You are on page 1of 20

{[[W+bz0FkV43GmRt7u4DpvuYxd]]}

 
   

PGS.TS. LÊ QUỐC HÁN (Chủ biên)


TS. ĐINH QUANG MINH – ThS. LÊ THỊ NGỌC THÚY

Nh÷ng con ®−êng s¸ng t¹o

TRONG GI¶I TO¸N H×NH HäC

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM


2
MỤC LỤC
Trang
Mục lục 3
Lời nói đầu 5
PHẦN I HÌNH HỌC PHẲNG 6
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI TOÁN HÌNH 6
HỌC
§1. Lược đồ giải toán của Polya 6
§2. Khai thác lời giải bài toán 10
§3. Định lý thuận. Định lý đảo 17
§4. Định lý Pythagore với những cách thức tập dượt sáng tạo 24
§5. Sử dụng yếu tố phụ trong giải toán hình học 41
§6. Một số phương pháp chứng minh hình học cơ bản 48
§7. Một số phương pháp giải toán hình học hữu hạn 54
Chương 2 GIẢI TOÁN TRONG HÌNH HỌC PHẲNG 62
§1. Hai dạng toán chứng minh cơ bản trong hình học phẳng 62
§2. Các điểm và đường đặc biệt trong tam giác 77
§3. Từ công thức tính đường trung tuyến của tam giác đến hệ 90
thức Leibniz
§4. Định lý Ptolemy và các đặc trưng của tứ giác nội tiếp 100
§5. Phương tích của một điểm đối với một đường tròn 112
§6. Quỹ tích cơ bản và quỹ tích gần cơ bản 124
§7. Họ đường thẳng đi qua một điểm cố định 134
§8. Các phương pháp dựng hình 145
§9. Các phép biến hình trong mặt phẳng và ứng dụng 154
§10. Bất đẳng thức và bài toán cực trị trong hình học phẳng 165
PHẦN II HÌNH HỌC KHÔNG GIAN VÀ TAM GIÁC LƯỢNG 177
Chương 3 GIẢI TOÁN HÌNH HỌC KHÔNG GIAN 177
` §1. Các bài toán liên quan đến tính song song 177

3
{[[W+bz0FkV43GmRt7u4DpvuYxd]]}

 
   

§2. Một số phương pháp xác định góc giữa hai hình hình học trong 189
không gian
§3. Các bài toán liên quan đến hai đường thẳng chéo nhau 201
§4. Các bài toán liên quan đến tính vuông góc 214
§5. Phương pháp tính thể tích khối đa diện 224
§6. Một số phương pháp chứng minh hệ thức trong hình học 240
không gian
§7. Một số dạng toán cực trị trong không gian 250
§8. Mặt cầu ngoại tiếp đa diện 259
§9. Mặt cầu nội tiếp đa diện 269
§10. Mặt cầu giả nội tiếp đa diện 278
§11. Sự phân loại tứ diện và ứng dụng 284
Chương 4 NHỮNG NHỊP CẦU NỐI HÌNH HỌC VỚI LƯỢNG 294
GIÁC VÀ ĐẠI SỐ
§1. Cùng lượng giác hành hương về “Thánh địa Euclid” 294
§2. Định lý hàm số sin trong tam giác, nhịp cầu nối giữa các loại toán 302
§3. Định lý hàm số côsin trong tam giác và ứng dụng 313
§4. Diện tích tam giác và các công thức thông dụng khác 319
§5. Phương pháp hình học trong đại số 329
§6. Ứng dụng các bất đẳng thức quen thuộc vào giải các bài 339
toán hình học
Hướng dẫn giải bài tập
Chương 1 354
Chương 2 371
Chương 3 403
Chương 4 447
Phụ lục 1 Euclid và tác phẩm “Nguyên lý” bất hủ 465
Phụ lục 2 Sự ra đời của các hình học phi Euclid 468
TÀI LIỆU THAM KHẢO 471

4
Lêi nãi ®Çu
Cuốn sách gồm bốn chương. Hai chương đầu dành cho học sinh Trung học cơ sở, hai chương sau
dành cho học sinh bậc Trung học phổ thông.
Chương 1 và chương 4 thiên về hướng dẫn người học tìm tòi sáng tạo các bài toán và cách giải
mới, hai chương còn lại bàn về các phương pháp thường dùng để giải các loại toán điển hình trong
hình học phổ thông. Nhằm nâng cao năng lực suy diễn lôgic cho người đọc, các công cụ được sử
dụng trong cuốn sách này chủ yếu là các kiến thức trong hình học Euclid. Tuy nhiên, khi cần thiết
chúng tôi có sử dụng các công cụ thuộc hình học giải tích như tọa độ hay vectơ nếu chúng thực sự
tỏ ra ưu việt hơn.
Trong mỗi phương pháp, chúng tôi trình bày ngắn gọn phần lý luận và tập trung vào phân tích các
ví dụ minh họa. Cuối mỗi tiết có bài tập để bạn đọc thử sức. Các ví dụ và bài tập thường được sắp
xếp từ đơn giản đến phức tạp. Thi thoảng có ngoại lệ, xen giữa các bài toán quen thuộc là những
bài toán tương đối mới lạ, chúng được chọn trong đề thi các kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia hay thi
Olympic Toán Quốc tế (IMO). Phần hướng dẫn lời giải cuối sách mang tính chất gợi ý để người
đọc tham khảo khi cần thiết. Chắc rằng có những phương án giải tốt hơn đang chờ các bạn khám
phá, phát hiện. Hơn nữa, nhằm tránh sự thụ động khi đọc, trong phần hướng dẫn bài tập, việc vẽ
hình được dành cho độc giả.
Để đọc cuốn sách này, chỉ cần nắm vững các kiến thức được trình bày trong các giáo trình toán
phổ thông và tất nhiên, cả lòng say mê ham học hỏi hiểu biết nữa.
Mặc dù cuốn sách chủ yếu dành cho đối tượng học sinh phổ thông, nhưng nó thật sự có ích cho
các giáo viên dạy Toán cũng như các sinh viên Cao đẳng và Đại học Sư phạm ngành Toán. Các
phụ huynh cũng có thể dùng làm tài liệu giúp con em mình nâng cao hiểu biết những kiến thức
Toán học mà do điều kiện thời gian các em chưa được lĩnh hội đầy đủ trên lớp.
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi có tham khảo đề ra hay lời giải một số bài tập từ các tài liệu
dẫn ra cuối cuốn sách này. Xin chân thành cảm ơn các tác giả của những đề ra hay cách giải đó.
Cuốn sách được khởi soạn đầu Xuân 2011 và được hoàn thành vào cuối Hạ 2016. Trong gần sáu
năm qua, chúng tôi đã không ngừng sửa chữa và bổ sung bản thảo, nhưng không thể tránh được
những sai sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các góp ý xin gửi về :
Tạp chí Toán học và Tuổi trẻ, tầng 12, Tòa nhà Diamond Flower Tower,
Số 1 Hoàng Đạo Thúy, Thanh Xuân, Hà Nội.
Các tác giả

5
PHẦN 1. HÌNH HỌC PHẲNG
Đứng trước một bài toán hình học Euclid,

cơ hội giải được của một học sinh phổ thông


và nhà toán học ngang nhau.
GS. Tạ Quang Bửu

CHƯƠNG 1 . MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI TOÁN HÌNH HỌC

§1. LƯỢC ĐỒ GIẢI TOÁN CỦA POLYA


Giải bài toán là một quá trình tâm sinh lý phức tạp. Nó đòi hỏi người giải vận dụng một
cách sáng tạo những kiến thức và kinh nghiệm của mình kết hợp với những phương pháp
suy luận thích hợp để giải quyết vấn đề bài toán đặt ra. Các bài toán ở bậc phổ thông
thường có mức độ khó dễ khác nhau, do đó đòi hỏi người giải những cố gắng khác nhau.
Trong tác phẩm nổi tiếng Giải bài toán như thế nào, J. Polya chia các bài toán thành hai
lớp: các bài toán tìm tòi và các bài toán chứng minh. Theo ông, các bài toán tìm tòi
thường khó hơn các bài toán chứng minh. Tuy nhiên, thực tế các bài toán tìm tòi trong
sách giáo khoa phổ thông hiện nay không khó lắm. Chúng chỉ đòi hỏi học sinh vận dụng
trực tiếp những kiến thức vừa học và những thuật toán đã biết để tìm ra lời giải thích hợp.
Trong khi đó nhiều bài toán chứng minh đòi hỏi người giải phải vận dụng tổng hợp các
kiến thức khác nhau một cách sáng tạo cùng với những thao tác tư duy thích hợp (phân
tích và tổng hợp, quy nạp và suy diễn, đặc biệt hoá và tổng quát hoá, tương tự, …) mới
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Ở đây chúng tôi trình bày về việc tìm lời giải các bài toán tìm tòi chưa có thuật toán hoặc
các bài toán chứng minh chưa có phương pháp chung để giải. Đối với các bài toán này,
nên vận dụng lược đồ bốn bước của Polya: Tìm hiểu đề toán, xây dựng chương trình giải,
thực hiện chương trình giải, kiểm tra và nghiên cứu lời giải.
1. Tìm hiểu đề toán
Việc giải một bài toán sẽ trở nên hữu ích nếu người giải ham thích công việc đó. Muốn
vậy, người giải cần tìm hiểu một cách kỹ lưỡng. Trước hết phải đọc kỹ đề toán để thấy

6
được toàn bộ nội dung của bài toán. Sau đó phân tích bài toán, tách những yếu tố chính
của bài toán, xem xét các yếu tố chính nhiều lần và ở nhiều mặt. Nếu là bài toán chứng
minh thì yếu tố chính là giả thiết và kết luận. Nếu là bài toán tìm tòi thì yếu tố chính là ẩn
(cái cần tìm, cái chưa biết), là dữ kiện (những cái đã biết) và điều kiện (mối liên hệ giữa
cái cần tìm và cái đã cho) của bài toán. Cuối cùng phải nhìn lại tổng quan bài toán trước
khi tìm lời giải.
Đôi khi, việc tìm hiểu đề toán phải diễn ra nhiều lần và ở nhiều thời điểm khác nhau. Phải
làm sao khi nhắm mắt lại, người giải vẫn thấy rõ từng chi tiết của bài toán và mối liên hệ
giữa các chi tiết đó. Điều này sẽ giúp người giải tìm được “ý chói lọi” (từ dùng của
Polya) trong quá trình hình thành lời giải bài toán.

Để giúp cho việc hiểu rõ đề toán, nhiều khi người giải cần phải đưa vào các ký hiệu mới
hoặc các hình vẽ minh họa.
Các ký hiệu đưa vào phải gọn và dễ nhớ, tránh nhầm lẫn và hiểu nước đôi. Hơn nữa nó
phải giúp người giải hình dung bài toán dễ hơn và việc tính toán thuận lợi hơn. Chẳng hạn
nếu bài toán đã cho liên quan đến ba số nguyên liên tiếp thì nên ký hiệu chúng là
a − 1, a, a + 1 (nếu ký hiệu chúng là a, a + 1, a + 2 thì việc tính toán sẽ phức tạp hơn).

Đối với các bài toán hình học, nói chung cần phải vẽ hình minh họa. Hình vẽ phải tổng
quát, không nên vẽ hình trong trường hợp đặc biệt vì như thế dễ gây ngộ nhận trong suy
luận. Hình vẽ phải rõ ràng, chính xác, dễ nhìn thấy những quan hệ và tính chất của các
yếu tố trong bài toán. Ngoài ra để làm nổi bật vai trò khác nhau của các đường, các hình,
trong hình vẽ có thể vẽ bằng nét đậm, nét nhạt, nét liền hoặc nét đứt. Điều này đặc biệt
quan trọng trong việc giải các bài toán hình học không gian. Nếu dựa trên phép dựng hình
bằng thước và compa (đối với hình học phẳng) hoặc dựa vào các phép chiếu song song
hay vuông góc (đối với hình học không gian) để vẽ hình một cách chính xác thì càng tốt,
vì nhờ vậy người giải sẽ tiệm cận với lời giải một cách dễ dàng hơn.
Có rất nhiều bài toán không phải là bài toán hình học nhưng việc dùng hình vẽ để diễn tả
chúng rất hữu ích. Chẳng hạn dùng sơ đồ đoạn thẳng để giải các bài toán số học, dùng đồ
thị để biện luận phương trình chứa tham số, …

7
2. Xây dựng chương trình giải
Đây là bước quan trọng nhất trong hoạt động giải toán. Để xây dựng chương trình giải
một cách hợp lý, cần tìm tòi lời giải. Tuy nhiên người ta đã chứng minh được rằng không
có một thuật toán tổng quát nào để giải được mọi bài toán cả. Thậm chí đối với một lớp
bài toán khá hẹp như lớp bài toán tìm nghiệm nguyên của các phương trình Diophante
cũng không có thuật toán chung để giải chúng. Vì vậy để tìm tòi lời giải một bài toán,
chúng ta cần dựa trên những kinh nghiệm giải toán trước đó của bản thân. Trong tác
phẩm Giải bài toán như thế nào, J. Polya đã đưa ra một bản gợi ý xây dựng chương trình
giải một bài toán bao gồm những câu hỏi sau:
- Bạn đã gặp bài toán này lần nào chưa? Hay đã gặp bài toán này ở một dạng hơi khác?
- Bạn có biết một bài toán nào liên quan không? Một định lý có thể dùng được không?
- Xét kỹ cái chưa biết và thử nhớ lại một bài toán quen thuộc có cùng ẩn hay có ẩn tương
tự.
- Đây là một bài toán có liên quan mà bạn đã có lần giải rồi. Có thể sử dụng nó không?
Có thể sử dụng kết quả của nó không? Hay sử dụng phương pháp giải nó? Có cần đưa
thêm một số yếu tố phụ mới sử dụng được nó không?
- Có thể phát biểu bài toán một cách khác không? Một cách khác nữa? Hãy quay về các
định nghĩa.
- Nếu bạn chưa giải được bài toán đã đề ra, hãy thử giải một bài toán liên quan dễ hơn
không? Một bài toán tổng quát hơn? Một trường hợp riêng? Một bài toán tương tự? Bạn
có thể giải một phần bài toán không? Hãy giữ lại một phần của điều kiện, bỏ qua phần
kia. Khi đó ẩn được xác định đến một chừng mực nào đó; nó biến đổi như thế nào? Bạn
có thể từ các dữ kiện rút ra một yếu tố có ích không? Bạn có thể nghĩ ra những dữ kiện
khác có thể giúp bạn xác định được ẩn không? Có thể thay đổi ẩn, hay các dữ kiện, hay cả
hai nếu cần thiết, sao cho ẩn mới và các dữ kiện mới được gần nhau hơn không?
- Bạn đã sử dụng mọi dữ kiện chưa? đã sử dụng toàn bộ điều kiện hay chưa? Đã để ý đến
một khái niệm chủ yếu trong bài toán chưa?
Những phần sau của cuốn sách này sẽ minh họa cho việc sử dụng bản gợi ý chương trình
giải toán trên của Polya.

8
Tuy không có một thuật toán chung nào để giải tất cả các bài toán, nhưng với những lớp
bài toán khá hẹp nào đó, chúng ta cũng có thể tìm ra những định hướng, những phương
pháp chung để giải chúng. Trong chương 2 và chương 3, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết
vấn đề này.
3. Thực hiện chương trình giải
Sau khi đã tìm được cách giải rồi hãy tiến hành thực hiện chương trình giải. Đây là công
việc chủ yếu, là kết quả để đánh giá hoạt động giải toán. Quá trình này không khó khăn
như khi tìm cách giải nhưng tính chất công việc có khác nhau.
Khi đang tìm lời giải thì có thể tự do mò mẫm, dự đoán và không ngại gì mà không dùng
một cách lập luận “tạm thời”. Nhưng khi thực hiện chương trình giải thì phải thay đổi
quan niệm đó và chỉ được thừa nhận những lý lẽ chặt chẽ, phải kiểm nghiệm lại từng chi
tiết. Một điều quan trọng trong việc trình bày lời giải là trình tự các chi tiết, nhất là đối
với các bài toán phức tạp. Phải trình bày sao cho tường minh sự liên hệ giữa mỗi chi tiết,
cũng như sự liên hệ giữa các chi tiết trong từng đoạn của lời giải và trong toàn bộ lời giải
ấy. Trình tự mà ta trình bày trong lời giải có thể rất khác với trình tự mà ta đã tiến hành
để tìm lời giải ấy. Trình tự trình bày các chi tiết trong lời giải cần phải gọn gàng, mạch
lạc, sáng sủa.
4. Kiểm tra và nghiên cứu lời giải
Đây là một bước cần thiết và bổ ích mà trên thực tế ít người giải toán thực hiện nó. Trong
khi thực hiện chương trình giải, rất có thể ta đã mắc phải thiếu sót, lầm lẫn ở chỗ nào đó.
Việc kiểm tra lời giải sẽ giúp ta sửa chữa được những sai sót đáng tiếc đó. Mỗi sai lầm
đều cho ta một kinh nghiệm trong hoạt động giải toán. Mặt khác việc nhìn nhận xem xét
lại những chi tiết của cách giải cũng như toàn bộ cách giải, việc phân tích lại kết quả và
con đường đã đi cùng phương pháp tiến hành, còn có thể giúp chúng ta tìm thấy một cách
giải khác tốt hơn, hoặc phát hiện ra những sự kiện mới và bổ ích. Phải kiên nhẫn và chịu
khó nghiên cứu lời giải tìm được để có thể hoàn thiện cách giải và bao giờ cũng giúp ta
hiểu được cách giải sâu sắc hơn. Chính điều đó sẽ làm phong phú kinh nghiệm giải toán,
củng cố và phát triển năng lực giải toán cho bản thân.

9
§2. KHAI THÁC LỜI GIẢI BÀI TOÁN

1. Tìm các cách giải khác nhau của một toán


Việc nắm vững các kiến thức cơ bản chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta vận dụng được chúng
vào giải quyết các bài toán cụ thể. Cần nắm vững những phương pháp suy luận cơ bản và
giải toán cơ bản như phương pháp phân tích đi lên và phương pháp suy diễn lôgic,
phương pháp phản chứng và phương pháp chứng minh gián tiếp, … Ngoài ra, cần phân
loại các dạng toán thường gặp và tìm phương pháp giải các dạng đó.

Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây bạn đọc nên cố gắng tìm ra nhiều cách
giải cho cùng một bài toán. Đặc biệt, sau khi học thêm một kiến thức mới, hãy trở về với
các bài toán trong quá khứ để tìm ra lời giải mới nhằm thể hiện “tính ưu việt” của kiến
thức mới. Sau đây là một thí dụ:
Bài toán 1. Cho tam giác ABC vuông ở A (AB < AC); AD là đường phân giác trong.
Đường thẳng kẻ từ D, vuông góc với BC cắt AC tại E. Chứng minh DB = DE.
Lời giải. Cách giải thứ nhất (Dựa vào tam giác bằng nhau)
Trên AB lấy điểm F sao cho AF = AE . Khi đó
n = AED
ΔADF = ΔADE nên DF = DE và AFD n.

n = DEC
Từ đó BFD n . Ta lại có ABD
n = DEC
n (cùng

n ) nên BFD
bằng 90 0 − ACB n = ABD
n.

Suy ra tam giác BDF cân tại D . Từ đó BD = DF nên BD = DE .


Cách giải thứ hai (Dựa trên tính chất đường phân giác).
n nên DH = DK . Mà DBH
Kẻ DH ⊥ AB, DK ⊥ AC, vì AD là phân giác BAC n = DEK
n

n ) nên hai tam giác vuông DHB và DKE bằng nhau, từ đó


(cùng bằng 90 0 − ACB
DB = DE .
Cách giải thứ ba (Dựa vào tam giác đồng dạng). Vì AD là phân giác trong của tam giác
DB AB
ABC nên = . Mặt khác hai tam giác vuông DEC và ABC đồng dạng nên
DC AC
DE AB DB DE
= . Từ đó = . Suy ra DB = DE .
DC AC DC DC

10
Cách giải thứ tư. (Dựa vào tứ giác nội tiếp)
A
n = BDE
Vì BAE n = 90 0 nên tứ giác ABDE nội tiếp E

trong đường tròn đường kính BE .

n = DAE
Khi đó DBE n (cùng chắn cung DE ) và
B C
D
n = DAB
DEB n (cùng chắn cung BD ).

n = DAE
Mà BAD n (giả thiết) nên DBE
n = DEB
n . Do đó tam giác DBE cân tại D . Từ đó

BD = DE .

2. Đừng bỏ qua các trường hợp riêng


Khi giải toán, việc xét các trường hợp riêng, trường hợp đặc biệt không chỉ giúp chúng ta
thu được một lời giải hoàn chỉnh mà còn chỉ ra con đường đi đến lời giải trong trường
hợp tổng quát hoặc gợi ra những ý tưởng sáng tác các bài toán mới.

a. Trước hết cần chú ý rằng nhiều khi lời giải bài toán trong trường hợp chung không bao hàm
hết các trường hợp cá biệt. Các trường hợp này cần phải được xét riêng.

Bài toán 2. Tính các tổng sau:

a) A = 1 + a + a 2 + ... + a n −1 + a n ;

b) B = 1 − a + a2 − ... + (−1)n a n .

Lời giải. a) Trước hết, ta xét riêng trường hợp a = 1 . Khi đó A = 1 + 1 + ... + 1 (n + 1 hạng
tử bằng 1) = n + 1 .

Với a ≠ 1 , có (1 − a) A = (1 − a)(1 + a + a 2 + ... + a n ) = 1 − a n +1 .

1 − a n +1
Từ đó A= (*) , ở đây công thức (*) không chứa kết quả khi a = 1 .
1− a

b) Để tính tổng thứ hai, ta phải xét riêng trường hợp a = −1 . Khi đó B = n + 1 .

Với a ≠ −1 , có (1 + a) B = (1 + a) ⎡⎣1 − a + a2 − ... + (−1)n a n ⎤⎦ = 1 + (−1)n a n +1 .

1 + (−1)n a n +1
Từ đó B = (**).
1+ a

11
{[[W+bz0FkV43GmRt7u4DpvuYxd]]}

 
   

Nhận thấy công thức (**) cũng không hàm chứa trường hợp khi a = −1 .

Bài toán 3. Dựng về phía ngoài tam giác ABC các tam giác đều BCD, CAE và ABF.
Chứng minh rằng tâm của ba tam giác đều này là đỉnh của một tam giác đều.
(Định lý Napoléon).

Lời giải. Gọi O1 , O2 , O3 là tâm của các tam giác đều BCD, CAE, ABF . Hai đường tròn
ngoại tiếp các tam giác BCD và CAE cắt nhau tại M .
A
n = CMA
Khi đó BMC n = 120 0 nên AMB
n = 120 0 và O2
do đó đường tròn ngoại tiếp tam giác ABF đi O3 H

qua M. Gọi H , I , K là các giao điểm của O2 O3 M


I K
với AM , của O3 O1 với BM và của O1O2 với B C
CM . Khi đó O 2 O3 ⊥ AM , O3 O1 ⊥ BM và
n = 120 0 nên O
n n
1O3 O2 = 180 − AMB = 60
0 0
AMB O1

n
3 O2 O1 = 60 nên tam giác O1O2 O3 là tam giác đều.
0
(vì tứ giác MHO3 I nội tiếp). Tương tự, O

Chú ý. Bài toán 3 có nhiều cách giải và cách giải trên chỉ dùng đến kiến thức hình học
bậc THCS. Tuy nhiên, lập luận trên không đứng vững khi một trong các góc của tam giác
n = 120 0 thì hai đường tròn ngoại tiếp của tam giác
ABC bằng 120 0 . Chẳng hạn, khi BAC
ABF và ACE tiếp xúc nhau tại A, và lập luận trên phải được điều chỉnh cho hợp lý.
b. Việc xét trường hợp riêng có thể giúp chúng ta định hướng được cách giải trong
trường hợp tổng quát.

Bài toán 4. Cho tam giác đều ABC và một điểm M chuyển động trong tam giác đó.
Chứng minh rằng tổng các khoảng cách từ M xuống các cạnh tam giác nhận một giá trị
không đổi. A
Lời giải. Giả sử a là cạnh của tam giác đều ABC . Khi M
trùng với một trong ba đỉnh của tam giác thì tổng khoảng H
K
cách từ M đến ba cạnh của tam giác ABC bằng đường cao
E
I
của tam giác đó. Khi M nằm trên một cạnh của tam giác
B M C

12
ABC, chẳng hạn M nằm trên cạnh BC . Kẻ MI ⊥ AB, MK ⊥ AC và BH ⊥ AC .
A
Ta phải chứng minh MI + MK = BH . Thật vậy, kẻ
ME ⊥ BH thì MK = EH và hai tam giác vuông MIB E
và BEM bằng nhau nên MI = BE . K
I
D Q
Từ đó MI + MK = BE + EH = BH . P
M
B C
Giả sử M nằm trong tam giác ABC. J H

Qua M kẻ đường thẳng song song với BC , cắt AB và AC tại P và Q . Đường cao
AH của tam giác ABC cắt PQ tại D . Kẻ MI ⊥ AB, MK ⊥ AC và PE ⊥ AC . Theo
chứng minh trên MI + MK = PE = AD .

Do đó MI + MK + MJ = AD + DH = AH .

Bài toán 5. Cho tam giác ABC và một điểm M trên cạnh BC. Dựng đường thẳng qua M
chia tam giác thành hai phần có diện tích bằng nhau.

Lời giải. Xét trường hợp đặc biệt khi M là trung điểm BC thì đường thẳng AM là
đường thẳng cần dựng. Khi M trùng với một trong hai đỉnh B hoặc C , chẳng hạn M
trùng B thì đường thẳng phải dựng là trung tuyến BI của tam giác ABC .

Trong trường hợp tổng quát, khi M nằm trên cạnh BC thì
D
ta đưa về trường hợp thứ hai bằng cách kẻ BD // MA .
A
I
Khi đó SΔABM = SΔADM nên SΔABC = SΔDMC . Thế thì trung

tuyến MI của tam giác DMC là đường thẳng cần dựng.


B C
M
3. Sáng tác các bài toán
Mục đích của việc học xét cho cùng là để rèn luyện người học biết sáng tạo. Do đó sau
khi giải một bài toán nên dựa vào lời giải vừa tìm được để sáng tác ra các bài toán mới.
Chẳng hạn, sau khi tìm được cách giải thứ tư của Bài toán 1, ta thấy điểm mấu chốt là tứ
giác ABDE nội tiếp. Từ đó dẫn đến

Bài toán 6. Cho AD là phân giác trong của tam giác ABC . Giả sử đường tròn ngoại
tiếp tam giác ABD cắt cạnh AC tại E. Chứng minh BD = DE .

13
Ngoài ra, nên tập dượt các phương pháp suy luận như quy nạp không hoàn toàn, tương tự,
tổng quát hoá và đặc biệt hoá để sáng tác các bài toán mới. Tuy nhiên, chú ý rằng các
phương pháp này chỉ cho phép đề xuất dự đoán mới mà chưa phải một kết quả mới. Nhà
toán học Pháp Fermat (1601 - 1665) đã để lại cho hậu thế nhiều bài học về vấn đề này.

Chẳng hạn, khi khảo sát dãy số Fn = 2 2 + 1 với n = 1, 2, 3, 4 ông thấy rằng các kết quả
n

thu được đều là số nguyên tố nên đã khẳng định rằng với mọi số tự nhiên n , Fn đều là số

nguyên tố, nhưng sau đó nhà toán học Thụy Sĩ Euler (1707 - 1783) đã chứng tỏ rằng
F5 = 641.6700417 là hợp số. Cũng chính Fermat sau khi chứng minh được phương trình

x 4 + y 4 = z 4 không có nghiệm nguyên khác không đã nêu lên giả thuyết: “Phương trình

x n + y n = z n (với n ≥ 3 ) không có nghiệm nguyên khác không”. Giả thuyết này được gọi
là Định lý lớn Fermat và mãi sau khi ông mất 300 năm, năm 1993 nhà toán học Anh
Andrew Wiles mới chứng minh trọn vẹn được nó dựa trên hàng loạt công trình toán học
sâu sắc của các nhà toán học thiên tài nhiều thế hệ khác nhau.
Nhiều khi trong trường hợp riêng, kết quả thu được có những giá trị đặc biệt không kém
trường hợp tổng quát. Chẳng hạn Định lý Pythagore có thể xem là trường hợp riêng của
Định lý hàm số côsin, nhưng những ứng dụng của nó vượt xa Định lý hàm số côsin.

Một trường hợp riêng đáng chú ý là việc xét các vị trí giới hạn, chẳng hạn tiếp tuyến của
đường tròn ( O ) tại M là vị trí giới hạn của các cát tuyến đi qua M của đường tròn đó.

Chú ý đến điều này ta có thể thu được những bài toán mới khá thú vị. Chẳng hạn xét kết
quả sau đây:

Định lý Pascal. Trên đường tròn (O) có 6 điểm A1 , A2 , A3 , A4 , A5 , A6 . Gọi M , N, P là giao điểm

của A1 A2 với A4 A5 , A2 A3 với A5 A6 , A3 A4 với A6 A1 . Khi đó M , N, P thẳng hàng.

Nếu cho A1 ≡ A2 , A3 ≡ A4 , A5 ≡ A6 thì ta nhận được kết quả sau.

Bài toán 7. Cho tam giác ABC nội tiếp đường tròn (O). Tiếp tuyến của (O) tại A cắt
BC tại M . Tiếp tuyến của (O) tại B cắt CA tại N . Tiếp tuyến của (O) tại C cắt AB
tại P . Chứng minh M , N, P thẳng hàng.

14
4. Nâng cao nhận thức vai trò của toán học đối với các môn khoa học khác và đối với
thực tiễn
a. Đã có rất nhiều cách ví von để tôn vinh vai trò của toán học đối với các môn khoa học
khác: “Toán học là ông hoàng của mọi khoa học”, “Toán học là chìa khóa để mở kho
vàng của khoa học nhân loại”,… Trong quá trình học tập, không ít lần chúng ta đã phân
tích cho học sinh thấy vai trò của toán học trong việc giải quyết các vấn đề của các khoa
học khác, đặc biệt là các môn khoa học tự nhiên, những người anh em của toán học: Vật
lý, Hóa học,… Đứng trước một hiện tượng vật lý, một phản ứng hóa học, nên nhìn chúng
bằng “con mắt toán học”. Cần ghi nhớ rằng: Thiên nhiên luôn là nhà toán học thông minh
nhất, vĩ đại nhất. Chẳng hạn đứng trước quy luật về sự khúc xạ ánh sáng trong quang học:
góc tới bằng góc phản xạ, ta thấy thiên nhiên đã giải quyết rất tuyệt vời bài toán cực trị
hình học sau:

Bài toán 8. Cho hai điểm A, B ở về cùng một nửa mặt phẳng với bờ là đường thẳng xy.
Xác định vị trí điểm M trên xy sao cho MA + MB đạt giá trị nhỏ nhất.

Lời giải. Gọi A′ là điểm đối xứng của A qua xy . Khi đó MA + MB = MA′ + MB ≥ A′B .

Do đó MA + MB đạt giá trị nhỏ nhất (bằng A′B ) khi và chỉ khi A′, M , B thẳng hàng,
nghĩa là khi và chỉ khi M là giao điểm của A′B với xy . Khi đó dễ chứng
n = BMy
minh AMx n.

b. Toán học có nguồn gốc từ thực tiễn, và những thành tựu của toán học chỉ thực sự có ý
nghĩa khi nó giúp cho cuộc sống con người ngày một tốt hơn. Ngày nay toán học càng tỏ
rõ sức mạnh của nó trong việc giúp con người chinh phục những đỉnh cao không chỉ
trong lĩnh vực trí tuệ mà cả trong những lĩnh vực cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta cũng cần
quan sát những việc làm của những người thuộc tầng lớp bình dân, nhưng lại ẩn chứa
những kiến thức toán học sâu sắc. Xin dẫn một thí dụ:

Bài toán 9. Một người nông dân đã chia một mảnh đất hình tứ giác ABCD thành ba
phần như sau: Trên cạnh AB lấy hai điểm M , N sao cho AM = MN = NB. Trên cạnh
CD lấy hai điểm P, Q sao cho CP = PQ = QD. Ông quả quyết diện tích tứ giác MNPQ
bằng một phần ba diện tích tứ giác ABCD. Giải thích vì sao.

15
1 1 2
Lời giải. Dễ thấy: SΔADM = SΔADB , SΔBCP = SΔBDC . Từ đó: SDMBP = S ABCD .
3 3 3
1 B
Ta lại có: SΔMDQ = SΔMQP = S , N
2 ΔMPD M
A
1
SΔBPN = SΔMNP = S nên
2 ΔBMP
1 1 D C
SMNPQ = S = S . Q P
2 DMBP 3 ABCD

BÀI TẬP 1

1. Tính tổng Sn = 1 + 2 a + 3a2 + ... + na n −1 .

2. Cho hai dây AB, CD của một đường tròn (O) song song với nhau và một điểm M
chuyển động trên đường tròn. Đường thẳng MD cắt AB tại E.

a) Chứng minh đường tròn ngoại tiếp tam giác CEM luôn đi qua một điểm cố định thứ hai
(khác C).

b) Tìm quỹ tích tâm đường tròn ngoại tiếp tam giác CEM .

3. Cho điểm P cố định trong đường tròn tâm O bán kính R . Hai dây AB, CD di động
cùng đi qua P và luôn vuông góc với nhau.

a) Chứng minh PA2 + PB 2 + PC 2 + PD 2 nhận một giá trị không đổi.

b) Chứng minh AB + CD nhận một giá trị không đổi.

4. Trong mặt phẳng cho ba đường thẳng phân biệt a, b, c. Hãy dựng tam giác đều ABC có
3 đỉnh A, B, C tương ứng nằm trên a, b, c.

5. Từ Định lý Pascal, hãy suy ra kết quả về tứ giác nội tiếp đường tròn tương tự như Bài
toán 6.

6. Cho tam giác ABC.


n = MBC
a) Tìm điểm M trong tam giác ABC sao cho MAB n = MCA
n.

n = MBC
b) Giả sử MAB n = MCA
n = ϕ . Chứng minh cot ϕ = cot A + cot B + cot C .

(Điểm M được gọi là điểm Brocard của tam giác ABC ).

16
7. Cho tam giác ABC. Hai trung tuyến AM và CN cắt nhau tại G. Chứng minh 4 điểm B,
M, G, N nằm trên một đường tròn khi và chỉ khi cot A, cot B, cot C lập thành một cấp số
cộng.
8. Hai phía một dòng sông với hai bờ là hai đường thẳng song song a, b có hai trung tâm
kinh tế A và B. Hãy bắc một chiếc cầu CD vuông góc với bờ sông đó sao cho quãng
đường AC + CD + DB ngắn nhất.

§3. ĐỊNH LÝ THUẬN VÀ ĐỊNH LÝ ĐẢO

1. Dạng chuẩn đơn giản nhất


Các định lý toán học thường có dạng đơn giản sau: Nếu có A thì có B (1). Khi đó khẳng
định ngược lại sẽ có dạng: Nếu có B thì có A (2). Người ta gọi (2) là mệnh đề đảo của
(1). Trong trường hợp (2) đúng thì (1) được gọi là định lý thuận còn (2) được gọi là định
lý đảo.
Không phải bao giờ khẳng định (2) cũng đúng, chẳng hạn khẳng định ngược lại của định
lý: (Nếu) hai góc đối đỉnh (thì) bằng nhau là” nếu hai góc bằng nhau thì đối đỉnh” rõ ràng
sai. Tuy nhiên, phần lớn các định lý toán học ở chương trình toán phổ thông đều có định
lý đảo, nghĩa là khẳng định của chúng là một chân lý.
Nói chung, việc chứng minh định lý đảo thường khó hơn chứng minh định lý thuận. Để
có nhiều ví dụ phong phú và hấp dẫn, chúng ta nhớ rằng các bài toán (đúng) thực ra cũng
là những định lý toán học.
Bài toán 1. Trong một tam giác cân:
1) Hai đường cao thuộc hai cạnh bên bằng nhau;
2) Hai đường trung tuyến thuộc hai cạnh bên bằng nhau;
3) Hai đường phân giác trong của hai góc ở đáy bằng nhau.
Đây là một bài toán dễ. Phép chứng minh mệnh đề đảo của 1) cũng dễ (dựa vào sự bằng
nhau của tam giác vuông). Phép chứng minh mệnh đề đảo của 2) khó hơn một tý, phải sử
dụng tính chất của trọng tâm tam giác. Phép chứng minh mệnh đề đảo của 3) nói chung
khá phức tạp và có một lịch sử khá ấn tượng.
Năm 1840, S.I.Lehmus gửi cho nhà hình học Thụy Điển J. Steiner định lý sau đây với
yêu cầu đưa ra một chứng minh hình học thuần túy: Tam giác có hai đường phân giác

17
trong bằng nhau là tam giác cân. Định lý này về sau được mang tên Định lý Steiner-
Lehmus.
Trong chứng minh của mình, Steiner đã phải dùng công thức tính đường phân giác theo
các cạnh của tam giác và các phép biến đổi đại số, không đáp ứng yêu cầu của Lehmus.
Vì vậy việc tìm những phương pháp chứng minh sơ cấp và hình học thuần túy cho Định
lý Steiner- Lehmus một thời đã trở thành một trào lưu hấp dẫn nhiều nhà toán học trẻ.
Trong các chứng minh tìm được như vậy, phải kể đến chứng minh của Lida Kopeikina -
một nữ sinh lớp 10 ở Matxcơva - năm 1939 và chứng minh của Volodia Bolchialxki -
một nam sinh lớp 8 cũng ở Matxcơva hai năm sau đó. Hiện nay đã có trên 10 cách chứng
minh Định lý Steiner- Lehmus, trong đó hơn một nửa chỉ sử dụng kiến thức hình học bậc
THCS. Phương pháp chứng minh bằng phản chứng của R.W. Hogg đăng trên tạp chí The
Mathematical Gazette của Anh năm 1982 được xem là đơn giản nhất (Chứng minh chi
tiết xem tiết 1, chương 2).
Bài toán 2. Cho tứ giác lồi ABCD. Gọi A1 , B1 , C1 , D1 là tâm đường tròn nội tiếp các tam

giác BCD, ACD, ABD, ABC . Nếu tứ giác ABCD nội tiếp một đường tròn thì A1 B1C1 D1 là
hình chữ nhật. B

Lời giải. Chứng minh mệnh đề này không khó, chỉ cần
sử dụng hai kết quả quen thuộc: “trong một tứ giác nội A D1
tiếp, tổng các góc đối diện bằng 2 lần góc vuông” và C1 A1

“nếu I là tâm đường tròn nội tiếp tam giác ABC thì B1
D
n C
n = 90D + BAC ”.
BIC
2
Thật vậy, vì A1 là tâm đường tròn nội tiếp tam giác BCD nên

n 1n 1n n
1 D = 90 + CBD = 90 0 + CAD = CB1 D .
0
CA
2 2

Suy ra tứ giác DCA1 B1 nội tiếp. Tương tự, tứ giác BCA1 D1 nội tiếp.

n
Từ đó B n
1 A1C + D1 A1C = 360 −
0
2 (
1 n n
) 1
ADC + ABC = 360 0 − .180 0 = 270 0.
2
n
1 A1 D1 = 360 − 270 = 90 .
0 0 0
Suy ra B

18
Tương tự ta có tứ giác A1 B1C1 D1 có các góc bằng 90 0 nên A1 B1C1 D1 là hình chữ nhật.

Tuy nhiên việc chứng minh mệnh đề đảo: Nếu A1 B1C1 D1 là hình chữ nhật thì tứ
giác ABCD nội tiếp một đường tròn không dễ. Ta phải sử dụng kết quả sau: “Với tứ giác
lồi ABCD , hai điều kiện sau tương đương:
i) A nằm trong đường tròn ngoại tiếp tam giác BCD ;
n > DBC
ii) DAC n ”.

Ta chứng minh Mệnh đề đảo bằng phản chứng. Giả sử ABCD không nội tiếp. Không mất
n > DBC
tổng quát, giả sử DAC n . Theo kết quả trên, A nằm trong đường tròn ngoại tiếp

n > BDC
tam giác BCD và BAC n.

n n n n
Do đó DB1C > DA1C, BD1C > BA1C . Suy ra B1 , D1 tương ứng nằm trong đường tròn

ngoại tiếp các tam giác DA1C và BA1C . Từ đó C nằm trong đường tròn ngoại tiếp các
n n n n
tam giác B1 A1 D và D1 A1 B . Suy ra B1 A1 D < B1CD, D1 A1 B < D1CB .

n 1n n 1n n n n n
Do đó B1 A1 D < ACD, D1 A1 B < ACB. Từ đó B1 A1 D + DA1C + D1 A1 B + BA1C <
2 2

<
1n 1n
2 2
1n
ACD + ACB + 90 0 + DBC
2
1n
+ 90 0 + BDC
2
1 n n n
= 180 0 + BDC
2 (
+ DBC + BCD = 270 0 . )
n
1 A1 D1 > 90 : trái giả thiết. Vậy ABCD là tứ giác nội tiếp.
0
Suy ra B

Trong bài toán 2, nếu thay từ “tâm đường tròn nội tiếp” bởi từ “trọng tâm” hay “trực tâm”
tam giác thì kết quả nhận được không đúng. Tuy nhiên, trong trường hợp trọng tâm thì
hai tứ giác ABCD và A1 B1C1 D1 đồng dạng với nhau nên ABCD là tứ giác nội tiếp khi và

chỉ khi tứ giác A1 B1C1 D1 nội tiếp, nghĩa là ta đồng thời chứng minh được định lý thuận và
định lý đảo.
2. Dạng chuẩn thứ hai

Các định lý toán học còn thường gặp dưới dạng Nếu có A thì có B và B ′ ( 3 ) . Khi đó ta

nhận được các mệnh đề đảo sau

( 4a ) Nếu có B thì có A;

19

You might also like