You are on page 1of 34

VỢ NHẶT

Kim Lân

Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh
thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc
nào để đánh giá nó nữa, nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”.
Quả thật, một tác phẩm hay luôn biết cách đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới –
địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những khát khao. Viết “Vợ nhặt”,
Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người cùng khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng.

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1. Tác giả Kim Lân

Kim Lân (1920 – 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài. Quê ở làng Phù Lưu, xã
Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ
được học hết bậc Tiểu học rồi đi làm. Nhà văn Kim Lân bắt đầu sáng tác từ năm
1941, đến năm 1944 ông tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Kim Lân hoạt động văn
nghệ liên tục để phục vụ cách mạng và kháng chiến với các vai trò: viết văn, làm báo
hay diễn kịch, đóng phim.

Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật quen thuộc
trong sáng tác Kim Lân là khung cảnh làng quê với người dân cày Việt Nam hay
những thú chơi dân dã đồng quê như: chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi núi non
bộ,... mà ông gọi là thú"phong lưu đồng ruộng". Có lẽ vì vậy sinh thời tác giả của “Bỉ
vỏ” từng phán về đồng nghiệp của mình rằng: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về
với đất với người với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn.”

Nhà cầm bút viết vô cùng chân thực và xúc động về đời sống người dân quê
mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ. Văn nhân cho rằng: họ là những con
người chịu nhiều thiệt thòi. Nên ông muốn viết về họ để đòi cho họ quyền tự do và
những quyền sống chính đáng. Từ tình cảm yêu mến này mà người nông dân trong
các tác phẩm của ông dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn không đánh mất đi bản
chất tốt đẹp của mình, vẫn thật thà, chất phác, vấn thông minh, hóm hỉnh và đặc biệt
vẫn luôn hưởng về sự sống, hướng về tương lai.

Trên văn đàn Việt, người ta công nhận ông là mẫu nhà văn “quý hồ tinh bất
quý hồ đa”. Bởi Kim Lân sáng tác không nhiều. Ông quan niệm: “Viết được cái gì thì
hãy viết, không viết được thì thôi, không nên gượng ép, kẻo khi đọc lại sẽ thấy xấu
hổ”. Tuy vậy sự tài hoa và phong cách khó trộn lẫn của ông thì để lại dấu ấn khó
phai. Sự nghiêm túc và cẩn trọng trong nghiệp viết đã giúp ông ra mắt với công
chúng hai tập truyện ngắn xuất sắc là:" Nên vợ nên chồng"(1955) và "Con chó xấu
xí"(1962).

Vì vậy khi nhìn lên bầu trời văn học, người ta không thể không thấy ánh sáng
tỏa ra từ ngôi sao Kim Lân. Một vị trí mà nhà phê bình Trần Ninh Hồ đã nói thật xúc
động: “Tuy tầm vóc, vị trí mỗi nhà văn một khác nhưng Kim Lân cũng là một nhà
văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó mà diễn đạt
thành lời...Mỗi lần mở những trang viết ít ỏi ấy ta lại cảm thấy không một bước
ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà
Kim Lân không đả động tới dẫu chỉ bằng sự chạm trổ hết sức khiêm tốn: truyện
ngắn.”

2. Tác phẩm

a. Vị trí

“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Mượn ý của một nhà
phê bình văn chương về chuyện điểm lại bốn tác phẩm văn xuôi xếp vào loại gần
như "thần bút" thì hai trong số đó có truyện ngắn "Làng" và "Vợ nhặt" là của Kim
Lân. Mà giữa hai truyện ấy thì "Vợ nhặt" có phần xuất sắc hơn "Làng" (theo dư luận
của nhiều bạn văn do chính Kim Lân phản ánh).

b. Hoàn cảnh sáng tác

" Vợ nhặt" viết năm 1955, in trong tập truyện ngắn " Con chó xấu xí" (1962).
Truyện được khơi nguồn cảm xúc từ nạn đói đã gây ra cái chết của hơn hai triệu
đồng dưới bàn tay tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật.

Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” viết ngay sau
Cách mạng tháng Tám. Nhưng do thất lạc bản thảo, tới năm 1954, Kim Lân dựa vào
một phần cốt truyện cũ để viết “Vợ nhặt”. Tác phẩm vì thế không chỉ là kết quả của
quá trình suy ngẫm, gọt giũa cả về nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng
lạc quan của thời đại mới.

c. Bối cảnh của câu chuyện

Bối cảnh của tác phẩm là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân
Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945), làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói: Có
làng chết gần hết; có nhà chết chẳng còn ai; nhiều người chết lả trên đường đi, chết
gục bên gốc cây, chết lăn nơi ngòi rãnh, hè nhà, quán chợ…Nhiều gia đình, nhiều
người phải ăn cháo cám, rau má, củ chuối cầm hơi…mà vẫn không thoát chết.

Năm 1940 Nhật xâm chiếm Đông Dương bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay.
Bọn thực dân sau khi thua ở Đông Dương thì ra sức bóc lột nhân dân để chuẩn bị
cho cuộc chiến tranh mới bọn địa chủ cường hào ở nông thôn ngày càng ức hiếp dân
lành. Mất mùa vì hạn hán, lũ lụt xảy ra thường. Bởi thế đến xuân Ất Dậu năm 1945
nạn đói chưa từng có trong lịch sử đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta. Những
cảnh chết đường chết chợ, tha phương cầu thực diễn ra hết sức thê lương. Trong
hoàn cảnh đó con người biết chia sẻ cho nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử đầy hào
hiệp.

Mặt trận Việt Minh đã vùng dậy tổ chức nhân dân phá kho thóc Nhật cứu
giúp người nghèo và tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám. Sự kiện bi thảm
này đã được miêu tả trong các bài thơ nổi tiếng Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc (Văn
Cao), Xuân đến và Đói! Đói! (Tố Hữu); trong các tác phẩm Địa ngục (Nguyên Hồng),
Mười năm (Tô Hoại), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi)… Trong những tác phẩm viết về nạn
đói năm 1945, Vợ nhặt là tác phẩm có giá trị đặc biệt. Hiện thực về nạn đói thê thảm
ấy hắt bóng đen lên từng trang viết, ám ảnh tâm trí người đọc từ đầu đến cuối tác
phẩm. Đồng thời từng trang viết của tác phẩm cứ lấp lánh sáng lên niềm khát khao
mãnh liệt của người dân lao động nước ta về hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt
của họ đối với sự sống và tương lai, là tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau
của những con người nghèo khổ ngay cả khi mấp mé bên bờ vực của cái chết. Với
nhiều tác giả đi trước và cùng thời cái đói là nguyên nhân chia cắt tình thân, thậm
chí sinh li tử biệt còn Kim Lân lại phát hiện ra cái đói lại là nguyên nhân dồn đẩy
những con người nghèo khổ tìm đến cưu mang nhau, nhặt được nhau và nhặt được
hạnh phúc.

d. Nhan đề

Sau rất nhiều những thăng trầm của sự nghiệp sáng tạo văn chương, các nhà
phê bình đã rút ra nhận xét: “Chỉ ra cái cốt tuỷ của toàn bài, hoặc ở đầu bài,  hoặc ở
giữa bài, hoặc ở cuối bài”. Và trong đó: “đầu đề phải nổi lên trên bề mặt văn bản,
không có nó… không thể xây dựng được mô hình văn bản”. Vì thế nhan đề là một
yếu tố quan trọng của tác phẩm văn chương. Bởi lẽ nhan đề chứa đựng linh hồn của
tác phẩm và chiều sâu tư tưởng của tác giả. Đồng thời yếu tố này giống như một thứ
“chìa khoá nghệ thuật” giúp người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm.
Có rất đa dạng các kiểu đặt nhan đề tùy vào ý tưởng văn chương của mỗi nhà
sáng tạo. Và nhan đề “Vợ nhặt” do Kim Lân đặt vào chính là một kiểu n han đề
nêu tình huống và sắc điệu thẩm mỹ. Ngay từ nhan đề, nhà văn đã gợi lên tình
huống éo le, oái oăm, kích thích trí tò mò của người đọc, gợi những suy ngẫm của
người đọc. Hành động "nhặt" thường gắn với những thứ nhỏ bé hoặc không ra gì.
Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác chứ không ai “nhặt” vợ. Bởi
"vợ" lại là một người cần được nâng niu và trân trọng. Họ có vị trí trung tâm trong
việc xây dựng tổ ấm. Vì thế dựng vợ gả chồng là việc thiêng liêng với mỗi con
người, không thể qua quýt như trò đùa. Người ta hỏi vợ, cưới vợ với sính lễ và theo
phong tục, còn ở đây thật trái khoáy và vô lí khi Tràng "nhặt" được vợ. Song thực ra
nó lại rất có lí. Bởi đúng thực tế, anh cu Tràng trong câu chuyện này đã nhặt được vợ
thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà cũng đã có người chịu theo anh về làm
vợ. Điều này đã khiến một sự việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và
ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại hóa thành thật.

Bản thân nhan đề từ đây tự nó đã gợi ra sự rẻ rúng với giá trị con người.
Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của
người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Nhưng đồng thời tiêu đề ấy cũng
gợi mở trong óc người đọc sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng
tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

e. Chủ đề

Thông qua tác phẩm, nhà văn đã phản ánh và trân trọng những con người
bần cùng, lương thiện. Trong hoàn cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân, phát
xít gây ra, họ đã cưu mang, yêu thương, đùm bọc lấy nhau, nương tựa vào nhau,
dành cho nhau hạnh phúc và không thôi niềm khao khát về mái ấm gia đình, niềm
tin bất diệt vào cuộc sống tương lai. Như Kim Lân từng tâm sự: “Tôi muốn cho độc
giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình
người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng vào tương lai”.

f. Tóm tắt truyện ngắn “Vợ nhặt”

Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi, người chết như ngả
rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là một người xấu xí thô kệch,
ế vợ, sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống với một mẹ già. Một
lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với môt cô gái. Vài ngày sau gặp
lại, Anh không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất
nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau
một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt
được vợ đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ Tràng) đón nhận
người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng
không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ
diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau,
một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét
tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với
cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ
nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau.
Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi cháo cám. Qua lời kể của
người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh
đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp
phới.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT

1. Tình huống truyện

a. Tình huống truyện:

Nhà văn Kim Lân đã tạo ra một tình huống oái oăm, hết sức độc đáo: Tràng- một
anh nông dân ngụ cư nghèo bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm
1945. Việc “nhặt vợ” của Tràng lại diễn ra trong hoàn cảnh không ai dám nghĩ đến
chuyện vợ con cho anh ta: người dân đang chết đói đầy đường.

b. Diễn biến của tình huống: Việc Tràng “nhặt” được vợ đã khiến nhiều người ngạc
nhiên:

- Trước hết là người dân xóm ngụ cư: hết ngạc nhiên đến võ đoán, có cả mừng vui
“những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”, và cuối cùng là ái
ngại “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì
này không?”

- Tiếp đến là sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ: Hết sức ngạc nhiên, khi hiểu ra cơ sự thì
buồn thương cho số kiếp nghèo khổ của con trai, càng thương con trai bao nhiêu thì
bà lại càng thương người con dâu bấy nhiêu, bà an ủi động viên các con về một
tương lai thiết thực.

- Đến bản thân Tràng cũng hết sức ngạc nhiên, không tin nổi vào sự thật là mình đã
có vợ, đến tận hôm sau vẫn còn “ngỡ ngàng như không phải”.
c. Sự tác động của tình huống: Tình huống truyện đã làm thay đổi tính cách, số
phận của nhân vật:

- Nhân vật Tràng: Khi người đàn bà theo mình về thật thì Tràng lo lắng trước cảnh
nạn đói “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”,
nhưng ngay lập tức anh đã “Chậc, kệ!”, và Tràng đã quyết định đưa vợ về trong
niềm hạnh phúc khó tả. Có vợ, Tràng cảm thấy mình mới “nên người”, nhận ra trách
nhiệm của bản thân đối với gia đình và có niềm tin vào tương lai.

- Nhân vật người đàn bà vợ nhặt: Trước khi làm vợ Tràng, chị là người phụ nữ chao
chát, nhưng khi về làm vợ Tràng, chị đã thay đổi, trở thành một người vợ hiền, dâu
đảm đúng mực, biết thu vén công việc gia đình và đặc biệt còn có những hiểu biết về
tình hình xã hội, mang đến cho gia đình câu chuyện tràn đầy niềm tin.

- Nhân vật bà cụ Tứ: là người mẹ đói khổ một đời nhưng giàu lòng nhân hậu, giàu
niềm tin. Trước tình cảnh con trai “nhặt vợ” bà vừa thương vừa buồn tủi, nhưng với
lòng nhân hậu, sự cảm thông bà đã dang rộng vòng tay đón người con dâu mới. Dù
trong lòng nặng trĩu một nỗi lo “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không” nhưng bà cụ đon đả động viên các con bằng cái triết lí dân gian
“ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”, mở ra một tương lai rất thiết thực mà các con có thể tin
vào khả năng của mình đó là vườn tược, nào là gà qué... Bà cụ Tứ đã mang lại cho
gia đình một không khí ấm áp, vui tươi, “Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung
sướng về sau này”.

d. Ý nghĩa của tình huống:

- Tình huống có ý nghĩa phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp và sức sống kì
diệu của con người: ngay trên bờ vực của cái chết họ vẫn hướng về sự sống, khát
khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

- Tình huống còn mang ý nghĩa phát hiện sâu sắc về hiện thực xã hội: gián tiếp tố
cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng khiếp,
không chỉ cướp đi sinh mệnh của hàng triệu người dân Việt nam mà còn hạ thấp giá
trị con người, đó là thân phận con người bị rẻ rúng.

- Thông qua tình huống, nhà văn còn thể hiện sự đồng cảm với những khổ đau trong
cuộc sống của người nông dân, đồng cảm với khát vọng hạnh phúc, khát vọng tổ ấm
gia đình của họ.

e. Giá trị của tình huống


Nhắc đến truyện ngắn, yếu tố quyết định của nó không gì khác ngoài tình
huống truyện. Tình huống truyện đặc sắc bao nhiêu thì tác phẩm càng thành công
và để lại dấu ấn bấy nhiêu. Bởi tình huống truyện là một lát cắt về thời gian, một
khoảnh khắc của câu chuyện mà ở đó nhân vật được bộc lộ tính cách một cách sắc
nét, bởi có ý kiến cho rằng “Nhân vật trong văn chương đôi khi thật hơn con người
thật”. Tình huống truyện còn giúp cho nhà văn tổ chức được mạch truyện và giải
quyết những nút thắt về mâu thuẫn trong truyện. Truyện kể về một gia đình trong
xóm ngụ cư mà lăng kính của nhà văn ở đây tập trung vào anh cu Tràng và mẹ anh
là bà cụ Tứ. Tràng vốn là một gã trai lông bông, xấu xí, dở hơi, thô kệch và ế vợ.
Bỗng một hôm, Tràng nhặt được vợ. Điều đáng nói ở đây là Tràng nhặt được vợ
ngay trong lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
Chính điều này đã gây ra một chuỗi ngạc nhiên và làm xáo trộn thế giới truyện Vợ
nhặt. Tình huống không chỉ tạo ra một hoàn cảnh có vấn đề cho câu truyện mà còn
nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn để gợi mở ra những giá trị nhân đạo và
giá trị hiện thực cho tác phẩm.

Mô tả tình huống truyện đặc sắc và đầy éo le, trước hết Kim Lân muốn tố
cáo tội ác của phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng khiếp này. Kim Lân viết
truyện vào năm 1960 nhưng lại lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, hơn hai triệu đồng
bào Việt Nam chết đói. Người ở Thái Bình, Nam Định lũ lượt kéo nhau chết như ngả
rạ. Nhưng điều đáng nói ở đây, Kim Lân không mô tả việc cái đói làm cho con người
bị hủy diệt, ông lách sâu ngòi bút của mình để mô tả phương diện khác của cái đói ý
chính cái đói đã làm cho giá trị, nhân phẩm con người trở nên thấp kém.

Chưa bao giờ phẩm giá của con người lại bị rẻ rúng như giai đoạn này. Hôn
nhân vốn là một việc hệ trọng, là việc thiêng liêng cả cuộc đời vậy mà người ta có
thể nhặt được vợ như nhặt được cọng rơm, cọng rác ngoài đường. Chưa bao giờ,
phẩm giá của người phụ nữ trở nên mạt hạng thế này, đồng nghĩa với việc người vợ
trong tác phẩm này là một sự đèo bòng, một miệng ăn và là một gánh nặng. Để làm
tăng thêm giá trị tố cáo, Kim Lân đã cực khéo léo khi để cho vợ của Tràng là một
nhân vật không tên, gọi cô ta là thị, “thị” là từ chung để chỉ người phụ nữ. Điều đó
chứng tỏ không phải chỉ mình vợ Tràng bị rẻ rúng, thấp kém, mà là giá trị chung của
tất cả những người phụ nữ trong xã hội. Tất cả những điều ấy đều do bọn phát xít
Nhật gây ra. Vợ nhặt của Kim Lân xứng đáng là một bản cáo trạng đanh thép để kết
tội Phát xít Nhật. Khác với các nhà văn cùng thời khác như Nam Cao, Ngô Tất Tố
lên án bọn thực dân Pháp, Kim Lân đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo
những gì chưa có”, tập trung theo quan niệm của tác giả Nam Cao trong tác phẩm
“Đời thừa”: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, chỉ biết làm theo
một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có”.

Như một nghịch lý, chuyện Tràng có vợ đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người
trong xóm cụ cư, cho bà cụ Tứ - mẹ Tràng và cho cả chính bản thân anh, người trực
tiếp nhặt được vợ. “…người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn
ra bàn tán…”. Đến khi hiểu ra Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn
nữa. Người thì “Cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta: “Ôi chao! Giời đất
này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không?”.

Nếu để ý ta sẽ thấy, khi Tràng chưa về, cả xóm ngụ cư chìm trong âu lo và
bóng tối, mọi người đều có gương mặt tối om vì đói. Nhưng khi Tràng về thì như có
luồng gió tươi mát thổi vào từng gương mặt người. Họ cố cắt nghĩa xem Tràng đi
với ai, sự ngạc nhiên khiến họ quên đi cái đói. Chi tiết này lại một lần nữa thể hiện
Kim Lân là một nhà văn nhân đạo. Ông đã đưa cho Tràng một chiếc phao tinh thần
để cho cả thế giới này, cả xóm ngụ cư mà “cái đói đã tràn về tự bao giờ” không bị cái
đói cuốn trôi đi đến chìm nghỉm.

Bà cụ Tứ - mẹ anh là người hiểu thằng con mình hơn ai hết lại càng khó tin
Tràng có vợ. Xưa nay, mọi việc trong cái nhà này đều do một tay bà cụ cắt đặt. Bà đã
già lắm rồi, hẳn cũng mong thằng con trai mình có thể yên bề gia thất - đây chính là
nỗi mong mỏi của những người làm cha làm mẹ. Bà cụ mong mỏi nhưng cũng chưa
bao giờ dám nghĩ đến chuyện Tràng lấy vợ. Hôm nay, thấy Tràng ở ngoài ngõ đợi
mẹ, tấm lòng của người mẹ yêu thương con mách bảo bà là đã có chuyện gì bất
thường xảy ra trong nhà này… Vào đến nhà, bà thấy có một người đàn bà lạ đang
ngồi ở đầu giường con trai mình. Đó là chuyện xưa nay chưa từng có.

Người ngạc nhiên cuối cùng trong tình huống này lại là chính Tràng. Nhìn
vợ, ngồi ngay đầu giường mình, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Cho đến tận sáng hôm sau, khi mặt trời đã lên mấy cái sào,
Tràng thức dậy, thấy nhà cửa gọn gàng, tươm tất, anh ta cũng vẫn chưa hết ngạc
nhiên. Bởi hắn chưa bao giờ nghĩ rằng chỉ bằng một câu hò tầm phơ, tầm phào như
vậy mà lại có thể chóng vánh lấy được vợ bằng thật thế này. Tràng cứ ngỡ đó chỉ là
mơ!

Người vợ trong tác phẩm không hề ngạc nhiên, nhưng ở cô gái này lại có sự
dần dần lột xác. Giữa đám đông, cô sưng sỉa, chao chát, đánh đá, kể cả ăn xong bốn
bát bánh đúc chẳng chút e dè, cầm đôi đũa quệt ngang miệng rất tự nhiên. Vậy mà
sau khi nghe Tràng lửng lơ nói về “lời hứa hôn” thì những cái đanh đá, chanh chua,
hồn nhiên bỗng biến đổi theo từng bước khi về đến nhà Tràng. Thị đi sau ba bốn
bước, đầu hơi cúi, nón che khuất mặt. Chỉ là thị đang đối diện với chính lòng mình:
chuyện số phận chứ chẳng phải chơi. Không có nước mắt, nhưng thị cứ rón rén, e
thẹn đích như cô dâu vừa bước khỏi nhà mẹ theo chồng. Cho đến khi ngồi trong
mép giường nhà Tràng, tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần, thì ra đến giờ phút
này cô mới nghĩ tới tình cảm của mình. Đây là nơi quyết định cuối cùng cho thân
phận của cô. Bà cụ chưa về, biết ý bà ra sao? Chuyện thành vợ chồng mà như thế
này sao? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái lại trơ trọi, lủi thủi
như thế này sao? Cũng may bà cụ Tứ là một người nhân hậu, bao dung, cùng sự an
ủi, thương cảm, nên cô cũng đã cảm thấy yên lòng.

Bên cạnh giá trị tố cáo, Vợ Nhặt của Kim Lân còn tập trung vào để ngợi ca
sự sống của con người. Câu chuyện viết về nạn đói năm 1945, khi con người ta chỉ
biết sống vì chính mình, ai lại sống cho người khác, có ai tự dưng lại nghĩ đến
chuyện dựng vợ gả chồng? Người ta chỉ dựng vợ gả chồng trong lúc “ăn nên làm
nổi”. Cái chết bủa vây, Tràng vẫn đưa vợ về xóm ngụ cư. Thông qua câu truyện nhà
văn muốn mang đến thông điệp: Sự sống là tích cực và cuộc sống không bao giờ là
chán nản. Vợ nhặt ra đời trong những năm nạn đói nhưng người đọc vẫn thấy ở đó
là niềm tin phơi phới, là sự lạc quan, yêu đời của những con người dám bước qua
tăm tối với lòng ham sống. Điều đó được thể hiện ở hành động theo không Tràng về
làm vợ của thị. Kề cái chết, người đàn bà ấy không hề buông xuôi sự sống. Trái lại,
Thị vẫn vượt lên trên cái ảm đạm, cái tăm tối để mong muốn được xây dựng hạnh
phúc. Tinh thần lạc quan với niềm khao khát được sống và hạnh phúc chính là nét
vẽ đẹp nhất trong tâm hồn người vợ nhặt, được sống giữa thảm cảnh của cái đói cái
chết, được hạnh phúc giữa biết bao tang tóc đau thương do nạn đói năm Ất Dậu ấy.
“Khoảnh khắc” ấy chính là một tình huống rất bất ngờ, bất ngờ với cả độc giả và bất
ngờ cả với chính cu Tràng. Đó là một hành động liều mình của Thị, nhưng xuất phát
cũng bởi sự xô dạt của số phận, dồn ép của cái đói chứ không hề là bản chất của
người phụ nữ ấy. Cái nghèo cái đói khiến Thị đã quên mất đi cái thể diện của một
người con gái: “ngồi sà xuống, ăn thật”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc
liền chẳng hề chuyện trò gì”.

Nhà văn Kim Lân đã kể cho chúng ta nghe về thân phận của một kiếp người
vì đói mà chấp nhận theo không người đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với một câu nói
đùa: “Này, nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về.” Thị bám
vào một câu nói đùa tầm phơ tầm phào để mong tìm thấy một chốn nương thân, với
một hi vọng chạy trốn cái đói, làm “vợ nhặt” theo kiểu cho không. Thị đánh liều trao
thân gửi phận cho một người đàn ông xa lạ mà không biết bến nào trong, bến nào
đục, không biết cuộc đời sẽ hạnh phúc hay vẫn nghèo nàn và cơ cực. Đó là hành
động liều lĩnh nhưng lại không hề toan tính, nó có thể xuất phát từ cái nghèo cái đói,
nhưng nhất định không phải là cái ác và cái xấu.

Những hành động của Thị đều thể hiện chân thực những nét diễn biến tự
nhiên của một con người hoàn toàn ý thức. Có cái nhục nhã và xấu hổ khi phải lăn
sà vào miếng ăn, khi không thể chế ngự được sự giày vò của cái dạ dày đói khát, cái
khát vọng có được một bữa no lại trỗi dậy như bản năng, như một nét tâm lí quá đỗi
bình thường của con người. Giá trị và nhân cách của một con người có lẽ chưa bao
giờ rẻ rúng và thê thảm đến thế. Nhưng người phụ nữ ấy chao chát, chỏng lỏn là
thế, nhưng không hề lẳng lơ và trơ trẽn mà tất cả những hành động và lời nói chỉ
càng làm tô đậm thêm những vẻ đẹp, những thanh âm trong trẻo trong lòng Thị
giữa biết bao ngổn ngang và ngặt nghẽo của cuộc đời.

Để câu truyện trở nên hấp dẫn bạn đọc hơn, Kim Lân còn mô tả tình huống
truyện trong sự giao tranh lấn át giữa ánh sáng và bóng tối. Ban đầu trùm lên xóm
ngụ cư là không khí u ám, chết chóc, âu lo, nhưng đôi trai gái đi đến đâu thì ở đó
bừng lên ánh sáng. Không chỉ hiện về ở những con người trong xóm ngụ cư. Ánh
sáng còn hiện về trong túp lều nhà bà cụ Tứ. Khi đưa vợ về đến nhà, Tràng nhấc
cành dong lên để giới thiệu về gia cảnh. Hiện ra trước mắt cô gái bấy giờ là một túp
lều lụp xụp ở góc vườn. Căn nhà tăm tối quá, cỏ dại mọc đến tận cửa nhà, đám mùn
cưa trong bãi thì vương vãi bẩn thỉu, cái ang nước ngoài vườn thì khô cong, bước
chân vào trong nhà thì đầy những sống áo luộm thuộm. Ta có cảm giác như biết bao
gia đình khác trong xóm ngụ cư này, cái chết đã bò vào tận cửa.

Sau một đêm trăn trở, thì dường như đã có sự giao tranh mãnh liệt giữa ánh
sáng và bóng tối, khi cô gái nhận thức, trăn trở được “thân gái như hạt mưa sa”,
mình đã là dâu con nhà này thì phải có trách nhiệm với gia đình. Cô dậy từ sớm với
bà cụ Tứ và dọn dẹp nhà cửa, đám mùn cưa được quét dọn sạch sẽ vô cùng, cái ang
nước hôm nay thì đầy ăm ắp. Túp lều trở nên sáng sủa, quang quẻ hẳn. Cái chết
được đẩy lùi ra tận ngoài ngõ. Sự sống mới hồi sinh ngay trong gia đình bà cụ Tứ
ngay sáng hôm sau.

Ánh sáng và bóng tối còn được thể hiện ở trong tâm trạng của bà cụ Tứ. Mặt
bà lão tối sầm lại với dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với
tình thương con vô bờ bến. Bà tủi phận, so sánh người ta với mình “người ta thì
dựng vợ gả chồng cho con những lúc ăn nên làm nổi, còn mình thì…” Bà lão chua
chát. Tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà càng tủi phận bấy
nhiêu. Bã đã khóc, những giọt nước mắt của tình thương đã gieo vào lòng người đọc
biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không chỉ bằng tình mẫu
tử mà còn bằng tình thương người, bằng sự đồng cảm giữa những người cùng là
phụ nữ. Tình thương của bà làm cho cuộc hôn nhân ấy không còn là nhặt nhau giữa
đường, giữa chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị của bà “Ừ thôi các con
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” đã làm ấm lòng những số phận
tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn trước kinh nghiệm của
người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên con trai và con
dâu bước qua những ngày đói khổ mà lòng đầy thương xót. Mới đêm qua khuôn
mặt bà cụ bủng beo là thế, vậy mà sáng hôm nay khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên. Bà
nói nói cười cười toàn chuyện vui, toàn chuyện tương lai, bà xăm xắn đi làm mọi
việc cùng con dâu.

- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy có đàn gà cho
mà xem...

Câu nói của bà mở ra một chuỗi những tương lai, bà đang gieo vào lòng đôi
vợ chồng trẻ niềm tin và hi vọng, từ đàn gà mà có tất cả. Đó chính là khát vọng sống
mãnh liệt được bộc lộ trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đó là khát vọng của những
con người nghèo khổ luôn lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống đầy đủ, tốt đẹp hơn.

Ánh sáng và bóng tối còn được thể hiện ở chi tiết hai hào dầu đèn. Ngày cưới
vợ, Tràng mua lấy hai hào dầu đèn. Đêm hôm ấy túp lều nhà bà cụ Tứ được thắp
sáng lên bằng ngọn đèn ấy. Kim Lân nhắc đến ngọn đèn không dưới ba lần. Lần đầu
là khi Tràng quyết mua hai hào dầu đèn, Thị bảo Tràng hoang phí, Tràng đáp lại:

- “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã
rúc vào ngay, hì hì...”

Rõ ràng ở đây, Tràng không còn là một gã lông bông, cạn nghĩ. Việc Tràng
mua hai hào dầu đèn vốn đã là dụng ý nghệ thuật của Kim Lân. Tràng muốn bắt
đầu từ hôm nay cuộc đời mình sẽ bước sang một trang mới, một cuộc sống sáng sủa
hơn. Lần thứ hai xuất hiện là khi bà cụ Tứ vỡ lẽ ra mọi chuyện. Bà rất thương con,
nhất là thương cho nàng dâu mới.

Đỉnh cao của tình thương là bà sợ ngọn đèn sẽ soi tỏ khuôn mặt mình, để bọn
trẻ nhìn thấy những giọt nước mắt, giọt nước mắt của tình mẫu tử, của những người
nghèo biết nương tựa vào nhau. Lần thứ ba ngọn đèn xuất hiện là khi chuẩn bị đi
ngủ, ngọn đèn soi tỏ khuôn mặt thị, nhìn Thị mà Tràng buồn không sao cắt nghĩa
được. Ba lần ngọn đèn xuất hiện đã nhen nhóm lên ngọn lửa sống trong gia đình bà
cụ Tứ, là khát vọng của tất cả thành viên trong gia đình. Ta cũng đã từng bắt gặp
ngọn đèn của khát vọng sống ấy trong hình ảnh cô Mị “xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa
đèn cho thêm sáng” trong “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài. Hơn thế nữa, ngọn đèn
cũng chính là biểu tượng về cả một dân tộc, bởi mỗi gia đình là một tế bào của xã
hội, dân tộc ta đang đứng lên giành lại quyền sống, đang liên kết với nhau để châm
bùng ngọn đuốc của sự đoàn kết để chấm dứt chiến tranh. Đến cuối cùng, ngọn đèn
ấy được Kim Lân hóa thân thành hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở cuối tác phẩm. Với
cách kết truyện ấy, Kim Lân đã để cho nhân vật của mình giác ngộ với lí tưởng cách
mạng. Hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc về Việt
Minh, về Cách mạng Tháng 8 vĩ đại, về sự vùng lên của những người khốn khổ, đập
tan xiềng xích để giành lại cơm áo, giành lại độc lập tự do cho tác phẩm.

Qua tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm sVợ nhặt, nhà văn Kim Lân
đã truyền cho người đọc một tinh thần lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.
Chúng ta không còn phải hứng chịu nạn đói khủng khiếp ấy, nhưng cuộc sống vẫn
có những khó khăn, thử thách, và chỉ khi chúng ta có niềm tin vào bản thân mình,
vào tương lai tốt đẹp thì chúng ta sẽ vượt lên tất cả. Chúng ta hãy cứ luôn khao khát
được sống, được tận hiến hết mình cho cuộc đời này. Bởi, sự sống có thể đứng ngoài
mọi sự hủy diệt, giống như Xuân Diệu đã từng nói rằng: “Đã là sự sống, chẳng bao
giờ chán nản”.

2. Hình tượng nhân vật Tràng

2.1. Lai lịch, ngoại hình

Nếu ví nhân vật của tiểu thuyết là một “thế giới” thì nhân vật của truyện
ngắn chỉ là một “khoảnh khắc”. Vì thế, khi giới thiệu hoàn cảnh hay miêu tả ngoại
hình nhân vật của tác giả truyện ngắn thường chỉ khắc sâu vào chi tiết đắt giá để
xoáy sâu và làm nổi rõ một điều gì đó. Nhà cầm bút Kim Lân cũng đã xây dựng
nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của mình theo cách đó.

a. Lai lịch

Trong tác phẩm này, mẹ con Tràng vì mưu sinh nên phải tha hương cầu thực
nơi đất khách quê người. Cuộc sống của hắn chịu nhiều thiệt thòi khi trong cảnh ngụ
cư. Thứ dẫn xưa kia bị người trong cộng đồng làng xã coi khinh, vì thế mà chẳng
mấy ai thèm nói chuyện với Tràng, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

Cuộc sống chịu thiệt thòi. Để tồn tại, người sống kiếp ngụ cư phải bưng mặt
đi làm thuê, làm mướn cho những người có quyền thế, có tiền của. Và Tràng làm
nghề kéo xe bò thuê cho Liên đoàn Nhật. Một cái nghề bấp bênh, ngắn hạn không ổn
định.

Tràng sống đời “mẹ quá, con côi” cơ cực cùng bà mẹ già. Cả gia tài của họ là
một ngôi nhà vắng teo đứng “rúm ró trên mảnh vườn xung quanh lổn nhổn những
búi cỏ dại”.

Trong nạn đói năm ấy, người đói chết thây chất đầy đường, chẳng còn biết
lấy gì để mà no cái bụng, có được bát cháo cám mà húp thôi đã là một ân huệ rất lớn.
Gia đình Tràng cũng chẳng ngoại lệ, cuộc sống bấp bênh khi tương lai của mình còn
lo chưa xong, ở nhà “gạo chỉ đếm bằng hạt”.

b. Ngoại hình

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã từng nhận xét sở trường của nhà văn
Kim Lân trong tạo dựng nhân vật rằng: “Kim Lân là nhà văn của lớp người đầu thừa
đuôi thẹo”. Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của ông là một chân dung như thế. Y
không phải là một kì công của tạo hóa, mà được Kim Lân đẽo gọt bằng những nét
khá sơ sài. Một người đàn ông xấu xí, thô kệch và ngờ nghệch, bước đi “ngật
ngưỡng” vào trang văn: “Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tý, gà gà
đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô
kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lý thú, vừa dữ tợn”. Kim
Lân cho người đọc tiếp cận với chân dung Tràng ngay ở những trang đầu của phần
trích giảng với gương mặt “phớn phở” đầy kiêu hãnh, với nụ cười “tủm tỉm” đầy ý
vị, với đôi mắt “lấp lánh” đầy vẻ mãn nguyện trên nền cảnh “tối sầm lại vì đói khát”
của xóm ngụ cư.

Vì thế Tràng đứng trước nguy cơ ế vợ thậm chí có thể không lấy nổi vợ. Nỗi
khổ của Tràng khác với những nhân vật cùng thời, có thể có nhà, còn người thân
nhưng lại gần như không thể có được hạnh phúc. Đây là cách khai thác khác biệt
giữa Kim Lân và Nam Cao. Qua nhân vật Tràng nhà văn cũng muốn nói lên khát
khao của người lao động trong những năm nạn đói.

 Nhà văn Kim Lân đã cố tình tạo những ấn tượng bên ngoài đầu tiên ấy để nhấn
mạnh về bản chất tâm hồn bên trong cái vỏ bọc hình thức, về những diến biến thay
đổi kì diệu trong con người nhân vật này.

2.2. Tính cách

a. Tràng – con người vô tư, nông cạn nhưng nhân hậu, phóng khoáng
Nói Tràng vô tư, nông cạn là bởi y hầu như không biết tính toán, không ý
thức hết hoàn cảnh của mình. Tràng thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là
mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập
vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng,
đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi.
Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè
bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, một trong ba việc được người xưa coi
như là hệ trọng: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó thay”,
người ta phải cân nhắc kĩ càng. Thì Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là
lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, anh hò một câu chơi cho đỡ nhọc.

“Muốn ăm cơm trắng với giò!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”

Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế mà lại có một người đàn bà đang đói bám lấy
đẩy xe cho anh, gọi Tràng là “nhà tôi” và liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, cô ta sầm sập
chạy tới, trách cứ Tràng hẹn mà không xuống, gợi ý để được ăn. Sau câu chuyện
tưởng đùa nhưng hóa thật của Tràng, thị theo Tràng về nhà. Anh chấp nhận đưa thị
về nhà để thành… vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh
chóng như Tràng!

Tuy nhiên Tràng lại là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng.

Việc anh ta chơi đùa với trẻ con là một biểu hiện của trái tim ấy. Người Việt
Nam ta có câu “Yêu trẻ trẻ đến nhà, quý già già để tuổi cho.” Trẻ con yêu thương ai,
người đó là người có tâm hồn trong sáng, giàu lòng nhân ái.

Hoàn toàn trái ngược với vẻ bề ngoài thô kệch xấu xí, nhưng Tràng có một
nhân vật có trái tim ấm áp.

Kim Lân đã phát triển tính cách của Tràng qua hai lần gặp gỡ tầm phơ tầm
phào với cô vợ nhặt. Lần thứ nhất sau câu hò vu vơ, cái liếc mắt cười tít của thị Thị
đã đánh thức ở anh những xúc cảm rất con người rất đáng được trân trọng.

Đến lần thứ hai gặp gỡ là khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì
bất ngờ người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn "Điêu, người thế
mà điêu. Bữa trước hẹn thế mà mất mặt". Bởi đùa nên Tràng quên ngay nhưng thị
thì nhớ như in mà tìm tới ăn vạ. Cái đói tàn phá cả hình hài lẫn nhân cách thị. Cô ả
gầy sọp hẳn đi, quần áo rách như tổ đỉa, ngực gầy lép, trên khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt chỉ còn hai con mắt khiến hắn càng không nhận ra. Thấy người đàn bà đói, rách
rưới, thảm hại, Tràng động lòng thương. Sau vài giây sửng sốt, Tràng nhận ra thị và
gật đầu đãi cô ả ăn. Ai mà ngờ được ẩn sâu trong con người thô kệch ấy lại có một
tấm lòng thương người cao cả đến thế bởi chính Tràng lúc này cũng bị cái đói bủa
vây, cũng thảm hại đáng thương chẳng kém gì người phụ nữ kia. Tấm lòng của “Lá
rách ít đùm lá rách nhiều” ngay lập tức được lộ ra. Anh cu Tràng dường như đang
đứng trên cái toan tính của miếng cơm, manh áo, gạo tiền, hắn dường như quên đi
tất thay những khốn khó, đói nghèo của mình. Và thay vì đánh giá vì một cô gái
chỏng lỏn, cong cớn, đanh đá, anh mời cô gái ăn, thậm chí là ăn rất nhiều: "một chặp
bốn bát bánh đúc". “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, giữa lúc mà con người
ta sắp khô cô vì khát, sắp chết vì đòi thì Tràng đã đến giống như là một tia sáng của
thị. Miếng ăn của hắn phải chăng đã cứu sống cả một con người. Đó chính là tình
thương của một phẩm chất cao cả, một tâm hồn đẹp ẩn bên trong một ngoại hình thô
kệch, xấu xí, một lòng thương người bao la giữa cái đói cái chết đang cận kề. Nó
khác hẳn với sự chòng ghẹo, với lời bông đùa hay là sự lợi dụng. Tràng hiện ra với
tình người ấm áp – một phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam từ ngàn
xưa mà Kim Lân đã dày công kiếm tìm và ca ngợi. Đó là vì sao sau khi đọc xong câu
chuyện này, Trần Đồng Minh đã xúc động thốt lên: "Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái
đòn bẩy để nâng con người lên tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối
nhưng từ trong đó đã loé lên những tia sáng ấm lòng".

b. Tràng – người đàn ông khao khát hạnh phúc gia đình

Trái tim cằn cỗi của Tràng bỗng dưng được tưới mát. Khát vọng hạnh phúc
bây lâu nay khi gặp thị lại trào lên âm ĩ. Lần đầu tiên gặp mặt, khi được người đàn
bà đẩy xe bò hộ và cười tít mắt sau lời bông đùa của mình, Tràng đã có những rung
động tahạt lạ. Hắn thấy dường như trái tim mình rung rình, dường như có một
luồng điện xét qua người hắn, và hẳn đã xiết bao hạnh phúc trước cái "cười tít mắt
của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu". Cái
cười của Tràng làm ta nhớ đến khoảnh khắc trào dâng niềm hạnh phúc sau bây lâu
sống dưới vỏ bọc xù xì, trái tim băng giá của Chí Phèo. Ấy là khi hắn được Thị Nở
nấu cháo cho ăn. Bát cháo mà hẳn không cần chửi đổng, dọa nạt hay cướp giật từ ai.
Một sự bố thí nhỏ nhoi của số phận cũng làm cho con người trào dâng niềm hạnh
phúc. Có chăng cái cười tình từ ấy là niềm mơ ước bây lâu của anh con trai. Có sự
thay đổi dường như rất nhẹ nhưng lại thể hiện khát vọng hạnh phúc le lói trong
Tràng.

Lại nhắc đến Chí Phèo. Nếu người ta xúc động với ý vì câu nói ngô nghê
nhưng dầy mong ước: “Giá như thế này mãi thì thích nhỉ”, “Hay là mình sang đây ở
với tớ cho vui”. Thì người ta ngậm ngùi với lời nói tầm phơ tầm pháo nhưng cất
chứa nhiều tâm sự của Tràng: "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi
về". Tràng bảo “nói đùa” bởi hắn biết nào có cô gái nào xem trọng để hắn trong mắt.
Hắn bảo “đùa” để chữa ngượng nếu thị có từ chối chăng. Ấy thế mà nói đùa nhưng
ai ngờ thị lại về thật. Mới đầu hẳn còn lo nghĩ, thấp thoáng trong đầu cái đói và cái
chết “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo
bòng". Trong thời điểm đói kém nuôi một miệng ăn thôi đã khó khăn rồi mà giờ
Tràng còn có thêm một gánh lo nữa. Sao hắn không sợ hãi được. Bởi hiện thực quá
khắc nghiệt mà không một lí trí nào đủ mạnh mẽ để làm chối cãi. Nhưng có lẽ khát
vọng hạnh phúc trong Tràng quá lớn. Nó mạnh mẽ đến độ nào mà giúp anh chiến
thắng cả nỗi sợ hãi. Tràng quên ý nghĩ thấp thoáng trong đầu, tặc lưỡi "Chậc kệ!".

Tiếng tặc lưỡi ấy là sự cưu mang, một tấm lòng nhân hậu không thể chối từ.
Và đặc biệt là một khát khao hạnh phúc lớn lao. Nói tới chữ " kệ” người ta thường
nghĩ về thái độ vô trách nhiệm. Và vì lẽ đó họ bảo Tràng không biết có nuôi nổi
không mà lại đồng ý đưa thị về là một sự liều lĩnh. Nhưng nếu tìm sâu vào con
người Tràng, chữ “kệ” ấy là cả một bầu trời tình người, thấm đẫm lòng nhân hậu
của anh trong trường hợp éo le này. Nó khẳng định cái bản tính dũng cảm, dám vì
hạnh phúc ở Tràng. Bởi hắn hoàn toàn có thể từ chối bởi nhiều lí do nhà nghèo, mẹ
không đồng ý, tôi chỉ nói đùa, tôi chưa có ý định lấy vợ vào lúc này… Nhưng Tràng
không làm vậy, không phải vì liều, mà vì anh cảm nhận được sự khát khao đến cháy
bỏng một tổ ấm gia đình từ cả hắn và người đàn bà lam lũ kia, vì anh không nỡ đẩy
người đàn bà không có chỗ bấu víu đang muốn dựa vào anh, vì anh được trưởng
thành từ một dân tộc có truyền thống “lá lành đùm lá rách” … Chỉ hai từ “chậc, kệ!”
thôi nhưng là một kết hợp nghệ thuật tuyệt vời giữa sự chân chất, mộc mạc với khao
khát sống, hạnh phúc của anh nông dân ít học, giữa tài viết truyện hóm hỉnh với tấm
lòng đôn hậu của nhà văn ; tất cả đã làm nên tình người cao đẹp. Tràng và người
đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa
sự sống. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ
dựa. Một người vì khát khao hạnh phúc gia đình, người kia vì miếng ăn. Họ làm ta
khâm phục và kính trọng bởi dám bước qua ranh giới mong manh của sự sống và
cái chết. Họ có một nghị lực thật phi thường. Đó phải chăng là niềm tin của Kim Lân
về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt
vong của nạn đói? Ở đời phải chăng không hề có con đường cùng như Nguyễn Khải
nói. Chỉ cần khát khao mọi thứ đều có thể.

Và khát khao ấy giờ đã thành hiện thực. Hạnh phúc đã biến Tràng trở thành
một con người hoàn toàn khác. Trên đường về, khác với anh Tràng hôm qua buồn
bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi, hôm nay Tràng đột nhiên "phớn phở khác thường”.
“Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh”. Tình yêu
giống như một thần dược, một thứ ánh sáng diệu kì có thể làm thay đổi cả một con
người. TRàng không chỉ không còn vẻ u ám của ngày tối tăm mà mang trong mình
những cảm xúc thật khác. Có cái gì đó ngượng ngụng nhưng hân hoan, không kiềm
chế được của trái tim anh. Hắn lúc thì “đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí,
hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường
ngượng”. Kim Lân đã thật tinh tế khi cho người đọc thấy rõ sự thay đổi về tâm lí của
Tràng. Trong lòng hắn giờ tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến "Trong một
lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái
đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng
hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ,
lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da
thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng". Nó khiến Tràng “êm ái,
lửng lơ” như đi ra từ trong mơ trong buổi sáng hôm sau. Thật là đúng rồi, tình yêu,
hạnh phúc gia đình luôn đủ sức mạnh khiến con người ta thay đổi, khiến ta nhớ đến
những vần thơ đậm chất lãng mạn của thi sĩ Xuân Diệu:

"Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi"

c. Tràng là một người chồng tâm lí

Không phải vì vợ nhặt mà Tràng coi thường, không trân trọng mà ngược lại,
hắn rất nghiêm túc với hành động của mình. Tràng mở rộng lòng yêu thương, nâng
niu với thị và trân trọng chút hạnh phúc lớn lao bỗng nhiên có được. Hắn quan tâm
tới từng cử chỉ, điệu bô và sắc thái trên khuôn mặt của thị.

Đầu tiên hắn làm một việc rất nhân văn. Một việc làm mà dường như để lấp
đẩy tủi hộ của phận theo không, một việc làm để bù đắp cho những sính lễ chẳng có
được giữa những ngày đói kém. Sau khi thành vợ chồng với thị, Tràng dẫn thị ra
ngoài chợ tỉnh đánh chén một bữa, mua thúng con, hai hào dầu đèn về thắp và một
ít kim chỉ. “Thúng con” là biểu tượng cho sự nữ tính, khéo léo, đảm đang, Tràng
mua cho Thị cái thúng bởi anh coi trọng, trân trọng thị, người phụ nữ anh lấy làm vợ
không phải chỉ đơn thuần là một người qua đường. Gia cảnh éo le, nhưng lại là một
nhân vật có suy nghĩ chín chắn, hành động đúng đắn. Anh còn mua 2 hào dầu để
thắp sáng, để cho đêm tân hôn sáng sủa một tí, để cuộc sống sau này có thị rồi sẽ
khá lên chăng. Đó có vẻ như là sự chi tiêu phóng khoáng thậm chí là cố gắng quá
mức của Tràng trong lúc đói khát, thóc cao gạo kém này. Nhưng đó cả là sự chu đáo
của hắn trong một ngày trọng đại.

Khi đưa thị về nhà, hắn quan tâm thị đến từng chút một. Tràng áy náy, bần
thần trước vẻ buồn bã của vợ. Hắn hai lần tự hỏi: “Sao nó buồn thế nhỉ? Sao hôm
nay nó buồn thế nhỉ?”. Có lẽ vì hắn hiểu được những tủi cực trong lòng thị. Hắn
thấy có lỗi vì không thể hoàn thành trách nhiệm của một người chồng với thị. Hắn
lực bất tòng tâm trước hoàn cảnh. Dù chẳng nói ra nhưng chính hành động nhỏ,
cách quan tâm có phần vụng về của hắn đã nói lên tất cả.

d. Tràng là một chàng trai hiếu thảo, có nề nếp suy nghĩ trước sau

Vẫn biết dẫn vợ về đột ngột ra mắt mẹ là một hành động sai với gia cảnh, với
mẹ trong những năm nạn đói, bởi vậy Tràng thấy lo lắng, thấy sợ… Tràng ngóng
mẹ, mong mẹ chia vui vì mình đã có vợ với một khát vọng sống mãnh liệt. Lúc chờ
đợi mẹ về “Tràng nóng ruột, đi đi lại lại”. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng
như thế. Phải chăng hắn đã trưởng thành, đã biết lo lắng? Nhưng vì sao hắn lo cơ
chứ? Có phải vì sợ mẹ không đồng ý và sợ hạnh phúc kia vụt mất chăng?

Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì để được khoe với mẹ, được san
sẻ niềm vui cùng mẹ. Hắn bắt mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện cho trịnh trọng.
Chính hắn cũng ý thức được việc hệ trọng của đời mình. “Chúng tôi phải duyên
phải kiếp với nhau người ta về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Câu nói đầy ngượng nghịu
nhưng đầy trân trọng của chàng trai nghèo trước hạnh phúc bất ngờ.

 Lo lắng của Tràng hoàn toàn có cơ sở, lo cho hạnh phúc mong manh kia có thể bị
mất đi bất cứ lúc nào. Lo cái đói sẽ hủy hoại tất cả, lo sợ mẹ không đồng ý…Tất cả
đều chính đáng bởi hạnh phúc gia đình là khao khát, là mưu cầu của mỗi con người.

Khi được mẹ đồng tình thì Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi. Tràng biết việc
làm của anh không phải với mẹ, chắc chắn sẽ làm cho mẹ buồn, anh là một người
con chí hiếu, biết nghĩ cho mẹ biết nghĩ cho người khác. Khác với người thầy của
mình là Nam Cao để cho nhân vật bị phụ tình, vì nghèo mà mất đi tình yêu đầy
chua xót bởi cái nghèo, Kim Lân đã cho anh cu Tràng có hạnh phúc. Một niềm hạnh
phúc thật thiêng liêng.

c. Tràng – người đàn ông sống có trách nhiệm với gia đình

Buổi sáng hôm sau Tràng hoàn toàn thay đổi. Hắn trở thành một người đàn
ông biết lo lắng và chăm sóc cho cuộc sống gia đình.
Sự thay đổi ấy bắt đầu từ nhận thức. Tràng nhận thấy xung quanh mình có
thứ gì vừa thay đổi, mới mẻ, khác lạ: Nhà cửa, sân bãi được quét tước, thu dọn sạch
sẽ, gọn gàng, quần áo được thu dọn, hai cái ang đã được đổ đầy nước… Tràng cảm
động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng
nhát sàn sạt trên sân. Những cảm nhận về sự thay đổi xung quanh cho thấy Tràng
đâu còn vô tâm, ngờ nghệch nữa. Hắn đã có những quan sát, nhận thức về cuộc
sống, về thế giới xung quanh. Tình yêu phải chăng còn khiến cho anh dần trưởng
thành?

Và rồi một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột
tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của
hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng". Không phải chỉ "có vợ", mà lần này, hắn có hẳn
một "gia đình". "Không có gia đình, người đàn ông trở nên cô độc với toàn thế giới,
run rẩy trong giá lạnh" - câu nói của Andre Maurois  khiến ta hiểu hơn hạnh phúc mà
Tràng đang say đắm trong men say của nó. Và chính vì hai tiếng gia đình ấy hắn
thấy mình yêu thương và gắn bó với cái nhà đang ở hơn. Ngôi nhà hắn đã sống bao
ngày, hôm nay khi nhìn nó qua lăng kính tình yêu Tràng mấy thấy nó thiêng liêng
như vậy “tổ âm che mưa che nắng”. Phải chăng “Tình yêu làm đất lạ hóa quê
hương”. Tình yêu giống như sợi dây kết nối các thành viên trong gia đình. Tình yêu
giúp hắn hiểu nghĩa hai từ gia đình một cách trọn vẹn. Không phải là nơi chỉ còn hai
mẹ con hắn với cuộc sống mưu sinh sáng đến tối không hề gặp mặt. Mà bây nó là
nơi quây quần, nơi nương tựa và là nơi để trở về: “Cái nhà như cái tổ ấm che mưa
che nắng” Trong ngôi nhà ấy sau này sẽ càng ấm áp hơn, ngập tràn tiếng cười khi
“Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy”. Một điều vô cùng quan trọng khi hắn đã
nhận rõ bổn phận và trách nhiệm của mình: hắn sẽ làm trụ cột, làm chỗ dựa và “có
bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Hắn thấy hắn “nên người”, thấy hắn trưởng
thành rồi, thấy hắn cần phải gánh vác trọng trách với gia đình.

Từ ý thức, trách nhiệm dâng cao đã thôi thúc Tràng bắt tay vào hành động:
“hắn xăm xăm chạy ra sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà”. Vậy là Tràng đã trưởng thành, một người đàn ông với vai trò trụ cột gia đình.
Có ý thức, trách nhiệm. Luôn muốn làm tròn bổn phận của mình. Cái dáng vẻ "xăm
xăm" ấy nói lên biết bao trách nhiệm, bao yêu thương hắn dành cho gia đình. Hành
động ấy trước đây đâu phải là hành động thường nhật của hắn nên giờ đây đó là sự
chuyển biến lớn.
 Chính niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu thương, tình mẹ con vợ chồng
hòa thuận đã nhen nhóm trong lòng hắn biết bao ước vọng, khát vọng về hạnh phúc,
bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.

d. Tràng – người nông dân mang khát vọng đổi đời và niềm tin mãnh liệt vào
tương lai phía trước

Sự biến chuyển lớn lao này được thể hiện qua suy nghĩ của Tràng ở cuối
truyện. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là
người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng
trống thúc thuế ngoài đình vang lên dồn dập, Tràng đã “thần mặt ra nghĩ ngợi”, đây
là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh
những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho thóc của Nhật
và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ, trong
óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Tâm trí Tràng lúc này đang
hướng tới một ngày nào đó chính anh sẽ hòa mình vào đám người đang đói, được
giác ngộ đi theo Việt Minh, khát vọng của Tràng, khi cuộc sống vật chất chưa có gì
thay đổi, anh đã hướng tới một tương lai tươi sáng hơn. Đó là lí do tại sao nhân vật
Tràng cùng thời với Lão Hạc, Chí Phèo nhưng lại hướng tới ánh sáng đấu tranh, bởi
ngòi bút của tác giả Kim Lân đã được giác ngộ lý tưởng cách mạng.

 Tràng đã mở đầu cho câu chuyện “Vợ nhặt” bằng những “bước ngật ngưỡng trên
con đường khẳng khiu luồn qua xóm chợ” của những người ngụ cư vào buổi chiều
chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm
mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ
bay phấp phới – hình ảnh xa gần báo hiệu Việt Minh, Cách mạng sắp tới giải phóng
cho những thân phận bế tắc, cùng đường.

3. Hình tượng nhân vật người vợ nhặt

Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân
tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945. Nhân vật vợ
Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng
nhân đạo của tác phẩm Vợ Nhặt.

a. Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo,
cùng đường và liều lĩnh”.

Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống được
qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu khát
vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham sống,
khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã
mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt – nạn nhân của nạn
đói năm 1945.

Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ
nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn
đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng
biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành,
không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn trĩnh.

Không phải là nhà văn không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh
bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân
vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”.
Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên
tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt.

Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la
tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một
câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn.
Chân dung của thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ
gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với
“hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến thị càng
nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người
phụ nữ ấy chở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan
của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.

Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị
“cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến thị quên đi ý
tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để
duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng chẳng
để làm gì.

b. Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người vợ nhặt lại có một lòng ham sống
mãnh liệt.

Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con
gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy
sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ
lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp
đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như
chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ hết.

Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ
sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc, cần
được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của
người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi, thật đáng
thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:

"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!

Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"

(Ca dao)

Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu.
Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến
cho ta nhiều xúc động. Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng,
thành "nàng dâu mới" của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những
tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn
khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình
thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác.

Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về
mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc,
hai hào dầu, một thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê
quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị đã theo
về làm vợ anh Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ dàng, hời
hợt thế ư?

Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ lòng khao khát được sống.
Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn
vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự
sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: "Khi viết về
con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi
muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên
cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự
sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

c. Người vợ nhặt cũng chính là nhân vật được Kim Lân gửi gắm niềm tin vào bản
chất tốt đẹp của con người ngay khi bị đẩy xuống vực sâu của cái đói
Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông
đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn,
cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng
nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa
khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự
trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô
đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu
đấy lại là cái may mắn của thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của
Tràng, ít bữa nữa thôi, thị có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp
này.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của thị. Nhà văn như lọt
vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như
nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu
vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông
xót xa và mến yêu. Ấy là lúc thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo
đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng
thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai
ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.

Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả
những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là thị đã
ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia
đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm
hồn thị niềm lạc quan ấy để thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là
thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng
chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về
tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.

Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, thị lại
là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính,
lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu
thảo, lễ phép với mẹ chồng.

Sáng hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa,
ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy:
bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Dường như
Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi
tuyệt vời ấy “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu,
đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của
tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người Thị.

d. Thị mang đến một làn gió mát lành, một sinh khí mới và những ước vọng về
một tương lai đẹp đẽ cho gia đình nhỏ bé của Tràng

Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng,
mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui
vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ
hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào
cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám”
của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin
mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng.

Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên,
Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc
của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng
giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật
vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.

Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể
thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn
lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng
gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào
cuộc sống. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân
trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo
của nhà văn thể hiện ở đây.

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ
nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân
vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những
chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ
nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác
phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện.
Trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của
mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Tóm lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này,
nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù sống trong
hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao giờ mất đi
niềm tin vào sự sống. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị nhà văn như phanh phui, lột
trần bộ mặt thối nát của bọn thực dân và bọn cường quyền lộng hành, chính vì tội ác
của chúng mà làm thân phận con người chỉ đáng vài bát bánh đúc, chính chúng là
thủ phạm hủy hoại tương lai của biết bao con người. Chính thị là một hình tượng mà
nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người
phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự
sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.

4. Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ

Là nhân vật xuất hiện ở khoảng giữa của tác phẩm, nhưng không vì thế mà
hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ kém phần đặc sắc. Hơn thế, nhân vật này đóng một vai
trò vô cùng quan trọng giúp Kim Lân thể hiện được tư tưởng của mình. Cả ba nhân
vật Tràng, bà cụ Tứ và Thị tạo nên một vòng tròn đồng tâm, vai trò của ba nhân vật
đều quan trọng như nhau trong việc xây dựng truyện ngắn Vợ Nhặt cũng như thể
hiện tư tưởng của nhà văn về nạn đói khủng khiếp năm 1945 và giá trị nhân đạo sâu
sắc. Đặc biệt, bà cụ Tứ là nhân vật được miêu tả khá chi tiết, sinh động từ ngoại hình
dáng vẻ đến cử chỉ, hành động, từ những lời đối thoại đến những dòng nội tâm.

a. Sự xuất hiện

Từ xưa tới nay, bên cạnh đề tài đất nước thì vẻ đẹp của phụ nữ, người mẹ là
một đề tài lớn văn học Việt Nam (Ví dụ: Kiều, chị Dậu, Liên, Người con gái Nam
Xương…). Họ đều là những con người tần tảo, chịu thương chịu khó, mang những
phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nằm trong dòng chảy văn học về đề
tài người mẹ, người nông dân, người phụ nữ ấy, ta bắt gặp hình ảnh bà cụ Tứ trong
Vợ nhặt của Kim Lân - một nhân vật xuất hiện ở khoảng giữa của tác phẩm, cũng
không phải là nhân vật trung tâm nhưng đóng vai trò là nhân tố không thể thiếu,
thực sự là điểm sáng của toàn bộ truyện ngắn.

Sự xuất hiện của bà cụ Tứ là khá muộn trong tác phẩm, chỉ sau khi anh con
trai đưa vợ về ra mắt. Tại sao nhà văn lại để cho sự xuất hiện nhân vật muộn đến
như vậy?

Bà xuất hiện trong một hoàn cảnh thê thảm: Không gian rộng là nạn đói
khủng khiếp, không gian hẹp là một túp lều với mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi cỏ dại, ngôi nhà rách nát. Tràng đang làm việc “tày trời”, dắt một cô vợ về (một
cô vợ không tông tích, xấu xí rách rưới, không tên, theo không…) mà chưa hề có
được sự ưng thuận của bậc làm cha, làm mẹ. Anh dắt vợ về trong tình cảnh vô cùng
nhếch nhác, nhưng từ tình huống của bà, càng éo le bao nhiêu ta lại càng thấy được
tác giả tô đậm vào tình yêu thương bao la của bà nhiều bấy nhiêu. Đồng thời, khi đặt
nhân vật vào sự xuất hiện như thế, tác giả tôn lên những phẩm chất của người mẹ
Việt Nam trong những năm đói kém.

Nhà văn Kim Lân tâm sự: “Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là
đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đấy tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh
và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn
bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo
trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.”

b. Về ngoại hình

Bà cụ Tứ được miêu tả trong tiếng ho húng hắng, dáng người lọng khọng,
vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Đó là những nét khác họa đầu tiên đầy ấn tượng về
ngoại hình, dáng vẻ của một người mẹ nghèo khổ, già nua, còm cõi, luôn trĩu nặng
những toan lo về cuộc sống. Bà được khắc họa với ngoại hình không còn tinh anh,
không còn nhanh nhẹn, hoạt bát. Vì cuộc sống khó khăn đè nặng cuộc đời, thế nên
bà trở nên khắc khổ, nhiều suy tư.

c. Về hoàn cảnh

Hoàn cảnh khó khăn của bà cụ Tứ: chồng mất sớm, con gái mất tích, ở với một
người con trai là Tràng. Bà còn là dân ngụ cư, bị nạn đói và chiến tranh đẩy vào tình
cảnh trôi dạt. Ở nhân vật này, ta thấy được những ẩn ức cuộc sống.

Bà cụ Tứ bị anh con trai đẩy vào tình cảnh vô cùng éo le: Dắt vợ về không xin
phép mẹ, chỉ là thông báo quyết định của bản thân anh, không thể từ chối. Đây là
một tình cảnh trớ trêu, nghiệt ngã và khó xử.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, giữa thời buổi đói
khát đến quay quắt, khi con người đang phải đối diện với cái chết, anh Tràng nghèo
khổ, xấu xí, ngờ nghệch lại tình cờ “nhặt” được vợ. Trong buổi chiều nắng heo hắt,
tối sầm vì đói khát và chết chóc, Tràng đưa cô “vợ nhặt” về nhà. Trước tình huống
éo le ấy, bà cụ Tứ đã có những cách ứng xử khéo léo và cả một dòng chảy suy nghĩ
phức tạp.

Đầu tiên đó chính là sự ngạc nhiên, “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Có
lẽ, sự ngạc nhiên đã được thể hiện một cách chân thực và rõ nét qua hàng loạt câu
hỏi liên tiếp của bà cụ Tứ trong một đoạn văn rất ngắn “Quái, sao lại có người đàn
bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình
thế kia? Sao lại chào mình bằng u?… Ai thế nhỉ?” Những câu hỏi ấy của bà cụ Tứ
không phải để kiếm tìm một câu trả lời mà hơn hết nó dùng để thể hiện sự ngạc
nhiên đến tột cùng của bà cụ Tứ. Sự ngạc nhiên ấy của bà không phải vì bà thực sự
không hiểu chuyện gì đang xảy ra mà bởi tất cả mọi thứ đến quá nhanh, quá đột
ngột, việc Tràng có vợ đối với bà là một điều xa vời với bà nên khiến bà không thể
tin nổi đấy là sự thật.

Khi lần đầu gặp gỡ cô vợ nhặt, đứng từ ngoài nhà mà ngó vào trong, bà
không thể không bất ngờ khi thấy có cô gái đứng đầu giường con trai bà. Hàng loạt
câu hỏi hiện ra trong bà và phải đến khi Tràng thưa chuyện, bà mới vỡ lẽ. Lúc này,
trong lòng người mẹ, bao suy nghĩ ào ạt ập tới. Nhưng rốt cuộc, bà lão cũng chỉ “cúi
đầu nín lặng”. Bà không chỉ vỡ lẽ mà còn “ngậm ngùi”, “hiểu ra bao nhiêu cơ sự”.
Hành động đó của bà là một sự ứng xử khéo léo, độ lượng mà bao dung. Người mẹ
đã tế nhị giữa hai người con, đặc biệt là người dâu mới, gỡ bỏ những éo le, tủi nhục
trước tình huống nên vợ nên chồng đầy sự chắp vá, bấu víu này. Bà cụ Tứ đã hiểu ra
mọi chuyện và dù không nói ra thành lời, bà đã chấp nhận người dâu mới. Đây là
trái tim của một người mẹ nhân hậu, hết lòng yêu thương con và là trí tuệ của một
người từng trải. Trong nội tâm của bà cụ Tứ lúc này, nỗi ai oán, xót thương, nỗi lo
lắng dành cho các con dâng trào. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình
thì…”. Câu nói này đã chất chứa bao nỗi tủi hổ, mặc cảm và oán trách bản thân vì đã
không làm tròn trách nhiệm người mẹ của bà. Bà xót thương cho con trai mình với
biết bao sự thiệt thòi. Đan xen với sự xót xa, oán trách, tủi hổ ấy là nỗi lo dâng đầy
dành cho các con của người mẹ này. “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không?”.

Chữ “lo” ở đây không chỉ gắn với Tràng, con trai bà, mà còn cả người con dâu
nữa. Đây là lần đầu tiên bà nhắc đến người con dâu nhưng bà đã nhân hậu, vị tha,
coi cô cũng như con ruột mình và cũng lo lắng cho cô. Lòng người mẹ đã thật chân
tình nói lên sự yêu thương, xót xa cho số phận ngoặt nghèo của hai con và vừa
mong, vừa lo hai con có đùm bọc nhau, cưu mang nhau được qua “cơn đói khát”
này không.

Bà cụ Tứ - người mẹ tần tảo hết lòng vì con

Khi hiểu ra “cơ sự” rằng con trai mang vợ về, tâm lí và hành động của bà cụ
Tứ thật sự khiến người ta phải chú ý. Tràng thưa chuyện, và bà cụ “vỡ lẽ”. Lúc này,
tất cả những cảm xúc đang chất chứa trong lòng tích lại thành những dòng nước mắt
và “rỉ xuống” qua kẽ mắt “kèm nhèm” của bà cụ Tứ. Đây là biểu hiện của nỗi đau
khổ, tủi phận, là nỗi lo lắng dành cho hai con canh cánh trong lòng. Giọt nước mắt
đã “rỉ xuống” ấy có lẽ còn là sự vui mừng, giọt nước mắt của hạnh phúc khi trong
tình cảnh ngoặt nghèo này, con trai bà vẫn có được vợ. Kim Lân đã rất tinh tế khi
miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Nó chỉ “rỉ xuống” chứ không tuôn rơi vì
dường như cả cuộc đời của người mẹ tảo tần đã trải qua biết bao khổ đau để bà phải
khóc cạn nước mắt của mình. Thế nên, giọt nước nước mắt rỉ xuống lúc này, phải
chăng cũng là cảm xúc lắng đọng của gần một đời người đã qua nơi bà? Chân dung
và số phận của bà còn được khắc họa qua hình ảnh “kẽ mắt kèm nhèm”. Sự vất vả,
khổ cực của bà cụ Tứ có lẽ được thể hiện chân thực và đầy đủ nhất qua chi tiết này,
khi người phụ nữ nông dân ấy trải qua đầy những khổ hạnh của cuộc đời. Phải yêu
thương con đến nhường nào, người mẹ này mới có thể “rỉ xuống” những giọt nước
mắt hiếm hoi của cuộc đời mình? Quả không sai khi nói dòng nước mắt là biểu hiện
của tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu với những đứa con vô điều kiện và là biểu
hiện của một tấm lòng bao dung, vị tha. Bằng bút pháp nửa trực tiếp và hiện thực
tâm lí, kết hợp với giọng văn chậm, đều, ngôn từ giản dị, phù hợp với nhân vật và
đặc biệt là sự tinh tế, sắc sảo để thấu hiếu tâm lí con người, Kim Lân đã phác họa
chân thực và rõ nét hình ảnh bà cụ Tứ: từng suy nghĩ, cử chỉ của bà đều toát lên
dáng vẻ, sự trải đời của bà lão nông dân, dù nghèo khổ nhưng luôn lo lắng, yêu
thương con.

Sau khi nói rằng sẽ chấp nhận chuyện hôn nhân éo le của hai con, bà cụ Tứ đã
an ủi, động viên vợ chồng Tràng. Dù cuộc hôn nhân này dựa trên sự bấu víu, chắp
vá, nhưng bà cụ Tứ vẫn dành sự trân trọng, yêu thương cho người con dâu “nhặt”
được này. Bà nhắc đến chuyện làm mâm cỗ cưới để cúng tổ tiên, ra mắt mọi người.
Người mẹ này mong ước có thể đường đường chính hính xác nhận với mọi người
đây là con dâu của bà, vợ của Tràng. Bà cho người phụ nữ tầm phơ, tầm phào này
một mái ấm, một vị trí trong cuộc đời, và trong cả gia đình nhỏ này nữa. Mong
muốn chân tình này cho thấy người mẹ nghèo thật sâu sắc, tinh tế và vô cùng bao
dung, nhân hậu. Bà chỉ mong sao hai con yêu thương, sống hạnh phúc với nhau.
“Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”.

Thế nhưng, niềm vui chẳng được bao lâu, bà lại bị bủa vây bởi những nỗi lo,
sự mặc cảm về số phận “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Không chỉ là
nỗi lo lắng trong đầu như ở đoạn trên mà lúc này đây, bà đã phải thể hiện nỗi lo, nỗi
xót thương đến đứt ruột và thốt lên “u thương quá”. Bao cảm xúc như được dồn nén
hết trong chữ “thương” để rồi giọt nước mắt của bà lại một lần nữa tuôn rơi. Nhưng
không còn chỉ là “rỉ xuống” nữa mà trở thành “chảy xuống ròng ròng”. Nước mắt cứ
thế chảy ra mà bà không thể kìm nén được. Hình ảnh này đã thể hiện sự xót xa dâng
trào cùng nỗi lo trong lòng người mẹ. Bà không chỉ thương mà còn thấy có lỗi với
con. Thân là mẹ nhưng lại không thể lo nổi cho con một mâm cỗ cưới, một đám cưới
đàng hoàng. Trước chuyện hệ trọng cả cuộc đời của con trai mình, bà đã không thể
làm gì để giúp các con vun vén hạnh phúc. Trong lòng bà ngập tràn niềm hờn tủi.
Không còn là ngôn ngữ nửa trực tiếp mà đoạn văn này được Kim Lân sử dụng ngôn
ngữ kể, tả rất đời thực. Tuy thế, ông vẫn xây dựng được thành công dòng chảy tâm
lý cũng như nét tính cách của nhân vật này. Bà cụ Tứ hiện lên không chỉ với vẻ đẹp
tâm hồn mà con tính cách mộc mạc chân thật của người mẹ.

Giọt nước mắt của bà cụ Tứ:

Có thể nói, thông qua hai chi tiết ta thấy được nổi bật lên tình yêu con vô hạn.
Trước tình cảnh éo le ấy, bà đã rất tế nhị, cố nén đi nỗi xót xa, tủi hờn để gỡ bỏ
những tủi nhục khó nói trong tình huống nên vợ nên chồng của hai con. Nhưng rốt
cuộc, nỗi lo lắng, sự xót thương bị đẩy lên đỉnh điểm và bà phải “rỉ xuống” những
dòng nước mắt. Người mẹ gạt sự tủi hờn ấy và an ủi, động viên vợ chồng Tràng.
Nhưng với sự ai oán, mặc cảm, nỗi lo số phận lại quay lại, đeo bám bà. Giờ đây, bà
không còn nén được nữa và dòng nước mắt “chảy xuống ròng ròng” như một giọt
nước tràn ly. Giọt nước mắt của người mẹ nghèo này chính là hiện thân của tình
mẫu tử thiêng liêng, lòng bao dung, sự hi sinh nhưng cũng là sự bất lực của người
mẹ khi không thể làm trọn trách nhiệm với con.

Thông qua những giọt nước mắt của bà cụ Tứ, Kim Lân còn tố cáo hiện thực
chiến tranh thảm khốc đã đẩy con người đến những tình cảnh thê lương. Bà cụ Tứ là
điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp:
bao dung, vị tha, giàu tình thương yêu và tinh thần lạc quan. Vẻ đẹp của nhân vật
một lần nữa khẳng định chủ đề tư tưởng của tác phẩm: trong cái đói xơ xác, khi con
người chỉ nghĩ đến sự đói khái, cái chết đang đến gần, thì tình yêu thương, sẻ chia,
đùm bọc, niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm hi vọng vào tương lai vẫn luôn
rực cháy.

Qua hai chi tiết nghệ thuật miêu tả giọt nước mắt của bà cụ Tứ, tác giả đã
khéo léo gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình dành cho nhân vật. Qua đó, tư tưởng
nhân đạo sâu sắc, sự đồng cảm, sẻ chia và niềm tin của Kim Lân với nhân vật lại
càng ngời sáng. Bằng ngòi bút hiện thực và trái tim nhân hậu của mình, Kim Lân đã
miêu tả được chân thực và cảm động cuộc đời và số phận của con người Việt Nam
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không đi vào miêu tả chi tiết ngoại hình, tính
cách của bà cụ Tứ, nhưng bằng dòng chảy nội tâm, bằng dáng vẻ cử chỉ, hành động,
ta thấy được hình ảnh bà hiện lên chân thực và sắc nét, mang dáng dấp của người
phụ nữ lao động lớn tuổi với những vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ. Chi tiết giọt
nước mắt đã cho ta thấy sự am hiểu, tinh tường của Kim lân trong nghệ thuật miêu
tả tâm lý nhân vật. Nhà văn đã xây dựng rất thành công tình huống éo le, độc đáo và
những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm.

Tấm lòng người mẹ hiền hay ngọn lửa tình người?

Đồng thời, đằng sau giọt nước mắt của cả niềm vui và nỗi buồn trộn lẫn vào
nhau ấy, bà cụ Tứ mở lòng, vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới với tấm lòng yêu
thương, cảm thông. Bà nói với “nàng dâu mới” bằng cái giọng nhẹ nhàng “Thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Với bà cụ Tứ, cuộc
hôn nhân của Tràng và thị cũng đẹp đẽ, cũng đáng trân trọng như những cuộc hôn
nhân khác bởi lẽ cuộc hôn nhân nào cũng bắt nguồn từ cái duyên, cái phận với nhau.

Dường như, ở đây, bà cụ Tứ không chọn điểm nhìn của người mẹ chồng dành
cho nàng dâu mà bà lựa chọn điểm nhìn của những con người cùng chung cảnh ngộ,
cùng chung số phận để thấu hiểu, để cảm thông. Chính những điều đó đã cho chúng
ta thấy, bà cụ Tứ không chỉ là người yêu thương con, luôn dành cho con tình yêu
thương vô bờ bến mà bà còn có tình người, lòng yêu thương với những người nghèo
khổ.

Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có
vợ thì bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo,
động viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng
cô dâu mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui,
chuyện tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua lấy đôi gà… này ngoảnh đi ngoảnh
lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.

Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng
được đổi khác, bà “cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm
lòng đã đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát
lớn: ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội
nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu
đắng cay, chua xót.

Hình ảnh bà cụ Tứ “xăm xăm trong vườn” vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh
cu Tràng lấy vợ khiến người đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị
thường ngày nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở nên
thông thoáng, nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà cũng đang vun vén và
xây đắp cho hạnh phúc của con mình.

Đặc biệt, tâm trạng bà cụ Tứ đã có nhiều thay đổi, vui vẻ và rạng rỡ hơn trong
buổi sáng hôm sau – “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Giờ đây, niềm hạnh phúc, vui sướng và
phấn khởi của bà cụ Tứ đã hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ, u ám, buồn bã thường
ngày của bà. Đặc biệt, niềm vui sướng, hạnh phúc ấy của bà còn được thể hiện rõ nét
trong bữa cơm sớm.

Mặc dù, bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có “độc một lùm rau chuối
thái rối và một đĩa muối ăn với cháo” nhưng dường như cả nhà đều ăn rất ngon lành
và vui vẻ. Tâm trạng và nụ cười niềm nở của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực
sự đã tràn niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ. Bà còn bảo “Cháo cám đấy.
Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”. Sự vui vẻ của người
mẹ nghèo làm bừng sáng lên không khí tăm tối những ngày qua.

Thêm vào đó, trong bữa cơm sớm, “bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung
sướng về sau này”. Tất cả những điều đấy phải chăng đều xuất phát từ niềm vui,
niềm hạnh phúc không xiết ở trong bà và bà cụ Tứ đã gieo vào lòng con lòng lạc
quan, yêu đời, khát khao sống và niềm tin về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Thực sự chỉ tấm lòng của những người mẹ mới có thể khiến cho con cái yên lòng.
Anh cu Tràng và thị thực sự là những người hạnh phúc, dù đói nghèo vẫn còn dai
dẳng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần
đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù
thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác
giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng
tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà
cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Có thể nói, tâm lí nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả một cách hợp
lí, phù hợp với logic phát triển tâm lí của nhân vật: từ ngạc nhiên, không hiểu tới
hiểu và hiểu ra bao cơ sự. Đồng thời, từ tâm lí nhân vật bà cụ Tứ chứng tỏ Kim Lân
là nhà văn rất am hiểu về tâm lí nhân vật, dường như, ông đã nhập mình vào nhân
vật để cảm nhận và nói hộ những sắc thái tình cảm, những diễn biến tâm lí phức tạp
và đầy suy tư, trăn trở trong sâu thẳm lòng mình của nhân vật.

Tóm lại, bà cụ Tứ tuy xuất hiện ít trong đoạn trích nhưng những gì bà để lại
khiến bản thân chúng ta phải suy ngẫm. Đó là một người phụ nữ giàu lòng thương
yêu và đức hi sinh. Cuộc đời bà như thế nào cũng được nhưng còn con của bà,
chúng phải thay đổi và cuộc sống của chúng sẽ tốt lên. Bà cụ Tứ còn gieo vào những
người con của mình một niềm tin yêu, lạc quan vào cuộc sống và về tương lai sau
này.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi
bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ
Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu
cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị
nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Nhân vật bà cụ Tứ đã giúp nhà văn nói lên chủ đề của tác phẩm. Dù cận kề
cái chết, người lao động Việt Nam vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau, khát khao tổ
ấm gia đình, hướng tới sự sống và tương lai tươi sáng. Qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim
Lân ca ngợi người phụ nữ Việt Nam nói chung, tuy nghèo khổ, thiệt thòi, bất hạnh
nhưng giàu đức hi sinh, giàu tình thương yêu và tinh thần lạc quan.

III. TỔNG KẾT

1. Nội dung

Thông qua tác phẩm, nhà văn đã phản ánh và trân trọng những con người
bần cùng, lương thiện. Trong hoàn cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân, phát
xít gây ra, họ đã cưu mang, yêu thương, đùm bọc lấy nhau, nương tựa vào nhau,
dành cho nhau hạnh phúc và không thôi niềm khao khát hạnh phúc gia đình, niềm
tin bất diệt vào cuộc sống tương lai (không đánh mất niềm tin vào cuộc sống). Như
Kim Lân từng tâm sự: Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì
tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là
có hy vọng vào tương lai.

Tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc, có giá trị nhân đạo cao cả, xứng đáng là
truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Có nhà nghiên cứu văn
học đã xếp Vợ nhặt vào loại gần như “thần bút”.

2. Nghệ thuật

- Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo (nêu tình huống,
khẳng định đây là một tình huống lạ, éo le, khó tin nhưng rất thật, gây ngạc nhiên
cho mọi người.)

Xây dựng tình huống độc đáo như vậy chính là cơ sở để nhà văn khắc hoạ tính cách
nhân vật, phác hoạ được bức tranh hiện thực, nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đề cao
những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, những con người sống bên cạnh cái
đói cái chết, nhưng vẫn hướng tới cuộc sống, hướng tới tương lai, cưu mang nhau
bằng một tình người rất ấm.

- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, cách dẫn dắt giản dị và chặt chẽ. Mở đầu
là bức tranh nạn đói, tiếp đến là hình ảnh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà. Sau đó là
sự hồi tưởng của Tràng về việc nhặt được vợ. Rồi mạch truyện chảy xuôi cho đến
hết.

- Nhà văn trần thuật thông qua đối thoại giữa các nhân vật. Từ đó tạo được những
đoạn đối thoại sinh động (chứng minh bằng đoạn đối thoại giữa Thị và Tràng…)

- Nghệ thuật dựng cảnh hết sức chân thực (cảnh người đàn bà ăn bánh đúc, Tràng
dẫn người vợ về...)

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí hết sức tinh tế.

- Ngôn ngữ mộc mạc giản dị nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể
(Trích lời bà cụ Tứ…)

3. Tâm sự của nhà văn Kim Lân về tác phẩm Vợ nhặt:

- Trong hồi ức của nhà văn, Kim Lân từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời tác phẩm Vợ
Nhặt: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con
người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn
viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người …”.

- Từ những điều mắt thấy tai nghe, Kim Lân cũng cho rằng: “Dịch đói dạo đó thật
khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn.
Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến bờ
vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con ngươì họ sẽ biểu lộ ra.
Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần.”

- Lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 khiến một phần mười dân số Việt Nam chết đói
nhưng Kim Lân không nhằm tái hiện hiện thực đó. Tác giả mượn cảnh đói thê thảm
để làm ngời lên vẻ đẹp khỏe khoắn trong tâm hồn người nông dân lao động Việt
Nam, những con người đôn hậu, giàu lòng vị tha với khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong tâm hồn. Như nhà văn tâm sự: “Tôi được biết nhiều
chuyện qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át
được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một
mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện
mùa màng. Có người giữ nề nếp rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho,
ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngôì giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị
đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn
phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống
nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên một tia
sáng về đạo đức, danh dự.”

- Nhà văn Kim Lân tâm sự “Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn bà
cụ Tứ trở về. Ở đấy tình của người mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp
nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với người đàn bà
cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó chính là bản chất nhân đạo
trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.”

You might also like