Professional Documents
Culture Documents
Ý thức là gì?: cảm giác tri giác nhận thức
Ý thức là gì?: cảm giác tri giác nhận thức
Từ ý thức có thể được dùng với nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng,
ý thức thường được dùng đồng nghĩa với tinh thần tư tưởng… (ý thức tổ
chức, ý thức kỉ luật…). Theo nghĩa hẹp, khái niệm ý thức được dùng để chỉ
một cấp độ đặc biệt trong tâm lí con người.
Ý thức là hình thức Phản ánh tâm lí cao nhất chỉ riêng con người mới có,
được phản ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức
(hiểu biết) à con người đã tiếp thu được (là tri thức về tri thức., phản ánh của
phản ánh). Có thể ví ý thức như “cặp mắt thứ hai” soi vào kết quả (các hình
ảnh tâm lí) do “cặp mắt thứ nhất)”(cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, cảm
xúc…) mang lại. Với ý nghĩa đó ta có thể nói: ý thức là tồn tại được nhận
thức.
– Nhận thức cái bản chất. nhân thức khái quát bằng ngôn ngữ.
– Dự kiến trước kế hoạch hành vi, kết quả của nó làm cho hành vi mang tính
có chủ định.
Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới
Ý thức không chỉ là nhận thức sâu sắc của con người về thế giới mà còn thể
hiện thái độ của con người đối với nó. C. Mác và Ph. ăng ghen đã viết: “ý
thức tồn tại đối với tôi là tồn tại một thái độ nào đó đối với sự vật này hay sự
vật khác, động vật không biết “tỏ thái độ” đối với sự vật nào cả…”.
Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người
Trên cơ sở nhận thức bản chất khái quát và tỏ rõ thái độ với thế giới, ý thức
điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người đạt tới mục đích đã đề ra. Vì thế
ý thức có khả năng sáng tạo. V.I.Lê nin nói: “ý thức của con người không chỉ
phản ánh hiện thực khách quan mà còn sáng tạo nó”
Khả năng tự ý thức: con người không chỉ ý thức về thế giới ở mức độ
cao hơn con người có khả năng tự ý thức.
Điều đó có nghĩa là khả năng tự nhận thức về mình, tự xác định thái độ đối
với bản thân, tự điều khiển, điều chỉnh, tự hoàn thiện mình.
Quá trình nhân thức lí tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức,
đem lai cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách
quan. Đây là nội dung rất cơ bản của ý thức là hạt nhân của ý thức, giúp con
người hình dung ra trước kết quả của hoạt động và hoạch định kế hoạch
hành vi.
Vô thức là hiện tượng tâm lí ở tầng bậc chưa ý thức, nơi mà ý thức không
thực hiện chức năng của mình. Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lí
khác nhau của tầng không (chưa) ý thức: Vô thức ở tầng bản năng vô thức
(bản năng dinh dưỡng. tự vệ sinh dục) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức,
mang tính bẩm sinh, di truyền.
Vô thức còn bao gồm cả những hiện tượng tâm lí dưới ngưỡng ý thức
(dưới ý thức hay tiền ý thức).
Ví dụ: Có lúc ta cảm thấy thinh thích một cái gì đó, nhưng không hiểu rõ vì
sao; hoặc có lúc thích, có lúc không thích, khi gặp điều kiện thì bộc lộ ý thích.
khi không có điều kiện thì thôi.
Hiện tượng tâm thế. Hiện tượng tâm lí dưới ý thức, hướng tâm lí sẵn
sàng chờ đón, tiếp nhận một điều gì đó, ảnh hưởng đến tính linh hoạt
và tính ổn định của hoạt động. Cũng có lúc tâm thế phát triển xâm nhập
cả vào tầng ý thức. Ví dụ: tâm thế yêu đương của đôi bạn trẻ đang say
mê nhau, tâm thế nghỉ ngơi của người cao tuổi…
Có những loại hiện tượng tâm lí vốn là có ý thức nhưng do lặp đi lặp lại nhiều
lần chuyển thành dưới ý thức. Chẳng hạn một số kĩ xảo, thói quen ở con
người do được luyện tập đã thành thục trở thành “tiềm thức”, một dạng tiềm
tàng sâu lắng của ý thức Tiềm thức thường trực chỉ đạo hành động, lời nói,
suy nghĩ… của một người tới mức độ không cần ý thức tham gia.
+ Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm
hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội.
Tóm lại, các cấp độ khác nhau của ý thức luôn tác động lẫn nhau, chuyển hóa
và bổ sung cho nhau làm tăng tính đa dạng và sức mạnh của ý thức. Ý thức
thống nhất với hoạt động; hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động. ý
thức chỉ đạo, điều khiển, điều chỉnh hoạt động, làm cho hoạt động có ý thức.