You are on page 1of 27

CHƯƠNG I: Ô NHIỄM

1. TỔNG QUAN

Định nghĩa
Về khái niệm, ô nhiễm môi trường được định nghĩa là hiện tượng môi trường bị thay
đổi vì tính chất Sinh – Lý – Hóa làm tác động đến hệ sinh thái, con người và động vật.
Nói một cách dễ hiểu hơn thì ô nhiễm môi trường nghĩa là môi trường đang bẩn, ngày
càng bẩn ở mức độ trầm trọng gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái, động vật và sức khỏe
của con người.

Nguồn gốc ô nhiễm môi trường:


Ô nhiễm môi trường là 1 hiện tượng môi trường tự nhiên bị bẩn, cùng với nó là các
tính chất vật lý, sinh học, hóa học của môi trường bị thay đổi gây tác hại tới sức khỏe
của con người và các sinh vật khác trong tự nhiên. Ô nhiễm môi trường chủ yếu do
hoạt động xả thải từ đời sống, sinh hoạt, sản xuất của con người gây ra. Ngoài ra, ô
nhiễm còn do một số hoạt động từ tự nhiên khác có các tác động tới môi trường theo
hướng tiêu cực. Vấn đề nguyên nhân biến đổi khí hậu ở việt nam đang rất được quan
tâm.
Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường:
Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường. Về cơ bản được chia thành 2 nhóm.
Nhóm 1 ô nhiễm do yếu tố khách quan xuất phát từ tự nhiên như lũ lụt, động đất, sóng
thần, núi lửa phun trào…. Nhóm 2 là nhóm phổ biến nhất, ô nhiễm do hoạt động sản
xuất, sinh hoạt của con người.
Ở nhóm 2 này, nguồn ô nhiễm chủ yếu do quá trình sản xuất công nghiệp của con
người từ các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp. Điều đáng nói là nguồn nước, chất
thải từ các khu công nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, chưa được xử lý triệt để, xả thải
trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm trầm trọng. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, các chất
thải từ phân, nước tiểu gia súc, phân bón, hóa chất… không được thu gom xử lý là
nguyên nhân gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm.
Nguồn ô nhiễm đến từ hoạt động sinh hoạt của con người hằng ngày từ cá nhân đến
khách sạn, nhà hàng, bệnh viện, trung tâm thương mại… cũng là mối đe dọa không
nhỏ đến môi trường khi không được xử lý triệt để trước khi xả thải.
Biểu hiện ô nhiễm môi trường phổ biến và ở mức độ trầm trọng gồm có:
 Trái đất nóng lên
 Băng tan 2 cực
 Nước biển dâng
 Đất liền bị xâm nhập
 Tình trạng sạt lở xảy ra nhiều hơn
 Mưa nắng thất thường
 Sâu bệnh gây hại ngày càng khó điều trị
 Nguồn nước ngày càng mất dần
 Con người ngày càng nhiều bệnh tật

2. Các loại ô nhiễm môi trường ở nước ta

Có nhiều loại ô nhiễm môi trường, tệ là ở nước ta hầu như loại ô nhiễm môi
trường nào cũng có. Trong đó ở mức độ ô nhiễm cao nhất, đáng báo động.
1.4.1 Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn cầu, không riêng gì
một quốc gia nào. Bởi chất lượng không khí đang ngày càng sụt giảm, bụi mịn có xu
hướng gia tăng gây ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe con người (phổ biến nhất là các
bệnh về hô hấp) và hệ sinh thái (các cơn mưa axit phá hủy mùa màng, các cánh rừng,
hiệu ứng nhà kính, các hiện tượng thiên nhiên trở nên bất thường).
Hiện tượng ô nhiễm không khí được định nghĩa khi không khí có mặt của một số chất
lạ, chất bị biến đổi thành phần khiến cho không khí mất đi sự trong lành, gây mùi khó
chịu và có thể gây hạn chế tầm nhìn của con người. Tình trạng ô nhiễm không khí
đáng báo động ở các đô thị lớn, các khu công nghiệp. Ở nước ta điển hình là Hà Nội
và Tp.Hồ Chí Minh đang có mức ô nhiễm không khí nghiêm trọng.

1.4.2 Ô nhiễm nguồn nước


Xếp sau ô nhiễm không khí là ô nhiễm nguồn nước. Môi trường nước bị ô nhiễm
khi xuất hiện các chất lạ, nước biến đổi trở nên độc hại với sinh vật và con người, làm
giảm độ đa dạng sinh vật, gây ra nhiều căn bệnh cho con người, lây lan làm ô nhiễm
đất đai.
Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước. Trong đó điển hình và trầm trọng
nhất ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp bởi lượng chất xả thải lớn ra nguồn
nước mặt. Chưa kể rất nhiều cơ sở sản xuất xả thải trực tiếp không qua xử lý làm mức
độ ô nhiễm càng nặng nền, thậm chí nhiều cao sông, ao hồ lớn “chết trắng” vì ô nhiễm.
1.4.3 Ô nhiễm môi trường đất
Ô nhiễm môi trường đất là hiện tượng suy thoái lớp đất nền trên bề mặt do rác thải
và sự suy kiệt tài nguyên cũng như các hoạt động của con người. Điển hình như xả thải
chất ô nhiễm, sử dụng quá mức chất hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, khai thác khoáng
sản, phá rừng làm xói mòn đất… Tại nước ta, với tốc độ gia tăng các ngành công
nghiệp, đô thị hóa cùng sự tăng lên chóng mặt của dân số khiến đất bị thu hẹp, suy
thoái và ngày càng ô nhiễm.
1.4.4 Ô nhiễm ánh sáng
Hẳn nhiều người chưa biết đến loại ô nhiễm này nhưng đây là loại ô nhiễm gây
tiêu tốn rất nhiều tài nguyên, làm rối loạn giấc ngủ và môi trường sống của con người.
Cụ thể, ô nhiễm ánh sáng là tình trạng lạm dụng quá mức nguồn ánh sáng từ điện, điển
hình ở các thành phố lớn. Các nghiên cứu cũng chỉ ra ô nhiễm ánh sáng làm giảm khả
năng tìm tòi học hỏi các hiện tượng thiên nhiên của trẻ, khi mà ánh sáng từ trăng, sao
ngày càng bị hạn chế bởi sự lạm dụng ánh sáng điện.
1.4.5 Ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn là khi tiếng ồn môi trường vượt mức quy định gây khó chịu cho cả
con người và động vật. Tiếng ồn xuất phát từ phương tiện giao thông, các hoạt động
khai thác ngoài trời. Chúng làm gia tăng tình trạng stress, gây căng thẳng thần kinh,
làm giảm thính lực ở con người và ảnh hưởng nhiều đến thai nhi. Với động vật chúng
làm giảm khả năng săn mồi sinh sống. Ở nước ta ô nhiễm tiếng ồn vẫn ở mức kiểm
soát nhưng lâu dài sẽ gây ra hệ quả nghiêm trọng nếu không có phương án xử lý.
1.4.6 Ô nhiễm nhiệt
Ô nhiễm nhiệt xảy ra khi nhiệt độ môi trường gia tăng quá cao. Chủ yếu do hoạt
động giao thông, xả thải, tốc độ đô thị hóa… của con người. Ô nhiễm nhiệt khiến sức
khỏe con người bị ảnh hưởng, gây sốc nhiệt, mất nước, khó chịu…
1.4.7 Ô nhiễm tầm nhìn
Ô nhiễm tầm nhìn nghĩa là không gian, môi trường sống của chúng ta không phù
hợp, cản trở tầm nhìn bởi các nhà cao tầng… Loại ô nhiễm này gây khó chịu, ức chế
cho con người, cản trở tầm nhìn gia tăng tai nạn giao thông.
Một số hành động của con người làm ô nhiễm môi trường không khí và nước là
- Thải nước thải sinh hoạt, công nghiệp ra ao, hồ, sông, suối.
- Đổ các loại rác bừa bãi, gần bờ sông, suối gây mùi hôi thối.
- Nhiều loại phương tiện giao thông (ô tô, xe máy, tàu hỏa,…) xả thải nhiều khí CO2.
- Đốt các chất thải nông nghiệp, công nghiệp ô nhiễm không khí,…
- Sử dụng lãng phí, bừa bãi các nguồn nước

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TẢO

1. Định nghĩa:

1. Tảo là một tập hợp đa dạng các sinh vật có kích thước từ đơn bào nhỏ bé đến
rong biển khổng lồ và chúng thuộc về các dòng tiến hóa đa dạng. Dẫn đến, tảo phần
lớn được định nghĩa bởi các đặc điểm sinh thái. Tảo chủ yếu là các loài quang hợp
tạo ra oxy và sống trong môi trường nước. Ngoài ra, tảo thiếu cơ thể và các đặc
điểm sinh sản của thực vật trên cạn đại diện cho sự thích nghi với cuộc sống trên
cạn. Khái niệm về tảo bao gồm cả động vật nguyên sinh quanghợp là sinh vật nhân
chuẩn, và các vi khuẩn lam nhân sơ, còn được gọi là tảo lam. Một số đặc điểm đặc
biệt – bao gồm một nhân được bao bọc bởi một vỏ với các lỗ – tiêu biểu cho sinh
vật nhân chuẩn, trong khi sinh vật nhân sơ thiếu các đặc điểm như vậy. Mặc dù một
số sinh vật nhân sơ không phải vi khuẩn lam có thể quang hợp, các loài này không
tạo ra oxy – trái ngược với vi khuẩn lam, động vật nguyên sinh quang hợp và thực
vật trên cạn.
1.2 Xử lý nước thải đô thị, nông nghiệp, sản xuất…bằng hệ thống ao tảo
Hầu hết các loại nước thải đô thị, nông nghiệp, phân gia súc đều có thể được xử lý
bằng hệ thống ao tảo. Tảo dùng năng lượng mặt trời để quang hợp tạo nên đường, tinh
bột… Do đó việc sử dụng tảo để xử lý nước thải được coi là một phương pháp hữu
hiệu để chuyển đổi năng lượng mặt trời thành năng lượng của cơ thể sống. Ngoài ra,
tảo còn tiêu diệt các mầm bệnh. Thông qua việc xử lý nước thải bằng cách nuôi tảo,
các mầm bệnh có trong nước thải sẽ bị tiêu diệt do: sự thay đổi pH trong ngày của ao
tảo do ảnh hưởng của quá trình quang hợp; các độc tố tiết ra từ tế bào tảo; và sự tiếp
xúc của các mầm bệnh với bức xạ mặt trời (UV).

Hình 1. Mô hình trạm xử lý nước thải


CHƯƠNG III: KIỂM SOÁT Ô NHIỄM BẰNG TẢO

2.3 Khả năng của một số loài tảo trong việc loại bỏ các chất ô nhiễm
Các loài tảo đã được thương mại hóa 75 năm và được ứng dụng rộng rãi trong xử
lý nước thải, sản xuất hàng loạt các chủng khác nhau như Chlorella và Dunaliela. Ngày
nay, các nhà sinh vật học có sự hiểu biết uyên thâm, tay nghề chuyên môn cao về sinh
học và sinh thái cũng như kỹ thuật của việc nuôi cấy tảo quy mô lớn; còn có hệ thống
nuôi trồng và phương pháp thu hoạch tảo. Đây là những yếu tố quan trọng trong thiết
kế và vận hành nuôi cấy tảo để tạo ra các sản phẩm giá trị cao như dược phẩm hay các
sản phẩm biến đổi gen. Do đó, những nghiên cứu về tảo ngày càng phát triển ở các
nước tiên tiến như Úc, Mỹ, Thái Lan, Đài Loan và Mexico.
Xử lý sinh học bằng vi tảo đặc biệt hấp dẫn vì khả năng quang hợp của chúng,
chuyển đổi năng lượng mặt trời thành sinh khối hữu ích và kết hợp các chất dinh
dưỡng như nitơ và phốt pho gây ra hiện tượng phú dưỡng. Palmer (1969) đã tạo một
danh sách gồm 60 chi và 80 loài được sắp xếp thứ tự theo khả năng chịu đứng các chất
ô nhiễm hữu cơ. Theo danh sách này, Euglena, Oscillatoria, Chlamydomonas,
Scenedesmus, Chlorella, Nitzschia, Navicula và Stigeoclonium là tám chi có khả năng
chịu đựng tốt nhất. các chi có khả năng chịu đựng tốt nhất bao gồm 8 loài tảo xanh, 5
loài tảo xanh lam, 6 loài tảo có roi và 6 loài tảo cát. Và hơn 1000 loại tảo được cho là
có sức chịu ô nhiễm tốt, tổng cộng 240 chi, 725 loài và 125 giống. Thông qua khảo sát
các ao ổn định chất thải phân bố rộng rải, các nhà nghiên cứu dựa vào sự phong phú và
tần suất xuất hiện tìm thấy các loại tảo như Chlorella Ankistrodesmus, Scenedesmus,
Euglena, Chlamydomonas, Oscillatoria, Micractinium and Golenkinia. Ngoài ra, một
cuộc khảo sát Một cuộc khảo sát về các loài tảo trong hệ thống sáu đầm phá ở Trung Á
được hoàn thành bởi Erganshev và Tajiev (1986). Kết quả thu được cho thấy chất diệp
lục chiếm ưu thế cả về chủng loại và số lượng, tiếp theo là Cyanophyta,
Bascillariophyta và Euglenophyta.

Hình 2. Phục hồi chất dinh dưỡng và loại bỏ chất gây ô nhiễm bằng vi tảo
Hệ thống xử lý nước thải vi tảo yêu cầu cao về không gian đất, nên đã có nhiều nỗ
lực để phát triển hệ thống xử lý nước thải dựa trên việc sử dụng tảo siêu đậm đặc. Điều
này tỏ ra có hiệu quả cao trong việc loại bỏ Nitơ và Photpho trong khoảng thời gian rất
ngắn, có thể ít hơn 1 giờ. Hệ thống tảo có thể xử lý đa dạng loại nước thải như nước
thải từ sinh hoạt, chăn nuôi, công nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống tảo ứng dụng cho việc
loại bỏ các khoáng chất độc hại như chì, cadmium, thủy ngân, scandium, thiếc, asen và
brom cũng đang được phát triển.
Tảo có thể được sử dụng trong xử lý nước thải cho nhiều mục đích, một số mục
đích được sử dụng để loại bỏ vi khuẩn coliform, giảm nhu cầu oxy hóa học và sinh
hóa, loại bỏ Nitơ và/hoặc Photpho, và cũng để loại bỏ kim loại nặng.

2.3.1. Loại bỏ Nitơ và Photpho


Hơn 50 năm trước, Oswald vad Gotaass (1957) đã để xuất sử dụng tảo xử lý
nước thải nhằm loại bỏ các chất dinh dưỡng như nitơ, photpho và cung cấp oxy cho vi
khuẩn hiếu khí. Kể từ đó đã có nhiều nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và thí điểm
về quy trình này và một số nhà máy xử lý nước thải sử dụng các phiên bản khác nhau
của hệ thống này đã được xây dựng. Chất dinh dưỡng trong nước thải thường là nitơ
và photpho. Nitơ chủ yếu từ sự chuyển động trao đổi chất có nguồn gốc ngoại vi, có
các dạng như NH4+ (amoniac), NO2- (nitrit), NO3- (nitrat). Còn 50% photpho trở lên
phát sinh từ chất tẩy rửa tổng hợp dưới dạng chính là PO 43+ (orthophosphate). Việc loại
bỏ hai yếu tố này được gòi là sự loại bỏ chất dinh dưỡng.
Nuôi cấy tảo trở thành giải pháp tinh tế cho phương pháp xử lý bậc ba và bậc bốn
vì khả năng sử dụng nitơ vô cơ và phốt pho cho sự phát triển của vi tảo và loại bỏ kim
loại nặng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thành công của việc sử dụng nuôi cấy
tảo để loại bỏ chất dinh dưỡng khỏi nước thải giàu hợp chất nitơ và phốt pho. Kaya và
Colak (1988) đã báo cáo việc loại bỏ phốt pho (97,8%) trong nước thải sinh hoạt và
phốt pho (85,7%) cùng nitơ (50,2%) trong xử lý nước thải công nghiệp được xử lý
bằng tảo. Sau đó, Lau và các cộng sự (1996) đã nghiên cứu khả năng loại bỏ chất dinh
dưỡng của Chlorella Vulgaris và công bố hiệu quả loại bỏ chất dinh dưỡng là 86% đối
với Nitơ vô cơ và 78% đối với Photpho vô cơ.
Scenedesmus sp. đóng vai trò quan trọng như nhà sản xuất chính và góp phần
làm sạch nước phú dưỡng, rất phổ biến ở tất cả các loại thủy vực nước ngọt. Mohamed
(1994) đã nghiên cứu và chỉ ra sự xuất hiện của Scenedesmus sp. được dùng để đánh
giá chất lượng nước. Bên cánh đó , việc thu hoạch hoặc phục hồi vật lý các tế bào tảo
cũng rất cần thiết nhằm tránh tái chế các chất dinh dưỡng ở vùng nước tiếp nhận và để
phục hồi sinh khối được tạo ra. Vì vậy, hầu hầu hết các thí nghiệm được thực hiện cho
đến nay đều sử dụng các loài vi tảo đơn bào và sinh vật phù du rất khó thu hoạch.
Trong điều kiện thích hợp, vi khuẩn lam có thể phát triển với tốc độ cao hơn thực vật
bậc cao, do đó các hệ thống loại bỏ chất dinh dưỡng vô cơ sử dụng vi khuẩn lam
dường như có tiềm năng đáng kể. Việc sử dụng vi khuẩn lam ưa nhiệt trong lọc nước
thải có nhiều ưu điểm vì có thể tránh được ô nhiễm vì vi khuẩn lam chịu được nhiệt độ
cao và có thể được xử lý ở nhiệt độ cao (45°C). Sự hấp thu photphat của vi khuẩn
lam, vốn đã được đặc trưng ở một số chủng, là một chức năng hyperbol rõ ràng của
nồng độ photphat bên ngoài. Phormidium sp. các tế bào được gắn vào mảnh chitosan
và được sử dụng để loại bỏ Nitơ (amoni, nitrat, nitrit) và orthophosphate khỏi nước
thải thứ cấp đô thị. Loại bỏ Photphate khỏi nước thải vẫn là cần thiết mặc dù không
gây ra vấn đề nào với sức khỏe người. Sau khi vi khuẩn lam đã hấp thụ các chất dinh
dưỡng trong nước thải, nước tinh khiết có thể được giải quyết và vi khuẩn lam sau đó
có thể được thu hoạch một cách dễ dàng Sinh khối thu hoạch được có thể dùng cho
việc chiết xuất các chất màu có giá trị thương mại.
Các biện pháp kiểm soát chặt chẽ đã được áp dụng liên quan đến việc xả nước
thải cuối cùng của nhà máy bia vào các vùng nước do lo ngại về an toàn môi trường.
Một lượng lớn hóa chất hữu cơ được tìm thấy trong nước thải nhà máy bia có khả năng
gây ô nhiễm môi trường. Một phương pháp công nghệ sinh học mới nổi lành tính về
mặt sinh thái là xử lý nước thải bằng vi tảo. Trong nước thải giàu dinh dưỡng, vi tảo
phát triển mạnh vì chúng có thể hấp thụ các chất dinh dưỡng hữu cơ và biến chúng
thành sinh khối hữu ích. Sinh khối thu được có thể được sử dụng làm nguồn năng
lượng thay thế cho sản xuất dầu diesel sinh học, cũng như thức ăn chăn nuôi và phân
bón sinh học.
Hình 3. Một mối quan hệ vi khuẩn - vi tảo trong xử lý nước thải.
Trong quá trình xử lý nước thải nhà máy bia, nitơ, phốt pho và các chất dinh
dưỡng khác có trong nước thải được vi tảo hấp thụ đầy đủ cho sự phát triển của chúng.
Như đã đề cập, vi tảo có khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng và chuyển đổi chúng thành
sinh khối nên được áp dụng vào xử lý nước thải công nghiệp. Vi khuẩn sử dụng oxy
được vi tảo tự do giải phong trong qua sình quang hợp, và vi tảo cũng cố định CO 2
bằng cách đồng hóa HCO3 từ CO2 thông qua quá trình hô hấp.

Hình 4. Mẫu ao xử lý nước thải

Hình
5. Mô hình
của lò phản
ứng quang
sinh học
hình ống
Dù mang lại nhiều lợi ích cơ bản nhưng cho tới nay, việc ứng dụng vi tảo trong
xử lý nước thải chỉ được giới hạn trong phòng thí nghiệm. Nước thải vi tảo
được xử lý trong ao Raceway và công nghệ quang sinh học. Ao Raceway có
hình bán nguyệt ở hai đầu, có hệ thống hở nông. Hệ thống này có các bánh
guồng giúp trộn liên tục vi tảo trong nước thải để lấy chất dinh dưỡng và ánh
sáng mặt trời. Một ao Raceway có các lò phản ứng quang sinh học được xây
dựng theo cột dọc và cột ngang. Cấu trúc cho phép ánh sáng xuyên qua vi tảo.
CO2 được phun vào và lưu thông để cho phép vi tảo tiếp cận đủ CO2.
Lutzuet và công sự đã thực hiện nghiên cứu và nhận được kết quả là chỉ
trong một tuần vi tảo (Scenedesmus dimorphus) có thể loại bỏ hơn 99% cả nitơ
(N) và phốt pho (P) khỏi nước thải nhà máy bia. Nitơ đã giảm từ nồng độ ban
đầu là 229 m.g·L−1 xuống nồng độ cuối cùng dưới 0,2 m.g·L−1 và phạm vi phốt
pho ban đầu là 1,4–5,5 m.g·L−1 đến nồng độ cuối cùng thấp hơn 0,2 m.g·L −1.
Còn có Chlorella sp. cũng có thể loại bỏ hoàn toàn Nitơ, Photpho và Carbon
hữu cơ với sự phát triển của vi tảo. Ngoài ra, Scenedesmus obliquus cũng được
báo cáo có thể loại bỏ hầu hết tất cả các chất ô nhiễm có trong các loại nước
thải khác nhau (gia cầm, chăn nuôi lợn và gia súc, nhà máy bia và sữa, và đô
thị). Trong nước thải chăn nuôi lợn, Desmodesmus sp. CHX1 được xác định
loại bỏ một cách hiệu quả các chất dinh dưỡng khoảng 78,46% Nitơ và 91,66%
Photpho. Mặc khác, khi so sánh thành phần sinh hóa của bốn loại vi tảo
(Nannochloropsis Oceanica, Auxenochlorella pyrenoidosa, Arthrospira
platensis và Schizochytrium limacinum) và bốn loại tảo vĩ mô (Ulva prolifera,
Saccharina japonica (Areschoug), Zostera marina và Gracilaria eucheumoides
Harvey) và đã đi đến kết luận kết luận rằng, hàm lượng nitơ và phốt pho trong
sinh khối tảo dao động lần lượt từ 1,24 đến 10,79% và 0,03% đến 2,49%,
khẳng định khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của vi tảo từ nước thải. Một
nghiên cứu khác đã được tiến hành về hiệu quả xử lý nước thải nhà máy chưng
cất bằng vi tảo Chlorella Vulgaris. Các tác giả kết luận rằng Chlorella Vulgaris
làm giảm hơn 98% COD và BOD, nước thải cuối cùng an toàn khi thải ra môi
trường.

2.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của tảo và khả năng
loại bỏ các chất dinh dưỡng
Bên cạnh sự hiện diện của chất dinh dưỡng, sự phát triển và hấp thụ các
chất dinh dưỡng của tảo còn phụ thuộc vào các yếu tố vật lý như pH, cường độ
ánh sáng, nhiệt độ và các yếu tố sinh học là mật độ ban đầu. Mật độ ban đầu
thường được cho là càng cao thì tảo sinh trưởng cảng tốt và hiệu quả hấp thụ
chất đinh dưỡng càng cao. Tuy nhiên, mật độ tảo cao sẽ dẫn đến hiện tượng tự
che nắng, tích tụ các chất tự ức chế và giảm hiệu quả quang hợp.

2.3.3. Loại bỏ kim loại nặng


Nước thải đô thị chứa nồng độ đáng kể kim loại nặng và các hợp chất hưu
cơ độc hại, tuy không đạt tỷ lệ cao như nước thải công nghiệp nhưng các vấn
đề do chúng gây ra vẫn là mối quan tâm sâu sắc với mọi người, đặc biệt là các
khu dân cư đông đúc. Do đó, Do đó, khả năng chịu đựng và loại bỏ độc tính
của hệ thống xử lý nước thải là rất quan trọng.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng một số loài tảo biển và nước ngọt có
thể hấp thụ các kim loại nặng khác nhau một cách có chọn lọc từ môi trường
nước và tích lũy các kim loại này trong tế bào của chúng (Afkar và cộng sự,
2010; Kumar và Gaur, 2011; Chen và cộng sự, 2012). Họ kết luận phương
pháp xử lý nước thải bằng các loài tảo (bao gồm việc tách tảo bão hòa kim loại
nặng khỏi nước thải), chính là giải phảp kinh tế vừa có thể loại bỏ kim loại
nặng khỏi nước thải vừa tạo ra nước thải có thể tái sử dụng chất lượng cao. Tùy
thuộc vào loại tảo, loại ion kim loại, điều kiện dung dịch và liệu tế bào tảo đang
sống hay không sống mà quý trình cô lập kim loại diễn ra khác nhau.
Trong tế bào tảo sống, các kim loại dinh dưỡng (như Co, Mo, Ca, Mg, Cu,
Zn, Cr, Pb và Se) được tích lũy nội bào bằng quá trình vận chuyển sinh học tích
cực. còn vi tảo là chất hấp thụ kim loại nặng hiệu quả. Tích lũy sinh học kim
loại bằng tảo có thể tạo ra một phương pháp khả thi để xử lý nước thải bị ô
nhiễm kim loại.
Trên thực tế, nhiều thí nghiệm thu được kết quả chỉ ra vi tảo quang hợp có
vai trò hiệu quả trong việc khử độc kim loại trong nước thải mỏ. 99% kim loại
hòa tan và dạng hạt có thể được loại bỏ bằng vi khuẩn lam trong hệ thống hồ
bơi. Nghiên cứu tại các kênh nước nhân tạo, phát hiện tảo là những chất tích
lũy kẽm tuyệt vời và có báo cáo về sự tích tụ Cu 2+, Pb2+ và Cr3+ cũng như Ni2+,
Cd2+, Co2+, Fe2+ và Mn2+ bởi tảo. Tảo cũng hấp thụ Cd2+gấp khoảng 1000 lần so
với môi trường xung quanh khi tồn tại ở các ruộng lúa. Baeza-Squiban và cộng
sự (1990) và Schimdt (1991) đã chỉ ra rằng tảo xanh Dunaliella bioculata tạo ra
một esterase ngoại bào làm suy giảm thuốc trừ sâu pyrethroid Deltamethrin.
Ngoài ra, tảo còn là chất tích lũy tốt các hợp chất như organochloride và thiếc
tributyl, có thể phá vỡ một số hợp chất này. Tảo cũng được chứng tỏ là có thể
phân hủy nhiều hydrocacbon như những chất thải có dầu.

2.4 Ưu điểm của việc sử dụng tảo để kiểm soát ô nhiễm so với các phương
pháp truyền thống.
Các hệ thống xử lý nước thải thông thường thông thường tạo ra 0,3–0,5 kg
sinh khối khô (dưới dạng bùn thứ cấp) cho mỗi kg COD được loại bỏ, trong khi
chi phí xử lý bùn từ 150 đến 300 USD. Quy trình bùn hoạt tính (ASP), có
cường độ cacbon là 0,78 kg CO 2eq/m3. Tuy nhiên, các hệ thống này hiện hữu
một vài hạn chế như tiêu thụ năng lượng cao, tiêu tốn nhiều chi phí cho quá
trình sục khí và quản lý bùn thải. Theo Climate Central, các nhà máy xử lý
nước thải chiếm 3% lượng phát thải nhà kính (GHG) trên toàn cầu. Các nhà
nghiên cứu đã luôn cố gắng cải tiến các phương pháp xử lý nước thải hiệu quả
mà tiêu tốn ít năng lương hơn, giảm lượng cacbon thải ra môi trường. Nhiều
phương pháp xử lý nước thải tiêu biểu như xử lý kỵ khí, lò phản ứng sinh học
màng, pin nhiên liệu vi sinh vật (MFC), công nghệ anammox, vùng đất ngập
nước nhân tạo và nuôi cấy tảo. Sự quan tâm đến nuôi cấy vi tảo bắt nguồn từ
thực tế là các quy trình xử lý thông thường gặp phải một số nhược điểm quan
trọng:
(a) hiệu suất thay đổi tùy thuộc vào chất dinh dưỡng cần loại bỏ;
(b) tốn kém để vận hành;
(c) các quá trình hóa học thường dẫn tới ô nhiễm thứ cấp;
(d) mất đi các chất dinh dưỡng tiềm năng có giá trị (Nitơ,
Photpho).
Đáng chú ý, nhược điểm (d) mất đi các chất dinh dưỡng tiềm năng có giá trị
đặc biệt nghiêm trọng dẫn đến việc không sử dụng hết tài nguyên thiên nhiên.
Công nghệ và công nghệ sinh học trong nuôi cấy vi tảo cũng là đề tài được
thu hút nhiều sự quan tâm. Các hệ thống tảo theo truyền thống đã được sử dụng
như một quá trình bậc ba. Chúng đã được đề xuất như một hệ thống xử lý thứ
cấp tiềm năng. Quá trình xử lý bậc ba loại bỏ tất cả các ion hữu cơ. Nó có thể
được thực hiện về mặt sinh học hoặc hóa học. Phương pháp xử lý này hoạt
động tốt so với các quá trình hóa học, nhưng lại quá tốn kém để thực hiện ở hầu
hết các nơi và có thể dẫn đến ô nhiễm thứ cấp. Do đó, một quy trình cấp ba
hoàn chỉnh nhằm loại bỏ amoniac, nitrat và phốt phát sẽ đắt hơn khoảng bốn
lần so với xử lý sơ cấp. Nuôi cấy vi tảo cung cấp một giải pháp tinh tế hơn nhờ
khả năng sử dụng nitơ vô cơ và phốt pho cho sự phát triển của vi tảo, nổi bật là
khả năng loại bỏ kim loại nặng và một số hợp chất hữu cơ độc hại, do đó không
dẫn đến ô nhiễm thứ cấp. Trong số các đặc điểm có lợi, chúng tạo ra oxy, có
tác dụng khử trùng do tăng độ pH trong quá trình quang hợp.

2.4.1. Có thể loại bỏ gần như hoàn toàn các chất dinh dưỡng trong
nước thải
Nước được xử lý bằng phương pháp hiếu khí hoặc kỵ khí vẫn không loại
bỏ hết các hợp chất vô cơ như ion nitrat, amoni và photphat, gây hiện tượng
phú dưỡng trong hồ và dẫn đến hiệm tượng nở hoa vi tảo có hại. Hiện tượng
phú dưỡng hình thành từ việc kích thích sự phát triển của các loài thực vật
không mong muốn như tảo và các loài thực vật thủy sinh. Các nhà nghiên cứu
đã xem Photpho và Nitơ là nguyên nhân chính của hiện tượng phú dưỡng và
cần ngăn ngừa trong quá trình xử lý. Hậu quả khác xuất phát từ hợp chất nitơ là
độc tính của amoniac không ion hóa đối với cá và các sinh vật thủy sinh khác,
cản trở quá trình khử trùng khi cần có dư lượng Clo tự do và methemoglobin
huyết trong nước thải do nồng độ nitrat quá mức (trên 45 g/m 3) trong nước
uống.
Hình 6. Ao kỵ khí được lót bằng một màng nhựa.

Hiện nay, phân bón nitơ ngày càng được ưa chuộng và tình trạng quá tải
chất thải từ con người và động vật, nguy cơ ô nhiễm Nitơ do tích tụ nitơ trong
môi trường và là mối lo ngại với sức khỏe con người. Nitrit gây ra
methemoglobin huyết và đóng vai trò quan trọng như là tiền chất của các hợp
chất N-nitroso, chủ yếu là nitrosamine có các đặc tính có thể gây ung thư, gây
quái thai và gây đột biến. Vì xử lý nước thải bằng phương pháp bình thường
không thể loại bỏ triệt để Nitrat nên nhiều nghiên cứu tập trung vào việc phát
triển các kỹ thuật mới để giảm nitrat trong nước uống đến mức có thể chấp
nhận được, tức là <50 mg l1 (Tổ chức Y tế Thế giới, 1970). Loại bỏ Nitơ sinh
học thường là một lựa chọn hợp lý và mang lại một số lợi ích so với các
phương pháp xử lý hóa lý và hóa lý bậc ba đã sử dụng Phormidium bohneri để
loại bỏ nitrat từ nước thải thu được sau quá trình phân hủy yếm khí của phân
lợn. Ngoài ra, việc sử dụng các lò phản ứng sinh học loại bỏ Nitơ khỏi vùng
nước bị ô nhiễm đặt trên bàn kết hợp với vi khuẩn cyanobacteria Phormidium
laminosum ưa nhiệt đã được báo cáo (Garbisu và cộng sự, 1994).

2.4.2. Hệ thống cacbon xếp tầng


Nước thải từ nhiều nguồn khác nhau là môi trường phát triển phù hợp cho
nhiều loại vi tảo và là nơi chứa các chất dinh dưỡng quan trọng. Trọng lượng tế
bào khô, năng suất lipid xuất sắc nhất (282,6 mg L -1 ngày-1, 71,4 mg L-1 ngày-1)
và khả năng loại bỏ chất dinh dưỡng hiệu quả (92,3% COD, 95,8% TN, 98,1%
TP) thu được bằng phương pháp hai pha. nuôi cấy hàng loạt quang kỳ của
Scenedesmus với vi khuẩn. Sự tích hợp tảo và vi khuẩn đã cung cấp một kịch
bản có thể thực hiện được trong đó một loài được hưởng lợi từ quá trình trao
đổi chất của loài kia. Phát triển trong nước thải đô thị và công nghiệp,
Selenastrum minutum tạo ra sản lượng sinh khối và lipid lớn nhất, chiếm tới
37% chất khô và loại bỏ tới 99% chất dinh dưỡng (NH4+ và phốt pho). Với sự
hiện diện của khí thải CO2 5%, 10% và 14,1%, một số tỷ lệ pha loãng (0,5–2%)
của nước thải đô thị với nước thải thực phẩm đã được đánh giá cho quá trình
nuôi cấy hỗn hợp vi tảo xanh S. obliquus. Sau sáu ngày canh tác theo đợt, S.
obliquus cho thấy mức tăng trưởng sinh khối tối đa (0,44 g L -1), loại bỏ chất
dinh dưỡng (22 mg TN L-1), năng suất lipid (11 mg L-1 ngày-1) và năng suất
carbohydrate ( 16 mg L−1 ngày−1) khi tiêu thụ nước thải thực phẩm (1%) với
14,1% CO2. Do đó, khí thải thải và nước thải đóng vai trò là nguồn dinh dưỡng
tốt cho vi tảo và cần được sử dụng rộng rãi hơn theo cách tổng hợp để sản xuất
các hợp chất có nguồn gốc sinh học như nhiên liệu sinh học.
2.4.3. Màng sinh học
Một số vi tảo tiết ra một lớp nhầy bên ngoài bề mặt tế bào của chúng rất
giàu exo-polysaccharides (còn được gọi là exo-outside, saccharide-sugar), được
coi là một cơ chế bảo vệ chống lại các điều kiện môi trường không thuận lợi.
Người ta cho rằng nó tạo ra sự tương tác cộng sinh với môi trường xung quanh,
trong khi cơ chế hình thành chính xác vẫn chưa được biết rõ. Ngoài việc sản
xuất và thu thập sinh khối, màng sinh học vi tảo có thể được sử dụng để xử lý
nước thải. Chúng đại diện cho một kiểu sắp xếp bất động trong đó nhiều loài vi
tảo dạng sợi, bao gồm Scenedesmus, Chlorella, Nitzschia và các loài khác đã
được nghiên cứu.

Hình 7. Hệ thống màng sinh học siêu nhỏ (không liên tục) trong xử lý nước
thải.
Màng sinh học tảo được tạo ra trong lò phản ứng quang sinh học dạng
tấm phẳng (FPBR) để xử lý WW đồng thời sử dụng các chất dinh dưỡng của
nó. Các chất mang bụi của cưa thông đã được các nhà nghiên cứu dùng để sản
xuất màng sinh học trong FPBR. Chlorella Vulgaris, vi tảo được sử dụng trong
chất mang, làm sạch hiệu quả nước tổng hợp và nước tinh khiết. Ngoài việc xử
lý nước thải, việc thu hồi sinh khối đơn giản hơn nhiều so với hệ thống treo,
điều này góp phần làm giảm đáng kể chi phí vận hành của nhà máy.
2.4.4. Trồng trọt dị dưỡng và hỗn hợp bằng nước thải
Trong một số trường hợp, vi tảo có thể phát triển dị dưỡng hoặc hỗn hợp
ngoài việc sử dụng ánh sáng, CO2 và nước để quang dưỡng. Trong quá trình xử
lý sinh học hiếu khí được gọi là dị dưỡng, carbon hữu cơ và oxy được sử dụng
cho các quá trình trao đổi chất khác nhau như sinh tổng hợp, duy trì năng lượng
và tăng trưởng. Kết hợp hai con đường trao đổi chất dẫn đến nồng độ sinh khối
lớn hơn khi cho ăn hỗn hợp. Bởi vì ánh sáng không phải là yếu tố hạn chế trong
chế độ tăng trưởng hỗn hợp nên hiệu ứng ức chế quang học sẽ giảm đi. Vì các
chủng vi tảo hỗn hợp có thể phát triển trong môi trường ánh sáng yếu nên tác
dụng ức chế quang hóa sẽ giảm đi. Để giảm thiểu thiệt hại do quang oxy hóa
đối với tế bào, O2 được tạo ra trong quá trình quang hợp được tái sử dụng làm
chất nhận điện tử trong quá trình hô hấp tối của các phân tử hữu cơ. Nồng độ
sinh khối vi tảo đã được chứng minh là được tăng cường đáng kể nhờ các chiến
thuật canh tác hỗn hợp. Xử lý nước thải đòi hỏi sự hiểu biết về các cơ chế phân
tử làm cơ sở cho quá trình đồng hóa và cô lập carbon vô cơ và hữu cơ.
Sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng có thể được
thiết lập bằng cách lựa chọn cẩn thận các nguồn carbon hữu cơ và vô cơ cũng
như tỷ lệ của chúng. Nhìn chung, vi tảo quang dưỡng có tốc độ tăng trưởng cao
nhất; tốc độ tăng trưởng này giảm ở hai phương pháp trồng trọt còn lại. Hơn
nữa, không gây nguy hiểm cho các hợp chất được lưu trữ. Khi thực hiện các
chế độ nuôi cấy được lựa chọn phù hợp, việc nuôi trồng vi tảo trong nước thải
giàu dinh dưỡng có thể giúp tăng sản lượng sinh khối, tích lũy lipid và
carbohydrate và giảm thiểu nước thải.
Đáng chú ý là trong khi nhiều loài có thể được sản xuất bằng nhiều
nguồn carbon khác nhau, không phải tất cả các chủng vi tảo đều có thể được
sản xuất một cách kinh tế và hiệu quả trên mọi chất dinh dưỡng hữu cơ, sinh
khối cao. Ví dụ, sự thay đổi về khả năng của ba chủng vi tảo (Chlamydomonas
globosa, Chlorella minutissima và Scenedesmus bijuga) đối với sự tăng trưởng
hỗn hợp trên các nguồn carbon và nước thải khác nhau đã được các nhà nghiên
cứu báo cáo. Do đó, một số thử nghiệm phải được thực hiện trước khi tính đến
việc lựa chọn nguồn carbon hữu cơ cụ thể cho chủng vi khuẩn mục tiêu. Giống
như hai hệ thống canh tác còn lại, chiến lược hỗn hợp không phải là không có
những khó khăn về công nghệ khiến nó không thể được thực hiện trên quy mô
lớn hoặc trong một chương trình thí điểm. Nguyên nhân chính gây lo ngại là
chi phí gia tăng liên quan đến nguồn carbon hữu cơ, chiếm hơn 80% tổng chi
phí sản xuất sinh khối. Điều quan trọng là các nhà khoa học phải tìm và điều tra
các chủng tảo có khả năng phát triển mạnh trên các chất bổ sung phi thực phẩm
như glycerol, có nguồn gốc từ các dòng chất thải.
2.5 Lợi ích của việc kiểm soát ô nhiễm nhờ tảo
2.5.1. Phân bón sinh học
Việc lạm dụng phân bón vô cơ làm thay đổi độ pH và độ chua của đất,
từ đó ảnh hưởng đến độ phì nhiêu của đất. Ngoài ra, nitrat và phốt phát có
trong phân bón vô cơ bị mưa và nước thải cuốn trôi vào các vùng nước, có thể
gây ra hiện tượng phú dưỡng. Theo các nhà nghiên cứu, việc tưới tiêu sử dụng
nước thải nhà máy bia thô làm nguồn phân bón khiến cây trồng chậm phát
triển, từ đó dẫn đến năng suất thấp và điều kiện đất đai kém. Vi tảo có lợi cho
ngành nông nghiệp. Có thể biến sinh khối tảo thu được từ nước thải thành chất
dinh dưỡng cho cây trồng. Thành phần khoáng chất và khả năng giữ nước của
đất nông nghiệp được tăng cường nhờ các loại phân bón này. Nitơ cũng có thể
được cố định vào đất nhờ vi tảo. Thường được sử dụng làm phân bón sinh học,
Nostoc sp., Scytonema sp., Aulosira sp., Toplythrix sp., và Plectonema sp. cố
định đạm vào đất.

2.5.2. Thức ăn chăn nuôi


Do vi tảo dễ tiêu hóa và có giá trị dinh dưỡng cao nên chúng được sử dụng
làm thức ăn sống trong ngành nuôi trồng thủy sản. Vi tảo bao gồm 39–71%
protein và 10–57% carbohydrate, chủ yếu là tinh bột, xenlulo và polysacarit.
Ấu trùng hai mảnh vỏ, tôm và hàu có thể được cho ăn trực tiếp hoặc gián tiếp
bằng nguyên liệu thu hoạch. Ngoài ra, vi tảo có thể tăng cường động vật phù du
để nuôi cá. Theo các nhà nghiên cứu, thức ăn chăn nuôi chất lượng cao có thể
được tạo ra từ thành phần sinh khối của tảo xoắn được trồng trong HRAP nhằm
mục đích xử lý nước thải cao lương. Trong thức ăn cho gà, sinh khối vi tảo có
thể thay thế một phần protein và carotenoid truyền thống một cách hiệu quả,
được biết là có tác dụng cải thiện màu vàng của da gà thịt và lòng đỏ trứng.
Thức ăn chăn nuôi bao gồm sinh khối vi tảo có nguồn gốc từ nước thải đã qua
xử lý đã được đề xuất trong một số nghiên cứu. Tuy nhiên, do nhận thức của
công chúng và các quy định về chất lượng thực phẩm đối với thức ăn chăn
nuôi, nên đề xuất này không nhận được nhiều sự chú ý.

2.5.3. Sản xuất nhiên liệu sinh học


Nhiên liệu sinh học, như hydro sinh học, diesel sinh học, ethanol sinh học
hoặc biometanol, là những nguyên liệu có nguồn gốc từ sinh khối có giá trị đốt
cháy cao. Khi nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng lên, nghiên cứu đã chuyển
sang các nguồn năng lượng thay thế như nhiên liệu sinh học, được coi là những
lựa chọn đầy hứa hẹn thay thế cho nhiên liệu hóa thạch.
Nguồn hứa hẹn nhất để sản xuất dầu diesel sinh học được cho là vi tảo, vì
chúng phát triển nhanh chóng và có hiệu quả quang hợp cao. Mối lo ngại về sự
khan hiếm đất canh tác đã được khơi dậy bởi nhiên liệu sinh học thế hệ đầu tiên
và điều này có thể dẫn đến tình trạng khẩn cấp về lương thực toàn cầu. Gần
đây, các loại cây có dầu bao gồm cọ, đậu tương và hạt cải dầu đã trở nên phổ
biến; tuy nhiên, việc trồng trọt đòi hỏi một lượng lớn đất canh tác. Jatropha
curcas được sử dụng trong nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai, nhưng do tốc độ
tăng trưởng chậm và yêu cầu đất canh tác cao nên không khả thi. Tuy nhiên, so
với các nguồn nhiên liệu sinh học khác (cây trồng thông thường), chẳng hạn
như đậu nành và cọ dầu, nhiên liệu sinh học vi tảo được cho là cung cấp lượng
xăng nhiều hơn 10-100 lần trên một đơn vị diện tích. Hơn nữa, vì vi tảo có thể
được sản xuất trong các nhà máy bia và nước thải công nghiệp khác nên chúng
không gây ra mối đe dọa cho đất nông nghiệp.

2.6 Tiềm năng của tảo trong các ứng dụng khác nhau như xử lý nước thải,
quản lý chất dinh dưỡng và sản xuất năng lượng tái tạo.
2.6.1. Hiệu quả chi phí
Phương pháp xử lý nước thải bằng vi tảo yêu cầu nguồn vốn ít hơn cũng
như tiêu tốn ita chi phí duy trì hơn so với các phương pháp thông thường. Tải
trọng hữu cơ cho thấy nước thải của nhà máy bia thích hợp cho sự phát triển
của vi tảo và một số loại tảo có khả năng thu giữ chất dinh dưỡng từ nước thải,
do đó làm cho nó trở thành một phương tiện cực kỳ hấp dẫn để xử lý nước thải
bền vững và chi phí thấp.

2.6.2. Yêu cầu năng lượng thấp


Chi phí năng lượng của phương pháp thông thường phải tốn một khoảng
vốn cho quá trình sục khí, 1kg BOD bị loại bỏ cần 1 kWh trong quá trình bùn
hoạt tính. Đồng thời, 1 kg carbon dioxide hóa thạch được tạo ra từ việc sản
xuất điện. Nhưng phương pháp bằng vi tảo giúp giảm phần nào chi phí này.
Bởi vì vi tảo giải phóng oxy như một sản phẩm phụ trong quá trình xử lý nước
thải và điều này được vi khuẩn hiếu khí sử dụng để tiếp tục phân hủy lượng
chất hữu cơ còn lại. Để loại bỏ 1kg BOD khỏi nước thải nhà máy không cần
bất kỳ năng lượng đầu vào nào và sản xuất khí metan bằng sinh khối tảo để tạo
ra 1 kWh điện.

2.6.3Giảm sự hình thành bùn


Các nhà máy xử lý nước thải luôn đặt mục tiêu là giảm hoặc loại bỏ bùn.
Việc sử dụng một lượng lớn hóa chất là đặc trưng của phương pháp xử lý nước
thải thông thường, trong trường hợp sử dụng nhiều hóa chất có thể dẫn đến sự
hình thành bùn. Điều này tạo ra chất thải rắn nguy hại phải được thải ra môi
trường. Xử lý nước thải bằng vi tảo không cần phụ gia hóa học và bùn được
tích tụ dưới dạng sinh khối tảo.
2.6.4. Giảm tải khí nhà kính
Sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu đang là chủ đề quan ngại của toàn
nhân loại. Chiến lược giảm đáng kể lượng CO2 theo hai mảng hóa học và sinh
học. Phương pháp tiếp cận hóa học liên quan đến việc phân tách, vận chuyển
và cô lập. Những cách tiếp cận này tiêu tốn năng lượng và tốn kém, do đó cần
có các biện pháp thay thế hiệu quả và bền vững để hạn chế mối đe dọa.
Nuôi cấy các loại vi tảo chính là một trong những biện pháp công nghệ sinh
học hữu ích giúp giảm thiểu thiểu CO2 và có khoảng 2.000.000 loài hữu ích cho
việc cô lập CO2 như tảo quang tự dưỡng có thể giúp giảm CO 2 trong khí quyển.
Vi tảo phát triển nhanh hơn các thực vật trên cạn khác do khả năng thu năng
lượng mặt trời hiệu quả hơn. Qua nghiên cứu, các chuyên gia tiết lộ vi tảo có
tốc độ tăng trưởng và khả năng cố định CO 2 cao hơn nhiều so với thực vật lâm
nghiệp, nông nghiệp và thủy sản thông thường. Vi tảo cố định 183 tấn carbon
dioxide để tạo ra 100 tấn sinh khối.
Hình 8. So sánh mức tiết kiệm CO 2 giữa vi tảo hoạt tính và quá trình
bùn hoạt tính thông thường trong xử lý nước thải hiếu khí
Mặc khác, vi tảo cần CO2 đẻ phát triển và có thể nuối cấy với bất kỳ nguồn
carbon dioxide nào cũng được. Để tảo phát triển trong điều kiện tối uu nhất cần
cung cấp đủ lượng CO2 (~0.04 w%), nhưng CO2 tinh khiết khá tốn kém và cần
không khí không vận chuyển. Do đó, CO2 từ các khu công nghiệp vừa đáp ứng
được nhu cầu này của tảo vừa được xử lý làm sạch môi trường. Tùy thuộc vào
quá trình và nguồn gốc mà nồng độ CO 2 có sự khác nhau, chẳng hạn như khí
thải từ các nhà máy nhiệt điện than có nồng độ CO 2 thấp hơn so với khí thải từ
năng lượng đốt khí tự nhiên. Vì thế, người ta khắc phục điều này bằng cách đặt
các ao, đường dẫn hoặc máy quang điện gần các ngành sản xuất khí thải.
Các chuyên gia so sánh các phương pháp với nhau, xử lý nước thải bằng vi
tảo giúp giảm hàng tấn CO2 so với các phương pháp xử lý thông thường. Ví dụ,
ao mương hoặc hệ thống ao tảo tốc độ cao (HRAP) giảm 100 đến 200 tấn CO 2
trên mỗi ML nước thải được xử lý bằng cách sử dụng vi khuẩn, ánh sáng mặt
trời và quang hợp so với xử lý cơ điện trong ao oxy hóa thông thường. Hơn
nữa, quá trình đồng hóa nitơ bằng tảo có thể làm giảm thêm tấn CO 2 (100–200)
mỗi ML. Do đó, xử lý nước thải dựa trên vi tảo hoặc khi nó được tích hợp vào
các nhà máy xử lý nước thải khác có thể giảm thiểu lượng CO 2 về mặt sinh
học. Phương pháp này kinh tế hơn, tiết kiệm chi phí và thân thiện với môi
trường hơn.
CHƯƠNG IV: THỬ THÁCH VÀ HẠN CHẾ CỦA

PHƯƠNG PHÁP TẢO

1.Những thử thách và hạn chế liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm từ tảo:
1.1 Khó khăn về vấn đề thu hoạch sinh khối tảo:
Thu hoạch sinh khối tảo đã được xác định là một trong những hoạt động
chính, Các yếu tố chính làm phức tạp tảo thu hoạch bao gồm một phần rất nhỏ
(lên tới 0,05%) tảo khô cân toàn bộ huyền phù, kích thước hiển vi của một tế
bào, điện tích bề mặt tế bào âm ngăn cản chúng hình thành các hạt lớn hơn và
dễ thu hoạch cũng như tốc độ tăng trưởng nhanh. hững khía cạnh này làm tăng
đáng kể tổng chi phí của cả hai thu hoạch sinh khối tảo và ứng dụng của nó cho
nước thải sự đối đãi. Người ta ước tính rằng chi phí thu hoạch sinh khối tảo có
thể chiếm tới 30% tổng chi phí sản xuất, trong đó là do mức tiêu thụ năng
lượng cao, tùy thuộc vào phương pháp đã chọn, dao động trong khoảng 0,1 đến
15 kWh m–3. Hơn nữa, có tới 90% tổng chi phí tồn kho là do đến các thiết bị
thu hoạch và khử nước.
Hạn chế: Mặc dù đa dạng kỹ thuật thu hoạch sinh khối tảo đã được phát
triển và đang được sử dụng rộng rãi, mỗi phương pháp đều có ưu điểm và
nhược điểm riêng, khuyến khích nghiên cứu tìm kiếm các giải pháp kinh tế hơn
phương pháp khả thi, phổ quát và đơn giản hơn.

Hình 1: Mô hình thu sinh khối của tảo


1.2.1 Thu hoạch tảo bằng phương pháp lắng :
Một trong những phương pháp thu hoạch sinh khối tảo đơn giản nhất là
Lắng. cung cấp một giải pháp rẻ tiền cho tảo thu hoạch sinh khối. Nó được
thực hiện bằng cách sử dụng lực hấp dẫn, trong đó tảo sinh khối được tách ra
khỏi chất lỏng do sự khác biệt trong mật độ.Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tế bào
tảo và nước mật độ tương đối nhỏ, làm cho quá trình khá chậm. Hơn nữa, tốc
độ lắng bị ảnh hưởng bởi một loạt các tác nhân sinh học và yếu tố phi sinh học.
Tốc độ lắng khác nhau được đề xuất cho các nhóm chức năng tảo khác nhau.
Nhiệt độ nước ảnh hưởng đến độ nhớt của nó, do đó tốc độ lắng của tảo có thể
tăng ở nhiệt độ cao hơn. Ngoài ra, mức độ pH tăng cao thúc đẩyhình thành các
khối tế bào tảo dẫn đến quá trình lắng đọng nhanh hơn.
Hạn chế: Bằng quá trình lắng đọng là một quá trình tương đối chậm, nó
thường kết hợp với kỹ thuật thu hoạch khác hoặc được sửa đổi để nhanh hơn
hiệu suất.

Hình 2: sơ đồ lắng động của nuôi sinh khối tảo

1.2.2 Thu hoạch tảo bằng phương pháp màng lọc:


Lọc là một phương pháp thu hoạch tảo đơn giản và hiệu quả khác giúp
thu hồi tới 90% sinh khối tảo. Có một số loại và thiết kế có sẵn cho các bộ lọc,
nhưng chúng ứng dụng chủ yếu được xác định bởi kích thước tế bào tảo thay
đổi. Ngoài ra, đường kính tế bào tảo tỷ lệ nghịch với chi phí của phương pháp
này. Phương pháp lọc vi mô với mức thấp hơn yêu cầu năng lượng được áp
dụng cho sợi vĩ mô các loài tảo, chẳng hạn như Spirulina. Đối với các loài như
Chlorella và Scenedesmus, đường kính tế bào thay đổi trong khoảng từ 5 µm
đến 20 µm, do đó màng vi lọc được áp dụng cho thu hoạch.
Hạn chế: Tuy nhiên, vi lọc có liên quan đến tốc độ chậm hiệu quả và
không phù hợp với quy mô lớn. vi mô và phương pháp siêu lọc cũng liên quan
đến hiệu suất cao và chi phí bảo trì, do tắc nghẽn màng nhanh chóng cần phải
thường xuyên thay đổi cũng như nhu cầu năng lượng cao do khả năng chịu áp
lực của màng vi lỗ.

Hình 3:sơ đồ thu hoạch bằng màng lọc của tảo

1.2.3 Thu hoạch tảo bằng phương pháp ly tâm


Quá trình ly tâm có thể được xem như là một dẫn xuất của quá trình lắng
đọng, nơi thay vì lực hấp dẫn lực ly tâm là được tuyển dụng. Ly tâm cung cấp
tảo đơn giản và nhanh chóng tách sinh khối khỏi chất lỏng và có hiệu quả đối
với tất cả các loại tảo loài và kích thước tế bào .
Hạn chế: Do có sự đầu tư lớn và chi phí hoạt động, nó trở nên không hiệu
quả về mặt chi phí đối với quy mô lớn hệ thống xử lý nước thải dựa trên tảo
dẫn đến tổng chi phí điều trị tăng gấp bốn lần để trung hòa điện tích bề mặt âm
của tế bào tảo và thúc đẩy sự hình thành các hạt lớn hơn dễ dàng lắng xuống,
chất điện phân và polyme tổng hợp được sử dụng.
Hình 4: sơ đồ quy trình ly tâm thu hoạch tảo

1.2 Khó khăn vấn đề loại bỏ các chất ô nhiễm vi mô:


Cùng với các chất dinh dưỡng và hợp chất hữu cơ, nước thải còn chứa
nhiều loại chất ô nhiễm vi mô thường vượt qua quá trình xử lý nước thải thông
thường và được thải vào các vùng nước tự nhiên. Các chất như ion kim loại
nặng, vi khuẩn gây bệnh cũng như các hợp chất và dư lượng của dược phẩm,
sản phẩm chăm sóc cá nhân, hóa chất gia dụng, thuốc và các chất khác có thể
gây ra tác động xấu đến sự phát triển của sinh vật thủy sinh và sức khỏe con
người. Tuy nhiên, để giảm hàm lượng của chúng, phương pháp xử lý tiên tiến
được sử dụng, tuy nhiên, phương pháp này có liên quan đến nhu cầu năng
lượng cao và chi phí hiệu suất. Mặc dù một số nghiên cứu đã chứng minh khả
năng ứng dụng của tảo để loại bỏ chất ô nhiễm vi mô khỏi nước thải nhưng vẫn
còn tồn tại những hạn chế về kiến thức dựa vào sản xuất sinh khối tảo như một
phương tiện hiệu quả để giảm hàm lượng vi chất ô nhiễm.
1.3.1 loại bỏ kim loại nặng:
Với quá trình công nghiệp hóa ngày càng phát triển, các ion kim loại nặng
đang trở thành chất gây ô nhiễm phổ biến hơn trong nước thải đô thị, do đó làm
tăng tải trọng cho các hệ sinh thái thủy sinh tự nhiên. Không giống như các
chất ô nhiễm hữu cơ, kim loại nặng không thể phân hủy sinh học và có xu
hướng tích tụ trong cơ thể sống. Người ta biết rằng nhiều ion kim loại nặng độc
hại hoặc gây ung thư, gây rối loạn chức năng của cơ thể chứa chúng. Vì vậy,
các ion kim loại nặng như kẽm, đồng, niken, thủy ngân, cadmium, chì và crom
là những mối quan tâm lớn khi xử lý nước thải. Các phương pháp giảm hàm
lượng kim loại nặng trong nước bao gồm kết tủa hóa học, trao đổi ion, hấp phụ,
lọc màng, đông tụ và keo tụ, tuyển nổi và xử lý điện hóa. Tuy nhiên, những
cách tiết kiệm và bền vững hơn để giảm hàm lượng kim loại nặng đang được
tìm kiếm và ứng dụng tảo dường như là một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn.
Khả năng loại bỏ kim loại khỏi nước thải của tảo đã được nghiên cứu rộng rãi.
Được biết, tế bào tảo có khả năng thích nghi với môi trường độc hại và tham
gia hấp thu kim loại nặng. Cả tế bào sống và tế bào chết đều góp phần hấp thụ
kim loại trong nước thải. đã nghiên cứu khả năng của Cladophora fracta trong
việc loại bỏ kim loại khỏi dung dịch gốc và đạt được khả năng loại bỏ 85–99%
Cu, Zn, Cd và Hg. Gao và cộng sự. (2016) đã sử dụng Chlorella Vulgaris để xử
lý nước thải sinh hoạt trong lò phản ứng quang sinh học màng và đã khử hoàn
toàn các ion Fe và Mn, trong khi các ion Cu, Zn và Al lần lượt giảm 65%, 80%
và 93%. nghiên cứu loại bỏ kim loại khỏi nước thải dệt may bằng hệ thống ao
tảo quy mô phòng thí nghiệm trong các điều kiện dòng chảy và ánh sáng khác
nhau. Họ đã giảm được 98% nồng độ crom (Cr) bất kể tốc độ tải và chế độ ánh
sáng, trong khi đối với kẽm (Zn), tỷ lệ loại bỏ cao hơn (80%) ở tốc độ tải cao
dưới ánh sáng liên tục 24 giờ. Đối với các kim loại khác (Pb, Cd và Cu), tỷ lệ
loại bỏ nằm trong khoảng từ 20% đến 30%. Mặc dù hiệu quả rõ ràng của việc
loại bỏ ion kim loại dựa trên tảo khỏi nước thải, vẫn còn mơ hồ về hiệu quả đối
với một số ion kim loại. Các nghiên cứu nêu trên cho thấy sự tương phản đáng
kể về tốc độ loại bỏ giữa các ion kim loại khác nhau ở điều kiện như nhau các
yếu tố chính để loại bỏ ion kim loại không đồng đều vẫn chưa rõ ràng.
Hạn chế: Việc sử dụng sinh khối tảo để giảm ion kim loại trong nước thải
rõ ràng đã hạn chế ứng dụng tiếp theo của nó do tác động tiêu cực của việc tích
lũy ion kim loại trong sinh vật sống.

Hình 5: sơ đồ loại bỏ kim loại nặng bằng tảo


1.3 Khó khăn về vấn đề khí hậu và môi trường sống của tảo:
Việc sử dụng vi tảo và thực vật thủy sinh để xử lý nước thải ở các vĩ độ cao bị
hạn chế bởi mùa thực vật ngắn cũng như nhiệt độ thấp và số giờ ban ngày ngắn
hơn ở các mùa khác ngoài mùa hè. Hơn nữa, nhiệt độ thấp trở thành mối lo
ngại nghiêm trọng nếu việc sử dụng sinh vật ăn lọc được xem xét để thu hoạch
sinh khối tảo. Do hiệu suất dường như kém hiệu quả hơn do nhiệt độ và cải
cách hành chính thấp quyết định, việc sử dụng tảo để loại bỏ chất gây ô nhiễm
khỏi nước thải ở vùng khí hậu lạnh và ôn đới chưa được nghiên cứu rộng
rãi.Hoạt động ở nhiệt độ thấp cũng trở thành một thách thức nếu áp dụng
phương pháp lọc sinh học để thu hoạch sinh khối tảo. Tiềm năng xử lý nước
thải dựa trên tảo thành công ở nhiệt độ thấp được thể hiện trong một nghiên
cứu cho thấy tầm quan trọng của nguồn gốc chủng tảo. Kết quả của họ đã
chứng minh rằng Clamydomonas sp. bị cô lập ở vùng khí hậu lạnh bị mất năng
suất và tốc độ hấp thu chất dinh dưỡng ở nhiệt độ cao hơn môi trường tự nhiên.
Hơn nữa, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở điều kiện khí hậu lạnh, tốc độ loại bỏ
phốt pho bị ảnh hưởng đáng kể bởi cải cách hành chính sẵn có, trong khi vai trò
của nhiệt độ là rất nhỏ. Các nghiên cứu sử dụng vi tảo nêu trên cho thấy tốc độ
tăng trưởng sinh khối giảm ở nhiệt độ thấp hơn. Mặc dù việc giảm chất dinh
dưỡng bằng tảo đã được chứng minh thành công ở nhiệt độ thấp, nhưng rõ ràng
là các cơ sở xử lý ngoài trời không thể được sử dụng trong mùa đông ở nhiệt độ
âm, khi hầu hết các quá trình sinh học dừng lại và không có hoạt động loại bỏ
chất gây ô nhiễm diễn ra.
Có một giải pháp, là có thể sử dụng các nhà máy xử lý nhà kính. Hiệu
suất của phương pháp này đã được nghiên cứu bởi người sử dụng phương pháp
kết hợp bao gồm nhà máy xử lý nước thải thông thường và AAFW để xử lý bổ
sung. Thiết lập này cho thấy nồng độ tổng nitơ, phốt pho và kim loại nặng giảm
lần lượt là 39 %, 28 % và 47–98 %. Ngoài ra, hàm lượng mầm bệnh đã giảm
gần với tiêu chuẩn.
Hạn chế: Tuy nhiên, người ta kết luận rằng chi phí năng lượng ước tính
cần thiết để vận hành một hệ thống như vậy ở vùng khí hậu lạnh không thể
cạnh tranh với việc xử lý nước thải thông thường, trừ khi sinh khối có giá trị
được sản xuất vì lợi nhuận.
2. Các mối quan ngại liên quan đến việc thực hiện các giải pháp dựa trên
tảo:
2.1 Xử lý nước thải phức tạp và tốn kém:
Do nguyên liệu sản xuất và công nghệ sản xuất khác nhau nên nước thải có
các tính chất hóa học khác nhau. Ví dụ, hầu hết sâu trong nước thải nhung lụa ở
dạng chất hữu cơ, nhưng trong phân lợn lại ở dạng NH 4 + -N . Nước thải được
thu thập từ các đơn vị xử lý khác nhau của ngành tơ lụa (tức là nước thải nấu
kén, nước thải quay tơ và nước thải frigon) có các đặc tính hóa học khác nhau .
Hơn nữa, một số hợp chất độc hại như thuốc trừ sâu, thuốc trừ sâu, thuốc kháng
sinh và kim loại độc hại có trong nước thải nông nghiệp . Vì vậy, hầu hết nước
thải cần phải được xử lý trước hoặc pha loãng trước khi xử lý bằng vi tảo, sử
dụng một phần xử lý miễn phí. Các phương pháp xử lý tiền tệ thường được sử
dụng là phân hủy khí cụ, oxy hóa hóa học, lọc, hấp thụ trùng lặp và chiếu tia
UV. Trong tương lai, việc tìm kiếm các phương pháp xử lý đơn giản và hiệu
quả có thể được sử dụng để xử lý trước nước thải với chi phí thấp là rất cấp
thiết.
2.2 Các loại tảo có năng suất thấp
Các loài vi tảo khác nhau có những đặc điểm khác nhau, có giới hạn như
hiệu quả loại bỏ chất dinh dưỡng dưỡng, khả năng chịu đựng các chất độc hại,
khả năng thích nghi và thành phần tế bào . Ví dụ, López-Sánchez và cộng sự.
(2022) đã bốc mùi hôi nồng độ sinh khối tối đa, loại bỏ COD, loại bỏ tổng và
loại bỏ tổng số ảnh khỏi các loài vi tảo khác nhau được nuôi trong nước thải
chăn nuôi ban đầu làm môi trường và chỉ ra rằng Việc lựa chọn một loại tảo có
hiệu suất cao để xử lý nước thải và tài nguyên phục hồi là rất quan trọng. Trong
tương lai, việc lựa chọn các loài tảo có đặc tính tăng trưởng và khả năng loại bỏ
chất dinh dưỡng vượt trội nên được thực hiện bằng các phương pháp khác
nhau, có tính chất như kỹ thuật di truyền, tiến hóa hóa trong phòng thí nghiệm
thích ứng và gây ra biến ngẫu nhiên đột ngột.
2.3 Thiếu cơ sở xử lý phù hợp
Hiện nay, các cơ sở nuôi trồng vi tảo được sử dụng thường xuyên đã được
thay thế trực tiếp vào lĩnh vực xử lý nước thải dựa trên vi tảo. Ví dụ, một số hệ
thống mở, thiết kế như ao ổn định chất thải, lò phản ứng mương và ao nuôi tốc
độ cao phức tạp, đã được áp dụng trong lĩnh vực này vì chúng tương đối rẻ tiền
để xây dựng và xây dựng module mở rộng dễ dàng. Nhưng hệ thống mở ra có
một số nhược điểm chính, nghĩ hạn chế như sử dụng nhẹ sáng tiết kiệm, thất
thoát do bay hơi, phân tán CO2 vào khí quyển, ô nhiễm nhiễm bởi động vật ăn
thịt, sinh vật dị dưỡng và yêu cầu diện vẽ mặt đất rộng hơn. Để giải quyết
những nhược điểm trên, các nhà nghiên cứu đã phát triển nhiều lò Phản ứng
quang sinh học kín khác nhau để xử lý nước thải bằng tảo, cạn như cột thẳng
đứng, hình ống, tấm phòng, ngủ và lò phản ứng quang sinh học dựa trên ngủ
sinh học . Tuy nhiên, chi phí lắp đặt và bảo trì của các cơ sở này cao hơn nhiều
nên với các cơ sở mở, cho thấy đây cũng không phải là cơ sở phù hợp để quản
lý nước thải. Đọc trong cuộc thảo luận ở trên, các cơ sở xử lý tại phòng tiết
kiệm, hiệu quả và thiết bị thực tế chưa được thiết kế và xây dựng để xử lý nước
thải dựa trên vi tảo, được cho là cần chú ý nhiều hơn đến lĩnh vực lĩnh vực này
trong tương lai.
2.4 bản chế độ giới hạn ứng dụng sinh khối
Người ta biết rằng vi rất giàu axit béo, protein, carbohydrate, lipid và các
chất dinh dưỡng khác nhau (ví dụ: vitamin, chất diệp lục và carotenoids) . Ngày
nay, vi tảo đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau, nghĩ
hạn như công nghiệp thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, Dược phẩm và mỹ phẩm,
khi chúng được nuôi trong nước máy, nước giếng và nước sạch khác. Các
nghiên cứu về vi tốc độ ăn chăn nuôi và thực phẩm cho con người đã bắt đầu từ
đầu những năm 1950 . Trong những thập kỷ qua, sinh khối vi tảo ở dạng viên
nang, bột và viên nén đã xuất hiện trên thị trường chủ yếu dưới dạng sản phẩm
thực phẩm tốt cho sức khỏe. Năm 2018, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Liên Hợp Quốc (FAO) đã đăng ký trồng 87,0 tấn vi tảo ở 11 quốc gia, trong đó
chỉ có 86,6 tấn từ Trung Quốc. Tuy nhiên, sinh khối tảo không thể phù hợp để
sản xuất một số sản phẩm điển hình (như thực phẩm, công thức ăn chăn nuôi,
phân bón sinh học) khi vi tảo phát triển trong nước thải làm hàm lượng kim
loại nặng, chất ô và mầm bệnh vượt quá mức cho phép. Như đã báo cáo trước
đây, cadmium trong sinh khối vi tảo cao hơn ngưỡng định nghĩa của Châu Âu
đối với các sản phẩm phân bón và ba chất gây ô nhiễm kháng lo (axit
hydrocinnamic, caffeine và bisphenol A) đã được phát hiện trong khối sinh học
được sử dụng làm phân tích sinh học. Mặc dù vi tảo có thể loại bỏ vi khuẩn gây
bệnh từ nước thải một cách hiệu quả , Escherichia coli với số lượng 400 CFU
đã được tìm thấy trong 1 g sinh khối tảo . Theo thảo luận ở trên, kịch bản ứng
dụng sinh khối tảo thu được từ các hệ thống dựa trên vi tảo để xử lý nước thải
và thu hồi tài nguyên ở chế độ hạn chế. Do đó, ngày càng có nhiều ứng dụng
chế độ (ví dụ: tinh chế sinh học bằng tảo) cần được nghiên cứu ở tương lai.

CHƯƠNG V: KẾT LUẬN

Việc sử dụng tảo trong xử lý và kiểm soát chất ô nhiễm đã và đang phát
triển vì là phương pháp xử lý với chi phí thấp để loại bỏ các chất hữu cơ, chất
dinh dưỡng (P, N) và mầm bệnh, giúp sản sinh ra nguồn oxy dồi dào giúp các
vi khuẩn ưa khí sử dụng, tối ưu hấp thụ các chất dinh dưỡng hiệu quả và cung
cấp oxy trong quá trình quang hợp cho VSV, bùn trong HTXLNT bằng tảo tạo
ra sinh khối và năng lượng lớn, có thể dùng làm phân bón, ít sử dụng hóa chất,
quy trình xử lý đơn giản, tạo ra bùn ở mức độ thấp, Xử lý nước thải bằng tảo
giúp giải phóng nguồn CO2, không phát sinh mùi hôi. Vì vậy việc sử dụng tảo
trong xử lý và kiểm soát chất ô nhiễm cần được phổ biến rộng rãi và làm cho
môi trường nước ở nước ta trong trong sạch hơn!
https://www.ecobaent.vn/dung-tao-de-xu-ly-o-nhiem-moi-truong-nuoc/

TÀI LIỆU THAM KHẢO


David Kwame Amenorfenyo, Xianghu Huang, Yulei Zhang, Qitao Zeng, Ning
Zhang, Jiajia Ren and Qiang Huang. (2019, May 30). Microalgae Brewery
Wastewater Treatment: Potentials, Benefits and the Challenges. International
Journal of Environmental Research and Public Health, 1910.
Lavrinovičs, A., & Tālis, T. (2017). Review on Challenges and Limitations for
Algae-Based Wastewater Treatment. Construction Science of Riga Technical
University, 17-25.
Li L, Gao K, Yang M, Zheng Q, Zhang M và Deng X. (2023, June 5).
Challenges and potential solutions of microalgae-based systems for wastewater
treatment and resource recovery. Frontiers in Bioengineering and
Biotechnology, . 11:1210228.
N. Abdel-Raouf, A.A. Al-Homaidan, I.B.M. Ibraheem (2012, May 3).
Microalgae and wastewater treatment. Saudi Journal of Biological Sciences,
257-275.
Geetanjali Yadava, Sabarathinam Shanmugam, Ramachandran
Sivaramakrishnand, Deepak Kumare, Thangavel Mathimanif, Kathirvel
Brindhadevig, Arivalagan Pugazhendhih, Karthik Rajendrani. (2020, August
24). Mechanism and challenges behind algae as a wastewater treatment choice
for bioenergy production and beyond. Fuel, 119093.

You might also like