You are on page 1of 14

I.

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954


1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 1945 – 1946
1.1. Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng Tháng Tám
Sau cách mạng tháng Tám 1945 cách mạng vn có một số thuận lợi và một số khó khăn.
1.1.1. Một số thuận lợi cơ bản như sau:
- Thứ nhất, bối cảnh quốc tế lúc này có ba thuận lợi cơ bản đối với cách mạng
VN
 Một là, hệ thống CNXH đã được hình thành với trụ cột là liên ban xhcn xô
viết.
 Hai là, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, đặc biệt là phong
trào giải phóng dân tộc TQ
 BA LÀ, phong trào hòa bình dân chủ lên cao, nhất là các nước tư bản các
nước dân tộc chủ nghĩa
Đây là ba trào lưu cách mạng thế giới được chìa mũi nhọn vào cn đế quốc có lợi
cho cách mạng VN
- Thứ hai là, bối cảnh trong nước lúc bấy giờ cũng có ba thuận lợi sau
 Một là, có sự lãnh đạo của Đảng, của HCM đây là một điểm thuận lợi đặc
biệt uy tín của chủ tịch HCM
 Hai là, ta đã có chính quyền cách mạng của nd
 Ba là, toàn dân ta tin tưởng ủng hộ chính quyền cách mạng, ủng hộ HCM

Đây là những thuận lợi quốc tế và trong nước có lợi cho cm VN, khi xdđ một chủ
trương nào đó, đảng ta luôn luôn tìm thấy tìm ra căn cứ vào những thuận lợi để
xđ đường lối chủ trương của mình, nhìn rõ những khó khăn để xd chủ trương cho
phù hợp với thực tế. Lúc này cách mạng việt nam cũng có những khó khăn do
hoàn cảnh thế giới đưa lại.

1.1.2. Một số khó khăn


- Thứ nhất là bối cảnh thế giới đã tác động tới hoàn cảnh cách mạng việt nam
 Một là, lúc này tuy VN tuyên bố độc lập nhưng chưa nước nào trên thếg
công nhận VN độc lập, kể cả liên bang xô viết, cũng chưa công nhận và
chưa đặt quan hệ ngoại giao
 Hai là, nước ta giành độc lập bị bao vây bốn phía, xung quanh ta kể cả TQ
chưa nước nào giành dc độc lập do đó ta vẫn bị kẻ thù bao vây bốn phía
 Ba là, quân đội đế quốc kéo vào chiếm đóng vn mặc dù với danh nghĩa
đồng minh giải giáp quân phát xít nhật thực chất đây là quân độ mỹ
tuoewng anh pháp kéo vào chiếm đống vn xóa bỏ những quyền cách
mạng tiêu diệt cộng sản, tiêu diệt mặt trận việt minh
- Thứ hai là tình hình trong nước
 Một là, hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề đó là nạn đói nạn
dốt
 Hai là, chính quyền cách mạng còn hết sức non trẻ, trình độ quản lí đất
nước xh của Đảng và nhà nước ta còn rất non yếu
 Ba là, nhân dân ta đặc biệt là đồng bào NB phải đứng lên tiến hành cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp khi chưa có một điều kiện chưa có một
cơ sở, nên gặp nhiềukhó khăn và trở ngại. Giặc đói giặc ... hiểm họa nguy
hiểm đối với chế độ mới, đối với vận mệnh của dt, mà lúc ấy đảng ta gọi
là vận mệnh của đất nước như ngàn cân treo sợi tóc
1.2. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Đảng
Trước những thuận lợi và khó khăn sau cách mạng, Đảng ta đã kịp thời đề ra đường
lốicho cm VN, đường lối đó có tên chung là chủ trương kháng chiến kiến quốc trong chỉ
thị kháng chiến kiến quốc vào 25/11/1945 của tư Đảng. Nội dung của chỉ thị đó thể hiện
đường lối chur trương của đảng đối với cách mạng VN trong bối cảnh điều kiện, tình hình
mới có các điểm cơ bản.
1.2.1. Đường lối chủ trương của đảng
- Thứ nhất, Tư tưởng chỉ đạo chiến lược, trước đây đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cm nêu cao vđ giải phong dt tập trung vào giải phóng dân tộc. Thì sau cách
mạng tháng tám 1945, vấn đề tập trung nhất là vấn đề nào? Thì tại chỉ thị này Đảng
ta vẫn chủ trương tập trung vào nhiệm vụ dân tộc giải phóng vẫn tiếp tục nêu cao
vấn đề dt giải phóng. Khẩu hiệu toàn dân lúc này “dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”
nhưng không phải giành độc lập mà giữ vững độc lập. Đó là vấn đề chiến lược, tiếp
tục nêu cao vấn đề dt giải phóng tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu.
- Thứ hai, xác định kẻ thù. Trước đây chúng ta xđ kẻ thù là thực dân Pháp , sau đó khi
nhật chiếm nước ta thì ta xđ kẻ thù pháp nhật. Lúc nhật đảo chính thực dân P chiếm
đóng nước ta, thì ta xđ kẻ thù chính là phát xít nhật, phát động cao trào kháng nhật
cứu nước. Sau này khi nhật đầu hàng đồng mĩnh rút về nước, sau cm t8 nước ta có
rất nhiều kẻ thù: quân nhật chưa rút hết, thực dân p vẫn còn ở VN, quân mỹ tưởng,
thực chất là quân tưởng giới thạch kéo vào 20 vạn quân, kéo đóng từ vĩ tuyển 16 từ
đà nẵng trở ra, phía nam là quân anh. Nước ta có bốn lực lượng ngoại xâm, đó là
quân tưởng, quân nhật, anh, pháp. Cùng một lúc có nhiều kẻ thù với số lượng hơn 30
vạn quân xâm lược. Chủ tưởng của đảng ta là nhìn rõ kẻ thù nguy hiểm nhất, tập
trung đánh vào kẻ thù chính, tránh cùng một lúc phải đánh với nhiều kẻ thù. Đảng ta
đã phân tích âm mưu từng kẻ thù một. Chúng đều có dã tâm tiêu diệt cm, xóa bỏ cm,
xóa bỏ nền độc lập của dt ta, tuy nhiên giữa chúng có những âm mưu riêng, mục tiêu
riêng. Đảng đã nhìn nhận thực tiễn, đánh giá mục tiêu và đưa ra những chủ trương
như: hòa hoãn với tưởng, tập trung ngọn lửa đấu tranh cả nước vào thực dân Pháp,
xđ đây là kẻ thù chính.
- Chỉ thị nhấn mạnh Lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân pháp xâm lược
mở rộng mặt trận Việt Minh, thống nhất mặt trận Việt – Miên – Lào ...để chống td P

1.2.2. Phương hướng nhiệm vụ


- Thứ nhất, Đối nội, nêu lên bốn nhiệm vụ cơ bản, cấp bách
 Một là, củng cố chính quyền cách mạng.
 Hai là, chống thực dân pháp xâm lược vn
 Ba là, bài trừ nội phản
 Bốn là, cải thiện đời sống nhân dân cả vật chất tinh thần
- Thứ hai là, đối ngoại,
 Thực hiện nguyên tắc thêm bạn bớt thù
 Hai là, chỉ đạo củ thể, đối với tưởng “ hoa – việt thân thiện”; đối với pháp “độc
lập về kinh tế, nhân nhượng về kinh tế” đó là phương hiwosng nhiệm vụ cơ bản
của cm vn sau cm t8
- Với những nội dung đó, bản chủ trương kháng chiến kiến quốc đã có những ý nghĩa
quan trọng.
 Một là, xác định đúng được kẻ thù chính, nguy hiểm của dân tộc ta đó là thực
dân pháp.
 Hai là, đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược mới: xây dựng đi đôi với bảo vệ đất nước
 Ba là, đã nêu lên bốn nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách với cm vn, các giải pháp
về đối nội đối ngoại để chống nạn đói nạn đốt, chống giặc ngoại xâm.
1.2.3. Kết quả, ý nghĩa, kinh nghiệm
1.2.3.1. Kết quả
Những nội dung trong bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc của đảng được đảng chỉ
đạo thực hiện trên thực tế từ tháng 9 năm 45 và giành dc những kết quả to lớn
trong giai đoạn 45-46 cụ thể như sau:
- Trong xây dựng hệ thống chính trị, đảng ta đã tập trung tạo dựng những nền
móng đầu tiên của thể chế chính trị vn dân chủ cộng hòa. Đó là tổ chức tổng
tuyển cử, bầu quốc hội lập chính phủ chính thức ban hành hiến pháp, thành
lập hội liên hiệp quốc dân, thành lập các đàon thể quần chúng nhân dân như
công đoàn, hội phụ nữ, đảng xh vn,..thành lập cơ quan sức mạnh của chính
quyền như công an nhân dân, tòa án, ..
- Trong kinh tế văn hóa, Đảng đã tập trung chống đói, phát triển tăng gia sản
xuất, xóa nạn mù chữ khai giảng năm học mới
- Trong xây dựng lực lượng trang, phát động phong trào toàn dân vũ trang xây
dựng vệ quốc đoàn, xây dựng ll dân quân tự vệ
- Trong đấu tranh chống thù trong giặc ngoài bảo vệ chính quyền cách mạng,
đảng chỉ đạo trừng trị bọn nội phản, tiến hành đấu tranh hòa hoãn với
tưởng, tập trung kháng chiến ở NB, sau hòa hoãn với P đuổi quân tưởng về
nước. Kéo các hiệp định để kéo dài thời gian cbi cho kháng chiến
1.2.3.2. Ý nghĩa
- Những kết quả đó, đã có ý nghĩa, giá trị to lớn với cm VN, bước đầu đã làm
cho nhân dân cảm nhận được bản chất tốt đẹp của chế độ mới, chế độ dân
chủ nhân dân của dân do dân vì dân, càng thêm tin tưởng gắn bó và quyết
tâm xây dựng bảo vệ chế độ ấy.
 Một là, cách mạng vn vượt qua khó khăn hiểm nghèo bảo vệ được độc
lập, giữ vững được chính quuyền cách mạng
 Hai là, xây dựng được nền móng đầu tiên, cơ bản ở chế độ mới VN DCCH
 Ba là, chuẩn bị dc điều kiện cần thiết cho kháng chiến toàn quốc lâu dài
về sau.
1.2.3.3. Kinh nghiệm
Mặc dù thời gian ngắn nhưng sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng cũng để lại một
số kinh nghiệm bài học nổi bật nhu sau:
 Một là phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dựa vào dân để xd và
bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây là bài học nổi bật của thời kì 1945 –
1946 lúc này chúng ta không có những sức mạnh, sự viện trợ quốc tế, chi
viện nước ngoài, tiềm lực đất nước nhỏ yếu nhưng ta cần bảo vệ được
chính quyền trước ba mươi vạn quân ngoại xâm, đó là dựa vào dân
 Hai là, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chìa mũi nhọn
vào kẻ thù chính xem sự nhân nhượng có nguyên tắc với địch cũng là
biện pháp đấu tranh cm cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể
 Ba là, tận dụng khả năng hòa hoãn, đàm phát xây dựng lực lượng cũng
cố chính quyền dodofdng thời vẫn luôn luôn đề cao cảnh giác để sẵn
sàng ứng phó với chiến tranh khi kẻ thù bội ước.
2. Đường lối kháng chiến chống pháp và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 1946 – 1954
2.1 hoàn cảnh lịch sử
Ta thấy đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của đảng, có hoàn cảnh ra đời, có bối
cảnh ls cụ thể. Về phái ta, lúc này đảng chỉ đạo kháng chiến ở NB đã có thương lượng đàm
phát với P kiên trì đàm phán đồng thời tích cực cbi lực lượng điều kiện
19/12/1946 khi Pháp bội ước, đảng phát động kháng chiến toàn quốc, HCM ra lời kêu gọi
toàn dân tham gia kc chống P qua ....
Thực dân pháp, kẻ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn cõi VN, pháp đã xâm lược nam
bộ bằng vũ trang. Pháp kí với ta hiệp định sơ bộ nhưng cốt đưa lực lượng ra miền bắc để rồi
từ đó chiếm đóng miền bắc duy trì lực lượng chiếm đóng, TỪ tháng 11/46 khiêu khích gây sự
tạo bàn đạp tạo cớ để gây chiến tranh xâm lược toàn cõi VN. 18/12/46 trên thực tế Pháp
khước từ mọi sự đàm phán dùng vũ lực đánh chiếm HN, hành động chiến tranh xâm lược của
P, đặt nhân dân ta đứng trước lựa chọn buộc đứng lên để kháng chiến dành độc lập tự do
của mình.
2.1.1. Đặc điểm của chủ trương có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất về tinh thần, ta là người bị động đứng lên tiến hành chiến tranh,
nhưng khi đứng lên ta lại giữ được yếu tố chủ động về tinh thần. Pháp là kẻ
cố tình gây chiến tranh xâm lược, khi chiến tranh nổ ra pháp lại bị động trong
một khoảng thời gian.
- Thứ hai về địa điểm, cuộc kháng chiến này khác với các cuộc chiến tranh
trong ls dt nổ ra không phải biên cương hải đảo, biên giới xa xôi rồi tới thủ
đô, mà cuộc kc này nổ ra từ thủ đô, từ trung tâm rồi mới tới vùng nông thôn
vùng núi
Thời điểm bùng nổ, không sớm k muộn, bùng nổ khi kẻ thù đụng tới thủ đô, không là
sớm quá, không là muộn quá, ta chủ động trong bị động, còn thực dân Pháp chủ
động gây ra chiến tranh nhưng ngay khi chiến tranh bùng nổ, pháp lại bị bao vây
trong thành phố 1 th.g
2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn
- khi kháng chiến bùng nổ ta ccó một số thuận lợi:
 một là ta có chính nghĩa, có thiên thời địa lợi nhân hòa
 hai là, ta có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt
 ba là, pháp cũng gặp rất nhiều khó khăn
- tuy nhiên, cuộc kháng chiến toàn quốc của chúng ta bùng nổ cũng gặp một
số khó khăn như sau :
 một là, tương quan lực lượng ta yếu hơn Pháp
 hai là, ta bị bao vây bốn phía chưa được ai giúp đỡ, công nhận, cuộc
kháng chiến của ta là trong vòng vây của địch
 ba là, ta tiến hành cuộc kháng chiến khi pháp đã chiếm dc nam bộ,
campuchia và LÀO , đóng quân ở nhiều nơi trên nước ta, đặc biệt là
chiếm đóng các đô thị ở nước ta.
2.2. Quá trình hình thành
- Ngay từ khi phát động cuộc kháng chiến chống pháp ở NB, đảng ta đã có chủ
trương dựa vào nông thôn để bảo toàn xây dựng lực lượng, đã chỉ đạo kết
hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao ...
- Trong chỉ thị kckq, đảng đã nhận định kẻ thù chính, kẻ thù nguy hiểm nhất
của dân tộc ta là td pháp, tập trung mọi lực lượng, chĩa mũi nhọn vào chúng.
- Khi pháp- tưởng kí hiệp định trùng khánh 28/2/1946 đảng ra chỉ thị tình hình
và chủ trương, nhấn mạnh: điều cốt tử là phải “ không ngừng một phút công
việc sửa soạn sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu”
- Sau khi kí Hiệp định sơ bộ V-P (6-3-1946), ngay sau đó ngày 9-3 trung ương
đảng đã ra chỉ thị: hòa để tiến, đề ra những việc cần làm ngay, nhấn mạnh
phải chuẩn bị kháng chiến lâu dài...
- 19-10-1946, tại Hội nghị quân sự toàn quốc lần thuwss nhất nhận định:
không sớm thì muộn, pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh
pháp và chủ trương sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới
+ sau khi thăm pháp trở về, 20-10-1946 HCM khẳng định không còn con
đường nào kháng ngoài việc tích cực kháng chiến nhưng vẫn phải tìm mọi
cách kéo dài thời gian hòa hoãn để tiếp tục chuẩn bị thêm
+ trong chỉ thị, công việc khẩn bh HCM đã nêu lên những việc có tầm chiến,
toàn cục và cấp bách cần làm ngay để bước vào cuộc kháng chiến khẳng định
lòng tin vào thắng lợi cuối cùng
- Thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện lâu dài, dựa vào sức
mạnh là chính. Được thể hiện tập trung vào ba văn kiện lớn công bố ngay sau
khi cuộc kháng chiến chống thực dân pháp bùng nổ:
 Chỉ thị toàn dân kháng chiến của TW Đảng 12-12-1946
 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 của HCM
 Tác phẩm kháng chiến nhất định thắng lợi (1947) của Tổng Bí thư
Trường Chinh
- Nội dung cụ thể đường lối kháng chiến của Đảng như sau:
 Thứ nhất là xác định mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự
nghiệp CM T8, tức là “đánh phản động td pháp xâm lược giành thống
nhất và độc lập”
 Thứ hai là xác định tính chất của cuộc kháng chiến: tự vệ, chính
nghĩa, “thiên thời địa lợi nhân hòa”- là ta đánh Pháp trên đất nước
ta, quân dân ta đã quen khí hậu, địa hình và đây là cuộc đấu tranh
chính nghĩa nên được sự ủng hộ của toàn dân. Đó là trường kì kháng
chiến, toàn diện kháng chiến; chiến tranh cách mạng- chiến tranh
tiến bộ; vì tự do độc lập, dân chủ và hòa bình.
 Chính sách kháng chiến liên hiệp với dân tộc Pháp chống phản động
Pháp, đòa kết Miên – Lào và các dân tộc yêu chuộng hòa bình. Đoàn
kết toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến. Tự cấp tự túc về mọi
mặt.
 Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: đoàn kết toàn dân, thực hiện
quân, chính, dân nhất trí; động viên nhân, tài, vật lực thực hiện toàn
dân kháng chiến; Giafnh độc lập bảo toàn lãnh thổ, thống nhất trung
nam bắc. Cũng cố chế độ cộng hòa dân chủ; tăng gia sản xuất thực
hiện kinh tế tự túc.
 Phương châm tiến hành cuộc kháng chiến đó là tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân; thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài
dựa vào sức mình là chính .

Thứ nhất là kháng chiến toàn dân: bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kig người
già, người trẻ , không chia tôn giáo, dảng phái, dân tộc. Hễ là người VN
thì phải đứng lên đánh Pháp, cứu tổ quốc; thực hiện mỗi người dân là
một chiến sĩ mỗi làng xóm là một pháo đài.

Thứ hai là kháng chiến toàn diện: đánh định về mọi mặt chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

Một là về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng
đảng chính quyền, các đoàn thế nhân dân. Đoàn kết với Miên, Lào..

Hai là về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân; triệt để thực hiện chiến tranh du kích, tiến lên vận động
chiến..

Ba là về kinh tế thực hiện yêu cầu kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung
tự cấp

Bốn là về văn hóa, xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến; xây dựng nền
văn hóa dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại
chúng hóa

Năm là về ngoại giao, thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương lực lượng,
sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận VN độc lập.

Thứ ba là kháng chiến lâu dài là để chống âm mưu đánh nhanh thắng
nhanh của Pháp; để có thời gian phát huy yếu tố “ thiên thời địa lợi nhân
hòa” của ta; chuyển hóa tương quan lực lượng ngày càng có lợi cho ta.
Cuộc kháng chiến có ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công.
Thứ tư là dựa vào sức mình là chính: “ phải tự cấp tự túc về mọi mặt”, vì
ta bị bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ
của các nước, xong lúc đó cũng không được ỷ lại.

Thứ năm là triển vọng kháng chiến mặc dù gian khổ lâu dài khó khăn
nhưng nhất định thắng lợi

- Phương châm chỉ đạo kháng chiến


Đường lối kháng chiến của đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng
đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các
nguyên lí về chiến tranh cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lenin, vừa phù hợp
với thực tế đất nước lúc bấy giờ
Đường lối kháng chiến đúng đắn của đảng được công bố sớm đã có tác dụng
đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng
giành thắng lợi trước mắt là từ 1947 – 1950.

2.3. Đại hội lần thứ 2 của đảng


Đảng phát triển toàn diện hoàn thành đường lối, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
đưa kháng chiến tới thắng lợi
Đại hội họp vào đầu năm 1951, phe CNXH lớn mạnh, TQ, Liên Xô giúp đỡ VN. Cuộc kháng
chiến của nhân dân ba nước đông dương đã giành được thắng lợi quan trọng nhưng mức
độ không đều nhau. Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào chiến tranh đông dương ...thực tiễn
cách mạng đông dương đòi hỏi công tác xấy dựng đảng phải có sự thay đổi lớn.
Tiếp đó, tháng 2-1951, ĐCS Đông Dương họp đại hội II tại tuyên quang đã tán thành chia
tách ĐCS đông dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến ba nước
tới thắng lợi. ở VN đảng ta hoạt động công khai với tên Đảng Lao động VN
Đối với cách mạng việt nam báo cáo bàn về cách mạng VN do TBT Trường Chinh trình
bày với tên là Hoàn thành giải phóng dân tộc phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ
nghĩa xã hội đã hoàn thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Vn. Đường
lối đó được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động VN.
Nội dung đường lối:
- Xác định tính chất của xã hội VN lúc bấy giờ, xã hội VN có ba tính chất: dân
chủ nhân dân, một phần thuộc địa và một nửa phong kiến. Ba tính chất đó
đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng Đảng cũng xác định mâu thuẫn chủ yếu lúc
này là tính chất giữa dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa, xu hướng của
nền dc cộng hòa VN với dân chủ thuộc địa của thực dân pháp.
- Đối tượng cách mạng: đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể
lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, còn bọn phong kiến phải động
chỉ là đối tác phụ
- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng lúc này là:
Một là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự
cho dân tộc; xóa bỏ những di tích xót lại của chế độ phong kiến, nửa phong
kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo
cơ sở vật chất cho CNXH
Hai là, ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Xong nhiệm vụ chính trước mắt
là hoàn thành giải phóng dân tộc cho nên lúc này phải tập trung lực lượng
vào kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược
Ba là lực lượng cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư sản gồm tiểu tư sản
thành thị và tiểu tư sản tri thức, tư sản dân tộc; ngoài ra còn có những thân
sĩ yêu nước tiến bộ.
Bốn là nền tảng của nhân dân là công nhân nông dân và lao động tri thức
Năm là, đặc điểm cách mạng: giải quyết những nhiệm vụ nói trên do nhân
dân lao động làm động lực, công nông và lao động tri thức làm nền tảng và
giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng VN hiện nay là một cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân
Triển vọng cách mạng: “ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân VN nhất định
sẽ đưa VN tới chủ nghĩa XH”
Đảng ta đã xác định con đường đi lên CNXH ở VN là con đường đấu tranh lâu
dài trải qua ba giai đoạn: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ những di
tích phong kiến nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát
triển kỹ nghệ hoàn thành chế độ dân chủ nhân dân; xây dựng cơ sở cho
CNXH, tiến lên thực hiện CNXH. Ba giai đoạn này không tách rời lẫn nhau mà
mật thiết liên hệ, xen kẽ lẫn nhau. Mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm,
phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để tập trung lực lượng vào đó mà
thực hiện.
Giai cấp lãnh đạo cách mạng là công nhân, mục tiêu đấu tranh là phát triển
chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở VN, để thực hiện tự do
hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc
đa số, thiểu số ở VN.
Đường lối của đảng ở đại hội II được sửa đổi bổ sung, phát triển qua các hội
nghị trung ương tiếp theo như “ Hội nghị trung ương lần thứ nhất tháng 3 –
1951, hội nghị trung ương lần thứ hai vào tháng 9 – 1951...”. đường lối đã
hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng theo chỉ đạo, tổ chức thực hiện trên thực tế từ
năm 1951 – 1954

Chỉ đạo triển khai đường lối và các bước phát triển của mặt trận quân sự, chống âm mưu “đánh
nhanh, thắng nhanh” của địch, với chỉ thị của Ban chấp hành TW Đảng đã ra chỉ thị phải “Phá tan
cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp” và với lối đánh mưu trí linh hoạt, 75 ngày đêm chiến đấu,
quân dân ta đã giành thắng lợi giòn giã ở chiến dịch Việt Bắc; chống âm mưu “lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt”, đẩy kháng chiến tới giai đoạn mới, chú trọng phát triển
du kích, củng cố khối đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế xã hội, mà từ đây TW Đảng ra chỉ thị Thi
đua ái quốc. Để tăng cường bộ đội chủ lực Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh nghĩa vụ quân sự. Công tác
tinh thần trên mặt trận văn hóa cũng như công tác xây dựng Đảng cũng được quan tâm; Và Chiến
dịch biên giới 1950: Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch biên giới, đánh dấu
lần đầu tiên ta chủ động mở chiến dịch tấn công quy mô lớn. Kết quả thắng lợi của Chiến dịch Biên
giới đã đập tan tuyến phòng thủ của địch, giải phóng hoàn toàn vùng biên giới, tạo cánh cổng để Việt
Nam liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa bên ngoài. Đây là bước ngoặt cho sự trưởng thành về
trình độ tác chiến và chỉ đạo của quân đội ta, giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc
bộ.

PHẦN MỞ ĐẦU

Cách mạng Tháng Tám thành công là mốc son chói lọi cho cách mạng Việt Nam sau này, nó mở ra
một trang sử mới với đầy hi vọng của độc lập tự do. Màu cờ đỏ hoa vàng ngày độc lập vẫn còn đấy
nhưng cách mạng vẫn trường kì, những thắng lợi trước đó là bước đệm cho cách mạng về sau, song
vẫn có những khó khăn còn tồn tại, đòi hỏi những đường lối chủ trương mới của Đảng.
PHẦN NỘI DUNG

Phần 1: Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống
Pháp năm 1945 – 1954.

2.4. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng 1945 – 1946
2.4.1. Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng Tháng Tám

Chịu ảnh hưởng của bối cảnh thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này có một số thuận lợi cơ bản như
sau: hệ thống chủ nghĩa xã hội đã được hình thành; phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh,
đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc Trung Quốc; phong trào hòa bình dân chủ lên cao. Ngoài ra,
tình hình cách mạng trong nước cũng có những biến chuyển tốt, đó là: có sự lãnh đạo của Đảng, của
Hồ Chí Minh; ta đã có chính quyền cách mạng của nhân dân; toàn dân ta tin tưởng ủng hộ chính
quyền cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đây là những thuận lợi quốc tế và trong nước có lợi cho cách mạng Việt Nam, khi xây dựng một
chủ trương nào đó, Đảng ta luôn căn cứ vào những thuận lợi để xác định đường lối chủ trương của
mình, nhìn rõ những khó khăn để xây dựng chủ trương cho phù hợp với thực tế. Lúc này cách mạng
Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn.

Bối cảnh thế giới đã tác động tới hoàn cảnh cách mạng Việt Nam như sau: một là, tuy Việt Nam
tuyên bố độc lập nhưng chưa nước nào trên thế giới công nhận Việt Nam độc lập, kể cả Liên bang Xô
Viết, cũng chưa công nhận và chưa đặt quan hệ ngoại giao; hai là, nước ta giành độc lập bị bao vây
bốn phía; ba là, quân đội đế quốc kéo vào chiếm đóng Việt Nam mặc dù với danh nghĩa đồng minh
giải giáp quân phát xít Nhật, thực chất đây là quân đội Mỹ, Tưởng, Anh, Pháp kéo vào chiếm đống
Việt Nam xóa bỏ những quyền cách mạng tiêu diệt cộng sản, tiêu diệt mặt trận Việt Minh. Tình hình
trong nước sau chiến tranh: một là, hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề đó là nạn đói, nạn
dốt; hai là, chính quyền cách mạng còn hết sức non trẻ, trình độ quản lí đất nước, xã hội của Đảng và
nhà nước ta còn rất non yếu; ba là, nhân dân ta đặc biệt là đồng bào Nam bộ phải đứng lên tiến hành
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi chưa có một điều kiện chưa có một cơ sở, nên gặp nhiều
khó khăn và trở ngại, giặc đói giặc dốt, giặc ngoại xâm là hiểm họa nguy hiểm đối với chế độ mới, đối
với vận mệnh của dân tộc, mà lúc ấy Đảng ta gọi là vận mệnh của đất nước như ngàn cân treo sợi tóc.

2.4.2. Đường lối chủ trương của Đảng

Trước những thuận lợi và khó khăn sau cách mạng, Đảng ta đã kịp thời đề ra đường lối cho cách
mạng Việt Nam, đường lối đó có tên chung là Chủ trương kháng chiến kiến quốc trong chỉ thị kháng
chiến kiến quốc vào 25/11/1945 của tư Đảng. Nội dung của chỉ thị đó thể hiện đường lối ch ủ trương
của Đảng đối với cách mạng Việt Nam trong bối cảnh điều kiện, tình hình mới có các điểm cơ bản.
Đường lối chủ trương của Đảng có nội dung như sau:

Thứ nhất, tư tưởng chỉ đạo chiến lược, trước đây Đảng ta đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
cách mạng nêu cao vấn đề giải phong dân tộc, tập trung vào giải phóng dân tộc. Thì sau cách mạng
tháng tám 1945, chỉ thị Đảng ta vẫn chủ trương tập trung vào nhiệm vụ dân tộc giải phóng vẫn tiếp
tục nêu cao vấn đề dân tộc giải phóng. Khẩu hiệu toàn dân lúc này “dân tộc trên hết, tổ quốc trên
hết” nhưng không phải giành độc lập mà giữ vững độc lập. Đó là vấn đề chiến lược, tiếp tục nêu cao
vấn đề dân tộc giải phóng tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu.

Thứ hai, xác định kẻ thù. Chủ trương của Đảng ta là nhìn rõ kẻ thù nguy hiểm nhất, tập trung
đánh vào kẻ thù chính, tránh cùng một lúc phải đánh với nhiều kẻ thù. Đảng ta đã phân tích âm mưu
từng kẻ thù một, đã nhìn nhận thực tiễn, đánh giá mục tiêu và đưa ra những chủ trương như: hòa
hoãn với Tưởng, tập trung ngọn lửa đấu tranh cả nước vào thực dân Pháp, xác định đây là kẻ thù
chính.
Chỉ thị nhấn mạnh Lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân pháp xâm lược mở rộng Mặt
trận Việt Minh, thống nhất mặt trận Việt – Mên – Lào ...để chống thực dân Pháp. Đảng đã đưa ra
những chủ trương, phương hướng nhiệm vụ mới.

Trong nước, Đảng đã có những chủ trương cơ bản như: củng cố chính quyền cách mạng, chống
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân cả vật chất lẫn tinh
thần. Đối ngoại, thực hiện nguyên tắc thêm bạn bớt thù, chỉ đạo củ thể, đối với tưởng “ Hoa – Việt
thân thiện”; đối với Pháp “độc lập về kinh tế, nhân nhượng về kinh tế” đó là phương hướng nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Với những nội dung đó, bản chủ trương kháng chiến kiến quốc đã có những ý nghĩa quan trọng
đó là: xác định đúng được kẻ thù chính, nguy hiểm của dân tộc ta đó là thực dân Pháp; đã đề ra hai
nhiệm vụ chiến lược mới: xây dựng đi đôi với bảo vệ đất nước; đã nêu lên bốn nhiệm vụ vừa cơ bản
vừa cấp bách với cách mạng Việt Nam, các giải pháp về đối nội đối ngoại để chống nạn đói nạn đốt,
chống giặc ngoại xâm.
2.4.3. Nhận xét

Ngay sau khi giành độc lập dân tộc, Đảng đã bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng chế độ mới, đi
đôi với bảo vệ đất nước. Tình hình dân tộc là cấp bách, nhanh chóng nhưng đường lối của Đảng thực
sự hiệu quả và mang lại nhiều kết quả to lớn cho cách mạng Việt Nam trong tất cả mặt trận chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài

Nó đã có ý nghĩa, giá trị to lớn với cách mạng Việt Nam, bước đầu đã làm cho nhân dân cảm nhận
được bản chất tốt đẹp của chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân, càng
thêm tin tưởng gắn bó và quyết tâm xây dựng bảo vệ chế độ ấy.
Bộ tham mưu lãnh đạo từng bước trưởng thành, có đường lối chính trị đúng đắn, đã triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chìa mũi nhọn vào kẻ thù chính xem sự nhân nhượng có
nguyên tắc với địch cũng là biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể; tận
dụng khả năng hòa hoãn, đàm phát xây dựng lực lượng cũng cố chính quyền đồng thời vẫn luôn luôn
đề cao cảnh giác để sẵn sàng ứng phó với chiến tranh khi kẻ thù bội ước.
Đảng đã kế thừa truyền thống đấu tranh của dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân, dựa vào dân
để xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng của mình. Những kết quả đấy là cả quá trình thực hiện
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Chúng ta không có những sức mạnh, sự viện trợ quốc tế, chi
viện nước ngoài, tiềm lực đất nước nhỏ yếu nhưng ta đã bảo vệ được chính quyền trước ba mươi
vạn quân ngoại xâm, đó là dựa vào dân, nêu cao vai trò của lực lượng nhân dân trong kháng chiến.
Đảng đã thông minh, khéo léo, vì cách mạng của ta là chính đáng nên dựa vào dân là gốc, sử dụng
sức mạnh toàn dân khắc phục những khó khăn trong nước lúc bấy giờ.
2.5. Đường lối kháng chiến chống Pháp và đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân 1946 – 1954
Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng đều ra đời trong hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử cụ thể.
Khi Pháp bội ước, Đảng đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, mà dấu ấn là Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.5.1. Hoàn cảnh lịch sử
Trước tình hình, Pháp liên tục bội ước, khiêu khích tạo chiến tranh ở Miền bắc, Đảng ta chủ trương
xác định rõ: đây là cuộc kháng chiến khác lạ trong lịch sử dân tộc, nó nổ ra không phải ở biên cương,
hải đảo xa xôi rồi mới tới thủ đô, mà cuộc kháng chiến nổ ra ngay giữa lòng thủ đô rồi mới lan rộng
tới nông thôn, miền núi. Ngoài ra, nêu cao tinh thần chủ động cách mạng, sẵn sàng cho kháng chiến.

Trong giai đoạn này, cách mạng Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn như: tương quan lực
lượng ta yếu hơn Pháp; ta bị bao vây bốn phía chưa được ai giúp đỡ, công nhận, cuộc kháng chiến
của ta là trong vòng vây của địch; ta tiến hành cuộc kháng chiến khi Pháp đã chiếm được Nam bộ,
Campuchia, Lào, nó đã đóng quân nhiều nơi trên đất nước ta, đặc biệt là chiếm đóng các đô thị ở
nước ta. Tuy vậy, kháng chiến của chúng ta là chính nghĩa, là vì độc lập tự do, dân chủ, có “thiên thời
địa lợi nhân hòa”, có sự chuẩn bị về mọi mặt.

2.5.2. Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng

Ngay sau khi phát động cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ, Đảng ta đã có chủ trương dựa vào
nông thôn để bảo toàn xây dựng lực lượng, đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại
giao...

2.5.2.1. Thời kì 1946 – 1950

Nhận định kẻ thù chính, kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp, tập trung mọi lực
lượng, chĩa mũi nhọn vào chúng. Kí với Pháp hiệp định sơ bộ (6-3-1946), tuy nhiên, mưu đồ của Pháp
chúng ta đã nắm rõ, tại Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất nhận định: “không sớm thì muộn,
Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp và chủ trương sẵn sàng bước vào cuộc chiến
đấu mới”.

Thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Được thể hiện tập trung vào ba văn kiện lớn công bố ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp bùng nổ: Chỉ thị toàn dân kháng chiến của TW Đảng vào 12/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến 19/12/1946 của Hồ Chí Minh và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí
thư Trường Chinh.

Chiến tranh nhân dân ở Việt Nam đã thể hiện đầy đủ khi Hà Nội nổ súng mở đầu cho phong trào
Toàn quốc kháng chiến, nó đã kết thừa và phát triển chiến tranh trên toàn quốc, toàn dân từ giai
đoạn trước đó.

Đường lối kháng chiến của Đảng đã: xác định được mục đích của kháng chiến là kế tục và phát
triển sự nghiệp cách mạng Tháng Tám, đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất
và độc lập; xác định được tính chất của cuộc kháng chiến là tự vệ, chính nghĩa, “ thiên thời, địa lợi,
nhân hòa”, trường kì kháng chiến – toàn diện kháng chiến, chiến tranh cách mạng – chiến tranh tiến
bộ, vì độc lập, tự do, dân chủ và hòa bình; giữ vững quan hệ quốc tế.
Chính sách kháng chiến là: liên hợp với dân tộc Pháp, cuộc chiế của thực dân Pháp gây ra tại Đông
Dương là cuộc chiến tranh phi nghĩa, không được nhân dân tại chính nước Pháp ủng hộ. Cho nên sự
liên kết nay như một đoàn tấn công ngay sau lưng địch; đoàn kết với Mên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng hòa bình, khi liên kết sức mạnh của ta sẽ được gia tăng, phạm vi hoạt động được mở rộng;
toàn dân kháng chiến, tự cấp tự túc về mọi mặt.

Nhiệm vụ kháng chiến là đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí; động viên
nhân, tài, vật lực thực hiện toàn dân kháng chiến; giành độc lập bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung
Nam Bắc. Cũng cố chế độ cộng hòa dân chủ; tăng gia sản xuất thực hiện kinh tế tự túc.

Phương châm tiến hành cuộc kháng chiến đó là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân; thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế,...lâu dài dựa vào
sức mình là chính.

Đặc biệt là kháng chiến toàn dân: “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ , không
chia tôn giáo, dảng phái, dân tộc. Hễ là người VN thì phải đứng lên đánh Pháp, cứu tổ quốc; thực
hiện mỗi người dân là một chiến sĩ mỗi làng xóm là một pháo đài..”. Ở lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến đã thể hiện bản chất của chiến tranh nhân dân, với lực lượng kháng chiến là toàn dân, tận dụng
sức mạnh đoạn kết dân tộc. Đảng đã nhận định, đánh giá tình hình thực tiễn một cách hợp lí, động
viên tinh thần nhân dân về một cuộc kháng chiến nhất định thành công, một cách đúng lúc, đúng
thời để sớm đi vào quỹ đạo và ổn định về sau.

Đường lối của Đảng đã có những bước phát triển được đánh dấu ở các cuộc tấn công đánh tan
âm mưu: “ đánh nhanh thắng nhanh”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người
Việt”..của địch. Kết quả là thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc, Chiến dịch Biên Giới....

2.5.2.2. Thời kì 1951 – 1954

Tình hình lúc này đã có nhiều chuyển biến, sự ra đời của các nước chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sự ra
đời của Cộng hòa Trung Hoa đã tạo một thế rất vững chắc, một lực lượng hùng hậu, tác động mạnh
mẽ tới cách mạng nước ta. Nước ta đã được công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, trong đó có Liên
Xô và Trung Quốc. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương giành được thắng lợi. Song,
lợi dụng tình thế khó khăn của Pháp, đế quốc Mỹ đã tham gia vào cuộc chiến với vẻ mặt vừa muốn
giúp đỡ Pháp vừa muốn hắt cẳng Pháp khỏ Đông Dương. Trước điều kiện lịch sử đó, Đảng ta đã cho
tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối sao cho phù hợp với thực tiễn.

Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo hoàn
thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh,
Báo cáo về tổ chức và điều lệ Đảng của Lê Văn Lương.

Trong báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh: vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt thực
dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ dành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới.

“Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội”
của Trường Chinh: trình bày toàn bộ đường lối cách mạng Việt Nam: đó là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam

Qúa trình thực hiện đường lối, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đẩy kháng chiến tới thắng, Đảng đã
chú trọng phát triển lực lượng ba thứ quân, mở các cuộc chiến dịch. Biên giới Thu Đông 1950 thắng
lợi đã khai thông biên giới Việt – Trung, mở ra nhiều cuộc tiến công sau đó như: Chiến dịch Trung Du,
chiến dịch Hoàng Hoa Thám,... tuy ở chiến dịch, hai bên đều có thương vong khá lớn nhưng kết quả
đều khả quan, Việt Minh đã học được cách đối phó chiến thuật và vũ khí của Pháp.

Chiến thắng Điện Biên Phủ

You might also like