You are on page 1of 16

STRATEGIES FOR PART 3 OF THE SPEAKING

TEST

Part 3 (which lasts for roughly 4 minutes) is a discussion between you and the
examiner. The topic will be related to the topic you just spoke about in Part 2, but
the questions will be about society- in general, not about your life in particular.
For example, if the topic in Part 2 was your memory of a holiday or trip, the topic
in Part 3 may be about people’s holidays or about travel in general. Here are
some more examples of Part 2 personal topics and the possible Part 3 general
discussion topics related to them:
Phần 3 (kéo dài trong 4 phút) là sự thảo luận giữa bạn và giám khảo. Chủ đề liên
quan nội dung bạn đã nói trong phần 2, câu hỏi về xã hội nói chung, đặc biệt
không nói về cuộc sống của bạn. Ví dụ, nếu chủ đề của phần 2 là kỉ niệm về 1 kỳ
nghỉ hay chuyến đi chơi thì chủ đề của phần 3 có thể về những kỳ nghỉ hàng
năm hay về du lịch nói chung. Sau đây là một vài ví dụ trong phần 2 những chủ
đề cá nhân và phần 3 những chủ đề thảo luận chung có liên quan đến chúng:
Part 2 personal topic
Phần 2 chủ đề cá nhân
Your best friend
Người bạn thân của bạn
A time when you worked in a team
Kể về khoảng thời gian bạn làm việc trong một nhóm
Your plans for a future career
Những dự định của bạn cho sự nghiệp tương lai
Something you bought
Những thứ bạn đã mua
A journey you make often
Một hành trình bạn thường thực hiện
Possible Part 3 discussion topic
Những chủ đề có thể thảo luận ở phần 3
Communicating with friends
Giao tiếp với bạn bè
Schools and teamwork
Trường học và sự làm việc nhóm
Education and work
Giáo dục và công việc
Retail and shopping
Bán lẻ và mua sắm
Changes in transport
Thay đổi trong vận tải
.

Note that the Part 3 topics are about people and society, not about you
personally.
Chú ý rằng những chủ đề phần 3 về con người và cuộc sống, không phải về cá
nhân bạn.

The different types of question in Part 3


Các loại câu hỏi khác trong phần 3

When Part 3 begins, the examiner will introduce the topic by saying, for
example,!Now we're going to discuss education and work' or something similar.
The examiner will then ask you a series of questions connected to the topic.
Mở đầu phần 3, giám khảo sẽ giới thiệu về chủ đề bằng việc nói ví dụ như
”bây giờ, chúng ta sẽ thảo luận về giáo dục và công việc” hoặc thứ gì đó tương tự. Sau
đó, giám khảo sẽ hỏi bạn loạt câu hỏi liên quan đến chủ đề đó.

Some of these questions will be about your opinion of the topic (for
example ‘Do you think that young people should have detailed career plans?')
Một trong số đó là câu hỏi là quan điểm của bạn về chủ đề (ví dụ “ bạn nghĩ
người trẻ có nên lập những kế hoạch chi tiết cho sự nghiệp không?”)

Other questions will ask you to suggest some ideas on the topic (for
example, How can schools prepare students for work?')
Một số câu hỏi khác sẽ yêu cầu bạn đề xuất vài ý tưởng về chủ đề (như
“Nhà trường có thể chuẩn bị cho sinh viên về công việc tương lai như thế nào?”)

It's very important to answer these different types of question in the


appropriate way.
Điều quan trọng là cách bạn trả lời những câu hỏi ấy một cách hợp lý.

Answering Part 3 'opinion’ questions


Trả lời phần 3 về những câu hỏi “ quan điểm”
Here are examples of some ‘opinion’ ripe part 3 questions, plus Band 9
answers, on the topic of ‘education and work’:
Dưới đây là một số ví dụ về “ quan điểm” phù hợp cho phần 3, ghi điểm của
Band 9, cho chủ đề về giáo dục và công việc:

Examiner: Do you think that young people should have detailed career
plans?
Giám khảo: bạn có nghĩ rằng người trẻ có nên lập những kế hoạch cụ thể cho
sự nghiệp không?

Candidate: ‘In some ways, yes, this is important. For example, pupils
should think about careers when they choose their exam courses, in addition to
what interests them. But on the other hand, it’s difficult to have very precise plans
at a young age, because people and opportunities change rapidly. Overall, I
would say that general intentions are useful, but very detailed career plans are
not really relevant/
Thí sinh: Vâng, ở một mức độ nào đó, điều đó là quan trọng. Ví dụ, học sinh
nên suy nghĩ về sự nghiệp khi họ chọn học khóa học, bên cạnh sở thích. Nhưng mặt
khác, rất khó để lên kế hoạch rất chính xác khi trẻ tuổi, bởi vì con người và cơ hội đều
thay đổi nhanh chóng. Tóm lại, những ý định chung là rất hữu ích, nhưng một lập kế
hoạch quá chi tiết rất khó để thực hiện.

Do you think that teachers should use the Internet as part of school
lessons?
Theo bạn, giáo viên có nên ứng dụng tin học vào bài giảng không?

I think that this can be useful, for example to show the pupils videos or
l

media reports on subjects they are studying. This helps bring a subject to life.
On the other hand, though, I wouldn't want a teacher to be constantly
searching or referring to Internet materials during lessons, because it would
be distracting or confusing. So I think that well-chosen Internet resources can
be a benefit if used carefully/

Theo tôi, điều này có thể hữu ích, ví dụ như để trình chiếu cho học sinh các
video hay các báo cáo đa phương tiện trong những môn chúng đang học. Đó là
cách giúp bài giảng gần gũi với cuộc sống. Mặt khác, tôi không muốn giáo viên
nghiên cứu hay tham khảo liên tục vào các tài liệu trên Internet trong suốt tiết học,
như vậy sẽ làm gián đoạn và khó hiểu. Bởi vậy, tôi nghĩ những nguồn tài liệu trên
mạng được chọn lọc tốt sẽ có ích nếu sử dụng một cách thận trọng.
Is it useful to have a gap year between school and university?
Một năm dự bị đại học có cần thiết ?

‘Well, a gap year could be useful for some people, for example to help
them learn about work or to get experience of other cultures. What’s more, if
a student does charity work during a gap year, that’s a very positive thing for
the person and for society'. But there are also examples of young people
wasting time on gap years, or even having accidents or getting involved in
crime. In general, I think these years can only be useful if they are planned
structured properly.’
Một năm dự bị đại học rất cần thiết với nhiều người, giúp họ tìm hiểu về
công việc, có nhiều trải nghiệm về nền văn hóa khác. Hơn nữa, nếu sinh viên tham
gia tình nguyện trong thời gian này, điều đó là điềú rất tích đối với bản thân và xã
hội. Nhưng, có một số ví dụ về các bạn trẻ lãng phí thời gian trong những năm dự
bị, hay không may gặp tại nạn, hoặc dính liếu đến tội phạm. Nhìn chung, những
năm dự bị đại học là hữu ích nếu chúng được lập kế hoạch với cấu trúc đúng đắng
”.

Think about how the candidate structures the answers to the ‘opinion’
type questions. The candidate answers by firstly considering some different
sides of the question, and then giving a personal view at the end. This is the
best way to answer an ‘opinion’ type question in Part 3. Remember to
consider some different aspects of the question, and then give a calm, logical
opinion at the end. Don’t be emotional or dramatic, and don’t make jokes
about the topic.
Hãy suy nghĩ về làm thế nào cấu trúc câu trả lời cho những loại câu hỏi về
“quan điểm ”. Thí sinh trả lời bằng cách đầu tiền là xem xét những khía cạnh khác
nhau của câu hỏi, và sau đó đưa ra ý kiến cá nhân ở cuối cùng. Đây là cách tốt
nhất để trả lời loại câu hỏi về quan điểm ở phần 3. Hãy xem xét về những phương
diện khác nhau của câu hỏi, và sau đó đưa ra những ý kiến trung lập, logic ở cuối
bài. Đừng xúc động hay đóng lịch, đừng nói đùa về chủ đề.

Note also that these answers are longer than the Part 1 answers.
Part 3 answers are ideally about 4 or 5 sentences long. They might be longer
if you know a lot about the topic or if you can think of a lot of points to
discuss.
Cũng chú ý rằng những câu trả lời này thì dài hơn những câu trả lời ở
phần 1. Câu trả lời ở phần 3 lý tưởng nhất là dài khoảng 4 hoặc 5 câu . Chúng cơ
thể dài hơn nếu bạn biết rõ về chủ đề đó hay nếu bạn có thể suy nghĩ được nhiều
điểm để thảo luận.

There is no ‘right’ or ‘wrong’ answer in these Part 3 questions. The


examiner will not mark you on your opinion itself, but on the way you present
your opinion in a balanced, effective way. For example, it doesn’t matter if
you think that gap years are a good thing or a bad thing. What matters is that
you discuss the different aspects and then reach a logical conclusion.
Không có câu trả lời “ đúng” hay “ sai” trong phần này. Giám khảo sẽ không
chấm điểm dựa trên ý kiến đơn lẻ, nhưng dựa trên cách bạn trình bày quan điểm
của bạn một cách cân bằng và hiệu quả. Ví dụ, không có vấn đề gì nếu bạn cho
rằng năm dự bị đại học là một điều tốt hay không tốt. Vấn đề là bạn có thể thảo
luận những khía cạnh khác nhau và sau đó đạt được kết luận có tính logic.

Answering Part 3 ‘ideas’ questions


Câu trả lời cho phần 3 câu hỏi “ ý tưởng”

Remember that we said there is another type of question in Part 3,


which is an ‘ideas’ type question. In these questions, the examiner is not
asking your opinion, but is asking you to suggest some ideas, which will
usually be usually the reasons for a situation, the solutions to a problem or
some ways of achieving something.
Hãy nhớ rằng, chúng tôi đang đề cập đến những loại câu hỏi khác nhau
trong phần 3, trong đó có loại câu hỏi “ý tưởng”. Đối với những câu hỏi này, giám
khảo sẽ không hỏi ý kiến của bạn, mà muốn bạn đề xuất một số ý tưởng, thường
gặp như: những lý do của một tình huống, những giải pháp cho một vấn đề hay
những cách khác nhau để đạt được điều gì đó.
Here are examples of some ‘ideas’ type Part 3 questions plus Band 0
answers, on the same topic of ‘education and work’:
Dưới đây là một số ví dụ về loại câu hỏi “ ý tưởng” ở phần 3 cộng với câu
trả lời ở band 0, trên cùng một chủ đề “ giáo dục và công việc”

Examiner: How can schools prepare students for work?


Giám khảo: Nhà trường có thể giúp sinh viên chuẩn bị cho công việc
tương lai như thế nào?

Candidate: ‘There are several ways that schools can do this. To start
with, they can include examples of work and careers in their lessons, so if the
subject is chemistry they could study the career of a successful chemist, for
example. Schools could also send pupils on visits to workplaces, to offices or
factories, so that the young people can see workers doing their jobs. Another
thing they could do, for older pupils, is to organise work experience so that
students actually try doing a real job for a few hours or days. I think that all
these things together would certainly help to prepare young people for work.’
Thí sinh: có một số cách mà nhà trường có thể thực hiện. Đầu tiên, họ có
thể lồng ghép những ví dụ về công việc, nghề nghiệp trong các tiết giảng, như trong
giờ hóa học, sinh viên có thể nghiên cứu về sự nghiệp của những nhà hóa học
thành công. Họ cũng có thể gửi sinh viên đến tham quan tại nơi làm việc, văn
phòng, nhà máy, vì vậy các bạn trẻ có thể quan sát người lao động làm việc.một
việc khác mà họ có thể làm cho học sinh lớn hơn đó là thiết lập kinh nghiệm làm
việc vì thế sinh viên thực sự thử làm một công việc thực trong một vài giờ hay nhiều
ngày. Tôi nghĩ rằng kết hợp tất cả các hoạt động kể trên chắc chắn sẽ giúp chuẩn
bị cho các bạn trẻ về công việc.

What can teachers use the Internet for in lessons?


.

Giáo viên có thể sử dụng Internet trong giờ học để làm gì?

‘I can think of two main uses for the Internet in classrooms. One is to
show examples of videos or audio material which let students see a subject in
real life. For example, if a class is studying volcanoes, the teacher could show
different types of volcano around the world, which would be interesting. Another
way would be to let pupils search for information themselves, for example to
research the effect of volcanoes on human populations in history, and then report
back to the class. Of course, this would have to be managed closely by the
teacher.

I nghĩ việc sử dụng Internet trong lớp học theo 2 mục đích sử dụng chính sau.
Một là, để trình chiếu ví dụ về các tài liệu nghe nhìn giúp sinh viên liên hệ môn học với
cuộc sống thực tế. Ví dụ, nếu lớp đang học về núi lửa, giáo viên có thể trình chiếu các
loại núi lửa khác nhau trên thế giớ, điều đó rất thú vị. Một cách khác có thể cho phép tự
học sinh tìm kiếm thông tin về nói lửa,ví dụ tìm kiếm sự ảnh hưởng của thảm họa núi
lửa đến dân số trong lịch sử, sau đó làm bài báo cáo trên lớp. Tất nhiên, điều này phải
được quản lý chặt chẽ bởi giáo viên.

Unemployment among young people is a major problem in many


countries. Can you suggest any solutions?
Tình trạng thất nhiệp trong giới trẻ là vấn đề chủ yếu của các quốc gia. Bạn có
thể đề xuất một số giải pháp không?

‘Well, I suppose the main solution would be to improve education


standards among the young people, by spending more on schools and
universities. This would help people find jobs, and hopefully the jobs would be
better paid as well. Another step would be to encourage employers to hire more
young people, by subsidising their salaries or offering tax breaks to make
employing them more affordable. I also think that some countries could reduce
unemployment benefits to young people, to stop them living on welfare instead of
working. These things are difficult to do, and they might be rather unpopular, but I
feel that they would certainly work.
Tôi ủng hộ giải pháp chủ yếu là cái thiện những tiêu chuẩn giáo dục cho những
người trẻ, bằng cách đầu tư hơn nữa cho các trường phổ thông và đại học. Điều này
sẽ giúp họ tìm kiếm được công việc và cũng hy vọng công việc đó sẽ được trả mức
lương cao hơn. Một cách khác là khuyến khích người sử dụng lao động thuê nhiều
người trẻ hơn, bằng cách trợ cấp lương hay đề nghị giảm thuế để việc sử dụng họ phải
chăng hơn. Tôi cũng cho rằng, một số nước nên giảm trợ cấp thất nghiệp cho người
trẻ, để dừng việc họ sống dựa vào phúc lợi nhà nước thay vì làm việc. Những điều này
là khó thực hiện, và ít phổ biến nhưng tôi cảm thấy rằng chúng chắc chắn sẽ hữu dụng.

Why do some young people want to become teachers?


Tại sao một số bạn trẻ lại muốn trở thành giáo viên?
T imagine the biggest reason is having an interest in helping children to
develop, by teaching them useful knowledge and skills. There is probably also a
desire to share an interest in a specific subject, and to expand the knowledge of
this subject in society generally. For example, music teachers are very
enthusiastic about music and they want more people to appreciate it. And finally,
I think that for some people there’s also a third reason, which is an urge to be a
positive role model for youngsters;
Lý do lớn nhất có lẽ là niềm yêu thích được giúp trẻ em phát triển, bằng cách
dạy cho chúng những kiến thức và kỹ năng hữu ích. Đó cũng có thể là một khát khao
được chia sẻ niềm yêu thích về một môn học cụ thể, và để mở rộng kiến thức về môn
học đó ra ngoài xã hội nói chung. Ví dụ, những giáo viên dạy nhạc luôn say mê với âm
nhạc và họ muốn chia sẻ giúp nhiều người có thể cảm thụ được âm nhạc. Và cuối
cùng, tôi nghĩ rằng đối với một số người, cũng có lý do thứ ba, đó là một khát khao
mạnh mẽ để trở thành hình tượng điển hình tích cực cho giới trẻ.
Note that in these examples, the candidate is not giving a personal
opinion (e.g. saying if something is good or bad, useful or not useful) because
the question doesn't ask for that. The candidate is quickly thinking of two or three
ideas on the topic, and explaining them in a logical way.
Chú ý rằng trong những ví dụ này, thí sinh không đưa quan điểm cá nhân (như
đánh giá cái gì tốt hay xấu, có ích hay vô ích) bởi câu hỏi không hỏi như vậy. Thí sinh
nên suy nghĩ về 2 hay 3 ý tưởng cho chủ đề và giải thích chúng một cách có logic.

This is the best way to answer ‘ideas' questions in Part 3. Listen carefully
to the question, think of 2 or 3 relevant ideas, and explain why they are relevant
to the question. If you can think of some examples to support the ideas (e.g. the
example of music teachers' above) that's good, but remember not to give
personal stories or personal information in Part 3. Remember: Part 1 and Part 2
are about you personally; but Part 3 is about your opinions and ideas on society
generally.
Cách tốt nhất để trả lời câu hỏi “ý tưởng” trong phần 3: Nghe câu hỏi cẩn thận,
nghĩ về 2 hay 3 ý tưởng có liên quan và giải thích được lý do vì sao chúng có liên quan
đến câu hỏi. Nếu bạn có thể nghĩ ra một vài ví dụ để làm rõ ý tưởng (như ví dụ về giáo
viên dạy nhạc ở trên) là rất tốt, nhưng lưu ý không được kể những câu chuyện mang
tính chất cá nhân hay thông tin cá nhân vào phần 3. Hãy nhớ: Phần 1 và 2 hoàn toàn
về cá nhân, nhưng phần 3 là quan điểm và ý tưởng về xã hội nói chung.
As with the ‘opinion' type of Part 3 questions, there is no ‘right' or ‘wrong'
answer. For example, the examiner isn't expecting you to have a certain type of
suggestion about why people become teachers, and it doesn't matter if the
examiner agrees with personally you or not. The important thing is the quality of
the answer you give.
Cũng câu hỏi “ quan điểm” trong phần 3, không có câu trả lời “ đúng” hay “sai”.
Ví dụ, giám khảo sẽ không mong đợi bạn có một vài loại đề nghị về việc như tại sao có
người muốn trở thành giáo viên, và không phải vấn đề gì nếu giám khảo có hay không
đồng ý với quan điểm cá nhân của bạn. Điều quan trọng là chất lượng của câu trả lời
bạn đưa ra.

You must be ready to answer a combination of ‘opinion' and ‘ideas'


questions in part 3, because the examiner will ask you both types of question.
For example, the examiner may ask an ‘opinion' question and then an ‘ideas'
question and so on, in any sequence.
Bạn phải sẵn sàng để trả lời những câu hỏi kết hợp cả “ quan điểm” và “ý
tưởng” trong phần 3, vì giám khảo sẽ hỏi bạn cả 2 loại câu hỏi. Ví dụ, giám khảo có thể
hỏi về “quan điểm”, sau đó là “ý tưởng” rất nhiều, theo bất cứ thứ tự nào.
The examiner will also react to things you say, for example by saying
'That's interesting, can you tell me more?' or I see, but what about the negative
aspect?' or similar things. This is because Part 3 is intended to be a realistic
discussion, were one comment leads to further comments. However, don't try to
ask the examiner for his/her views or ideas. Don't say ‘What do you think? or
‘Can you think of anything else?'
Giám khảo sẽ phản hồi lại những thứ bạn nói, ví dụ như bằng cách nói “ thật
thú vị, bạn có thể kể cho tôi nhiều hơn được không?” hay “tôi hiểu, nhưng còn ảnh
hưởng tiêu cực ở đây là gì?” hay những câu tương tự như thế. Điều này là vì phần 3 có
dụng ý là những thảo luận thực tế, một câu nhận xét dẫn dắt đến cho nhiều câu nhận
xét khác. Tuy nhiên, đừng cố hỏi ngược lại giám khảo về quan điểm hay ý tưởng của
họ. Đừng nói “ bạn nghĩ chủ đề này thế nào?” hay “ bạn có nghĩ được gì khác không?”
.

The examiner will not respond to this, and you will be losing valuable
time.
Giám khảo sẽ không trả lời những câu hỏi đó và bạn thì đang lãng phí thời
gian thi của mình.
Practising the Part 3 questions

Luyện tập câu hỏi trong phần 3

Now here are some more examples of part 3 questions, on the


7

topic of‘shops and shopping’. For each question, try to decide quickly if the
question is an ‘opinion' or an ‘ideas' question, and then give an answer in
at least 4 or 5 sentences as you saw in the examples above. In the next
7

section of this book, there is a key and examples of Band 9 answers to


these questions.
Bây giờ, đây là một số ví dụ câu hỏi của phần 3 về chủ để mua sắm và
đi mua sắm’. Với mỗi câu hỏi, cố gắng quyết định nhanh chóng câu hỏi là câu
hỏi dạng “ ý tưởng” hay “ quan điểm”, sau đó đưa ra câu trả lời trong ít nhất 4
đến 5 câu như bạn đã thấy ở các ví dụ trên. Trong phần sau của cuốn sách, có
một bí kíp và các ví đề của những câu trả lời đạt band 9 đối với những câu hỏi
này.

Which are better, small local shops or big supermarkets?


Cửa hàng tạp hoá nhỏ và đại siêu thị, nơi nào tốt hơn?
How do stores persuade people to spend money?
Các cửa hàng có thể thu hút người mua bằng cách nào?
Should we allow advertising aimed at children?
Chúng ta có nên cho phép quảng cáo nhắm đến trẻ em?
Why do people like shopping during sale or promotion periods?
Tại sao mọi người thích mua sắm trong thời điểm giảm giá hoặc khuyến
mại?
What are the advantages of Internet shopping? Are there any
possible disadvantages or risks?

Những lợi ích của mua sắm trực tuyến là gì? Nó có bất lợi hay rủi ro gì
không?

Should all shops have facilities for disabled people?

Các cửa hàng có nên trang bị thiết bị dành người khuyết tật?

Continue to the next section for the key.


Tiếp tục đến phần tiếp theo về bí kíp
.

Key to Part 3 questions with Band 9 model answers


Bí kiếp cho câu hỏi phần 3 với câu trả lời mẫu band 9
Which are better, small local shops or big supermarkets? (Opinion
question)
“ Cửa hàng tạp hóa nhỏ và đại siêu thị, nơi nào tốt hơn” (câu hỏi
“quan điểm”)
‘I think it depends on your needs. For example, for elderly people, or
if someone doesn't have a car, local shops are probably more convenient,
and the personal sender might also be better. On the other hand, though,
large supermarkets are cheaper and offer a much bigger range of products
to choose from. Overall, I think that for most people the supermarkets are
probably the best option.'

Theo tôi nó còn phụ thuộc vào những nhu cầu của bạn. Ví dụ, đối với
những người lớn tuổi hay nếu một số người không có ô tô thì cửa hàng tạp hóa sẽ
tiện lợi hơn và thuận tiện cho người gửi cá nhân. Tuy nhiên, đại siêu thị giá sẽ rẻ
hơn, đa dạng các mặt hàng để lựa chọn. Nhìn chung, tôi nghĩ rằng với đa số mọi
người thì đại siêu thị là lựa chọn tốt hơn cả.

How do stores persuade people to spend money? (Ideas question)


Các cửa hàng có thể thu hút người mua bằng cách nào? (Câu hỏi ý
tưởng)

They use a variety of methods. They often use promotions which


make people buy more, for example '3 for the price of 2' and so on. These
offers are usually backed up with advertising, whether on TV, the Internet or
in the shop itself, and the advertising emphasises both the quality of the
product and the money saving. There is another method too, which is to
display the products in an attractive way that encourages shoppers to pick
them up and look at them. When they're used together, I think these
techniques can be very powerful indeed, and very effective at persuading
the public to spend more.'

Họ có thể sử dụng đa dạng phương pháp khác nhau. Họ thường sử dụng


xúc tiến khuyến mại để làm cho khách hàng mua nhiều hơn, như “ mua 3 trả tiền
2”vv …. những đề nghị thường được hậu thuẫn bằng việc quảng cáo, dù trên TV,
Internet hay tại chính cửa hàng và quảng cáo thường nhấn mạnh vào chất lượng
sản phẩm và việc tiết kiệm tiền. Cũng có một phương pháp khác đó là trưng bày
bắt mắt các sản phẩm nhằm khuyến khích người mua lựa chọn và để ý đến
chúng. Khi kết hợp các phương thức đó, những kỹ thuật này thực sự có sức mạnh
hiệu quả trong việc thuyết phục người mua tiêu tiền nhiều hơn.

Should we allow TV advertising aimed at children? (Opinion


question)
Có nên cho phép quảng cáo trên TV nhắm đến trẻ con? (câu hỏi
quan điểm)

‘Well, on the one hand, companies should be free to communicate


with their customers, and that includes children. We also sometimes forget
that children love TV commercials for all the excitement and humour. But on
the other hand, children don't have the ability to judge or choose in the way
that adults do, and adverts can exploit this. So generally speaking, I think we
should allow these adverts, provided they're carefully regulated and
controlled by the authorities.'
Một mặt, các công ty nên tự do giao tiếp với khách hàng, bao gồm cả trẻ
em. Chúng ta cũng thi thoảng quên rằng trẻ em thích những chương trình quảng
cáo kích động và hài hước trên TV. Nhưng mặt khác, trẻ em cũng không có đủ
khả năng để đánh giá hay lựa chọn theo cách của người lớn, và các chương trình
quảng cáo có thể khai thác điều đó. Vì thế nói chung, tôi cho rằng chúng ta nên
cho phép những quảng cáo như vậy, với điều kiện là chúng được điều chỉnh và
kiểm soát chặt chẽ bởi những nhà chức trách.

Why do people like shopping during sale or promotion periods?


(Ideas question)
Tại sao mọi người lại thích mua sắm vào thời điểm giảm giá hay
khuyến mại? (câu hỏi ý tưởng)
‘I think we're all familiar with the fun of finding a bargain and
feeling we've saved money. This is probably the main reason. To be
frank, I think another reason is the feeling of following the crowd. I mean,
if we see thousands of other people heading to the shops, we have an
urge to do the same thing even if we don’t really need to buy a product.
Yes, I think those are the two major reasons.'
Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều quen với niềm vui khi được một món hàng
giảm giá và cái cảm giác khi chúng ta tiết kiệm được tiền. Đây có thể là lý do
chính. Nhưng thẳng thắn mà nói, còn một nguyên nhân khác đó là cảm giác
theo số đông. Ý tôi là, nếu chúng ta nhìn thấy hàng nghìn người đang đứng
trước một cửa hàng, chúng ta sẽ có cảm giác thúc giục làm như thế thậm chí
khi chúng ta không cần mua sản phẩm đó. Vâng, theo tôi đó là 2 lý do chính.

What are the advantages of Internet shopping over shopping in


stores? (Ideas question)
Những lợi thế khi mua sắm trực tuyến hơn so với đi mua sắm ở
các cửa hàng (câu hỏi ý tưởng)

‘I can think of 3 big advantages of shopping by Internet. For one


thing, it tends to be cheaper than in-store, and that's a huge attraction.
Besides that, using the Internet is much quicker and more convenient,
because we don't have to travel or spend time in town centres; so it's
better for the environment too in some respects. The third advantage is
the ability to compare products very quickly for quality and price, and so
make the best choice possible.’
Tôi nghĩ có 3 lợi thế nổi bật của mua sắm trực tuyến. Điều đầu tiên, nó
có xu hướng rẻ hơn mua tại các cửa hàng, và đây là sức hấp dẫn rất lớn. Bên
cạnh đó, việc sử dụng Internet thì nhanh chóng hơn và tiện lợi hơn rất nhiều
bởi vì chúng ta không phải đi lại hay tốn thời gian ở các trung tâm thương mại;
vì thế điều đó tốt hơn cho môi trường trên một khía cạnh nhất định. Lợi ích thứ
ba là có khả năng so sánh các sản phẩm rất nhanh về chất lượng và giá cả,
và đưa ra lựa chọn tốt nhất có thể”

Are there any possible disadvantages or risks? (Ideas question)


Mua hàng trực tuyến có bất lợi hay rủi ro không? (câu hỏi ý tưởng)
‘Well, the biggest danger is the risk of fraud because criminals
access your payment details or other personal data when you buy
online. The other problem is that you don’t actually see the product until
it's delivered, so you might find it’s different from what you expect in
terms of the colour, the texture and so on. That's quite a common
problem, in fact, especially for clothing.’
Vâng, mối nguy hiểm lớn nhất là nguy cơ gian lận bởi tội phạm truy
cập thông tin thanh toán hay dữ liệu cá nhân của bạn khi bạn mua sắm online.
Một vấn đề khác là bạn không thực sự thấy sản phẩm thực tế cho đến khi
chúng được giao đến, khi đó bạn mới có thể thấy sự khác biệt giữa thực tế và
những điều bạn mong đợi về màu sắc, kết cấu, vv.... Đó thực sự là vấn đề khá
phổ biến,trong thực tế, đặc biệt là đối với quần áo.
.

Should all shops have facilities for disabled people? (Opinion


question)
Tất cả các cửa hàng có nên trang bị thiết bị giành cho người
khuyết tật (câu hỏi quan điểm)

“There are two sides to this. I agree with people who say that
disabled access should be available wherever possible, so that
disabled people can go shopping just like everyone else. That's only
fair, of course. But on the other hand, some shops are in locations
where it would be impossible or incredibly expensive to install things
like lifts and ramps, for example in historic buildings or in remote sites. I
think we need to make an exception for places like that, but all other
shops should certainly have these facilities.’
Có hai mặt đối với điều này. Tôi đồng ý với những người cho rằng
nên lắp các thiết bị cho người khuyết tật ở bất cứ chỗ nào có thể, để họ có
thể đi mua sắm như những người khác. Đương nhiên, điều đó chỉ là sự công
bằng. Nhưng mặt khác, một số cửa hàng toạ lạc tại những nơi đắc đỏ đến
không thể tin hay khó tin nổi để lắp đặt những thứ như thang máy và đoạn
đường dốc thoải, như trong các tòa nhà lịch sử hay những nơi xa xôi.Tôi nghĩ
rằng chúng ta cần loại trừ những nơi như thế, nhưng tất các cửa hàng còn lại
chắc chắn nên trang bị thiết bị cho người khuyết tật”

Concluding and reviewing the IELTS Speaking test

Tổng kết và xem xét́ lại bài thi nói IELTS

At the end of Part 3, the examiner will say Thank you for your
answers. We have now reached the end of the speaking test’ or
something similar, and then show you to the exit door. You should
smile, say ‘Thank you for your time’ and offer to shake the examiner’s
hand.
Kết thúc phần 3, giám khảo sẽ nói “ Cảm ơn những câu trả lời của
bạn. Chúng ta đã đến hồi kết thúc của bài thi nói” hay một số câu tương tự,
và sau đó chỉ cho bạn cửa ra ngoài. Bạn nên mỉm cười và đáp lại “ Cảm ơn
về thời gian ông/bà đã giành cho tôi” và đề nghị bắt tay giám khảo.

After you leave the exam room, it is a good idea to relax and
spend some time thinking about your performance in the test. This is
because the techniques you use in the speaking test are similar to
techniques you should use in real-life situations such as seminars,
professional discussions and meetings in English-speaking countries.

Sau khi rời khỏi phòng thi, hãy thư giãn và giành thời gian suy nghĩ về
phần trình bày trong bài thi của bạn. Bởi vì, kỹ thuật bạn trả lời phần thi nói
sẽ giống kỹ thuật bạn sử dụng trong tình huống thực tế cuộc sống như trong
buổi thuyết trình và thảo luận chuyên môn và các cuộc họp tại các nước nói
tiếng anh..

Ask yourself:
Hãy hỏi bản thân:
Did I engage with the examiner and build a rapport as soon as we
met?
Tôi có gây sự chú ý vớii giám khảo và nhanh chóng xây dựng mối quan hệ với họ
ngay lúc găp mặt?
Did I present myself in a calm, professional way? Did I speak
calmly and maintain eye contact?
Tôi có giới thiệu bản thân một cách bình tĩnh, chuyên nghiệp không?
Tôi có nói một cách bình tĩnh và duy trì giao tiếp bằng mắt không?
Did I listen carefully to questions and identify the main points?
Tôi có lắng nghe kỹ câu hỏi và xác định được ý chính không?
Did I answer all parts of the questions?
Tôi có trả lời được tất cả vấn đề của câu hỏi không?
.

In Part 1, did I show that I understand the situations I described,


using the 2 step process?
Trong phần 1, Tôi có thể hiện được rằng tôi đã hiểu được những
tình huống tôi mô tả, sử dụng quá trình 2 bước không?
In Part 2, did I show that I can organise my description using
notes? Did I use the notes to help my description? Was my description
structured and interesting?
Trong phần 2, tôi đã thể hiện được rằng tôi có thể sắp xếp sự mô tả
bằng cách sử dụng những ghi chú chưa? Tôi đã sử dụng ghi chú để hoàn
thành bài mô ta chưả? Bài mô tả có cấu trúc rõ ràng và hấp dẫn không?
In Part 3, did I show that I understand the difference between
‘opinion’ questions and Ideas' questions? Did I consider the different
aspects of "ideas' topics, and did I give 2 or 3 logical ideas for "ideas’
topics?
Trong phần 3, Tôi có thể hiện là tôi hiểu sự khác nhau giữa câu hỏi “
quan điểm” và “ý tưởng” hay không? Tôi có chú trọng về các khía cạnh khác
nhau của “ý tưởng” chủ đề, và đưa ra được 2 hay 3 ý tưởng logic của “ý tưởng”
chủ đề hay chưa?
Did I use the most advanced English possible for me? Did I ask for
clarification in an appropriate way?
Tôi đã sử dụng tiếng anh cao cấp nhất có thể? Tôi đã hoàn thành bài thi
một cách hợp lý?
Did I learn any new vocabulary, or did I notice that I need some
vocabulary on a certain topic?
Tôi đã học được thêm từ mới không hay tôi đã ghi nhớ rằng tôi
cần một lượng từ cho chủ đề thường gặp?

Of course, it is possible that you might need to take the IELTS test
again until you achieve the band that you need. Reviewing the test like
this will also help you improve your performance next time.

Tất nhiên, có thể là bạn sẽ cần thi lại IELTS cho đến khi bạn đạt số điểm
bạn mong muốn. Kiểm tra lại các bài thi kiểu như vậy sẽ giúp bạn nâng cao khả
năng cho lần thi tiếp theo.

You might also like