You are on page 1of 9

LUYỆN ĐỀ CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ (Nguyễn Tuân)

Đề 1: Có ý kiến cho rằng: “ Nét độc đáo trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù” là vẻ đẹp về tài
năng và khí phách của Huân Cao được cảm nhận qua con mắt và sự đánh giá của quản ngục” .
Anh chị hãy chứng minh điều đó và cho biết dụng ý của Nguyễn Tuân thông qua cách miêu tả
đó.
Dàn bài:
Mở bài: Giới thiệu về Chữ người tử tù và nhân vật Huấn Cao.
Thân bài: Vẻ đẹp của Huấn Cao được soi chiếu dưới cái nhìn của viên quản ngục – người đại
diện cho chính quyền phong kiến xưa, người có vị trí hoàn toàn đối lập với Huấn Cao. Tuy
nhiên, qua cái nhìn của viên quản ngục, người đọc phát hiện ra vẻ đẹp lẫn niềm ngưỡng mộ, tôn
kính mà quản ngục dành cho kẻ tử từ trong đề lao của mình.
– Vẻ đẹp khí phách:
+ Thể hiện qua hành động “rỗ gông” như một sự thách thức lại chính quyền, chế độ nhà tù.
+ Những lời đối đáp đầy khí phách, bản lĩnh của Huấn Cao dành cho quản ngục và viên thơ lại.
+ Thái độ thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống ngon lành.
– Vẻ đẹp tài hoa:
+ Viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng.
+ Chữ viết là nơi thể hiện chất tài hoa, khí phách, thiên lương của Huấn Cao “chữ ông Huấn Cao
vuông lắm…”
– Vẻ đẹp thiên lương:
+ Biết quý trọng nhân cách con người dù người đó ở địa vị hoàn toàn khác mình
+ Chỉ ra con đường hướng thiện, thiên lương cho con người.
Vẻ đẹp của Huấn Cao đã soi chiếu tâm hồn cho con người quản ngục. Hai người gặp nhau, hiểu
nhau bởi cùng có chung cái tâm, ngưỡng mộ cái tài, coi trọng khí phách.
Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp của : Chữ người tử tù” và tài năng của Nguyễn Tuân. Tài
năng thể hiện cái tài, cái tâm của người cầm bút và nâng niu vẻ đẹp của tâm hồn con người.
Bài viết tham khảo:
Chữ người tử tù là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân rút từ tập “Vang bóng
một thời”. Truyện ngắn đã khắc họa được một hình tượng đẹp: hình tượng Huấn Cao. Đặc biệt,
chân dung nhân vật ông Huấn Cao lại luôn được đặt trong sự quan sát, đánh giá của viên quản
ngục. Chính điều này đã làm nên nét đặc sắc của tác phẩm.
Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Lúc đầu, truyện có tên là “Dòng chữ cuối cùng”
kể về những tháng ngày cuối cùng của Huấn Cao trong nhà ngục tỉnh Sơn. Hình tượng nhân vật
này được xây dựng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát – một danh sĩ thế kỉ XIX, nổi tiếng về tài viết
chữ đẹp và khí phách lừng lẫy. Ông từng cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình thời vua
Tự Đức. Ở Cao Bá Quát hội tụ hai phẩm chất: chí sĩ và nghệ sĩ. Nguyễn Tuân đã khai thác triệt
để đặc điểm này khi xây dựng nhân vật, biến nhân vật Huấn Cao trở thành một ẩn dụ nghệ thuật,
bộc lộ ý tưởng của mình: sự trân trọng, tôn thờ cái đẹp như một báu vật thiêng liêng vượt lên trên
cõi đời phàm tục. Ở Huấn Cao có sự kết tụ hài hòa giữa tài năng, khí phách và thiên lương. Cái
đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt đối của nhân vật này, không phải hiện lên trực tiếp qua sự mô tả của tác giả
mà thông qua sự đánh giá, nhận xét và thái độ của một nhân vật khác là quản ngục. Đây là sáng
tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Một mặt nó làm cho nhân vật hiện lên khách quan, tranh được
mọi sự gò ép, áp đặt. Mặt khác, nó cũng có tác dụng như một chiếc đòn bẩy, tôn cái tài, cái đẹp,
cùng những phẩm chất đáng quý của Huấn Cao lên gấp nhiều lần. Và như vậy, người đọc có cảm
giác nhân vật đã trở thành một huyền thoại, sống mãi trong niềm tôn thờ, ngưỡng mộ của người
đời. Điều này cũng phù hợp với quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Cũng như rất nhiều nhân vật khác của Nguyễn Tuân, Huấn Cao hiện lên là người có tài năng
khác thường. Nét tài hoa này trước hết ở tài viết chữ đẹp. Đó là tài viết chữ Hán – thứ chữ tượng
hình – đã được người xưa nâng lên tầm nghệ thuật thư pháp. Việc chơi chữ đã trở thành một thú
vui truyền thống đáng quý của dân tộc. Tuy chưa xuất hiện như tài viết chữ đẹp của Huấn Cao đã
được viên quản ngục và thầy thơ lại nhắc đến với sự ngưỡng mộ. Ông là người viết chữ đẹp “nổi
tiếng cả tỉnh Sơn. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân còn dùng thủ pháp
đòn bẩy để tô đậm chất tài hoa khác thường của Huấn Cao qua việc diễn tả thái độ sùng kính của
quản ngục. Ngay từ khi mới gặp Huấn Cao, thầy quản đã quên đi chức trách của một nhà hành
pháp để khát khao có được chữ ông Huấn treo. Quản ngục sẵn sàng chịu nhục, thậm chí chịu
chết chém để đạt được mong ước bấy lâu. Điều đó có nghĩa, nhân vật này đã đặt chữ ông Huấn –
cái đẹp – lên cao hơn cả danh dự và tính mạng của mình. Thái độ của viên quản ngục tạo ra hai
cái khác thường: tài hoa của Huấn Cao đạt đến mức khác thường và niềm đam mê cái đẹp của
thầy quản cũng đạt tới mức khác thường.
Không chỉ tài hoa nghệ sĩ, Huấn Cao còn có khí phách – đây là nét mới của Huấn Cao so với các
nhân vật khác trong vang bóng một thời. Trước hết, Huấn Cao lớn về tầm vóc tư tưởng. Ông là
người dám từ bỏ công danh để xả thân vì nghĩa lớn, phất cờ dấy binh, chống lại triều đình, trở
thành kẻ đại nghịch. Ở Huấn Cao, con người nghệ sĩ đã có sự kết hợp tuyệt đẹp với con người
nghĩa sĩ. Bởi vậy, khi quản ngục nhận xét về chữ viết của Huấn Cao thì bên cạnh cái tài hoa còn
có cái chí lớn: “Những nét chữ tròn, vuông, tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời
con người”
Bên cạnh tầm vóc tư tưởng, nhân vật này còn lớn lao ở tư thế bất khuất. Huấn Cao bị bắt, bị khép
vào tội đại hình nhưng ông vẫn giữ tư thế đàng hoang, ung dung đến khinh bạc. Để khắc học nét
tính cách này, Nguyễn Tuân đã huy động rất nhiều chi tiết gai góc để phô lộ cái liều, cái “ngông”
của một trang anh hùng giữa ngục thất. Nào là tính ông Huấn vốn “khoảnh, ngoài vài ba người
bạn tri kỉ ông không cho ai chữ bao giờ”; nào là ông Huấn mắng thẳng kẻ đang biệt đãi ông, cầm
giữ sinh mạng ông là quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi
đừng bao giờ đặt chân vao đây nữa…”
Trước cái uy của Huấn Cao, quản ngục không chỉ kính nể mà còn khiếp hãi. Bị Huấn Cao xua
đuổi, kẻ nắt trong tay quyền lực chốn lao từ chỉ khúm núm: “xin lĩnh ý”. Đó cũng là sự khuất
phục của quyền lực trước cái đẹp khiến hình tượng Huấn Cao ngời sáng hơn. Cách tả người anh
hùng của Nguyễn Tuân khác hẳn lối tả người anh hùng trong văn học cổ: tả trang hào kiệt mà
không cần tới “ râu hùm, hàm én, mày ngài” ( Truyện Kiều, Nguyễn Du) hay binh đao nảy lửa.
Trái lại, người anh hùng lại bị đẩy vào thế hổ sa cơ. Đây cũng là chỗ độc đáo trong bút pháp
nghệ thuật của Nguyễn Tuân – tước bỏ những thước đo bên ngoài để miêu tả người anh hùng với
những thước đo mới bên trong. Chất anh hùng của nhân vật được toát lên từ thái độ và con mắt
đánh giá của người khác.
Nếu miêu tả Huấn Cao, Nguyễn Tuân chỉ dùng lại ở tài hoa và khí phách, tức là chỉ dừng lại ở
cái kiêu bạt và gai góc thì người đọc sẽ nể phục nhưng hưa chắc đã yêu quý nhân vật. Bức chân
dung ông Huấn chỉ được hoàn thiện khi nhà văn chấp bút đưa ra vẻ đẹp thứ ba: thiên lương trong
sáng tạo thành thế liên hoàn giữa tài hoa – khí phách – thiên lương. Nhân vật tới lúc này mới trở
thành biểu tượng của sự hoàn thiện, hoàn mỹ, mang đậm cảm hứng lãng mạn và màu sắc lí tưởng
đặc trưng của Nguyễn Tuân. Trong thẳm sâu tâm hồn ông Huấn, cái đẹp gắn với cái thiện, cái
thiện chính là cái đẹp ở phương diện nhân cách. Thế kỉ XX, con người từng tiên đoán và khao
khát đạo đức học trở thành mĩ học của tương lai. Huấn Cao có thể coi là biểu tượng của tiên đoán
ấy. Cái thiên lương lành vững trong lòng ông được thể hiện trước hết ở sự tự ý thức, trân trọng
và giữ gìn cái tài của mình. Ông từng nói : “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền lực mà
ép mình viết câu đối bao giờ”. Không chỉ biết trân trọng cái đẹp của mình, Huấn Cao còn có một
tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, biết quý cái dẹp trong tâm hồn người khác. Khi nhận ra cái thiện
tâm của viên quản ngục, ông Huấn nói một câu đầy a 6n hện: Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm
lòng trong thiên hạ”. Ông Huấn là người không biết sợ tiền bạc, quye62nthe61 và thậm chí cả cái
chết nhưng lại sợ phụ bạc một tấm lòng trong thiên hạ. Chỉ có những nhân cách lớn mới có cái
sợ cao quý như thế. Cảm tấm lòng biết yêu quý cái đẹp của quản ngục, Huấn Cao đã không ngần
ngại tặng chữ. Vậy nên mới có cảnh cho chữ trong tù mà tác giả gọi là “cảnh thượng xưa nay
chưa từng có”.
Ở cảnh cho chữ này, vẻ đẹp của Huấn Cao được khắc họa nổi bất nhất, toàn diện nhất , sinh động
nhất. Cảnh cho chữ diễn ra trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Không phải nơi thảo đường hay
một chốn thư phòng với hương trầm thơm ngát mà là một phòng giam chật hẹp, ẩm ướt, hôi
hám. Nổi bật trên cái nền ấy là hình ảnh Huấn Cao với thư thế thật đẹp: một người tù, cổ đeo
gông , chân vướng xiềng, đang tô đậm nét chữ trên tấm lụa trắng tinh. Không gian như ngừng
trôi và thời gian dường như ngưng đọng, thiêng liêng, trang trọng. Bên cạnh Huấn Cao là viên
quản ngục và thầy thơ lại: “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất
những đồng tiền kiễm đánh dấu ô chữ”.Cái tâm của quản ngục đang điều khiển cái tài của Huấn
Cao. Cái tài của Huấn Cao đang phụng sự cái tâm của quản ngục. Cái tâm và cái tài đang hòa
vào nhau để sáng tạo ra cái đẹp.
Có lẽ xúc động nhất là lời khuyên của Huấn Cao như một di chúc thiêng liêng “Tôi bảo thực đấy,
thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở” ; “ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững…”. Đây là lời
khuyên chân tình của con người đã nghiệm ra lẽ phải và chân lí ở đời. Trong lời khuyên ấy, ta
nhận thấy vẻ đẹp của nhân cách. Cái đẹp có thể nảy sinh từ cái chết nhưng cài đẹp không bao giờ
song hành cùng cái ác. Giữ lấy thiên lương cho lành vững cũng chính là giữ được cái thiện ở đời.
Lời khuyên cùng những hoài bão tung hoành của đời Huấn Cao đã cảm hó được viên quản ngục:
“Kẻ mê muội này xin báo lĩnh”. Nguyễn Tuân đã chọn được một chi tiết nghệ thuật hết sức độc
đáo để phô diễn quyền uy của cái đẹp trong việc khuất phục quyền lực của cái ác, cái xấu. Cái
vài của quản ngục trước Huấn Cao giống như cái bái lạy trước hoa mai của Cao Chu Thần thuở
xưa: “ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” ( Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai). Ta tin rằng sau khi
nhận được những nét chữ cao quý của Huấn Cao, quản ngục sẽ sống khác đi để giữ mình luôn là
“một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn , xô bồ”. Với ý nghĩ như
thế, cảnh cho chữ bỗng trở thành cảnh thụ giáo thiêng liêng mà hình tượng trung tâm là Huấn
Cao – vị giáo chủ mang trong mình quyền uy của cái đẹp.
Nguyễn Tuân vốn nhìn đời trên hai thái cực: cái đẹp và cái ác. Cái đẹp thì cao cả, thánh thiện, cái
ác thì tầm thường, phám tục. Đặc trưng cho cái đẹp là những con người rất mực tài hoa, khí
phách và có thiên lương trong sáng như Huấn Cao. Hia2nh ảnh lồng lộng của ông Huấn Cao
chính là biểu tượng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, là lời tụng ca bất tận cho cái đẹp vĩnh cửu của
cuộc đời này. Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ mà còn là một anh hùng chống bất công trong
xã hội. Về mặt này, nhân vật trở thành một ẩn dụ kín đáo cho sự phẫn nộ của Nguyễn Tuân đối
với xã hội đương thời. Do vậy, Chữ người tử tù còn nằm trong mạch nguồn yêu nước, cái dẹp
gắn cái tâm làm nên sức sống bền lâu của ngòi bút Nguyễn Tuân.
Đề 2: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao ở đầu truyện và cuối truyện đối với viên quản
ngục trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
Yêu cầu:
-Nội dung: Chú ý thái độ của nhân vật Huấn Cao, nhân xét và giải thích tại sao có sự thay đổi
thái độ.
– Kiểu bài: Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự, tập trung vào sự chuyển biến tâm lí của
nhân vật.
Dàn bài:
Mở bài:
-Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng của nền văn xuôi ViệtNamhiện đại. “Vang bóng một thời” là
tập truyện ngắn đặc sắc của ông viết trước Cách mạng tháng Tám. Trong tập truyện đó người đọc
bắt gặp hình ảnh về một nhà nho tài hoa, khí tiết. Nhà nho đó là Huấn Cao nhân vật chính trong “
Chữ người tử tù”. Sự chuyển biến về tâm lí của nhân vật là một trong những nết hấp dẫn và lí thú
của thiên truyện.
Thân bài:
a) Thái độ khinh bạc lúc đầu của Huấn Cao trước thiện ý của viên quản ngục
– Thiện ý của viên quản ngục:
+ Cho người “dâng rượu với đồ nhắm”, đây là những thứ không dành cho tử tù.
+ Trực tiếp bày tỏ thiện ý với Huấn Cao.
+ Quản ngục…khép nép hỏi ông Huấn Cao
– Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí
tôi muốn châm trước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho.
-> Quản ngục rất kính trọng người tù: “khé nép”, gọi người tù là”ngài” tức là người “có nghĩa
khí” và nh7 muốn tâm sự. “Miễn là ngài giữ kín cho”. Khi ông Huấn từ chối, quản ngục”lễ
phép” lui ra.
– Thái độ của Huấn Cao:
+ Lời chối từ ngắn gọn, dứt khoát và đầy miệt thị:
+ “Người hỏi ta muốn gì?…nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”
-> Ông Huấn Cao từ chối là hợp lí bởi ở nơi tu2ngu5c, người ta sống tàn nhẫn và lừa lọc, Huấn
Cao không thể biết ngay được ý đồ của viên quản ngục, người đại diện cho quyền lực, mặt khác
thái độ của quản ngục vẫn đáng ngờ. ( tâm sự, dặn dò giữ bí mật…)
-> Ông Huấn Cao từ chối còn bởi khí tiết và nhân cách của ông: không quỵ lụy, nhờ vả. Vì vậy
thái độ của ông tỏ ra rất khinh bạc.
Trong tình cảnh này, ông Huấn Cao không thể lường trước được rằng viên quản ngục là một
người có chữ nghĩa, trọng khí phách và rất say mê thư pháp (mà những điểm này không phù hợp
chút nào với nghề nghiệp và khung cảnh sống của một quản ngục)
Viên quản ngục có lẽ cũng hiểu tâm trạng và thái độ của ông HUấn Cao nên không tỏ ra bất
bình, tự ái và đã trả lời rấ điềm tĩnh “xin lĩnh ý”.
b) Ông Huấn Cao tặng chữ và khuyên bảo viên quản ngục:
+ Sự thay đổi thái độ bắt đầu từ chỗ ông Huấn Cao hiểu con người thật và tấm lòng của quản
ngục.
+ “Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích coa quý như vậy.
Thiếu chút nữa ta đã phụ mậ một tấm lòng trong thiên hạ”.
+ Ông Huấn Cao đã viết tặng viên quản ngục những dòng chữ rất đẹp.
– Đây là một sự kiện đặc biết bởi ông Huấn Cao chọn người mới cho chữ. Ông nói “đời ta cũng
mới viết hai bô tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Vậy quản
ngục có vinh dự là một trong số ít người được đối xử như bạn thân của ông Huấn.
– Cảnh cho chữ thật cảm động: “ Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét
chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván:.
– Ông Huấn Cao có thái độ và lời nói rất thân ái, tôn trọng: “đỡ viên quản ngục đứng thẳng
người dậy”, lúc nào cũng gọi là “thầy quản”. Ông còn có những câu nói thân mật như với một
người quen biết lâu ngày “thoi mực thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở
chậu mực bốc lên không?”
– Và nhất là ông Huấn Cao đã nói với viên quản ngục những lời tâm huyết có liên quan đến
phẩm giá một đời người “thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở
đây khó giữ thiên lương cho lành vững”. Viên quản ngục nghẹn ngào, xúc động vái người tù một
cái và nói “kẻ mê muội n ày xin bái lĩnh”. Đây không chỉ là hành động tạ ơn người cho mình chữ
mà còn thể hiện thái độ bái phục một nha6nca1ch đẹp, một khí phách dũng liệt à một thiên lương
trong sáng và cao cả.
-> Như vậy, thái độ của Huấn Cao đối vời viên quản ngục hoàn toàn khác trước vì ông đã hiểu rõ
thầy quản , ông ân hận chút nữa đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Thái độ của ông chính
là để đáp lại tấm lòng “ biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục.
c) Đánh giá nhân vật:
– Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường và ông cũng là một người có khí phách khác
thường. Tuy nhiên, Huấn Cao không phải là con người có trái tim bằng thép. Đúng là tiền bạc và
quyền thế không lung lạc được ông, nhưng khi hiểu được một tâm hồn trong sáng bị lạc vào giữa
đám người “cặn bã”, ông đã trân trọng và sẵn sàng cho chữ, những dòng chữ cuối cùng của một
đấng tài hoa và một bậc anh hùng nghĩa sĩ.
Kết bài:
– Với thủ pháp đối lập, qua hai đạon đối thoại Nguyễn Tuân đã vẽ nên một hình ảnh Huấn Cao:
+ Vừa cao ngạo, bất khuất, chọc trời khuấy nước.
+Vừa chân tình tài hoa, biết chân trọng những tấm lòng tốt trong thiên hạ, biết đề cao thiên
lương đẹp đẽ của con người, biết yêu quý nghệ thuật.
Đề 3: Phân tích nhân vật quản ngục
– Chọn nhầm nghề . Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại co tính cách diu dàng và
lòng biết giá người, biết trọng người ngay chẳng khác nào một thanh âm trong trẻo chen vào giữa
một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
– Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, quản ngục có lòng kiếng nể, lại có biệt nhỡn đối
riêng vời Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời,ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm
cho tử tù Huấn Cao và các đồng chí của ông.
– Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ muốn châm chước ít nhiều
đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị mặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn
ôn tồn, nhã nhặn xin lĩnh ý rồi lui ra
– Ngục quan là một nhà nho biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, suốt đời chỉ ao ước một điều là
có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao là một người chọc trời
khuấy nước nhưng lại tự ti cái thứ mình chỉ là một kẻ tiều lại giữ tù. Viên quản ngục khổ tâm
nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ.Là quản
ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao cách xa y nhiều quá?. Tử
tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được
mấy chữ thì ân hận suốt đời. Bi kịch ấy cho thấy tính cách của quản ngục là con người biết phục
khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở
thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao cảm
động nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy
quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng
trong thiên hạ. Như vậy, trong vị thế xã hội, quản ngục và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực
nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là quản ngục.
– Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kì diệu: Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu rôi lên ba
đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lẫn hồ. Ánh sáng bó đuốc ấy
chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh quản ngục. Chi tiết ngục
quan khúm núm cất những đồng tiền kẽm đán dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng, chi tiết ngục
quan vái người tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: Kẻ mê muội này xin bái
lĩnh là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên
lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.
– Có thể , sau khi Huấn Cao bị giải vai kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, tìm về
nhà quê mà ở để giữ lấy thiến lương cho làng vững và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay?
Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật quản ngục bằng nhiều nét có thần. Ngoại hình thì đầu đã
điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón
nhận tử từ, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta là mặt nước hồ xuân, bằng
lặng, kín đáo và êm nhẹ. Trong một xã hôi phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất
lương vô đạo, nhân vật quản ngục đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện
sâu sắc chủ đề tác phẩm.
Đề 4: Anh ( chị) hãy phân tích cảnh cho chữ trong tác phẩm “ Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân để chứng minh đó là “ cảnh xưa nay chưa từng thấy”
Mở bài:
– Giới thiệu về Nguyễn Tuân và bút pháp “ tài hoa và uyên bác” yêu cái đẹp và say mê gây dựng
cái đẹp
– Chữ người tử tù nằm trong tập truyện “ Vang bóng một thời” – tập truyện viết về cái đẹp một
đi không trở lại
– Cảnh cho chữ có thể coi là điểm nhấn cho toàn tác phẩm, vừa giúp Nguyễn Tuân gửi gắm tâm
sự vừa giúp ông thể hiện ngòi bút tài hoa, uyên bác của mình.
Thân bài:
Cảnh cho chữ – “ cảnh tượng xưa nay chưa từng có”:
Không gian – thời gian cho chữ:
+ Không gian: “ một buồng tối , chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân
chuột , phân gián.’
So sánh với không gian cho chữ truyền thống: Thường là nơi núi non, sông nước, phong cảnh
hữu tình hoặc thư phòng thơm tho, sạch sẽ.
+ Thời gian: buổi đêm trong nh ngục. Nhà văn không miêu tả một buổi đêm đầy sao thi vị mà là
một đêm vắng lặng lạ lùng
Người cho chữ – người xin chữ:
+ Người cho chữ: “ cổ đeo gông chân vướng xiềng”
So sánh với những bậc tao nhân mặc khách khi cho chữ. Người cho chữ thường ưng dung, thư
thái thường rượu, thưởng trà khi điểm tô từng net chữ.
+ Kẻ xin chữ: Quản ngục
Sự đảo ngươc vị trí:
+ Về mặt xã hội: Quản ngục và thơ lại là những người nắm trong tay quyền sinh sát đối với tử tù;
tử tù là kẻ phục tùng những người như quản ngục.
+ Kh i ch chữ: Viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm, thầy thơ lại tay run run bê
chậu mực. Huấn Cao – một tử tù – khuyên quản ngục nên thay chốn ở vì đó không phải là nơi để
treo tấm lụa bạch với những nét chữ vuông vắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời
người. Và để giữ thiên lương cho lành vững.
Quản ngục nói đầy cảm phục: “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
-> Như vậy, trong hoàn cảnh này, vị trí quyền lực đã hoàn toàn bị đảo ngược dưới ánh sáng của
thiên lương.
Sự đối lập màu sắc:
+ Anh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu
+ Màu trắng thanh bạch của tấm lụa bạch còn nguyên lẫn hồ
+ Bóng tối bên ngoài nhà ngục
-> Sự đối lập mang màu sắc điện ảnh và hội họa này phần nào thể hiện sự chiến thắng của ánh
sáng thiên lương.
Bức tranh chữ có sức mạch gắn kết những con người có tâm hồn cao quý và gìn giữ thiên lương
của con người:
Đoạn trích “ Ở đây lẫn lộn…Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
Bức lụa trắng trẻo, những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nói lên cái hoài bão tug hoành của một đời
người, mùi mực thơm chỉ dành cho những người có thiên lương. Bức lụa ấy đã giúp viên quản
ngục, thơ lại và Huấn Cao trở thành tri kỉ, cũng đồng thời là động lực giúp quản ngục tìm đường
thoát khỏi cái nghề
“ tiểu nhân thị oai” để xứng với thú chơi chữ. Khó có những con chữ nào có sức mạnh đến
nhường ấy.
Kết bài:
– Không gian, thời gian, con người…trong cảnh cho chữ này đều khác biệt so với truyền thống .
– Cảnh cho chữ, bức tranh chữ và những khuôn mặt trong khung cảnh ấy đều được soi sáng bởi
ánh sáng của Cái Thiên Lương

You might also like