Professional Documents
Culture Documents
Bài giảng LTÔNTN Chương 1
Bài giảng LTÔNTN Chương 1
Hình 1.1 Thú biển và rùa biển bị mắc vào lưới bỏ đi (nguồn: internet)
Thú biển, rùa biển, chim biển và các động vật giáp xác rất dễ bị tổn
thương do nuốt phải và bị hóc rác thải nhựa. Nuốt rác thải nhựa có thể gây
ra những tác động xấu tới các sinh vật biển, thí dụ như làm giảm khả năng
sinh sản và tăng sự khó chịu. Do nuốt phải quá nhiều mẩu nhựa hoặc túi ni-
lon, nhiều loài động vật biển bị cảm giác no giả tạo, dẫn đến suy dinh
dưỡng, thậm chí chết đói (Laist, 1997). Các loại sinh vật kiếm mồi bằng
cách lọc nước đã nuốt các hạt vi nhựa và do vậy các hạt vi nhựa có thể xâm
nhập vào trong tế bào của chúng. Cauwenberghe và nnk (2013, 2014) phát
hiện rằng các hạt vi nhựa đã xâm nhập vào các tế bào của vẹm, hàu và giun
biển ở bờ biển Bỉ. Các nhà khoa học đã phát hiện thấy các hạt vi nhựa trong
muối ăn, thậm chí nước máy, nước đóng chai của các thương hiệu nổi tiếng
và bia. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy có tới 94,4% nước vòi phục vụ
sinh hoạt hiện nay có chứa các hạt vi nhựa. Các hạt vi nhựa không chỉ tồn
tại trong nước mà cả trong không khí. Chất thải nhựa cũng có thể hấp thụ
các chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) khi trôi nổi trên biển, và các chất độc
hại này có thể thấm vào các tế bào và các cơ quan nội tạng của động vật khi
tiêu hóa (Fendall và Sewell, 2009, Teuten và nnk, 2009). Do tính khuếch
đại sinh học, nồng độ các chất độc trong các động vật biển sẽ gia tăng theo
hướng từ đáy chuỗi thức ăn (động vật phù du) tới đỉnh chuỗi thức ăn (cá
kiếm hay cá ngừ), và có thể gây nguy hiểm cho người ăn hải sản. Người ta
đã ghi nhận được rằng các loài có vú trên cạn như sư từ biển hay gấu Bắc
Cực cũng bị ảnh hưởng bởi các chất độc có nguồn gốc từ rác thải nhựa ở
biển. Rác thải nhựa ở biển cũng vận chuyển các sinh vật ngoại lai xâm hại,
và do vậy có thể làm thay đổi thành phần loài, thậm chí sự tuyệt diệt của
một số loài trong các hệ sinh thái (Aliani and Molcard 2003).
Cát biển có chứa rác thải nhựa sẽ có độ thấm nước lớn và độ dẫn nhiệt
nhỏ. Do vậy, nhiệt từ cát bề mặt sẽ khó dẫn xuống các lớp cát sâu. Điều này
làm cho các loài bò sát có giới tính khi nở phụ thuộc vào nhiệt độ ấp trứng
mất cân bằng giới tính và có khả năng dẫn đến tuyệt chủng (Carson và nnk,
2011).
Ngoài ra, rác thải nhựa ở biển có thể có tác động xấu tới du lịch, vận
chuyển tàu thủy, hoạt động của thuyền, đánh cá và lấy nước. McIlgorm và
nnk (2011) ước tính rằng các thiệt hại do rác thải nhựa ở biển gây ra tới các
ngành công nghiệp biển tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương là khoảng
1,26 tỷ USD hàng năm. Có lẽ cùng với sự gia tăng của rác thải nhựa ở biển
cũng như các hoạt động công nghiệp biển, thiệt hại do rác thải nhựa ở biển
tới các ngành công nghiệp biển đang gia tăng.
Các kết quả nghiên cứu gần đây trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy
các hạt vi nhựa đã xuất hiện ở khắp nơi: trong thức ăn, nước uống của con
người. Tác động của chất thải vi nhựa tới sức khỏe con người vẫn đang là
một vấn đề cần nghiên cứu.
Nghiên cứu gần đây (Jambeck và nnk, 2015) đánh giá rằng 50% lượng
rác thải nhựa ở biển trên toàn thế giới là do các nước xunh quanh Biển
Đông như Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Thái Lan; trong
đó Việt Nam đứng thứ 4 thế giới về xả rác thải nhựa ra biển. Tuy nhiên, có
một số bất cập trong nghiên cứu của Jambeck và nnk (2015). Các tác giả
này sử dụng số liệu của Ngân hàng thế giới (Hoornweg và Bhada-Tata,
2012) được tính toán cho các đô thị. Theo đó, tổng số dân Việt Nam sống
gần bờ biển là 55,9 triệu người với tỷ lệ rác thải nhựa trong tổng số rác thải
là 13% và lượng rác thải được thu gom, xử lý không đúng cách là 88%. Từ
đó, các tác giả cho rằng lượng rác thải nhựa chưa được thu gom, xử lý đúng
cách là 1,83 triệu tấn/năm. Từ những kết quả nêu trên, các tác giả này cho
rằng lượng rác thải nhựa thải ra biển hàng năm của Việt Nam nằm trong
khoảng 0.28 tới 0.73 triệu tấn, hay khoảng 6% của lượng rác thải nhựa ra
biển trên toàn thế giới.
Trong thực tế, đại đa số dân sống ven biển của Việt Nam là dân nông
thôn. Hiện nay, chưa có thống kê đầy đủ về lượng dân sống tại các đô thị
ven biển, nhưng nếu giả thiết rằng tỷ lệ dân sống tại các đô thị ven biển cao
hơn tỷ lệ dân sống tại các đô thị trong phạm vi cả nước, tức là vào khoảng
40%, thì lượng dân sống ở đô thị chỉ khoảng 22,4 tr. người. Rác thải của
dân nông thôn có một tỷ lệ rất nhỏ rác thải nhựa, chủ yếu chứa túi nilon loại
rẻ tiền ở các chợ dân sinh. Dân nông thôn rất ít khi mua hàng ở siêu thị nên
hầu như không có rác thải là hộp xốp. Ngoài ra, dân nông thôn rất ít mua
chai nước, và chai nhựa đựng nước ở Việt Nam hầu như được thu gom, tái
chế đến 100% nên lượng rác thải nhựa có nguồn gốc từ chai nhựa đựng
nước rất ít. Mặt khác, theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia của Bộ
Tài nguyên và Môi trường năm 2015, khoảng 46% chất thải rắn ở Việt Nam
là chất thải rắn đô thị, 17% từ sản xuất công nghiệp, còn lại là chất thải rắn
nông thôn, làng nghề và y tế. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại đô thị
khá cao, khoảng 84% tới 85%. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại
nông thôn chỉ vào khoảng 40%, chủ yếu tại các thị trấn, thị tứ. Chất thải rắn
chủ yếu được xử lý bằng chôn lấp lộ thiên hoặc lò đốt chất thải. Cũng theo
số liệu của Tổng cục môi trường, thành phần có thể tái chế (nhựa và kim
loại) của chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị Việt Nam khoảng 8 đến 18%. Tại
Hà Nội, thành phần chất thải rắn nhựa chỉ có 3% (Vũ Thanh Ca, 2018).
Từ các con số nêu trên, có thể thấy lượng rác thải nhựa ra biển ở Việt
Nam nhỏ hơn rất nhiều so với con số mà Jambeck và nnk (2015) đưa ra.
Tuy nhiên, cần nhận thức rằng biển Việt Nam hiện nay rất nhiều rác. Tại
các bãi tắm được dọn rác thường xuyên, có thể thấy rất nhiều túi nilon trôi
trong nước. Tại một số khu vực như hình 2, rác thải nhựa đã tích tụ bằng
một lượng rất lớn trên bãi biển.
(a) (b)
Hình 2 (a) Rác thải nhựa tại rừng ngập mặn Thanh Hóa (nguồn
internet) và rác thải nhựa gần cảng Cái Rồng, Vân Đồn (ảnh
của tác giả)
Hiện nay, hiểu biết về rác thải nhựa ở biển tại Việt Nam còn rất hạn
chế. Vì giá thành rẻ và tiện dụng, các sản phẩm nhựa hiện nay được sử dụng
rộng rãi ở Việt Nam, nhưng rác thải nhựa chưa được quản lý và tái sử dụng,
tái chế phù hợp. Hiện nay, chưa có những quy định pháp luật cụ thể để quản
lý việc sản xuất, buôn bán và sử dụng sản phẩm nhựa và quản lý rác thải
nhựa. Dự báo rằng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nếu không hành động
ngay và khẩn cấp, lượng rác thải nhựa bị thải ra biển của Việt Nam sẽ gia
tăng mạnh mẽ, và sẽ có tác hại rất lớn không chỉ tới tới môi trường, các hệ
sinh thái và đa dạng sinh học và phát triển kinh tế biển mà còn có tác hại tới
vùng biển các nước khác trong khu vực.
c) Ô nhiễm kim loại nặng
Ô nhiễm kim loại nặng là ô nhiễm nguy hiểm nhất. Kim loại nặng nói
chung là các chất có độc tính rất cao, lại có khả năng tích lũy và khuếch đại
sinh học. Người ta thấy rằng hàm lượng kim loại nặng trong tảo phù du lớn
gấp hàng ngàn lần hàm lượng kim loại nặng trong nước. Động vật phù du ăn
thực vật phù du, cá nhỏ ăn động vật phù du và thực vật phù du; cá nhỏ ăn cá
lớn. Qua mỗi mắt xích của chuỗi thức ăn, kim loại nặng đều tích lũy và ở
các nấc thức ăn cao, hàm lượng kim loại nặng trong cơ thể động vật càng
cao. Con người là động vật nằm ở đỉnh của chuỗi thức ăn nên sẽ có nhiều
khả năng bị nhiễm độc kim loại nặng.
Ô nhiễm kim loại nặng có thể do các hoạt động địa chất, như động đất,
núi lửa phun trào; nhưng ô nhiễm kim loại nặng chủ yếu xảy ra do hoạt
động sản xuất công nghiệp của con người. Các nguồn thải bao gồm nước
thải chưa qua xử lý đạt chuẩn và thu gom, xử lý chất thải nguy hại (như pin,
ắc quy) không đúng cách. Điển hình nhất là vụ công ty Chisso của Nhật Bản
thải nước thải ô nhiễm thủy ngân ra vịnh Minamata và công ty điện tử
Showa thải nước thải ra sông ở Niigata, Nhật Bản là hai thí dụ về ô nhiễm
nước do nhiễm kim loại nặng. Tác động của ô nhiễm kim loại nặng rất
khủng khiếp và truyền qua nhiều đời. Thí dụ, công ty Chisso thải kim loại
nặng ra vịnh Minamata vào các năm từ 1932-1958 và ngừng hoạt động vào
năm 1968 nhưng ảnh hưởng của bệnh Minamata vẫn còn thấy vào những
năm cuối của thế kỷ 20. Thậm chí, tới ngày nay vẫn còn nhiều người còn
sống bị ảnh hưởng của căn bệnh này.
Hiện nay, đại dương thế giới đang bị ô nhiễm nhẹ một số kim loại nặng
như chì, thủy ngân. Do vậy, các loài cá và động vật ở đỉnh chuỗi thức ăn
như cá ngừ, cá kiếm hoặc sư tử biển bị nhiễm độc thủy ngân khá nặng. Đó
là lý do mà người ta khuyến cáo chỉ nên ăn cá ngừ, cá kiếm nhiều nhất là từ
1 đến 2 lần 1 tuần để tránh bị nhiễm độc thủy ngân.
Các khu vực cửa sông lớn của Việt Nam như sông Hồng, sông Mê
Công đang bị ô nhiễm kim loại nặng ở mức độ nhẹ do các nhà máy chưa xử
lý tốt hoặc xả trái phép nước thải, do người dân và chính quyền chưa thu
gom và xử lý tốt các chất thải nguy hại, đặc biệt là pin, ắc quy.
d) Các chất ô nhiễm chất hữu cơ khó phân hủy
Các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POPs) là các hợp chất hữu cơ
có tốc độ phân hủy hóa học, sinh học và quang học rất chậm. Nhiều chất ô
nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POPs) có tính chất tích lũy và khuếch đại sinh
học nên có tiềm năng rất lớn tác động tới sức khỏe con người.
Công ước Stockhom 2001 quy định danh mục POPs gồm 12 hợp chất:
1. PCBs (Polychlorinated Bi-phenyls): một loại hóa chất công nghiệp
sử dụng phục vụ trao đổi nhiệt trong các máy móc, thiết bị liên quan tới trao
đổi nhiệt, phụ gia cho ngành sơn, giấy không chứa cacbon, nhựa và nhiều
ứng dụng công nghiệp khác. Chất này đã bị cấm sản xuất.
2. Các hợp chất Dioxin: do nhiều hoạt động công nghiệp tạo ra và hiện
nay còn được sử dụng trong nhiều loại thuốc diệt cỏ, mặc dù đã bị cấm.
3. Các hợp chất của Furan: là một hợp chất thơm do một số hoạt động
công nghiệp tạo ra.
4. DDT: là một loại thuốc trừ sâu được dùng phổ biến trước đây ở Việt
Nam. Hiện nay, DDT đã bị cấm sử dụng.
5. Toxaphene: là một loại thuốc trừ sâu, hiện nay đã bị cấm sử dụng.
6. Aldrin (Aldrex, Aldrite,…): là một loại thuốc trừ sâu, hiện nay đã bị
cấm sử dụng.
7. Dieldrin (Dieldrex, Dieldrite,…): là một loại thuốc trừ sâu, hiện nay
đã bị cấm sử dụng nhưng đôi khi vẫn còn sử dụng và tồn lưu ở Việt Nam.
8. Endrin (Hexadrin,…): là một loại thuốc trừ sâu, hiện nay đã bị cấm
sử dụng.
9. Heptachlor: một loại thuốc trừ sâu, đã bị cấm.
10. Mirex: một loại thuốc trừ sâu, đã bị cấm.
11. Hexacloruabenzene (HCB): một loại thuốc trừ sâu và là sản phẩm
phụ phát thải trong công nghiệp nhựa, đã bị cấm.
12. Clordane: một loại thuốc trừ sâu, đã bị cấm.
Do là những chất bền vững, POPs được vận chuyển đi rất xa. Các POPs
có thể bay hơi từ mặt nước bị ô nhiễm, được gió đưa đi rất xa và sau đó lắng
đọng do các quá trình tạo sương, mưa. Hiện nay, đây là một chất ô nhiễm
nguy hiểm, có thể ảnh hưởng tới sức khỏe con người thông qua tích lũy
trong các loại thực phẩm.
đ) Các ô nhiễm môi trường nước khác
Ô nhiễm nhiệt, ô nhiễm âm thanh, ánh sáng v.v.
1.2 Tầm quan trọng của việc nghiên cứu quá trình lan truyền, biến đổi
của chất ô nhiễm trong môi trường nước
Như đã nêu ở trên, ô nhiễm môi trường nước tác động tới khả năng sử dụng
nước phục vụ sinh hoạt và tác động tới khả năng sinh trưởng và tái tạo nòi
giống của sinh vật. Các quá trình lan truyền, biến đổi của chất ô nhiễm
trong tự nhiên sẽ bao gồm việc làm chất ô nhiễm loang rộng, phân hủy và
do vậy làm nồng độ chất ô nhiễm giảm đi. Như vậy, việc nghiên cứu quá
trình lan truyền, biến đổi của chất ô nhiễm trong môi trường nước sẽ giúp
chúng ta đánh giá được những khu vực bị ô nhiễm để có các biện pháp
phòng tránh các tác động có hại của chất ô nhiễm và xây dựng các giải pháp
giảm thiểu ô nhiễm một cách hiệu quả và tiết kiệm nhất.
1.3 Tổng quan về việc sử dụng các kiến thức về lan truyền, biến đổi của
chất ô nhiễm trong môi trường nước phục vụ phát triển của mô hình
lan truyền và biến đổi của chất ô nhiễm trong môi trường nước
1.3.1 Nhận xét chung
Cơ chế lan truyền chất ô nhiễm là rất quan trọng, cần được hiểu thấu
đáo để xây dựng các mô hình mô phỏng, dự báo lan truyền chất ô nhiễm.
Chất ô nhiễm sẽ được vận chuyển bằng các quá trình phân tử (khuếch
tán phân tử) và bằng gió, dòng chảy (quá trình bình lưu hay đối lưu).
Cơ chế vận chuyển chất ô nhiễm trong môi trường nước (nước sông,
hồ, nước biển), môi trường đất, nước ngầm và môi trường không khí là khác
nhau. Do vậy, việc mô hình hóa quá trình vận chuyển chất ô nhiễm trong
các môi trường nêu trên sẽ có một số điểm khác nhau đối với các môi
trường khác nhau. Với lý do trên, trong giáo trình này sẽ xem xét cơ chế
vận chuyển chất ô nhiễm trong môi trường nước, môi trường đất, nước
ngầm và môi trường không khí một cách riêng rẽ.
1.3.2 Cơ chế vận chuyển chất ô nhiễm trong môi trường nước sông
Con người ngày càng thải nhiều chất ô nhiễm ra sông, do vậy rất cần
phải hiểu cơ chế vận chuyển và biến đổi chất ô nhiễm trong sông để dự báo,
đánh giá phạm vi ảnh hưởng và tác động của chúng.
Trong môi trường nước sông, chất ô nhiễm được vận chuyển do dòng
chảy (bao gồm dòng chảy dọc sông và dòng cuộn ngang các mặt cắt sông)
và xáo trộn phân tử và xáo trộn rối. Các tính toán cho thấy xáo trộn phân tử
trong sông nhỏ hơn xáo trộn rối tới 1.000.000 lần. Điều đó có nghĩa là
không cần xem xét tới xáo trộn phân tử khi nghiên cứu sự vận chuyển của
chất phân tán trong môi trường nước sông.
1.3.3 Cơ chế vận chuyển chất ô nhiễm trong môi trường nước hồ, ao, đầm
Khác với môi trường nước sông, nước hồ, ao, đầm tương đối tĩnh lặng
nên sự lan truyền của chất ô nhiễm chủ yếu được thực hiện theo cơ chế
khuếch tán phân tử. Tuy nhiên, nếu hồ, ao đầm rộng thì tác động của gió sẽ
làm nước dâng lên tại một phía và nước rút tại phía kia. Kết quả là sẽ có
hoàn lưu và chất ô nhiễm được vận chuyển nhờ bình lưu và rối. Ngoài ra,
sóng trong hồ, ao đầm, đặc biệt là sóng vỡ khi gió mạnh, sẽ làm xáo trộn
chất ô nhiễm. Các quá trình lắng đọng chất ô nhiễm trong hồ, ao, đầm cũng
tương tự sông nhưng nhanh hơn nhiều do vận tốc dòng chảy trong hồ nhỏ
hơn. Trong hồ, vì dòng chảy nói chung rất yếu nên chất ô nhiễm đã được
lắng đọng xuống đáy chủ yếu được cuốn lên do sóng vỡ gần bờ.
1.3.4 Cơ chế vận chuyển chất ô nhiễm trong môi trường nước biển
Do chất ô nhiễm biển chủ yếu có nguồn gốc từ đất liền nên ô nhiễm
biển chủ yếu được quan tâm tại khu vực biển gần bờ. Khi đó, chất ô nhiễm
cũng chịu tác động và vận chuyển bởi dòng chảy biển và xáo trộn rối gây ra
do dòng chảy và sóng vỡ. Quá trình vận chuyển chất ô nhiễm trong nước
ven bờ phức tạp hơn sông do dòng chảy biển có cả dòng chảy dọc bờ và
dòng ngang bờ (hay dòng rip). Các dòng chảy ngang bờ sẽ giúp vận chuyển
chất ô nhiễm ra xa.
Do vận tốc dòng chảy biển thay đổi rất mạnh mẽ theo cả 3 chiều không
gian nên quá trình phân tán của chất ô nhiễm trong biển diễn ra rất mạnh
mẽ, mạnh gấp nhiều lần so với trong sông.
Phù sa trong sông khi gặp môi trường nước biển thì sẽ đông lại và lắng
đọng xuống đáy. Do vậy, nó cũng sẽ hấp phụ chất ô nhiễm trong nước và
chìm xuống đáy. Vì vậy, bùn lắng đọng gần cửa các con sông ô nhiễm
thường có hàm lượng chất ô nhiễm cao.
1.3.5 Cơ chế vận chuyển chất ô nhiễm trong môi trường đất và nước ngầm
Môi trường đất và nước ngầm là môi trường khá tĩnh lặng nên chất ô
nhiễm cũng được vận chuyển chủ yếu nhờ khuếch tán phân tử. Đất cũng hấp
phụ rất mạnh chất ô nhiễm để sau đó dần xả ra. Vì vậy, ô nhiễm môi trường
đất thường cần một thời gian rất dài để tự làm sạch. Ngoài ra, nếu nước
ngầm chảy thì chất ô nhiễm được vận chuyển nhờ quá trình bình lưu. Trong
một số khe hở, nước ngầm có thể chảy khá mạnh để tạo ra những xoáy rối.
Khi đó, các xoáy rối trong dòng chảy nước ngầm cũng làm xáo trộn mạnh
mẽ chất ô nhiễm.
Do có sự khác biệt về vận tốc dòng chảy ngầm nên quá trình phân tán
của chất ô nhiễm trong đất và nước ngầm cũng tương tự như trong sông và
trong biển, nhưng quá trình phân tán thể hiện rõ hơn do có sự biến đổi rất
mạnh mẽ của dòng chảy ngầm theo cả ba chiều.
1.3.6 Sử dụng các kiến thức về lan truyền, biến đổi của chất ô nhiễm trong
môi trường nước phục vụ phát triển của mô hình lan truyền và biến đổi của
chất ô nhiễm trong môi trường nước
Tất cả các quá trình về lan truyền, biến đổi của chất ô nhiễm trong môi
trường nước như nêu trên sẽ được sử dụng đê mô hình hóa quá trình lan
truyền và biến đổi của chất ô nhiễm trong môi trường nước.
Câu hỏi và bài tập
Câu 1: Hãy trình bày các chất ô nhiễm trong môi trường nước?
Câu 2: Ô nhiễm hữu cơ tác động như thế nào tới môi trường nước?
Câu 3: Chất rắn lơ lửng tác động như thế nào đối với môi trường nước
Câu 4: Những quá trình nào làm cho chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy trở thành
nguy hiểm cho sức khỏe con người?
Câu 5: Hãy trình bày tổng quan cơ chế lan truyền chất ô nhiễm trong môi trường
nước