Professional Documents
Culture Documents
Triết học nên được hiểu là một hành trình hơn là một kết quả dưới dạng kiến thức,
thông tin. Người Hy Lạp định nghĩa triết học là sự yêu mến lòng khôn ngoan hơn
là bản thân sự khôn ngoan (Philisophia ghép từ philia (lòng yêu mến) và sophia (sự
khôn ngoan) Như vậy, hành trình triết học dù cần có sự khẳng định lẫn phủ định,
nhưng không khảng định nào và phủ định nào lại tuyệt đối. Biện chứng pháp của
Socrate là một công cụ tuyệt vời và toàn bích của triết học, vấn đề nằm ở chỗ con
người vận dụng được đến đâu trong thực tế, mở được bao nhiêu cửa sổ cho mình.
Ý thức của con người chỉ là sự "hồi tưởng" về "ý niệm", hay "tự ý thức" lại
"ý niệm tuyệt đối".
Ý thức có nguồn gốc siêu nhiên (chúa trời) và bí ẩn (vốn đã có sẵn như vậy)
b) Chủ quan
Hume là một trong những đại biểu của chủ nghĩa này, lý thuyết về Ấn tượng và
Khái niệm cũng như biểu hiện theo chủ nghĩa kinh nghiệm của ông cũng rất thú vị.
Nhìn chung, ông cho rằng muốn khẳng định một điều gì đó là có thật, phải dựa vào
việc con người có thể tưởng tượng ra điều đó hiện hữu hay không, cũng như ngược
lại, muốn phủ định một điều, phải dựa vào việc con người thậm chí không thể
tưởng tượng ra điều đấy. Việc con người tưởng tượng là đang xây dựng Ý niệm,
dựa trên những Ấn tượng (kinh nghiệm về cảm giác đối với thực tại xung quanh).
Chỉ khi Ấn tượng hiện hữu, con người có kinh nghiệm (thông qua cảm giác, sử
dụng các giác quan để tiếp nhận thông tin) về một vật thì chúng ta mới có thể tư
duy, suy nghĩ, tưởng tượng về vật đó.
Cảm giác về vật chất hình thành nên kinh nghiệm (ấn tượng) về vật chất đó,
từ đây đẩy ra các ý niệm (suy nghĩ, đánh giá, tưởng tượng, hình dung…) về
vật chất, giúp ta khẳng định nó tồn tại. Cảm giác chủ quan của một người
quyết định vật chất đối với người đó có thật hay không.
Ý thức (phần ý niệm) xuất phát từ cảm giác con người, kinh nghiệm của con
người.
Theo tôi, con người cho đến lúc tuyệt chủng cũng chưa phủ định được những di
sản mà các chủ nghĩa khác nhau này để lại, với Plato là thuyết Đường phân chia,
với Hegel là Ý niệm tuyệt đối, Hume với Ấn tượng và Ý niệm…dù chúng có đối
lập với tư tưởng của Marx. Ngay cả với các phát kiến khoa học, chúng vẫn có
những điêm đúng và khả thi, vì thế không thể phủ định (nói theo Hume)
2. Ý thức là kết quả cao nhất của khả năng phản ánh thế giới khách quan.
Mà khả năng phản ánh thế giới khách quan là thuộc tính của vật chất.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong
sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo
những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác
động và vật nhận tác động; đồng thời luôn mang nội dung thông tin của vật tác
động.
Cây hút chất dinh dưỡng từ đất -> Đặc điểm (liên quan đến hóa học) thuộc hệ
thống vật chất (khoáng vật) của đất đã được tái tạo lại ở hệ thống vật chất (các thớ
cơ, ống dẫn, vỏ) của cây. Quá trình phản ánh từ đất lên cây luôn mang thông tin
của đất (những chất hóa học trong đất)
Tia sét đánh trúng cọc gỗ -> Đặc điểm của tia sét được tái tạo lại trên cọc gỗ
(năng lượng được tái tạo lại biểu hiện thành đặc điểm bị cháy rụi trên thân cọc) Sự
phản ánh đặc điểm của tia sét lên chiếc cọc luôn mang theo thông tin về tia sét
(năng lượng)
Tìm thêm ví dụ?
Vật chất càng có kết cấu phát triển, phức tạp thì khả năng phản ánh thế giới
càng cao, mang nhiều thông tin. Marx chia vật chất ra thành hai phần chính tương
ứng với khả năng phản ánh của chúng từ thấp đến cao.
Ở mức thấp nhất là giới tự nhiên vô sinh (ví dụ về chiếc cọc kia) có kết cấu vật
chất đơn giản (so với bộ não) nên phản ánh cũng chỉ ở mức thấp, thụ động, không
qua chọn lọc, trình độ phản ánh-biểu hiện của những đặc điểm, thông tin chỉ dừng
ở biểu hiện hóa học và vật lý -> Phản ánh cơ lý hóa
Như vậy, khả năng phản ánh ở cấp độ này chưa thể đẩy ra ý thức. Khác với những
người teo Vật hoạt luận, Marx chủ trương vật chất ở cấp độ nào cũng có khả năng
phản ánh nhưng chỉ cấp độ cao nhất là não người mới hình thành ý thức
Ngay cả với giới tự nhiên hữu sinh, với kết cấu vật chất phức tạp hơn, khả năng
phản ánh được nâng lên thành phản ánh sinh học, có định hướng và chọn lọc,
như thực vật thì biểu hiện sự phản ánh bằng kích thích, động vật có hệ thần kinh
biểu hiện bằng phản xạ; cũng chưa thể hình thành ý thức. Vì theo Marx, chúng chỉ
là sự phản ánh mang tính bản năng hình thành do nhu cầu sinh lý trực tiếp do cơ
thể chi phối. Như vậy ý thức phải là kết quả của thuộc tính phản ánh không chỉ
mang tính lựa chọn, định hướng mà còn là thuộc tính phản ánh có thể tách rời
khỏi nhu cầu sinh lý, bản năng của cơ thể.
Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng chỉ có ở con người và là hình thức phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực bởi bộ
óc con người. Sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có năng
lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Tuy nhiên, điều này cũng cần phải xem xét lại. Điều gì được xem là nhu cầu sinh
lý trực tiếp của cơ thể? Vì không chỉ việc cơ thể bị đau (nên cần được báo hiệu về
cơn đau) hay bị đói (cần báo hiệu về cơn đói để nảy sinh sự thèm ăn) mới được
xem là các nhu cầu sinh lý. Việc con người vận dụng giác quan tương tác với thế
giới bên ngoài vốn dĩ đã sinh ra nhu cầu sinh lý (mắt thấy con hổ, não nảy sinh
phản ứng sợ hãi, tiết ra adrenaline khiến tim đập nhanh...) Chúng thuộc về bản
năng của con người (theo ý tưởng mô-đun của Dan Sperber và Lawrence
Hirschfeld, mô đun sợ rắn, sợ bóng tối, yêu thương-tình mẫu tử…) và đều có thể
nảy sinh ra ý thức. Chúng thực chất, theo lý thuyết của Hume, và các nhà tâm lý
học hiện đại, là nguồn gốc của ý thức. Phần bản năng, đam mê (passion) chi phối ý
thức. Ngay cả khi Marx chia cấp độ của ý thức ra bao gồm vô thức và tiềm thức,
thì cũng đã bao gồm cả nguồn gốc bản năng của ý thức. Vô thức, nếu không xuất
phát từ bản năng được di truyền thì do đâu mà ra? Bộ não con người được hình
thành do di truyền, và vì vậy không tránh khỏi tính bản năng khi diễn ra quá trình ý
thức. Mặt khác, nếu nói động vật không có ý thức thì cũng sai so với minh chứng
khoa học hiện thời.
Ở đây, không rõ Marx, có sự lầm lẫn hay không, khi gộp chung ý thức (phần
không hoàn toàn thuộc bản năng) vào chung với vô thức và tiềm thức (phần thuộc
bản năng) vào làm một, rồi sau đó phủ nhận những gì thuộc về bản năng và nhu
cầu sinh lý (như khả năng phản ánh sinh học của động vật) có thể hình thành nên ý
thức.
Tôi cũng không đồng tình với Marx. Ý thức chưa bao giờ là, và sẽ không bao giờ
là hình thức phản ánh thực tại cao nhất. Điều này xuất phát từ hai nguyên do. Đầu
tiên phải nói đến sự bất toàn cho đến bất lực của các giác quan trong việc cố tái
hiện thế giới sao cho khách quan nhất. Não bộ vì thế không thể có đủ thông tin để
có được những phản ứng (tái hiện hình ảnh, sản sinh chất hóa học, liên kết các nơ-
ron…) một cách hoàn chỉnh. Con người nhìn được tối đa góc 200 độ, và não bộ
phản ứng với những gì xảy ra trong phạm vi 200 độ ấy mà thôi.
Nguyên nhân thứ hai chính là những xúi giục của đam mê. “Reason is, and ought
only to be the slave of the passions.” (Lý lẽ, không là gì và không thể làm gì khác,
ngoài nô lệ của đam mê) - David Hume. Những trực giác (đam mê) này là yếu tố
xuất hiện hiển nhiên, chúng định hình mọi thứ, và ý thức cũng không ngoại lệ. Ý
thức có tính chọn lọc và vì thế không thể phản ánh bất cứ thứ gì một cách hoàn mỹ.
Việc khẳng định ý thức như vậy có lẽ là vì chúng ta đang tuyệt đối hóa vai trò của
ý thức con người, mà quên đi tính khả thi của tồn tại những thế giới ý thức khách
quan như Ý niệm tuyệt đối của Hegel, có thể còn toàn vẹn hơn cả vật chất. Hoặc
nếu xét theo thuyết Hình thức của Plato, tồn tại một thế giới chứa đựng những hình
thức tồn tại không phụ thuộc vào con người, quyết định thế giới (tính hai, tính tm
giác, tính vũ trụ…) chúng không phản ánh hiện thực mà còn quyết định hiện thực,
và trên hết, chúng nằm ngoài sự tồn tại của con người (trái đất có tính trái đất,
Hình thức trái đất, mà trái đất tồn tại trước con người bao nhiêu năm?) Đương
nhiên thế giới hình thức ấy, thế giới của ý thức ấy đến từ đâu cũng còn là vấn đề
nan giải, có thể không thể giải thích, chứng minh, nhưng lại khả thi.
Kết luận:
Bộ óc được hình thành một phần do di truyền, trong quá trình bộ óc tương
tác với thế giới khách quan, diễn ra sự phản ánh có định hướng, lựa chọn, trở
thành cơ sở cho ý thức ra đời
Đương nhiên loài vật cũng có ngôn ngữ riêng, loài vật cũng lao động theo cách
riêng của chúng, nhằm tồn tại như con người hoặc mở rộng, nâng cao chất lượng
sống (ong làm tổ, hải ly xây đập, chim xây tổ...và ong đương nhiên có xu hướng
mở rộng tổ mình để phù hợp với nhu cầu về chỗ ở) Loài vượn biết cách giao tiếp
để cảnh báo, đe dọa, thể hiện tình yêu thương...Chúng rất có thể biết cười. Có thể
xem phim First Man (2017) để tìm hiểu thêm. DÙ sao, lao động dù có thể là một
trong những nhân tố sinh ra ngôn ngữ, từ đó giúp hình thành ý thức, song chúng
chưa phải nhân tốt quyết định việc con người có ý thức cao hơn, và ngôn ngữ con
người cũng phức tạp hơn. Một giả thuyết ch rằng con người có những niềm tin vào
một ý niệm siêu hình như thần thánh, và ngôn ngữ ra đời phục vụ cho mục đích san
sẻ niềm tin, chính niềm tin ấy cũng có thể là chất keo gắn kết xã hội.
Đương nhiên, nhắc tới Marx là tập trung vào các cụm từ phát triển-kinh tế-sản
xuất. Theo Marx, tự do đích thực có được khi sự phát triển của xã hội cho phép con
người có thể tự quyết và tham gia vào các hình thức sản xuất, giúp người đó có thể
bộc lộ đúng đắn tính người. Như vậy, lao động sản xuất là chìa khóa đem lại tự do,
quyền tự quyết và trao cho chúng ta tính người, mà đầu tiên là được trao đến ý
thức.
Kết luận:
Lao động giúp con người phát triển bộ óc để hình thành ý thức
Ngôn ngữ, ra đời do lao động, là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương
thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch sử. Ngôn ngữ là
công cụ truyền đạt ý thức và phát triển ý thức