Professional Documents
Culture Documents
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1945
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1945
Đây là những thuận lợi quốc tế và trong nước có lợi cho cm VN, khi xdđ một chủ
trương nào đó, đảng ta luôn luôn tìm thấy tìm ra căn cứ vào những thuận lợi để
xđ đường lối chủ trương của mình, nhìn rõ những khó khăn để xd chủ trương cho
phù hợp với thực tế. Lúc này cách mạng việt nam cũng có những khó khăn do
hoàn cảnh thế giới đưa lại.
Thứ nhất là kháng chiến toàn dân: bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kig người
già, người trẻ , không chia tôn giáo, dảng phái, dân tộc. Hễ là người VN
thì phải đứng lên đánh Pháp, cứu tổ quốc; thực hiện mỗi người dân là
một chiến sĩ mỗi làng xóm là một pháo đài.
Thứ hai là kháng chiến toàn diện: đánh định về mọi mặt chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
Một là về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng
đảng chính quyền, các đoàn thế nhân dân. Đoàn kết với Miên, Lào..
Hai là về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân; triệt để thực hiện chiến tranh du kích, tiến lên vận động
chiến..
Ba là về kinh tế thực hiện yêu cầu kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung
tự cấp
Bốn là về văn hóa, xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến; xây dựng nền
văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại
chúng hóa
Năm là về ngoại giao, thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương lực lượng,
sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận VN độc lập.
Thứ ba là kháng chiến lâu dài là để chống âm mưu đánh nhanh thắng
nhanh của Pháp; để có thời gian phát huy yếu tố “ thiên thời địa lợi nhân
hòa” của ta; chuyển hóa tương quan lực lượng ngày càng có lợi cho ta.
Cuộc kháng chiến có ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công.
Thứ tư là dựa vào sức mình là chính: “ phải tự cấp tự túc về mọi mặt”, vì
ta bị bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước, xong lúc đó cũng không được ỷ lại.
Thứ năm là triển vọng kháng chiến mặc dù gian khổ lâu dài khó khăn
nhưng nhất định thắng lợi
Chỉ đạo triển khai đường lối và các bước phát triển của mặt trận quân sự, chống âm mưu “đánh
nhanh, thắng nhanh” của địch, với chỉ thị của Ban chấp hành TW Đảng đã ra chỉ thị phải “Phá tan
cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp” và với lối đánh mưu trí linh hoạt, 75 ngày đêm chiến đấu,
quân dân ta đã giành thắng lợi giòn giã ở chiến dịch Việt Bắc; chống âm mưu “lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”, đẩy kháng chiến tới giai đoạn mới, chú trọng phát triển
du kích, củng cố khối đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế xã hội, mà từ đây TW Đảng ra chỉ thị Thi
đua ái quốc. Để tăng cường bộ đội chủ lực Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh nghĩa vụ quân sự. Công tác
tinh thần trên mặt trận văn hóa cũng như công tác xây dựng Đảng cũng được quan tâm; Và Chiến
dịch biên giới 1950: Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch biên giới, đánh dấu
lần đầu tiên ta chủ động mở chiến dịch tấn công quy mô lớn. Kết quả thắng lợi của Chiến dịch Biên
giới đã đập tan tuyến phòng thủ của địch, giải phóng hoàn toàn vùng biên giới, tạo cánh cổng để Việt
Nam liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa bên ngoài. Đây là bước ngoặt cho sự trưởng thành về
trình độ tác chiến và chỉ đạo của quân đội ta, giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc
bộ.
PHẦN MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám thành công là mốc son chói lọi cho cách mạng Việt Nam sau này, nó mở ra
một trang sử mới với đầy hi vọng của độc lập tự do. Màu cờ đỏ hoa vàng ngày độc lập vẫn còn đấy
nhưng cách mạng vẫn trường kì, những thắng lợi trước đó là bước đệm cho cách mạng về sau, song
vẫn có những khó khăn còn tồn tại, đòi hỏi những đường lối chủ trương mới của Đảng.
PHẦN NỘI DUNG
Phần 1: Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống
Pháp năm 1945 – 1954.
2.4. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 1945 – 1946
2.4.1. Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng Tháng Tám
Chịu ảnh hưởng của bối cảnh thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này có một số thuận lợi cơ bản như
sau: hệ thống chủ nghĩa xã hội đã được hình thành; phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh,
đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc Trung Quốc; phong trào hòa bình dân chủ lên cao. Ngoài ra,
tình hình cách mạng trong nước cũng có những biến chuyển tốt, đó là: có sự lãnh đạo của Đảng, của
Hồ Chí Minh; ta đã có chính quyền cách mạng của nhân dân; toàn dân ta tin tưởng ủng hộ chính
quyền cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đây là những thuận lợi quốc tế và trong nước có lợi cho cách mạng Việt Nam, khi xây dựng một
chủ trương nào đó, Đảng ta luôn căn cứ vào những thuận lợi để xác định đường lối chủ trương của
mình, nhìn rõ những khó khăn để xây dựng chủ trương cho phù hợp với thực tế. Lúc này cách mạng
Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn.
Bối cảnh thế giới đã tác động tới hoàn cảnh cách mạng Việt Nam như sau: một là, tuy Việt Nam
tuyên bố độc lập nhưng chưa nước nào trên thế giới công nhận Việt Nam độc lập, kể cả Liên bang Xô
Viết, cũng chưa công nhận và chưa đặt quan hệ ngoại giao; hai là, nước ta giành độc lập bị bao vây
bốn phía; ba là, quân đội đế quốc kéo vào chiếm đóng Việt Nam mặc dù với danh nghĩa đồng minh
giải giáp quân phát xít Nhật, thực chất đây là quân đội Mỹ, Tưởng, Anh, Pháp kéo vào chiếm đống
Việt Nam xóa bỏ những quyền cách mạng tiêu diệt cộng sản, tiêu diệt mặt trận Việt Minh. Tình hình
trong nước sau chiến tranh: một là, hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề đó là nạn đói, nạn
dốt; hai là, chính quyền cách mạng còn hết sức non trẻ, trình độ quản lí đất nước, xã hội của Đảng và
nhà nước ta còn rất non yếu; ba là, nhân dân ta đặc biệt là đồng bào Nam bộ phải đứng lên tiến hành
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi chưa có một điều kiện chưa có một cơ sở, nên gặp nhiều
khó khăn và trở ngại, giặc đói giặc dốt, giặc ngoại xâm là hiểm họa nguy hiểm đối với chế độ mới, đối
với vận mệnh của dân tộc, mà lúc ấy Đảng ta gọi là vận mệnh của đất nước như ngàn cân treo sợi tóc.
Trước những thuận lợi và khó khăn sau cách mạng, Đảng ta đã kịp thời đề ra đường lối cho cách
mạng Việt Nam, đường lối đó có tên chung là Chủ trương kháng chiến kiến quốc trong chỉ thị kháng
chiến kiến quốc vào 25/11/1945 của tư Đảng. Nội dung của chỉ thị đó thể hiện đường lối ch ủ trương
của Đảng đối với cách mạng Việt Nam trong bối cảnh điều kiện, tình hình mới có các điểm cơ bản.
Đường lối chủ trương của Đảng có nội dung như sau:
Thứ nhất, tư tưởng chỉ đạo chiến lược, trước đây Đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng nêu cao vấn đề giải phong dân tộc, tập trung vào giải phóng dân tộc. Thì sau cách mạng
tháng tám 1945, chỉ thị Đảng ta vẫn chủ trương tập trung vào nhiệm vụ dân tộc giải phóng vẫn tiếp
tục nêu cao vấn đề dân tộc giải phóng. Khẩu hiệu toàn dân lúc này “dân tộc trên hết, tổ quốc trên
hết” nhưng không phải giành độc lập mà giữ vững độc lập. Đó là vấn đề chiến lược, tiếp tục nêu cao
vấn đề dân tộc giải phóng tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu.
Thứ hai, xác định kẻ thù. Chủ trương của Đảng ta là nhìn rõ kẻ thù nguy hiểm nhất, tập trung
đánh vào kẻ thù chính, tránh cùng một lúc phải đánh với nhiều kẻ thù. Đảng ta đã phân tích âm mưu
từng kẻ thù một, đã nhìn nhận thực tiễn, đánh giá mục tiêu và đưa ra những chủ trương như: hòa
hoãn với Tưởng, tập trung ngọn lửa đấu tranh cả nước vào thực dân Pháp, xác định đây là kẻ thù
chính.
Chỉ thị nhấn mạnh Lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân pháp xâm lược mở rộng Mặt
trận Việt Minh, thống nhất mặt trận Việt – Mên – Lào ...để chống thực dân Pháp. Đảng đã đưa ra
những chủ trương, phương hướng nhiệm vụ mới.
Trong nước, Đảng đã có những chủ trương cơ bản như: củng cố chính quyền cách mạng, chống
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân cả vật chất lẫn tinh
thần. Đối ngoại, thực hiện nguyên tắc thêm bạn bớt thù, chỉ đạo củ thể, đối với tưởng “ Hoa – Việt
thân thiện”; đối với Pháp “độc lập về kinh tế, nhân nhượng về kinh tế” đó là phương hướng nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Với những nội dung đó, bản chủ trương kháng chiến kiến quốc đã có những ý nghĩa quan trọng
đó là: xác định đúng được kẻ thù chính, nguy hiểm của dân tộc ta đó là thực dân Pháp; đã đề ra hai
nhiệm vụ chiến lược mới: xây dựng đi đôi với bảo vệ đất nước; đã nêu lên bốn nhiệm vụ vừa cơ bản
vừa cấp bách với cách mạng Việt Nam, các giải pháp về đối nội đối ngoại để chống nạn đói nạn đốt,
chống giặc ngoại xâm.
2.4.3. Nhận xét
Ngay sau khi giành độc lập dân tộc, Đảng đã bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng chế độ mới, đi
đôi với bảo vệ đất nước. Tình hình dân tộc là cấp bách, nhanh chóng nhưng đường lối của Đảng thực
sự hiệu quả và mang lại nhiều kết quả to lớn cho cách mạng Việt Nam trong tất cả mặt trận chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài
Nó đã có ý nghĩa, giá trị to lớn với cách mạng Việt Nam, bước đầu đã làm cho nhân dân cảm nhận
được bản chất tốt đẹp của chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân, càng
thêm tin tưởng gắn bó và quyết tâm xây dựng bảo vệ chế độ ấy.
Bộ tham mưu lãnh đạo từng bước trưởng thành, có đường lối chính trị đúng đắn, đã triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chìa mũi nhọn vào kẻ thù chính xem sự nhân nhượng có
nguyên tắc với địch cũng là biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể; tận
dụng khả năng hòa hoãn, đàm phát xây dựng lực lượng cũng cố chính quyền đồng thời vẫn luôn luôn
đề cao cảnh giác để sẵn sàng ứng phó với chiến tranh khi kẻ thù bội ước.
Đảng đã kế thừa truyền thống đấu tranh của dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân, dựa vào dân
để xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng của mình. Những kết quả đấy là cả quá trình thực hiện
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Chúng ta không có những sức mạnh, sự viện trợ quốc tế, chi
viện nước ngoài, tiềm lực đất nước nhỏ yếu nhưng ta đã bảo vệ được chính quyền trước ba mươi
vạn quân ngoại xâm, đó là dựa vào dân, nêu cao vai trò của lực lượng nhân dân trong kháng chiến.
Đảng đã thông minh, khéo léo, vì cách mạng của ta là chính đáng nên dựa vào dân là gốc, sử dụng
sức mạnh toàn dân khắc phục những khó khăn trong nước lúc bấy giờ.
2.5. Đường lối kháng chiến chống Pháp và đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 1946 – 1954
Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng đều ra đời trong hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử cụ thể.
Khi Pháp bội ước, Đảng đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, mà dấu ấn là Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.5.1. Hoàn cảnh lịch sử
Trước tình hình, Pháp liên tục bội ước, khiêu khích tạo chiến tranh ở Miền bắc, Đảng ta chủ trương
xác định rõ: đây là cuộc kháng chiến khác lạ trong lịch sử dân tộc, nó nổ ra không phải ở biên cương,
hải đảo xa xôi rồi mới tới thủ đô, mà cuộc kháng chiến nổ ra ngay giữa lòng thủ đô rồi mới lan rộng
tới nông thôn, miền núi. Ngoài ra, nêu cao tinh thần chủ động cách mạng, sẵn sàng cho kháng chiến.
Trong giai đoạn này, cách mạng Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn như: tương quan lực
lượng ta yếu hơn Pháp; ta bị bao vây bốn phía chưa được ai giúp đỡ, công nhận, cuộc kháng chiến
của ta là trong vòng vây của địch; ta tiến hành cuộc kháng chiến khi Pháp đã chiếm được Nam bộ,
Campuchia, Lào, nó đã đóng quân nhiều nơi trên đất nước ta, đặc biệt là chiếm đóng các đô thị ở
nước ta. Tuy vậy, kháng chiến của chúng ta là chính nghĩa, là vì độc lập tự do, dân chủ, có “thiên thời
địa lợi nhân hòa”, có sự chuẩn bị về mọi mặt.
Ngay sau khi phát động cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ, Đảng ta đã có chủ trương dựa vào
nông thôn để bảo toàn xây dựng lực lượng, đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại
giao...
Nhận định kẻ thù chính, kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp, tập trung mọi lực
lượng, chĩa mũi nhọn vào chúng. Kí với Pháp hiệp định sơ bộ (6-3-1946), tuy nhiên, mưu đồ của Pháp
chúng ta đã nắm rõ, tại Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất nhận định: “không sớm thì muộn,
Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp và chủ trương sẵn sàng bước vào cuộc chiến
đấu mới”.
Thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Được thể hiện tập trung vào ba văn kiện lớn công bố ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp bùng nổ: Chỉ thị toàn dân kháng chiến của TW Đảng vào 12/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến 19/12/1946 của Hồ Chí Minh và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí
thư Trường Chinh.
Chiến tranh nhân dân ở Việt Nam đã thể hiện đầy đủ khi Hà Nội nổ súng mở đầu cho phong trào
Toàn quốc kháng chiến, nó đã kết thừa và phát triển chiến tranh trên toàn quốc, toàn dân từ giai
đoạn trước đó.
Đường lối kháng chiến của Đảng đã: xác định được mục đích của kháng chiến là kế tục và phát
triển sự nghiệp cách mạng Tháng Tám, đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất
và độc lập; xác định được tính chất của cuộc kháng chiến là tự vệ, chính nghĩa, “ thiên thời, địa lợi,
nhân hòa”, trường kì kháng chiến – toàn diện kháng chiến, chiến tranh cách mạng – chiến tranh tiến
bộ, vì độc lập, tự do, dân chủ và hòa bình; giữ vững quan hệ quốc tế.
Chính sách kháng chiến là: liên hợp với dân tộc Pháp, cuộc chiế của thực dân Pháp gây ra tại Đông
Dương là cuộc chiến tranh phi nghĩa, không được nhân dân tại chính nước Pháp ủng hộ. Cho nên sự
liên kết nay như một đoàn tấn công ngay sau lưng địch; đoàn kết với Mên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng hòa bình, khi liên kết sức mạnh của ta sẽ được gia tăng, phạm vi hoạt động được mở rộng;
toàn dân kháng chiến, tự cấp tự túc về mọi mặt.
Nhiệm vụ kháng chiến là đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí; động viên
nhân, tài, vật lực thực hiện toàn dân kháng chiến; giành độc lập bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung
Nam Bắc. Cũng cố chế độ cộng hòa dân chủ; tăng gia sản xuất thực hiện kinh tế tự túc.
Phương châm tiến hành cuộc kháng chiến đó là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân; thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế,...lâu dài dựa vào
sức mình là chính.
Đặc biệt là kháng chiến toàn dân: “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ , không
chia tôn giáo, dảng phái, dân tộc. Hễ là người VN thì phải đứng lên đánh Pháp, cứu tổ quốc; thực
hiện mỗi người dân là một chiến sĩ mỗi làng xóm là một pháo đài..”. Ở lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến đã thể hiện bản chất của chiến tranh nhân dân, với lực lượng kháng chiến là toàn dân, tận dụng
sức mạnh đoạn kết dân tộc. Đảng đã nhận định, đánh giá tình hình thực tiễn một cách hợp lí, động
viên tinh thần nhân dân về một cuộc kháng chiến nhất định thành công, một cách đúng lúc, đúng
thời để sớm đi vào quỹ đạo và ổn định về sau.
Đường lối của Đảng đã có những bước phát triển được đánh dấu ở các cuộc tấn công đánh tan
âm mưu: “ đánh nhanh thắng nhanh”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người
Việt”..của địch. Kết quả là thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc, Chiến dịch Biên Giới....
Tình hình lúc này đã có nhiều chuyển biến, sự ra đời của các nước chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sự ra
đời của Cộng hòa Trung Hoa đã tạo một thế rất vững chắc, một lực lượng hùng hậu, tác động mạnh
mẽ tới cách mạng nước ta. Nước ta đã được công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, trong đó có Liên
Xô và Trung Quốc. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương giành được thắng lợi. Song,
lợi dụng tình thế khó khăn của Pháp, đế quốc Mỹ đã tham gia vào cuộc chiến với vẻ mặt vừa muốn
giúp đỡ Pháp vừa muốn hắt cẳng Pháp khỏ Đông Dương. Trước điều kiện lịch sử đó, Đảng ta đã cho
tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối sao cho phù hợp với thực tiễn.
Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo hoàn
thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh,
Báo cáo về tổ chức và điều lệ Đảng của Lê Văn Lương.
Trong báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh: vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt thực
dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ dành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới.
“Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội”
của Trường Chinh: trình bày toàn bộ đường lối cách mạng Việt Nam: đó là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam
Qúa trình thực hiện đường lối, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đẩy kháng chiến tới thắng, Đảng đã
chú trọng phát triển lực lượng ba thứ quân, mở các cuộc chiến dịch. Biên giới Thu Đông 1950 thắng
lợi đã khai thông biên giới Việt – Trung, mở ra nhiều cuộc tiến công sau đó như: Chiến dịch Trung Du,
chiến dịch Hoàng Hoa Thám,... tuy ở chiến dịch, hai bên đều có thương vong khá lớn nhưng kết quả
đều khả quan, Việt Minh đã học được cách đối phó chiến thuật và vũ khí của Pháp.