You are on page 1of 18

Họ và tên: Hoàng Minh Chiến

Lớp: 12A6

Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin


Câu hỏi ôn tập chương 1

Câu 1: Phân tích nguồn gốc của triết học. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút
ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.
Nói đến nguồn gốc của triết học có nghĩa là nói đến những nguồn nào đã
thúc đẩy, đã làm cho người ta có những động cơ, những nhu cầu đề suy tư triết lý,
tiến xa hơn là nêu ra, xây dựng những lý thuyết triết học. Có nhiều nguồn thúc đẩy,
đưa con người đến với những suy tư mang tính triết lý, rồi được tổng hợp, nâng
cao thành những cách lý giải sự vật , những niềm tin trên cơ sở những nhận thức đã
đựợc xác lập, đó là triết học. Nói thật giản lược triết học nghĩa là nỗ lực tư duy của
con người để nhận thức, lý giải thế giới tự nhiên, con người và xã hội, khởi thuỷ từ
ba nguồn chính đó là: sự ngạc nhiên; sự hoài nghi; và sự thất bại của con người
trong những nỗ lực này.
Nguồn gốc của triết học có hai hình thức là nguồn gốc xã hội và nguồn gốc ý
thức:
-Nguồn gốc nhận thức
Do sự phát triển tự nhiên từ thấp đến cao, con người xuất hiện, ý thức ra đời.
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Bằng ý
thức con người suy tư về nguồn gốc sự sống, ý nghĩa cuộc sống. Con người đã biến
mình thành những đối tượng nhận thức ra những điều xung quanh và cả bản thân
mình. Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh
nghiệm và có tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm
tính. Cùng với sự tiến bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần
dần đạt đến trình độ cao hơn trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống, logic
và nhân quả… sự phát triển của tư duy trừu tượng và năng lực khái quát trong quá
trình nhận thức sẽ đến lúc làm cho các quan điểm, quan niệm chung nhất về thế
giới và về vai trò của con người trong thế giới đó hình thành. Đó là lúc triết học
xuất hiện với tư cách là một hình tư duy lý luận đối lập với các giáo lý tôn giáo và
triết lý huyền thoại. Như vậy, nguồn gốc nhận thức của triết học là sự hình thành,
phát triển của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con
người. Triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành
được một vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó, tư duy con người cũng đã đạt
đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện
tượng riêng lẻ

Nguồn gốc xã hội

Xã  hội loài người đạt đến trình độ tương đối cao của sản xuất xã hội: phân
công lao động xã hội hình thành, của cải tương đối thừa dư, tư hữu hóa tư liệu sản
xuất được luật định, giai cấp phân hóa rõ và mạnh, nhà nước ra đời. Lao động trí
óc tách khỏi lao động chân tay, trí thức xuất hiện với tư cách là một tầng lớp xã
hội. Xã hội cũng bắt đầu có sự phân hoá giai cấp (giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị). Thân phận con người của giai cấp bị trị không được làm theo đúng nghĩa là
con người, không được tự do nhận thức… những mâu thuẫn bất công trong xã hội
là tiền đề cho tầng lớp tri thức suy tư, tìm ra phương pháp đưa con người thoát
khỏi khổ đau… trong xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của
sản xuất xã hội, phân công lao động xã hội hình thành, của cải tương đối dư thừa,
tư hữu hoá tư liệu sản xuất được luật định, giai cấp phân hoá rõ ràng, nhà nước ra
đời, tầng lớp tri thức xuất hiện, giáo dục và nhà trường hình thành và phát triển,
các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ
thống hóa toàn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng
nên các học thuyết, lý luận.

Hiểu được nguồn gốc của triết học ta phần nào hiểu được tầm quan trọng và
ý nghĩa, mục đích của triết học từ đó có thái độ đúng đắn trong nghiên cứu, học tập
và tiếp thu kiến thức triết học, vận dụng chúng vào cuộc sống.
Câu 2: Nêu và phân tích khái niệm về Triết học. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.
Triết học là sự suy ngẫm của con người về chính bản thân mình, là sự truy
tầm chân lý, là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới,
về bản thân con người và vị trí, vai trò của con người trong thế giới.
Tức là triết học là khoa học của cuộc sống, nhằm giải quyết những vấn đề cơ
bản như mối quan hệ của vật chất và ý thức, Nói đây là vấn đề cơ bản, là bởi khi
tiến hành giải quyết những vấn đề này sẽ quyết định đến cơ sở sẽ giải quyết các
vấn đề trong triết học khác và thực tế điều này đã được lịch sử chứng mình từ lâu
trong sự phát triển của triết học và sự phức tạp của nó.

Đối với triết học, bản chất của nó là đưa ra những câu hỏi về bản thân – nhận
thức – chân lý – đạo đức – thẩm mỹ.

Việc hiểu rõ được khái niệm của triết học là điều tối thiểu khi nghiên cứu
triết học, có hiểu được bản chất của triết học thì mới có được cái nhìn đúng trong
tiếp thu và phát triển kiến thức, là nền tảng vững chắc để tiếp cận và giải quyết
những vấn đề phức tạp hơn.

Câu 3: Phân tích đối tượng của triết học. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút
ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

Đối tượng nghiên cứu cơ bản nhất của triết học là mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức. Tuy nhiên qua từng thời kì phát triển, gắn với bối cảnh lịch sử, đối
tượng của triết học cũng thay đổi và ở những nơi khác nhau, đối tượng của triết
học tại đó cũng có những điểm khác biệt. Thời cổ đại xem triết học là khoa học về
sự hiểu biết của con người về thế giới nói chung. mọi tri thức về thế giới đều được
xem là triết học. Triết học thời trung cổ là những tri thức về thần học và tôn giáo.
Sau thời kì này, khoa học-kĩ thuật có những phát triển vượt bậc do đó đối tượng
của triết học cũng gắn liền với khoa học kĩ thuật, trở thành môn khoa học cung cấp
tài liệu, cơ sở cho nghiên cứu khoa học và hơn thế nữa.
Tuy vậy xuyên suốt lịch sử, bản chất của triết học là đưa ra những câu hỏi về
bản thân – nhận thức – chân lý – đạo đức – thẩm mỹ và tìm cách trả lời những câu
hỏi đó. Những vấn đề cơ bản đấy gồm:

-Vấn đề của bản chất: Sẽ đặt ra các câu hỏi vật chất với ý thức là gì? Vật
chất và ý thức có mối quan hệ với nhau như thế nào?

-Vấn đề của chân lý: Làm thế nào để chúng ta có thể xác định được vấn đề
của một luận cứ, nó đi từ tiền đến cho đến kết luận để có hiệu lực? Một phát biểu
khi nói ra, làm sao để có thể biết là đúng hay là sai? Những loại câu hỏi nào mà ta
có thể trả lời được?

-Vấn đề của nhận thức: Các câu hỏi chính được đặt ra như là quá trình của
nhận thức sẽ diễn ra thế nào? Vấn đề về thế giới khách quan chúng ta liệu có nhận
thức một cách chính xác không? Thực tại là gì? Thực tại được chúng ta nhận thức
như thế nào, thực tại có được nhận thức toàn bộ hay không?

-Vấn đề của đạo đức: Các câu hỏi thế nào tốt? Thế nào là xấu hoặc thế nào
là giá trị? Là phi giá trị? Tốt và xấu có sự khác biệt gì? Hành động thế nào là đúng?
Các giá trị nó mang tính chất là tuyệt đối hay là tương đối? Hạnh phúc là gì? Thế
nào là những quy tắc tự nhiên?

Hiểu rõ được đối tượng của triết học cũng là nền tảng để nghiên cứu triết
học một cách hiệu quả. Định hướng cho việc nghiên cứu, giải quyết những vấn đề
cần thiết từ đó tạo lợi ích cho xã hội.

Câu 4: Phân tích chức năng thế giới quan của triết học. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế
giới xung quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong
thế giới đó.
Thế giới quan là nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận
thức thế giới xunh quanh, cũng như tự nhận thức bản thân mình, và đặc biệt là từ
đó con người xác định thái độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế
giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực tiến bộ.
Triết học ra đời với t cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển nh một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết
học.

Câu 5: Căn cứ và nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm
và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết
định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng
minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, mặt khác nó cũng là
là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết của
họ. Ăngghen cũng đã trả lời cho câu hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”, theo
ông: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai
mặt:
-  Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái
nào quyết định cái nào?
-  Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường
phái triết học. Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện nhất
nguyên luận khi lấy việc thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý
thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có một
nguồn gốc duy nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm (chủ
nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa duy vật,
triết học duy vật).

Câu 6: Nguồn gốc và nội dung của chủ nghĩa duy vật. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật
lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn
tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện
tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết,
đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát
được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà
không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò
một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy,
nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa
nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng
ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật có nhiều nhánh khác nhau nhưng đều có nguồn gốc từ
thực tiễn, qua nghiên cứu khoa học-kĩ thuạt và sự khái quát hóa tri thức của nhân
loại trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Câu 7: Nguồn gôc và nội dung của chủ nghĩa duy tâm. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn
tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một cách tiếp cận tới hiểu biết về
sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật, cả hai
đều thuộc lớp bản thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên.
Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng:

-Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và
coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quy định.

-Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái
bản chất sâu sắc nhất của thế giới là những nguyên lý "khách quan", tồn tại độc lập
với con người, có trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và
biến đổi được gọi là "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối", "lý tính thế giới"

Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc từ sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa,
thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức.

Câu 8: Thuyết có thể biết (Khả tri luận). Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút
ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay

Thuyết khả tri luận cho rằng con người có khả năng nhận biết thế giới khách
quan và các quy luật của nó, thuyết khả tri luận là nền móng cho nhiều học thuyết
triết học duy vật hiện đại đặc biệt là triết học Mác-Lênin.

Thuyết khả tri luận có nguồn gốc từ xa xưa khi con người bắt đầu tìm hiểu
và giải quyết các vấn đề của thế giới xung quanh và được phát triển đến tận bây
giờ.

Câu 9: Thuyết không thể biết (Bất khả tri luận). Ý nghĩa của việc nghiên cứu
và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Thuyết bất khả tri luận cho rằng con người không thể nhận thức được thế
giới khách quan và những quy luật của nó. Thuyết bất khả tri luận xuất hiện trong
nhiều tôn giáo mà tiêu biểu là Ấn Độ giáo. Thuyết khả tri luận cũng được hưởng
ứng bởi nhiều triết gia sau này mà tiêu biểu là Hume, Kant v.v…

Thuyết bất khả tri luận có nguồn gốc từ hoài nghi luận nhưng phát triển theo
hướng tiêu cực hơn.

Câu 10: Phân tích phương pháp Biện chứng. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và
rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.
Phương pháp biện chứng là phương pháp thừa nhận đối tượng qua các mối
quan hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh hưởng, rang buộc lẫn nhau giữa
chúng. Coi đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi có khuynh hướng chung là
phát triển, có sự thay đổi về chất mà nguyên nhân là do sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập, công nhận sự phát sinh và tiêu vong của chúng.

Phương pháp biện chứng bắt nguồn từ khi con người biết quan sát và nhận
thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều sinh sôi và biến đổi trong các mối liên hệ ràng
buộc vô cùng tận.

Phương pháp biện chứng là phương pháp phổ biến và hoàn thiện nhất hiện
nay, là cơ sở của nhiều học thuyết quan trọng trong suốt thời gian phát triển của
nhân loại.

Câu 11: Phân tích phương pháp Siêu hình. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút
ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Phương pháp siêu hinh nhìn nhận đối tượng ở trạng thái độc lập. Giữa các
mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối. Coi đối tượng ở trạng thái tĩnh và mọi
nguyên nhân của sự biến đổi đều nàm ngoài đối tượng. Phương pháp siêu hình chỉ
thấy được sự vật riêng biệt, không thấy được sự liên hệ giữa chúng, chỉ thấy được
sự tồn tại mà không có phát sinh và tiêu vong.

Phương pháp siêu hình có nguồn gốc từ quan điểm muốn nhận thức được
đối tượng trước hết con người phải tách rời đối tượng khỏi các mối liên hệ và nhận
thức nó ở trạn thái bất biến và xác định về không thời gian.

Phương pháp biện chứng là phương pháp đối lập với phương pháp đối lập
với phương pháp biện chứng tuy từng đóng vai trò quan trọng nhưng giờ đã trở
thành xiềng xích níu kéo sự phát triển của KH-KT chậm lại, không còn phù hợp
với lợi ích chung của nhân loại.

Câu 12: Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút ra bài học riêng
cho bản thân sinh viên hiện nay.

Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là
ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp
biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học trở thành công cụ
nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học và các khoa học
cụ thể.

Với cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện đã làm
cho triết học thay đổi vị trí, vai trò, chức năng trong mối quan hệ với thực tiễn cải
tạo thế giới của con người, cũng như trong mối quan hệ với các khoa học cụ thể
khác hơn nữa còn tạo ra cơ sở khoa học cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở
thành khoa học.

Câu 13: Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu và rút ra bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay
Triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của triết học là: Tiếp tục giải
quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trẽn lập
trường duy vật; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con
người.
Về chức năng của triết học Mác-Lenin:

– CHỨC NĂNG THẾ GIỚI QUAN

+ Giúp con người nhận thức đúng đắn thế giới và bản thân để từ đó nhận
thức đúng bản chất của tự nhiên và xã hội, giúp con người hình thành quan điểm
khoa học, xác định thái độ và cách thức hoạt động của bản thân.

+ Thế giới quan duy vật biện chứng nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của
con người.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh
với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.

– CHỨC NĂNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN 

+ Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất
phát có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý
luận về hệ thống phương pháp.
+ Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ
biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Vai trò, phương pháp luận duy vật biện chứng được thể hiện trước hết là
phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học. Phương pháp luận duy vật 
biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc, phương pháp luận
chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Câu 14. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu và rút ra
bài học riêng cho bản thân sinh viên hiện nay.

Đến nay, công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 20 năm. Trong quá trình
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là đội
quân chủ lực của sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa
học, giáo dục... Kết quả của công cuộc đổi mới đã đưa lại cho dân tộc ta một xu thế
mới, một lực mới để cùng cộng đồng quốc tế bước vào thế kỷ XXI, thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong hàng loạt
các nhân tố tạo nên sự thành công của đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản
Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng của triết học Mác - Lênin.
Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và
đổi mới tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng t-
ư tưởng của Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp
đổi mới. Các nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận trong học thuyết
mácxít, trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các
lãnh tụ của Đảng, các nhà khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để
vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới.
Những người có trọng trách trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng, của dân
tộc đã nhận thức đúng đắn giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung
và học thuyết triết học Mác - Lênin nói riêng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Đó là bước đi đầu tiên để có sự đổi mới tư duy lý luận một cách đúng đắn, cách
mạng và khoa học. Thực tế của một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, chẳng hạn
như Liên Xô và các nước Đông Âu, cho thấy sai lầm từ việc lựa chọn, xác định
bước đi trong quá trình cải cách, cải tổ đã đưa cách mạng đến thất bại, chế độ xã
hội chủ nghĩa bị sụp đổ.
Những người cộng sản ưu tú của Việt Nam cùng các nhà lý luận của Đảng
đã rất cẩn trọng rà soát, nghiên cứu và nhận thức lại hệ thống quan điểm lý luận
của các nhà kinh điển về triết học, về kinh tế – chính trị học cũng như về chủ nghĩa
xã hội khoa học và đối chiếu nó với tình hình thực tế đang diễn ra trên thế giới và
trong nước. Một số công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng, có một số nội dung cụ
thể, chi tiết trong học thuyết có thể đã bị lịch sử vượt qua; còn tuyệt đại bộ phận,
đặc biệt các nguyên tắc, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, nhất là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết giá trị
thặng dư, các nguyên lý, nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn giữ được tính
khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người cách
mạng trong sự nghiệp đấu tranh chống lại trật tự xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Những người Việt Nam có tư duy lý luận rất tán thành với những nhận định
khách quan, nghiêm túc của một số học giả nổi tiếng trên thế giới về triết học Mác.
Có thể lấy cách đánh giá khách quan, trung thực của Giáo sư J.Đêriđa người Pháp
làm ví dụ. J.Đêriđa là người không cùng trường phái triết học với C.Mác, nhưng
khi bình tâm nhìn lại, ông đã viết lên một sự thật rằng, trong truyền thống triết học,
chưa có hệ thống triết học nào vượt triết học Mác và tương lai chắc cũng không có.
Ông đã lựa chọn cái quý giá nhất, cái đáng trân trọng nhất trong học thuyết của
C.Mác là tinh thần phê phán cách mạng đối với chủ nghĩa tư bản. Theo đó, vị giáo
sư này dự báo rằng, tư tưởng triết học của C.Mác là tư tưởng của tương lai và ông
kêu gọi nhân loại hãy quay về với tư tưởng của C.Mác.
Trong thế giới đương đại đang tồn tại muôn vàn học thuyết và vô số học
thuyết chính trị - xã hội khác sẽ tiếp tục xuất hiện, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin,
trước hết là học thuyết triết học với tư cách linh hồn của chủ nghĩa Mác, vẫn là
hình thức phát triển cao nhất của tư tưởng nhân loại, là một đỉnh cao của trí tuệ loài
người, là ngọn lửa thắp sáng niềm tin vào tương lai cho muôn người. Trước đây,
V.I.Lênin đã đánh giá học thuyết Mác là một học thuyết hoàn bị và triệt để nhất, nó
soi sáng cho những người cách mạng trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới. Người đã bổ sung vào học thuyết Mác nhiều luận thuyết mới
được rút ra từ sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí
Minh của chúng ta cũng đã từng khẳng định rằng, bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là
chủ nghĩa Lênin. Đó chính là lôgíc của lịch sử, là niềm tin khoa học của Đảng
Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong định hướng đổi mới vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lập trường thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã góp phần
quan trọng để cho Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam nhận thức đúng
đắn các vấn đề thời đại có quan hệ chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận.
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, trên hành tinh đã diễn ra bao sự thay
đổi lớn lao, có những sự kiện lịch sử diễn ra đã làm cho không ít con người hoài
nghi vào các chân lý đã được định hình. Trước thử thách đó, con người Việt Nam
đã bình tĩnh để nhận thức những thay đổi và phát triển trên cơ sở vận dụng tổng
hợp các nguyên lý, nguyên tắc phương pháp luận mácxít để xem xét các đặc điểm
của thế giới đương đại và bản chất của thời đại hiện nay. Bởi vì, các vấn đề cơ bản
đó có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới nói chung, đổi mới tư duy lý luận
nói riêng ở Việt Nam.
Tư duy lý luận Việt Nam bước đầu đã phản ánh được những phát triển mới
của thế giới, như sự phát triển của sản xuất vật chất, sự xuất hiện của kinh tế tri
thức, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; quá
trình toàn cầu hoá đang diễn ra, sự thích nghi và phát triển cao của chủ nghĩa tư
bản, sự trì trệ và xuất hiện khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nhờ phân
tích cụ thể tình hình cụ thể trong sự vận động, phát triển không ngừng của thế giới
đương đại, chúng ta đã bổ sung cho mình sự hiểu biết mới và từng bước điều chỉnh
chủ trương, chính sách phát triển cho phù hợp với thực tiễn.
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, mặc dù thế giới có nhiều biến đổi,
nhưng thời đại hiện nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội; các mâu thuẫn cơ bản của thời đại không thay đổi, nhưng chúng đã có nhiều
đặc trưng mới. Do vậy, việc Việt Nam lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là đúng xu thế của thời đại, nhưng phải chấp nhận những thử thách
chưa từng có. Đặc biệt, khi tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách
mạng đã thay đổi, bắt buộc phải thiết lập các quan hệ phù hợp, tổ chức lại lực
lượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo đó, các nhà lý luận Việt Nam đã nhận thức đúng tính chất, vai trò của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đối với sự phát triển của cộng
đồng thế giới cũng như từng quốc gia dân tộc; coi cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại vừa là một nhân tố mới, vừa là động lực của thời đại. Phương
pháp luận xử lý ảnh hưởng của cuộc cách mạng đó đến kinh tế - xã hội, khoa học,
giáo dục, quốc phòng, an ninh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tư duy lý luận
trong công cuộc đổi mới. Từ thực tế cuộc sống, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định phát triển giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng
đầu. Đó là cơ sở để chúng ta tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực này nhằm nhanh
chóng tiếp cận tri thức tiên tiến, công nghệ hiện đại, khắc phục sự lạc hậu quá xa
so với sự phát triển của thế giới.
Thứ nữa, xu thế toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, sự xuất hiện
của kinh tế tri thức và vai trò to lớn của nó trong sản xuất vật chất, xu hướng gia
tăng sự hợp tác quốc tế, khu vực thông qua các mối quan hệ đa phương, song
phương đã làm cho tư duy về thế giới đương đại trở nên năng động hơn. Thế giới
hiện tồn tại trong trạng thái vừa thống nhất, vừa đấu tranh; các quốc gia dân tộc
vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Vì vậy, cần phải xuất phát từ thực tế đó để xây dựng
một tư duy toàn diện hơn về thế giới và lựa chọn chính sách đối nội, đối ngoại
thích hợp. Đổi mới tư duy về thế giới đương đại lại là cơ sở cho việc phát triển
quan hệ quốc tế của Việt Nam, tranh thủ ngoại lực, phát huy nội lực để phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận và phương
pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam trong
hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Đây là thành công đáng ghi nhận trong đổi mới tư duy
lý luận của chúng ta trong suốt 20 năm qua.
Dựa trên việc phân tích các nhân tố tác động của thời đại và xuất phát từ
thực tiễn của đất nước, tư duy lý luận Việt Nam đã đánh giá một cách khách quan,
khoa học các thành quả mà cách mạng Việt Nam đã đạt được, khẳng định sự lựa
chọn mục tiêu đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đúng
đắn. Mục tiêu đó vừa phản ánh tính tất yếu lịch sử, vừa đáp ứng nguyện vọng cháy
bỏng của bao thế hệ con người Việt Nam. Chân lý ấy đã được thực tiễn cách mạng
Việt Nam kiểm nghiệm và thấm vào máu thịt của con người Việt Nam. Nhiều thế
hệ người Việt Nam đã quyết chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu cao đẹp đó. Những
chiến công oanh liệt trong các cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược cùng với những thành tựu quan trọng của 20 năm đổi mới đất nước
đã được ghi tạc, tạo nên những dấu ấn cực kỳ sâu sắc trong lịch sử dân tộc.
Kết quả tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước được thể hiện thành
sự lựa chọn mô hình, bước đi, chính sách cho quá trình phát triển đất nước. Tuân
thủ quy luật vận động khách quan của lịch sử, chủ động tận dụng các cơ hội hiện
có, đồng thời phân tích đúng đắn sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam
đã lựa chọn được đường lối, mô hình phát triển thích hợp, hướng tới mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là kết quả, là sự hội tụ
của tư tưởng chính trị, triết học, kinh tế, chủ nghĩa xã hội, các giá trị truyền thống
của Đảng, của dân tộc trong quá trình đổi mới đất nước.
Sự tiến bộ về điều kiện vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân và đảng
viên của Đảng trong quá trình đổi mới đất nước đã làm cho trình độ dân trí có sự
chuyển biến về chất và nâng tư duy lý luận phát triển lên tầm cao mới. Song, sự
nghiệp đổi mới tiếp tục đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với tư duy triết học,
tư duy lý luận. Trong 20 năm đổi mới, khả năng tư duy lý luận của con người Việt
Nam, của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
đã có những tiến bộ rõ rệt, có sự chuyển biến về chất. Trình độ dân trí của công
dân, năng lực tư duy lý luận của cán bộ, đảng viên vừa là động lực tinh thần của sự
nghiệp đổi mới, vừa là kết quả của sự nghiệp đổi mới. Do vậy, ở Việt Nam hiện
nay, yêu cầu cao của xã hội, của tổ chức đối với các thành viên về tri thức khoa
học toàn diện, về năng lực thực hành có hiệu quả… luôn được đặt ra; mọi cá nhân
đang nỗ lực học tập và phấn đấu vươn lên, tạo thành một xã hội học tập. Cùng với
nâng cao chất lượng con người, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc xây dựng
các đoàn thể, tổ chức xã hội nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh của nhân dân lên
một tầm cao mới. Kết quả của xã hội học tập, sự học tập suốt đời của từng cá nhân
là điều kiện chủ quan để nâng cao trình độ tư duy lý luận của Đảng và công dân.
Do vậy, việc nâng cao năng lực nhận thức các vấn đề cơ bản của triết học mácxít
và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận.
Lý luận triết học có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước và các thành viên, hội viên của xã
hội dân sự. Tư duy triết học không chỉ là cơ sở để nâng cao tư duy lý luận cho cán
bộ của Đảng, công chức của Nhà nước, mà còn góp phần xây dựng các đề án trong
xây dựng, chỉnh đốn Đảng để ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ mới. Quá trình hoàn thiện lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không thể không có sự tham gia
của lý luận triết học. Đồng thời, việc phát triển một xã hội dân sự Việt Nam lành
mạnh, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc cũng là trách nhiệm nặng nề của tư duy triết
học...
Như vậy, các ý tưởng đổi mới đất nước, con người và tổ chức thực hiện sự
đổi mới ở Việt Nam theo mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và phát triển xã hội
chủ nghĩa nhất thiết phải có tư duy lý luận, trong đó tư duy triết học là chìa khoá
phương pháp luận khoa học. Từ những thành công của chúng ta trong 20 năm đổi
mới vừa qua, có thể khẳng định rằng, triết học Mác - Lênin có vai trò to lớn và đặc
biệt quan trọng đối với tiến trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam.

15. Phân tích tác phẩm của V.I Lênin “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành
chủ nghĩa Mác”.
Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự thù địch
mạnh nhất và lòng căm thù lớn nhất của toàn bộ khoa học tư sản (cả của giới quan
phương lẫn của phái tự do), là khoa học xem chủ nghĩa Mác như một loại "tông
phái có hại".Không thể trông mong có một thái độ nào khác thế được, vì trong một
xã hội xây trên đấu tranh giai cấp thì không thể có một khoa học xã hội "vô tư"
được. Bằng cách này hay cách khác, toàn bộ khoa học của giới quan phương và
của phái tự do đều bênh vực chế độ nô lệ làm thuê, còn chủ nghĩa Mác thì tuyên
chiến quyết liệt với chế độ nô lệ ấy. Mong đợi có một khoa học vô tư trong một xã
hội xây dựng trên chế độ nô lệ làm thuê là một sự khờ dại ngây thơ không khác gì
mong đợi các chủ xưởng tỏ ra vô tư trong vấn đề xem có nên bớt lợi nhuận của tư
bản để tăng tiền công cho công nhân không.
    Nhưng chưa phải thế là hết. Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ
ra một cách hoàn toàn rõ rằng chủ nghĩa Mác không có gì là giống "chủ nghĩa tông
phái", hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở
ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, tất cả thiên tài
của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của
nhân loại đã nêu ra.Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp
học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ
nghĩa xã hội.
    Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và
chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp
với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ
áp bức của giai cấp tư sản. Nó là kẻ thừa kế chính đánh nhất của tất cả những cái
tốt đẹp nhất mà loài người đã sáng tạo ra hồi thế kỷ XIX: triết học Đức, chính trị
kinh tế học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp.
    Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành đó của
chủ nghĩa Mác.
    Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Trong suốt toàn bộ lịch sử
hiện đại của châu ¢u và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra
một cuộc quyết chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ
nông nô trong các thiết chế và trong những tư tưởng thì chủ nghĩa duy vật là triết
học duy nhất triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên,
thù địch với mê tín, với thói đạo đức giả v.v.. Cho nên, những kẻ thù của phái dân
chủ hết sức tìm cách "bác bỏ", phá hoại, vu cáo chủ nghĩa duy vật và bên vực các
loại chủ nghĩa duy tâm triết học là chủ nghĩa mà bằng cách này hay cách khác, rút
cuộc lại đều luôn luôn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo.
    Mác và Ăng-ghen kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa duy vật triết học và đã nhiều
lần vạch rõ rằng mọi khuynh hướng ly khai cơ sở ấy là hết sức sai lầm. Quan điểm
của hai ông được trình bày rõ rệt nhất và tỉ mỉ nhất trong những tác phẩm của ¡ng-
ghen: "Lút-vích Phơ-bách" và "Chống Đuy-rinh", những sách này cũng như
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", đều là những sách gối đầu giường của mọi công
nhân giác ngộ.
    Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII, ông đẩy
triết học tiến lên nữa.¤ng làm cho triết học trở nên phong phú bằng những thành
quả của triết học cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hê-ghen, là hệ
thống, đến lượt nó, lại dẫn tới chủ nghĩa duy vật Phơ-bách. Trong số những thành
quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển,
dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, tức là học thuyết về
tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn
luôn phát triển không ngừng. Những phát hiện mới đây của khoa học tự nhiên -
như ra-di-om, điện tử, sự biến hoá của nguyên tố - đều xác nhận một cách tuyệt
diệu chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác, bất chấp những học thuyết của các
nhà triết học tư sản cùng với việc họ "lại" quay về với chủ nghĩa duy tâm đã cũ kỹ
và thối nát.
    Nghiên cứu sâu hơn và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa
học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự
nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là
thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Sự hỗn độn và tuỳ tiện từ trước đến
nay vẫn thống trị trong các quan niệm về lịch sử và chính trị đã được thay thế bằng
một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ, nó chỉ cho ta thấy rằng do sự
phát triển của lực lượng sản xuất mà từ một chế độ sinh hoạt xã hội này đã nảy
sinh ra và phát triển lên như thế nào một chế độ sinh hoạt xã hội khác, cao hơn, -
chẳng hạn như chủ nghĩa tư bản nảy sinh ra như thế nào từ chế độ nông nô.
    Nhận thức của con người phản ánh giới tự nhiên đang tồn tại độc lập đối với
con người, nghĩa là phản ánh vật chất đang phát triển, thì sự nhận thức xã hội của
con người (nghĩa là các quan điểm và học thuyết khác nhau về triết học, tôn giáo,
chính trị, v.v.) cũng thế, nó phản ánh chế độ kinh tế của xã hội. Các thiết chế chính
trị đều là kiến trúc thượng tầng, xây dựng trên một cơ sở kinh tế.Chúng ta thấy,
chẳng hạn, những chính thể khác nhau của các nước hiện đại ở châu ¢u đều được
dùng để củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản như thế
nào.
    Triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó đã cung cấp cho
loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại.
    Sau khi nhận thấy rằng chế độ kinh tế là cơ sở trên đó kiến trúc thượng tầng
chính trị được xây dựng lên thì Mác chú ý nhiều nhất đến việc nghiên cứu chế độ
kinh tế ấy.Tác phẩm chính của Mác là bộ "Tư bản" được dành riêng để nghiên cứu
chế độ kinh tế của xã hội hiện đại, nghĩa là xã hội tư bản chủ nghĩa.
    Chính trị kinh tế học cổ điển hồi trước Mác thì hình thành ở Anh là nước tư
bản phát triển nhất. A-đam Xmít và Đa-vít Ri-các-đô, qua việc nghiên cứu chế độ
kinh tế, đã mở đầu lý luận về giá trị lao động. Mác đã tiếp tục sự nghiệp của hai
người đó.¤ng đã mang lại cho lý luận đó một cơ sở chặt chẽ và phát triển lý luận
đó một cách nhất quán. ¤ng chỉ ra rằng giá trị của mọi hàng hóa được quyết định
bởi số lượng thời gian lao động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá ấy.
    Ở chỗ nào mà các nhà kinh tế học tư sản nhìn thấy quan hệ giữa vật với vật
(hàng hoá này đổi lấy hàng hoá khác), thì ở đó, Mác đã tìm thấy quan hệ giữa
người với người.Sự trao đổi hàng hoá biểu thị sự liên hệ giữa những người sản xuất
riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian.Tiền tệ xuất hiện có nghĩa là mối
liên hệ ấy ngày càng thêm chặt chẽ, gắn bó toàn bộ sinh hoạt kinh tế của những
người sản xuất riêng lẻ thành một chỉnh thể không thể phân chia.Tư bản xuất hiện
có nghĩa là mối liên hệ ấy tiếp tục phát triển cao hơn nữa: sức lao động của con
người trở thành hàng hoá. Công nhân làm thuê bán sức lao động của mình cho
người chủ ruộng đất, chủ nhà máy, chủ công cụ lao động. Người công nhân dùng
một phần ngày lao động để bù vào chi phí nuôi bản thân và nuôi gia đình minh
(tiền công); còn phần kia thì làm công không, tạo ra giá trị thặng dư cho người tư
bản, đó là nguồn lợi nhuận, nguồn giàu có của giai cấp tư bản.
    Học thuyết về giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của
Mác.
   Tư bản, do lao động của công nhân tạo ra, đè nặng lên người công nhân, làm
phá sản các tiểu chủ và tạo ra một đạo quân thất nghiệp. Trong công nghiệp, thắng
lợi của sản xuất lớn thì thấy rõ được ngay; nhưng cả trong nông nghiệp, chúng ta
cũng thấy một hiện tượng tương tự như thế: ưu thế của nông nghiệp tư bản chủ
nghĩa quy mô lớn tăng thêm, việc dùng máy móc ngày càng phát triển, kinh tế
nông dân bị siết chặt trong sợi dây thòng lọng của tư bản tiền tệ, bị suy tàn và phá
sản vì kỹ thuật lạc hậu của mình. Trong nông nghiệp, nền sản xuất nhỏ có những
hình thức suy tàn khác, nhưng chính sự suy tàn đó là một sự thật không thể bàn cãi
được.
   Đánh bại sản xuất nhỏ, tư bản đưa đến chỗ nâng cao năng suất lao động và
tạo ra một địa vị độc quyền cho những công ty của các nhà đại tư bản. Bản thân
sản xuất ngày càng được xã hội hoá, - hàng chục vạn và hàng triệu công nhân gắn
chặt với nhau trong một cơ cấu kinh tế có kế hoạch, - nhưng sản phẩm của lao
động chung thì lại do một nhúm nhà tư bản chiếm hữu. Tình trạng vô chính phủ
trong sản xuất, những cuộc khủng hoảng, sự chạy đua điên cuồng đi tìm thị trường,
tình trạng đời sống của quần chúng nhân dân không được đảm bảo đều tăng lên.
   Khi làm cho công nhân càng lệ thuộc vào tư bản, chế độ tư bản chủ nghĩa
tạo ra sức mạnh vĩ đại của lao động liên hợp.
   Mác đã nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ những mầm mống
đầu tiên của kinh tế hàng hoá, tức là từ sự trao đổi đơn giản, cho đến những hình
thức cao nhất của nó, tức là sản xuất lớn.
   Và kinh nghiệm của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa cũ cũng như mới, ngày
càng chứng tỏ rõ ràng cho một số công nhân ngày càng đông thấy rằng học thuyết
ấy của Mác là đúng.
   Chủ nghĩa tư bản đã thắng trên toàn thế giới, nhưng thắng lợi ấy chẳng qua
chỉ là màn mở đầu cho thắng lợi của lao động đối với tư bản mà thôi.
   Khi chế độ nông nô bị lật đổ và khi xã hội tư bản "tự do" đã ra đời thì lập tức
người ta thấy rõ rằng tự do ấy có nghĩa là một chế độ áp bức và bóc lột mới đối với
người lao động. Các học thuyết xã hội chủ nghĩa bắt đầu mọc ra, đó là sự phản ánh
và sự phản đối ách áp bức ấy.Nhưng chủ nghĩa xã hội lúc đầu chỉ là chủ nghĩa xã
hội không tưởng. Nó chỉ trích, lên án và nguyền rủa xã hội tư bản; nó mơ ước xoá
bỏ xã hội này và tưởng tượng ra một chế độ tốt đẹp hơn; nó tìm cách thuyết phục
những người giầu để họ thâý rằng bóc lột là không có đạo đức.
   Nhưng chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực
sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ làm thuê trong chế độ tư bản,
cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng
không tìm được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo ra xã hội
mới.
   Tuy nhiên, những cuộc cách mạng bão táp, ở khắp châu âu và nhất là ở
Pháp, nổ ra kèm với sự sụp đổ của chế độ phong kiến, của chế độ nông nô, thì ngày
càng chứng tỏ rằng đấu tranh giai cấp là cơ sở và động lực của toàn bộ quá trình
phát triển.
   Không một thắng lợi nào về tự do chính trị giành được từ trong tay giai cấp
chủ nô, mà lại không gặp một sức phản kháng quyết liệt. Không một nước tư bản
chủ nghĩa nào được thành lập trên một cơ sở ít nhiều tự do, dân chủ, mà lại không
có một cuộc đấu tranh sống mái giữa các giai cấp khác nhau của xã hội tư bản.
   Thiên tài của Mác là ở chỗ ông là người đầu tiên đã từ đó rút ra và triệt để
vận dụng cái kết luận do lịch sử toàn thế giới chỉ ra. Kết luận đó là học thuyết đấu
tranh giai cấp.
   Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay
của giai cấp khác, qua những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào
đó có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta
cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa dối và tự lừa dối mình về chính trị.
Những kẻ chủ trương cải cách và cải thiện sẽ còn bị bọn bênh vực cái cũ lừa bịp
mãi, nếu họ chưa biết rằng tất cả những chế độ cũ, dầu dã man và thối nát đến đâu
đi nữa, cũng đều được những lực lượng của giai cấp thống trị này hay giai cấp
thống trị khác ủng hộ. Và muốn đập tan sự phản kháng của những giai cấp thống
trị ấy, thì chỉ có một cách là: tìm ngay trong xã hội xung quanh chúng ta, những lực
lượng có thể - và, do địa vị xã hội của chúng ta mà phải - trở thành những lực
lượng có khả năng quét sạch cái cũ và tạo ra cái mới, rồi giáo dục và tổ chức
những lực lượng ấy để đấu tranh.
   Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản
con đường thoát khỏi chế độ nô lệ tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức
đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích
được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa.
   Trên toàn thế giới, kể từ châu Mỹ đến Nhật, từ Thụy-điển đến Nam Phi,
những tổ chức độc lập của giai cấp vô sản đang tăng thêm. Giai cấp vô sản tự giáo
dục và tự bồi dưỡng trong khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp của nó, nó thoát
khỏi những thiên kiến của xã hội tư sản, ngày càng đoàn kết chặt chẽ lại và biết
đánh giá đúng mức những thành tích của nó, nó tôi luyện lực lượng của nó và lớn
lên không gì ngăn nổi.

You might also like