hợp với mục đích nghiên cứu, kế hoạch hóa và tiến hành quan sát tương
tác giữa các cá nhân theo một sơ đồ nhất định, diễn tả các hiện tượng và sự kiện mà chúng ta tri
giác được bằng ngôn ngữ thích hợp sao cho người quan sát khác hiểu được, lựa chọn các phương
pháp quan sát và ghi lại tùy theo tính chất hoạt động của con người và khả năng quan sát, kiểm
tra tính khách quan và độ tin cậy của việc quan sát bằng những nhà nghiên cứu khác và những
cách nghiên cứu khác, cần phân biệt được ý nghĩa chủ quan của người quan sát và ý nghĩa chủ
quan của hành động được quan sát.
E.C. Kuzơmin chỉ ra 3 yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sử dụng thành công của
phương pháp quan sát là:
- Xác định rõ ràng mục đích
- Xây dựng sơ đồ quan sát phù hợp: thiết kế bối cảnh sao cho nhận diện dễ dàng các phần
tử được quan sát (mẫu, thời gian, không gian quan sát).
- Xây dựng phương pháp ghi lại thích hợp.
Việc xây dựng sơ đồ quan sát được tiến hành theo nguyên tắc sau:
- Trước hết, người ta quan sát bối cảnh ghi lại tất cả những điều xảy ra và sắp xếp theo
các phạm trù nhánh.
- Dựa vào các giả thuyết hoặc từ một lý thuyết xác định các khía cạnh quan sát quan trọng
và để xây dựng sơ đồ quan sát.
Quan sát có nhiều hình thức: trực tiếp, gián tiếp; quan sát bộ phận hay toàn diện; quan sát
trọng điểm, quan sát khách quan hay tự quan sát (theo yêu cầu khách quan),...
Phương pháp quan sát cho phép nhà nghiên cứu thu thập được các tài liệu cụ thể, khách
quan trong các điều kiện tự nhiên của con người. Tuy nhiên, phương pháp này tốn nhiều thời
gian, công sức của nhà nghiên cứu.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại (phỏng vấn)
Các cuộc phỏng vấn là một kỹ thuật thường xuyên được sử dụng trong nghiên cứu định
tính và định lượng về các hiện tượng tâm lý.
Phương pháp đàm thoại là cách đặt ra câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để
trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn thường được hiểu là phỏng vấn bằng lời nói, còn gọi là “cuộc nói
chuyện riêng” hay “trò chuyện có chủ định” Bởi vậy, nói chuyện thông thường là cơ sở của
phỏng vấn. Tuy nhiên, phỏng vấn khác với cuộc nói chuyện thông thường ở hai điểm sau đây:
- Mục đích phỏng vấn do chương trình nghiên cứu quy định từ trước.
- Vai trò của người phỏng vấn được quy định, thậm chí “chuẩn hóa”.

19
Vì vậy, kết quả phỏng vấn, chất lượng thông tin thu được phần lớn phụ thuộc vào tính chất của
việc tiếp xúc, sự giao tiếp chặt chẽ và hiểu biết lẫn nhau giữa người phỏng vấn và người trả lời.
Đàm thoại/Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc tác động tâm lý
xã hội giữa người hỏi và người được hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm
vụ của nhà nghiên cứu.
Nguồn thông tin trong phỏng vấn bao gồm:
- Toàn bộ những câu trả lời phản ánh ý thức, quan điểm của người được hỏi.
- Các yếu tố hành vi, cử chỉ, ngôn từ của người trả lời thông qua việc quan sát trong suốt thời
gian phỏng vấn.
- Phương pháp phỏng vấn thu thập thông tin dựa trên cơ sở phối hợp cả hai nguồn thông tin trên.
Vì vậy người đi phỏng vấn cần căn cứ vào hai nguồn thông tin đó để xác định chính xác các câu
trả lời.
Xét một cách toàn diện một cuộc phỏng vấn có các đặc điểm sau:
- Số lượng câu hỏi không nhiều để thu thập được thông tin sâu.
- Mối quan hệ ngược chiều, qua lại giữa người hỏi và người được hỏi, sự tác động của người hỏi
có ảnh hưởng lớn tới kết quả của phương pháp phỏng vấn.
- Tính phi hậu quả: Các kết quả phỏng vấn phải đảm bảo sao cho không gây nên hậu quả xấu cho
người được phỏng vấn.
Ngày nay, trong khoa học tâm lý, phương pháp phỏng vấn được sử dụng rất rộng rãi. Điều
này xuất phát từ vai trò quan trọng của phương pháp này đối với việc nghiên cứu tâm lý học.
Thứ nhất, trong giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu, phân tích có thể giúp nhà nghiên
cứu tìm ra được những phương án thích hợp trong bảng hỏi, giúp phỏng đoán các giả thiết khoa
học và giúp khám phá ra những điều mà nhà nghiên cứu không lường hết được. Đặc biệt khi nhà
nghiên cứu sử dụng phương pháp bảng hỏi làm công cụ chính của phương pháp nghiên cứu thì
phỏng vấn có thể giúp nhà nghiên cứu điều chỉnh lại cấu trúc bảng hỏi cho thích hợp.
Thứ hai, phỏng vấn là công cụ chính của việc lựa chọn dữ liệu nghiên cứu. Trước khi áp
dụng các biện pháp thực nghiệm, phỏng vấn có thể được sử dụng để thu thập các thông tin cơ bản
trong nhóm thực nghiệm. Hoặc là sau khi áp dụng các biện pháp thực nghiệm, phỏng vấn có thể
được sử dụng để kiểm định lại các nhóm này. Như vậy có thể nói trong nhiều trường hợp phỏng
vấn giữ vị trí trung tâm của quá trình nghiên cứu.
Thứ ba, Phỏng vấn có khả năng lựa chọn các số liệu nổi bật từ việc sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khác.
- Một số ưu và nhược điểm của phương pháp phỏng vấn:
Ưu điểm:
+ Tỷ lệ trả lời phỏng vấn rất cao. Có thể nói sử dụng phương pháp này đạt hiệu quả cao nhất về
tỷ lệ câu trả lời. Những người không biết đọc, biết viết cũng có khả năng trả lời phỏng vấn. Hoặc

20
những người không muốn tốn thời gian để điền vào bảng hỏi cũng có thể hợp tác khi trả lời
phỏng vấn.
+ Có sự linh hoạt trong quá trình phỏng vấn. Dù là rất hạn chế, nhưng người phỏng vấn được
phép nhắc lại hoặc làm rõ hơn những câu hỏi mà người trả lời hiểu lầm.
+ Người phỏng vấn có thể quan sát các hành vi của người trả lời và đánh giá được tính hiệu quả
của câu trả lời.
+ Người phỏng vấn có thể ghi lại những câu trả lời mang tính bột phát. Những câu trả lời như thế
nhiều khi có độ tin cậy rất cao.
+ Người phỏng vấn có thể đảm bảo được quá trình phỏng vấn diễn ra giữa người phỏng vấn và
người trả lời phỏng vấn. Ở đây không có sự trả lời tập thể hay không có sự gợi ý, mớm lời từ câu
trả lời của người khác.
+ Người phỏng vấn có thể ghi lại một cách chính xác thời gian, địa điểm phỏng vấn. Nếu những
sự kiện quan trọng nào đó xảy ra trong quá trình nghiên cứu, người phỏng vấn có thể so sánh câu
trả lời trước và sau sự kiện đó.
+ So sánh với một số phương pháp khác, phương pháp phỏng vấn có thể thu được những thông
tin đầy đủ, sâu sắc và có thể hỏi được những câu hỏi phức tạp hơn.
+ Phương pháp phỏng vấn có tính hiệu quả và độ tin cậy cao.
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, phương pháp phỏng vấn có những nhược điểm nhất
định.
Nhược điểm:
+ Nếu điều tra viên không đủ khéo léo, họ sẽ khó có thể thiết lập được mối quan hệ với người
được phỏng vấn. Vì thế, nhiều khi họ không lấy được thông tin cần thiết.
+ Năng lực của mỗi phỏng vấn viên là hoàn toàn khác nhau. Vì thế khó có thể đảm bảo chắc chắn
rằng sự đặt vấn đề hay diễn đạt bảng hỏi là giống nhau đối với tất cả mọi người.
+ Nhiều khi trong quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn có thể sẽ giải thích hoặc gợi ý câu trả lời
hoặc ghi lại ý kiến của người trả lời cho hợp ý mình. Vì thế thông tin thu được kém hiệu quả.
+ Nếu địa bàn nghiên cứu trên một diện rộng, chi phí về thời gian và sức lực cho việc phỏng vấn
là rất lớn.
+ Phỏng vấn ở đây thực chất là mối quan hệ tương tác giữa người phỏng vấn và người được
phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn bắt buộc phải tiến hành một cách trực tiếp. Vì thế cho nên việc hẹn
gặp được người trả lời phỏng vấn là một vấn đề cũng rất khó khăn cho người phỏng vấn.
6.2.3. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động, trong những điều
kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan hệ nhân quả, tính quy
luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp lại nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một
cách khách quan các hiện tượng cần nghiên cứu.

21
Nghiên cứu thực nghiệm là các nghiên cứu nhằm tìm kiếm các nguyên nhân của các mối
quan hệ nhân quả bằng cách điều khiển một hay vài nhân tố trong khi đó lại kiểm soát các nhân
tố khác (giữ cho chúng không đổi).
Nhà thực nghiệm tạo ra các tình huống cần thiết để quan sát, nghiên cứu. Khi tạo ra các
tình huống nghiên cứu, các nhà thực nghiệm có thể kiểm soát được tình huống, thay đổi các tác
nhân để nghiên cứu các phản ứng, tìm hiểu nguyên nhân và lặp lại thực nghiệm nhiều lần để kiểm
tra.
Thực nghiệm tâm lý học có một số đặc điểm sau đây:
Đối tượng để làm thực nghiệm là con người ở các tầng lớp xã hội khác nhau với những
nhận thức nhất định về bản chất, về thế giới xung quanh và với những mối quan hệ xã hội đa
dạng, phức tạp.
Thực nghiệm Tâm lý học nghiên cứu mối quan hệ nguyên nhân và kết quả để đảm bảo có
được mối quan hệ nguyên nhân và kết quả thực nghiệm phải thiết lập được sự phối hợp giữa tác
nhân kích thích và phản ứng của đối tượng. Để thực hiện một thực nghiệm đầy đủ, trước hết cần
mô tả được các biến số được coi là tác nhân, quy định sự biến đổi của đối tượng. Những biến số
được coi là tác nhân (biến số độc lập) phải là nhân tố tương đối độc lập, nhân tố này gây nên sự
ảnh hưởng vốn có của nó đến đối tượng thực nghiệm. Biến số độc lập có thể là nhân tố mới đối
với đối tượng thực nghiệm nào đó mà nhà nghiên cứu mang vào áp dụng.
Ví dụ, trước khi nghiên cứu ở một doanh nghiệp chưa có chế độ trả lương theo sản phẩm,
nhà nghiên cứu giúp đỡ doanh nghiệp thực hiện chế độ trả lương đó, thì đó chính là nhân tố mới
với đối tượng thực nghiệm với tư cách là biến số độc lập.
Biến số phụ thuộc chính là nhân tố mà sự biến đổi của nó do biến số độc lập quy định.
Biến số phụ thuộc thực chất là phải chỉ ra được một vài sự biến đổi của đối tượng so với trước
khi thực nghiệm hoặc sự thay đổi của đối tượng trải qua thực nghiệm so với đối tượng không trải
qua thực nghiệm. Biến số phụ thuộc là nội dung chủ yếu của thực nghiệm.
Trong ví dụ trên, với việc áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm đã làm thay đổi thái độ
của người công nhân trong doanh nghiệp, từ đó dẫn đến việc nâng cao năng suất lao động, làm
thay đổi tinh thần đoàn kết trong doanh nghiệp, làm thay đổi ý chí vươn lên của mọi người v.v...
Những yếu tố được thay đổi như năng suất lao động, ý chí vươn lên, tinh thần đoàn kết v.v... đều
là những đặc điểm của đối tượng thực nghiệm và trong trường hợp này chính là các biến số phụ
thuộc.
Lựa chọn người để tiến hành thực nghiệm phụ thuộc trước hết vào mục đích, yêu cầu và
nội dung của thực nghiệm và phụ thuộc vào phương pháp quan sát để xác định. Để kiểm soát
được những thay đổi của kết quả chỉ do biến số độc lập của thực nghiệm gây ra, loại trừ được khả
năng có tính ngẫu nhiên, trong nhiều thực nghiệm, ngoài nhóm thực nghiệm người ta còn xác
định một nhóm khác gọi là nhóm đối chứng và nhóm đối chứng cần phải được thiết kế tương
đương nhau, vì điều đó tạo thuận lợi cho việc so sánh giữa hai nhóm này với nhau. Các thành

22
viên tham gia vào hai nhóm này cũng cần được phân chia theo nguyên tắc ngẫu nhiên hoàn toàn
không biết mình thuộc về nhóm thực nghiệm hay nhóm đối chứng. Việc quan sát thu thập thông
tin không chỉ dừng ở việc xem xét kết quả sau khi chịu tác nhân kích thích, mà cần phải thấy
được sự thay đổi của phản ứng (biến phụ thuộc) từ thời điểm trước khi có tác nhân kích thích và
thời điểm sau đó ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng.
Như vậy, một nghiên cứu được gọi là thực nghiệm nếu trong nghiên cứu đó có những đặc
tính cơ bản nhất là: 1) nghiên cứu phải có ít nhất một biến độc lập; 2) phải có ít nhất một biến
phụ thuộc; 3) trong nghiên cứu phải có một sự phân bổ ngẫu nhiên những người tham gia thành
những nhóm theo những điều kiện khác nhau của biến độc lập, nhà nghiên cứu đảm bảo được
mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố (nếu nghiên cứu được thực hiện tốt).
Có hai loại thực nghiệm cơ bản đó là: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng
thí nghiệm, trong đó thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện sống tự nhiên của đối
tượng nghiên cứu, những điều kiện tác động tổ chức một cách tự nhiên, người bị thực nghiệm
không biết mình đang được nghiên cứu. Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành
dưới điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài, người được nghiên
cứu biết rõ mình đang là đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên dù là thực nghiệm tự nhiên hay thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm đều khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố
chủ quan của người bị thực nghiệm vì thế phải tiến hành thực nghiệm qua một số lần và kết hợp
sử dụng các phương pháp khác.
6.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của con người
Nghiên cứu tìm hiểu tâm lý con người dựa trên phân tích sản phẩm do chính người đó làm
ra. Cơ sở của phương pháp này dựa trên quan điểm về hoạt động. Điều cần lưu ý khi tiến hành
phân tích sản phẩm là nhà nghiên cứu thu thập thông tin trên sản phẩm cuối cùng của khách thể,
do vậy chỉ có thể đánh giá một vài khía cạnh trong tâm lý người đó chứ không thể trọn vẹn được.
Trên thực tế, phân tích quá trình khách thể tạo ra sản phẩm cũng cung cấp được rất nhiều thông
tin hữu ích.
Đây là phương pháp dựa vào kết quả, sản phẩm vật chất hoặc tinh thần của hoạt động do
con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người đó. Trong sản phẩm chứa
đựng “dấu vết” tâm lý, ý thức, nhân cách của con người. Cần chú ý rằng sản phẩm của hoạt động
cần phải được xem xét trong điều kiện tiến hành hoạt động mới đảm bảo độ khách quan trong
nghiên cứu.
6.2.5. Phương pháp điều tra
Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến trong việc thu thập thông tin trong nghiên
cứu tâm lý học. Phương pháp điều tra bảng hỏi là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt
ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan về một vấn đề nào đó.
Trong phương pháp này người được hỏi tiến hành trả lời các câu hỏi bằng cách tự ghi ý
kiến của mình vào bảng hỏi (bảng anket). Người nghiên cứu không có được thông tin về hành vi

23
của người trả lời thu được thông qua quan sát, câu trả lời hoàn toàn phụ thuộc vào người được
hỏi, sự tiếp xúc trực tiếp giữa người nghiên cứu và người trả lời không có nên nội dung lời giải
thích, chỉ dẫn trong bảng hỏi là phương tiện duy nhất chỉ dẫn cho người trả lời, tạo nên ở họ sự
quan tâm, tích cức đối với cuộc điều tra ý kiến. Vì vậy bảng hỏi cần được xây dựng chi tiết rõ
ràng.
Hầu hết các câu hỏi được sử dụng trong bảng hỏi là câu hỏi đóng, hạn chế các câu hỏi mở
vì việc sử dụng câu hỏi tự ghi cho nghiên cứu với mục tiêu và giả thuyết nghiên cứu đã được xác
định một cách rõ ràng và mục tiêu của nghiên cứu chủ yếu hướng dẫn mặt định lượng nhằm đưa
ra những kết luận đối với vấn đề được nghiên cứu.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ưu điểm là nó cho phép tiến hành nghiên cứu trên
một địa bàn rộng, nhiều người tham gia như vậy có thể thu thập được ý kiến của một số lượng
lớn nghiệm viên. Bằng phương pháp này cũng cho phép thu được thông tin về nhiều sự kiện khác
nhau. Hơn thế trong tâm lý học có rất nhiều khía cạnh mà khi nghiên cứu chúng không thể không
sử dụng phương pháp bảng hỏi. Chẳng hạn như việc nghiên cứu tình cảm, động cơ, thái độ và
hứng thu người ta thường sử dụng phương pháp bảng hỏi. Trong đó các số liệu thu được không
những chỉ phản ảnh các hiện tượng xảy ra trong hiện tại mà cả trong quá khứ và trong tương lai.
Tuy nhiên, là một phương pháp nhằm thu thập thông tin sơ bộ, điều tra ý kiến bằng bảng
hỏi không tránh được những hạn chế nhất định. Số liệu của nó chủ yếu dựa vào tự quan sát của
người được hỏi. Những số liệu đó không những phụ thuộc vào suy nghĩ và tâm trạng của họ khi
trả lời mà còn phụ thuộc vào khả năng và cách thể hiện của họ kể cả trong điều kiện họ rất có
thiện chí trả lời. Vì thế sự chính xác của thông tin thu được, mức độ đầy đủ, sâu sắc của các câu
trả lời phụ thuộc rất nhiều vào việc người được hỏi có biết tự quan sát và trình bày đúng những
hiện tượng và quá trình xảy ra hay không.
Khả năng tích lũy được trong quá trình nghiên cứu tâm lý học của nhiều nhà nghiên cứu
cho thấy, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có thể đóng vai trò tích cực trong điều kiện so sánh
những thông tin thu được bằng phương pháp này với kết quả phân tích số liệu thống kê, với tài
liệu lưu trữ và tài liệu cá nhân, với những điều quan sát được của nghiệm thể. Đặc biệt cần tránh
tuyệt đối hóa phương pháp này, không nên sử dụng nó đối với những vấn đề mà ở đâu cần những
phương pháp khác để thu thập thông tin sơ bộ.
Một số vấn đề cần được lưu ý trong khi sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
- Ở giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu khi thăm dò để thành lập đề cương chỉ cần hỏi
trực tiếp. Với số liệu thu được có thể đưa ra những khía cạnh có liên quan đến đề tài cần nghiên
cứu và đặt giả thiết cho vấn đề. Lúc này nếu những người được hỏi là những người am hiểu họ có
thể cung cấp những thông tin chi tiết về những vấn đề mà người nghiên cứu quan tâm. Nếu
phương pháp bảng hỏi được chọn làm phương pháp nghiên cứu thì phương pháp phỏng vấn
thường được sử dụng để kiểm tra trước bảng hỏi

24
- Điều tra bằng bảng hỏi là công cụ tập hợp thông tin sơ bộ chủ yếu nhằm thu thập những
số liệu cho phép đo được mối quan hệ giữa các thành tố cần nghiên cứu. Khi đó việc chuẩn hóa
phương pháp điều tra ý kiến và xác định độ tin cậy của thông tin thu được có ý nghĩa quan trọng.
Nếu chương trình nghiên cứu dự định chọn phương pháp thực nghiệm thì điều tra ý kiến có thể
được sử dụng với mục đích làm rõ những tiêu chí của nhóm thực nghiệm cũng như sau khi đã kết
thúc.
- Điều tra bằng bảng hỏi có thể dùng để làm chính xác thêm, mở rộng thêm và kiểm tra
những số liệu thu được bằng phương pháp khác cũng như bằng các hình thức điều tra ý kiến
khác.
Việc điều tra bằng hình thức phân phát bảng hỏi cho khách thể được tiến hành một cách
hợp lí khi mà cần:
- Làm rõ thái độ của mọi người về vấn đề đang tranh luận hay về vấn đề cá nhân.
- Cần hỏi một số lượng rất lớn khách thể (từ hàng trăm đến hàng ngàn) trong thời gian
ngắn, đặc biệt trong trường hợp họ sinh sống trên phạm vi rộng lớn.
6.2.6. Phương pháp trắc nghiệm (Test)
Trắc nghiệm tâm lý nói chung (Psychological Test) là một công cụ đã được tiêu chuẩn
hóa, dùng để đo lường khách quan một hay nhiều khía cạnh của nhân cách hoàn chỉnh, qua
những mẫu trả lời bằng ngôn ngữ, hay phi ngôn ngữ hoặc những loại hành vi ngôn ngữ khác
(Freeman, 1971). Trắc nghiệm tâm lý được sử dụng chủ yếu trong chẩn đoán tâm lý con người.
Trắc nghiệm trọn bộ gồm 4 phần: văn bản Test; hướng dẫn qui trình tiến hành; hướng dẫn đánh
giá; bản chuẩn hóa.
Dựa vào nội dung đo lường các trắc nghiệm tâm lý được chia làm ba loại: những trắc
nghiệm về các trí tuệ, nhận thức, những trắc nghiệm về năng lực, những trắc nghiệm về nhân
cách và trắc nghiệm thành tích học tập.
- Các trắc nghiệm trí thông minh (Intelligence Tests) đo năng lực trí tuệ chung. Chúng dự
định đánh giá tiềm năng trí tuệ hơn là những kiến thức học được trước đây hoặc đã tích lũy được.
- Các trắc nghiệm về năng lực (Aptitude Tests) đánh giá các kiểu năng lực trí tuệ đặc biệt,
như năng lực cơ khí, năng lực ngôn ngữ, năng lực tri giác không gian...dùng để đo lường mức độ
phát triển của các khía cạnh riêng của trí tuệ, của các chức năng tâm lý, chúng đảm bảo tính hiệu
quả trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể. Nó dự báo một cá nhân sẽ làm được cái gì sau này, khi
đã đã được đào tạo phù hợp và có động cơ đúng đắn. Các trắc nghiệm này được dùng để khảo sát
những người xin việc và những người dự thi vào trường đại học.
- Các trắc nghiệm về nhân cách (personality Tests): các trắc nghiệm này thiết kế một tình
huống chuẩn hóa nhất có thể được để cho phép chỉ ra các đặc điểm tâm lý góp phần tạo nên cấu
trúc nhân cách.

25
- Các trắc nghiệm về thành tích học tập (Achievement Tests) đánh giá kiến thức về một
môn học nào đó, đo lường mức độ nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định. Loại trắc nghiệm
này được dùng để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
Trong phạm vi của phương pháp tiếp cận phóng ngoại, người ta phân loại các trắc
nghiệm như sau: các phương pháp động cơ của hành vi, cấu trúc nhận thức và nhân cách
(S.Rozensveig, 1964). Các kỹ thuật phóng chiếu được sử dụng để đánh giá một trạng thái tâm lý
bên trong mà bản thân cá nhân có thể không có ý thức về nó. Khác với các thang đo và các
phương pháp phỏng vấn, các phương pháp phóng chiếu không được cấu trúc với sự hỗ trợ của
những câu hỏi. Thực tế là chính cá nhân phóng chiếu những cảm nhận riêng và cách nhìn riêng
lên một đối tượng nào đó. Các kỹ thuật phóng chiếu trong trắc nghiệm tâm lý được sử dụng để
đánh giá một trạng thái tâm lý bên trong mà bản thân cá nhân có thể không có ý thức về nó. Đặc
điểm quan trọng đầu tiên của các phương pháp phóng chiếu là nhiều sự vật có thể được dùng như
tác nhân kích thích bên ngoài để gợi lên câu trả lời của người tham gia (giống như TAT), trong
khi các trắc nghiệm khác cho thấy một hình ảnh mờ nhạt (ví dụ như trắc nghiệm Ink-Blot, vết
mực loang). Thứ hai, câu trả lời của người tham gia có thể có các dạng thức khác nhau. Vì thế, cá
nhân có thể trả lời bằng cách viết hoặc sáng tác một câu chuyện (như trong trắc nghiệm TAT), vẽ
một bức tranh (như trong trắc nghiệm vẽ hình người Draw–a–Person), chơi với búp bê hoặc là trả
lời miệng nếu đó là một cuộc trò chuyện. Đặc điểm thứ ba là tác nhân kích thích càng mơ hồ và ít
có cấu trúc bao nhiêu, thì một người tham gia sẽ càng có xu hướng phóng chiếu những cảm xúc,
nhu cầu, thái độ và những giá trị của mình lên kích thích ấy bấy nhiêu. Tuy nhiên, một kích thích
nhập nhằng như vậy sẽ kéo theo một sự lý giải mang tính chủ quan hơn của các chuyên gia đánh
giá tâm lý.
Dựa vào hình thức thực hiện có các loại trắc nghiệm sau:
- Kiểu trắc nghiệm dành cho cá nhân hoặc kiểu trắc nghiệm dành cho nhóm.
- Kiểu sử dụng ngôn ngữ hay kiểu sử dụng các hành động thực thi.
- Kiểu trắc nghiệm viết hay trắc nghiệm nói.
- Kiểu trắc nghiệm cần đến những công cụ đặc biệt hay chỉ sử dụng các phương tiện
thông thường như giấy, bút (paper and pencil).
* Ưu và nhược điểm của trắc nghiệm
- Ưu điểm:
+ Trắc nghiệm có khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cần đo được trực tiếp bộc lộ qua
hành động giải bài tập test.
+ Có khả năng tiến hành nhanh, tương đối đơn giản bằng giấy, bút, tranh vẽ.
+ Có khả năng lượng hóa, chuẩn hóa hiện tượng tâm lý cần đo.
- Hạn chế:
+ Khó soạn thảo một bộ test chuẩn hóa.
+ Test chủ yếu cho ta kết quả, ít bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể đi đến kết quả.

26
Lưu ý: cần sử dụng phương pháp test như là một trong các cách chẩn đoán tâm lý con
người ở một thời điểm nhất định.
6.2.7. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study)
Nghiên cứu trường hợp là tìm hiểu sâu về một khách thể nghiên cứu. Phương pháp này
cho phép mô tả sâu chân dung những khách thể nghiên cứu để làm rõ hơn vấn đề dưới nhiều góc
độ khác nhau, phát hiện ra những khía cạnh đặc biệt trong tâm lý người hoặc minh họa cho
những kết quả thu được từ những phương pháp nghiên cứu khác.
Trong nghiên cứu trường hợp có thể phối hợp những phương pháp khác như phỏng vấn
hoặc dùng bảng hỏi để tìm hiểu lịch sử cá nhân tình trạng sức khỏe, các mối quan hệ, hoặc nghiên
cứu tài liệu các hồ sơ lưu trữ thông tin về cá nhân như phiếu khám sức khỏe, đơn thuốc, các loại
giấy tờ, bằng cấp; hoặc dùng quan sát ghi chép lại tất cả những hành vi quan sát được.
Đây là phương pháp thường được dùng trong những nghiên cứu về lâm sàng, chẳng hạn như tìm
hiểu về những rối loạn tâm lý. Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là mang tính chủ quan
khá cao vì nhà nghiên cứu sẽ có xu hướng lựa chọn thông tin thu thập được theo chiều hướng phù
hợp với những mong đợi, những lý thuyết họ đưa ra và từ một cá nhân thì không thể khái quát
hóa đại diện cho dân số được.
Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân cũng là một trong các phương pháp hỗ
trợ cần thiết trong nghiên cứu tâm lý. Phương pháp này xuất phát từ chỗ có thể nhận ra các đặc
điểm tâm lý cá nhân thông qua phân tích tiểu sử cuộc sống của cá nhân đó, góp phần cung cấp
một số tài liệu cho việc chẩn đoán tâm lý.
Tóm lại: Các phương pháp nghiên cứu tâm lý người khá phong phú. Mỗi phương pháp
đều có ưu và nhược điểm nhất định. Muốn nghiên cứu một hiện tượng tâm lý một cách khoa học,
khách quan, toàn diện cần lựa chọn các phương pháp nghiên cứu phù hợp với vấn đề nghiên cứu
và phối kết hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu.
7. VỊ TRÍ CỦA TÂM LÝ HỌC VÀ CÁC LĨNH VỰC CỦA TÂM LÝ HỌC
7.1. Vị trí của Tâm lý học
Tâm lý học là một ngành khoa học khá non trẻ nhưng lại chiếm vị trí quan trọng trong hệ
thống các khoa học và trong đời sống của con người vì mang tính thực tiễn cao. Tâm lý học ngày
nay phát triển và phân hóa theo hai hướng chính là chuyên sâu nghiên cứu về lý luận và vận dụng
thực hành.
Tâm lý học là một khoa học trung gian nằm giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên
(vì con người về bản chất là một thực thể xã hội nên Tâm lý học có tính chất của một khoa học xã
hội, về mặt giải phẫu sinh lý học là một thực thể tự nhiên do vật chất cấu thành nên tâm lý học có
tính chất của một khoa học tự nhiên).
7.2. Các lĩnh vực của Tâm lý học
- Tâm lý học sư phạm
- Tâm lý học lao động

27
- Tâm lý học kỹ sư
- Tâm lý học thể thao
- Tâm lý học y học
- Tâm lý học quản lý
- Tâm lý học pháp lý
- Tâm lý học tư pháp
- Tâm lý học tội phạm
- Tâm lý học quân sự, Tâm lý học lứa tuổi, Tâm lý học quản trị kinh doanh, Tâm lý học xã hôi,...
Tâm lý học đại cương là xương sống, trụ cột, không thể thiếu trong lĩnh vực Tâm lý học
bởi lẽ nó nghiên cứu những quy luật chung của sự hình thành, phát triển và hoạt động của tâm lý
con người.

28
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN

1. Trình bày tóm lược lịch sử của Tâm lý học


2. Xác định đối tượng và nhiệm vụ cơ bản của Tâm lý học.
3. Chỉ ra bản chất tâm lý người theo quan điểm duy vật biện chứng.
4. Lý giải tại sao tâm lý người này khác tâm lý người kia? Cho ví dụ minh họa.
5. Lý giải tại sao tâm lý người khác xa về chất so với tâm lý con vật?
6. Trình bày các nguyên tắc và phương pháp trong Tâm lý học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VẤN ĐỀ CHƯƠNG 1 (VẤN ĐỀ 1)

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội, 2011.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2005, 2013.
Tài liệu trực tuyến
+ tailieu.vn/doc/nentangtamlyhocdaicuong – phan 1- 1742781.html
+ luutruqtvp2011.forumvi.com/t8 –topic
+https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-xuan-thuc-1735833.html
+ https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-quang-uan-153195.html
+https://vietbooks.info/threads/bai-tap-thuc-hanh-tam-ly-hoc-nxb-dai-hoc-quoc-gia-
2002-tran-trong-thuy-215-trang.10463/

29
Chương 2. Ý THỨC VÀ VÔ THỨC

Sau khi học xong chương 2, sinh viên có khả năng:


Phân tích được khái niệm ý thức, vô thức, xác định rõ các thành phần cơ bản trong cấu
trúc của ý thức, các mức độ của ý thức. Chỉ ra được các yếu tố chi phối sự hình thành và phát
triển ý thức theo phương diện loài và phương diện cá nhân. Có khả năng nhận xét, đánh giá một
cách đúng đắn về ý thức của bản thân và người khác. Có thái độ sẵn sàng vận dụng kiến thức về ý
thức để bồi dưỡng ý thức học tập của bản thân, ý thức trong công việc và trong các mối quan hệ
xã hội cũng như ý thức nghề nghiệp.

2.1. Ý THỨC
2.1.1. Khái niệm ý thức
Đứng trước một sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan ta nhận ra khá rõ rệt, khá đầy
đủ bản thân ta có ý muốn này ý muốn kia, có xu hướng này hay xu hướng khác, dự kiến kết quả,
phân tích kết quả... khi đó ta có ý thức. Ý thức là gì?
Theo nghĩa rộng: ý thức là tinh thần, tư tưởng (ý thức kỷ luật, ý thức tổ chức, ý thức trách
nhiệm...) theo nghĩa hẹp ý thức là một cấp độ đặc biệt trong tâm lý con người.
Ý thức là năng lực hiểu được các tri thức về thế giới khách quan mà con người tiếp thu được
và năng lực hiểu được thế giới chủ quan trong chính bản thân mình nhờ đó con người có thể cải
tạo được thế giới khách quan và hoàn thiện bản thân mình.
Nếu cảm giác, tri giác, tư duy đem lại cho ta hình ảnh tâm lý (tri thức, hiểu biết về sự vật
hiện tượng tồn tại trong hiện thực khách quan) thì ý thức là năng lực hiểu biết, đánh giá các hình
ảnh ấy, các tri thức ấy, hiểu biết ấy.
+ Ý thức là sự phản ánh của phản ánh, hiểu biết của hiểu biết; tri thức về tri thức;
+ Ý thức là sự nhận thức về thế giới chủ quan: phân tích, hiểu rõ mình là người như thế nào?
Hành động đúng sai của bản thân, cần làm gì?... – TỰ Ý THỨC
2.1.2. Đặc điểm của ý thức
+ Là khả năng nhận thức cao nhất của con người về thế giới khách quan;
+ Thể hiện thái độ của con người đối với hiện thực;
+ Thể hiện chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người;
+ Có khả năng tự nhận thức, tự xác định thái độ và tự điều chỉnh hành vi, tự hoàn thiện mình.
2.1.3. Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một cấu trúc tâm lý khá phức tạp bao gồm nhiều mặt, ý thức là một chỉnh thể
mang lại cho thế giới tâm hồn con người một chất lượng hoàn toàn mới. Các thành phần trong
cấu trúc ý thức là:

30
- Mặt nhận thức: Các quá trình nhận thức cảm tính là tầng bậc thấp nhưng nó là cơ sở, nền
tảng của ý thức, nó mang lại tài liệu đầu tiên cho ý thức. Nhận thức cảm tính giúp con người phản
ánh những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng. Các quá trình nhận thức lý tính là hạt nhân
của ý thức, nó đem lại cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan.
Nhận thức lý tính giúp cho con người hình dung ra trước kết quả của hoạt động và hoạch định kế
hoạch hành vi cá nhân.
Ví dụ: Khi tham gia giao thông đường bộ, bằng nhận thức cảm tính (bằng giác quan nhìn)
quan sát tín hiệu đèn hoặc hướng dẫn của cảnh sát giao thông để định hướng hành vi di chuyển
hay dừng lại theo đúng quy định. Mặt khác, bằng khả năng nhận thức của tư duy về vấn đề an
toàn khi tham gia giao thông, dự báo những tình huống xấu có thể xảy ra giúp cá nhân điều khiển
hành vi của mình một cách an toàn, hiệu quả.
- Mặt thái độ: Nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ thể đối với
thế giới. Thái độ được thể hiện chân thực, đúng lúc, đúng chỗ là động lực, điều kiện thuận lợi cho
tiến hành công việc đạt kết quả cao hơn.
Ví dụ: Sinh viên có thái độ nghiêm túc khi thực hiện thời gian biểu đã lập để đạt được mục
tiêu học tập của học kỳ hay của năm học, không thờ ơ, dễ dãi với bản thân làm cản trở mục tiêu
đã định. Kiềm chế những ham muốn, nhu cầu nhất thời để vượt mọi khó khăn trong học tập để
lập nghiệp sau này.
- Mặt năng động của ý thức: Là khả năng điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người
làm cho hoạt động đạt kết quả cao. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết của mình
và tỏ thái độ của mình nhằm thích nghi, cải tạo thế giới, cải tạo chính bản thân.
Ví dụ: Sinh viên xác định nguyên nhân chính dẫn đến kết quả học tập của họ kém như lười
học, phương pháp học tập chưa phù hợp,... từ đó giúp họ định hướng các biện pháp khắc phục
như cần chuyên tâm học tập, thay đổi phương pháp học,...
Ngoài ba mặt cơ bản trên cấu thành nên cấu trúc ý thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú... đều có
vị trí nhất định trong cấu trúc của ý thức.
Nhờ có ý thức mà đã mang lại cho con người một thế giới tâm hồn phong phú, làm cho cuộc
sống của mỗi cá nhân có ý nghĩa cho chính bản thân mình và cho mọi người, cho xã hội.
2.1.4. Các cấp độ của ý thức
a. Cấp độ ý thức cá nhân
Ở cấp độ ý thức, cá nhân có khả năng nhận thức, tỏ thái độ có chủ đích và dự kiến trước
hành vi của mình, từ đó có thể kiểm soát và làm chủ hành vi làm cho hành vi trở lên có ý thức.
Ví dụ: Sinh viên xác định rõ tầm quan trọng của việc học tập ở đại học, họ có thái độ yêu
thích ngành nghề, môn học, có thái độ nghiêm túc khi thực hiện các nội quy học tập của nhà
trường, thời gian biểu của bản thân và luôn vạch kế hoạch học tập cụ thể cho từng học kỳ phù
hợp với điều kiện khách quan và điều kiện thực tế của bản thân để thực hiện, điều đó chứng tỏ
sinh viên đó có ý thức trong học tập.

31
Ý thức có những đặc điểm sau:
- Các hiện tượng có ý thức đều được chủ thể nhận thức: chủ thể biết rõ mình đang làm gì,
nghĩ gì.
- Ý thức bao hàm thái độ của chủ thể đối với đối tượng đã được nhận thức. Thái độ đó là
động cơ của hành vi có ý thức.
- Ý thức được thể hiện ở tính có chủ đích và dự kiến trước hành vi. Đặc điểm này phân
biệt bản chất hành động của con người với hành vi của con vật.
+ Tự ý thức
Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức, bắt đầu hình thành từ tuổi lên 3 nhưng trải
qua suốt tuổi thiếu niên và thanh niên mới hình thành và định hình.
Tự ý thức là ý thức về bản thân mình, có nghĩa là khi bản thân trở thành đối tượng “mổ
xẻ”, phân tích, lý giải,... thì lúc đó, con người đang tự ý thức.
Ở cấp độ tự ý thức con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ tâm và dự kiến trước hành vi
của minh, làm cho hành vi trở nên có ý thức.Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý
thức bắt đầu hình thành ở tuổi lên 3. Tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình (bề ngoài, nội dung tâm hồn)
- Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá
- Tự điều khiển, tự điều chỉnh hành vi của mình theo mục đích tự giác
- Cá nhân có khả năng tự giáo dục và tự hoàn thiện mình.
b. Cấp độ ý thức nhóm và ý thức tập thể
Trong hoạt động và giao tiếp xã hội, ý thức của cá nhân hình thành và phát triển trong
nhóm tạo thành ý xã hội (hay còn gọi là ý thức nhóm, ý thức tập thể, ý thức cộng đồng). Ý thức
nhóm, tập thể, ý thức xã hội có ảnh hưởng g và chi phối lớn đến ý thức, hành vi của cá nhân.
Ở cấp độ này, con người hoạt động không theo nhu cầu, hứng thú, quan điểm, của cá nhân
mà xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của nhóm, của cộng đồng. Thông qua ý thức nhóm, ý thức cộng
đồng giúp cá nhân sống vì người khác, hòa nhập để cùng phát triển.
Các cấp độ của ý thức không tồn tại biệt lập, tách rời mà luôn tác động lẫn nhau, chuyển
hóa và bổ sung cho nhau làm tăng tính đa dạng của ý thức. Sự phát triển của các cấp độ ý thức từ
mức độ thấp đến cao là dấu hiệu quan trọng nhất của sự phát triển nhân cách.
2.1.5. Quá trình hình thành và phát triển ý thức
a. Sự hình thành và phát triển ý thức trong quá trình xuất hiện và phát triển của xã hội loài
người (theo phương diện loài)
Nghiên cứu về vấn đề này, hai câu hỏi được đặt ra là: Tại sao ý thức chỉ có ở con người
mà không xuất hiện ở con vật? Ý thức đã xuất hiện và phát triển ở loài người như thế nào?
Con người mới sinh ra chưa có ý thức, ý thức được hình thành trong cuộc sống của mỗi cá
nhân, kể từ khi con người có ngôn ngữ. Bộ não của con người là một tổ chức vật chất đặc biệt, có
tổ chức cao nhất trong hệ động vật. Ý thức gắn liền với sự sống, với các quá trình, trạng thái,

32
thuộc tính tâm lý. Ý thức mang lại một chất lượng mới cho các phản ánh tâm lý. Chất lượng mới
này xuất hiện để đáp lại yêu cầu mới hoàn cảnh sống, của xã hội. Các yêu cầu mới đó là con
người không thể chỉ thích ứng một cách thụ động đối với ngoại giới, không chỉ lấy những gì có
sẵn trong tự nhiên, mà phải tác động biến đổi thế giới để tạo ra những sản phẩm để thoả mãn, đáp
ứng nhu cầu của mình. Hoàn cảnh mới, yêu cầu mới được nảy sinh trong hoạt động lao động, sau
lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ là hai yếu tố tạo nên sự hình thành ý thức của con
người.
* Vai trò của lao động đối với sự hình thành, phát triển ý thức con người.
Trước khi lao động đòi hỏi con người phải hình dung ra trước kết quả lao động, hình dung ra
cái cần làm ra, cách làm ra cái đó, trên cơ sở huy động toàn bộ vốn hiểu biết, năng lực của mình
để làm ra sản phẩm. Con người có ý thức về sản phẩm cuối cùng của hoạt động cần làm ra, cần
chiếm lĩnh.
Trong lao động con người phải sử dụng đồng thời phải chế tạo ra công cụ lao động, tiến
hành các thao tác và hành động lao động tác động vào đối tượng lao động để làm ra sản phẩm. ý
thức của con người được hình thành và thể hiện trong lao động, thống nhất với quá trình lao động
và là sản phẩm của lao động.
* Vai trò của ngôn ngữ và giao tiếp đối với sự hình thành ý thức
Lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ có vai trò quan trọng đối với sự hình thành
và phát triển ý thức con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có công cụ để xây dựng, hình
dung ra mô hình tâm lý của sản phẩm. Ngôn ngữ với tư cách là một tổ hợp các từ ngữ theo cấu
trúc nhất định (câu, đoạn văn...) phản ánh kết quả của quá trình nhận thức thế giới khách quan.
Mỗi người dùng vốn từ ngữ chung để phân tích ý nghĩ, hành động... của bản thân, ngôn ngữ giúp
con người phân tích, đối chiếu, đánh giá sản phẩm của mình làm ra.
Ngoài lao động, ngôn ngữ thì giao tiếp cũng giữ một vai trò quan trọng đối với sự hình thành
ý thức con người. Giao tiếp giúp con người thông báo, trao đổi thông tin với nhau, phối hợp động
tác với nhau để cùng làm ra sản phẩm chung. Nhờ có giao tiếp mà con người ý thức về bản thân
mình, ý thức về người khác.
b. Sự hình thành và phát triển ý thức trong cuộc đời mỗi người (theo phương diện cá nhân)
Các đặc điểm sinh học của cá nhân mà trước hết là đặc điểm của hệ thần kinh, của não, là
nền tảng tự nhiên của sự hình thành và phát triển ý thức cá nhân.
Ý thức cá nhân được hình thành trong hoạt động cá nhân và được biểu hiện thông qua
chính sản phẩm của hoạt động đó, cá nhân đem toàn bộ vốn kinh nghiệm, năng lực tiềm tàng của
thần kinh cơ bắp, hứng thú, nguyện vọng, sự sáng tạo... của bản thân thể nghiệm trong quá trình
làm ra sản phẩm. Trong sản phẩm của hoạt động chứa đựng bộ mặt tâm lý, ý thức của cá nhân.
Như vậy, tâm lý, ý thức của cá nhân được hình thành thông qua một hệ thống hoạt động đa dạng,
phong phú trong cuộc sống thực tiễn.

33
Ý thức cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp giữa bản thân với người khác,
với xã hội. C. Mác và F. Ănghen đã viết: “Sự phát triển của một cá thể phụ thuộc vào sự phát
triển của nhiều cá thể khác mà nó giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp (C. Mác và F. Ănghen. Toàn
tập. Tập III). Trong quan hệ giao tiếp cá nhân đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực đạo
đức xã hội để có ý thức về người khác, về bản thân.
Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hoá xã hội, ý thức xã hội.
Mỗi cá nhân tiếp thu, lĩnh hội các chuẩn mực xã hội, các định hướng giá trị xã hội thông qua các
hình thức hoạt động đa dạng, bằng con đường dạy học, giáo dục và quan hệ giao tiếp trong xã
hội.
Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự đánh giá, phân tích hành vi
của mình. Trong quá trình hoạt động, giáo dục, lao động, giao tiếp cá nhân sẽ hình thành ý thức
về chính bản thân mình (tự ý thức) trên cơ sở đối chiếu bản thân với người khác để từ đó cá nhân
tự giáo dục và tự hoàn thiện mình.
2.1.6. Ý thức trong lĩnh vực pháp luật
Trong lĩnh vực pháp luật; luật sư và những nhà chức trách thực hiện pháp luật thường
xuyên giải quyết các vấn đề liên quan đến ý thức của cá nhân, các tổ chức xã hội.
Giáo dục ý thức pháp luật cho công dân để nâng cao kiến thức, hiểu biết về pháp luật để
có hành vi đúng đắn thông qua các biện pháp tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tác động đến 3
mặt cốt lõi của ý thức pháp luật (nhận thức, thái độ, hành động thực hiện pháp luật), đặc biệt giáo
dục thông qua hành vi theo một chế tài nghiêm ngặt.
2.2. VÔ THỨC
2.2.1. Định nghĩa vô thức
Tâm lý con người vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Trong đó có những hiện tượng
tâm lý có ý thức, có những hiện tượng tâm lý vô thức (chưa có ý thức diễn ra).
Trong cuộc sống ta thường gặp những hiện tượng tâm lý diễn ra mà cá nhân chưa nhận thức
được. Hiện tượng tâm lý không ý thức được, chưa nhận thức được trong tâm lý học gọi là vô
thức.
Vô thức là tập hợp những hiện tượng, những hành vi mà chủ thể không có nhận thức,
không tỏ được thái độ và không thể thực hiện được sự kiểm tra có chú ý đối với chúng.
Ví dụ: Người mộng du vừa đi vừa ngủ trên mái nhà, dây điện; người bị bệnh tâm thần; người
say rượu, người bị thôi miên,... họ không nhận thức được mình đang làm gì tức là họ đang rơi vào
trạng thái vô thức.
Vô thức có đặc điểm sau:
Cá nhân không nhận thức được hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của mình, không
diễn đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu. Vì vậy vô thức không kèm theo
sự dự kiến trước, không có chủ đích. Sự xuất hiện hành vi vô thức thường đột ngột, bất ngờ nảy
sinh trong thời gian ngắn.

34
2.2.2. Các hiện tượng vô thức
+ Vô thức ở tầng bản năng: bản năng dinh dưỡng, tự vệ,...
+ Hiện tượng lóe sáng: hiện tượng bất chợt con người nhận ra nó;
+ Hiện tượng linh cảm;
+ Tiềm thức: ban đầu có ý thức, do lặp đi lặp lại, không cần sự xuất hiện của ý thức: Kỹ
năng, kỹ xảo, thói quen,... Tiềm thức chỉ đạo tư duy, hành động tới mức không cần ý thức tham
gia.
+ Tiền ý thức: trước khi ý thức xuất hiện;
+ Ức chế thần kinh: mộng du, mơ, bị thôi miên,...
2.2.3. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức
Giữa ý thức và vô thức có mối quan hệ chặt chẽ và phức tạp vừa xung đột, kiềm chế, vừa
bổ sung hỗ trợ, chuyển hóa cho nhau.
+ Ý thức kiểm duyệt, kiềm chế hành vi được thúc đẩy bởi các động cơ vô thức
+ Ý thức có thể biểu hiện thông qua vô thức
+ Chúng có thể chuyển hóa cho nhau
+ Tương quan giữa ý thức và vô thức biến đổi trong cuộc đời của của con người
+ Chúng không tồn tại một ranh giới rõ ràng.
2.2.4. Vô thức trong đời sống và trong lĩnh vực pháp luật
+ Sử dụng tư duy vô thức để giải quyết các vấn đề của cuộc sống
+ Sử dụng trong quảng cáo, tuyên truyền
+ Trong giáo dục, học tập
+ Trong trị liệu tâm lý
+ Trong lĩnh vực pháp luật: Phân tích hành vi phạm tội, phòng ngừa tội phạm.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN


1. Ý thức là gì? Phân tích các đặc điểm của ý thức
2. Chỉ ra sự hình thành ý thức con người theo phương diện loài và phương diện cá nhân.
3. Xác định các cấp độ của ý thức
4. Phân tích mối quan hệ giữa ý thức và vô thức
5. Vai trò của vô thức trong cuộc sống.
4. Đánh giá ý thức học tập ở đại học của bản thân dựa vào các thành phần của cấu trúc ý thức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình tâm lí học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2013, Chương I và II
- Giáo trình tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội
2005, Chương I, II (tr. 7 – 50).

35
Chương 3. CHÚ Ý
Mục tiêu của chương:
Nêu được khái niệm, vai trò, 5 thuộc tính của chú ý.Trình bày được cách phân loại và
nhận diện được 5 loại chú ý.
Phân tích được vai trò của chú ý trong cuộc sống và trong lĩnh vực pháp lý. Phân tích
được ưu điểm và hạn chế của mỗi loại chú ý.
Biết cách rèn luyện chú ý. Biết sử dụng tri thức về chú ý trong công việc để nâng cao hiệu
quả của công việc.
Nội dung chính:
1. Khái niệm chú ý
2. Các thuộc tính của chú ý
3. Phân loại chú ý
4. Chú ý trong lĩnh vực pháp lý

1. KHÁI NIỆM CHÚ Ý


1.1. Định nghĩa chú ý
Trong môi trường xung quanh luôn có vô vàn sự vật tác động vào nhưng chúng ta không
thể quan tâm hết tất cả sự vật trong cùng một lúc. Con người phải chọn lựa, biết tập trung và quan
tâm vào các đối tượng có liên quan đến những nhiệm vụ, những hoạt động cần phải tiến hành.
Hiện tượng này được gọi là chú ý.
Chú ý là sự tập trung của hoạt động tâm lý vào một hoặc một số đối tượng nào đó, nhằm
phản ánh chúng một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để định hướng
hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả.
Chú ý là một trạng thái tâm lí tham gia vào mọi quá trình tâm lí, tạo điều kiện cho
một/một số đối tượng được phản ánh tốt nhất. Nói chú ý là trạng thái tâm lí vì chú ý luôn đi
kèm với các quá trình tâm lí khác. Bản thân chú ý không tồn tại độc lập, nó cũng không có
sản phẩm mà chỉ làm nền cho các quá trình tâm lí. Chú ý được ví như ngọn đèn pha, chiếu rọi
vào một đối tượng nào đấy, giúp cho các quá trình tâm lí đạt hiệu quả cao.
Chú ý có sự biểu hiện bề ngoài: ở nét mặt, động tác của con người. Có lúc sự chú ý
hướng vào đối tượng bên ngoài, cũng có lúc lại hướng vào nội tâm. Trong thực tế, đôi khi có
sự không tương đồng giữa sự biểu hiện của chú ý với trạng thái thực của nó. Có người nhìn
bề ngoài có vẻ chăm chú theo dõi đối tượng, ví dụ nghe giảng, nhưng thực ra họ lại đang
chú ý đến đối tượng khác. Ngược lại, có người tưởng chừng lơ đãng nhưng họ lại đang chú ý
cao độ.
1.2. Vai trò của chú ý
Chú ý là một trạng thái tâm lý thường xuất hiện song hành với các hoạt động tâm lý mà
chủ yếu là các hoạt động nhận thức. Chú ý là nền tảng để hoạt động nhận thức diễn ra một cách

36
dễ dàng, nhanh chóng và chính xác hơn. Khi đi với quá trình nhận thức thì chú ý “hỗ trợ” con
người nhận biết được một cách dễ dàng hơn các thuộc tính của sự vật, phát hiện ra vấn đề và từ
đó có nhu cầu tiến hành hoạt động tư duy để giải quyết chúng. Chú ý không có đối tượng riêng,
đối tượng của nó chính là đối tượng của hoạt động tâm lý mà nó xuất hiện cùng. Chẳng hạn, khi
học sinh giải một bài toán thì đối tượng chú ý của học sinh lúc bấy giờ chính là nội dung và các
dữ kiện bài toán đưa ra.
Chú ý là điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động. Do tính chọn lọc của chú ý, nên nó
giúp cho hoạt động tâm lý ở người tập trung vào đối tượng này mà bỏ qua hoặc xao lãng đối
tượng khác. Nhờ vậy, hoạt động tâm lý có ý thức hơn, các hoạt động tập trung hơn, kết quả hoạt
động sẽ cao hơn.
Chú ý xuất hiện trong HĐ tư pháp như một thành tố cơ bản không thể thiếu.
Chú ý giúp cán bộ tư pháp tập trung nhận thức đến các tình tiết, thông tin cần thiết, đảm
báo tính khách quan, đúng đắn của hoạt động nhận thức, phát huy sự nỗ lực tập trung các yếu tố
tâm lý cần thiết trong thi hành công vụ nhằm đạt kết quả tốt.
Nếu cán bộ tư pháp định hướng chú ý của các chủ thể tham gia tố tụng phù hợp sẽ đảm
bảo tính đúng đắn trong lời khai, việc thu thập thông tin đạt kết quả.
2. CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHÚ Ý
2.1. Tính khối lượng của chú ý
Khối lượng của chú ý được đo bằng số lượng đối tượng mà chú ý hướng tới trong thời
gian ngắn
Khối lượng của chú ý là khối lượng của đối tượng có thể được tri giác cùng một lúc với
mức độ rõ ràng và rành mạch như nhau tại một thời điểm nhất định.
2.2. Sự phân phối chú ý
Sự phân phối chú ý bộc lộ khả năng trong cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng
hay nhiều hoạt động khác nhau một cách có chủ định. Các đối tượng chính được chú ý nhiều hơn
những đối tượng khác chứ không phải là phân chia chú ý một cách đồng đều cho mọi đối tượng
hoạt động. Sự phân phối chú ý không có mâu thuẫn với sức tập trung chú ý vì trong phân phối
chú ý cũng có sự tập trung chú ý vào hoạt động mới.
2.3. Sức tập trung của chú ý
Ở một thời điểm, con người có khả năng tách một số đối tượng cần thiết ra khỏi vô vàn
các đối tượng khác để chú ý sâu vào đối tượng đã chọn. Chẳng hạn như học sinh có thể tập trung
vào việc viết bài mà không nhận ra tiếng chuyển động của đồng hồ quả lắc vẫn vang đều. Sức tập
trung của chú ý là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng hẹp cần thiết cho hoạt động ở thời
điểm đó nhằm phản ánh đối tượng tốt nhất. Sức tập trung của chú ý khiến con người bị “hút” vào
đối tượng, nhờ đó tập trung cao độ dẫn đến hiệu quả trong công việc tốt hơn.
2.4. Tính bền vững của chú ý
Tính bền vững của chú ý bộc lộ khả năng duy trì lâu dài chú ý vào một hay một số đối tượng của
hoạt động. Ngược với sự bền vững chú ý là sự phân tán chú ý, sự phân tán chú ý diễn ra theo chu
37
kỳ, xen kẽ giữa sự bền vững và phân tán chú ý gọi là sự dao động chú ý. Tính bền vững của chú ý
không mâu thuẫn với sức tập trung chú ý và sự di chuyển của chú ý. Đặc điểm cá nhân, điều kiện
khách quan của hoạt động chi phối đến sự bền vững của chú ý.
2.5. Sự di chuyển chú ý
Sự di chuyển chú ý bộc lộ khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác kịp
thời đáp ứng nhiệm vụ của hoạt động mới. Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững
của chú ý và cũng không phải là phân tán chú ý. Nó được di chuyển từ đối tượng này sang đối
tượng khác một cách có ý thức và khi chuyển sang đối tượng chú ý mới thì chú ý được tập trung
với cường độ cao.
Những thuộc tính cơ bản trên của chú ý đều có vai trò nhất định đối với hoạt động của con
người. Mỗi thuộc tính đều có thể giữ vai trò tích cực hoặc không tích cực. Tuy nhiên, giữa chúng
lại có quan hệ bổ sung cho nhau, khắc phục cho nhau nếu biết sử dụng, phối hợp các đặc điểm ấy
thì hoạt động sẽ được tiến hành một cách hiệu quả. Chú ý có liên quan đến tất cả các quá trình
tâm lý ở con người mà đặc biệt là quá trình nhận thức. Chú ý góp phần thu thập dữ liệu một cách
đầy đủ và chính xác để điều chỉnh và thúc đẩy hoạt động nhận thức của con người. Sự phát triển
trí tuệ của con người được thực hiện bằng con đường lĩnh hội các tri thức do loài người tạo ra
trong quá trình phát triển xã hội - lịch sử dựa trên nền tảng của sự chú ý. Chính sự chú ý “đi kèm”
với các quá trình nhận thức ấy đã tạo điều kiện sự lĩnh hội diễn ra một cách phù hợp và đạt được
hiệu quả tối ưu. Vì vậy, có thể xem chú ý là một thành phần quan trọng trong hoạt động nhận
thức của con người.
3. PHÂN LOẠI CHÚ Ý
3.1. Căn cứ vào tính tích cực của con người trong việc tổ chức chú ý
3.1.1. Chú ý không chủ định
Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần sự nỗ lực của
bản thân, không sử dụng một biện pháp thủ thuật nào mà vẫn chú ý được vào đối tượng.
Chú ý không chủ định có thể xuất hiện tùy thuộc vào một số đặc điểm của kích thích:
- Độ mới lạ của kích thích: Vật kích thích càng mới, càng dễ ra chú ý không chủ định;
ngược lại, vật kích thích càng rập khuôn bao nhiêu thì càng mau mất chú ý không chủ định bấy
nhiêu.
- Cường độ kích thích: Kích thích càng mạnh thì dễ tạo ra chú ý không chủ định, nhưng kích
thích quá mạnh sẽ tạo ra phản ứng ngược, chú ý sẽ bị ức chế. Tuy nhiên, chú ý phụ thuộc vào
cường độ kích thích chỉ mang tính chất tương đối. Bởi vì chú ý còn chịu ảnh hưởng của các hiện
tượng tâm lý và sinh lý khác, như hứng thú, nhu cầu, xúc cảm.
- Độ hấp dẫn của vật kích thích: Đặc điểm này tổng hợp của hai đặc điểm trên thể hiện ở
mức độ phù hợp với người bị tác động, gây ra sự tò mò, thích thú, thu hút sự chú ý của người đó.

38
3.1.2. Chú ý có chủ định
Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích tự giác, có biện pháp để hướng chú ý vào đối
tượng, đòi hỏi một sự nỗ lực nhất định. Chú ý có chủ định không tùy thuộc vào đối tượng mới lạ
hay quen thuộc, có cường độ kích thích mạnh hay yếu, hấp dẫn hay không hấp dẫn, ta tập trung
vào đối tượng hay sự vật để tiến hành một hoạt động tương ứng theo một động cơ nhất định, bao
gồm các hành động nhằm vào một mục đích nhất định.
Chú ý có chủ định có những đặc điểm cơ bản sau:
- Có mục đích tự giác, có kế hoạch biện pháp để chú ý.
- Có liên quan chặt chẽ với hệ thống tín hiệu thứ hai, tình cảm, hứng thú của cá nhân.
- Tính bền vững cao.
- Đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định của chủ thể để khắc phục những trở ngại bên ngoài hoặc bên
trong của chủ thể.
Chú ý có chủ định đóng vai trò rất quan trọng trong các quá trình nhận thức, nó là nền tảng
đề quá trình nhận thức, nó giúp cung cấp các dữ kiện một cách hợp lý và chính xác để nhận thức
có thể đạt được hiệu quả tối ưu. Mặt hạn chế của chú ý có chủ định là nếu chú ý lâu sẽ tính ra mệt
mỏi, căng thẳng thần kinh, giảm hứng thú hoạt động.
3.1.3 Chú ý sau chủ định
Chú ý sau chủ định thật chất là chú ý có chủ định nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng về ý
chí, con người bị cuốn hút vào nội dung và phương thức hoạt động bởi sự hấp dẫn của đối tượng
tới mức không cần sự cố gắng, sự căng thẳng thần kinh và sự nỗ lực của ý chí.
Ba loại chú ý trên có liên quan với nhau, có thể mở đầu bằng chú ý không chủ định, rồi tiếp
theo là chú ý có chủ định và có thể kết thúc là chú ý sau chủ định. Mỗi loại đều giữ một vai trò
nhất định trong hoạt động của con người, trong đó chú ý sau chủ định là loại chú ý cần hình thành
trong hoạt động nhận thức của con người.
3.2. Căn cứ vào đối tượng mà chú ý hướng tới
3.2.1. Chú ý bên ngoài
Là loại chú ý hướng vào các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Là loại chú ý đòi
hỏi phải sử dụng các giác quan (thị giác, thính giác,...)
Đối tượng gây ra chú ý bên ngoài:
+ Các kích thích có cường độ mạnh như âm thanh mạnh, ánh sáng chói, mùi khó chịu...
+ Các kích thíc có sự mới lạ
+ Đặc biệt trật tự sắp xếp, cấu tạo của kích thích.
3.2.2. Chú ý bên trong
Chú ý bên trong: Là loại chú ý mà hoạt động tâm lý cá nhân hướng vào thế giới nội tâm và
ý thức bản ngã của mình.
+ Đối tượng của chú ý bên trong: cảm xúc, hồi tưởng, suy nghĩ, tư duy, ... của cá nhân.
+ Chú ý bên trong chỉ có ở con người.

39
CHƯƠNG 4. HOẠT ĐỘNG, HÀNH ĐỘNG VÀ HÀNH VI
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm hoạt động
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người và thế giới xung quanh,
hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Hoạt động diễn ra 2 quá trình:
* Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hoá, trong đó chủ thể chuyển những cái của mình
thành sản phẩm của hoạt động. Nói một cách khác, tâm lý (tri thức, hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo,...)
của cá nhân được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm. Quá trình đối
tượng hoá còn có thể gọi là quá trình xuất tâm.
* Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hoá, có nghĩa là khi hoạt động con người biến những cái
từ bên ngoài HTKQ thành những cái của chủ thể. Trong hoạt động, cá nhân khám phá ra bản
chất, quy luật của đối tượng, tìm ra được các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để tác động đến đối tượng.
Tất cả những cái đó cá nhân lĩnh hội, tái tạo và biến chúng thành cái của chủ thể. Quá trình chủ
thể hoá còn có thể gọi là quá trình nhập tâm.
Như vậy, tâm lý, ý thức, nhân cách con người được bộc lộ, thể hiện và hình thành cũng
như phát triển, biến đổi thông qua hoạt động.
2. Khái niệm hành động
2.1. Định nghĩa hành động
Hành động là một bộ phận cấu thành hoàn chỉnh của hoạt động, hướng tới đạt được mục
đích cụ thể.
+ Là đơn vị của Hoạt động
+ Một hành động có cấu tạo đầy đủ: động cơ, mục đích, thao tác và sản phẩm
+ Hành động nhằm thực hiện một nhiệm vụ, mục đích nhất định
+ Hành động thể hiện tính tích cực bên ngoài (tích cực vận động) và bên trong (tích cực
tâm lý) và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết.
2.2. Cấu trúc của hành động

40
2.3. Phân loại hành động
+ Căn cứ vào xu hướng của hành động: Hành động thể chất và hành động trí tuệ
+ Căn cứ vào mức độ kiểm soát của chủ thể: hành động bản năng, phản xạ, xung động và hành
động ý chí
3. Hành vi
Theo thuyết hành vi (Wattson, 1913): Hành vi là tổng hợp các phản ứng của cơ thể trước
các kích thích của môi trường bên ngoài, theo công thức S – R (có kích thích thì có phản ứng
không liên quan gì đến ý thức và chuẩn mực xã hội ).
Theo TLH hiện đại, Rubinstein, Leonchiev,... Hành vi được hiểu là hành động, hoạt động
được chuyển thành hành vi khi động lực của hoạt động từ bình diện đối tượng chuyển sang quan
hệ cá nhân- xã hội.
Hành vi là xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng
lời nói, cử chỉ, việc làm nhất định.
+ Hành vi gắn với kỹ thuật – xử sự của cá nhân
+ Hành vi gắn với nội dung xã hội nhất định - cách xử sự (cách cư xử).

41
Cách xử sự là hành vi thể hiện quan điểm, thái độ của chủ thể đối với người khác, với xã
hội, với các chuẩn mực đạo đức của xã hội.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG
1. Tính đối tượng
Đối tượng là cái con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh. Đó là động cơ của hoạt động,
chính động cơ này là động lực luôn thúc đẩy con người hoạt động một cách tích cực, tác động
vào khách thể, làm biến đổi khách thể tạo ra sản phẩm cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu trực tiếp
hoặc gián tiếp của con người, hoặc tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc mình, tạo cho con người một
cấu tạo tâm lý mới, một năng lực mới, hay tâm lý, ý thức, nhân cách cá nhân được bộc lộ, hình
thành và biến đổi thông qua hoạt động và được đánh giá qua sản phẩm của hoạt động mà do
chính con người làm ra.
Trong nhiều hoạt động mà đối tượng của hoạt động đó không có sẵn mà là một cái gì đó
đang xuất hiện ngay trong quá trình hoạt động như trong hoạt động học tập, nghiên cứu mà con
người tìm ra một chân lý mới, một phương pháp nghiên cứu mới.
2. Tính chủ thể
Một hoạt động được tiến hành bao giờ cũng do một cá nhân nào đó hay một nhóm người
nào đó, hay cá nhân đó, nhóm người đó chính là chủ thể của hoạt động. Muốn hoạt động đem lại
hiệu quả cao hay thực hiện được mục đích của hoạt động thf chủ thể tham gia phải tích cực, chủ
động, năng động, sáng tạo trong quá trình tác động vào khách thể hay tác động vào hiện thực,
không thể là chủ thể thụ động hay bị động chịu sự tác tác động của hiện thực.
3. Tính mục đích
Trước và trong quá trình hoạt động con người hình dung ở trong đầu xem kết quả đạt
được như thế nào? mang lại lợi ích gì? đó chính là mục đích của hoạt động. Mục đích của hoạt
động bao giờ cũng liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Mục
đích của hoạt động là làm biến đổi thế giới (khách thể) đồng thời biến đổi bản thân chủ thể. Tính
mục đích gắn liền với tính đối tượng, vì đối tượng là cái con người cần hay xuất phát từ nhu cầu
trong cuộc sống của con người. Tính mục đích bị chế ước bởi nội dung xã hội, điều kiện xã hội.
4. Tính gián tiếp
Một hoạt động bất kỳ khi được tiến hành phải sử dụng đến các loại công cụ lao động khác
nhau, công cụ giữ vai trò trung gian giữa chủ thể và đối tượng tạo ra tính gián tiếp trong hoạt
động. Trong hoạt động con người gián tiếp tác động vào khách thể qua hình ảnh tâm lý ở trong
đầu, qua ngôn ngữ và công cụ vật chất để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và phía chủ thể. Công

42
III. CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG
Khi bàn đến cấu trúc của hoạt động lại có nhiều quan niệm khác nhau, ở đây ta xem xét
cấu trúc khá toàn diện của nhà tâm lý học Liên Xô - A.N.Leonchiev đưa ra. Ông đã nêu lên cấu
trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm 6 thành tố và mối quan hệ giữa 6 thành tố này.
Theo quan niệm của ông, khi tiến hành hoạt động có 3 thành tố về phía chủ thể và mối
quan hệ giữa 3 thành tố này là: hoạt động, hành động và thao tác. Ba thành tố này trực thuộc mặt
thao tác kỹ thuật của hoạt động. Còn về phía khách thể gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa
chúng đó là: động cơ, mục đích và phương tiện, 3 thành tố này tạo nên nội dung đối tượng của
hoạt động. Nói cụ thể hơn là hoạt động hợp bởi các hành động, các hành động diễn ra bằng một
chuỗi các thao tác. Hoạt động luôn luôn hướng vào động cơ, đó là mục đích chung, mục đích
cuối cùng của hoạt động. Mục đích chung của hoạt động được cụ thể hoá bằng những mục đích
cụ thể (bộ phận) mà hành động hướng vào. Để đạt được mục đích con người phải sử dụng các
phương tiện. Tuỳ theo các phương tiện, điều kiện mà con người tiến hành hành động đạt mục
đích, hay hành động thực hiện được nhờ các thao tác. Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách
thể, giữa đơn vị thao tác kỹ thuật với nội dung đối tượng của hoạt động tạo ra sản phẩm của hoạt
động cả về phái chủ thể và phía khách thể.
Mô hình chung về cấu trúc của hoạt động
Chủ thể Khách thể

Hoạt động Động cơ

Hành động Mục đích

Thao tác Phương tiện

Sản phẩm
Các thành tố trong cấu trúc của hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành
cấu trúc chung, thống nhất, tạo điều kiện cho hoạt động có kết quả, là cơ sở nảy sinh và phát triển
tâm lý - ý thức con người.

43
IV. QUÁ TRÌNH ĐỘNG CƠ HÓA
1. Định nghĩa
Quá trình biến động lực thành động cơ gọi là quá trình động cơ hóa
2. Các yếu tố trong quá trình động cơ hóa
+ Các yếu tố bên trong
 Nhu cầu:
+ Là yếu tố quan trọng nhất;
+ Là nguyên nhân bên trong của mọi hành vi cá nhân;
+ Nhu cầu bao gồm NC bản năng và NC xã hội;
+ Nhu cầu được tổ chức theo một hệ thống cấu trúc, tạo thành xu hướng cá nhân;
+ Nhu cầu được củng cố trong quá trình thỏa mãn.
 Cảm xúc
+ Cảm xúc gắn với sự thỏa mãn, hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân trong HĐ;
+ Cảm xúc có tác dụng củng cố, thúc đẩy hoặc kìm hãm ĐC;
+ Cảm xúc tiêu cực làm tăng sự căng thẳng của động cơ dẫn tới tìm kiếm hoạt động mới
thay thế; Cảm xúc tích cực làm giảm sự căng thẳng của động cơ, có tác dụng kích thích, thúc đẩy
hoạt động của cá nhân.
+ Các yếu tố bên ngoài
- Kích thích tính tích cực trong tâm lý cá nhân
- Tạo nên xu hướng của hoạt động
3. Cơ chế quá trình động cơ hóa

44
5. SAI LỆCH HÀNH VI CÁ NHÂN VÀ HÀNH VI XÃ HỘI
5.1. Sai lệch hành vi cá nhân
a. Các chuẩn mực hành vi
+ Chuẩn theo thống kê
+ Chuẩn theo quy ước/hướng dẫn
+ Chuẩn theo chức năng (theo mục đích cá nhân)
b. Các loại sai lệch hành vi cá nhân
- Sai lệch thụ động: Là hành vi sai lệch do không nhận thức đầy đủ hoặc nhận thức sai chuẩn
mực đạo đức nên có hành vi không bình thường so với chuẩn chung của cộng đồng.
Đặc trưng: Người có hành vi sai lệch không biết mình có hành vi sai lệch
Ví dụ: Trẻ gặp người lớn không chào hỏi, không cảm ơn khi nhận quà,…
Con dâu ngoại quốc không gắp thức ăn mời Bố mẹ chồng
Nguyên nhân:
+ Do họ chưa nắm vững chuẩn mực;
+ Do hiểu sai các chuẩn mực một cách tự nhiên
Cách khắc phục:
+ Cung cấp kiến thức
+ Giải thích, thuyết phục
+ Cá nhân phải lắng nghe, tiếp nhận, thay đổi
- Sai lệch chủ động: Cá nhân sự sai lệch hành vi do họ cố ý làm khác so với người khác. Họ có thể
nhận thức đầy đủ về chuẩn mực đạo đức xã hội, cộng đồng nhưng họ cứ hành động theo ý muốn cá
nhân mặc dù biết là không phù hợp.
Đặc trưng: Người có hành vi sai lệch biết rõ mình có hành vi sai lệch
Ví dụ: Đi xe rú ga khi hàng xóm ngủ trưa, hát Karaoke tại gia đình với âm thanh lớn,...
Nguyên nhân:
+ Do ý thức cá nhân
+ Do đề cao cái tôi
Cách khắc phục:
+ Giáo dục thường xuyên của cộng đồng
+ Củng cố chuẩn mực để điều tiết hành vi cá nhân trong cộng đồng.
5.2. Sai lệch hành vi xã hội
a. Các chuẩn mực xã hội:
+ Pháp luật
+ Đạo đức
+ Phong tục tập quán
+ Thẩm mỹ
+ Chính trị
Những hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội gọi là hành vi sai lệch xã hội
45
Đặc trưng của sai lệch hành vi xã hội:
- Không xem xét 1 hành vi mà là một hệ thống hành vi cụ thể.
- Xem xét ở góc độ cá nhân và góc độ cộng đồng.
Biểu hiện của sai lệch hành vi xã hội
+ Số lượng hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội;
+ Động cơ, thái độ, mức độ mạnh mẽ của hành vi;
+ Sự không thích hợp với tình huống trong đó diễn ra hành vi.
Nguyên nhân:
+ Do nhận thức sai, không đầy đủ về các CMXH;
+ Do không chấp nhận CMXH, quan điểm khác với CM chung;
+ Biết sai nhưng cố tình vi phạm CM chung;
+ Do chính CMXH (không phù hợp, do không rõ ràng; không ổn định,...

Hậu quả:
+ Thiệt hại về kinh tế;
+ Mất trật tự an ninh XH;
+ Suy thoái nhân cách con người.
b. Giáo dục sửa chữa hành vi sai lệch xã hội
* Giáo dục là biện pháp tối ưu để phòng ngừa, cụ thể:
+ Cung cấp đầy đủ, rõ ràng những kiến thức, hiểu biết về chuẩn mực xã hội cho các thành viên
trong cộng đồng.
+ Hình thành thái độ tích cực ủng hộ các hành vi phù hợp, lên án các hành vi lệch chuẩn;
+ Hướng dẫn hành vi cho mọi thành viên, đặc biệt là những thành viên mới, thành viên còn
thiếu, ít kinh nghiệm;
 Mặt khác: Điều chỉnh những chuẩn mực xã hội khi không còn phù hợp, hoặc làm rõ
những chuẩn mực chưa được rõ ràng.
 “Trừng phạt” là biện pháp hành chính cuối cùng.

46
Chương 5. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC

Sau khi học xong chương 5, sinh viên có khả năng :


Phân tích được bản chất của các quá trình nhận thức: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng,
trí nhớ. Phân biệt được nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Chỉ ra được vai trò của các quá
trình nhận thức đối với đời sống của con người nói chung, đối với sự phát triển tâm lý của con
người nói riêng. Vận dụng hiệu quả các quy luật của cảm giác, tri giác vào thực tiễn cuộc sống.
Có khả năng tư duy và tưởng tượng khi giải quyết các nhiệm vụ của học phần. Xác định rõ những
phương pháp để ghi nhớ tốt và chống quên hiệu quả. Sẵn sàng tham gia các hoạt động trải
nghiệm, yêu cầu của giảng viên để phát huy nhận thức của cá nhân.
1 HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CẢM TÍNH
1.1. CẢM GIÁC
1.1.1. Khái niệm về cảm giác
Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của
sự vật hiện tượng và trạng thái bên trong của cơ thể khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác
quan của chúng ta.
1.1.2. Đặc điểm của cảm giác
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau:
- Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách cụ thể,
rõ ràng. Cảm giác nảy sinh, diễn biến khi có một kích thích trực tiếp tác động đến các giác quan
(mắt, tai,...) và kích thích ngừng tác động thì giác quan cũng ngừng hoạt động.
- Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính cụ thể của sự vật hiện tượng thông qua hoạt động của
từng giác quan riêng lẻ. Do vậy, cảm giác chưa phản ánh trọn vẹn, đầy đủ các thuộc tính của sự
vật hiện tượng. Nghĩa là, cảm giác mới chỉ cho ta từng cảm giác cụ thể, riêng lẻ về từng thuộc
tính của vật kích thích. Mỗi kích thích tác động vào cơ thể cho ta một cảm giác tương ứng.
- Cảm giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của SVHT mà còn phản ánh trạng thái
bên trong cơ thể.
- Cảm giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trực tiếp.
- Cảm giác của con người khác xa về chất so với cảm giác của con vật, điểm khác nhau cơ bản là
cảm giác con người mang bản chất xã hội - lịch sử. Bản chất xã hội trong cảm giác của con người được
thể hiện ở chỗ:
+ Đối tượng phản ánh trong cảm giác của con người không chỉ là những thuộc tính của sự
vật hiện tượng vốn có sẵn trong tự nhiên mà còn phản ánh những thuộc tính của sự vật hiện
tượng do con người sáng tạo ra thông qua hoạt động và giao tiếp.
+ Cơ sở sinh lý của cảm giác của con người không chỉ phụ thuộc vào hệ thống tín hiệu thứ
nhất mà còn chịu sự chi phối của hệ thống tín hiệu thứ hai – hệ thống tín hiệu của ngôn ngữ.

47
+ Cảm giác của con người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên sơ đẳng nhất chứ không phải
là cao nhất, duy nhất như ở một số động vật. Cảm giác của con người chịu sự chi phối của nhiều
hiện tượng tâm lý khác nhau của con người như tư duy, tình cảm, hứng thú, nhu cầu,...
+ Cảm giác của con người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh hưởng của hoạt
động và giáo dục, tức là cảm giác của con người được tạo ra theo phương thức đặc thù của xã
hội, do đó mang đặc tính xã hội.
1.1.3.Vai trò của cảm giác
Cảm giác đóng vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người nói chung, với hoạt động
nhận thức nói riêng. Cụ thể là:
- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người (và con vật) trong hiện thực
khách quan, nó là cầu nối trong mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể với môi trường xung quanh.
- Cảm giác cung cấp nguyên liệu cho các quá trình nhận thức cao hơn (tri giác, tư duy, tưởng
tượng, trí nhớ). Vai trò của cảm giác được khẳng định qua nhận định của V.I. Lênin: “Cảm giác
là viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ lâu đài nhận thức”.
- Cảm giác là điều kiện quan trọng đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ não, nhờ đó đảm bảo hoạt động thần
kinh của con người được bình thường. Nếu cá nhân rơi vào trạng thái “đói cảm giác” thì các chức năng tâm lý, sinh
lý của con người bị rối loạn.
- Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan đặc biệt quan trọng đối với người
bị khuyết tật.
1.1.4. Các quy luật cơ bản của cảm giác
1.1.4.1. Quy luật về tính nhạy cảm và ngưỡng cảm giác
Tính nhạy cảm của cảm giác là khả năng của các giác quan đảm nhận kích thích trực tiếp
tác động đến các giác quan đó.
Không phải mọi kích thích đều gây ra cảm giác, muốn gây ra cảm giác kích thích phải đạt
tới một giới hạn nhất định gọi là ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác.
Ngưỡng cảm giác có 2 loại: Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt
Trong ngưỡng tuyệt đối bao gồm:
- Ngưỡng tuyệt đối phía trên là cường độ kích thích tối đa vẫn gây cho ta cảm giác.
- Ngưỡng tuyệt đối phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ gây cho ta cảm giác, nó tỷ lệ
nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác.
Giới hạn giữa ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên gọi là vùng cảm giác (vùng phản ánh).
Trong vùng cảm giác có một vùng phản ánh tốt nhất.
Chẳng hạn: đối với cảm giác nhìn, ngưỡng tuyệt đối phía dưới của mắt là bước sóng ánh
sáng đạt 390 milimicron và ngưỡng tuyệt đối phía trên là 780 milimicron, vùng ánh sáng giúp
mắt phản ánh tốt nhất là 565 milimicoron. Đối với cảm giác nghe, bước sóng âm ở ngưỡng tuyệt
đối phía dưới là 16 héc, ngưỡng tuyệt đối phía trên là 20.000 héc, vùng tối ưu là 1000 héc.

48
Tính nhạy cảm của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với ngưỡng tuyệt đối phía dưới, tức
ngưỡng cảm giác phía dưới càng nhỏ thì tính nhạy cảm càng cao và ngược lại.
- Ngưỡng sai biệt :Đó là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích
thích đủ để cho ta phân biệt hai kích thích đó. Ngưỡng sai biệt là một hằng số. Cảm giác thị giác
là 1/100, thính giác là 1/10, cảm giác mạc giác là 1/30,...
Ví dụ: Một vật nặng 1kg, phải thêm vào ít nhất là 34g nữa thì mới gây cảm giác về sự biến đổi
trọng lượng của nó.
Tính nhạy cảm sai biệt là năng lực của giác quan có thể nhận ra được ngưỡng sai biệt, là khả
năng phân biệt được sự khác biệt tối thiểu giữa hai cường độ kích thích thuộc cùng một loại để
tạo ra một loại cảm giác mới khác với cảm giác ban đầu.
Ngưỡng sai biệt và tính sai biệt của cảm giác có mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Ngưỡng sai biệt
càng nhỏ thì tính sai biệt càng lớn và ngược lại.
1.1.4.2. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác
Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và đảm bảo cho hệ thần kinh khỏi bị huỷ hoại,
cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích. Đó là khả năng thay đổi độ nhạy
cảm cho phù hợp với cường độ kích thích.
Có nhiều kiểu thích ứng của cảm giác:
+ Cảm giác hoàn toàn mất đi khi quá trình kích thích kéo dài.
Ví dụ: Ít ai có cảm giác về sức nặng của đồng hồ đeo tay, kính đeo ở mắt, quần áo mặc trên
người.
+ Khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm.
Ví dụ: Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời gian đợi cho tính nhạy cảm của khí
quan phân tích giảm xuống ta mới phân biệt được các vật chung quanh. Người lái máy bay bị đèn
chiếu dọi vào mắt ít nhất cũng qua từ 3 đến 6 giây mới giảm được sự nhạy cảm để nhìn rõ con số
trên đồng hồ.
+ Khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm tăng.
Ví dụ: Từ nơi sáng bước vào bóng tối
Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đó nhúng cả hai vào
chậu nước bình thường thì bàn tay ngâm ở châu nước cảm thấy nước ở chậu lạnh hơn so với bàn
tay kia.
Mức độ thích ứng của các loại cảm giác khác nhau là không giống nhau. Khả năng thích
ứng của các cảm giác là do rèn luyện.
1.1.4.3. Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này
dưới ảnh hưởng của cảm giác kia. Sự tác động qua lại đó diễn ra theo một quy luật chung như
sau: Kích thích yếu lên một cảm giác này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của cảm giác kia. Kích thích
mạnh lên một cảm giác này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của cảm giác kia.

49
Ví dụ: Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tính nhạy cảm nhìn
Một mùi thơm dễ chịu làm cho mắt ta nhìn tinh hơn
Lúc bệnh ăn gì cũng không cảm thấy ngon
Sự tác động qua lại giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp giữa các cảm giác
cùng loại hay khác loại.
Tương phản đồng thời là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh
hưởng của một kích thích cùng loại xảy ra đồng thời.
Ví dụ: tờ giấy xám trông nổi hơn khi đặt trên nền trắng so với nền màu đen, điều này có ý
nghĩa lớn trong hội họa, kiến trúc khi phối các màu sắc với nhau.
Tương phản nối tiếp là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của
một kích thích cùng loại xảy ra trước đó.
Ví dụ: Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có vẻ nóng hơn- Đó là tương phản nối
tiếp.
1.1.5. Phân loại cảm giác
Căn cứ vào nguồn kích thích gây nên cảm giác ở ngoài hay ở trong cơ thể thì cảm giác được
chia thành cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong:
1.1.5.1. Cảm giác bên ngoài
- Cảm giác nhìn (thị giác): Cho ta biết hình thù khối lượng, độ sáng, độ xa màu sắc của sự vật. Nó
giữ vai trò cơ bản trong sự nhận thức thế giới bên ngoài của con người nảy sinh do các sóng
điện từ dài từ 380 đến 770 mi-li-mi-crông tác động vào mắt.
- Cảm giác nghe (thính giác): Phản ánh những thuộc tính về âm thanh, tiếng nói, nảy sinh
chuyển động của sóng âm thanh có bước sóng từ 16 đến 20.000 hec( tần số giao động trong một
giây) tác động vào màng tai.
- Cảm giác ngửi (khứu giác): cho biết thuộc tính mùi của đối tượng.
- Cảm giác nếm (vị giác): Cho ta biết thuộc tính vị của đối tượng có 4 lọai: Cảm giác ngọt,
cảm giác chua, mặn và đắng.
- Cảm giác da (xúc giác): cho ta biết sự đụng chạm, sức ép của vật vào da cũng như nhiệt độ
của vật. Cảm giác da gồm 5 loại: Cảm giác đụng chạm, cảm giác nén, cảm giác nóng, cảm giác
lạnh, cảm giác đau.
1.1.5.2. Cảm giác bên trong
- Cảm giác vận động: (còn gọi là cảm giác cơ khớp) là cảm giác về vận động và vị trí của từng
bộ phận của thân thể phản ánh độ co duỗi của các cơ, dây chằng, khớp xương của thân thể. Phần
lớn các cơ quan thụ cảm vận động được phân bổ ở các ngón tay, lưỡi và môi vì đó là những cơ
quan phải thực hiện những cử động lao động và ngôn ngữ tinh vi và chính xác.
- Cảm giác thăng bằng: Là cảm giác cho ta biết vị trí và phương hướng chuyển động của đầu
ta so với phương của trọng lực. Cơ quan của cảm giác thăng bằng nằm ở thành ba của ống bán

50
khuyên ở tai trong và liên quan chặt chẽ với nội quan . Cơ quan cảm giác thăng bằng bị kích thích
quá mức sẽ gây mất thăng bằng ta cảm thấy chóng mặt, có khi nôn mửa .
- Cảm giác cơ thể: Là cảm giác cho ta biết những biến đổi trong họat động của các cơ quan nội
tạng gồm cảm giác đói, no, khát, buồn nôn, và các cảm giác khác liên quan đến hô hấp và tuần
hoàn.
- Cảm giác rung: là cảm giác được tạo ra do các dao động của không khí tác động lên bề mặt
thân thể tạo nên. Nó phản ánh sự rung động của các sự vật, cảm giác này đặc biệt phát triển mạnh
ở người điếc, nhất là vừa điếc vừa câm.
1.2. TRI GIÁC
1.2.1. Khái niệm về tri giác
Ở quá trình cảm giác chỉ có thể phản ánh một cách riêng lẻ những thuộc tính bề ngoài của sự
vật hiện tượng những ở quá trình tri giác có thể phản ánh một cách trọn vẹn toàn bộ các thuộc
tính bề ngoài của sự vật hiện tượng (với quả quýt: hình dáng, độ lớn, độ trơn nhẵn, mùi, vị, màu
sắc...)
Phản ánh trọn vẹn trong quá trình tri giác là phản ánh một số thuộc tính bề ngoài đủ để tạo
nên một thể thống nhất, một quan hệ nhất định, đủ để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật
hiện tượng khác. Chú ý: phản ánh trọn vẹn không phải là phép cộng đơn giản Tri giác là quá
trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng
trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
* Phân tích định nghĩa:
- Tri giác là một quá trình tâm lý: Có mở đầu, diễn biến, và kết thúc tương đối rõ ràng như
các quá trình tâm lý khác.
Mở đầu: Khi sự vật hiện tượng bắt đầu trực tiếp tác động vào các giác quan.
Diễn biến: cảm nhận các thuộc tính, tính chất bề ngoài của sự vật hiện tượng đó và phản
ánh chúng theo những gì cảm nhận được.
Kết thúc: Khi sự vật hiện tượng ngừng tác động vào các giác quan (không còn trực tiếp tác
động).
- Nội dung phản ánh của tri giác là: Phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của
sự vật hiện tượng,
các thuộc tính, đặc điểm mà là tổng hợp các thuộc tính đặc điểm của sự vật hiện tượng.
- Phương thức phản ánh của tri giác: phản ánh sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào
giác quan.Tri giác không thể phản ánh sự vật hiện tượng một cách gián tiếp, khi sự vật hiện tượng
không còn trực tiếp tác động cũng là lúc quá trình tri giác kết thúc.
- Sản phẩm của quá trình tri giác là hình tượng: Hình tượng là hình ảnh của sự vật hiện
tượng nảy sinh trên não khi sự vật hiện tượng đó trực tiếp tác động vào các giác quan của con
người.
1.2.2. Đặc điểm của tri giác

51
- Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.
- Tri giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trọn vẹn, cho ta hình ảnh hoàn chỉnh
về sự vật hiện tượng. Tính trọn vẹn của tri giác là tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật
hiện tượng và sự tác động đồng bộ của các thuộc tính của sự vật hiện tượng tới các giác quan
nhất định.
Sự vật hiện tượng tồn tại một cách khách quan với đầy đủ các thuộc tính, chúng cùng tác
động lên các giác quan của con người nên ở mức độ tri giác cho phép con người phản ánh một
cách đầy đủ, trọn vẹn những thuộc tính đó.
Ví dụ: Quả quýt: tồn tại các thuộc tính là màu xanh pha vàng, vỏ nhẵn, hình tròn, vị chua
ngọt, mùi thơm... Nó được các giác quan tương ứng của con người cảm nhận là thị giác, xúc giác,
vị giác, khứu giác... cho một hình ảnh trọn vẹn về quả quýt.
- Nhờ có sự tham gia của kinh nghiệm và hiểu biết nên trong tri giác chỉ cần tri giác một
số thuộc tính của sự vật hiện tượng, con người cũng có thể phản ánh một cách trọn vẹn về sự vật
hiện tượng.
Ví dụ:

Nhìn tập hợp các nét gạch đứt trên, con người vẫn có thể phản ánh đó là hình tam giác và
hình tròn do đã có kinh nghiệm về các hình này. Sự trọn vẹn, đầy đủ về các thuộc tính do tri giác
mang lại không phải là sự cộng gộp đơn giản những cảm giác thành phần mà là kết quả do tri
giác phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
- Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
Ví dụ: Với 3 chữ CAM được sắp xếp theo trật tự chữ C trước, lần lượt chữ A và M sau
tạo nên một cấu trúc cho phép chủ thể tri giác được chữ " CAM ". Nếu chúng sắp xếp theo một
cấu trúc khác cho phép chủ thể tri giác được chữ khác. Sự vật hiện tượng có cấu trúc chặt chẽ
nhất định và chủ thể tri giác cũng phản ánh chúng theo những cấu trúc vốn có đó.
- Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, tồn tại độc lập ở người trưởng thành.
Ở người trưởng thành quá trình tri giác còn chịu sự đan xen của nhiều yếu tố khác, như
kinh nghiệm, xúc cảm, tình cảm, hứng thú.
- Tri giác là một quá trình tâm lý tích cực được gắn liền với hoạt động của con người.
Ví dụ: Để tiếp thu bài giảng, học sinh phải tri giác nghe, tri giác nhìn...
- Tri giác phụ thuộc vào hứng thú, động cơ, nhiệm vụ, lý tưởng, niềm tin, quan điểm ... ở con
người nên tri giác ở mỗi người khác nhau có sự khác biệt.
Chẳng hạn: Cùng tri giác một vườn hoa hồng, nhưng đối với nhà kinh tế có thể nhận thấy
ở đó giá trị về mặt kinh tế, kẻ si tình thấy ở đó loài hoa thể hiện tình yêu, người trồng hoa thấy ở
đó những giống hoa cần tìm, nhà thơ thấy ở đó là cái đẹp tạo cảm hứng cho một vần thơ nào đó.
1.2.3. Vai trò của tri giác

52
- Tri giác giúp con người định hướng chính xác và nhanh chóng hơn các hành vi hoạt
động trong cuộc sống.
- Tri giác giúp con người điều chỉnh hợp lý hành động trong cuộc sống.
Ví dụ: Đi đường, nhìn thấy một chiếc xe máy đang lạng lách và có thể va chạm vào ta,
sau khi định hướng là phải tránh sang phải hoặc sang trái hoặc vào lề đường cho phù hợp thì
chính định hướng đó điều khiển ta phải thực hiện việc tránh chiếc xe máy đó để đảm bảo sự an
toàn cho bản thân.
- Tri giác nói chung và tri giác ở mức độ phát triển cao (có mục đích kế hoạch (quan sát))
trở thành hoạt động quan sát của con người thì sẽ đem lại những thông tin quan trọng làm cơ sở
cho việc thực hiện, phát triển các quá trình nhận thức cao hơn (trí nhớ, tư duy, tưởng tượng).
1.2.4. Các quy luật cơ bản của tri giác
1.2.4.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác
+ Tính đối tượng của tri giác là gì?
Tính đối tượng của tri giác thể hiện tri giác được coi là một hoạt động và bao giờ cũng có
một đối tượng nhất định. Đối tượng đó nằm trong hiện thực khách quan
Ví dụ: So sánh giữa việc chụp ảnh của máy ảnh và phán ánh sự vật hiện tượng của tri giác.
+ Để máy ảnh có thể chụp được một bức ảnh, cần phải có đối tượng chụp, đối tượng là cô
gái, nhà cao tầng, phong cảnh thì ảnh chụp cũng phản ánh đúng sự vật hiện tượng đã chụp.
+ Tri giác của con người cũng tương tự như vậy: Đã tri giác là phải tri giác một đối tượng
nhất định. Nếu lên lớp học, sinh viên sẽ tri giác bài giảng, nhìn và phản ánh những dòng chữ,
nghe và phản ánh những âm thanh mà giáo viên giảng... Giáo viên viết và nói từ "Tri giác", sinh
viên sẽ phản ánh từ "Tri giác" và tiếng tri giác mà giáo viên viết và nói.
+ Đặc điểm của tính có đối tượng
- Hình ảnh của tri giác vừa phải ánh những đặc điểm của đối tượng đồng thời vừa là hình
ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Thể hiện: Khi tri giác một sự vật hiện tượng nào đó, con
người đưa vốn tri thức, vốn kinh nghiệm riêng của mình vào hình ảnh tri giác.
- Đối tượng của tri giác được dần dần xuất hiện trong hoạt động, gắn với nhiệm vụ của cá
nhân.
Ví dụ: Trong hoạt động trinh sát, trinh sát phải theo dõi đối tượng A xem anh ta gặp gỡ và
quan hệ với những ai, không phải tất cả những người mà đối tượng A sẽ gặp gỡ đều xuất hiện
trong cùng một thời điểm mà hôm nay anh A gặp một người, ngày mai anh mới gặp một người
khác, và có thể đến một tuần sau đó mới tiếp tục gặp một số người khác nữa, như vậy các đối
tượng cần theo dõi cùng với anh A xuất hiện dần dần trong hoạt động.
1.2.4.2. Tính lựa chọn của tri giác
+ Tính lựa chọn là gì?

53
Mỗi sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan thường xuất hiện đồng thời cùng với
nhiều sự vật hiện tượng khác, để tri giác được đầy đủ, trọn vẹn đối tượng, cần phải tách sự vật
hiện tượng cần tri giác ra khỏi bối cảnh xung quanh.
- Tính lựa chọn của tri giác thể hiện tính tích cực trong tri giác của con người nhằm tách sự
vật hiện tượng cần tri giác ra khỏi bối cảnh xung quanh để phản ánh.
Ví dụ: Bức tranh đa nghĩa
+ Đặc điểm của tính lựa chọn
- Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (của vật kích thích) và
chủ quan (chủ thể).
+ Nhóm các yếu tố khách quan bao gồm: đặc điểm của vật kích thích (cường độ, nhịp điệu
hoạt động, độ chiếu sáng, sự tương phản..), đặc điểm của các yếu tố bến ngoài (khoảng cách giữa
đối tượng với người tri giác).
Ví dụ: Khi xem kịch, có lúc đèn trên sân khấu tắt hết chỉ để lại một đèn chiếu vào một nhân
vật, do độ chiếu sáng tập trung vào một nhân vật nên tất cả mọi người đều tri giác nhân vật đó.
+ Nhóm các yếu tố chủ quan bao gồm: Nhu cầu, hứng thú, tình cảm của con người...
Ví dụ 1: Xem vô tuyến, cùng một thời điểm, có hai thông tin: một về thời trang, hai là về
bóng đá - đa số các bạn nam đều tri giác tin về bóng đá, đa số các bạn nữ đều tri giác tin về thời
trang... Do hứng thú chi phối.
Ví dụ 2: Trong hoạt động trinh sát, do nhiệm vụ chi phối nhu cầu của người trinh sát là phải
theo dõi tên A, mặc dù giữa phố xá đông người và rất nhiều điều chi phối nhưng những trinh sát
vẫn chỉ tập trung tri giác tên A.
- Sự lựa chọn tri giác không có tính cố định, vai trò của đối
tượng và bối cảnh có thể thay đổi cho nhau
Ví dụ : Bức tranh Lọ hoa - mặt người: Khi chọn lọ hoa (màu
trắng) làm nền, hai mặt người trở thành đối tượng tri giác; ngược lại,
khi lựa chọn hai mặt người (màu đen) làm nền thì lọ hoa lại trở
thành đối tượng tri giác.
- Đối tượng tri giác càng nổi rõ trong bối cảnh thì sự lựa chọn
sẽ diễn ra nhanh hơn và ngược lại.
Ví dụ: Trong chiến tranh, khi đang di chuyển trong rừng, nếu màu áo xanh, có cài lá trên vai,
thì giống màu của rừng sẽ làm quân địch khó phát hiện; nếu giữa rừng lá màu xanh, chiến sĩ mặc
áo đen, trắng, khác màu xanh thì địch dễ phát hiện. Áp dụng trong công tác ngụy trang của hoạt
động trinh sát, cần ngụy trang cho hòa lẫn với bối cảnh xung quanh, thể hiện phong cách phù hợp
với vị thế; dựa vào quy luật này để phát hiện những sơ hở của đối tượng...).
- Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng nào càng phong phú thì chủ thể dễ chọn đối
tượng đó làm đối tượng tri giác.
1.2.4.3. Tính có ý nghĩa của tri giác

54
+ Tính có ý nghĩa của tri giác là gì?
Khi phản ánh trọn vẹn một sự vật hiện tượng, để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật
hiện tượng khác, con người thường gọi tên sự vật hiện tượng theo đúng nghĩa của nó hoặc sắp
sếp chúng vào mọt nhóm đối tượng cùng loại để chỉ ra được công dụng, ý nghĩa của sự vật hiện
tượng đó, đây là biểu hiện của tính có ý nghĩa của quá trình tri giác.
- Tính có ý nghĩa của tri giác là quá trình gọi tên, xếp loại sự vật hiện tượng để thấy được
công dụng, chức năng, tính chất của chúng.
Ví dụ: Tri giác một dòng chữ ở trên tường có nội dung đả kích chế độ, người ta gọi đó là
"khẩu hiệu phản động" - việc gọi tên như vậy cho thấy quá trình tri giác đã phản ánh dòng chữ đó
với ý nghĩa của nó là phản động khác với những dòng chữ "cổ động", "phát động", "quảng cáo"...
+ Đặc điểm của tính có ý nghĩa của tri giác
- Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào khả năng tri giác trọn vẹn đối tượng. Thể hiện:
càng phản ánh đầy đủ các thuộc tính của đối tượng thì càng rõ ý nghĩa của đối tượng.
- Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào vốn kinh nghiệm của chủ thể. Thể hiện: khi tri
giác sự vật hiện tượng, cá nhân thường hiểu ý nghĩa thông dụng của chúng, xếp loại, đặt tên của
sự vật hiện tượng theo nhận thức của cá nhân, cá nhân càng có vốn kinh nghiệm phong phú bao
nhiêu thì việc hiểu ý nghĩa, xếp loại sự vật hiện tượng càng nhanh bấy nhiêu.
Ví dụ: Một số người dân tộc do không biết tên gọi của máy bay là gì nên thường gọi máy
bay là con chim sắt.
1.2.4.4. Tính ổn định của tri giác
+ Tính ổn định của tri giác là gì?
Là khả năng phản ánh tương đối ổn định về một sự vật hiện tượng nào đó khi điều kiện tri
giác có sự thay đổi.
Ví dụ: Trên con đường dài, chiếc Taxi xuất hiện ngay trước mắt người đi đường - hình ảnh
của nó trên võng mạc của mắt rất to, một chiếc ôtô vận tải xuất hiện phía xa, hình ảnh của nó
trên võng mạc rất nhỏ, những nhờ tính ổn định của tri giác, người đó vẫn phản ánh đúng hình
dáng, kích thước của hai chiếc xe đó: xe ôtô vận tải to hơn chiếc xe Taxi.
+ Đặc điểm của tính ổn định của tri giác
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào cấu trúc của sự vật hiện tượng (bản thân sự vật hiện
tượng).
Ví dụ 1: ở ví dụ nêu trên, tri giác vẫn phản ánh đúng kích thước của xe Taxi và xe Tải do
trên thực tế xe Tải có kích thước lớn hơn xe Taxi.
Ví dụ 2: Do màu sắc của lá cây là màu xanh, dù ban ngày hay ban đêm, tri giác lá cây, con
người vẫn phản ánh lá cây màu xanh.
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào vốn tri thức, kinh nghiệm của cá nhân. (thể hiện:
do cá nhân đã có hiểu biết về sự vật hiện tượng nên khi điều kiện tri giác có sự thay đổi, cá nhân
vẫn phản ánh sự vật hiện tượng theo hiểu biết của cá nhân)

55
Ví dụ 1: Do đã biết lá cây màu xanh nên tri giác trong điều kiện trời tối, hình ảnh được phản
ánh trên não cá nhân vẫn là lá cây màu xanh.
Ví dụ 2: Bảng viết trên lớp có hình chữ nhật, ngồi ở chính giữa lớp nhìn rõ bảng là. hình chữ
nhật nhưng trong điều kiện lớp rộng mà ngồi ở cuối cánh trái, hay cánh phải thì thấy bảng hơi
lệch theo dạng hình bình hành. Tuy nhiên, tri giác vấn phản ánh hình ảnh bảng là hình chữ nhật.
Điều này cũng do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh.
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào cơ chế tự điều khiển của hệ thần kinh.
1.2.4.5. Quy luật tổng giác
Quy luật tổng giác của tri giác thể hiện, tri giác của con người không chỉ phụ thuộc vào đối
tượng tri giác mà còn phụ thuộc vào đời sống tâm lý và đặc điểm nhân cách của chủ thể tri giác:
nhận thức, tình cảm, động cơ, nhu cầu...
Ví dụ: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Hay “Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm"
Hoạn Thư và Thúy Kiều không chỉ nghe tiếng đàn, hiểu nội dung của tiếng đàn theo nhận thức
của mỗi người mà còn tri giác nó dưới góc độ tình cảm của mỗi người.
1.2.4.6. Quy luật ảo giác
Trong một số trường hợp, với điều kiện thực tế xác định, tri giác có thể không cho ta hình
ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo giác.
Ảo giác là tri giác không đúng, bị sai lệch, tạo ra hình ảnh không có thật.

Hiện tượng ảo giác không nhiều nhưng cũng vận


hành theo quy luật. Người ta lợi dụng ảo giác vào trong kiến trúc, hội họa, trang trí để phục vụ
đời sống con người.
Trong thực tiễn không chỉ xuất hiện ảo giác không gian mà còn xuất hiện ảo giác thời gian.
Ảo giác thời gian là sự tri giác sai lầm về độ dài ngắn của một quãng thời gian ở các cá nhân
- Nguyên nhân dẫn đến ảo giác thời gian:

56
+ Nguyên nhân khách quan: do tính chất của sự vật hiện tượng: độ khó, sự hấp dẫn,...
Ví dụ: Học môn trừu tượng, thấy thời gian một tiết học rất dài, ngược lại, những môn có tính
chất trực quan, dễ hiểu,... thời gian trôi đi rất nhanh.
+ Nguyên nhân chủ quan: Do ảnh hưởng của trạng thái tâm lý, xúc cảm, hứng thú,... ở chủ thể.
Ví dụ: Trong trạng thái hạnh phúc, say mê: "Ngày thu ngắn tựa tày gang"
Trong sự chờ đợi, bị giam hãm: "Ba thu dồn lại một ngày dài ghê"
"Một ngày tù nghìn thu ở ngoài"

1.2.4.7. Quy luật về tính trọn vẹn của tri giác


+ Tính trọn vẹn của tri giác là gì?
Là sự phản ánh vào trong não một cách thống nhất, hoàn chỉnh cơ cấu và thuộc tính bộ phận
bề ngoài của sự vật hiện tượng như bản thân chúng vốn có trong hiện thực khách quan khi sự vật
hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan.
Ví dụ: Uống một cốc nước chanh đường, ta cảm nhận được vị chua ngọt tổng hợp của chanh
hòa lẫn với đường trong nước chứ không phải là sự cộng gộp đơn giản vị chua của chanh, vị ngọt
của đường, và nước.
Tri giác luôn phản ánh hình ảnh trọn vẹn của sự vật hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp
vào các giác quan. Dựa vào điểm này ta có thể phân biệt được phản ánh của tri giác với phản ánh
của cảm giác.
+ Đặc điểm của tính trọn vẹn của tri giác
Bất kỳ một yếu tố tâm lý nào cũng đều phụ thuộc vào yếu tố khách quan và chủ quan, tri
giác là một hiện tượng tâm lý nên tính trọn vẹn của nó cũng chịu sự chi phối của hai yếu tố trên.
- Tính trọn vẹn của tri giác phụ thuộc vào đối tượng tác động. Thể hiện: đối tượng tác động
vào các giác quan bao nhiêu thuộc tính và theo kết cấu nào thì tri giác phản ánh bấy nhiêu thuộc
tính và theo đúng kết cấu của đối tượng.
Ví dụ: Trường hợp này thấy rõ ở những trường hợp lần đầu tri giác một đối tượng nào đó.
Nếu ta gặp một loại quả lạ, chỉ nhìn thấy hình thức của nó mà không được nếm, ngửi thì quá trình
tri giác chỉ phản ánh hình ảnh quả đó với những thuộc tính hình thức.
- Tính trọn vẹn của tri giác phụ thuộc vào chủ thể tri giác, cụ thể là phụ thuộc vào vốn kinh
nghiệm của chủ thể . Thể hiện: Hiểu biết, kinh nghiệm của chủ thể tri giác về đối tượng càng
phong phú thì phản ánh đối tượng ấy càng nhanh chóng và ngược lại
Ví dụ:

Nhìn những hình trên, nếu trẻ đã học về hình tam giác, hình lục giác thì khi tri giác hình
dưới dạng những nét đứt như vậy, trẻ vẫn có thể phản ánh chúng là tam giác, hình lục giác những
với trẻ chưa được học hoặc chưa bao giờ gặp thì không thể phản ánh được.

57
Áp dụng: Trong công tác điều tra, trinh sát cần thiết phải tri giác trọn vẹn sự vật hiện tượng
trong một chỉnh thể thống nhất đúng với hiện thực từ đó mới có những cơ sở và kết luận đúng
đắn cho công tác nghiệp vụ, tránh tình trạng "thầy bói xem voi".
1.2.5. Phân loại tri giác
+ Căn cứ vào tính tích cực của chủ thể tri giác, chia làm hai loại: tri giác không chủ định và
tri giác có chủ định.
+ Căn cứ vào vai trò của các giác quan gồm các loại tri giác sau:
- Tri giác thị giác
- Tri giác thính giác
- Tri giác khứu giác
- Tri giác vị giác
- Tri giác mạc giác
+ Phân loại theo đối tượng phản ánh thì có các loại tri giác sau:
- Tri giác không gian: Là tri giác về hình dáng, độ lớn, vị trí, độ xa và phương hướng của các
sự vật đang tồn tại trong không gian, tri giác này giữ vai trò quan trọng trong sự tác động qua lại
của con người với môi trường xung quanh, nó là điều kiện để con người định hướng trong môi
trường.
- Tri giác thời gian: Là lọai tri giác cho biết độ dài lâu, tốc độ, nhịp điệu và tính liên tục khách
quan của các hiện tượng trong hiện thực. Nhờ tri giác thời gian mà những biến đổi xảy ra trong
thế giới xung quanh được phản ánh.
Trong tri giác thời gian cũng có những ảo giác, nghĩa là những sai lầm trong việc nhận xét
độ ngắn dài của khoảng thời gian, chẳng hạn khi chúng ta bận nhiều công việc, hoặc trạng thái
phấn khởi thì thời gian hình như đi nhanh hơn, rút ngắn lại. Trái lại những lúc nhàn rỗi hoặc
trong trạng thái chờ đợi hoặc buồn bực thì chúng ta cảm thấy thời gian như đi chậm lại.
- Tri giác vận động: Là loại tri giác phản ánh những thay đổi về vị trí các sự vật trong không
gian, loại này cho ta biết phương hướng, tốc độ, thời gian chuyển động của đối tượng tri g
- Tri giác con người (tri giác xã hội): Là quá trình nhận thức lẫn nhau của con người trong
điều kiện giao lưu trực tiếp. Đây là loại tri giác đặc biệt vì đối tượng tri giác cũng là con người.
Quá trình này bao gồm tất cả các mức độ của sự phản ánh nhận thức từ cảm giác cho đến tư duy.
Đặc trưng của đối tượng tri giác là do giá trị xã hội quy định. Khi tri giác các cá nhân nhìn nhận
nhau theo những giá trị về mặt xã hội. Với những đối tượng lần đầu quen biết, thường chú ý đến
những đặc điểm bên ngoài nào chứa đựng nhiều thông tin về các thuộc tính tâm lý của nhân cách
như vẻ mặt và động tác biểu hiện của thân thể.
Ví dụ: Trông mặt mà bắt hình dong; Mỏng môi hay hớt..
Tri giác con người có ý nghĩa thực tiễn to lớn vì nó giúp cá nhân có thể kịp thời điều chỉnh
hành vi của mình trong giao lưu

58
Ví dụ: Trong công tác điều tra, nhìn vẻ mặt hốt hoảng, sợ hãi, gian xảo của mọi đối tượng
nào đó có thể là cơ sở để cán bộ điều tra phán đoán những vấn đề liên quan.
2. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC LÝ TÍNH
2.1. TƯ DUY
2.1.1. Khái niệm về tư duy
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ
và quan hệ bên trong có tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà
trước đó cá nhân chưa biết.
- Phân tích định nghĩa:
+ Tư duy là một quá trình nhận thức - giống như các quá trình tâm lý khác: có mở đầu, diễn
biến, kết thúc, có các giai đoạn tương đối rõ ràng.
+ Tư duy là một quá trình mới về chất so với cảm giác và tri giác. Nếu cảm giác, tri giác
phản ánh các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng thì tư duy phản ánh những thuộc tính bản
chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong, mang tính quy luật giữa các sự vật hiện tượng,
phản ánh những cái mới.
- Thuộc tính bản chất là những thuộc tính tương đối ổn định, có tính chất quyết định sự tồn
tại của sự vật hiện tượng.
- Mối liên hệ bên trong có tính quy luật... là những mối liên hệ phổ biến bên trong và tất yếu,
quy định sự tồn tại của sự vật hiện tượng.
Để nhận biết được bản chất, mối liên hệ bên trong, có tính quy luật của một sự vật hiện
tượng, cá nhân phải dựa trên những cơ sở thực tế và có sự phân tích, so sánh, trừu tượng hoá,
khái quát hoá, sau đó mới rút ra kết luận, phán đoán.
- Tư duy phản ánh những cái mới - đó là những cái mà trước đây cá nhân chưa biết, cá nhân
muốn biết những bằng vốn tri thực kinh nghiệm cũ không thể tìm hiểu được, do đó tư duy là một
hoạt động sáng tạo.
Tư duy là một quá trình nhận thức phức tạp, diễn ra qua các giai đoạn cơ bản sau:
Nhận thức hoàn cảnh có vấn đề

Xuất hiện các liên tưởng

Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết

Kiểm tra giả thuyết

  
Chính xác hóa Khẳng định gỉa thuyết Phủ định giả thuyết

59
Giải quyết nhiệm vụ Hành động tư duy mới
* Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề: là giai đoạn cá nhân nhận thức hoàn cảnh có vấn đề
xác định những cái mới, những mâu thuẫn chứa đựng trong hoàn cảnh có vấn đề đó, đồng thời
biểu đạt chúng dưới dạng những nhiệm vụ của quá trình tư duy.
* Xuất hiện liên tưởng: Là giai đoạn chủ thể huy động những kiến thức kinh nghiệm trên
não, thiết lập mối liên tưởng giữa vấn đề cần giải quyết với những kiến thức có liên quan.
* Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết: Là giai đoạn chủ thể lựa chọn những tri
thức những liên tưởng phù hợp nhất với nhiệm vụ của tư duy từ đó hình thành những giả thuyết
về cách giải quyết có thể có đối với nhiệm vụ tư duy.
* Kiểm tra giả thuyết: Là giai đoạn chủ thể đối chiếu những giải thuyết đã đặt ra với các
điều kiện trong vấn đề. Kết quả kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định, phủ định hay chính xác hoá
giả thuyết đã nêu. Nếu giả thuyết bị phủ định lại diễn ra hành động tư duy mới.
* Giải quyết nhiệm vụ: Khi giả thuyết được kiểm tra và khẳng định thì nó sẽ được thực
hiện, tức là tìm được câu trả lời cho vấn đề đã nêu ra.
2.1.2. Vai trò của tư duy
- Tư duy mở rộng giới hạn của nhận thức, giúp nhận thức không chỉ dừng lại ở mức độ phản
ánh những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng mà còn tiến đến phản ánh những thuộc tính
chung, bản chất, những mối liên hệ, quan hệ mang tính quy luật của sự vật hiện tượng.
- Tư duy không chỉ giải quyết những nhiệm vụ trước mắt, ngày hôm nay mà còn có khả năng
giải quyết trước cả những nhiệm vụ ngày mai, trong tương lai do nắm được bản chất, quy luật
vận động của tự nhiên, xã hội, con người. Trên cơ sở đó con người có thể dự báo một cách khoa
học xu hướng phát triển của sự vật hiện tượng và có kế hoạch, biện pháp cải tạo hiện thực khách
quan
- Tư duy giúp cho hoạt động nhận thức cảm tính của con người sâu sắc hơn, giúp hoạt động
của con người đạt kết quả cao hơn.
- Tư duy và những sản phẩm của tư duy giúp con người tiết kiệm công sứ trong việc giải
quyết các tình huống tương tự.
2.1.3. Các đặc điểm của tư duy
2.1.3.1. Tính «có vấn đề » của tư duy
Tư duy chỉ nảy sinh khi đứng trước hoàn cảnh có vấn đề. Hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh
trong đó chứa đựng những vấn đề mới mà con người chưa biết hoặc chưa giải quyết được bằng
những hiểu biết cũ và phương thức hành động cũ vẫn còn giá trị nhưng không đủ để giải quyết
lúc đó con người cần tư duy.
Có ba điều kiện để một hoàn cảnh trở thành hoàn cảnh có vấn đề:
+ Hoàn cảnh đó phải là hoàn cảnh mới mà cá nhân nhận thức được những mâu thuẫn chứa
đựng trong tình huống mới đó.

60
+ Chủ thể phải có nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn trong tình huống có vấn đề đó.
+ Cá nhân phải có những tri thức cần thiết, liên quan tới vấn đề mới đó (phù hợp với trình
độ nhận thức của cá nhân).
Ở đây cũng cần nhấn mạnh là không phải mọi bài toán, mọi câu hỏi khó đều trở thành tình
huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề mang tính chủ quan đối với mỗi cá nhân nghĩa là cá nhân
thực sự nhận thức được tình huống và có nhu cầu giải quyết tình huống ấy. Mặt khác cá nhân
phải có những tri thức cần thiết liên quan đến vấn đề hay tình huống ấy, có những kinh nghiệm
nhất định và hứng thú để giải quyết vấn đề sau những cố gắng nhất định.
Nói tóm lại, tình huống có vấn đề mang tính chủ thể và cùng một tình huống, nó sẽ là tình
huống có vấn đề với người này nhưng lại không là tình huống có vấn đề với người khác. Như thế,
để con người nói chung và học sinh nói riêng tư duy, điều cần chú ý là phải tạo ra tình huống có
vấn đề và biến nó trở thành sự bức xúc và khát khao giải quyết một cách tích cực và bền bỉ.
2.1.3.2. Tính gián tiếp của tư duy
Tư duy con người mang tính gián tiếp thể hiện ở chỗ, trong quá trình tư duy con người sử
dụng các công cụ phương tiện khác nhau để nhận thức sự vật hiện tượng. Nhờ vào tính gián tiếp,
tư duy phát hiện ra các thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng và quy luật của chúng dựa trên
các công cụ, phương tiện và cả những kinh nghiệm nhận thức của cá nhân song song với các kinh
nghiệm loài người.
Mặt khác, tư duy phản ánh sự vật hiện tượng bên ngoài gián tiếp thông qua ngôn ngữ.
Đây là một phương tiện đặc thù của con người.
2.1.3.3. Tư duy có tính trừu tượng và khái quát của tư duy
Trong quá trình tư duy, con người có khả năng trừu xuất khỏi sự vật hiện tượng những
thuộc tính, những dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất, chung nhất cho
hàng loạt sự vật hiện tượng, quy chúng thành một cặp phạm trù, khái niệm, nguyên lý chung,…
Tư duy không chỉ phản ánh cái riêng mà còn hướng vào cái chung, cơ bản, mối liên hệ,
quan hệ mang tính quy luật của sự vật hiện tượng. Tư duy khái quát nhiều sự vật hiện tượng riêng
lẻ khác nhau theo một hay nhiều dấu hiệu bản chất chung và xếp chúng thành một thể loại, một
nhóm hay một phạm trù.
V.I. Lê nin khẳng định: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mức độ liên hệ với cái chung, cái
chung tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng”.
2.1.3.4. Tư duy gắn liền với ngôn ngữ
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ biện chứng, không tách rời, song tư duy và ngôn
ngữ không đồng nhất với nhau. Ngôn ngữ là hình thức, là phương tiện biểu đạt của tư duy, còn tư
duy và những sản phẩm của tư duy là cái bên trong làm cho ngôn ngữ có ý nghĩa. Đây còn được
xem là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức khi ngôn ngữ là phương tiện để tư duy và là cái
để biểu đạt sản phẩm của tư duy.

61
Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt tư duy, ngược lại tư duy có ảnh hưởng trở lại đối với ngôn
ngữ, làm cho ngôn ngữ phong phú hơn, biểu đạt sâu sắc hơn. Nhờ vào tư duy, ngôn ngữ của con
người mới thực sự là ngôn ngữ mà không phải là chuỗi âm thanh vô nghĩa. Ngôn ngữ được xem
là “lời” đằng sau ý của tư duy. Hơn thế nữa, chính nhờ vào tư duy, ngôn ngữ con người sẽ được
cải thiện, trau chuốt và ngôn ngữ thể hiện ít nhiều khả năng tư duy của con người.
2.1.3.5. Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
+ Nhận thức cảm tính được coi như quá trình tạo nền tảng cơ sở cho quá trình nhận thức lý
tính trong đó có tư duy. Nó tạo hoàn cảnh có vấn đề cho tư duy, cung cấp nguyên liệu, tri thức
cho quá trình tư duy, tham gia vào một số giai đoạn, một số khâu của quá trình tư duy (nhận thức
cảm tính là nguồn cung cấp nguyên liệu cho quá trình tư duy).
+ Tư duy cũng có ảnh hưởng đến nhận thức cảm tính. Tư duy làm cho nhận thức cảm tính
phong phú đa dạng và sâu sắc hơn, nó ảnh hưởng đến tính nhạy cảm của cảm giác, tính lựa chọn,
tính ý nghĩa, tính trọn vẹn của quá trình tri giác và làm cho quá trình tí nhớ sâu sắc hơn.
+ Tư duy và nhận thức cảm tính là 2 giai đoạn nhận thức có mức độ cao thấp khác nhau,
trong đó tư duy ở giai đoạn cao hơn so với nhận thức cảm tính những giữa chúng có quan hệ
khăng khít với nhau. Có thể nói rằng không có quá trình nhận thức cảm tính thì không có quá
trình tư duy và ngược lại.
2.1.3.6. Tư duy mang bản chất xã hội lịch sử
+ Tư duy xuất phát từ thực tế khách quan được thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội.
+ Trong quá trình tư duy có sử dụng những tri thức, những kinh nghiệm vốn có của xã hội
loài người đã đúc kết được.
+ Tư duy của con người mang tính tập thể, tức là tư duy phải sử dụng các tài liệu thu
đưởctong các lĩnh vực liên quan để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
+ Trong tư duy của con người có sử dụng ngôn ngữ do các thế hệ trước sáng tạo ra làm
phương tiện biểu đạt, khái quát và gìn giữ các kết quả hoạt động nhận thức của loài người.
+ Tư duy của mỗi cá nhân chịu sự quy định và chế ước của tư duy loài người, tức là tư duy
là ssản phẩm của sự phát triển xã hội - lịch sử.
+ Về phương diện cá nhân, tư duy trong các giai đoạn phát triển cá nhân có sự khác nhau,
luôn vận động và biến đổi.
2.1.4. Các thao tác tư duy
2.1.4.1. Thao tác phân tích và tổng hợp
- Thao tác phân tích: Là thao tác trí tuệ nhằm tách đối tượng tư duy thành những bộ phận,
những thuộc tính, những liên hệ và quan hệ giữa chúng để nhận thức đối tượng đó được sâu sắc
hơn.
- Thao tác tổng hợp: Là một thao tác trí tuệ dùng trí óc để hợp nhất những bộ phận, những
thuộc tính bên trong và quan hệ riêng lẻ thành một đối tượng trọn vẹn, một chỉnh thể để nhận
thức SVHT đó được rõ nét hơn.

62
2.1.4.2. Thao tác so sánh
So sánh à một thao tác trí tuệ mà con người dùng trí óc để phân biệt sự giống nhau, sự khác
nhau, sự trùng nhau và không trùng nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay
không bằng nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
2.1.4.2. Thao tác trừu tượng hóa-khái quát hóa
- Thao tác trừu tượng hóa: Là thao tác trí tuệ dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho
quá trình tư duy.
- Thao tác khái quát hoá: Là một thao tác trí tuệ, trong đó con người dùng trí có để bao quát
nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại trên cơ sở những thuộc tính, những dầu
hiệu chúng và bản chất.
2.1.5. Các loại tư duy
2.1.5.1. Căn cứ vào sự hình thành và phát triển của tư duy
- Tư duy trực quan hành động: Là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện
nhờ sự cải tổ các tình huống và nhờ các hành động vận động thực tế .
- Tư duy trực quan-hình ảnh: Là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện
bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh mà thôi. Loại tư duy này chỉ có ở con
người, đặc biệt là trẻ nhỏ.
- Tư duy trừu tượng (hay còn gọi là tư duy từ ngữ lôgíc): Là loại tư duy mà việc giải
quyết nhiệm vụ dựa trên sự sử dụng các khái niệm, các kết cấu lôgíc được tồn tại và vận hành
trên cơ sở ngôn ngữ.
2.1.5.2. Căn cứ vào hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết nhiệm vụ tư duy.
- Tư duy thực hành: Là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng
phương thức thực hành.
Ví dụ: Người ta dùng sa bàn, bản đồ hoặc xuống hẳn thực tế ruộng đồng và có những
hành động cụ thể để tìm ra phương án xây dựng khu thí nghiệm, thực hành cây trồng, vật nuôi
phù hợp.
- Tư duy hình ảnh cụ thể: là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng
cách dựa trên những hình ảnh trực quan đã có
Ví dụ: Sau khi đã thực tế quan sát đồng ruộng, người ta họp nhau lại và vạch ra phương
án làm mương tưới tiêu hay phòng trừ sâu bệnh tốt nhất cho cây trồng khu vực ruộng đó.
- Tư duy lý luận: Là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ đòi hỏi phải sử dụng những
khái niệm trừu tượng, những tri thức lý luận.
Ví dụ: Tư duy của sinh viên khi nghe giảng viên giảng bài, tư duy của các nhà khoa học
khi tiếp cận với một công trình khoa học mới, phát minh mới.
2.1.6. Khái niệm trí thông minh

63
Trí thông minh là năng lực tổng thể hoặc một loạt các năng lực giúp cá nhân áp dụng các
kỹ năng nhận thức, xúc cảm và hiểu biết để học, để giải quyết vấn đề và đạt các mục đích có giá
trị hoặc để sáng tạo ra các sản phẩm giá trị trong những điều kiện văn hóa - lịch sử cụ thể.
2.2. TƯỞNG TƯỢNG
2.2.1. Khái niệm về tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên những hình ảnh, biểu
tượng đã có.
- Phân tích định nghĩa:
+ Tưởng tượng là một quá trình tâm lý có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng.
+ Xét về nội dung phản ánh: Tưởng tượng phản ánh những cái mới chưa từng có trong kinh
nghiệm cá nhân. Cái mới của tưởng tượng là hình ảnh mới dựa trên biểu tượng cũ.
+ Phương thức phản ánh: Là sự kết hợp, là sự chế biến, là sự lắp ghép những hình ảnh đã có
để tạo ra một hình ảnh mới.
+ Sản phẩm phản ánh: Đó là các biểu tượng. Biểu tượng của tưởng tượng là biểu tượng cấp
hai (biểu tượng của biểu tượng) - đó chính là những hình ảnh mới khái quát hơn do con người
sáng tạo ra dựa trên những hình ảnh đã có (biểu tượng của trí nhớ). Biểu tượng của tưởng tượng
khác biểu tượng của trí nhớ. Biểu tượng của trí nhớ là biểu tượng cấp một, biểu tượng hình thành
từ sự trực tiếp phản ánh hiện thực khách quan.
- Đặc điểm của tưởng tượng
+Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước tình huống có vấn đề mà tính bất định của tình huống đó
quá lớn. Chính vì đặc điểm này mà tưởng tượng cho phép “nhảy cóc” qua một số giai đoạn để đi
đến sản phẩm cuối cùng của hoạt động mà tư duy không thực hiện được, song sản phẩm của
tưởng tượng thiếu chặt chẽ và chuẩn xác.
+ Tưởng tượng mang tính gián tiếp và tính khái quát.
- Tưởng tượng mang tính gián tiếp bởi các hình ảnh do tưởng tượng tạo ra không phải là sự
phản ánh tác động trực tiếp của các sự vật hiện tượng mà còn được biểu hiện thông qua ngôn
ngữ.
- Tưởng tượng mang tính khái quát: Tưởng tượng không phản ánh trọn vẹn một sự vật hiện
tượng cụ thể trong hiện thực khách quan mà hình ảnh mới do tưởng tượng tạo nên được chế biến
nhào nặn từ nhiều hình ảnh, bộ phận của hình ảnh khác trong hiện thực khách quan.
+ Tưởng tượng của con người có liên quan chặt chẽ với nhận thức cảm tính, cụ thể với quá
trình trí nhớ, cảm giác và tri giác.
+ Tưởng tượng được nảy sinh từ trong quá trình lao động của con người và sản phẩm của
tưởng tượng lại được thực tiễn kiểm nghiệm.
* So sánh tư duy và tưởng tượng
- Giống nhau:

64
+ Đều là các qúa trình tâm lý nhận thức nằm trong giai đoạn nhận thức lý tính.
+ Cùng xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề, đều phản ánh những cái mới, phản ánh khái quát,
gián tiếp, đều dựa vào ngôn ngữ làm phương tiện, có quan hệ với nhận thức cảm tính, phản ánh
những dấu hiệu bản chất và bên trong.
+ Cả tưởng tượng và tư duy đều là hiện tượng tâm lý con người, là sự phản ánh hiện thực
khách quan của não, mang tính chủ thể, mang bản chất xã hội lịch sử, đều dựa vào thực tiễn để
kiểm nghiệm.
- Khác nhau:
Tư duy Tưởng tượng
- Nội dung phản ánh: phán ánh những cái mới - Phản ánh những cái mới chưa có trong
là thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và kinh nghiệm cá nhân (mới với cá nhân và
quan hệ bên trong của sự vật hiện tượng (mới mới với cả xã hội).
với cá nhân).
- Phương thức phản ánh: phản ánh thông qua - Xây dựng những hình ảnh mới dựa trên
các thao tác của quá trình tư duy: phân tích sự chắp ghép, kết dính từ những hình ảnh
tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát đã có trong kinh nghiệm.
hóa... - Sản phẩm: là biểu tượng mới vừa mang
- Sản phẩm phản ánh: khái niệm, phán đoán, tính hiện thực vừa mang tính lãng mạn,
suy lý. bay bổng
- Nảy sinh trước những tình huống có vấn đề - Xuất phát từ những hoàn cảnh có vấn đề
có tính xác định. có độ bất định cao.
- Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng
Tư duy Tưởng tượng
+ Tư duy tạo ra ý đồ cho tưởng tượng, tư duy tạo ra tính logic của các hình ảnh của tưởng
tượng, kìm hãm và kiểm tra tính phi thực tế, tính hoang tưởng của các biểu tượng của tưởng
tượng.
+ Tưởng tượng cũng có tác động trở lại đối với quá trình tư duy. Tưởng tượng bổ sung cho
tư duy khi cần thiết và lấp những chỗ trống khi tư duy không giải quyết được.
2.2.2. Vai trò của tưởng tượng
- Tưởng tượng định hướng cho hoạt động của con người bằng cách tạo ra mô hình tâm lý về
sản phẩm cuối cùng và mô hình tâm lý về cách thức để đi đến sản phẩm đó.
- Tưởng tượng tạo nên những hình tượng tươi sáng, rực rỡ, chói lọi, hoàn hảo mà con người
mong đợi và vươn tới (ước mơ, lý tưởng), nó thúc đẩy con người hoạt động đạt kết quả cao, vượt
qua mọi khó khăn thử thách, nâng con người lên trên hiện thực, giảm bớt nặng nề trong cuộc
sống.
- Tưởng tượng là điều kiện của sự sáng tạo, tưởng tượng cho phép con người vượt qua cái
cũ, hình dung ra cái mới trong tương lai.
65
- Tưởng tượng của con người rất cần thiết trong quá trình học tập của người học (học sinh,
sinh viên), đến việc tiếp thu và thể hiện tri thức mới.
2.2.3. Các loại tưởng tượng
2.2.3.1. Tưởng tượng tích cực và tưởng tượng tiêu cực:
* Tưởng tượng tích cực: Là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu
cầu, kích thích tính tích cực của con người. Tưởng tượng tích cực có hai loại.
- Tưởng tượng tái tạo: là loại tưởng tượng chỉ tạo ra những hình ảnh mới đối với người
tưởng tượng và dựa trên sự mô tả của người khác.
- Tưởng tượng sáng tạo: là loại tưởng tượng xây dựng hình ảnh mới một cách độc lập,
những hình ảnh này là mới đối với cá nhân và mới đối với xã hội.
* Tưởng tượng tiêu cực: Là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không thể hiện trong cuộc
sống, vạch ra những chương trình hành vi không được thực hiện.
Tưởng tượng tiêu cực có thể xẩy ra một cách có chủ định. Điều này chủ yếu xảy ra khi
con người ở trạng thái trong giấc ngủ (chiêm bao), trong trạng thái bệnh lý ảo giác, hoang tưởng).
2.2.3.1. Ước mơ và lý tưởng:
Ước mơ là một loại tưởng tượng hướng về tương lai, nó biểu hiện những mong muốn, ước
mơ của con người. Ước mơ là một loại tưởng tượng sáng tạo, nhưng không hướng vào hoạt động
trong hiện thực, ước mơ có lợi khi nó thúc đẩy cá nhân vươn lên, ước mơ có hại là ước mơ không
dựa vào khả năng thực tế đó là mộng tưởng.
Lý tưởng có tính tích cực và tính hiện thực cao hơn ước mơ. Lý tưởng là một hình ảnh
chói lọi, rực sáng cụ thể của tương lai mong muốn nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người
vươn lên giành tương lai.
Ngoài ra, căn cứ vào mức độ tham gia của ý thức vào tưởng tượng, chia tưởng tượng thành
các loại sau:
+ Tưởng tượng không chủ định: Là loại tưởng tượng tạo ra hình ảnh mới một cách ngẫu
nhiên, không có mục đích, không cần sự cố gắng.
Ví dụ: Nhìn đám mây liên tưởng đến con vật, hình người,...
+ Tưởng tượng có chủ định: Là loại tưởng tượng tạo ra hình ảnh mới một cách có mục đích,
cần có phương pháp tiến hành và phải có sự nỗ lực của cá nhân.
Ví dụ: Tưởng tượng ra một chiếc bút đa tính năng, thiết kế chiếc ô tô vừa có chức năng di
chuyển đường xa, vừa có tính năng như nhà để ở (ô tô nhà).
2.2.4. Các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng
2.2.4.1. Thay đổi kích thước, số lượng của sự vật hiện tượng hay các thành phần của sự vật
hiện tượng
Là phương pháp tạo ra hình ảnh mới bằng cách tăng hoặc giảm nhiều lần hình dáng, kích
thước, số lượng của một sự vật nào đó.

66
Ví dụ: Hình ảnh người khổng lồ, người tí hon, phật trăm mắt ngàn tay, chiếc bánh chưng
kỷ lục, chiếc quần dài nhất thế giới, điện thoại siêu nhỏ,...
2.2.4.2. Nhấn mạnh
Là phương pháp tạo ra hình ảnh mới bằng cách nhấn mạnh đặc biệt hoặc đưa lên hàng đầu
một phẩm chất, một mối quan hệ nào đó của sự vật hiện tượng.
Một biến dạng của phương pháp này là sự cường điệu một sự vật hiện tượng nào đó.
Tranh biếm họa là một minh chứng cho sự cường điệu.
Ví dụ: Trong các bức tranh biếm họa, họa sĩ thường nhấn mạnh một bộ phận với một
dụng ý nào đó (miệng to là người ăn tham, bụng to của những người làm quan để phản ánh nạn
tham nhũng,...).
Ví dụ: Những hình ảnh hay nhân vật như Chai-en (to khỏe, thích quyền lực); Xê-ko
(mách lẻo, mỏ nhọn)… trong truyện tranh Đô-rê- môn của Nhật Bản là sản phẩm của cách thức
này.
2.2.4.3. Phương pháp chắp ghép
Là phương pháp ghép các bộ phận khác nhau của nhiều sự vật hiện tượng để tạo ra một
hình ảnh mới, trong hình ảnh đó, các bộ phận ban đầu không bị thay đổi.
Ví dụ: Hình ảnh con rồng, tượng nhân sư, hình ảnh nàng tiên cá, người đá,... được ghép
nối giản đơn từ từng bộ phận của những con vật “gốc” nguyên thủy.
2.2.4.4. Phương pháp liên hợp
Là cách tạo ra hình ảnh mới bằng cách tổng hợp sáng tạo nhiều bộ phận của nhiều sự vật
hiện tượng khác nhau để tạo ra một hình ảnh mới và trong hình ảnh mới đó các bộ phận cũ đã
được cải biến cho phù hợp với một cấu trúc mới.
Ví dụ: Ô tô nhà, thủy phi cơ, xe bay, ..., các giống lai lê táo, cà chua khoai tây
Phương pháp này được sử dụng trong văn học nghệ thuật để xây đụng các hình tượng văn
học, nghệ thuật; trong khoa học, kỹ thuật đề thiết kế các công cụ, thiết bị kỹ thuật với các tính
năng ưu việt phục vụ cuộc sống của con người.
2.2.4.5. Phương pháp điển hình hóa
Là phương pháp tạo hình ảnh mới một cách phức tạp nhất bằng cách xây dựng thuộc tính,
đặc điểm điển hình của nhân cách đại diện cho một giai cấp, một lớp người,…
Phương pháp này là sự tổng hợp một cách sáng tạo mang tính khái quát những đặc điểm
cá biệt, điển hình của nhân cách.
Ví dụ: Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Mỵ là
điển hình cho người phụ nữ miền núi bị áp bức, bóc lột. Hay nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Chị
Dậu…đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo bị bóc lột thời phong kiến,...
Phương pháp điển hình hóa được sử dụng nhiều trong văn học nghệ thuật, hội họa,...
2.2.4.6. Phương pháp loại suy (tương tự)

67
Là phương pháp tạo ra hình ảnh mới bằng cách bắt chước, mô phỏng những đặc điểm,
những chi tiết…có thực của sự vật hiện tượng trong cuộc sống để tạo ra những sự vật hiện tượng
tương tự như vậy.
Ví dụ: Hệ thống robot làm thay chức năng của con người, da nhân tạo, máu nhân tạo, các
công cụ phương tiện được chế tạo từ đôi bàn tay con người: bát, kìm, búa,...
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong khoa học kỹ thuật.
2.2.5. Khái niệm tính sáng tạo
Sáng tạo là một quá trình hoạt động được kết thúc ở một sản phẩm mới, độc đáo, được
một nhóm người nào đó ở thời điểm tương ứng thừa nhận là có ích.
3. TRÍ NHỚ
3.1. Khái niệm về trí nhớ
Trí nhớ là một quá trình nhận thức thế giới bằng cách ghi lại, giữ lại và làm xuất hiện lại
những gì cá nhân thu nhận được trong hoạt động sống của mình.
* Phân tích định nghĩa:
- Trí nhớ là một quá trình tâm lý, nó có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng như
các quá trình tâm lý khác.
- Nội dung phản ánh của trí nhớ chính là toàn bộ vốn kinh nghiệm của cá nhân đã có, bao
gồm: những hình ảnh đã từng tri giác, những suy nghĩ đã trải qua, những cảm xúc đã thể nghiệm,
hành động đã diễn ra. Kinh nghiệm là đối tượng chính, hạt nhân chính để tạo nên nội dung của trí
nhớ. Vì thế có thể nói trí nhớ là sự tích lũy những kinh nghiệm và làm sống lại những kinh
nghiệm của chủ thể.
- Sản phẩn của trí nhớ chính là các biểu tượng.
+ Biểu tượng là gì? Biểu tượng là hình ảnh của sự vật hiện tượng được nảy sinh trên não
khi sự vật hiện tượng không còn trực tiếp tác động vào các giác quan con người.
+ Đặc điểm của biểu tượng:
+ Biểu tượng là kết quả của sự chế biến, khái quát những sự vật hiện tượng do cảm giác
và tri giác mang lại, đặc biệt là của quá trình tri giác.
+ Biểu tượng vừa mang tính trực quan vừa mang tính khái quát.
 Trực quan: ghi lại, giữ lại những kết quả của quá trình tri giác.
 Khái quát: Từ những đặc điểm trực quan, cụ thể do tri giác mang lại, biểu tượng chỉ phản
ánh những dấu hiệu độc đáo, đặc trưng của sự vật (nhấn mạnh những nét thường có và bỏ đi
những nét ngẫu nhiên); mặt khác trí nhớ còn phản ánh cả kết quả của các quá trình nhận thức lý
tính (có đặc trưng là tính khái quát)
Căn cứ vào đặc điểm của biểu tượng: vừa mang tính trực quan vừa mang tính khái quát
nên người ta xếp trí nhớ vào giai đoạn trung gian chuyển tiếp giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính.
3.2. Vai trò của trí nhớ

68
- Trí nhớ có liên quan chặt chẽ đến toàn bộ đời sống tâm lý của con người. Trí nhớ là điều
kiện không thể thiếu để hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách và để có đời sống tâm lý bình
thường khoẻ mạnh.
- Nhờ ghi nhớ con người tích lũy được vốn kinh nghiệm cá nhân.
- Nhờ gìn giữ, con người bảo tồn được vốn kinh nghiệm.
- Nhờ nhận lại, nhớ lại (tái hiện) mà con người có thể đem kinh nghiệm của mình ứng dụng
vào thực tế cuộc sống.
- Trí nhớ là công cụ lưu giữ kết quả của nhận thức cảm tính, tạo cơ sở điều kiện để diễn ra
nhận thức lý tính, đồng thời lưu giữ cả kết quả của quá trình nhận thức lý tính.
3.3. Các loại trí nhớ
Căn cứ vào nội dung phản ánh, nguồn gốc hình thành, thời gian củng cố và gìn giữ, mục
đích của trí nhớ,... để phân chia ra nhiều loại trí nhớ khác nhau. Dưới đây là một số loại trí nhớ cơ
bản.
3.3.1. Trí nhớ hình ảnh
Trí nhớ hình ảnh là loại trí nhớ đối với một ấn tượng mạnh thuộc về một sự vật hiện
tượng đã tác động vào giác quan của chúng ta trước đây.
Dựa vào các cơ quan cảm giác tham gia vào quá trình trí nhớ mà trí nhớ hình ảnh được
chia thành trí nhớ thị giác, trí nhớ thính giác... (dựa vào ưu thế, tính chủ đạo của loại giác quan
nào trong quá trình ghi nhớ, gìn giữ và nhớ lại). Vai trò của mỗi loại trí nhớ hình ảnh cũng có sự
khác nhau ở mỗi cá nhân. Người làm nghề nấu ăn thì trí nhớ vị giác, khứu giác trở nên rất quan
trọng, người nghệ sĩ thì trí nhớ thính giác, thị giác lại quan trọng hơn. Đối với người khuyết tật bị
mù thì trí nhớ xúc giác, khứu giác lại thể hiện nổi trội.
3.3.2. Trí nhớ vận động
Là loại trí nhớ phản ánh những cử động và những hệ thống cử động .Ý nghĩa to lớn của
nó là ở chỗ nó là cơ sở để hình thành kỹ xảo thực hành và lao động khác nhau : đi, đứng, viết, vẽ
vv.. Sự khéo chân, khéo tay , những bàn tay vàng là những biểu hiện của trí nhớ vận động tốt.
3.3.3. Trí nhớ từ ngữ-logic
Loại trí nhớ này phản ánh những ý nghĩ tư tưởng của con người. Hệ thống tín hiệu thứ hai
giữ vai trò chính trong loại trí nhớ này. Đây là loại trí nhớ giữ vai trò chủ đạo của con người vì nó
thể hiện trong tất cả các loại trí nhớ khác, giữ vai trò chủ yếu trong việc lĩnh hội tri thức, kiến
thức và tích lũy kinh nghiệm của con người.
3.3.4. Trí nhớ cảm xúc
Là loại trí nhớ phản ảnh những rung cảm, trải nghiệm của con người. những rung cảm trải
nghiệm được giữ lại trong trí nhớ bộc lộ như là những tín hiệu kích thích hành động, hoặc kìm
hãm hành động. Trí nhớ xúc cảm có vai trò để cá nhân cảm nhận được giá trị thẩm mỹ trong hành
vi, cử chỉ, lời nói và trong nghệ thuật.
3.3.5. Trí nhớ không chủ định

69
Là loại trí nhớ mà trong đó việc ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện một cái gì đó được thực hiện
một cách tự nhiên, không có mục đích đặt ra từ trước.
3.3.6. Trí nhớ có chủ định
Là loại trí nhớ mà trong đó sự ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện đối tượng theo mục đích đặt ra
từ trước. Có sau trí nhớ không chủ định.
3.3.7. Trí nhớ ngắn hạn
Là loại trí nhớ tức thời, là trí nhớ sau khi giai đoạn vừa ghi nhớ, là loại trí nhớ mà sự ghi
nhớ (tạo vết), giữ gìn (củng cố vết) và tái hiện diễn ra ngắn ngủi, chốc lát.
3.3.8. Trí nhớ dài hạn
Là loại trí nhớ mà sự ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện thông tin được kéo dài sau nhiều lần lặp
lại thông tin được giữ lại dài lâu trong trí nhớ.
3.3.9. Trí nhớ thao tác (trí nhớ làm việc)
Trí nhớ thao tác là loại trí nhớ được huy động từ trí nhớ dài hạn (và có khi cả trí nhớ ngắn
hạn) để cá nhân thực hiện những thao tác, hành động khẩn thiết, hành động lời nói, hành động
phức tạp.
3.4. Các quá trình trí nhớ
3.4.1. Quá trình ghi nhớ
+ Ghi nhớ là gì?
Ghi nhớ là quá trình ghi lại trên vỏ não hình ảnh, dấu ấn, ấn tượng về sự vật hiện tượng mà
ta đã tri giác và kết quả của tư duy, tưởng tượng, xúc cảm...đồng thời là quá trình hình thành mối
liên hệ giữa các bộ phận của các biểu tượng mới với biểu tượng cũ và mối liên hệ của các biểu
tượng mới với nhau.
Ghi nhớ là quá trình tạo nên dấu vết (“ấn tượng”) của đối tượng trên vỏ não.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của ghi nhớ:
- Phụ thuộc vào đối tượng ghi nhớ: khó hay dễ, đơn điệu hay sinh động, hấp dẫn hay không
hấp dẫn.
- Phụ thuộc vào chủ thể ghi nhớ: thái độ, hứng thú, nhu cầu, mục đích, hành động,... của chủ
thể.
- Phụ thuộc vào cách thức, biện pháp ghi nhớ: việc sử dụng cách thức ghi nhớ khác nhau sẽ
dẫn đến kết quả ghi nhớ khác nhau.
+ Các hình thức ghi nhớ
* Ghi nhớ không chủ định: là loại ghi nhớ không có mục đích, kế hoạch đặt ra từ trước,
không đòi hỏi sự nỗ lực của ý chí mà vẫn ghi nhớ được đối tượng.
Kết quả của ghi nhớ không chủ định phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Phụ thuộc vào đối tượng, tài liệu ghi nhớ có những đặc điểm riêng biệt khác xa so với
những sự vật hiện tượng xung quanh, với tài liệu khác.

70
- Phụ thuộc vào cảm xúc, hứng thú, nhu cầu của cá nhân. Đối tượng nào phù hợp với cảm
xúc hững th nhu cầu thì cá nhân ghi nhớ nhanh, lâu hơn và ngược lại.
* Ghi nhớ có chủ định: là loại ghi nhớ có mục đích, kế hoạch đặt ra từ trức, đòi hỏi phải có
sự nỗ lực của ý chí.
Trong ghi nhớ có chủ định chia làm 2 loại:
+ Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa trên sự tri giác lặp đi lặp lại một cách đơn điệu,
hoặc tạo ra mối liên hệ bề ngoài của tài liệu ghi nhớ mà không hiểu nội dung của vấn đề cần ghi
nhớ.
+ Ghi nhớ ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung và nhận thức được mối
liên hệ logic giữa các phần của đối tượng ghi nhớ và vấn đề cần ghi nhớ. Ghi nhớ ý nghĩa có sự
tham gia của quá trình nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng).
Yêu cầu để ghi nhớ có chủ định đạt kết quả cao:
- Xác định mục đích, nội dung, nhiệm vụ, biện pháp ghi nhớ rõ ràng.
- Phải xác định được thời gian ghi nhớ.
Một số điều kiện giúp cho việc ghi nhớ tốt
+ Xác định được mục đích, nội dung cần ghi nhớ.
+ Biến đối tượng ghi nhớ thành hứng thú, nhu cầu ghi nhớ của cá nhân.
+ Xác định rõ thời gian ghi nhớ.
+ Kết hợp ghi nhớ với hoạt động độc lập của chủ thể.
3.4.2. Quá trình gìn giữ
+ Gìn giữ là gì?
Gìn giữ là giai đoạn củng cố vững chắc những dấu vết đã được hình thành trên vỏ não
trong quá trình ghi nhớ.
+ Các hình thức gìn giữ
- Gìn giữ tích cực: Là hình thức gìn giữ trên cơ sở tri giác lặp đi, lặp lại đối tượng, vấn đề
cần nhớ.(Thực hiện khi chưa nhớ lại được đối tượng, vấn đề cần ghi nhớ).
- Gìn giữ tiêu cực: là hình thức gìn giữ trên cơ sở nhớ lại đối tượng, vấn đề cần ghi nhớ mà
không cần tri giác lặp lại chúng (chỉ được thực hiện khi đã nhớ vững chắc đối tượng cần nhớ).
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của gìn giữ
+ Tính chất, ý nghĩa của vấn đề cần gìn giữ.
+ Phụ thuộc vào sự tích cực gắn kiến thức, đối tượng đã ghi nhớ vào hoạt động của chủ
thể.
+ Phụ thuộc vào trạng thái tâm sinh lý của chủ thể:
+ Một số điều kiện để gìn giữ tốt
+ Gắn đối tượng, vấn đề cần gìn giữ với các đối tượng, vấn đề có liên quan hoặc có ý
nghĩa sâu sắc.

71
+ Lập kế hoạch ôn luyện thường xuyên để củng cố vững chắc các biểu tượng đã có trong
trí nhớ.
+ Sắp xếp đối tượng, vấn đề được gìn giữ theo một trình tự, logic khoa học.
+ Gắn đối tượng, vấn đề cần ghi nhớ với hoạt động độc lập của bản thân.
3.4.3. Quá trình tái hiện
+ Tái hiện là gì?
Tái hiện là một quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi lại, giữ gìn trước
đây khi cần thiết.
+ Các hình thức tái hiện
Quá trình này có thể diễn ra dễ dàng, hoặc khó khăn, thường bao gồm ba loại:
* Nhận lại (tái nhận)
+ Nhận lại là gì?
Nhận lại là hình thức làm xuất hiện lại đối tượng, vấn đề đã ghi nhớ trước kia trong
điều kiện được tri giác lại đối tượng ghi nhớ.
+ Cách nhận lại hiệu quả:
- Khi tri giác lại đối tượng ta nên chú ý vào những đặc điểm cơ bản, ít thay đổi theo thời
gian.
- Nhận lại là một quá trình của trí nhớ vì thế cần có ý thức rèn luyện thường xuyên thì kết
quả nhận lại sẽ diễn ra tốt.
* Nhớ lại (tái hiện)
+ Nhớ lại là gì?
Nhớ lại là quá trình làm sống lại những những hình ảnh của đối tượng, vấn đề đã tri
giác trước đây mà không cần phải tri giác lại chúng.
Nhớ lại ở mỗi người khác nhau do mang tính chủ thể.
Nhớ lại không diễn ra độc lập không có nguyên nhân và diễn ra theo cơ chế liên
tưởng.
+ Cách nhớ lại hiệu quả:
- Nên chú ý tạo dựng cho chủ thể trạng thái tâm sinh lý bình thường.
- Sử dụng liên tưởng để gợi nhớ tốt (nhớ gián tiếp).
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu nhớ lại, đồng thời kết hợp lặp lại sự tái hiện có chủ định.
- Nắm được sự quên để có cách chống lại sự quên.
* Hồi tưởng
Hồi tưởng là hình thức tái hiện phải có sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ, đây là một hành
động trí tuệ phức tạp mà kết quả cuả nó phụ thuộc vào chỗ cá nhân ý thức rõ ràng chính xác đến
mức độ nào nội dung của nhiệm vụ tái hiện.
3.4.4. Quá trình quên
+ Quên là gì?

72
Quên là hiện tượng cá nhân không nhận lại, nhớ lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây
vào thời điểm cần thiết.
Quên diễn ra theo quy luật nhất định:
-Thường quên những gì không liên quan hoặc ít liên quan đến đời sống hay những gì
không phù hợp với hứng thú, nhu cầu, sở thích,... của cá nhân.
- Quên những gì không sử dụng thường xuyên trong hoạt động của cá nhân.
- Quên có thể xảy ra khi gặp một kích thích mạnh hay kích thích mới lạ.
- Sự quên xảy ra với tốc độ nhanh hay chậm phụ thuộc vào khối lượng, nội dung hiện
tượng và thời gian giữ gìn.
- Sự quên phụ thuộc vào tuổi tác.
Theo các nhà sinh lý học, quên là hiện tượng các đường liên hệ thần kinh tạm thời được
thành lập trước đây bị ức chế, không khôi phục lại được trong suốt một thời gian dài hay tạm
thời. Điều này cho thấy quên diễn ra các mức độ khác nhau.
+ Các mức độ quên
- Quên hoàn toàn: Là hiện tượng hoàn toàn không nhận lại được hay nhớ lại được đối tượng,
vấn đề đã ghi nhớ.
- Quên cục bộ: Là hiện tượng không tái hiện được đối tượng, vấn đề đã ghi nhớ tại thời điểm
nào đó song có thể tái hiện vào thời điểm khác.
3.5. Các nguyên nhân dẫn đến sự quên
- Quên do cá nhân chưa hiểu kỹ vấn đề, tài liệu
- Quên khi không xác định rõ mục đích, nhiệm vụ cần nhớ.
- Quên những gì ít có liên quan đến cuộc sống, nhu cầu, hứng thú và nghề nghiệp của bản
thân.
- Quên những điều không vận dụng nhiều vào thực tiễn.
- Quên khi gặp kích thích mới lạ và mạnh.
- Quên do quá tập trung vào việc khác cũng gây hiện tượng đãng trí
- Quên do quá tải thông tin (việc học nhồi nhét là một minh chứng).
- Quên do tổn thương não, hệ thần kinh,...
- Quên do lão hóa (tuổi tác, do tâm sinh lý cá nhân).
3.6. Các cách rèn luyện trí nhớ
- Tập trung chú ý cao độ khi ghi nhớ, có ý chí, nghị lực và say mê.
- Phối hợp nhiều giác quan vào quá trình ghi nhớ, cần vận dụng hiểu biết, kinh nghiệm vào
quá trình ghi nhớ.
- Xác định mục đích, nhiệm vụ ghi nhớ là nhu cầu hứng thú của bản thân.
- Cần tạo điều kiện để tri giác được tốt nhất, tư duy nhiều nhất, hiểu biết rõ nhất đối tượng
được ghi nhớ.

73
- Kết hợp cùng một lúc nhiều hình thức ghi nhớ, đồng thời vận dụng nhiều sự liên tưởng để
tạo sự ghi nhớ, giữ gìn tốt.
- Kết hợp lý thuyết với thực hành luyện tập và thực tiễn cuộc sống.
- Phải thường xuyên ôn tập những điều đã được ghi nhớ. Khi ôn tập cần tích cực tái hiện tài
liệu ôn thường xuyên, kết hợp ôn toàn bộ và ôn luyện từng phần.
- Nên giữ trạng thái tâm sinh lý và cơ thể khoẻ mạnh để chống quên.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 5

1. Cảm giác, tri giác là gì? Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa cảm giác và tri giác, từ đó
rút ra những đặc điểm chung của nhận thức cảm tính.
2. Xác định nội dung và ý nghĩa của các quy luật của cảm giác: Quy luật ngưỡng cảm giác, quy
luật thích ứng của cảm giác và quy luật tác động qua lại giữa các cảm giác.
3. Chỉ ra cảm giác, tri giác có vai trò gì trong đời sống con người nói chung, hoạt động nhận thức
của con người nói riêng.
4. Tư duy là gì? Chỉ ra các đặc điểm của tư duy.
5. Xác định các giai đoạn của tư duy và vai trò của tư duy đối với cuộc sống của con người.
6. Tưởng tượng là gì? Phân biệt những đặc điểm giống và khác nhau giữa tư duy và tưởng tưởng
tượng.
7. Chỉ ra các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng, ứng dụng của tưởng tượng trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
8. Trí nhớ là gì? Chỉ ra các giai đoạn của trí nhớ. Làm thế nào để ghi nhớ tốt và chống quên hiệu
quả.
9. Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
10. Ứng dụng của tư duy và tưởng tượng trong đời sống của con người nói chung, trong học tập
của sinh viên nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 5 (VẤN ĐỀ 5)

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công
an nhân dân, Hà Nội, 2011.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội,
2005, 2013.
Tài liệu trực tuyến
+ tailieu.vn/doc/nentangtamlyhocdaicuong – phan 1- 1742781.html
+ luutruqtvp2011.forumvi.com/t8 –topic
74
+https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-xuan-thuc-
1735833.html
+ https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-quang-uan-
153195.html
+https://vietbooks.info/threads/bai-tap-thuc-hanh-tam-ly-hoc-nxb-dai-hoc-
quoc-gia-2002-tran-trong-thuy-215-trang.10463/

Chương 6. XÚC CẢM VÀ TÌNH CẢM

Mục tiêu: Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể:
- Hiểu và trình bày được khái niệm về tình cảm
- Phân biệt được sự khác nhau giữa xúc cảm và tình cảm.
- Trình bày được nội dung các đặc điểm và các quy luật của tình cảm.
- Phân tích và vận dụng các quy luật của tình cảm để giải thích các hiện tượng tình cảm
diễn ra trong thực tế, hình thành và bồi dưỡng tình cảm cá nhân đối với cuộc sống nói chung,
nghề nghiệp tương lai nói riêng.
Nội dung chính:
- Khái niệm xúc cảm, tình cảm
- Vai trò của xúc cảm và tình cảm
- Đặc điểm của tình cảm
- Các quy luật của tình cảm
- Các mức độ của xúc cảm và tình cảm
- Trí tuệ cảm xúc
1. KHÁI NIỆM XÚC CẢM-TÌNH CẢM
1.1. Định nghĩa xúc cảm, tình cảm
Trong quá trình tác động qua lại giữa con người với thế giới khách quan, con người không
chỉ nhận thức thế mà còn tỏ thái độ của mình với thế giới. Những hiện tượng tâm lý biểu thị thái
độ của con người với thế giới xung quanh được gọi là xúc cảm, tình cảm. Đời sống tình cảm của
con người rất phong phú, đa dạng và thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, có ảnh
hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời sống của con người.
Xúc cảm, tình cảm là thái độ riêng của cá nhân đối với hiện thực khách quan có liên
quan đến sự thỏa mãn nhu cầu của họ.
Là một trong những hiện tượng tâm lý của con người phản ánh hiện thực khách quan của
cá nhân, đặc trưng của phản ánh cảm xúc, tình cảm là phản ánh mối quan hệ giữa các sự vật hiện
tượng với nhu cầu của cá nhân. Nguồn gốc của xúc cảm, tình cảm là sự vật hiện tượng đó có

75
phù hợp hay không phù hợp với nhu cầu của cá nhân. Nếu nhận thức phản ánh thế giới bằng hình
ảnh, biểu tượng, khái niệm thì xúc cảm, tình cảm phản ánh thế giới hiện thực bằng thái độ của
con người thông qua các trải nghiệm, các rung cảm.
1.2. Đặc điểm chung của xúc cảm-tình cảm
+ Là thái độ của cá nhân;
+ Xúc cảm, tình cảm có được là do hiện thực khách quan tác động:
- Hiện tượng trong tự nhiên
- Hiện tượng trong xã hội
- Hiện tượng xảy ra trong bản thân
+ Những đối tượng nào liên quan đến nhu cầu, động cơ của cá nhân mới tạo nên xúc cảm,
tình cảm.
1.3. Phân biệt giữa xúc cảm và tình cảm
1.3.1. Định nghĩa xúc cảm, tình cảm
Xúc cảm là những rung động của con người trước một tình huống cụ thể, mang tính
nhất thời, không ổn định.
Tình cảm là thái độ cảm xúc mang tính ổn định của con người đối với HTKQ, nó phản
ánh ý nghĩa của chúng trong mối quan hệ với nhu cầu và động cơ của họ. Tình cảm là sản phẩm
cao cấp của sự phát triển xúc cảm trong những điều kiện xã hội nhất định.
1.3.2. Giống nhau
+ Đều do HTKQ tác động, biểu thị thái độ của cá nhân với môi trường xung quanh;
+ Nội dung và hình thức biểu hiện đều mang màu sắc chủ quan;
+ Đều liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân.
1.3.3. Khác nhau
Tình cảm của con người được hình thành và biểu hiện thông qua xúc cảm, tuy nhiên giữa
xúc cảm và tình cảm có sự khác biệt nhau trong hệ thống thái độ của con người với thế giới. Cụ
thể:
Xúc cảm Tình cảm
Có cả ở người và động vật Chỉ có ở người
Là quá trình tâm lý Là một thuộc tính tâm lý
Xuất hiện trước Xuất hiện sau
Có tính nhất thời, đa dạng, phụ thuộc Có tính xác định và ổn định
vào tình huống
Thực hiện chức năng sinh học (giúp cơ Thực hiện chức năng xã hội (giúp con
thể định hướng và thích nghi với môi trường người định hướng và thích nghi với xã hội với
bên ngoài với tư cách là một cá thể) tư cách là một nhân cách)
Gắn liền với phản xạ không điều kiện, Gắn liền với phản xạ có điều kiện, với
bản năng, với hệ thống tín hiệu thứ nhất động hình và hệ thống tín hiệu thứ hai
76
Tuy có sự khác nhau, nhưng giữa xúc cảm và tình cảm có quan hệ mật thiết với nhau. Đó
là do tình cảm được hình thành từ những xúc cảm cùng loại, do các cảm xúc được lặp đi lặp lại,
tái hiện nhiều lần trong cuộc sống, trở thành một thói quen “ứng xử” cá nhân. Thói quen này
chính là kết quả của quá trình động hình hóa, tổng hợp hóa, khái quát hóa những xúc cảm của con
người. Cảm xúc là cơ sở hình thành tình cảm và là phương tiện biểu hiện ra bên ngoài của tình
cảm.
Cơ sở sinh lý thần kinh của cảm xúc, tình cảm là sự tác động qua lại lẫn nhau trong cơ thể
hoạt động của vỏ não, hoạt động của các trung khu thần kinh dưới vỏ và hệ thống tín hiệu thứ hai.
Quá trình hưng phấn trong hệ thần kinh có tác dụng gây trương lực cho hoạt động cơ thể. Trong
một số cảm xúc, các cơ quan thuộc hệ thần kinh thực vật tăng cường hoạt động và gây nên sự
hăng hái, hưng phấn, tỉnh táo, dẻo dai, bền bỉ cho con người hoạt động. Quá trình ức chế trong hệ
thần kinh làm giảm trương lực của hoạt động. Trong trường hợp này, hệ thần kinh thực vật và các
cơ quan do nó điều khiển hạ thấp hoạt động, con người cảm thấy mệt mỏi, chán nản, do dự, buồn
bã… Cảm xúc có liên quan chặt chẽ với các quá trình sinh lý. Trong trạng thái cảm xúc, các rung
động thần kinh từ vỏ não, truyền tới hệ thần kinh thực vật, tạo nên những biến đổi sinh ký nhất
định của cơ thể. Ngược lại, những trạng thái khác nhau bên trong cơ thể lại là những kích thích
gây nên nhiều cảm xúc khác nhau. Những cảm xúc liên quan đến sự thỏa mãn nhu cầu về cơ thể
như dinh dưỡng, tự vệ, tự bảo tồn… thì có cả ở người và động vật, song cảm xúc của con người
căn bản khác cảm xúc bản năng của loài vật, nó bị chi phối bởi điều kiện xã hội, chịu ảnh hưởng
của kinh nghiệm xã hội. Cảm xúc của con người được thể hiện với nội dung xã hội và đòi hỏi của
xã hội.
1.3.4. Mối quan hệ giữa xúc cảm và tình cảm
+ Xúc cảm là cơ sở, nền tảng của tình cảm; không có xúc cảm không nảy sinh tình cảm;
+ Xúc cảm là biểu hiện của tình cảm;
+ Tình cảm tác động lại xúc cảm, chi phối xúc cảm về cường độ, tốc độ, nội dung.
2. VAI TRÒ CỦA XÚC CẢM, TÌNH CẢM
2.1. Vai trò của tình cảm đối với hoạt động nhận thức
Là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức;
Kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của con người;
Có thể làm biến dạng, biển đổi sản phẩm của nhận thức, làm kết quả nhận thức không còn
đúng với HTKQ.
2.2. Vai trò của tình cảm đối với hoạt động
Là động lực thúc đẩy hoạt động;
Khắc phục mọi khó khăn;
Có ảnh hưởng tích cực, hoặc tiêu cực đến kết quả của HĐ;
Có ý nghĩa đặc biệt đối với những hoạt động có tính chất sáng tạo.
2.3. Vai trò của tình cảm đối với đời sống của con người

77
Không có xúc cảm, tình cảm con người không thể tồn tại;
Hiện tượng “đói tình cảm”, “vô cảm” dẫn đến rối loạn tâm lý, sinh lý của con người, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát triển của cá nhân và mọi người xung quanh.
Tình cảm có vai trò vô cùng to lớn trong cuộc sống và hoạt động của con người. Tình cảm
thúc đẩy con người hoạt động, giúp con người vượt qua những khó khăn trở ngại gặp phải trong
quá trình hoạt động. Sự thành công của mọi công việc phụ thuộc không nhỏ vào thái độ của con
người đó đối với công việc. Đặc biệt là tình cảm say mê tích cực có cường độ mạnh, thời gian tồn
tại lâu và được con người ý thức rõ ràng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thành công của con người
trong lĩnh vực hoạt động đó.
Cảm xúc, tình cảm nảy sinh trong quá trình hoạt động và có vai trò to lớn trong hoạt động
của con người. Cảm xúc, tình cảm tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống, trở thành động lực chi
phối mạnh mẽ mọi hoạt động hàng ngày của con người. Trên một mức độ nhất định, xúc cảm,
tình cảm chi phối cả nhận thức, ý chí của con người. Xúc cảm, tình cảm không chỉ kích thích mọi
hoạt động, chiếm giữ vị trí quan trọng trong số những động cơ cá nhân, không chỉ là nhân tố điều
chỉnh hành vi, hoạt động của cá nhân mà còn ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa con người với
nhau, chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lý của nhân cách (nhu cầu, hứng thú, niềm tin, tính
cách, là điều kiện và động lực để hình thành năng lực…).
Muốn con người đạt hiệu quả cao trong hoạt động, muốn phát triển nhân cách con người
một cách thuận lợi, nhà giáo dục phải biết quan tâm tới việc hình thành, phát triển những cảm
xúc, tình cảm lành mạnh, tích cực, cao đẹp.
3. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA XÚC CẢM, TÌNH CẢM
Con người là một thực thể xã hội, tình cảm con người đều có cơ sở xã hội và mang tính
chất xã hội. Xúc cảm, tình cảm hình thành và phát triển chịu sự chi phối bởi các điều kiện xã hội
nhất định: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, phong tục tập quán,... của mỗi dân tộc.
Xúc cảm, tình cảm được nảy sinh và chịu sự tác động của hoàn cảnh xã hội thể hiện ở
tính giai cấp, tính dân tộc trong nội dung và cách biểu đạt.
4. CÁC ĐẶC ĐIỂM ĐẶC TRƯNG CỦA TÌNH CẢM
4.1. Tính nhận thức
Tình cảm được nảy sinh trên cơ sở những xúc cảm của con người trong quá trình nhận
thức thế giới. Hay nói khác đi, nhận thức, rung động và phản ứng cảm xúc là ba yếu tố làm nảy
sinh tình cảm. Trong đó, nhận thức được xem là “cái lý” của tình cảm và làm cho tình cảm có
tính đối tượng xác định. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ con người nhận thức được nguyên nhân gây
nên tình cảm, đối tượng của tình cảm, biểu hiện của tình cảm, phương thức thể hiện tình cảm…
4.2. Tính xã hội
Tình cảm chỉ có ở con người, nó mang tính xã hội, thực hiện chức năng xã hội và được
hình thành trong môi trường xã hội chứ không phải là phản ứng sinh lý đơn thuần. Bởi xuất phát
từ bản chất xã hội – lịch sử của tâm lý con người, nên tình cảm của con người cũng mang tính xã

78
hội – lịch sử. Nội dung của xúc cảm, tình cảm phụ thuộc vào các đặc trưng, điều kiện chính trị -
kinh tế xã hội cụ thể. Đặc biệt là những tình cảm nghĩa vụ, tình yêu tổ quốc, yêu cái đẹp trong
tính cách con người, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, tình yêu lao động… Những xúc cảm,
tình cảm đó chỉ có ở con người, được hình thành trong các môi trường xã hội nhằm thực hiện
chức năng xã hội và các chuẩn mực xã hội.
4.3.Tính ổn định
Nếu xúc cảm là thái độ nhất thời, có tính tình huống thì tình cảm là những thái độ ổn định
của con người đối với hiện thực xung quanh và đối với bản thân. Chính vì vậy, mà tình cảm là
một thuộc tính tâm lý, một đặc trưng quan trọng của nhân cách con người. Nguyên nhân là do
tình cảm của con người được hình thành lâu dài hơn so với cảm xúc nên tình cảm là thái độ tương
đối bền vững và ít thay đổi của con người đối với hiện thực xung quanh.
4.4. Tính chân thực
Tính chân thực của tình cảm thể hiện ở chỗ, tình cảm phản ánh chính xác nội tâm thực
của con người ngay cả khi con người cố che dấu (ngụy trang) bằng “những động tác giả” bên
ngoài. Trên thực tế, con người khó có thể che giấu được tình cảm của mình.
4.5. Tính đối cực (tính hai mặt)
Tính đối cực của tình cảm gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong một
hoàn cảnh nhất định, một số nhu cầu được thỏa mãn, còn một số nhu cầu lại bị kìm hãm hoặc
không được thỏa mãn. Tương ứng với điều đó, tình cảm của con người được phát triển và mang
tính đối cực. Ví dụ như: yêu – ghét, vui – buồn, tích cực – tiêu cực…
5. CÁC QUY LUẬT CỦA XÚC CẢM TÌNH CẢM
5.1. Quy luật “thích ứng”
Giống như cảm giác, tình cảm cũng có hiện tượng thích ứng, nghĩa là, xúc cảm, tình cảm
của con người nếu lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn điệu thì đến một lúc nào đó nó trở nên
“chai sạn”, suy yếu và lắng xuống như hiện tượng “gần thường, xa thương”…
5.2. Quy luật “cảm ứng’ hay “tương phản”
Giống như cảm giác, tình cảm cũng có sự tương phản, nghĩa là trong quá trình hình thành
hoặc biểu hiện của tình cảm, sự xuất hiện hay suy yếu đi của một tình cảm này có thể làm tăng
hoặc giảm đi một tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp nó. Ví dụ: khi chấm bài, sau một
loạt bài kém, gặp một bài khá, giáo viên thấy hài lòng hơn nhiều so với trường hợp bài khá đó
nằm trong một loạt bài khá đã gặp trước đó.
5.3. Quy luật “pha trộn”
Trong đời sống tình cảm của mỗi cá nhân, nhiều khi hai tình cảm đối cực nhau xảy ra
cùng một lúc, nhưng không loại trừ nhau mà “pha trộn” vào nhau cùng thống nhất và tồn tại trong
cùng một con người. Nguyên nhân là do trong cùng một thời điểm không phải mọi nhu cầu của
con người đều được thỏa mãn mà mà có nhu cầu được thỏa mãn có nhu cầu không được thỏa

79
mãn dẫn đến hiện tượng pha trộn giữa cảm xúc âm tính và cảm xúc dương tính trong cùng một
thời điểm. Ví dụ giận mà thương, yêu và ghen trong tình yêu…
5.4. Quy luật di chuyển
Xúc cảm, tình cảm của con người có thể được “di chuyển” từ đối tượng này sang đối
tượng khác không phải là nguyên nhân gây nên tình cảm. Ví dụ như hiện tượng “giận cá chém
thớt” hay “vơ đũa cả nắm”…
5.5. Quy luật “lây lan”
Tình cảm của con người có thể lây truyền từ người này sang người khác. Quy luật này thể
hiện tính xã hội của tình cảm, nguyên nhân là do các cá nhân cùng thể nghiệm, cùng trải nghiệm
một sự kiện nào đó. Ví dụ như hiện tượng “buồn lây”, “vui lây”…
5.6. Quy luật hình thành tình cảm
Tình cảm được hình thành lâu dài và phức tạp hơn quá trình nhận thức. Nó được hình
thành từ những xúc cảm đồng loại được tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát hóa mà thành.
Nói như vậy có nghĩa là, mặc dù tình cảm được hình thành từ những xúc cảm song không phải là
sự cộng gộp đơn giản các xúc cảm thành phần để tạo thành tình cảm mà xúc cảm của con người
được tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát hóa mới hình thành nên tình cảm.
6. CÁC MỨC ĐỘ CỦA XÚC CẢM-TÌNH CẢM
6.1. Màu sắc xúc cảm của cảm giác.
Đây là mức độ thấp nhất của sự phản ánh cảm xúc, nó là một sắc thaí cảm xúc đi kèm theo quá
trình cảm giác.
Màu sắc xúc cảm của cảm giác không được chủ thể nhận thức như là một hiện tượng tâm lý
độc lập mà như là một thuộc tính đặc sắc của quá trình tâm lý Nó chỉ thoáng qua không mạnh
mẽ, màu sắc xúc cảm của cảm giác mang tính chất cụ thể, gắn liền vơí các cảm giác nhất định, và
không được chủ thể ý thức một cách rõ ràng.
6.2. Xúc cảm
Đó là mức độ phản ánh cảm xúc cao hơn, nó có những đặc điểm sau: xảy ra nhanh chóng
nhưng mạnh mẽ rõ rệt hơn so vơí màu sắc xúc cảm của cảm giác, nó do những sự vật hiện tượng
trọn vẹn gây nên, có tính chất khái quát cao hơn và được chủ thể ý thức ít nhiều rõ rệt hơn so với
màu sắc xúc cảm của cảm giác
Tuỳ theo mức độ và tính ổn định và tính ý thức cao hay thấp người ta chia xúc cảm thành hai
loại xúc động và tâm trạng
Xúc động là một dạng của xúc cảm có cường độ rất mạnh xảy ra trong một thơì gian ngắn, đôi
khi con người không làm chủ được bản thân mình
Tâm trạng là một trạng thái xúc cảm chung bao trùm lên toàn bộ các hoạt động và làm nền cho
hoạt động của con người có ảnh hưởng đến toàn bộ hành vi của họ trong một thời gian khá dài
Trạng thái căng thẳng (Stress) là một trạng thái căng thẳng nảy sinh trong tình huống nguy
hiểm, trong những tình huống phải chịu đựng mhững nặng nhọc về thể xác và tinh thần hoặc
trong điều kiện phải giải quyết những hành động nhanh chóng và trọng yếu.
80
6.3. Tình cảm
Đó là một thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh và đối với bản thân
mình, nó như là một thuộc tính ổn định của nhân cách
Người ta có thể chia tình cảm thành hai loại:
6.3.1.Tình cảm cấp thấp
Là tình cảm liên quan đến sự thõa mãn những nhu cầu sinh vật của cơ thể (Như nhu cầu
về mặt sinh học ).
6.3.2.Tình cảm cấp cao
Tình cảm cấp cao là tình cảm liên quan đến những thoã mãn những nhu cầu mang tính
chất xã hội và nó nói lên thái độ của con người đối vơí những mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Tình cảm cấp cao gồm:
Tình cảm trí tuệ: Tình cảm trí tuệ nảy sinh trong quá trình hoạt động nhận thức, cho thấy
thái độ của con người đối với những tri thức mới, thể hiện ở sự tò mò ham hiểu biết, óc hoài nghi
khoa học, khát khao khám phá cái mới. Nhờ có tình cảm trí tuệ mà con người phát triển tư duy
của mình đồng thời giúp cho sự phát triển của nền văn hóa xã hội.
Tình cảm lao động: Tình cảm lao động là những thái độ thể hiện sự rung động của con
người đối với hoạt động lao động, chẳng hạn tinh thần trách nhiệm, yêu lao động.
Tình cảm đạo đức: Tình cảm đạo đức là những thái độ đối với một loạt những chuẩn mực
đạo đức, hoặc với việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức của bản thân và người khác.
Ví dụ: lòng tự trọng, yêu nước, nhân ái, hy sinh, tình yêu nam nữ, tình bạn, tình mẹ con.
Tình cảm thẩm mỹ: Tình cảm thẩm mỹ nảy sinh khi con người thỏa mãn hay không thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ như tình yêu cái đẹp chân chính, ghê tởm và khinh bỉ cái thấp hèn, xấu xa.
Trên thực tế những tình cảm này đan xen vào nhau. Trong tình cảm đạo đức có thể bao gồm cả
tình cảm trí tuệ trong đó, hoặc thậm chí cả tình cảm thẩm mỹ. Chẳng hạn, trong tình yêu nam nữ,
con người tò mò khám phá về người kia và thể hiện sự nâng niu trân trọng cái đẹp cái hay của
người mình yêu.
Dạng đặc biệt của tình cảm là say mê và đam mê. Khi say mê hoặc đam mê một sự vật,
hiện tượng nào đó con người dành hết thời gian trí tuệ, năng lượng của mình vào đối tượng ấy và
dường như những sự vật, hiện tượng khác nằm ngoài đối tượng của say mê hay đam mê không
còn tồn tại, nói khác đi, không còn ý nghĩa đối với chủ thể đó nữa. Do đó, say mê và đam mê có
thể dẫn đến mù quáng.
7. TRÍ TUỆ CẢM XÚC
7.1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc
Là khả năng thấu hiểu cảm xúc của bản thân và người khác dẫn tới định hướng hành
động phù hợp.
7.2. Vai trò của trí tuệ cảm xúc

81
Xây dựng tốt các mối quan hệ xã hội của cá nhân (mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, ...)
thông qua sự đồng cảm, thấu hiểu lẫn nhau.
Giúp bộ não hoạt động bình thường, tránh âu lo, sợ hãi, chán nản, sự giận dữ, bi quan,
ngăn chặn nguy cơ trầm cảm.
Thúc đẩy hoặc kìm hãm một hành động trí tuệ nào đó của cá nhân, ảnh hưởng lớn đến kết
quả của hành động trí tuệ. Đồng thời, trí tuệ cảm xúc còn giúp cá nhân hướng đạo cho hành động
của mình, dẫn dắt, định hưởng, chỉ đạo hoạt động của cá nhân theo hướng tích cực hoặc tiêu cực
phụ thuộc vào cảm xúc ở sắc thái tích cực hoặc tiêu cực.
7.3. Cấu trúc của trí tuệ cảm xúc
Khả năng nhận biết, đánh giá và thể hiện cảm xúc của bản thân;
Khả năng nhận biết, đánh giá cảm xúc của người khác;
Khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân và cảm xúc của người khác;
Sử dụng cảm xúc để định hướng hành động và điều chỉnh hành vi của bản thân.
7.4. Các biện pháp rèn luyện trí tuệ cảm xúc
Hiểu được cảm xúc của bản thân:
+ Nhận diện và gọi tên cảm xúc;
+ Chỉ ra được nguyên nhân của cảm xúc;
+ Xác định được ảnh hưởng của cảm xúc đến hành động cá nhân.
Kiểm soát được cảm xúc của bản thân
+ Ứng xử khoan dung;
+ Nhìn nhận, đánh giá vấn đề khách quan;
+ Suy nghĩ tích cực;
+ Điều chỉnh nhu cầu, nguyện vọng cá nhân.
Tăng khả năng đồng cảm
+ Đặt vị trí của mình vào vị trí của người khác;
+ Thấu hiểu cảm xúc của người khác;
+ Biết lắng nghe người khác.
Xây dựng tốt các mối quan hệ xã hội XH
+ Phân tích và hiểu được các mối quan hệ xã hội;
+ Thân thiện, cởi mở trong giao tiếp;
+ Chủ động, tự tin trong giao tiếp;
+ Quan tâm đến mọi người xung quanh;
+ Hình thành kỹ năng giải quyết các xung đột.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


- Giáo trình tâm lí học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2011, Chương VI.
82
- Giáo trình tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2005, Chương V (tr. 158 – 167).
Tài liệu trực tuyến
+ tailieu.vn/doc/nentangtamlyhocdaicuong – phan 1- 1742781.html
+ luutruqtvp2011.forumvi.com/t8 –topic
+https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-xuan-thuc-
1735833.html
+ https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-quang-uan-
153195.html
+https://vietbooks.info/threads/bai-tap-thuc-hanh-tam-ly-hoc-nxb-dai-hoc-
quoc-gia-2002-tran-trong-thuy-215-trang.10463/

83
CHƯƠNG 7. Ý CHÍ

Mục tiêu của chương:


Nêu và phân tích được khái niệm ý chí và nội dung của từng phẩm chất ý chí, cấu trúc và
3 giai đoạn của Hành động ý chí, các biện pháp rèn luyện ý chí.
Phân biệt được hành động ý chí với hành động khác.
Đánh giá được vai trò của ý chí trong đời sống, biết cách rèn luyện ý chí và tạo động lực
trong cuộc sống.
Nội dung chính:
Khái niệm ý chí
Các phẩm chất ý chí
Hành động ý chí
Ý chí trong lĩnh vực pháp lý
1. KHÁI NIỆM Ý CHÍ
1.1. Định nghĩa ý chí
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có
mục đích và đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn.
Ý chí được xem là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện của ý thức trong thực tiễn,
bởi vì ở đó con người nhận thức được mục đích của từng hành động khi con người thực hiện, có
quá trình đấu tranh động cơ trong quá trình thực hiện hành động đạt mục đích, có sự lựa chọn
biện pháp, phương tiện tiến hành để vượt qua khó khăn trở ngại cả về những yếu tố khách quan
và chủ quan để đạt được mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, mục đích trong ý chí là mục đích mang
tính xã hội không phải mục đích tự tư, tự lợi. Hơn nữa giá trị của ý chí không phải chỉ ở cường độ
mạnh hay yếu mà chính là ở nội dung đạo đức của ý chí.
1.2. Đặc điểm của ý chí
`- Ý chí là một thuộc tính tâm lý của cá nhân;
Ý chí không phải là thuộc tính bẩm sinh của con người. Việc đề ra mục đích, ra quyết
định, thực hiện hành động để đạt mục đích phụ thuộc vào sự hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống, sự
giáo dục và tự rèn luyện của mỗi cá nhân. Do đó, bản chất của ý chí là ở chỗ con người trên cơ sở
nhận thức được quy luật tự nhiên, xã hội, tích cực chủ động biến đổi môi trường bên ngoài nhằm
đáp ứng nhu cầu của mình và của xã hội.
Về bản chất của ý chí, theo thuyết “Vô định” cho rằng, ý chí là một sức mạnh tinh thần vô
hạn nằm ngoài không gian và thời gian. Con người sinh ra được tự do tuyệt đối, mọi hành động,
hoạt động đều do ý muốn chủ quan của con người không tuân theo và phụ thuộc vào bất cứ điều
kiện, hoàn cảnh khách quan nào, không có cái gì có thể ngăn cản, hạn chế được nên không phải
cân nhắc, tính toán. Thuyết “Quyết định máy móc” cho rằng, ý chí phụ thuộc vào hoạt động của

84
não và thế giới khách quan. Mọi hành động, hoạt động đều phụ thuộc vào tự nhiên, nhưng sự phụ
thuộc đó là bị động, mù quáng. Thuyết này phủ nhận tính tích cực, năng động của con người. Cả
hai thuyết trên đều tuyệt đối hóa tự do, phản khoa học, mà thực chất là khơi dậy tính tự do tùy
tiện, đề cao cái tôi, hoặc tuyệt đối hóa sự tác động của lực lượng siêu nhiên bên ngoài làm lu mờ
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ thể hoạt động. Tâm lý học Mácxit xem xét theo quan
điểm duy vật biện chứng, phân tích một cách khách quan, khoa học về nguồn gốc, bản chất, nội
dung của ý chí, vạch ra phương pháp rèn luyện, phát triển ý chí một cách đúng đắn.
- Ý chí xuất hiện trong những hành động có những khó khăn, trở ngại;
Không phải mọi hành động của cá nhân đều xuất hiện ý chí, chỉ khi chủ thể đối mặt với
những hoạt động có khó khăn trở ngại, nghĩa là nếu chủ thể không cố gắng thì sẽ không đạt được
mục đích, không hoàn thành nhiệm vụ, do đó họ phải nỗ lực, phải huy động sức mạnh của mình
để vượt qua khó khăn (chủ quan, khách quan).
- Cá nhân thể hiện sự nỗ lực khắc phục những khó khăn để đạt được mục đích đề ra;
Nói tới ý chí là nói tới quá trình tự điều khiển từ bên trong để khắc phục khó khăn trở
ngại nhằm đạt tới mục đích đã định. Ý chí có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động và đời sống
thường ngày của con người. Người nào không có ý chí hoặc ý chí kém thì khó có thể làm được
việc gì. Ý chí vững vàng là cơ sở, là tiền đề của mọi thành công, thắng lợi.
Cũng như các năng lực tinh thần khác, con người ta bẩm sinh ra không phải đã có sẵn ý
chí kiên cường hay bạc nhược. Ý chí con người chịu sự quy định của những nguyên nhân xác
định và được phát triển trong đời sống xã hội và trong hoạt động của cá nhân. Thực vậy, nguồn
gốc của hoạt động ý chí của con người là thế giới khách quan, là hoạt động thực tiễn của con
người, nhằm cải tạo thế giới dựa trên những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội . Con
người đề ra mục đích hoạt động, phát huy sự nỗ lực của bản thân để thực hiện mục đích ấy với
kết quả tốt nhất, nhiều nhất.
- Ý chí là một biểu hiện của ý thức có tính chất cơ động, năng động.
Ý chí được xem là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện của ý thức trong thực tiễn,
bởi vì ở đó con người nhận thức được mục đích của từng hành động khi con người thực hiện, có
quá trình đấu tranh động cơ trong quá trình thực hiện hành động đạt mục đích, có sự lựa chọn
biện pháp, phương tiện tiến hành để vượt qua khó khăn trở ngại cả về những yếu tố khách quan
và chủ quan để đạt được mục đích đã đề ra. Tuy nhiên, mục đích trong ý chí là mục đích mang
tính xã hội không phải mục đích tự tư, tự lợi. Hơn nữa giá trị của ý chí không phải chỉ ở cường độ
mạnh hay yếu mà chính là ở nội dung đạo đức của ý chí.
Ý chí là hiện tượng tâm lý phản ánh hiện thực khách quan biểu thị sức mạnh của bản thân
trong cải tạo hiện thực khách quan.
Ý chí có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động và đời sống thường ngày của con người.
Người nào không có ý chí, hoặc ý chí kém thì khó có thể làm được việc gì. Ý chí vững vàng là

85
tiền đề của mọi thành công, thắng lợi. Khi bàn về vai trò của ý chí, Hồ Chủ tịch đã nói “Không có
việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”.
2. CÁC PHẨM CHẤT CỦA Ý CHÍ
Trong quá trình thực hiện những hành động ý chí, các phẩm chất ý chí của con người
được hình thành. Những phẩm chất này vừa đặc trưng cho cá nhân vừa có ý nghĩa tinh thần cho
đời sống và quá trình lao động của họ.
2.1. Tính mục đích
Đây là một phẩm chất rất quan trọng của ý chí, cho phép con người đề ra những mục tiêu xác
định và giúp con người điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác. Tính mục đích của ý chí phụ
thuộc vào thế giới quan, nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí. Phẩm chất
này chính là năng lực của một cá nhân biết đặt các hành vi, hoạt động của mình tuân theo những
mục đích nhất định và có ý nghĩa xã hội cao cả.
2.2. Tính độc lập
Đây là phẩm chất của ý chí cho phép con người có khả năng quyết định và thực hiện hành
động theo những quan điểm, niềm tin của mình và không bị chi phối bởi những tác động bên
ngoài. Biểu hiện của nó là chủ động điều chỉnh mọi suy nghĩ, tình cảm, hành động để đạt mục
đích, có quan điểm chính kiến rõ ràng đối với các vấn đề trong cuộc sống, tự bản thân đề xuất
mục đích hoạt động, tự lựa chọn cách thức, biện pháp và tự mình cố gắng để đạt mục đích đã đề
ra.
Tính độc lập của ý chí hoàn toàn khác với sự bảo thủ, bướng bỉnh, chống lại sự ảnh hưởng
từ bên ngoài bất luận đúng hay sai.
2.3.Tính quyết đoán
Là khả năng con người có thể đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát trên cơ sở tính
toán, cân nhắc kỹ càng chắc chắn. Tiền đề của tính quyết đoán là trình độ trí tuệ và sự dũng cảm.
Người có phẩm chất quyết đoán luôn hành động có suy nghĩ, dũng cảm, nhanh nhạy, đúng lúc,
không dao động và không hoài nghi. Tính quyết đoán không đồng nhất với độc đoán chuyên
quyền, bất chấp quy luật đúng sai…
Một con người có tính quyết đoán sẽ có thể làm chủ được hoạt động trí tuệ cũng như hoạt
động thực tiễn của chính mình, giúp cho họ có niềm tin vào sự quyết định sẽ thành công khi có
suy nghĩ đúng đắn và hợp lý.
Tính quyết đoán của ý chí không chỉ xuất phát từ trí tuệ vì khi con người phải thực sự
mạnh mẽ thì mới có thể quyết đoán. Một người mà không có tính quyết đoán thì hay do dự, dao
động và đưa ra những quyết định không kịp thời hay thực hiện những hành động không đúng lúc.
Mặt khác họ cũng hay hoài nghi, hay trăn trở một cách quá đáng về những thời điểm cần phải
tiến hành hành động. Một người có tính quyết đoán chắc chắn phải có hành động dứt khoát, kịp
lúc và không bị chần chừ hay dao động. Chính vì vậy, tiền đề cũng khá quan trọng của tính quyết
đoán chính là lòng dũng cảm.

86
2.4. Tính bền bỉ, kiên trì:
Là khả năng con người khắc phục khó khăn, trở ngại về mặt khách quan và chủ quan để
thực hiện đến cùng mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, tính bền bỉ không có nghĩa là lì lợm, bướng
bỉnh theo mục đích mù quáng mà là sự theo đuổi mục đích đã được ý thức rõ ràng với sự năng
động.
Tuy nhiên, kiên trì cũng không phải là lì lợm và ương bướng. Cần phân biệt tính kiên trì
trong ý chí với tính lì lợm, bướng bỉnh ở một số cá nhân vi những suy nghĩ cảm tính và chủ quan
hay vì những thói quen không muốn tiếp nhận hoặc không muốn đổi thay.
2.5. Tính tự chủ, kiềm chế
Là khả năng của ý chí cho phép con người kiểm soát thái độ, hành vi của mình khi không
cần thiết. Nó biểu hiện ở chỗ con người làm chủ được bản thân khi gặp những tình huống cực kì
căng thẳng, phức tạp, phải tự điều khiển, tự kiềm chế bản thân để tuân thủ các quy định cũng như
các chuẩn mực của xã hội. Có thể nói, tính tự kiềm chế là một kỹ năng điều khiển bản thân, là
trình độ cao của tính chịu đựng. Ngời có ý chí mạnh thường là người có tính tự kiềm chế cao.
2.6. Tính dũng cảm
Là khả năng sẵn sàng và nhanh chóng vươn tới mục đích bất chấp khó khăn nguy hiểm
cho tính mạng hay lợi ích của bản thân.
Tóm lại, các phẩm chất ý chí của con người rất đa dạng và phong phú. Nó là một thể
thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau, luôn tác động , ảnh hưởng, hỗ trợ lẫn nhau.
3. HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
3.1. Khái niệm hành động ý chí
Hành động ý chí là hành động có ý thức, có mục đích và có sự nỗ lực khắc phục khó khăn
trong quá trình hành động.
Những nét đặc trưng của hành động ý chí:
Hành động ý chí là hành động có tính mục đích, có ý thức, có sự lựa chọn phương tiện,
biện pháp để thực hiện mục đích, có sự theo dõi, kiểm tra, điều khiển và điều chỉnh, có sự cố
gắng để khắc phục khó khăn trở ngại bên trong và bên ngoài để đạt mục đích đề ra.
3.2. Các loại hành động ý chí
* Hành động ý chí đơn giản
Hành động ý chí đơn giản là những hành động có mục đích rõ ràng nhưng sự lựa chọn
phương tiện, biện pháp thực hiện cũng như sự nỗ lực khó khăn không thể đầy đủ.
* Hành động ý chí cấp bách
Hành động ý chí cấp bách là những hành động xảy ra trong một thời gian rất ngắn ngủi, đòi
hỏi phải có sự quyết định và sự thực hiện quyết định nhanh chóng. Trong hành động này, mục đích,
phương tiện cũng như sự nỗ lực của bản thân hầu như hòa quyện cùng nhau.
* Hành động ý chí phức tạp
Hành động ý chí phức tạp là loại hành động điển hình, mục đích, phương tiện, sự nỗ lực được
thực hiện một cách rõ ràng.
87
3.3. Các giai đoạn của hành động ý chí (cấu trúc của hành động ý chí)
3.3.1. Giai đoạn chuẩn bị
Là giai đoạn cá nhân ý thức được mục đích của hành động. Yếu tố đầu tiên của một hành
động ý chí là đề ra mục đích mà con người cần làm, cần đạt tới và cần phải khắc phục những khó
khăn nào. Mục đích của hành động gắn với phương hướng nỗ lực, nguyện vọng, ước mơ, hoài
bão của từng người. Khi đã xác định được mục đích rõ ràng, thì con người trở nên chủ động, phát
huy tính tích cực, sáng tạo, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, đạt kết quả mong muốn.
3.3.2. Giai đoạn thực hiện hành động
Là giai đoạn đánh giá tình hình, lựa chọn mục đích và phương thức hành động. Đây là
quá trình phân tích những điều kiện khách quan, chủ quan, những thuận lợi, khó khăn, trên cơ sở
đó mà xác định quyết tâm và lựa chọn những biện pháp, phương thức hành động nhằm đạt tới
mục đích. Trong quá trình lựa chọn này sẽ diễn ra sự đánh giá mục đích và phương thức hành
động. Ở đây có sự đấu tranh về động cơ. Động cơ – đó là sự trả lời câu hỏi vì sao con người lại
đặt ra cho mình mục đích này mà không phải là mục đích khác? Vì sao lại lựa chọn phương tiện
và cách thức này để đạt tới mục đích đó mà không chọn phương tiện và cách thức khác. Khi lựa
chọn mục đích và phương thức hành động, mỗi người thường dựa vào thế giới quan của mình,
vào những nguyên tắc đạo đức, các thị hiếu thẩm mỹ và các lợi ích cá nhân hay xã hội nào đó của
mình. Việc đánh giá tình hình, lựa chọn mục đích và phương thức hành động phụ thuộc vào trình
độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của từng người. Nếu biện pháp càng cụ thể, chính xác, phương tiện
càng phù hợp, đầy đủ thì việc lựa chọn mục đích càng chính xác, đúng đắn và hành động càng có
nhiều thuận lợi và ngược lại. Trên cơ sở xác định mục đích rõ ràng, lựa chọn phương thức hành
động chính xác, chủ thể hạ quyết tâm hành động. Khi con người hạ quyết tâm có nghĩa là dừng
lại ở mục đích xác định, ở động cơ nào đó, ở cách thức hoặc con đường xác định để đi tới mục
đích.
Việc đề ra quyết định, thông qua được quyết định hành động càng nhanh chóng, chính xác
bao nhiêu thì mức độ căng thẳng càng hạn chế bấy nhiêu và con người càng thấy hài lòng, thoải
mái. Tốc độ ra quyết định hành động phụ thuộc vào hàng loạt các nguyên nhân, đặc biệt là vào
các nhu cầu, vào sức mạnh của động cơ chủ đạo và các tình huống, tình cảm, vào trình độ phát
triển của tư duy, trí tưởng tượng, vào kinh nghiệm và kiến thức, vào thế giới quan của cá nhân,
vào tính cách, khí chất, vào tính chất của những tác động mà con người cảm nhận được từ các lời
khuyên, mệnh lệnh, đề nghị …của những người khác.
Thực hiện quyết tâm là quá trình thi hành quyết định đã đề ra, biến khả năng thành hiện
thực. Trong hành động ý chí đây là giai đoạn quan trọng nhất và ý chí của con người được thể
hiện rõ nhất. Khi thực hiện quyết tâm, con người liên tục đấu tranh, khắc phục khó khăn khách
quan và chủ quan, kiên định về mục đích, vận dụng sáng tạo linh hoạt mọi biện pháp, phương
tiện phù hợp với hoàn cảnh thực tế, thường xuyên duy trì nỗ lực ý chí nhằm giải quyết một chuỗi

88
các xung đột, khắc phục tình trạng căng thẳng bên trong. Việc thực hiện quyết định với sự nỗ lực
ý chí là dấu hiệu cơ bản nhất của ý chí.
3.3.3. Giai đoạn đánh giá kết quả hành động
Đây là quá trình đánh giá kết quả, phân tích thành công và thất bại, rút ra kết luận, tích lũy
kinh nghiệm tạo điều kiện cho những hành động ý chí tiếp sau. Sự đánh giá này có ý nghĩa to lớn
đối với mỗi người. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm con người hoạt động tùy thuộc vào sự đánh
giá dương tính, tích cực hay âm tính tiêu cực.
Đánh giá kết quả hành động là đối chiếu kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh
giá có thể xảy ra hai trạng thái: Đánh giá xấu thường kèm theo những rung cảm xấu hổ, hối hận,
chưa thỏa mãn; Đánh giá tốt xảy với những rung cảm thỏa mãn, hài lòng, sung sướng.
Sự đánh giá hành động có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động của con người. Nó có
thể trở thành động cơ, kích thích đối với hoạt động tiếp theo: Đánh giá xấu dẫn đến việc đình chỉ
hoặc sửa chữa hành động hiện tại; Đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục, tăng cường hành động
đang thực hiện.
4. RÈN LUYỆN Ý CHÍ
Muốn có phẩm chất ý chí tốt đẹp, con người phải trải qua sự giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng
tính tích cực một cách thường xuyên thông qua các hoạt động thực tiễn hàng ngày của cá nhân,
cũng như của tập thể. Quá trình rèn luyện ý chí của cá nhân được hình thành qua việc thực hiện
các hành động ý chí, khi cá nhân gặp phải khó khăn, trở ngại cả mặt khách quan và chủ quan, cá
nhân nhận thức được ý nghĩa của khó khăn để có quyết định thực hiện hay không thực hiện hành
động. Thật vậy, ý chí bao giờ cũng tồn tại trong những hành động nhất định, mà ở đó điều kiện
cần thiết để nảy sinh ý chí là sự xuất hiện khó khăn trở ngại. Ý chí không tồn tại một cách chung
chung, trừu tượng mà luôn gắn với hành động cụ thể, nhất định. Chỉ khi những hành động nảy
sinh khó khăn trở ngại cả bên ngoài và bên trong như thời gian, không gian, thuộc tính vật lý của
đồ vật, thái độ, tâm thế, bệnh lý, dao động, do dự…đòi hỏi con người phải hành động vượt qua
khó khăn để đạt mục đích mới gọi là hành động ý chí.
Ý chí có thể được rèn luyện bằng nhiều phương pháp khác nhau chủ yếu dựa trên mức độ
và tính chất của sự quyết tâm của con người.
- Cố gắng xây dựng những thói quen tốt, luôn chống lại những đam mê vô thức.
- Luôn ý thức chính mình, chống lại những cử chỉ máy móc.
- Luôn cố gắng làm chủ những xung động, cố gắng cân bằng cuộc sống, mỗi ngày làm
việc gì đó chứng tỏ mình mạnh hơn sự thúc đẩy của bản năng.
- Mạnh dạn thay đổi bản thân để luôn kiên trì, quyết đoán theo định hướng của các phẩm
chất ý chí.
- Tập thái độ quyết chí và vượt qua những thách thức và khó khăn ban đầu trong học tập,
làm việc.

89
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN

1. Ý chí là gì? Chỉ nêu và phân tích các phẩm chất ý chí? Để rèn luyện ý chí, anh chị cần
phải làm gì?
2. Hành động ý chí là gì? Cấu trúc của hành động ý chí. Nêu và phân tích một số hành động
ý chí của bản thân trong thực tiễn.
3. Những tấm gương về ý chí trong thực tế và những phẩm chất ý chí nổi bật ở họ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 7

- Giáo trình tâm lí học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
2011, Chương VII.
- Giáo trình tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà
Nội, 2005, Chương V (tr. 167 – 177).

Tài liệu trực tuyến


+ tailieu.vn/doc/nentangtamlyhocdaicuong – phan 1- 1742781.html
+ luutruqtvp2011.forumvi.com/t8 –topic
+https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-xuan-thuc-
1735833.html
+ https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-quang-uan-
153195.html
+https://vietbooks.info/threads/bai-tap-thuc-hanh-tam-ly-hoc-nxb-dai-hoc-
quoc-gia-2002-tran-trong-thuy-215-trang.10463/

90
Chương 8. NHÂN CÁCH

Nội dung chính: Định nghĩa, đặc điểm, cấu trúc, các thuộc tính của nhân cách, các yếu tố
ảnh hưởng và các con đường hình thành và phát triển nhân cách.
Yêu cầu: Sau khi học xong chương 8, sinh viên có thể:
- Trình bày được định nghĩa, đặc điểm, cấu trúc, các thuộc tính, các yếu tố ảnh hưởng và
các con đường hình thành và phát triển nhân cách.
- Liên hệ và vận dụng để phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên (sinh học) và xã hội, vừa phải tuân thủ các quy luật
của tự nhiên vừa phải chịu sự chi phối của các quy luật xã hội. Khái niệm nhân cách là một vấn
đề khá phức tạp trong tâm lý học. Từ thời Hy Lạp cổ đại, người ta hiểu nhân cách là sự thể hiện
vai trò của cá nhân trong xã hội, giống như việc đóng vai trong vở kịch lịch sử toàn thế giới, mà
kịch bản của nó do thần thánh soạn ra cho con người. Ở phương Đông cổ đại, Khổng Tử cũng đã
có sự phân biệt giữa hai khái niệm con người và nhân cách. Theo cách diễn đạt của ông, nhân
cách đó là tính người, là phẩm chất xã hội của con người. Ngày nay, trong tâm lý học cũng có
nhiều cách hiểu khác nhau về cách hiểu khác nhau về khái niệm nhân cách, nhưng nhìn chung
chúng đều thống nhất ở chỗ: nhân cách chỉ có ở con người, nhưng không phải là con người nói
chung mà ở từng cá nhân. Vì vậy, khái niệm nhân cách gắn liền với khái niệm con người, khái
niệm cá nhân.
Con người là thực thể sinh vật – xã hội, có ý thức, có ngôn ngữ, là chủ thể của hoạt động
lịch sử và hoạt động nhận thức. Khái niệm con người đã chỉ ra những đặc tính chung của các cá
thể thuộc chủng loại người, phản ánh sự khác biệt về chất giữa con người với con vật.
Con người vừa là thực thể sinh vật vừa là thực thể xã hội, vì vậy, những thuộc tính của
con người có thể xếp theo hai phạm trù cơ bản: con người như là một cơ thể và con người như là
nhân cách. Do đó, khi bàn về nhân cách chúng ta cần xem xét sự tương quan giữa cái sinh vật và
cái xã hội trong con người. Cái sinh vật trong con người đó là những đặc điểm, thuộc tính về mặt
cơ thể, hệ thần kinh mang tính bẩm sinh, di truyền. Xét về nguồn gốc nảy sinh yếu tố sinh vật ở
con người có những nét chung với động vật, đó là những yếu tố mang tính bản năng. Mặt khác, ở
con người còn có những cái sinh vật mang tính đặc thù của chủng loại người, chẳng hạn như bàn
tay, dáng đứng, hệ phát âm, cấu tạo và chức năng của não… Trong cuộc sống của cá thể, cái sinh
vật không chỉ đóng vai trò đảm bảo sự thích ứng của cơ thể với môi trường tự nhiên mà nó còn là
tiền để vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Cái xã hội đó là toàn bộ những thuộc
tính người nảy sinh trong hoạt động và giao tiếp. Xét theo góc độ của sự tiến hóa của chủng loại
người, cái xã hội bao gồm lao động, ngôn ngữ, ý thức, tâm lý cộng đồng người… Xét theo sự
trưởng thành của từng cá nhân, cái xã hội chính là tất cả kinh nghiệm xã hội – lịch sử, ý thức xã
91
hội mà cá nhân đã lĩnh hội và cả những phẩm chất, thuộc tính tâm lý nảy sinh trong hoạt động và
giao tiếp. Theo quan niệm của tâm lý học Mác xit, nhân tố xã hội có ý nghĩa quyết định sự hình
thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên, nhân tố xã hội không tồn tại một cách độc lập, cách biệt
với nhân tố sinh vật trong con người. Hai nhân tố này hòa nhập vào nhau và cùng in dấu lên mọi
hoạt động sống của con người.
1.2. Khái niệm cá nhân
Thuật ngữ cá nhân được dùng để chỉ một con người cụ thể, là một thành viên của xã hội.
Cá nhân là cá thể người, là một đơn vị người không thể chia cắt và có những đặc điểm
riêng của mình. Khi nói tới cá nhân là nói tới sự tồn tại xét về mặt cơ thể của một con người đươn
lẻ, cụ thể. Khái niệm cá nhân nhằm phân biệt giữa một người với nhóm người, tập thể người. Mỗi
con người ngay từ khi sinh ra đã là một cá nhân. Trong quá trình sống, cá nhân gia nhập vào các
mối quan hệ xã hội và thực hiện các hoạt động dẫn đến hình thành và phát triển nhân cách.
1.3. Khái niệm chủ thể
Thuật ngữ chủ thể được sử dụng khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách
có ý thức và có mục đích, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình hoạt động.
1.4. Khái niệm cá tính của con người
Mỗi cá thể người có những đặc điểm thể chất và tâm lý độc đáo, có một không hai, trong
đặc điểm cá thể của cá nhân khác. Sự độc đáo đó là cá tính.
Cá tính của con người được hình thành trên cơ sở những tố chất di truyền, bằng hoạt động
xã hội và giáo dục, dưới ảnh hưởng của những điều kiện xã hội và của môi trường xã hội mà
trong đó con người sống và được giáo dục và làm việc cũng như bằng hoạt động tự giáo dục của
cá nhân.
1.5. Khái niệm nhân cách
Khái niệm nhân cách bao hàm phần xã hội – tâm lý của con người với tư cách là thành
viên của xã hội, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội và hoạt động có ý thức.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nhân cách, song dưới góc độ khoa học về tâm lý con
người nhân cách được định nghĩa như sau:
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá
trị xã hội của người ấy.
Nói như vậy có nghĩa, nhân cách của con người chỉ được xem xét dưới góc độ là một
thành viên của xã hội, nó chính là mặt bản chất xã hội của cá nhân đó. Nhân cách là “tổ hợp”
những thuộc tính tâm lý đặc trưng với một cấu trúc xác định và được hình thành trong quá trình
con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội chứ không phải là sự cộng lại đơn giản các đặc
điểm xã hội của cá nhân, mà đó là sự tích hợp, hòa quyện toàn bộ các phẩm chất xã hội, bao gồm
cả ưu điểm, nhược điểm của mỗi con người để tạo thành bộ mặt xã hội của họ. Nhân cách quy
định bản sắc, cái riêng của mối cá nhân trong sự thống nhất biện chứng với cái chung, cái phổ
biến của cộng đồng mà cá nhân đó là đại biểu. Giá trị xã hội của nhân cách được thể hiện trong

92
các hành vi ứng xử xã hội của chủ thể. Bởi nhân cách càng phát triển thì con người càng có khả
năng hoạt động một cách độc lập, chủ động và mở rộng các mối quan hệ xã hội. Chính vì vậy,
nhân cách phản ánh giá trị xã hội của mỗi cá nhân.
Tâm lý học Mác xít đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đã nêu ra
cách giải thích khoa học về bản chất nhân cách. Luận điểm cơ bản mà tâm lý học Mác xít dựa
vào đó để giải quyết vấn đề bản chất nhân cách, đó là luận đề của C. Mác: “…bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” (C. Mác và Ph. Ăng ghen, Tuyển tập, T1, Nxb
Sự thật, H.1980, tr 257).
Con người mà C. Mác nêu ra trong luận điểm này là một cá nhân có thực, sống và hoạt
động trong điều kiện xã hội, lịch sử cụ thể, vì thế, con người đó thực chất tồn tại với tư cách là
một nhân cách. Điều đó cho phép khẳng định rằng, bản chất nhân cách là tính xã hội của con
người. Con người ta sinh ra bao giờ cũng ở trong một thời đại nhất định và là thành viên của một
xã hội, một dân tộc, một giai cấp. Họ tham gia vào những mối quan hệ cụ thể của mình. Toàn bộ
những yếu tố đó tạo nên điều kiện xã hội – lịch sử của con người. Tâm lý học Mác xit cho rằng,
nhân cách bị quy định bởi điều kiện xã hội – lịch sử và các mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi
con người. Có thể nhận thấy sự tác động, ảnh hưởng của điều kiện xã hội – lịch sử đối với nhân
cách ở hai phạm vi chủ yếu, đó là môi trường xã hội rộng lớn và môi trường gần gũi. Toàn bộ
những mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng…của một chế độ, một quốc gia tạo nên
môi trường rộng lớn của nhân cách. Những mối quan hệ này tác động tới con người một cách
mạnh mẽ và để lại dấu ấn khá sâu sắc, bền vững trong nhân cách, nó quy định những đặc điểm
thời đại, dân tộc, giai cấp… của nhân cách. Tuy nhiên, sự tác động của môi trường xã hội rộng
lớn tới nhân cách bao giờ cũng phải thông qua môi trường gần gũi và bị “khúc xạ” ở đó. Môi
trường gần gũi chứa đựng những mối quan hệ cụ thể của cá nhân với những thành viên của
những nhóm xã hội, những tập thể mà họ tham gia: gia đình, làng xã, khu phố, tập thể cơ sở, lớp
học… Môi trường gần gũi có tác dụng giáo dục, điều chỉnh, điều khiển hành vi của cá nhân một
cách trực tiếp, thường xuyên, nên để lại nhiều dấu ấn trong nhân cách, đó là những nét nhân cách
phản ánh đặc điểm của gia đình, địa phương, truyền thống của tập thể nhỏ. Những đặc điểm
chung cho nhiều nhân cách trong toàn xã hội và những đặc điểm riêng của nhân cách trong các
cộng đồng xã hội nhỏ luôn hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau và quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau trong mỗi người.
2. ĐẶC ĐỂM CỦA NHÂN CÁCH
2.1. Tính ổn định của nhân cách
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân,
khó hình thành và khó mất đi và tương đối ổn định. Nhờ vào tính ổn định này của nhân cách mà
chúng ta có thể dự kiến trước được hành vi của nhân cách trong một số tình huống, hay hoàn
cảnh nhất định.

93
Nhân cách là những thuộc tính tâm lý hình thành trong đời sống qua sự lặp lại và củng cố
những hành vi và thái độ, tạo thành những cấu trúc tâm lý bền vững đặc trưng cho cá nhân.
Những nét nhân cách nói riêng và cấu trúc nhân cách nói chung của mỗi cá nhân sẽ biểu hiện
thường xuyên trong nhiều tình huống, nhiều mối quan hệ và chi phối các hoạt động, các hành vi
ứng xử của họ một cách nhất quán trong một thời gian dài.
2.2. Tính thống nhất của nhân cách
Nhân cách là một cấu trúc tâm lý, là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính, các đặc
điểm tâm lý xã hội, là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài. Mỗi nét nhân
cách đều liên quan, không tách rời với những nét nhân cách khác, chịu sự chi phối, ảnh hưởng lẫn
nhau. Do đó, khi hình thành, giáo dục và phát triển nhân cách phải hình thành và giáo dục một
cách toàn diện.
Nhân cách còn là sự thống nhất hài hòa của các thuộc tính ở các cấp độ “Cá nhân”, “Liên
cá nhân” và “Siêu cá nhân”. Cấp độ “Cá nhân” là những thuộc tính, đặc điểm ổn định được hình
thành ở mỗi cá nhân, bao gồm những nết, những tính, những thói, tật… riêng của họ. Những nét
thuộc về “Liên cá nhân” được hình thành và thể hiện trong các mối quan hệ và trong hoạt động
đa dạng của họ như: tính quảng giao, tính hợp tác, tính giữ lời hứa… thuộc tính “Siêu cá nhân” là
những nét nhân cách có tầm ảnh hưởng xã hội rộng hơn, tạo nên những chuyển biến trong xã hội
và thể hiện cao nhất giá trị xã hội của họ, đây là những cống hiến, đóng góp của nhân cách cho xã
hội. Ở cấp độ này, nhân cách có một không gian tồn tại rộng mở bên ngoài cá nhân đó là tồn tại
trong những sản phẩm mà họ để lại và trong tâm trí những người khác kể cả các thế hệ mai sau.
Tính thống nhất của nhân cách cho phép chúng ta luôn nhìn nhận, đánh giá và giáo dục
nhân cách một cách hoàn chỉnh, toàn diện, không biệt lập và tách rời. Cần dựa trên những nét
nhân cách được hình thành trước đó làm cơ sở, tiền đề cho sự hình thành những nét nhân cách
mới.
2.3. Tính tích cực của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm xã hội. Tính tích cực của
nhân cách được biểu hiện ở việc con người chủ động, tự giác tác động vào hiện thực, thực hiện
hoạt động giao tiếp với tư cách là một chủ thể nhằm cải tạo hiện thực và cải tạo bản thân.
Tính tích cực của nhân cách được thể hiện đa dạng và phong phú trong thực tế với mục
đích thích ứng, cải tạo thế giới xung quanh và cải tạo bản thân. Trong quá trình đó, mỗi nhân
cách góp phần thúc đẩy xã hội phát triển đồng thời chứng tỏ được chức năng, vị thế xã hội và giá
trị xã hội của mình. Giá trị xã hội, cốt cách làm người là tiêu chí rõ nhất của tính tích cực nhân
cách.
Nguồn gốc của tính tích cực nhân cách chính là hệ thống nhu cầu của con người, nhu cầu
kích thích con người hoạt động trên kiếm những đối tượng để thỏa mãn nó. Đối tượng và phương
thức thỏa mãn nhu cầu luôn được con người sáng tạo và đổi mới không ngừng. Vì thế, tính tích

94
cực nhân cách luôn gắn bó và phát triển trong quá trình thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người.
Với tính tích cực của nhân cách, trong tác động và giáo dục con người chúng ta cần chú
trọng khơi dậy, nâng cao tính tích cực, chủ động ở họ. Mọi hoạt động đều phải dựa trên sự phát
huy nhưng tiềm năng, những nhu cầu của chính con người.
2.4. Tính giao tiếp của nhân cách
Nhân cách được hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối
quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Thông qua quan hệ giao lưu, giao tiếp với người
khác, con người gia nhập các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống
giá trị xã hội và được xã hội đánh giá, nhìn nhận và đóng góp giá trị nhân cách của mình cho
người khác và xã hội.
Qua các mối quan hệ giao tiếp, mỗi cá nhân học hỏi những hành vi, ứng xử theo kiểu con
người. Thông qua giao tiếp, cá nhân lĩnh hội, thực thi và khẳng định các quy tắc chuẩn mực và
các giá trị xã hội. Nhờ giao tiếp mà các phẩm chất nhân cách con người được bộc lộ và được mọi
người xung quanh nhận xét đánh giá theo quan niệm và giá trị xã hội, từ đó cá nhân nhận biết bản
thân, so sánh với xã hội và khẳng định giá trị của chính bản thân mình; Đồng thời, qua giao tiếp,
mỗi cá nhân đã tác động ảnh hưởng đến người khác tạo nên sự chuyển biến thay đổi ở họ. Trên
cơ sở giao tiếp, cá nhân tự điều khiển, điều chỉnh bản thân mình cho phù hợp với từng hoàn cảnh
và các chuẩn mực xã hội.
Với đặc điểm này, cần đặt con người trong các mối quan hệ xã hội để tác động và giáo
dục, cần xây dựng các mối quan hệ trong nhóm, tập thể lành mạnh và chú trọng mở rộng và tổ
chức những hình thức giao lưu phù hợp cho từng đối tượng.
3. CẤU TRÚC CỦA NHÂN CÁCH
3.1. Một số thuyết về cấu trúc nhân cách
3.1.1. Một số thuyết của các nhà tâm lý học phương tây về cấu trúc của nhân cách
Thuyết phân tâm học của S.Freud (1856 - 1939)
Nhân cách được cấu tạo bởi ba thành phần: bản năng (id), cái tôi (ego), cái siêu tôi
(superego). Bản năng gồm tất cả những ham muốn nguyên thủy bẩm sinh (nhu cần sinh lý, ham
muốn tình dục), bản năng thuộc về phần vô thức điều khiển con người theo nguyên tắc khoái lạc.
Cái tôi là phần nhân cách theo nguyên tắc hiện thực và giữ chức năng kiểm soát bản năng, hướng
bản năng thỏa mãn sao cho phù hợp và giảm thiểu những căng thẳng do sự cấm đoán của cái siêu
tôi. Cái siêu tôi là những kinh nghiệm được tích lũy từ thời thơ ấu thông qua sự dạy dỗ của cha
mẹ, sự lĩnh hội về giáo dục và các chuẩn mực xã hội. Cái siêu tôi kiểm duyệt, ngăn chặn các bản
năng và chỉ cho phép nó thỏa mãn đúng với đạo đức. Quá trình phát triển nhân cách là sự đấu
tranh không ngưng nghỉ giữa bản năng, cái tôi và siêu tôi. Động cơ thực sự của nhân cách là
những ham muốn bản năng nằm sâu trong vô thức, đó là bản chất thực của con người được che
đậy dưới cái tôi hiện thực.

95
Thuyết đặc trưng của G.Alport (1897 - 1967)
Nhân cách được cấu thành từ các khối gọi là những đặc điểm (nét) như: thông minh, dối
trá, nhạy cảm, liều lĩnh, thủ đoạn… Nét nhân cách là những thói quen ứng xử nhất quán của cá
nhân trong những tình huống giống nhau. Nét nhân cách quy định hành vi và thúc đẩy cá nhân
trên kiếm những hướng mà nhờ đó có thể bộc lộ nó. Chẳng hạn, tính ham vui của một người
khiến người ấy thường trên cách có mặt trong những dịp lễ hội, những cuộc họp mặt, bởi qua đó
có khả năng bộc lộ tính thích giao du của mình. Nét nhân cách tạo ra sự khác biệt về nội dung và
cách bộc lộ nhân cách ở các cá nhân khác nhau.
3.1.2. Một số thuyết của các nhà tâm lý học Liên Xô về cấu trúc của nhân cách
K. K. Platonov quan niệm coi nhân cách gồm bốn tiểu cấu trúc:
Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách (thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, nhu cầu, hứng thú,
tâm thế),
Tiểu cấu trúc kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen),
Tiểu cẩu trúc về các quá trình tâm lý cá nhân (cảm giác, tri giác, tư duy, xúc cảm,...)
Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học (khí chất, giới tính, lứa tuổi,...).
Tác giả B.G.Ananhiev đưa ra cấu trúc nhân cách thành 4 thành phần:
Các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý, các thuộc tính tâm lý và quá trình chung của
sự hình thành động cơ.
3.1.3. Quan điểm của các nhà tâm lý học Việt Nam về cấu trúc của nhân cách
Các tác giả Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn và nhiều tác giả tâm
lý học Việt Nam quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là đức và tài
(phẩm chất và năng lực), cụ thể:
+ Phẩm chất (đức): gồm phẩm chất xã hội (thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập
trường…), phẩm chất cá nhân (đức tính, tư cách cá nhân…), phẩm chất ý chí và cung cách ứng
xử (tác phong, lễ tiết , tính khí…).
+ Năng lực (tài): gồm năng lực xã hội hóa (khả năng thích ứng, hòa nhập, mềm dẻo, cơ
động, linh hoạt trong cuộc sống…), năng lực chủ thể hóa (khả năng thể hiện tính độc đáo, đặc
sắc, cái riêng, cái bản lĩnh của cá nhân…), năng lực hành động (khả năng hành động có mục đích,
chủ động, tích cực, có hiệu quả), năng lực giao tiếp ( khả năng thiết lập, duy trì mối quan hệ với
người khác).
Các thành tố của cấu trúc nhân cách có mối quan hệ qua lại, chế ước lẫn nhau và tạo nên
một chỉnh thể tương đối ổn định nhưng cũng có tính cơ động. Điều này cho phép con người vừa
biểu hiện phong cách bản chất của mình, vừa mềm dẻo, vừa linh hoạt trong hoạt động và giao
tiếp phù hợp với các điều kiện khác nhau.
3.2. Mô hình bốn thành phần trong cấu trúc nhân cách

96
Các phẩm chất của nhân cách bao gồm xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực. Xu
hướng nói lên phương hướng phát triển nhân cách, năng lực nói lên cường độ của nhân cách, khí
chất, tính cách nói lên tính chất, phong cách của nhân cách.
3.2.1. Xu hướng
3.2.1.1. Khái niệm xu hướng
Xu hướng cá nhân là hệ thống động cơ và mục đích định hướng và thúc đẩy con người
tích cực hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, hứng thú hoặc vươn tới mục tiêu mà cá nhân lấy làm
lẽ sống của mình.
Xu hướng nhân cách là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ
thống động cơ, mục đích quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và sự lựa chọn thái độ của
nhân cách. Hoạt động của con người tùy thuộc vào xu hướng nhân cách của họ. Xu hướng không
tách khỏi hoạt động và có thể được xem như thuộc tính giữ vị trí trung tâm, chi phối mọi suy
nghĩ, hành động, lối sống, quyết định đường hướng căn bản của toàn bộ cuộc đời một con người.
Hoạt động của con người đặc trưng bởi động cơ và mục đích thúc đẩy, chi phối nhằm
hướng tới một mục tiêu nào đó có liên quan tới sự thảo mãn những nhu cầu nhất định. Động cơ
và mục đích của hoạt động là cái bên trong thúc đẩy con người hướng vào đối tượng, nhằm
chiếm lĩnh đối tượng. Hoạt động của con người tùy thuộc vào xu hướng nhân cách của họ.Xu
hướng không tác khỏi hoạt động, biểu hiện cụ thể ra bằng hành vi, hoạt động. Biết được xu
hướng của con người có thể đoán khá chính xác về hành vi của người đó.
Xu hướng nhân cách có thể được xem như thuộc tính giữ vị trí trung tâm, đóng vai trò chủ
đạo trong cuộc sống cá nhân, chi phối mọi suy nghĩ, hành động, lối sống, quyết định đường
hướng căn bản của toàn bộ cuộc đời một con người. Trong đó hệ thống những động cơ bền vững,
những mục đích quan trọng là những hạt nhân cơ bản.
3.2.1.1. Những biểu hiện của xu hướng
Xu hướng được biểu hiện ở một số mặt chủ yếu như: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới
quan, niềm tin.
a. Nhu cầu
Nhu cầu là mối quan hệ tích cực giữa cá nhân và hoàn cảnh, là sự đòi hỏi khách quan
của con người trong những điều kiện nhất định, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của họ.
Nhu cầu nảy sinh bởi mối quan hệ giữa hoàn cảnh bên ngoài với điều kiện bên trong của
con người, nó biểu hiên sự phụ thuộc của con người vào hoàn cảnh sống cụ thể. Nhu cầu của con
người rất đa dạng và phong phú như nhu cầu vật chất (ăn, ở, mặc, phương tiện sinh hoạt…), nhu
cầu tinh thần (đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ, giao tiếp, lao động…).
Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng, khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng
thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
Nội dung của nhu cầu do điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định, nó mang tính chu kì.
Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của vật đó là mang bản chất xã hội, đặc

97
biệt là các nhu cầu tinh thần như: nhu cầu về chính trị - đạo đức, nhu cầu nhận thức, nhu cầu
thẩm mỹ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu hoạt động xã hội…Nhu cầu của con người
vừa mang tính khách quan vừa phản ánh tính chủ quan. Nó được hình thành trong quá trình sống,
quan hệ xã hội, chịu sự tác động của hoàn cảnh, điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và của giáo
dục. Nhu cầu của mỗi người được nảy sinh khác nhau tùy theo vị thế xã hội và đặc điểm riêng cá
nhân, do đó nội dung các nhu cầu cũng khác nhau. Cùng với sự vận động, biến đổi và phát triển
của hoàn cảnh, điều kiện sống, của nhận thức, tình cảm mà nhu cầu của con người cũng không cố
định mà biến đổi theo. Quá trình hoạt động làm thỏa mãn nhu cầu lại làm nảy sinh những nhu cầu
mới, vì thế nhu cầu của con người ngày càng trở nên phong phú, song phương thức thỏa mãn nhu
cầu lệ thuộc rất lớn vào ý thức, vào kết quả giáo dục của con người.
- Nhu cầu của con người rất đa dạng: có thển phân ra thành 4 nhóm lớn; nhu cầu vật chất,
nhu cầu tinh thần, nhu cầu lao động , nhu cầu giao tiếp
* Nhu cầu vật chất: Gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở mặc, đây là
những nhu cầu sơ đẳng nhất của con người
* Nhu cầu tinh thần:bao gồm nhu cầu hiểu biết và nhu cầu thẩm mỹ
Nhu cầu vật chất thường gắn với nhu cầu tinh thần
* Nhu cầu lao động : là nhu cầu đòi hỏi khách quan phải được thỏa mãn về họat động
chân tay và họat động trí óc nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, phục vụ cho con người
* Nhu cầu giao tiếp: Là nhu cầu quan hệ giữa người này với người khác , giữa cá nhân với
nhóm, giữa nhóm này với nhóm khác. Thông qua đó mà nhân cách, mối quan hệ liên nhân ácch
hình thành và phát triển.
- Nhu cầu là nguồn gốc bên trong tạo nên tính tích cực của cá nhân.
b. Hứng thú
Hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong
đời sống vừa hấp dẫn về tình cảm đối với cá nhân đó.
Hứng thú được nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cảm xúc của nội dung hoạt động.
Khi có hứng thú sẽ làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc, tăng tính tích cực hoạt
động. Hứng thú là động cơ nảy sinh từ ý nghĩa và sự hấp dẫn của đối tượng làm thỏa mãn nhu
cầu của con người được biểu hiện ra bằng sự rung động của xúc cảm, mang lại sự khoái cảm và
có sức lôi cuốn hấp dẫn đối với cá nhân. Trong các loại hứng thú khác nhau có loại hứng thú
mang tính ổn định, có loại mang tính tình huống nhất thời, có loại hứng thú là trung tâm chi phối
mọi hoạt động chủ yếu của con người, có loại chỉ chi phối một vài hoạt động nhất thời nào đó của
cá nhân. Những hứng thú thường xuyên ổn định và có hiệu quả trong thực tiễn sẽ trở thành
khuynh hướng hoạt động của cá nhân.
Hứng thú biểu hiện ở các mức độ khác nhau:

98
- Hứng thú thụ động: Cá nhân dừng lại ở chỗ tích cực tìm hiểu nó, thưởng thức về vẻ đẹp,
cái hay của nó chứ không muốn hoạt động trong lĩnh vực đó như là một nghề. Ví dụ: có hứng thú
xem bóng đá, đi xem phim, ca nhạc,...
- Hứng thú tích cực (hứng thú chủ động): là hứng thú trực tiếp dẫn đến một hoạt động
tương ứng với nó. Ví dụ: say mê nghiên cứu để trở thành nhà bác học, trở thành vận động viên
chuyên nghiệp, ca sĩ chuyên nghiệp, Luật sư giỏi,...
c. Lý tưởng
Lý tưởng là mục tiêu phản ánh vào đầu óc của con người dưới hình thức một hình ảnh
mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong một
thời gian tương đối lâu dài vào hoạt động để vươn tới mục tiêu đó.
Lý tưởng khác với ước mơ ở chỗ nó là sự tổng hợp của nhận thức sâu sắc, tình cảm mãnh
liệt đối với hình ảnh mẫu mực của mình và có sức mạnh lôi cuốn con người vào hoạt động để
vươn tới lý tưởng của mình. Ước mơ có thể là cơ sở cho sự hình thành lý tưởng cao đẹp sau này.
Lý tưởng vừa có tính hiện thực vừa có tính lãng mạn, bởi lý tưởng được xây dựng từ những “chất
liệu” có thực trong đời sống, và lý tưởng là hình ảnh mẫu mực chưa có trong hiện thực, chỉ có thể
đạt được trong tương lai. Lý tưởng của con người còn mang tính giai cấp và là biểu hiện tập trung
nhất của nhân cách, có chức năng điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối
sự hình thành và phát triển tâm lý của cá nhân. Lý tưởng có thể là những hành ảnh cụ thể hoặc
trừu tượng thông qua một tấm gương hay một biểu tượng mẫu mực của một cá nhân anh hùng
hay một tập thể, dân tộc nào đó, không nhất thiết là một hình ảnh mẫu mực trọn vẹn, có khi lý
tưởng chỉ là những biểu tượng về chuẩn mực đạo đức, lối sống, về phẩm chất trong quan hệ
người với người hoặc biểu tượng về tương lai của một xã hội.
Lý tưởng có giá trị như một động lực thúc đẩy hoạt động, nhưng đồng thời nó lại có thể
như một mục tiêu hay đối tượng cần đạt tới của con người. Lý tưởng được hình thành dựa trên sự
nhận thức và xúc cảm của con người, do hoàn cảnh sống và giáo dục quy định. Cũng như hứng
thú, lý tưởng trước hết được hình thành ở từng cá nhân, mang tính chủ quan, cá nhân. Sau đó tính
xã hội của con người lý tưởng có thể nhanh chóng ảnh hưởng từ người này sang người khác. Khi
lý tưởng được xác định là kiểu mẫu thì con người thường xuyên xây dựng, điều chỉnh cuộc sống
và hành vi của mình theo kiểu mẫu đó trên tinh thần khâm phục, ngưỡng mộ, thiết tha mong
muốn noi theo.
d. Thế giới quan
Là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân được hình thành ở mỗi người
và xác định phương châm hành động của người đó.
Thế giới quan là nền tảng của toàn bộ đời sống tâm lý cá nhân. Thế giới quan xác định
phương châm hành động của con người, thế giới quan khoa học là thế giới quan duy vật biện
chứng mang tính khoa học và tính nhất quán cao. Thế giới quan không chỉ là cơ sở để con người
ý thức về nhu cầu, xác lập nhu cầu cùng các phương thức làm thỏa mãn chúng mà còn chi phối

99
mạnh mẽ đến các đặc điểm của xu hướng, động cơ, mục đích, tính cách, khí chất… và làm cho
chúng bộc lộ rõ ra trong hoạt động thực tiễn. Ở mỗi người, hình thành và phát triển thế giới quan
là hết sức cần thiết và quan trọng bởi nó định hướng, xác định vị trí, vai trò và khẳng định mình
trong sự phát triển, vận động chung của xã hội. Con đường hình thành thế giới quan là thông qua
việc lĩnh hội hệ thống tri thức, thông qua giáo dục, hoạt động và rèn luyện trong thực tiễn.
Thế giới quan không chỉ là cơ sở để con người ý thức về nhu cầu, xác lập nhu cầu cùng
các phương thức thỏa mãn chúng mà nó con chi phối mạnh mẽ đến xu hướng, động cơ, mục đích,
tính cách, khí chất…và làm cho chúng bộc lộ rõ ra trong cuộc sống và hoạt động thực tiễn hàng
ngày. Ở mỗi con người, hình thành và phát triển thế giới quan là hết sức cần thiết và quan trọng
bởi nó định hướng, xác định vị trí, vai trò và khẳng định mình trong sự phát triển, vận động
chung của xã hội. Thế giới quan trở thành nguyên tắc tối cao trong điều chỉnh mọi hành vi, hoạt
động của con người trong xã hội, trong quá trình thực hiện các mục tiêu lý tưởng của mình.
e. Niềm tin
Niềm tin là bộ phận cao nhất và phức tạp nhất của TGQ, là sự hòa quyện giữa nhận thức,
tình cảm và ý chí của cá nhân.
Niềm tin trở thành chân lý bền vững trong cá nhân và mang khuynh hướng sẵn sàng thúc
đẩy con người hành động phù hợp với những định hướng, các chuẩn mực giá trị của bản thân.
Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động theo quan điểm của mình, là lẽ sống của
con người. Khi có niềm tin, con người thường có những hành động quyết liệt, không hề ngại khó,
ngại khổ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan, thử thách để đạt tới mục tiêu mà niềm tin đã gửi vào
đó. Niềm tin chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động thực tiễn của mỗi người. Trên cơ sở sự
hiểu biết, niềm tin được hình thành. Người có niềm tin vào một cái gì đó thì họ cương quyết hành
động, xử thế theo những tư tưởng, nguyên tắc mà họ đã tin vì họ coi đó là chân lý của mình. Theo
Lênin, thiếu niềm tin thì người đó sẽ không làm được việc gì cả.
Niềm tin mang bản chất xã hội. Nội dung của niềm tin trong mỗi cá nhân chịu sự chi phối
của lập trường giai cấp mà cá nhân đó là thành viên. Các quan điểm và lợi ích giai cấp giống như
bộ phận sàng lọc tất cả các nhận thức mà cá nhân tiếp thu trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ,
nhào nặn biến đổi nó thành sự hiểu biết riêng, thành niềm tin của cá nhân mình.
Niềm tin có một cấu trúc tâm lý phức tạp. Nó bao gồm trong bản thân nó các thành tố:
kiến thức, tình cảm và ý chí. Các thành tố này hòa quyện với nhau trở thành một cấu trúc bền
vững của nhân cách.
- Kiến thức là toàn bộ những thông tin, những khái niệm và biểu tượng về các đối tượng,
các quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực. Ví dụ như kiến thức về khoa học tự
nhiên, kiến thức về khoa học xã hội, kiến thức về nghiệp vụ công tác cụ thể… Việc nắm kiến
thức là khâu đầu tiên của quá trình chuyển hóa tri thức thành niềm tin của con người. Trước hết
con người phải hiểu, thừa nhận trong ý thức những điều cần thiết phải tiếp nhận. Họ phải hiểu họ

100
cần phải hành động như thế nào và trong quá trình hành động họ phải xử lý các vấn đề nảy sinh
theo nguyên tắc nào…
- Tình cảm là thái độ tích cực của chủ thể đối với những điều đã được tiếp nhận, đối với
những biến đổi trong thế giới hiện thực có liên quan đến nhận thức của con người. Việc chủ thể
tỏ thái độ đồng tình, nhất trí với những điều đã được tiếp nhận, say sưa phấn khởi với nó… Sự
thừa nhận chân lý đã chứa đựng trong đó các yếu tố xúc cảm, và vì thế kiến thức ấy dễ dàng in
đậm trong ý thức của con người.
- Ý chí, từ những thái độ, cảm xúc tích cực, con người bộc lộ quyết tâm thực hiện bằng
được những điều đã được tiếp nhận, tức là bộc lộ ý chí hành động của bản thân. Ý chí là thành tố
quan trọng trong cấu trúc của niềm tin. Nó là hệ quả tất yếu của quá trình chủ thể lĩnh hội sâu sắc
tri thức bằng thái độ cảm xúc tích cực.
Nói đến niềm tin là nói đến hành vi, hành động thực tiễn của các cá nhân. Không có niềm
tin thực sự nào lại không được bộc lộ trong hành động cụ thể của con người. Từ kiến thức đến
niềm tin và biến thành hành động thực tiễn của con người là một thể thống nhất.
3.2.2. Năng lực
3.2.2.1. Khái niệm năng lực
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc
trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo hoạt động diễn ra có kết quả.
Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Năng lực vừa là điều kiện cho hoạt
động đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng được phát triển ngay chính trong khi cá nhân
tham gia thực hiện hoạt động đó. Năng lực là sản phẩm của lịch sử. Sự phân công và chuyên môn
hóa lao động dẫn đến sự phân hóa và chuyên môn hóa năng lực của con người. Khi nền văn minh
dành được nhiều thành tựu mới thì lại xuất hiện ở con người những năng lực mới và những năng
lực đã có trước đây sẽ chứa đựng những nội dung mới.
3.2.2.2. Cấu trúc của năng lực
Năng lực bao gồm một tổ hợp các thuộc tính chúng không tồn tại riêng lẻ mà theo một
cấu trúc nhất định. Trong số những thuộc tính tâm lý của nhân cách cấu thành nên một năng lực
về một hoạt động bao giờ cũng có những thuộc tính có tầm quan trọng hàng đầu còn những thuộc
tính khác có vai trò bổ sung hỗ trợ.
Cấu trúc năng lực bao gồm các thuộc tính chủ đạo, các thuộc tính làm chỗ dựa và những
thuộc tính nền tảng.
Ví dụ: Đối với một giảng viên, năng lực chủ đạo là năng lực tổ chức lớp học, năng lực
thiết kế bài giảng, năng lực quan sát sư phạm,... Những thuộc tính làm chỗ dựa: Năng lực giao
tiếp, năng lực kiểm soát cảm xúc, năng lực truyền cảm hứng,... Những thuộc tính nền tảng như
năng lực hiểu biết xã hội, hiểu biết tâm lý lứa tuổi,...
Trong năng lực hội họa, thuộc tính chủ đạo gồm trí tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật;
thuộc tính hỗ trợ: tính nhạy cảm thị giác cao có thể phân biệt tinh tế về tỉ lệ, màu sắc, độ sáng tối.

101
trí nhớ hình tượng phát triển; thuộc tính làm nền: rung cảm về cuộc sống, về con người, về cái
đẹp.
3.2.2.3. Phân loại năng lực
Có nhiều cách phân loại năng lực dựa trên các tiêu chí khác nhau. Căn cứ và mức độ
chuyên biệt của năng lực, có thể phân chia thành hai loại năng lực. Sự phân chia chỉ mang tính
chất tương đối.
- Năng lực chung: là những năng lực cần thiết cho nhiều hoạt động khác nhau. Ví dụ:
năng lực phân tích, trí nhớ, suy luận, tri giác không gian...
Trong năng lực chung còn chia ra thành năng lực chung sơ đẳng và năng lực chung phức
tạp.
- Năng lực chuyên môn (năng lực riêng): là sự kết hợp độc đáo những thuộc tính chuyên
biệt đáp ứng yêu cầu đối với một lĩnh vực chuyên môn nhất định.
Ví dụ: năng lực Toán học, năng lực Âm nhạc, năng lực Hội họa, năng lực Sư phạm...
Trong năng lực riêng còn chia ra thành năng lực riêng sơ đẳng và năng lực riêng phức
tạp.
Hai loại năng lực chung và năng lực chuyên môn luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Trong
thành phần của năng lực chuyên môn bao hàm những năng lực chung và được phát triển từ những
năng lực chung theo hướng chuyên biệt. Chỉ có sự phát triển cả hai loại năng lực này mới đảm
bảo cho cá nhân đạt kết quả trong các lĩnh vực hoạt động.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, chia làm 2 loại
Năng lực tự nhiên: Là năng lực có nguồn gốc từ sinh vật, có mối liên hệ trực tiếp với các
yếu tố bẩm sinh di truyền.
Năng lực xã hội: Đây là năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình sinh hoạt
xã hội và chỉ có ở con người như năng lực ngôn ngữ, năng lực lao động, năng lực sáng tạo, năng
lực nghiên cứu, năng lực học tập,...
3.2.2.4. Các mức độ biểu hiện của năng lực
- Tư chất: Là mầm mống đầu tiên của năng lực cá nhân, là yếu tố BS-DT, là tiền đề vật
chất của năng lực, là điều kiện bên trong không thể thiếu để xuất hiện năng lực.
- Thiên hướng: Là phẩm chất đầu tiên của năng lực được bộc lộ trong hoạt động trên cơ
sở của tố chất nhất định, khi gặp điều kiện hoạt động phù hợp sẽ phát triển thành thiên hướng.
- Năng khiếu: Là khả năng nổi trội trong một hoặc một vài lĩnh vực đạt được kết quả đặc
biệt, làm cho cá nhân nổi bật so với người khác cùng hoạti động trong điều kiện như nhau. Năng
khiếu được bộc lộ mang tính chất nghề nghiệp.
Dựa vào tốc độ tiến hành và chất lượng sản phẩm hoạt động, mức độ phát triển của năng
lực được biểu hiện ở 3 mức độ sau:
+ Năng lực: là mức độ thể hiện con người có khả năng hoàn thành có kết quả một hoạt
động nào đó có chất lượng và tốc độ trung bình mà nhiều người có thể đạt tới.

102
+ Tài năng: là mức độ cao hơn năng lực thể hiện con người có thể hoàn thành một cách
sáng tạo một hoạt động nào đó.
+ Thiên tài: là mức độ cao nhất của năng lực thể hiện con người thực hiện một cách kiệt
xuất, hoàn chỉnh một hoạt động và mở ra thời đại mới trong lĩnh vực hoạt động đó.
3.2.3. Tính cách
3.2.3.1. Khái niệm tính cách
Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường dùng những từ tính tình, tính nết, tư cách,
tác phong, phong cách…để chỉ tính cách. Những từ trên chỉ nêu được một khía cạnh nào đó của
tính cách mà thôi. Sống trong xã hội, con người luôn chịu tác động nhiều vẻ của các mối quan hệ
xã hội. Đặc trưng của các mối quan hệ xã hội cũng như hoạt động tích cực của con người cải tạo
hiện thực khách quan được phản ánh, in dấu vết trong đầu óc con người và dần hình thành những
nét tâm lý điển hình của mỗi người như: say mê lao động, dũng cảm trong đấu tranh, hết lòng vì
bạn bè, trung thực trong tình bạn, tình yêu… Tổng hợp những nét tâm lý đó tạo nên tính cách của
mỗi người. Nó quy định tính logic, nhất quán trong mọi hoàn cảnh ở thái độ và hành vi của nhân
cách.
Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của con người, quy định
phương thức hành vi điển hình của người đó trong những điều kiện hoàn cảnh sống nhất định
cũng như thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh và bản thân.
Tìm hiểu tính cách của con người phải xem xét trong mối liên hệ qua lại với các nét tính
cách. Mỗi nét tính cách đều có ý nghĩa riêng, thường là rất khác nhau tùy theo nó tương quan như
thế nào với các nét tính cách khác. Chẳng hạn, tính vững vàng có ý nghĩa tốt chỉ trong sự kết hợp
với tính tư tưởng cao đẹp, tính phê phán nghiêm túc, thiếu những nét tính cách đó thì tính vững
vàng có thể trở thành tính bướng bỉnh. Tính thận trọng nếu không được kết hợp với tính quả
quyết thì có thể trở thành tính thụ động.Tính cách của con người không phải là trí nhớ, tư duy,
năng lực…mặc dù trong giới hạn nào đó, các đặc điểm này có thể tham gia vào sự hình thành tính
cách của con người. Tính cách chỉ biểu hiện những đặc điểm nhân cách đang ghi dấu lên hành vi
con người và trong quan hệ của con người với những người khác và thế giới xung quanh.
3.2.3.2.Cấu trúc của tính cách
Tính cách có cấu trúc phức tạp bao gồm hệ thống thái độ và hệ thống hành vi, cử chỉ, cách
nói năng tương ứng. Chúng tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc và tác động qua lại lẫn
nhau. Trong hệ thống thái độ chi phối hành vi và ngược lại hệ thống hành vi bộc lộ qua hệ thống
thái độ nhất định.
Hệ thống thái độ (mặt nội dung của tính cách) bao gồm:
- Thái độ đối với xã hội, tập: Biểu hiện qua thái độ lựa chọn, đánh giá và cảm xúc với đất
nước, các tổ chức xã hội, các phong tục tập quán, dư luận xã hội. Biểu hiện ở một số nét tính cách
như: lòng yêu nước, trung thành với Tổ quốc, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm làm giàu cho đất
nước, vì nghĩa...

103
- Thái độ đối với tự nhiên: thể hiện nhận thức và cảm xúc với thiên nhiên. Biểu hiện ở
một số nét tính cách: yêu thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, tôn trọng và gìn giữ môi trường...
- Thái độ đối với người khác (đối với mọi người xung quanh): thái độ trong các mối quan
hệ với con người (ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè và những người xung quanh). Gồm một số nét
tính cách: lòng kính yêu, lòng nhân ái, tính hợp tác, tính cởi mở, tính trung thực, tính công bằng,
tính khoan dung.
- Thái độ đối với bản thân: những nét tính cách thể hiện sự đánh giá và rung cảm với bản
thân như: tự tin, danh dự, tự trọng, tự phê bình, khiêm tốn, giản dị, cầu tiến...
- Thái độ đối với công việc, đối với lao động: thái độ với công việc, nghề nghiệp và sản
phẩm làm ra. Thể hiện ở một số nét tính cách như: yêu nghề, cần cù, tận tụy, kỷ luật, cẩn thận,
sáng tạo, tiết kiệm...
Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng (mặt hình thức thể hiện)
Là sự thể hiện ra bên ngoài của hệ thống thái độ nói trên và chịu sự chi phối của hệ thống
thái độ. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi,
cử chỉ và cách nói năng. Trong đó, thái độ là mặt nội dung, mặt chỉ đạo, còn hành vi, cử chỉ, cách
nói năng là hình thức biểu hiện của tính cách, chúng thống nhất hữu cơ với nhau và có quan hệ
chặt chẽ với các phẩm chất tâm lý khác của nhân cách như xu hướng, khí chất, tình cảm, ý chí…
Những phẩm chất ý chí đã được củng cố và trở thành thuộc tính của nhân cách là phẩm
chất của tính cách. Những phẩm chất ý chí trong tính cách bao gồm: tính dũng cảm, kiên quyết,
tính độc lập, tự chủ, tính bề bỉ…Các phẩm chất của ý chí sẽ tạo sức mạnh cho tính cách, quy định
sức mạnh và hiệu quả của thái độ, hành vi, bảo đảm sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, biểu
hiện nghị lực, bản lĩnh của cá nhân.
3.2.3.3. Những đặc điểm cơ bản của tính cách
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phong phú, đa dạng, có nhiều đặc điểm, nét đặc trưng.
Cụ thể:
Tính cách của con người mang tính ổn định, bền vững, đồng thời cũng mang tính đa dạng,
độc đáo, riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân và chịu sự chế ước của xã hội, vừa có tính thống
nhất nhưng cũng thể hiện sự mâu thuẫn.
Sống trong xã hội, con người chịu sự tác động nhiều vẻ của các quan hệ xã hội. Đặc trưng
của các quan hệ xã hội và hoạt động tích cực của con người là cải tạo hiện thực khách quan, in
dấu vết trong đầu óc của con người và dần hình thành nên những nét tâm lý điển hình của mỗi
người, như lòng say mê lao động, dũng cảm, trung thực trong tình yêu, trong cuộc sống… Tổng
hợp những nét tâm lý đó tạo nên tính cách của mỗi cá nhân, nó quy định tính logic, nhất quán
trong mọi hoàn cảnh ở thái độ, hành vi của nhân cách.
Nếu căn cứ vào xu hướng nhân cách hướng vào thế giới bên trong hay bên ngoài ta có
tính cách hướng nội (sống nội tâm, khép kin, suy tư…) hay tính cách hướng ngoại (cởi mở,
quảng giao…)

104
3.2.4. Khí chất
3.2.4.1. Khái niệm khí chất
Có thể nhận ra những người có khí chất khác nhau qua quan sát cường độ, tốc độ, nhịp
độ hoạt động tâm lý qua các hành vi, cử chỉ, hoạt động của họ. Một số người này thì ăn to, nói
lớn, nhanh nhẹn, hoạt bát, dễ cảm hứng, nhiệt tình. Những người khác lại nhỏ hẹ, chậm chạp,
điềm đạm… Tất cả những biểu hiện đó chỉ thuần túy mang tính bề ngoài, không liên quan gì đến
việc người đó có biết kiềm chế hay không, chăm chỉ hay lười biếng, cẩn thạn hay cẩu thả, trung
thực hay giả dối. Những biểu hiện bên ngoài của mọi hoạt động tâm lý đều mang tính độc đáo
của khí chất. Do đó, khí chất làm cho mỗi nhân cách có một vẻ riêng, không ai giống ai.
Khí chất là một thuộc tính tâm lý gắn liền với một kiểu hoạt động thần kinh tương đối bền
vững của cá nhân, đặc trưng cho hoạt động tâm lý về cường độ, tốc độ, nhịp độ, thể hiện sắc thái
riêng về hành vi và cử chỉ của người đó.
Khí chất có cơ sở sinh lý là các kiểu thần kinh cấp cao, đó là nguyên nhân gây ra sự khác
biệt trong hành vi của con người. Khí chất mang bản chất xã hội, song không quy định giá trị đạo
đức xã hội của nhân cách. Người có khí chất khác nhau có thể có cùng một giá trị đạo đức, cùng
mức độ phát triển năng lực và ngược lại. Khí chất là nền tảng tự nhiên của tính cách và ảnh
hưởng đến mức độ dễ dàng hay khó khăn trong việc hình thành các nét tính cách nhất định.
3.2.4.2.. Cơ sở sinh lý của các kiểu khí chất
Căn cứ vào chất nước chiếm ưu thế trong cá nhân theo quan điểm của danh y người Hy
Lạp- Hypocrat-TCN và cá nhân có kiểu khí chất tương ứng
+ Máu (ở tim, có tính chất nóng) Hăng hái
+ Nước nhờn (ở não, có tính chất lạnh) Bình thản
+ Mật vàng (ở gan, có tính chất khô ráo) Nóng
+ Mật đen (ở dạ dày, có tính chất ẩm ướt Ưu tư
I.P.Pavlov đã chứng minh rằng, sự kết hợp giữa 3 thuộc tính: cường độ, tính cân bằng,
tính linh hoạt của hai quá trình hưng phấn và ức chế trong hệ thần kinh là cơ sở thần kinh cho 4
loại khí chất của con người.
Cường độ hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh biểu hiện ở khả năng chịu đựng một khối
lượng lớn các kích thích mạnh, nhưng vẫn thiết lập được những phản xạ mới và duy trì các phản
xạ đã có từ trước. Hệ thần kinh có cường độ mạnh sẽ chịu đựng được những tác động của kích
thích trong một thời gian dài, có thể hưng phấn và ức chế mạnh khi cần thiết. Hệ thần kinh có
cường độ yếu sẽ không chịu được những tác động của kích thích trong một thời gian dài, hưng
phấn và ức chế yếu, dễ bị phá vỡ, trong đó ức chế có thể mạnh hơn.
Tính cân bằng của hệ thần kinh là khả năng giữ cho hệ thần kinh cân bằng, tương xứng,
cân đối giữa hai trạng thái hưng phấn và ức chế. Khi trạng thái này lấn át sang trạng thái kia là
biểu hiện tính không cân bằng của hệ thần kinh.

105
Tính linh hoạt của hệ thần kinh là mức độ dễ dàng và mau chóng khi chuyển từ hưng
phấn sang ức chế, hay ngược lại. Tính linh hoạt đảm bảo cho sự thích ứng với các biến đổi đột
ngột và mau chóng của môi trường.
Sau đây là 4 kiểu khí chất tương ứng với các kiểu kết hợp của hệ thần kinh cấp cao theo lý
thuyết về hệ thần kinh của I.P.Pap lốp:
Kiểu thần kinh cơ bản Kiểu khí chất tương ứng
Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, linh hoạt Hăng hái (Sanguin)
Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, không linh hoạt Bình thản (Flegmatique)
Kiểu mạnh mẽ không cân bằng (HP>UC) Nóng nảy (Cholerique)
Kiểu yếu Ưu tư (Melancolique)

Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý, mặc dù khí chất có cơ sở sinh lý là các kiểu hoạt động
thần kinh cấp cao như đã nói ở trên, nhưng con người là một thực thể xã hội, vì vậy, khí chất của
con người mang trong nội dung của mình dấu ấn của những ảnh hưởng xã hội, những tiêu chuẩn
và yêu cầu của xã hội. Khí chất con người phát sinh và phát triển không đơn thuần chỉ phụ thuộc
vào những cơ sở sinh lý mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống, vào giáo dục và hoạt động của
mỗi người. Có thể thông qua hoàn cảnh sống hay giáo dục, thông qua ccs hoạt động của cá nhân
mà có thể làm thay đổi được khí chất của họ.
Khí chất không quyết định trình độ năng lực của mỗi người. Con người có thể lựa chọn
những cách thức và thủ thuật hoạt động sao cho phù hợp với đặc điểm khí chất của mình nhằm
đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động. Điều này được áp dụng trong thực tiễn trong việc
tuyển chọn người có khí chất thích hợp với nghề nghiệp sẽ là điều cần thiết cho sự thành công.
Khí chất không quyết định tính cách của con người, mặc dù có mối quan hệ mật thiết qua
lại với nhau. Ở mức độ nhất định, khí chất quy định hình thức thể hiện của tính cách. Ví dụ, cùng
thể hiện sự quan tâm đến người khác, với người có khí chất nóng nảy thường biểu hiện ở sự vội
vã, tình cảm mãnh liệt, còn với người có khí chất trầm thì biểu hiện một cách điềm tĩnh, chu đáo.
Ngược lại, khí chất ảnh hưởng tới việc hình thành những nét tính cách nhất định. Ví dụ, người có
khí chất nóng nảy dễ hình thành những nét tính cách quả quyết, độc lập, nhưng lại khó hình thành
tính kiềm chế, mềm dẻo…
3.2.4.3. Các kiểu khí chất
+ Kiểu khí chất linh hoạt (hăng hái): Người có kiểu khí chất này thường là người hoạt
bát, vui vẻ, yêu đời, sống động, ham hiểu biết, dễ hình thành và dễ thay đổi, nhận thức nhanh
nhưng cũng hay quên, tâm hồn hướng ngoại, cởi mở, dễ thích nghi với môi trường mới… Người
có khí chất này tâm tính hay thay đổi thất thường, suy nghĩ nông cạn, hời hợt, chóng chán, không
chịu được hoạt động đơn điệu kéo dài. Nếu được giáo dục đúng đắn, người này sẽ có tình cảm tập
thể cao, có lòng vị tha, có thái độ tích cực đối với các hoạt động, tuy nhiên nếu không giáo dục
thường xuyên dễ có thái độ khinh suất, thiếu quan tâm, dửng dưng với công việc, với người khác,
đề cao bản thân và khả năng của mình…
106
+ Kiểu khí chất bình thản: Người thuộc kiểu khí chất này thường là người chậm chạp,
điềm tĩnh, chắc chắn, kiên trì, ưa sự ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm chế tốt, nhận thức chậm
nhưng chắc chắn, tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc, không thích ba hoa, có tính ỳ, khó
thích nghi với môi trường mới… Trong công việc, thường là người cần mẫn, kiên trì thận trọng
và chu đáo, chín chắn. Trong quan hệ thì sâu sắc, tế nhị bền vững, kiềm chế được xúc động. Giáo
dục những người này dễ hình thành phẩm chất cần cù, thạo việc, vững vàng, tuy nhiên tính ì, lười
biếng, thụ động là nhược điểm nổi bật của họ.
+ Kiểu khí chất nóng nảy: Người có kiểu khí chất này thường có hành động nhanh, mạnh,
hào hứng, nhiệt tình, có tính gay gắt, hay nóng nảy, mệnh lệnh, quyết đoán, dễ bị kích động,
thẳng thắn, chân tình, khả năng kiềm chế thấp, dễ bốc, dễ xẹp, hấp tấp, vội vàng… Họ dễ xúc
cảm, dễ có ấn tượng, thường quả quyết, dứt khoát, chủ động, sáng tạo trong hành động, đánh giá
tình huống và giải quyết công việc nhanh, giao thiệp rộng, bộc trực, thẳng thắn, cởi mở. Trong
giao tiếp với người khác thường thể hiện tính gay gắt, hay nổi nóng, dễ bị kích thích dẫn tới có
thể vấp váp trong quan hệ. Người này dễ giáo dục những phẩm chất tốt như nhiệt tình, say mê,
kiên quyết, nhưng khó hình thành tính kiêm chế, hay nổi nóng, cục cằn…
+ Kiểu khí chất ưu tư: Người có kiểu khí chất này thường có biểu hiện hoạt động chậm
chạp, chóng mệt mỏi, luôn hoài nghi, lo lắng, thiếu tự tin, hay u sầu, buồn bã, xúc cảm khó nảy
sinh nhưng rất sâu sắc, nhạy bén, tinh tế về cảm xúc, trong quan hệ thường mềm mỏng, tế nhị,
nhã nhặn, chu đáo, vị tha, sống nội tâm và khó thích nghi với môi trường mới… Trong công việc
họ thường kiên trì, nhẫn nại, chịu đựng được những công việc buồn tẻ, kéo dài. Tình cảm sâu sắc
kín đáo, bền vững song phản ứng không mạnh. Trong giao tiếp rất tế nhị, thận trọng, chu đáo.
Người này dễ hình thành những phẩm chất như nhạy bén tinh tế về cảm xúc, dễ thông cảm, biết
suy tính đắn đo trước từng công việc, có thể tiến hành bền bỉ các công việc đơn điệu. Dễ bị tổn
thương, nản chí, hay lo lắng, u sầu, giấu giếm, bi quan là điểm hạn chế của người có kiểu khí chất
này cần lưu ý trong giáo dục cũng như giao việc…
Như vậy, mỗi loại khí chất đều có mặt mạnh và mặt hạn chế, không có kiểu khí chất nào
là hoàn toàn tốt hay xấu. Đánh giá một con người là tốt hay xấu phải căn cứ vào xu hướng, tính
cách của họ… Bất kì người có kiểu khí chất nào trong 4 kiểu khí chất trên đều có thể trở thành
người có ích cho xã hội, nếu được giáo dục, rèn luyện đúng đắn và sử dụng một cách hợp lý.
Trên thực tế, một người có thể có sự đan xen của các kiểu khí chất trên, hoặc có những
nét riêng lẻ của các kiểu khí chất khác, trong đó có những nét của kiểu khí chất nào đó chiếm ưu
thế. Mặc dù khí chất có cơ sở sinh lý là hoạt động của các kiểu thần kinh nhưng khí chất vẫn chịu
sự chi phối của đặc điểm xã hội, biến đổi do rèn luyện và giáo dục.
4. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC THUỘC TÍNH TÂM LÝ NHÂN CÁCH
4.1. Mối quan hệ giữa xu hướng và năng lực

107
Năng lực là phương tiện để thực hiện mục tiêu của xu hướng. Quá trình thực hiện mục
tiêu của xu hướng chính là quá trình hình thành và phát triển năng lực. Ngược lại năng lực là yếu
tố quyết định quá trình thực hiện hóa nguyện vọng, mong muốn (xu hướng) của cá nhân.
4.2. Mối quan hệ giữa khí chất với tính cách
Khí chất và tính cách có mối quan hệ biện chứng với nhau, khí chất bộc lộ sắc thái riêng
biệt của tính cách phản ánh sự khác biệt, độc đáo trong tính cách từng cá nhân. Khí chất quy định
tốc độ, nhịp độ của thái độ, hành vi trong tích cách. Khí chất quy định hình thức thể hiện của tính
cách, có ảnh hưởng dễ dàng hay khó khăn đến việc rèn luyện tính cách.
Ví dụ: Một người có khí chất nóng khó hình thành tính kiên trì nhưng lại dễ dàng hành
thành tính quyết đoán, tính độc lập.
4.3. Khí chất với năng lực
Năng lực có thể ảnh hưởng đến đặc điểm của khí chất, chi phối các hoạt động của khí
chất. Ngược lại khí chất có thể làm cho năng lực đó thể hiện nhanh hay chậm, rõ nét hay mờ nhạt.
Ví dụ: Người có khí chất ưu tư của cá nhân sẽ thể hiện năng lực giao tiếp mờ nhạt hơn
một người có khí chất nóng hoặc khí chất linh hoạt.
5. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH
5.1. Bẩm sinh - Di truyền
Bẩm sinh di truyền: là tất cả những yếu tố về mặt sinh học sinh ra đã có hoặc di truyền từ
thế hệ trước đến thế hệ sau.
Cũng như mọi hiện tượng tâm lý khác, nhân cách không thể nảy sinh và phát triển bên
ngoài một cơ thể sinh học với cơ sở sinh lý là hoạt động thần kinh cấp cao. Tính chất, đặc điểm,
các quy luật và khả năng hoạt động của não, hệ thần kinh, giác quan đều ảnh hưởng và chi phối
sự hình thành và những biểu hiện của các đặc điểm nhân cách.
Bẩm sinh di truyền là tiền đề, là cơ sở cho sự hình thành phát triển nhân cách, nó vạch ra
chiều hướng cho sự phát triển nhân cách, tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn, làm chậm lại quá trình
phát triển nhân cách chứ không quyết định đến sự phát triển nhân cách.
Ở một số trường hợp đặc biệt, yếu tố sinh học có thể ảnh hưởng tới mức độ đỉnh cao tạo
ra sự khác biệt về những đặc điểm nhân cách nào đó giữa các cá nhân. Lĩnh vực năng lực là minh
chứng rõ nhất cho sự ảnh hưởng này, trong những điều kiện như nhau, trẻ nào có yếu tố sinh học
ưu thế hơn sẽ có sự phát triển tốt hơn.
Tóm lại, yếu tố sinh học giữ vai trò tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân nhân
cách, chúng không quyết định nhân cách ấy như thế nào.
5.2. Hoàn cảnh sống
Môi trường sống, hoàn cảnh sống là tất cả yếu tố tự nhiên, xã hội cần thiết cho con người
tồn tại và phát triển.

108
- Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên: các điều kiện tự nhiên,
hệ sinh thái phục vụ cho cuộc sống của con người, môi trường xã hội: môi trường kinh tế - chính
trị, văn hóa xã hội, các mối quan hệ xã hội…
- Môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. Môi trường vĩ mô là toàn bộ những sự kiện và
hiện tượng xã hội diễn ra trong phạm vi rộng về không gian và kéo dài về thời gian. Môi trường
vi mô được giới hạn ở phạm vi hẹp, gần gũi với cuộc sống con người bao gồm gia đình, nhà
trường, các tổ chức Đoàn, Hội, câu lạc bộ...
Môi trường sống, hoàn cảnh sống có vai trò quyêt định gián tiếp đến sự hình thành và
phát triển nhân cách của con người. Bởi con người bao giờ cũng tồn tại trong cộng đồng và tham
gia vào những nhóm xã hội nhất định và chịu ảnh hưởng của nhóm cũng như của những nhân
cách khác thông qua quá trình giao tiếp và hoạt động. Con người “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
muốn nói rằng, môi trường mà con người sống, hoạt động và giao tiếp có vai trò rất to lớn đến
việc hình thành và phát triển nhân cách con người.
5.3. Yếu tố giáo dục
Sự tác động cả xã hội đến mỗi người có thể diễn ra một cách tự nhiên, không chủ ý,
nhưng yếu tố quan trọng lại thuộc về các tác động có mục đích của giáo dục. Từ buổi thiếu thời
đến lúc trưởng thành con người liên tục tiếp nhận sự giáo dục của gia đình, người thân, nhà
trường, các đoàn thể xã hội, các tập thể lao động… Những tác động giáo dục đó đã góp phần hình
thành và phát triển các thuộc tính tâm lý nhân cách của con người. Mục đích, nội dung và phương
pháp giáo dục của xã hội có thể tiến bộ hoặc chưa tiến bộ nhưng bao giờ cũng để lại dấu ấn khá
sâu sắc trong nhân cách. Đúng như Hồ Chí Minh đã dạy “hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều
do giáo dục mà nên”.
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của xã hội, là quá trình chủ động tự giác có mục
đích, có kế hoạch tác động đến con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo yêu cầu
của xã hội. Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường và xã hội bao
gồm cả dạy học và các tác động khác đến con người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu là quá
trình tác động đến tư tưởng, đạo đức và hành vi của con người. Trong các con đường để hình
thành và phát triển nhân cách, giáo dục là con đường chủ đạo, cụ thể:
+ Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, bởi giáo dục
là quá trình tác động có mục tiêu xác định, hình thành một mẫu người cho xã hội cụ thể, một mô
hình nhân cách phát triển đáp ứng những yêu cầu cảu cuộc sống.
+ Thông qua giáo dục, mỗi các nhân lĩnh hội được nền văn hóa xã hội, lịch sử đã được
tinh lọc và hệ thống hóa qua các nội dung giáo dục để tạo nên nhân cách.
+ Giáo dục là con đường ngắn nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất để hình thành và phát triển
nhân cách vì giáo dục dựa trên các thành tựu của nghiên cứu khoa học, các quy luật nhận thức,
quy luật tâm lý xã hội… để tác động đến con người.

109
+ Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình
thành và phát triển nhân cách như bẩm sinh di truyền, môi trường sống, hoàn cảnh sống, yếu tố
xã hội, đồng thời bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố không thuận lợi gây ra.
+ Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch của nhân cách làm cho nó phát triển theo chiều
hướng mong muốn của xã hội (giáo dưỡng hay giáo dục lại).
Giáo dục là con đường chủ đạo trong các con đường hình thành và phát triển nhân cách,
song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, không coi giáo dục là con đường vạn năng.
Cần phải tiến hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan
hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ nhóm và tập thể. Giáo
dục không tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân.
5.4. Yếu tố hoạt động
Hoạt động cá nhân là con đường quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân
cách. Hoạt động của con người luôn có tính mục đích, tính xã hội, được thực hiện bằng những
thao tác và những phương tiện nhất định. Vì vậy mỗi hoạt động đều yêu cầu ở con người những
phẩm chất và năng lực nhất định và do đó nhân cách được hình thành và phát triển. Thông qua
hai quá trình xuất tâm và nhập tâm mà các nhân lĩnh hội kinh nghiệm của xã hội loài người và
chuyển hóa vào xã hội kinh nghiệm và năng lực của mình vào xã hội.
Trong hoạt động đối tượng, con người thực hiện sự phân tích những nhu cầu và điều kiện
khách quan để xác lập động cơ, mục đích và phương thức hoạt động của mình và chính hoạt động
này đã đưa tới những tác dụng kép, một mặt đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, mặt khác
ảnh hưởng tới lợi ích và sự tiến bộ xã hội. Hoạt động và giao tiếp của con người không chỉ có ý
nghĩa đối với xã hội mà còn quyết định sự hình thành và phát triển của bản thân nhân cách. Bởi
vì, bằng hoạt động và giao tiếp, con người thực hiện đồng thời hai quá trình “đối tượng hóa” và
‘chủ thể hóa” các thuộc tính người để làm biến đổi hoàn cảnh và hoàn thiện mình.
5.5. Yếu tố giao tiếp
Giao tiếp là một trong những con đường quan trọng trong các con đường hình thành và
phát triển nhân cách. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của xã hội loài người, vì xã hội là một cộng
đồng người. Đối với cá nhân giao tiếp là điều kiện tồn tại và là nhân tố phát triển nhân cách. Bởi
lẽ, ở mỗi con người đều chứa đựng những kinh nghiệm xã hội, lịch sử. Trong quá trình giao tiếp,
mỗi cá nhân sẽ được lĩnh hội những kinh nghiệm ấy để tồn tại và phát triển. Bằng giao tiếp, con
người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, các chuẩn mực xã hội và
“tổng hòa các mối quan hệ xã hội” thành bản chất của con người và đóng góp tài lực của mình
vào kho tàng chung của nhân loại của xã hội. Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ
người – người, là một yếu tố cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân cách. Song mọi hoạt
động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn ra trong cộng đồng, trong nhóm và trong tập thể.
Theo Tâm lý học Macxit, nhân cách con người bị quy định bởi điều kiện xã hội – lịch sử và các
mối quan hệ xã hội cụ thể của từng cá nhân. Sự tác động của điều kiện xã hôi – lịch sử đến nhân

110
cách diễn ra theo những con đường và phương thức rất đa dạng. Theo A.N.Leeonchiep, giao lưu
bằng tiếng nói và năng lực sử dụng công cụ là những thuộc tính của loài người. Chính nhờ thuộc
tính này mà cá nhân có thể lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội – lịch sử của các thế hệ trước từ đó
tâm lý, nhân cách của họ được hình thành và phát triển. Cùng với ảnh hưởng tác động chung của
nhóm xã hội, con người còn chịu tác động của những nhân cách khác thông qua giao tiếp. Bởi vì,
trong quá trình giao tiếp, các cá nhân thực hiện trao đổi thông tin, thái độ, tình cảm, đồng thời có
sự đánh giá, noi gương, ám thị…lẫn nhau, do đó họ chi phới tới quá trình hình thành những nét
nhân cách của nhau.
Việc kế thừa kinh nghiệm xã hội – lịch sử, xét cho cùng là quá trình tiếp nhận các giá trị
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần từ các thế hệ trước thông qua sự trao đổi thông tin bằng
ngôn ngữ hoặc bằng đối tượng hóa và nội tâm hóa trong hoạt động đối tượng. Vì thế, ngôn gữ
càng phát triển, hoạt động đối tượng càng phong phú thì nhân cách càng hoàn thiện. Hơn nữa, sự
tác động của điều kiện xã hội – lịch sử tới nhân cách diễn ra thường xuyên, đa dạng và đã để lại
dấu ấn trong các đặc điểm, thuộc tính của từng nhân cách, nhưng nhân cách không phải là sản
phẩm thụ động của hoàn cảnh, nhân cách là chủ thể hoạt động có vai trò tác động trở lại đối với
xã hội, thông qua đó góp phần cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình.
Con người với tư cách là một nhân cách thể hiện vai trò chủ thể của mình trong xã hội khá
sinh động. Trong hoạt động nhận thức, nhân cách biết tiếp thu một cách có chọn lọc những tác
động của xã hội, đồng thời vươn tới những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội phù hợp với
nhu cầu, điều kiện cá nhân của mình. Trong quan hệ xã hội, xuất phát từ những đòi hỏi khách
quan của đời sống và hoạt động, từng cá nhân biết cách thiết lập những quan hệ qua lại với những
người xung quanh và thông qua các quan hệ, nhân cách này lại tác động tới nhân cách khác, cũng
như tới nhóm xã hội mà họ là thành viên.
7. RÈN LUYỆN NHÂN CÁCH
Trong cuộc sống nhân cách liên tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự
ý thức, tự rèn luyện , tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Thậm chí ngay cả khi nhân cách, trong
thời điểm nào đó, có thể bị phân ly hoặc bị suy thoái, cá nhân vẫn có khả năng tự điều chỉnh, tự
rèn luyện cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Để tự hoàn thiện nhân cách, mỗi cá
nhân phải tự nhận thức được bản thân, có viễn cảnh về cuộc sống tương lai, phải có phẩm chất ý
chí và cần được sự giúp đỡ của tập thể, được dư luận tập thể ủng hộ. Hoàn thiện nhân cách vừa là
nhu cầu của cá nhân vừa là yêu cầu khách quan của xã hội.
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội. Môi trường
xã hội cụ thể là các nhóm mà cá nhân là thành viên như: gia đình, làng xóm, khu phố, cộng đồng,
tập thể. Nhóm là một khái niệm rất rộng lớn. Tập thể chỉ là một loại nhóm trong xã hội, không
phải bất cứ nhóm người nào cũng là tập thể.

111
Tập thể là một nhóm người, một bộ phận cấu thành của xã hội được thống nhất lại theo
mục đích chung phục tùng mục đích xã hội. Dấu hiệu bản chất của một tập thể là ở chỗ nhóm có
những mục đích có ý nghĩa xã hội. Những nhóm mà mục đích hoạt động của nó chỉ phục vụ
những quyền lợi nội bộ nhóm, không được vượt quá phạm vi của nhóm thì không gọi là một tập
thể đúng nghĩa của nó được. Tuy nhiên, một tập thể cũng chỉ tồn tại và phát triển được trên cơ sở
thống nhất giữa mục đích xã hội với mục đích của các thành viên. Tập thể không thể là nhóm
người bị điều khiển theo ý đồ cá nhân của thủ lĩnh mà trái với các chuẩn mực xã hội. Quá trình
phát triển của tập thể là sự phát triển của các yêu cầu: từ yêu cầu chung của xã hội, của tổ chức,
của hệ thống chỉ huy lãnh đạo, đến yêu cầu lẫn nhau giữa các thành viên trong tập thể và đến
trình độ cao là tự yêu cầu. Tập thể là nhóm người có kiểu quan hệ đặc biệt, đó là sự phụ thuộc lẫn
nhau về trách nhiệm xã hội và sự cộng tác. Quan hệ tập thể là sự phối hợp tạo ra những khả năng
và sức mạnh mới vượt xa sức mạnh của tất cả các thành viên cộng lại.
Tập thể là con đường quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách vì trong tập
thể giúp con người tìm thấy chỗ đứng của mình và thỏa mãn nhu cầu hoạt động, giao tiếp vốn là
nhu cầu cơ bản và xuất hiện sớm ở con người. Hoạt động tập thể là điều kiện, là phương thức thể
hiện và hình thành năng khiếu, năng lực và phẩm chất của nhân cách. Tập thể tác động đến nhân
cách qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lý
tập thể. Nhờ vậy, nhân cách của mỗi thành viên được điều chỉnh, điều khiển, thay đổi để phù hợp
với các quan hệ xã hội mà nhân cách đó tham gia. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động đến cộng
đồng, xã hội, các nhân cách khác thông qua tập thể của mình. Nhìn chung, các tập thể của xã hội
đều là những tập thể được đinh hướng xã hội. Tuy mỗi tập thể có nhiệm vụ, chức năng riêng biệt,
có cấu trúc tổ chức nhất định, có sự kết hợp độc đáo những người thuộc lứa tuổi và dân tộc khác
nhau, có phong cách quan hệ qua lại với nhau nhất định nhưng đều có chung nhiệm vụ xã hội có
ích đối với toàn xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN

1. Nhân cách là gì? Phân tích các đặc điểm của nhân cách?
2. Chỉ ra cấu trúc của nhân cách, các nội dung về thuộc tính của nhân cách? Chỉ ra ý nghĩa thực
tiễn của việc tìm hiểu thuộc tính của nhân cách?
3. Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới hình thành, phát triển nhân cách? Vận dụng vào quá trình
phát triển nhân cách của bản thân như thế nào?
4. Để phát triển nhân cách của bản thân, chúng ta cần làm gì?

112
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUONG 8 (VẤN ĐỀ 8)
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tâm lý học đại cương, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, 2011.
2. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Tâm lý học đại cương. NXB ĐH SP Hà Nội, 2005, 2013.
3. Nguyễn Ngọc Bích (2000). Tâm lý học nhân cách. NXB Giáo dục
Tài liệu trực tuyến
+ tailieu.vn/doc/nentangtamlyhocdaicuong – phan 1- 1742781.html
+ luutruqtvp2011.forumvi.com/t8 –topic
+https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-xuan-thuc-1735833.html
+ https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-tam-ly-hoc-dai-cuong-nguyen-quang-uan-153195.html
+https://vietbooks.info/threads/bai-tap-thuc-hanh-tam-ly-hoc-nxb-dai-hoc-quoc-gia-2002-tran-
trong-thuy-215-trang.10463/

113
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Bích (2000). Tâm lý học nhân cách. NXB Giáo dục
2. Đỗ Thị Châu (2005). Tình huống Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. NXB Giáo dục.
3. Hồ Ngọc Đại (1983). Tâm lý học dạy học. NXB Giáo dục
4. PH.N.Gônôbôlin (1976). Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên. NXB Giáo dục
5. Phạm Minh Hạc (1988). Tâm lý học tập 1. NXB Giáo dục
6. Phạm Minh Hạc (1989). Tâm lý học. NXB Giáo dục.
7. Phạm Minh Hạc (2002). Tuyển tập Tâm lý học. NXB Giáo dục
8. Lê Văn Hồng (1998). Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. NXB Giáo dục.
9 Phạm Mạnh Hùng (2006). Chuyên đề Tâm lý học nghề nghiệp. NXB Hà Nội, Hà Nội.
10. J.Piagiet (1986). Tâm lý học giáo dục. NXB Giáo dục
11. Petrovski (1982). Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm. NXB Giáo dục
12. Barry D.Smith and Harold J.Vetter ( 2005 ). Các học thuyết về nhân cách. NXB Văn hoá thông tin.
13. Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị (2014). Tâm lý học sư phạm đại học. NXB Đại học sư phạm
14 Nguyễn Thạc (1992), Tâm lý học sư phạm đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Trần Trọng Thủy (1990). Bài tập thực hành Tâm lý học. NXB Giáo dục
16. Nguyễn Huyền Thương và Nguyễn Thị Ngọc Thuý (2011). Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý
học sư phạm, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
17. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (2005), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội, Hà Nội.

114

You might also like