You are on page 1of 106

CHƯƠNG I.

TÂM LÝ HỌC GIA ĐÌNH LÀ PHÂN MÔN KHOA HỌC CỦA TÂM
LÝ HỌC

Mục tiêu: Sau khi học xong nội dung chương 1, sinh viên có thể:
1) Trình bày được đối tượng và nhiệm vụ của tâm lý học gia đình
2) Trình bày được các cách tiếp cận, các quan điểm về gia đình
3) Phân tích được đặc điểm của gia đình
4) So sánh và minh họa được cho các dạng gia đình hiện nay
5) Phân tích được vai trò của gia đình hiện nay đối với sự phát triển tâm lý con người
6) So sánh mô hình gia đình truyền thống với mô hình gia đình hiện đại
7) Vận dụng các chức năng của gia đình trong việc đánh giá một mô hình gia đình
hiện đại

*******************************************

1.1. Đối tượng và nhiệm vụ của tâm lý học gia đình


1.1.1. Vị trí của tâm lý học gia đình trong hệ thống khoa học tâm lý học
Tâm lý học gia đình – là một lĩnh vực ứng dụng của khoa học tâm lý học. Đặc
điểm của tâm lý học gia đình như một phân môn của khoa học tâm lý học là gắn liền với
tâm lý học ứng dụng (O. A. Karabanova)
Nền tảng lý thuyết tâm lý học gia đình là các nghiên cứu trong tâm lý học xã hội,
tâm lý học nhân cách, tâm lý học phát triển, tâm lý học giáo dục, tâm lý học lâm sàng và
các lĩnh vực phân môn khác.

Tâm lý học
xã hội

Tâm lý học Tâm lý học


giáo dục nhân cách

Tâm lý học Tâm lý học Xung đột


chẩn đoán gia đình học

Tâm lý học Tâm lý học


lứa tuổi giới tính

Tâm lý học
lâm sàng

1
Hình 1. Tâm lý học gia đình trong hệ thống khoa học tâm lý học
Tính đặc thù này đã cho thấy bản chất mối quan hệ của tâm lý học gia đình với các
phân môn của tâm lý học. Điều đó được thể hiện ở bảng sau:
Phân môn của Tâm lý Đối tượng nghiên cứu
học
Tâm lý học nhân cách Cơ chế bên trong cá nhân của sự phát triển nhân cách trong
hệ thống gia đình
Tâm lý học xã hội Gia đình như là nhóm nhỏ (ảnh hưởng của gia đình đến
cách thành viên gia đình như là cá nhân của xã hội)
Tâm lý học giáo dục Các mối quan hệ cha mẹ với con cái, phong cách giáo dục
gia đình
Tâm lý học chẩn đoán Chẩn đoán các mối quan hệ gia đình
Tâm lý học lứa tuổi Sự phát triển nhân cách của trẻ trong gia đình
Tâm lý học lâm sàng Sự phá vỡ chức năng gia đình, các yếu tố ảnh hưởng của
gia đình là nguồn gốc của các chấn thương tâm lý, bệnh lý
các vai trò gia đình
Tâm lý học giới tính Vai trò giới tính của các thành viên trong gia đình
Xung đột học Các xung đột gia đình
Như vậy, tâm lý học gia đình – là một phân môn tâm lý hoàn chỉnh trong đó bao
hàm hệ thống các kiến thức khoa học từ các lĩnh vực nghiên cứu tâm lý học khác nhau,
cũng như kinh nghiệm thực hành hỗ trợ tâm lý cho gia đình và tham vấn gia đình (O. A.
Karabanova, L.B. Sneider)
1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học gia đình
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học gia đình là cấu trúc chức năng gia đình, các quy
luật và sự vận hành cơ bản của sự phát triển gia đình, sự phát triển nhân cách trong gia
đình.
Các nhiệm vụ cơ bản của tâm lý học gia đình:
1) Nghiên cứu các quy luật hình thành và phát triển của cấu trúc chức năng-vai trò
của gia đình trong các giai đoạn khác nhau của vòng đời cuộc sống;
2) Nghiên cứu giai đoạn tiền hôn nhân, các đặc trưng trong việc tìm kiếm và lựa chọn
bạn đời
3) Nghiên cứu đặc trưng tâm lý mối quan hệ hôn nhân vợ chồng;
4) Nghiên cứu đặc trưng mối quan hệ cha mẹ với con cái
5) Nghiên cứu vai trò của giáo dục gia đình và sự phát triển trẻ em ở các giai đoạn
lứa tuổi khác nhau
6) Nghiên cứu các khủng hoảng gia đình và chiến lược ứng phó của gia đình
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các loại gia đình và vai trò của gia đình
1.2.1. Khái niệm gia đình
Khái niệm gia đình được thể hiện ở nhiều quan điểm và góc nhìn khá khác biệt tùy
theo các cách tiếp cận trong nghiên cứu và thực tiễn:
+ C.Mác và Ph. Ăng Ghen quan niệm : Gia đình là mối quan hệ giữa vợ chồng và
con cái...

2
+ Ở góc độ kinh tế học, gia đình được nghiên cứu với tư cách là một đơn vị kinh
tế, đơn vị tiêu dùng.
+ Nhân chủng học nghiên cứu gia đình theo sự biến đổi đa dạng của các loại hình
gia đình giữa các nền văn hóa.
+ Sử học nghiên cứu các mô hình gia đình đã qua trong các thời kỳ lịch sử.
+ Dân tộc học nghiên cứu đặc trưng gia đình ở các dân tộc khác nhau.
+ Xã hội học coi gia đình là một hiện tượng xã hội trên hai bình diện: Các mối
quan hệ bên trong gia đình. Bao gồm quan hệ giữa các thành viên và quan hệ giới; Quan
hệ tác động qua lại giữa gia đình và xã hội. Đó là quan hệ gia đình với họ hàng, làng xã,
các tổ chức sản xuất, chính trị, văn hóa...
Nhà xã hội học người Nga T.A. Phanaxeva đã tổng kết có 3 quan niệm khác nhau
về gia đình :
- Quan niệm thứ nhất : Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, liên kết với nhau bằng
một chỗ ở, bằng một ngân sách chung và các mối quan hệ ruột thịt.
- Quan niệm thứ hai : Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội liên kết với nhau trong một
nhà, bằng một ngân sách chung và các mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau bằng tình cảm và
trách nhiệm.
- Quan niệm thứ ba : Gia đình hiện đại là một nhóm xã hội bao gồm bố mẹ con cái
của một vài thế hệ. Các thành viên trong gia đình có mối quan hệ ràng buộc về vật chất,
tinh thần theo những nguyên tắc chung, mục đích sống như nhau về các vấn đề chủ yếu
trong sinh hoạt.
Tác giả Nguyễn Đình Xuân quan niệm : Gia đình là một đơn vị, một nhóm nhỏ
nhất của xã hội với số lượng thành viên ít nhất là ai người : Vợ và chồng, sau đó sinh sôi
nảy nở thêm con cái. Trong đó mối quan hệ vợ - chồng là giường cột. Ông còn khẳng
định, ngày nay nghiên cứu sự biến đổi của gia đình gia đình dưới hai góc độ. Thứ nhất,
gia đình là một thiết chế của xã hội có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với các thiết
chế khác như Nhà nước, nhà trường, các đoàn thể xã hội và tôn giáo. Thứ hai, Gia đình là
một nhóm tâm lý – tình cảm xã hội đặc thù.
Tác giả Đặng Xuân Hoài định nghĩa Gia đình là một đơn vị nhỏ nhất của xã hội,
phụ thuộc vào xã hội và là tấm gương phản chiếu mọi thành tựu, cũng như mâu thuẫn của
xã hội.
Viện từ điển học và bách khoa toàn thư Việt Nam cho rằng, gia đình là thiết chế xã
hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân, để thực hiện
các chức năng sinh học, kinh tế, văn hoá, xã hội, tín ngưỡng... Khi gia đình đã có con cái,
thì các thành viên trong gia đình được liên kết với nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân
(không cùng huyết thống) vừa bằng quan hệ huyết thống (theo dòng mẹ hoặc dòng bố).
Gia đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Ngày nay,
nhiều người cho rằng nếu về phương diện hôn nhân, loài người đi từ quần hôn đến hôn
nhân cá thể, thì trên lĩnh vực gia đình, loài người đi từ đại gia đình (đại gia đình mẫu hệ,
đại gia đình phụ hệ) đến tiểu gia đình. Nói chung người ta quan niệm đại gia đình gồm từ
ba thế hệ trở lên, là một đơn vị kinh tế và là tế bào của xã hội. Tiểu gia đình cũng là đơn
vị kinh tế và tế bào của xã hội, nhưng chỉ bao gồm bố mẹ và con cái.

3
Ở Việt Nam Theo Luật hôn nhân và gia đình (2018) Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.
Giáo dục học nghiên cứu gia đình với tư cách là một môi trường giáo dục quan
trọng, thực hiện phương thức giáo dục đặc thù bên cạnh giáo dục của nhà trường.
Dưới góc độ Tâm lý học:
Trong Từ điển Tâm lý học, bác sỹ Nguyễn Khắc Viện quan niệm: Gia đình gồm
bố mẹ, con cái và có hay không một số người khác ở chung một nhà.
Theo tác giả Ngô Công Hoàn: Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, các thành viên
trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm - sinh lý, cùng chung
các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịc sử nhất định.
Có thể khái quát lại từ góc độ tâm lý, đồng thời phù hợp với xu thế của bối cảnh
văn hoá, xã hội hiện nay: gia đình được nghiên cứu với tư cách là một nhóm nhỏ của xã
hội có mối quan hệ tình cảm đặc biệt, quan hệ liên nhân cách phức tạp và là môi trường
đầu tiên diễn ra sự hình thành nhân cách của mỗi cá nhân.

1.2.2. Đặc điểm của gia đình


+ Gia đình là một nhóm xã hội (một thiết chế xã hội), ít nhất phải có từ hai người
trở lên. Một người không thể gọi là gia đình. Những thành viên trong gia đình gắn bó với
nhau về trách nhiệm, quyền lợi kinh tế, văn hóa, tình cảm. Giữa họ có những ràng buộc
về quyền lợi, nghĩa vụ, có tính hợp pháp được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Đồng thời
luật pháp có những qui định rõ ràng về quyền được phép, cấm đoán trong quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình.
+ Gia đình được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân. Đăng ký kết hôn là văn
bản hành chính để Nhà nươc, pháp luật công nhận và bảo vệ quyền hạn trách nhiệm của
đôi vợ chồng trẻ. Tổ chức đám cươi là để họ hàng, bạn bè, xã hội thừa nhận sự kết hôn
của đôi nam nữ với tất cả quyền hạn trách nhiệm của cả đôi bên. Do ảnh hưởng của lối
sống mới, hiện nay ở nước ta có những đôi nam nữ sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng ký kết hôn. Họ sinh con cái ra vẫn được coi là một gia đình. Trẻ em sinh ra
ngoài giá thú vẫn được luật pháp thừa nhận, được hưởng mọi quyền lợi như bao trẻ em
khác.
+ Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có thể là mối quan hệ ruột thịt,
huyết thống (hoặc được nuôi dưỡng). Gia đình gồm có cha mẹ, con cái do cha mẹ sinh ra,
hoặc nuôi dưỡng. Đây là đặc điểm cơ bản thể hiện chức năng tái sản xuất con người của
gia đình. Cha mẹ truyền lại cho con cái những đặc điểm về mặt thể chất thông qua gen di
truyền sinh học. Những đặc trưng về truyền thống, gia phong, cung cách ứng xử, lối
sống... của gia đình cũng được con cái kế thừa thông qua nếp sinh hoạt hàng ngày và sự
dạy dỗ của cha mẹ. Chính vì vậy con cái mang những dấu ấn tâm lý của cha mẹ và những
người lớn khác trong đời sống tinh thần của nó. Trong gia đình còn có ông bà nội ngoại
hoặc cô, dì, chú, bác cùng sống chung. Hoặc có những gia đình nhận con nuôi, em nuôi,
tuy không có quan hệ huyết thống nhưng do tình cảm quan hệ của họ với các thành viên
trong gia đình vẫn như quan hệ ruột thịt. Mọi thành viên trong gia đình sống có trách

4
nhiệm, lo lắng cho nhau, yêu thương nhau bằng một tình cảm đặc biệt – tình cảm gia
đình.
+ Các thành viên trong gia đình sống trong một mái nhà, sử dụng ngân sách
chung, do các thành viên lao động đem lại.
Những đặc điểm trên thể hiện gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt, khác với các
thiết chế xã hội khác. Ở đây cần phân biệt khái niệm gia đình với khái niệm hộ. Khái
niệm hộ được hiểu như một nhóm người ở chung một mái nhà, gồm những người có quan
hệ ruột thịt, họ hàng, có quỹ thu chi chung. Hộ cũng có thể bao gồm những người bạn bè
quen biết cùng học tập, cùng lao động. Có trường hợp hộ là một người sống độc thân (hộ
độc thân), cũng có thể hộ là một tập thể sống trong một mái nhà nhưng không có quỹ thu
chi riêng. Gọi là hộ tập thể
+ Là tế bào của xã hội, gia đình gắn bó mật thiết với xã hội. Mọi sự biến đổi về
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật...của xã hội đều có ảnh hưởng tới gia đình.
Vì vậy mỗi thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau, gia đình khác nhau. Gia đình vận động, biến
đổi cùng với sự vận động biến đổi của xã hội, mang dấu ấn của nền văn hóa dân tộc, cộng
đồng.
1.2.3. Các loại gia đình
Xét về cơ cấu gia đình, các nghiên cứu tại Mỹ quan niệm : Gia đình là nhóm thân
tình, nhóm sơ cấp có đặc điểm : Toàn bộ đặc điểm hành vi cá nhân, tính cách con người
và các sắc thái tình cảm được bộc lộ rõ ràng, các thành viên trong nhóm sơ cấp gắn bó,
hiểu biết lẫn nhau và quan tâm đến tất cả hành vi của những người trong nhóm.
Nghiên cứu các mối quan hệ liên nhân cách của các thành viên trong gia đình
chính là cách tiếp cận cơ cấu, các thành phần, số lượng các thành viên trong gia đình. Do
đó cơ cấu gia đình được hiểu là số lượng, thành phần và mối quan hệ qua lại giữa các
thành viên trong gia đình.
+ Nếu lấy quan hệ hôn nhân làm chuẩn thì có các loại gia đình như sau
- Gia đình đơn hôn hoặc gia đình son trẻ (Gia đình một vợ một chồng).
- Gia đình đa hôn : Một chồng nhiều vợ hoặc một vợ nhiều chồng

+ Nếu theo số thế hệ trong gia đình có các loại :


- Gia đình hạt nhân : Gia đình hai thế hệ. Đây là kiểu gia đình phát triển mạnh ở
nước ta trong tình hình đô thị hóa hiện nay.
- Gia đình có nhiều thế hệ : từ 3 thế hệ trở lên
- Gia đình mở rộng : là gia đình bố hoặc mẹ có con riêng
+ Căn cứ vào số con trong gia đình :
- Gia đình qui mô nhỏ là gia đình có một hoặc hai con
- Gia đình có qui mô lớn có từ 3 con trở lên.
+ Căn cứ vào cấu trúc gia đình và mối quan hệ giữa các thành viên, A.E.
Litrco phân thành 4 loại :
- Gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ
- Gia đình không đầy đủ (thiếu cha, hoặc me, hoặc cả hai)
- Gia đình mở rộng (có những người họ hàng, ruột thịt là thành viên)
- Gia đình biến rạng (có cha dượng, dì ghẻ)

5
+ Dựa vào mục đích giáo dục con cái V. Kudriasev chia gia đình thành 3 loại
(theo quan điểm tội phạm học)
- Những gia đình trong đó cha mẹ không muốn giáo dục con cái theo yêu cầu xã
hội, mặc dù họ có thể và có khả năng làm điều đó.
- Những gia đình cha mẹ không thể giáo dục con cái đúng đắn do quá bận công
việc hoặc bị đau yếu, mặc dù họ mong muốn và có khả năng làm điều đó.
- Những gia đình trong đó cha mẹ không biết cách giáo dục con cái (do trình độ
văn hóa, sư phạm ...thiếu nếp sống cần thiết trong gia đình).
+ Dựa vào không khí tâm lý gia đình, A.Bxakharov chia gia đình thành 3 loại:
- Những gia đình bình yên (bầu không khí tâm lý tốt)
- Những gia đình không bình yên
- Gia đình bình yên giả tạo
+ Xét về mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong gia đình E.A
Aidemilier chia gia đình thành 6 loại :
- Gia đình hài hòa : Sự giao tiếp tình cảm giữa các thành viên trong gia đình ấm
áp, hòa thuận. Vai trò của họ bù trừ cho nhau, không một ai trong gia đình chiếm đoạt
quyền hạn, nghĩa vụ của người khác.
- Gia đình không hài hòa : Cha hoặc mẹ giữ vai trò quá áp đảo, còn người kia quá
phụ thuộc. Sở thích của người này được thỏa mãn nhờ sự nhường nhị, thiệt thòi, mất mát
của người kia.
- Gia đình biến đổi : Các thành viên trong gia đình có khả năng bù trừ cho nhau,
hiểu biết chia sẻ với nhau trong các vấn đề đời sống, nhưng trong quan hệ tình cảm thiếu
cân bằng, thiếu đồng điệu.
- Gia đình rạn nứt : Xung đột gay gắt, khả năng cha mẹ chia tay rất cao.
- Gia đình thụ động thân ái giả tạo : Sự áp chế tuyệt đối của cha hoặc mẹ gây nên
tình trạng lệ thuộc thụ động của người kia, sự khoe khoang lộ liễu cuộc sống gia đình.
Thiếu hẳn sự ấm áp thân ái thực sự của các thành viên trong gia đình.
- Gia đình đã tan vỡ : Một trong hai người đã rời bỏ nhà ra đi nhưng ở mức độ nào
đó vẫn tiếp tục giữ liên hệ với gia đình và thực hiện một phần nghĩa vụ, chức năng của
mình như đóng góp kinh tế, chăm sóc con cái...
+ Dựa vào thành phần giai cấp hay nghề nghiệp của đôi vợ chồng, có các loại
gia đình:
- Gia đình công nhân
- Gia đình nông dân
- Gia đình trí thức
- Gia đình quân nhân
- Gia đình thương nhân
- Gia đình quan chức...
+ Dựa vào mức sống và sinh hoạt thì ta có 3 loại:
- Gia đình giới thượng lưu giàu có.
- Gia đình giới trung lưu sống sung túc đầy đủ và ổn định.
- Gia đình giới hạ lưu nghèo không đủ ăn đủ tiêu, cuộc sống vất vả bấp bênh.

6
Ngoài ra các nhà nghiên cứu còn căn cứ vào từng dầu hiệu khác mà phân chia và
đặt cho chúng một cái tên. Thí dụ : Gia đình mẫu hệ. Gia đình phụ hệ. Gia đình truyền
thống. Gia đình hiện đại.
Tóm lại, có nhiều loại gia đình, nhiều kiểu kết cấu tùy thuộc vào cách tiếp cận gia
đình ở góc độ nào.
1.2.4. Vai trò của gia đình
* Vai trò đối với xã hội
+ Xã hội như là một cơ thể lớn toàn vẹn thống nhất bao gồm các gia đình như là
các tế bào của nó. Xã hội muốn tồn tại và phát triển, một mặt phải đảm bảo cho con
người có đủ điều kiện để sinh sống, học tập, lao động và vui chơi giải trí. Do đó xã hội
phải sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở, sách
báo, xe cộ, điện, đồng thời, phải sản xuất ra những công cụ cần thiết để sản xuất ra những
thứ đó như máy móc, gạch ngói, xi măng v v. Mặt khác xã hội lại phải đảm bảo sản xuất
ra bản thân con người, đảm bảo nuôi dưỡng và dạy dỗ họ để họ có đủ phẩm chất, năng
lực, bản lĩnh, sức khoẻ... Thay thế xứng đáng những thế hệ già để tiếp tục đưa xã hội tiến
lên.
Chính gia đình với tư cách là tế bào của xã hội, phải đảm đương sứ mệnh có ý
nghĩa xã hội sâu sắc, sứ mệnh tái sản xuất ra con người và xã hội hoá (giáo dục, dạy dỗ)
thế hệ trẻ. Đồng thời gia đình phải hoàn thành mọi nghĩa vụ trên các mặt chính trị, kinh
tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng. Gia đình góp phần tích cực vào việc làm giầu cho đất
nước cả về vật chất và tinh thần (tức là cả tiền của lẫn đời sống văn hoá). Gia đình là nền
tảng vững chắc của xã hội, quyết định sự phát triển của xã hội.
Gia đình tạo nên sự phát triển của xã hội, ngược lại đặc điểm sự phát triển của xã
hội lại chi phối sự phát triển của gia đình. Lịch sử xã hội đã chứng minh, mỗi thời kỳ phát
triển xã hội khác nhau, nền văn hóa mỗi dân tộc khác nhau, gia đình khác nhau. Ở đâu,
khi nào một quốc gia coi nhẹ vai trò của gia đình thì nơi đó gia đình suy vong, quốc gia
suy yếu hay hỗn loạn.
Để gia đình có thể hoàn thành được vai trò xã hội của mình, về phần mình, xã hội
phải:
- Thừa nhận, phê chuẩn hôn nhân của đôi nam nữ dưới hình thức pháp luật (Quy
định tuổi kết hôn và đăng ký kết hôn cùng nhiều điều lệ khác) và dưới hình thức đạo đức
(dùng dư luận xã hội, truyền thống để lãnh đạo).
- Quy định rõ ràng, chuẩn xác, chặt chẽ nghĩa vụ và quyền của các thành viên
trong gia đình, trong việc thực hiện các chức năng của gia đình.
- Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với gia đình.
Chính vì thế, Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện luật hôn nhân và gia đình
nhằm đảm bảo xây dựng được các gia đình dân chủ bình quyền, hoà thuận hạnh phúc,
bền vững trên cơ sở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, một vợ một chồng, đề phòng và khắc
phục tình trạng thoái hoá và đổ vỡ của gia đình. Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành và
thực hiện nhiều chính sách xã hội như chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ,
chính sách đối với gia đình neo đơn, những người tàn tật, chính sách lao động tiền lương,
chính sách xoá đói giảm nghèo ở nông thôn...
* Gia đình là một tổ chức xã hội đầu tiên của mỗi người

7
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên có tác dụng quan trọng đặc biệt đối với
sự hình thành và phát triển nhân cách gốc của thế hệ trẻ. Điều đó được thể hiện ở chỗ :
+ Mỗi người được sinh ra, trưởng thành từ một gia đình với mối quan hệ huyết tộc
và mối quan hệ gia đình - xã hội. Đó là quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (Ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, anh em, cháu chắt) và quan hệ hàng xóm, bạn bè, thầy cô đồng
nghiệp
v v. Những mối quan hệ này tồn tại khách quan, tác động qua lại và thống nhất với nhau.
Xét ở mối quan hệ gia đình - xã hội, gia đình được coi là một thiết chế xã hội đầu tiên của
cuộc sống mỗi con người. Gia đình tồn tại và phát triển được là nhờ có lực liên kết bên
ngoài đối với nó. Gia đình ổn định, vận hành, phát triển nhờ luật pháp, dư luận xã hội và
truyền thống. Xét ở mối quan hệ nội bộ, gia đình được duy trì, củng cố, phát triển nhờ lực
liên kết nội tại nẩy sinh do tác động qua lại giữa các thành viên trong gia đình có tính
chất ruột thịt đầy tình thương yêu trong đời sống hàng ngày. Ơ đây, mỗi con người ngay
từ khi lọt lòng mẹ đã được thừa hưởng nền văn hoá và giáo dục gia đình. Với ý nghĩa đó,
gia đình chính là môi trường văn hoá - giáo dục đầu tiên đối với con người.
+ Với những mối quan hệ đặc biệt nói ở trên, trong điều kiện gia đình được tổ
chức có nề nếp, mọi người từ khi ra đời cho đến khi trưởng thành, được giải quyết những
nhu cầu vật chất và tinh thần như ăn uống, mặc, ở, vui chơi giải trí, học tập... ngày càng ở
mức độ cao, phong phú, có chất lượng tốt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội nói
chung và của từng gia đình nói riêng. Bên cạnh đó, ngay từ khi lọt lòng con người đã
được hưởng thụ nền văn hoá gia đình chứa đựng những di sản tinh thần và vật chất, đặc
biệt là tinh thần do những thế hệ trước đó vun đắp, xây dựng tích luỹ (bao gồm tình
thương yêu, những phẩm chất đạo đức, những truyền thống tốt đẹp). Càng lớn lên con
người càng được mở rộng dần phạm vi, mức độ giao tiếp và hoạt động, vươn tầm mắt dần
dần qua khỏi giới hạn gia đình, đi vào cuộc sống xã hội. Nhờ đó, con người dần dần được
hưởng thụ nền văn hoá xã hội rộng lớn phong phú hơn nhiều trên cơ sở nền văn hoá gia
đình.
+ Gia đình tốt, mỗi cá nhân có điều kiện phát triển tốt, ngược lại gia đình không
tốt là nỗi bất hạnh cho mỗi cá nhân. Thực tế chúng ta đã và đang chứng kiến những nỗi
đau khổ về tinh thần và thể xác, đặc biệt về tinh thần trong những tình huống như : mất
cha, mất mẹ hay mất cả cha mẹ, ở với bố dượng, mẹ kế, mẹ ghẻ, gia đình lục đục, bố mẹ
hay anh chị em bị sa đoạ, cầm tù, cha mẹ không được ở cùng nhau do hoàn cảnh công
tác, cha mẹ vô trách nhiệm với con cái. Những trẻ em lớn lên từ những gia đình này gặp
khó khăn không chỉ về nhu cầu vật chất mà lớn hơn là là tình cảm, tinh thần nói chung,
dẫn tới nhân cách của trẻ dễ bị lệch lạc.
Từ những điều trình bày ở trên, chúng ta có thể nói rằng, sự hình thành và phát
triển của gia đình không những là nhu cầu của xã hội, mà còn là nhu cầu của cá nhân mỗi
con người. Chính từ cái nôi gia đình, con người được lớn lên, trưởng thành thành nhân
cách gốc rồi từ đó phát triển để chuẩn bị tích cực cho sau này tham gia vào cuộc sống xã
hội.
1.3. Các mô hình văn hóa gia đình Việt Nam.
Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng của xã hội. Mọi sự biến đổi của xã hội
đều có tác dụng mạnh mẽ đến gia đình. Ở góc độ văn hóa, gia đình là một thiết chế xã hội

8
mang màu sắc dân tộc và đánh dấu tiến trình phát triển văn hóa xã hội. Các mối quan hệ
xã hội được phản ánh trong các mối quan hệ gia đình, do vậy chúng ta có thể xem xét văn
minh nhân loại thông qua văn hóa gia đình hay đánh giá trình độ văn minh của một xã
hội thông qua các quan hệ gia đình.
Văn hóa gia đình là một bộ phận của văn hóa xã hội được gia đình chon lọc, tiếp
thu, hình thành và phát triển trong thời gian dài qua nhiều thế hệ phù hợp với điều kiện
sống và nhu cầu xuất hiện của các thành viên trong điều kiện của cuộc sống gia đình. Văn
hóa gia đình bao gồm những yếu tố tinh thần, thể hiện ở trình độ học vấn, kinh nghiệm và
tư duy của các thành viên, phương pháp, cách thức, kỹ năng vận dụng tri thức vào đời
sống gia đình. Đó là phong thái sinh hoạt, lối sống, truyền thống gia đình và nói chung là
những yếu tố về ý thức hệ gồm : tư tưởng, đạo đức, nghề nghiệp, tín ngưỡng, xu hướng,
niềm tin, định hướng giá trị. Ngoài ra còn bao gồm cả yếu tố văn hóa vật chất của gia
đình.
Mặc dù có những đặc điểm cơ bản giống nhau, nhưng ở mỗi dân tộc văn hóa gia
đình lại mang những sắc thái riêng trong sự tiến triển cụ thể của dân tộc đó. Việt Nam
vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền văn hóa cộng đồng làng xã tồn tại hàng ngàn
năm, cùng với sự ảnh hưởng du nhập của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là ba học thuyết :
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Trong đó Nho giáo có hệ thống quan điểm hoàn chỉnh về
gia đình nên văn hóa gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng quan điểm của Nho giáo là cơ
bản. Đến thế kỷ thứ XIX, Pháp xâm lược nước ta đã đẩy mạnh việc khai thác kinh tế và
truyền bá văn hóa phương Tây vào Việt nam. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội Việt Nam
có sự thay đổi. Nhưng sự thay đổi chỉ là bước đầu, với hơn 90% dân số sống ở nông thôn,
Việt nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với hệ tư tưởng chủ yếu là Nho giáo. Văn
hóa phương Tây chỉ có ảnh hưởng tới những gia đình là tầng lớp nhỏ trong xã hội. Từ sau
cuộc cánh mạng tháng Tám năm 1945, sau khi giành được độc lập chưa lâu, nước ta lại
phải tiến hành hai cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, nhiều gia đình chịu cảnh đau
thương, ly tán vì chiến tranh. Chính sách dùng người Việt trị người Việt của Thực dân,
Đế quốc đã làm phân hóa quan điểm giai cấp, bất đồng chính trị xảy ra ngay tại nhiều gia
đình. Sau ngày đất nước được giải phóng, công cuộc cải tạo, xây dựng đất nước với một
số bất cập của mô hình “Chủ nghĩa Xã hội Nhà nước” đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh
tế kéo dài trong nhiều năm. Điều đó tác động không nhỏ đến mỗi gia đình, nhiều chức
năng của gia đình được thay thế bởi sự bao cấp của Nhà nước. Khi sự nghiệp đổi mới của
đất nước được tiến hành, bắt đầu từ Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988, sự phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội có ảnh hưởng tích cực đến mỗi gia đình. Nhiều chức năng
của gia đình được phát huy, trở lại đúng vị trí của nó. Tuy nhiên bên cạnh những thuận
lợi, gia đình Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức mới do mặt trái của kinh
tế thị trường đem lại.
Như vậy diễn biến lịch sử của đất nước đã tác động trực tiếp đến đặc điểm phát
triển gia đình Việt Nam. Văn hóa gia đình Việt Nam ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau
mang những đặc trưng khác nhau, trong đó có sự giao thoa, kết hợp những yếu tố văn hóa
dân tộc và văn hóa nước ngoài. Theo tác giả Lê Ngọc Lân (Trung tâm nghiên cứu khoa
học gia đình và phụ nữ), dựa trên tính qui định của cơ sở kinh tế và xã hội đến sự tồn tại

9
kiểu loại gia đình ở Việt Nam, tạm thời phân chia gia đình Việt Nam làm hai loại : Gia
đình truyền thống và gia đình hiện đại.
1.3.1. Mô hình văn hóa của gia đình truyền thống
Cơ sở kinh tế- xã hội trong lịch sử với đặc trưng cơ bản là chậm phân hóa, chậm
phát triển đã định hình kiểu loại gia đình truyền thống. Gia đình truyền thống có thể xem
như là một hệ thống đóng nhưng không khép kín, bởi trong tâm thức mỗi người nó
thường được mở rộng ra ngoài phạm vi vốn có. Ra ngoài làng thì trong họ là nhà, Quốc
gia cũng chỉ là một gia đình lớn, có vua (cha). Gia đình truyền thống có đặc điểm :
+ Các gia đình liên kết với nhau theo họ nội và rất coi trọng thờ cũng tổ tiên anh
em bên nội.
- Trong gia đình, người cha, anh cả, cháu đích tôn là người chủ thực hiện việc tế lễ
và có vị trí quan trọng hơn các thành viên khác.
- Con gái thuộc về gia đình chồng nên không ghi trong gia phả, không có quyền
thừa kế tài sản ngang con trai. Con dâu sau khi sinh con trai mới giành được vị trí chính
thức trong gia đình, dòng tộc.
- Quan hệ cha-con, anh-em được coi trọng hơn quan hệ vợ-chồng, vợ chồng có thể
thay đổi nhưng anh em cha con thì không. Anh thay cha nuôi dạy các em, khi cha mẹ mất
hay già yếu thì em ở với anh là lẽ đương nhiên, không phải ở nhờ. Trong hoàn cảnh bất
đắc dĩ phải nhờ cậy chú bác, nếu chú bác trừ chối cũng bị chê cười ..
Đây là cách tổ chức gia đình có trật tự chặt chẽ, trên dưới rạch ròi và qui định
trách nhiệm cho từng thành viên rõ ràng. Gia đình là một bộ phận của họ nội. Nội dung
nam quyền được quán triệt tạo ra sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Người phụ nữ không
được bình đẳng với nam giới, phải là người “tam tòng tứ đức”.
+ Gia đình là một “hộ” đối với làng nước
- Trên cơ sở nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, người Việt Nam đã sớm định cư
theo dòng máu (quần cư) thành xóm, làng, họ.
- Ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo nên mô hình nhà
nước chuyên chế từ TW đến huyện được tổ chức theo mô hình cửu tộc cùng với tang chế
và nghi thức thờ cúng tổ tiên. Cách tổ chức đời sống xã hội làng xã theo trật tự tước xỉ đã
tổ chức đất nước thành một thể chế ổn định làm môi trường cho gia đình.Trong thể chế
chính trị- xã hội như vậy gia đình ngoài việc gắn với họ, cũng thành một “hộ” để quan hệ
với làng nước. Nền sản xuất chủ yếu là nông nghiệp lúa nước, thủ công nghiệp cũng chỉ
làm những hàng thường dùng trong làng xóm, việc buôn bán chủ yếu tiến hành ở chợ địa
phương. Kinh tế hàng hóa ít phát triển. Thu nhập thường theo vụ lúa, thóc tiền ra vào
không nhiều. Của cải gia đình để chung và chi tiêu chung do một người là gia chủ hoặc
người nôị trợ quyết định việc chi tiêu. Tuy gia đình là nam quyền nhưng nắm quyền kinh
tế “ tay hòm chìa khóa” lại là người phụ nữ.
Vai trò “hộ” với làng nước, gia đình truyền thống có 3 chức năng là thờ cúng tổ
tiên, giao tiếp, đóng góp cho làng xã.
+ Trong đời sống xã hội Việt Nam thời phong kiến, gia đình là khâu quan trọng
nhất, hơn cả quyền lợi của bản thân. Sự trở thành vợ chồng thường không xuất phát từ
tình yêu mà do sự sắp đặt của đôi bên. Khi trở thành vợ chồng, ý thức trách nhiệm đối với
gia đình rất cao. Mỗi người đều sẵn sàng hy sinh lợi ích của mình vì con cái. Đặc biệt đối

10
với người phụ nữ, nếu họ bị góa bụa hoặc ly dị chồng, họ ở vậy lo cho con cái, coi việc
chăm sóc cho con cũng là hạnh phúc của bản thân. Trong xã hội phong kiến Việt nam, cá
nhân bị coi nhẹ, các tổ chức xã hội khác không phát triển mà thuộc về nhà nước, gia đình
là mô hình để tổ chức xã hội và nhà nước. Làng, xã, phường hội đều tổ chức theo trật tự
ưu tiên từ trên xuống dưới theo mô hình phụ quyền. Văn hóa gia đình được nhà nước đề
cao.
- Gia đình được coi là có phúc, được xung quanh vị nể đó là gia đình: ông bà, cha
mẹ sống lâu, đông con nhiều cháu, làm ăn thuận lợi no đủ, sống hòa thuận.
- Nhà nước quan tâm đến việc giáo hóa, làm cho phong tục thuần hậu, pháp luật
bảo vệ gia đình, triều đình tuyên dương những gia đình hòa thuận ”cha trí, con hiếu, vợ
tiết hạnh”
+ Gia đình truyền thống Việt Nam được bảo vệ bằng luân lý, phong tục, lễ nghi và
bằng pháp luật.
- Cái phải bảo vệ là quan hệ: trên ra trên, dưới ra dưới. Trên là cha mẹ, anh chị và
chồng. Dưới là con, là em, là vợ. Mỗi người phải có bổn phận của mình, nhưng người
dưới không có quyền đòi hỏi người trên làm đúng trách nhiệm của mình như người trên
đối với người dưới. Cha phải từ, con phải hiếu. Anh ra anh, em ra em.
- Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình là quan hệ theo tình và theo kinh điển
Nho giáo: trên kính, dưới nhường, không so đo tỵ nạnh, phải nhường nhịn tha thứ.
- Con người của gia đình phải hiểu biết những điều lễ nghĩa. Lễ nghĩa có ý nghĩa
chuẩn mực cho mọi người. Con người sống đúng lễ nghĩa sẽ theo đúng trật tự trên dưới,
theo đúng tình của lòng mình, theo các chuẩn chung chứ không theo ý muốn riêng của
bản thân. Trong gia đình, sống có tình nghĩa, có lễ nghĩa là : Biết xác định vị trí của
mình trong hoàn cảnh cụ thể, biết ứng xử đúng chỗ, đúng lúc.
+ Gia đình coi trọng việc giáo dục con cái, có trách nhiệm dạy con cái biết hiếu đễ.
- Nội dung dạy dỗ con em trong gia đình là cách làm người : sống tình nghĩa, có
lễ nghĩa.
- Phương pháp giáo dục được tiến hành bằng tình cảm nhưng có sự phân biệt. Sự
nghiêm khắc của cha và sự từ ái của người mẹ.
- Gia đình phải rèn luyện hành vi cho con cái từ nhỏ, người trên làm gương cho
người dưới, trẻ em có lỗi trách nhiệm thuộc về người lớn. Con cái có lỗi trách nhiệm
trước tiên thuộc về cha mẹ (Con dại, cái mang). Con cái mang tiếng “ Vô giáo dục” là nỗi
nhục cho gia đình.
Tóm lại, với những đặc trưng của mình, gia đình truyền thống đã thành công trong
việc xây dựng ngôi nhà thành một tổ ấm, mọi người hòa thuận với nhau và để lại nhiều
kinh nghiệm về giáo dục trẻ em. Nhưng nó lại chứa đựng nhiều khuyết tật đó là sự bất
bình đẳng, uy quyền, không tôn trọng quyền tự do và không phát huy vai trò cá nhân.
Con người dễ bằng lòng với tổ ấm của mình, ít say mê, mạo hiểm, không dễ trở thành
nhân cách độc lập, bình đẳng dân chủ.
1.3.2. Mô hình văn hóa gia đình hiện đại
Trước những biến đổi của thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, gia đình truyền
thống có sự chuyển mình theo xu hướng mới hiện đại hơn. Gia đình hiện đại có thể xem
như một hệ thống mở, nhưng không phải là sự phân rã gia đình truyền thống. Nó không

11
theo một quá trình hạt nhân hóa, cá nhân hóa như gia đình phương Tây. Quan hệ gia đình
không làm mất đi những quan hệ làng xã, huyết thống.
+ Đặc điểm của gia đình hiện thời kỳ thập niên 60,70,80 thế kỷ XX
Khi nước nhà giành được độc lập, công cuộc cải tạo, xây dựng đất nước theo con
đường Xã hội chủ nghĩa bắt đầu từ phong trào hợp tác hóa, ở miền Bắc từ năm 1960, ở
miền Nam từ sau năm 1975. Cơ sở kinh tế thay đổi, những quan hệ mới được thiết lập.
Chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho gia đình biến đổi theo
hướng không mấy thuận lợi.
- Quan hệ thân tộc, huyết thống bị xem nhẹ, được gầm hiểu lệch lạc thành tư
tưởng cục bộ, bản vị phi xã hội chủ nghĩa.
- Vai trò của gia đình đối với cá nhân mờ nhạt, chức năng của gia đinh bị xáo trộn,
tước bỏ, “cái xã hội” trùm lên thay thế cho chức năng gia đình: kinh tế, giáo dục, văn hóa
chăm sóc sức khỏe... xã hội đều thay thế. Gia đình chỉ còn mỗi chức năng tái sản xuất con
người và bù đắp những thiếu hụt về tâm lý, tình cảm. Chức năng gia đình dường như
không còn là mấy.
- Con người, cá nhân bị chìm xuống, nhường chỗ cho con người tập thể, hời hợt.
- Kiểu gia đình này làm nảy sinh tâm lý ở nhiều người ỷ lại, trông chờ vào nhà
nước.
Những sai lệch trong cách thức gia đình mới, sự chi phối nghiệt ngã của chiến
tranh làm biến dạng những chức năng của gia đình theo xu hướng tước bỏ, thay thế.
+ Đặc điểm của gia đình từ những năm 1980 đến nay:
Thực tiễn xã hội vận động và phát triển đã làm cho gia đình phục hưng trở lại.
Kinh tế, địa vị xã hội của gia đình thay đổi, kéo theo thay đổi những chức năng của gia
đình.
Những chính sách về kinh tế - xã hội mới tác động sâu sắc đến gia đình, làm cho nó biến
đổi toàn diện về cơ cấu, qui mô, bậc thang giá trị và hạnh phúc gia đình.
- Qui mô gia đình ngày càng nhỏ hơn, tốc độ gia đình hạt nhân tăng nhanh. Không
còn nhiều gia đình “tứ đại đồng đường” tuy nhiên đa phần con cái vẫn có trách nhiệm với
cha mẹ già.
- Đời sống vật chất tăng lên làm thay đổi bậc thang giá trị trong đời sống vợ
chồng, đặc biệt giá trị tinh thần ngày càng tăng, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa…phát
triển.
- Ở giai đoạn thời kỳ đổi mới, những chức năng của gia đình trước đây bị tước bỏ
được phục hồi nhanh, đặc biệt chức năng kinh tế với gia đình tỏ ra chiếm ưu thế.
- Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có sự bình đẳng, mỗi cá nhân có điều
kiện phát huy hết khả năng của mình. Vị trí của người phụ nữ được coi trọng hơn.
- Trong gia đình có sự thay đổi khá toàn diện về mục đích, động cơ, quá trình tiến
hành và phân công lao động làm kinh tế, có sự thay đổi về hưởng thụ và nâng cao chất
lượng cuộc sống. Kinh tế hộ gia đình phát triển góp phần tạo ra sự phát triển của xã hội.
- Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm cho mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình có phần lỏng lẻo, tỉ lệ ly hôn của các cặp vợ chồng ngày càng cao. Cha mẹ
và người lớn của nhiều gia đình sống thiếu gương mẫu, sống buông thả, thiếu trách nhiệm
với con cái. Hậu quả của văn hóa, giáo dục những gia đình này là tạo nên những con

12
người lệch lạc về nhân cách, tác động xấu đến xã hội. Cơ quan đấu tranh phòng chống tội
phạm đã nêu rõ, tình hình tội phạm ở nước ta ngày càng gia tăng và trẻ hóa đến mức đáng
lo ngại. Trong số tội phạm, phần lớn đều xuất thân từ những gia đình không lành mạnh,
thiếu sự quan tâm chăm sóc giáo dục đúng đắn của cha mẹ và người thân từ tấm bé.
- Hội nhập Quốc tế trong thời kỳ đổi mới nên nhiều người Việt Nam kết hôn với
người nước ngoài, hình thành kiểu loại gia đình mới (Gia đình lai) ít nhiều ảnh hưởng
đến văn hóa của nhiều gia đình Việt Nam.
Như vậy, gia đình hiện đại ngày nay so với gia đình truyền thống trước kia có
nhiều biến đổi về mặt cơ cấu, giá trị và chức năng của gia đình. Tuy nhiên, gia đình hiện
đại không phải là sự phân rã gia đình truyền thống, không mất đi những giá trị truyền
thống tốt đẹp, mà là sự kế thừa và cải tổ chức năng cho phù hợp hơn với sự phát triển của
xã hội, trong đó có sự kết hợp được ưu điểm của gia đình truyền thống trong một trạng
thái mới phù hợp với hoàn cảnh hiện đại. Mô hình gia đình phù hợp hiện nay vừa có yếu
tố cơ bản của gia đình hạt nhân, vừa có yêu tố của gia đình mở rộng. Ông bà có thể “sống
bên cạnh con cháu” với “không gian riêng”. Các cặp vợ chồng có vị trí độc lập tương đối.
Ở đó cái cá nhân được khẳng định, không làm mất đi liên kết dọc. Sự liên kết dọc được
gia cố trên một cơ sở mới, thỏa mãn tính chất của gia đình hiện đại.
1.4. Chức năng của gia đình và sự biến đổi chức năng của gia đình truyền thống
trong xã hội hiện đại
1.4.1. Cách phân loại các chức năng của gia đình
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của gia đình.
Tác giả Mai Thuý Bích viết trong “Lối sống gia đình ngày nay” NXB Phụ nữ , Hà
Nội1987 đưa ra 6 chức năng của gia đình:
1 - Sinh đẻ duy trì nòi giống
2 - Tổ chức sinh hoạt gia đình (việc nhà)
3 - Xã hội hoá (giáo dục) thế hệ trẻ
4 - Tổ chức thời gian tự do của các thành viên
5 - Thoả mãn những nhu cầu tình cảm
6 - Chăm sóc người già và những thành viên không có khả năng lao động.
Theo tác giả Trần Trọng Thuỷ viết trong “Giáo dục đời sống gia đình” Hà Nội
1990 : “Gia đình phải thực hiện các chức năng : Sinh đẻ và nuôi dạy con, tổ chức cuộc
sống vật chất và văn hoá, tổ chức kinh tế”.
Theo tác giả Ngô Công Hoàn trong “Tâm lý học gia đình” : gia đình thực hiện 6
chức năng:
1 - Sinh đẻ
2 - Chức năng giáo dục trẻ em
3 - Chức năng tiêu dùng
4 - Chức năng kinh tế
5 - Chức năng thoả mãn nhu cầu tình cảm
6 - Chức năng chăm sóc người già.
Theo tác giả Nguyễn Khắc Viện viết trong cuốn “Bàn về tâm lý học gia đình”.
NXB thế giới 1990, ngoài các chức năng trên gia đình còn thêm chức năng thứ 7 : Chức
năng tình cảm lứa đôi giữa vợ và chồng.

13
TS Lê Ngọc Văn (Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ) cho rằng
gia đình có ba chức năng:
- Chức năng kinh tế
- Chức năng sinh đẻ và chức năng chăm sóc sức khỏe gia đình
- Chức năng giáo dục và xã hóa gia đình gia đình.
GS Lê Thi quan niệm : Gia đình có năm chức năng:
- Chức năng tái sản xuất ra con người, ra thế hệ tương lai
- Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái
- Chức năng kinh tế
- Chức năng đảm bảo sự cân bằng tâm lý
- Chức năng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trẻ em, người ốm, người già của gia đình.
Tuy quan niệm cụ thể có sự khác nhau, nhưng hầu hết các tác giả đều đề cập tới
những chức năng cơ bản của gia đình với tư cách là thiết chế đặc biệt của xã hội.
1.4.2. Chức năng sinh đẻ và tái sản xuất con người
Tái sản xuất con người là chức năng đặc trưng của gia đình, vì trong tất cả các
thiết chế xã hội, không có một thiết chế nào có chức năng tái sản xuất con người trừ gia
đình.
Gia đình được hình thành từ quan hệ hôn nhân, đó là quan hệ giới tính nam -nữ
(chồng - vợ). Quan hệ này bắt nguồn từ nhu cầu tình cảm và nhu cầu tình dục tự nhiên
của con người. Kết quả của mối quan hệ này là đứa con ra đời, đánh dấu việc thực hiện
chức năng đầu tiên của gia đình là duy trì nòi giống, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của gia
đình và cũng là sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Tùy theo phong tục tập quán, ý nguyện của vợ chồng và những điều kiện khác, sự
ra đời của đứa con đầu lòng sớm hay muộn. Chức năng này chi phối toàn bộ các mối
quan hệ và chức năng khác của gia đình. Khi đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng bắt đầu
thực hiện vai trò mới (làm cha, làm mẹ) trách nhiệm và công việc nặng nề hơn. Những
mối quan hệ phức tạp của gia đình bắt đầu xuất hiện. Mọi sinh hoạt quan hệ bình thường
của gia đình được sắp xếp xung quanh đứa trẻ, theo đứa trẻ, vì đứa trẻ.
Thời kỳ xã hội chưa phát triển, kinh tế văn hóa xã hội còn lạc hậu thấp kém, con
người không làm chủ được kế hoạch sinh đẻ của mình, vì vậy chức năng tái sản xuất con
người của gia đình được thực hiện một cách tự nhiên. Đối với gia đình truyền thống Việt
Nam, bên cạnh sự lạc hậu thấp kém còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng phong
kiến. Gia đình phải có con trai và đông con nhiều cháu mới là gia đình có phúc. Việc sinh
đẻ thiếu tính kế hoạch và khoa học đã làm cho dân số Việt Nam tăng nhanh và chất lượng
cuộc sống của mỗi gia đình không được cải thiện, tạo áp lực cho nhiều mặt của đời sống
xã hội. Tài nguyên thiên nhiện cạn kiệt, thiếu công ăn việc làm, dân số tăng còn là gánh
nặng cho y tế, giáo dục và nhiều mặt xã hội. Vì vậy chức năng tái sản xuất con người của
gia đình hiện đại ngày nay cần được điều tiết từ phía xã hôi thông qua chính sách dân số
kế hoạch hóa gia đình.
Theo yêu cầu của xã hội mỗi gia đình ngày nay chỉ nên có từ 1 đến 2 con là đủ.
Dù trai hay gái đều quí như nhau và phải chăm sóc nuôi dạy chu đáo, có như vậy gia đình
và đất nước mới phát triển ổn định. Hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật tạo điều
kiện cho gia đình chủ động trong việc sinh con theo ý muốn mà vẫn đảm bảo việc thỏa

14
mãn nhu cầu sinh lý tự nhiên của các cặp vợ chồng. Tuy nhiên thực tế cho thấy, nhiều gia
đình Việt Nam vẫn còn ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến: thích có nhiều con,
thích sinh con trai, cố sinh con trai để có người nối dõi tông đường. Không những thế,
việc thực hiện chức năng sinh đẻ gia đình còn phụ thuộc phong tục, truyền thống văn hóa
của địa phương, trình độ dân trí, đặc điểm lao động từng vùng. Ở những nơi trình độ của
dân trí còn thấp, nhất là ở nông thôn, miền núi, dân cư sống bằng nghề chài lưới ven biển,
tỉ lệ gia đình sinh nhiều con cao hơn hẳn những nơi khác. Yếu tố này chính là nguyên
nhân dẫn tới Việt Nam là một trong số các nước có mật độ dân số cao trên thế giới (đất
chật, người đông), đặc biệt là sự mất cân bằng về giới tính trong dân số tương lai mà xã
hội đang cảnh báo. Điều này đòi hỏi công tác truyền thông nhằm thực hiện kế hoạch hóa
gia đình phải tăng cường tác động đến từng gia đình.
1.4.3. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái
Nếu chức năng tái sản xuất con người là chức năng đặc trưng của gia đình, thì
nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em là chức năng của nhiều tổ chức xã hội (nhà trường, các tổ
chức đoàn thể khác) trong đó gia đình vẫn giữ vai trò quan trọng trong quá trình xã hội
hóa con người. Bởi vì, gia đình là môi trường xã hội đầu tiên của trẻ. Trước khi tới
trường, những đặc trưng xã hội của con người đã được hình thành từ môi trường gia đình.
* Con người là một thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội. Khi sinh ra, trẻ em
phải được nuôi dạy đúng theo kiểu người mới phát triển tốt cả về mặt thể chất và tâm lý.
Đó cũng là trách nhiệm quan trọng của các bậc cha mẹ. Quan niệm nuôi dạy con cái của
gia đình truyền thống ngày xưa theo phương châm “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”. Cùng
với nền kinh tế lạc hậu, thấp kém, gia đình ngày xưa gặp nhiều khó khăn trong việc nuôi
dạy con cái theo khoa học. Xét riêng ở góc độ nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho con
cái và mọi người trong gia đình, phần đông gia đình ngày nay có nhiều thuận lợi. Tuy
nhiên sự ô nhiễm về môi trường sống, thực phẩm lại gây ra những khó khăn mới cho sức
khỏe của con người nói chung, trẻ em nói riêng. Thực tế này đòi hỏi các bậc cha mẹ phải
có đầy đủ kiến thức nuôi con một cách khoa học.
* Gia đình Việt Nam mọi thời đại đều coi trọng việc giáo dục con cái trong gia
đình. Song mỗi thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau, chức năng giáo dục của gia đình mang
những đặc trưng khác nhau.
+ Thời kỳ phong kiến, trường học chưa nhiều phần lớn giành cho con nhà quan lại
quí tộc, trẻ em của đại đa số người dân được giáo dục trong gia đình. Cha mẹ ngoài việc
nuôi nấng con cái phải có trách nhiệm dạy dỗ giáo dục con chu đáo. Con cái mang tiếng
là “vô giáo dục”, trách nhiệm trước hết thuộc về cha mẹ, đó cũng là nỗi nhục cho gia
đình, thậm chí cho cả gia tộc.
- Nội dung giáo dục trong gia đình cũng như trong nhà trường chủ yếu là những
vấn đề kinh điển của Nho giáo. Cha mẹ dạy con cách làm người, ứng xử phù hợp với lễ
giáo phong kiến, sống có tình nghĩa.
- Phương pháp giáo dục được coi trọng là phương pháp nêu gương, giáo dục bằng
tình cảm. Tình cảm của cha mẹ giúp con người lựa chọn cái trân, thiện, mỹ.
+ Thời kỳ kinh tế bao cấp, chức năng giáo dục của gia đình dường như bị giảm
nhẹ. Gia đình vẫn chú ý giữ gìn phong tục, truyền thống gia phong để dạy con nhưng về
cơ bản xã hội làm thay cho gia đình. Nhà nước bao cấp toàn bộ cho giáo dục, cố gắng mở

15
hệ thống trường lớp nhà trẻ, mẫu giáo và trường phổ thông ở mọi nơi, đảm bảo chăm sóc
giáo dục trẻ ngay từ khi mới chào đời để gia đình yên tâm lao động sản xuất trong các
hợp tác xã.
+ Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển của kinh tế và văn hóa xã hội đã tạo
nhiều điều kiện cho gia đình trong việc giáo dục con cái. Chức năng giáo dục của gia
đình được trở lại đúng vị trí của nó. Nhà nước không còn bao cấp hoàn toàn cho giáo dục
như trước nữa, tuy nhiên vẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi, hỗ trợ giúp đỡ gia đình thực
hiện tốt chức năng này. Sự quan tâm thể hiện ở chế độ chính sách cho học sinh, sinh viên
có hoàn cảnh khó khăn và đẩy mạnh việc tuyên truyền kiến thức giáo dục thông qua
phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường làm cho giáo dục
gia đình hiện nay đang đứng trước những thách đố mới.
- Nội dung giáo dục của gia đình bên cạnh hình thành hành vi, kỹ năng sống phù
hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại, quá trình giáo dục trẻ em trước tuổi trưởng
thành phải chú ý nhiều đến nội dung kiến thức khoa học làm cơ sở cho việc học nghề.
Nhiều gia đình không đủ sức rèn cho con về mặt này.
- Xã hội phát triển rất phức tạp, cái tốt, cái xấu đan xen vào nhau đều tác động đến
trẻ một cách mạnh mẽ. Giáo dục gia đình cùng với nhà trường phải tạo ra “màng lọc” cho
trẻ trong vấn đề tiếp nhận những tác động từ phía xã hội : Tiếp thu được kinh nghiệm văn
minh hiện đại, đồng thời phải biết loại trừ, tránh xa những cái xấu. Trong khi đó hầu hết
các bậc cha mẹ (từ lao động phổ thông cho đến trí thức, nhất là những gia đình làm kinh
doanh) rất ít thời gian tiếp cận kiến thức về giáo dục và thời gian dành cho con cái.
- Chịu tác động của văn hóa ngoại lai và mặt trái của kinh tế thị trường, một số cha
mẹ lại là người nhiễm thói hư tật xấu, vô tình làm gương xấu cho con cái.
- Sự phát triển của xã hội khiến cho nhiều gia đình kỳ vọng ở con quá cao, gây nên
áp lực học tập nặng nề, làm trẻ em căng thẳng. Định hướng nội dung học tập lệch lạc cho
con cái, những vùng khó khăn vì kinh tế cho con cái nghỉ học, hoặc phó mặc cho nhà
trường. Đây là những vấn đề cần khắc phục trong giáo dục gia đình hôm nay.
1.4.4. Chức năng kinh tế của gia đình
Bất kì thời đại nào, nền kinh tế gia đình cũng giữ vai trò quyết định cho sự bền
vững của gia đình. Kinh tế gia đình phát triển, các chức năng của gia đình được thực hiện
tốt, mọi người được thỏa mãn nhu cầu ăn học, vui chơi, hưởng thụ văn hóa...Ngược lại,
kinh tế gia đình khó khăn ảnh hưởng không tốt đến nhiều mặt sinh hoạt và việc thực hiện
các chức năng khác của gia đình.
+ Trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, gia đình là một đơn vị sản xuất, một đơn vị
kinh tế độc lập. Mọi thành viên trong gia đình, dưới sự chỉ huy của một người, thường là
ông, hay cha, chồng, cùng lao động chung trong một cơ sở sản xuất tiểu nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, tiểu thương nghiệp...Và tất cả cùng ăn, cùng ở trong một ngôi nhà. Toàn
bộ thu nhập của gia đình cũng tập trung. Vì vậy, mọi thành viên lệ thuộc với nhau vào
chính đơn vị kinh tế này. Họ chung sức làm cùng hưởng, chính điều này tạo nên mối liên
kết gia đình bền vững, hòa thuận.
+ Thời kì bao cấp, chức năng kinh tế của gia đình bị tước bỏ, kinh tế gia đình hoàn
toàn do xã hội quyết định.

16
+ Trong xã hội hiện đại ngày nay chức năng kinh tế gia đình được chuyển hóa
dưới dạng hoàn toàn khác.
Ở nước ta khi chính sách “Khoán hộ” ra đời vào những năm 1980, mở đầu thời kỳ
đổi mới của đất nước, chức năng kinh tế của gia đình bắt đầu được phục hưng. Không chỉ
những gia đình nông nghiệp ở nông thôn mà cả những hộ kinh doanh sản xuất, tiểu
thương ở đô thị cũng được “cởi trói” phát huy hết khả năng của mình trong lĩnh vực kinh
tế. Kinh tế gia đình phát triển không chỉ cải thiện đời sống của các thành viên trong gia
đình mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Có thể nói công cuộc đổi
mới của Đất nước ta bắt đầu từ sự đổi mới của kinh tế gia đình.
Ngày nay kinh tế hộ gia đình dưới hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn đang
giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Không chỉ đóng góp thu nhập cho đất
nước, gia đình còn thể hiện như một đơn vị tiêu dùng các giá trị vật chất, tinh thần do xã
hội làm ra điều đó lại thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Tuy nhiên thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng có tác động tiêu cực đến
gia đình. Ở nhiều gia đình, đồng tiền chi phối các mối quan hệ, làm thay đổi các giá trị
truyền thống. Trước kia, mô hình kinh tế gắn kết các thành viên gia đình, ngày nay mỗi
thành viên trong gia đình lao động ở cơ sở khác nhau, mọi người không còn quan hệ với
nhau trong một tổ chức sản xuất, chỉ liên hệ với nhau bởi sự đóng góp tiền để lập ngân
sách chung của gia đình nhằm thỏa mãn nhu cầu của gia đình. Chức năng kinh tế chuyển
từ chức năng sản xuất sang chức năng tiêu dùng và điều phối các chức năng khác. Điều
đó dễ làm lỏng lẻo mối liên kết của các thành viên, nếu gia đình không thống nhất được
ngân sách chung, mỗi người một vốn, chỉ cần có sự bất hòa về mặt tình cảm là dễ dẫn tới
tan vỡ. Hiện tượng ly hôn tăng nhanh ở những nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa chứng
minh cho vấn đề này.
1.4.5. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên trong gia đình
Khác với các thiết chế xã hội khác, gia đình là nhóm nhỏ xã hội bao gồm những
người thân yêu ruột thịt, chung sống hàng ngày với nhau. Xuất phát từ mối quan hệ huyết
thống mọi thành viên trong gia đình gắn bó, yêu thương, sống có trách nhiệm lo lắng vì
người thân. Vợ chồng, cha mẹ, con cái là chỗ dựa của nhau, luôn quan tâm chia sẻ những
vui buồn, khó khăn, an ủi động viên nhau trong cuộc sống. Gia đình là môi trường an
toàn cho những trẻ nhỏ, là chỗ dựa vững chắc giải tỏa được những căng thẳng, thất vọng
của mỗi người sau những giờ làm việc căng thẳng nơi cơ quan công sở. Chính vì vậy đi
đâu, làm gì ai cũng hướng về tổ ấm của mình.
Do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo và điều kiện kinh tế xã hội, gia đình
truyền thống và gia đình thời bao cấp thực hiện tốt được chức năng này.
Trong thời kỳ hiện nay, đa số gia đình vẫn duy trì được nề nếp gia phong của gia
đình truyền thống. Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau, giá trị nhân văn được
đề cao, gia đình thực sự là tổ ấm của mọi người. Bên cạnh đó nhiều gia đình không thực
hiện tốt được chức năng này. Tỉ lệ các gia đình tan vỡ, ly hôn đang có chiều hướng gia
tăng, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ yếu tố tâm lý gia đình.
Để thỏa mãn nhu cầu tình cảm cho mọi người, các bậc cha mẹ phải có trách nhiệm
tổ chức cuộc sống hợp lý. Gia đình phải xây dựng và duy trì được các mối quan hệ giữa
các thành viên trong tình ruột thịt, thương yêu nhau hết mực, trên kính dưới nhường. Tạo

17
ra bầu không khí gia đình đầm ấm, tránh được những cuộc xung đột đáng lý không thể
xảy ra, và khi đã xảy ra thì cần được giải quyết kịp thời, tế nhị, tình cảm. Biết cách tổ
chức gia đình tốt, thì dù có nghèo mà mọi người đoàn kết thuận hoà, yêu thương lẫn
nhau, còn hơn những gia đình tuy giàu sang phú quý nhưng lại lục đục chỉ vì không yêu
thương nhường nhịn nhau, dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt, xung đột.
1.4.6. Chức năng chăm sóc người già và người thân mất sức lao động
Chăm sóc, nuôi dưỡng người già, người thân mất sức lao động là bổn phận và
trách nhiện của mỗi thành viên trong gia đình. Đạo lý làm người từ xưa đến nay là : “Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”. “Uống nước nhớ nguồn”. Hơn nữa gia đình Việt Nam từ xưa tới
nay có truyền thống tốt đẹp “Trẻ cậy cha - già cậy con” , “Chị ngã em nâng” .
Bổn phận làm con phải chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ khi tuổi già, hết sức lao
động. Nếu người thân như anh chị, em, bị mất sức lao động vì tàn tật, vì tai nạn v.v... mà
không có nơi nương tựa thì chúng ta phải cưu mang giúp đỡ với tinh thần máu mủ : “Máu
chảy ruột mềm”. Đó vừa là nghĩa vụ vừa là lương tâm, là tình thương yêu huyết thống.
Trong gia đình truyền thống, do gia đình là một đơn vị kinh tế nông nghiệp, sự
chăm sóc người già, tàn tật được thể hiện trực tiếp, có nghĩa là cha mẹ ốm đau, con cái
trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng.
Trong thời đại ngày nay, các con phải đi lao động xa, phải ở các cơ sở xí nghiệp
nên thường không có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp bố mẹ, ông bà khi già yếu.
Đây là một khó khăn của gia đình hiện đại ngày nay. Đối với những người già lao động
tự do hay xuất phát từ gia đình nông dân, sự chăm sóc cha mẹ già của gia đình không chỉ
khó khăn về cơ sở vật chất, còn khó khăn cả về thời gian cho các cụ. Vấn đề này rất cần
sự hỗ trợ từ phía xã hội.
Dù khó khăn đến đâu, con cái và các cháu trong gia đình phải có trách nhiệm
chăm sóc cha mẹ già đến nới đến chốn, luôn luôn phải có ý thức trách nhiệm với bố mẹ,
ông bà, anh chị em trong gia đình. Tuỳ theo hoàn cảnh sự quan tâm ân cần được biểu
hiện ra những việc làm cho thích hợp nhằm : Giúp cho ông bà sống đầy đủ về vật chất,
vui vẻ không bị cô đơn (như thường xuyên chăm nom, chuyện trò...). Đảm bảo cuộc sống
của các cụ được an toàn và ổn định. Luôn luôn kính trọng, động viên các cụ giúp con
trông nom và giáo dục các cháu nội ngoại. Thông cảm với bệnh tật và sự trái tính trái nết
vì tuổi già sức yếu. Nên nhường nhịn và chiều chuộng cho các cụ vui lòng, mặt khác cần
tôn trọng sự độc lập của các cụ, thể hiện sự biết ơn theo tinh thần:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

**************************************

CÂU HỎI ÔN TẬP

18
1/ Trình bày những định nghĩa về gia đình từ các cách tiếp cận khác nhau, cho ví
dụ về cá kiểu loại gia đình.
2/ Tại sao nói gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt?
3/ Phân tích mô hình gia đình Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
4/ Trong điều kiện phát triển của xã hội hiện đại gia đình gặp những thuận lợi và
khó khăn gì trong việc thực hiện chức năng của mình? Các thành viên trong gia đình phải
làm gì để khắc phục những khó khăn ấy?
5/ Dựa vào đặc điểm, vai trò và chức năng của gia đình hãy phân tích mối quan hệ
giữa gia đình và xã hội, từ đó rút ra kết luận ứng dụng ở góc độ quản lý xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Ngô Công Hoàn (1993) Tâm lý học gia đình. Trường ĐHSP Hà Nội 1
[2] Nguyễn Khắc Viện (1999) Tâm lý gia đình, Nxb Thanh niên
[3] Lê Thi (1996) Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb KHXH
[4] Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý (2009) Gia đình học. NXB Chính trị - Hành chính (tr.
41-323)
[5] Quốc hội (2014) Luật hôn nhân và gia đình. Luật số: 52/2014/QH13. Luật này đã
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 19 tháng 6 năm 2014./.

19
CHƯƠNG II: CÁC PHƯƠNG THỨC TÁC ĐỘNG CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA CÁC THÀNH VIÊN

Mục tiêu: Sau khi học xong nội dung chương 2, sinh viên có thể:
8) Giải thích được quá trình xã hội hóa con người từ môi trường gia đình
9) Trình bày được các phương thức tác động đến sự phát triển tâm lý của các thành
viên trong gia đình: phương thức đồng hóa và bắt chước
10)Tìm kiếm và chứng minh các mô hình giáo dục gia đình với các nội dung và
phương pháp đặc trưng riêng biệt.
******************************************
2.1. Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên của quá trình xã hội hóa con người
2.1.1. Gia đình với chức năng xã hội hóa.
Xã hội hóa là một khái niệm, một phạm trù cơ bản của xã hội học, chỉ quá trình cá
thể tiếp thu, học tập nền văn hóa xã hội mà anh ta được sinh ra và sống - tức là lĩnh hội
các kinh nghiệm xã hội, học những gì phải làm, những cái gì không được làm, học ngôn
ngữ, học tri thức, các chuẩn mực, giá trị xã hội để thích ứng với xã hội.
Nhờ có quá trình xã hội hóa mà nền văn hóa được truyền từ thụ, nối tiếp từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Xã hội hóa cho thấy mối liên hệ cơ bản giữa cá nhân và xã hội- một
mối liên hệ sống còn đến mức và cả cá nhân và xã hội đều không thể tồn tại nếu thiếu nó.
Một mặt, xã hội hóa cho phép cá nhân học hỏi những điều cơ bản đối với đời sống xã hội.
Mặt khác, xã hội hóa cho phép tái tạo lại bản thân nó về mặt sinh học và văn hóa, do đó
bảo đảm tính liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người chỉ thực sự trở thành con
người thông qua sự tương tác với người khác. Không có xã hội hóa con người không thể
hình thành nhân cách và hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Thực chất của xã hội hóa là quá
trình chủ thể hóa các tri thức của xã hội thông qua lăng kính chủ quan và sự xét đoán của
mỗi cá nhân. Các cá nhân tiếp thu tri thức bằng cả hai con đường; chính thức và không
chính thức, tương ứng với các hình thức xã hội hóa chính thức và xã hội hóa không chính
thức. Xã hội hóa không chính thức là kết quả tự nhiên của tương tác xã hội giữa những
người gần gũi nhất xung quanh như gia đình, nhóm bạn bè...Ở đó, cá nhân học được
nhiều điều thông qua sự bắt chước, quan sát và kinh nghiệm. Xã hội hóa chính thức là là
quá trình tiếp thu tri thức, kinh nghiệm xã hội thông qua giáo dục.
Quá trình xã hội hóa được phân chia thành hai cấp độ:
- Xã hội hóa sơ cấp: là sự học hỏi đầu tiên trong đời, cung cấp nền tảng cho sự nhận
thức bản thân và thế giới xung quanh.
- Xã hội hóa thứ cấp là những học hỏi của cá nhân nhằm mở rộng hiểu biết, kỹ
năng... đáp ứng các mong đợi của xã hội của cộng đồng, của nhóm.
+ Gia đình không chỉ tái sản xuất ra con người về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra
đời sống tình cảm, tâm hồn, văn hóa, tức là xã hội hóa - quá trình biến đứa trẻ từ một sinh
vật người thành con người xã hội. Gia đình là môi trường đầu tiên, môi trường vi mô có
vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu. Trẻ em sinh ra, lớn lên thành
con người xã hội, phải được phát triển trên cả ba phương diện : thể chất, trí tuệ và tình
cảm.

20
Sự phát triển thể chất cho đứa trẻ sức mạnh về cơ thể để tồn tại trong tự nhiên và
xã hội với tư cách là một người trưởng thành.
Sự phát triển trí tuệ cho trẻ những khả năng suy đoán về hiện tại, quá khứ và tương
lai để tự chủ trong cuộc sống, không chỉ thích nghi để tồn tại mà còn cải tạo tự nhiên và
xã hội để phục vụ ý muốn của con người.
Sự phát triển tình cảm cho trẻ khả năng sống hòa nhập trong gia đình cũng như
trong xã hội, từ đó làm nên sự nghiệp lớn.
Sự phát triển ba mặt này có mối quan hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ nhau làm cho
trẻ tiến dần đến chỗ có thể tự quyết định một một thái độ, một cách ứng xử hay một hành
động trong khuôn khổ của cộng đồng và xã hội
Gia đình là tổ chức xã hội đầu tiên có khả năng nhất trong việc phát triển cả ba
phương diện cho trẻ. Gia đình tác động đến trẻ ngay khi nó còn là bào thai thông qua
người mẹ và sự tác động ấy tiếp tục trong suốt quá trình từ khi đứa trẻ ra đời cho đến khi
thành người lớn, tự chủ hoàn toàn.
Về phương diện xã hội, gia đình hình thành cho trẻ những đặc trưng sau :
- Danh tính: Tên gọi là dấu hiệu xã hội đầu tiên của con người, có tác dụng phân
biệt người này với người khác và còn là phương tiện giao tiếp cho mỗi người trong xã
hội. Tên gọi của trẻ được ông bà, cha mẹ đặt cho, nó thường gắn với một sự kiện tâm lý
diễn ra trong gia đình hoặc sự kiện đặc biệt của đất nước hay xã hội. Tên gọi không chỉ
thể hiện nguồn gốc xã hội của trẻ mà còn là sự thể hiện những mong đợi của ông bà, cha
mẹ về con cháu của mình trong tương lại. Chẳng hạn, cha mẹ đặt tên cho con là Nguyễn
Hòa Bình vì sự ra đời của trẻ đúng vào ngày Đất nước hoàn toàn giải phóng, hoặc
Nguyễn Trí Dũng với mong muốn vừa là người thông minh vừa là người mạnh mẽ giàu
nghị lực.
- Dáng đi thẳng đứng của con người không có sẵn trong gien di truyền, nó chỉ
được hình thành trong môi trường xã hội. Cha mẹ và người thân trong gia đình đã tạo
mọi điều kiện và rèn luyện cho trẻ những bước đi đầu tiên trong cuộc đời.
- Ngôn ngữ : Thực tiễn và lý luận đã chứng minh trẻ có phản ứng rất sớm với tiếng
nói của người mẹ và những người giao tiếp với trẻ. Trong thời kỳ đầu tiên của việc học
nói, ngôn ngữ của trẻ chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngôn ngữ người mẹ và những người
thân trong gia đình. Tiếng nói của mẹ và những người thân trong gia đình quyết định
giọng điệu và cách phát âm của trẻ. Sau này khi lớn lên, dù sống ở đâu, có sự thích nghi
với môi trường mới đến mấy, người ta vẫn nhận ra âm tiết giọng nói của gia đình và địa
phương.
- Gia đình hình thành cho trẻ những hành vi đặc trưng theo kiểu người trong quá
trình giao tiếp với người khác và trong quá trình tiếp xúc với thế giới đồ vật. Nhìn chung,
giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn đầu tiên của quá trình xã hội hóa con người, những
nền tảng nhân cách bắt đầu được hình thành ở giai đoạn này và diễn ra chủ yếu ở môi
trường gia đình.
- Bước sang tuổi học sinh phổ thông, các phẩm chất trí tuệ và nhân cách tiếp tục
phát triển mạnh và ngày càng trở nên ổn định. Trong quá trình phát triển đó, giáo dục của
nhà trường và sự tác động của môi trường xã hội giữ vị quan trọng. Song giáo dục gia
đình vẫn có ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng nhân cách của trẻ.

21
Với sự ảnh hưởng tuyệt đối đến quá trình xã hội hóa đầu tiên của con người, văn
hóa gia đình và giáo dục gia đình thường để lại dấu ấn sâu sắc trong nhân cách mỗi
người. Vậy nên tục ngữ có câu “Giỏ nhà ai qui nhà ấy”.
Xã hội hóa không chỉ cần thiết đối với con cái, đối với trẻ em mà còn cần thiết đối
với bố mẹ và người lớn tuổi. Đó là tính chất hai chiều của quá trình xã hội hóa. Xã hội
hóa không chỉ gồm những điều cha mẹ truyền cho con cái, mà còn cả những điều con cái
mang lại cho cho mẹ mình.
2.2. Phương thức tác động của gia đình đối với sự phát triển tâm lý của các thành
viên
2.2.1. Sự đồng hóa
Trẻ em khi ra đời là một thực thể yếu ớt, bất lực, toàn bộ những kinh nghiệm xã
hội loài người nằm ngoài cơ thể nó. Muốn phát triển thành người lớn có nhân cách, trẻ
phải được chăm sóc giáo dục theo kiểu người, phải được tiếp xúc với người khác để nhập
tâm kinh nghiệm xã hội của loài người. Tất cả những kinh nghiệm ban đầu mà trẻ có
được trước hết nhờ văn hóa gia đình thông qua cơ chế đồng hóa.
Theo từ điển “Từ và Ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân, xb2000 “Đồng hóa là cùng
biến đổi”. Qúa trình đồng hóa kinh nghiệm xã hội loài người chỉ diễn ra trong mối quan
hệ giao tiếp với người khác. Trong quá trình tiếp xúc với nhau, nhân cách người này có
ảnh hưởng đến nhân cách người khác, tạo nên sự biến đổi, phát triển và để lại dấu ấn của
nhau trong nhân cách mỗi người. Các nhà Phân tâm học còn gọi quá trình này là quá trình
đồng nhất.
Sự đồng nhất thể hiện ở hai hình thức : Hấp thụ toàn bộ nhân cách của người khác,
được gọi là sự chiếu rọi nội tâm từ bên trong (introjection); Còn sự hấp thị một số cá tính
nào đó gọi là sự chiếu rọi (projection). Bằng sự chiếu rọi trẻ em tuổi mẫu giáo muốn có
đồ chơi và chơi những trò chơi theo ý muốn. Thông qua trò chơi nhất là trò chơi đóng
vai, các em học được nhiều điều từ người khác. Các nhà chuyên môn gọi giai đoạn này là
tuổi vị tâm.
Sự đồng nhất là nhu cầu của trẻ vì các em cần được sống trong môi trường an toàn
và được che chở, được yêu thương. Đối tượng được các em đồng nhất trước tiên là những
người thân trong gia đình, nhất là người mẹ.
Sự đồng nhất ở trẻ trong thời gian đầu hoàn toàn mang tính vô thức. Do sự bất
phân về cảm giác, trẻ sơ sinh đồng nhất người mẹ với mình là một (vú mẹ trẻ có cảm
tưởng là của mình ) trẻ có nhu cầu bám níu, áp sát vào cơ thể người me. Về phía người
mẹ, do bản năng nuôi con nên họ rất nhạy cảm và thỏa mãn ngay nhu cầu của con bằng
hành vi âu yếm, ôm ấp xoa nắn... Giữa người mẹ và con tạo nên mối quan hệ gắn bó đặc
biệt “da kề da, thịt kề thit”. Trong mối quan hệ ấy cả hai đắm mình trong tình cảm yêu
thương. Từ đó trẻ bắt đầu nhập tâm một cách vô thức những trạng thái cảm xúc của
người mẹ thông qua cách bế bồng âu yếm, dần dần trẻ biết thể hiện cảm xúc của mình
theo kiểu người và bắt đầu hình thành được những chức năng tâm lý khác. Encônhin cho
rằng trong năm đầu tiên, trẻ mới chỉ là một thực thể tự nhiên và có mầm mống của một
thực thể xã hội. Trẻ với mẹ hòa mình là một về mặt tâm lý. Giao tiếp cảm xúc trực tiếp
với người lớn đặc biệt người mẹ là hoạt động chủ đạo quyết định sự hình thành những
đặc trưng tâm lý theo kiểu người ở trẻ. Quá trình này chỉ diễn ra một cách thuận lợi khi

22
người mẹ có tâm trạng vui vẻ, dành hết thảy tình yêu cho con, tạo cho trẻ cảm giác an
toàn tuyệt đối.
Các nhà phân tâm học cũng cho rằng, trong hai năm đầu trẻ con chủ yếu sống theo
bản năng nguyên thủy và những tiềm năng. Nếu mối quan hệ giữa mẹ và trẻ diễn ra tốt
đẹp, trên cơ sở tiềm năng sẵn có ( cơ thể khỏe mạnh, não phát triển tốt ) trẻ nhanh chóng
nhập tâm được kinh nghiệm đơn giản đầu tiên của xã hội loài người thông qua hành vi
giao tiếp ứng xử của mọi người trong gia đình, đặc biệt là người mẹ. Ngược lại mối quan
hệ này không thuận lợi sẽ hạn chế, thậm chí ảnh hưởng xấu tới quá trình đồng hóa những
kinh nghiệm xã hội của trẻ.
Mối quan hệ gia đình diễn ra thường ngày đã giúp trẻ tích lũy được nhiều kinh
nghiệm, trẻ nhập tâm được những cung cách ứng xử của các thành viên, dần dần trở
thành những phẩm chất tâm lý của cá nhân, trong đó có dấu ấn nhân cách của cha mẹ.
Những phẩm chất này có thể tồn tại sâu trong tiềm thức, chi phối một cách tự nhiên hành
vi ứng xử của cá nhân trong mối quan hệ với người khác. Do vậy ngay cả khi lớn lên, có
trường hợp ở trạng thái ý thức, con người ta cũng không lý giải nổi tại sao mình lại hành
động như vậy. Chẳng hạn một cô gái bị mẹ đối xử tệ bạc ngay từ lúc còn nhỏ, khi lớn lên
lập gia đình có con, cô ta nói rằng mình sẽ không bao giờ đối xử với con mình như mẹ đã
từng đối xử với mình. Thực tế cô ta đã hành động với con mình giống như mẹ cô hành
động với cô hồi còn nhỏ. Khi người khác nhắc việc cô ta đã từng tuyên bố về cách ứng
xử với con thì cô ta lại lý giải tại khách quan buộc cô ta phải xử sự như vậy.
Sự đồng nhất không chỉ xuất hiện trong thời kỳ thơ ấu mà còn tiếp tục phát triển
khi cá nhân đã trưởng thành và trong suốt cuộc đời của mỗi người. Đến tuổi thiếu niên,
sự đồng nhất mang một hình thức mới, bên cạnh sự rèn luyện để đạt được sự thành đạt
như cha mẹ hay người thân mà trẻ ngưỡng mộ, các em còn hướng tới những nhân vật nổi
tiếng mà các em tôn thờ như các anh hùng, các ngôi sao nổi tiếng hay các nhà khoa học.
Trong gia đình sự đồng nhất của cha mẹ hay của những người lớn khác đối với trẻ
em lại theo khuynh hướng ngược lại. Cha mẹ muốn con cái giống mình, giống với sự kỳ
vọng của họ về chúng trong tương lai, phương thức đồng nhất theo kiểu áp đặt, đe dọa
theo kiểu “ Hãy làm như mẹ, như ba yêu cầu nếu không thì coi chừng”. Cách đồng nhất
này nhiều khi không đem lại hiệu quả mà còn tạo ra sự chống đối ở con cái.
Đặc điểm nhân cách của những người thân có điểm khác nhau thậm chí đối lập
nhau đã làm cho sự đồng nhất của trẻ gặp khó khăn. Chẳng hạn, cha làm nghề môi giới,
mẹ làm nghề giáo viên, mỗi người có quan điểm đối lập nhau, sẽ xảy ra sự đấu tranh
khuynh hướng đồng nhất với cha hay với mẹ ở con cái họ. Kết quả đồng nhất theo
khuynh hướng nào nhiều hơn tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể của trẻ với từng người và
thái độ của chúng đối với họ.
Sự đồng nhất được xem như một khuynh hướng vốn có đi từ người này sang
người khác, nó được xem là một cơ chế của sự hình thành nhân cách. Bằng sự đồng nhất,
mỗi người tự hình thành nhân cách cho chính mình. Nhà tâm lý học James cho rằng:
Chúng ta có thể có nhiều cái tôi khi có nhiều người biết đến ta. Chính điều này lý giải tại
sao nhân cách của trẻ có đặc điểm giống với nhân cách của nhiều người trong gia đình.
Vì vậy, cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với nhiều người trong gia đình, không nên để
cho trẻ chỉ tiếp xúc với người bảo mẫu hay người mẹ dịu hiền. Càng tiếp xúc với nhiều

23
người trẻ càng có cơ hội học tập, phát huy được khả năng của mình. Trong gia đình có
anh em trẻ có điều kiện phát triển được khả năng cạnh tranh và tích lũy được nhiều kinh
nghiệm cho mình từ mối quan hệ này. Do đó gia đình hạt nhân đặc biệt là gia đình chỉ có
một con, có những lợi thế về mặt kinh tế, cá nhân được tự do nhiều hơn nhưng ở góc độ
đồng hóa để phát triển nhân cách của trẻ lại có những hạn chế nhất định.
Cũng cần lưu ý rằng, ngoài mối quan hệ gia đình, trẻ còn mối quan hệ với bạn bè
thầy cô và nhiều người khác trong xã hội. Hơn nữa sự tiếp nhận những tác động xã hội
của trẻ còn thông qua lăng kính chủ quan của mỗi người. Cho nên sự ảnh hưởng của cha
mẹ, người thân đến nhân cách của trẻ là rất quan trọng nhưng không phải là tất cả. Trong
thực tế có những trẻ em sống trong môi trường gia đình không lành mạnh, nhưng nhân
cách của các em khi lớn lên rất tốt. Vấn đề ở đây là cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với
nhiều người tốt và cần tăng cường mối quan hệ giữa gia đình và các thiết chế xã hội khác
như họ hàng, làng xóm, khối phố. Cần phải xóa bỏ tư tưởng tồn tại bấy lâu nay “Đèn nhà
ai người ấy sáng”. Các tổ chức xã hội như đoàn thanh niên, hội phụ nữ tích cực giúp các
em có hoàn cảnh khó khăn về gia đình, góp phần hòa giải những xung đột của các gia
đình để môi trường nhỏ của trẻ được tốt đẹp.
2.2.2 Cơ chế bắt chước
Bắt chước là một đặc tính của con người và phát triển rất mạnh ở trẻ em. Con người
vốn có bản chất hướng thiện, luôn luôn hướng lên tốt đẹp, tiến bộ theo những tấm gương
tốt của người thật, việc thật, của các nhân vật tốt trong văn học, nghệ thuật phim truyện,
của các anh hùng, bác học, vĩ nhân ...
Bắt chước không phải là sự sao chép một cách máy móc và mù quáng. Những
nghiên cứu về sự phát triển của hoạt động bắt chước cho thấy trẻ em thường:
- Từ chỗ bắt chước các mẫu mực gần gũi đến bắt chước các mẫu mực xa
- Từ chỗ bắt chước một cách vô ý thức, đến bắt chước một cách chủ động
- Từ chỗ sao chép toàn bộ hình tượng hành vi ứng xử đến chỗ chỉ mượn một số nét
riêng rẽ.
- Từ chỗ bắt chước trong trò chơi đến chỗ bắt chước trong cuộc sống.
- Từ chỗ bắt chước vẻ bề ngoài đễn chỗ bắt chước những phẩm chất bên trong của
nhân cách.
Tính chất của hoạt động bắt chước thay đổi tùy theo lứa tuổi, tùy theo sự mở rộng
vốn kinh nghiệm của trẻ em.
Những tấm gương tốt nhất mà con cái thường hay noi theo là bắt chước cha mẹ, ông
bà, tiếp đó là bạn bè.
Thông thường, con trai hay bắt chước cha, con gái bắt chước mẹ và em bắt chước
anh chị, trò bắt chước thầy. Các em thường bắt chước từng hành vi, cử chỉ, lời nói, việc
làm và các phẩm chất nhân cách. Sự bắt chuớc đó được lặp đi lặp lại, kéo dài tháng này
qua tháng khác, lâu dần thành thói quen.
Cần lưu ý, các em bắt chước cả hành vi tốt lẫn hành vi xấu, vì vậy ca dao tục ngữ
Việt Nam mới có câu : “Cha nào con ấy, rau nào sâu đó”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”.
Các bậc cha mẹ muốn có con ngoan, tốt thì trước tiên, cha mẹ phải là một tấm
gương sáng về mọi mặt để con em học tập và bắt chước.

24
Cũng cần nói thêm là không chỉ trẻ em bắt chước người lớn, mà còn là người lớn bắt
chước trẻ em. Trẻ em là một lực lượng luôn nhạy bén với những cái mới của thời đại,
chúng học được ở xã hội nhiều điều tiến bộ mà cha mẹ chưa biết. Sống trong gia đình
chính trẻ em chỉ bảo cho người lớn những điều tiến bộ ấy, hoặc người lớn bắt chước trẻ
em những cái mới đó.
2.2.3. Tạo lập bầu không khí gia đình
Cha mẹ là những kênh cơ bản giúp con cái học về văn hoá. Những khác biệt trong
thái độ xã hội phản ánh các giá trị văn hoá rộng lớn hơn. Ví dụ, cha mẹ Châu Á cho rằng,
trong giáo dục, sự cố gắng hay chịu khó quan trọng hơn năng lực “cần cù bù thông minh”;
trong khi cha mẹ người Mỹ lại tin, chính năng lực bẩm sinh mới tạo ra thành công
(Stevenson & Zusho, 2002). Các quy gán văn hoá cho nguyên nhân thành công này rất
nhất quán với nền tảng văn hoá của các xã hội theo xu hướng cộng đồng và xu hướng cá
nhân.
Các khác biệt trong hệ giá trị của cha mẹ được phản ánh qua sự tham gia của họ vào
hệ thống giáo dục. Cha mẹ gốc Âu thường hay chú ý hơn tới các hoạt động trong trường và
các giáo viên của con em mình, trong khi đó cha mẹ Mỹ gốc Á lại quan tâm tới các sự kiện
ngoại khoá như đi thăm bảo tàng, thư viện để góp phần cho thành công trong giáo dục của
con em mình (Sy & Schulenberg, 2005). Cha mẹ người Châu Á cũng thường nhấn mạnh
đến các mong đợi cao về con cái và các quy tắc dứt khoát về những hoạt động cản trở việc
học tập. Vì cha mẹ người Mỹ tin vào những hạn chế do năng lực đặt ra nên họ cũng ít nhấn
mạnh đến kỳ vọng cao về con cái và quan tâm hơn tới việc nâng cao lòng tự trọng của trẻ.
a. Xếp đặt việc ngủ của trẻ
Bầu không khí trong gia đình là tác động văn hoá đầu tiên đến cách thành viên
trong xã hội và việc sắp đặt việc ngủ được coi là rất quan trọng đối với sự an toàn
của trẻ.
2.3. Giáo dục trẻ em trong gia đình và sự ảnh hưởng tâm lý
3.1. Gia đình là môi trường giáo dục đặc biệt
Gíao dục là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, trong sự phát triển
của xã hội hiện nay, chức năng giáo dục của gia đình không hề giảm nhẹ mà vẫn có tầm
quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Nhà xã hội họcJ.
Shchepanski (người Ba Lan ) cho rằng : Trong suốt thời kỳ đi học của trẻ em, gia đình
vẫn là một thể chế giáo dục và rèn luyện cá nhân, có khả năng thay thế ảnh hưởng của
nhà trường ở một mức độ đáng kể.
“Giaó dục gia đình là sự tác động có hệ thống, có mục đích của những người lớn
trong gia đình và toàn bộ nếp sống của gia đình đến đứa trẻ” ( Vũ Sơn - Gia đình và vấn
đề giáo dục gia đình, Nxb Khoa học xã hội, 1994).
Với đặc trưng của mối quan hệ và văn hóa, giáo dục gia đình có nhiều đặc điểm
khác biệt so với giáo dục của nhà trường.
+ Mục đích giáo dục của gia đình
Ngay từ khi kết hôn, mỗi cặp vợ chồng đều mơ ước đến cuộc sống sau này là có
được những đứa con khỏe mạnh, thông minh, ngoan ngoãn và thành đạt. Đó chính là mục
đích giáo dục của gia đình.

25
Mục đích giáo dục của gia đình bị qui định bởi chế độ kinh tế xã hội, mà cơ sở
của nó là hệ tư tưởng, chuẩn mực đạo đức, hệ thống quan hệ trong gia đình. Về cơ bản,
mục đích giáo dục của gia đình thống nhât với mục đích giáo dục của nhà trường và xã
hội. Song nó được phân tán và cụ thể hơn, hướng vào từng đứa trẻ và gắn với lợi ích của
từng gia đình riêng biệt. Đồng thời nó cũng mang tính linh hoạt, thay đổi theo sự biến đổi
phát triển của đứa trẻ, sự vận động và phát triển của xã hội và phụ thuộc vào cuộc sống
cũng như định hướng giá trị của gia đình.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như hiện nay, nhiều hộ gia đình có
nghề nghiệp riêng, trở thành kinh tế tự chủ, mục tiêu giáo dục của từng gia đình lại càng
linh hoạt, tùy theo khả năng của trẻ và tình hình kinh tế của gia đình và địa phương.
+ Giáo dục gia đình không theo một kế hoạch, chương trình nhất định như giáo
dục nhà trường.
Giáo dục gia đình đối với một đứa trẻ mang tính liên tục kéo dài từ những năm
tuổi thơ đến khi trưởng thành và không có chương trình nhất định được soạn thảo một
cách khoa học như giáo dục của nhà trường. Giaó dục gia đình có tính chất đáp ứng, giải
quyết những tình huống xẩy ra trong cuộc sống và tùy theo mức độ được giáo dục của
trẻ. Cha mẹ có thể dạy con cái ở mọi nơi, mọi lúc trong tất cả các sinh hoạt hàng ngày
của gia đình. Chẳng hạn khách đến nhà con cái chào hỏi không đúng, cha mẹ nhắc nhở
điều chỉnh ngay. Trẻ quét nhà chưa sạch, chưa đúng, mẹ ân cần hướng dẫn lại động viên
con làm tới nơi tới chốn v v. Sư giáo dục tự nhiên, gắn liền với thực tế cuộc sống gia đình
được trẻ tiếp nhận dễ dàng, mang lại hiệu quả cao.
+ Nội dung giáo dục của gia đình phong phú gắn liền với thực tiễn cuộc sống.
Giaó dục gia đình không chỉ chú ý đến giáo dục đạo đức, trí tuệ, lao động mà còn
góp phần giáo dục tư tưởng chính trị, thể chất, thẩm mỹ và ý thức về gia đình cho trẻ.
Mặt khác những tri thức và kỹ năng do gia đình cung cấp không phải là những tri thức
trừu tượng. Đó là những kinh nghiệm sống hàng ngày luôn gắn liền với thực tiễn gia
đình, với những biến đổi của xã hội và sự phát triển của bản thân trẻ. So với nhà trường
mầm non, gia đình có phương tiện giáo dục phong phú đa dạng hơn. Do vậy giáo dục gia
đình mang tính linh hoạt, đượm màu sắc nghệ thuật và thích ứng với thực tiễn xã hội
nhanh hơn giáo dục của nhà trường.
+ Giaó dục gia đình được thực hiện trên cơ sở tình yêu thương ruột thịt
Chủ thể của giáo dục gia đình là ông bà, cha mẹ và những người thân trong gia
đình. Đối tượng giáo dục là những đứa con trong gia đình. Mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể là mối quan hệ ruột thịt, thân tình, yêu thương, sẵn sàng chia sẻ, hy sinh cho
nhau. Xuất phát từ tình yêu thương con cái, cha mẹ tự giác, nhiệt tình thực hiện quá trình
giáo dục, không quản khó khăn gian khổ, miễn sao con thành đạt là cha mẹ cảm thấy mãn
nguyện hạnh phúc. Không có một môi trường nào an toàn sung sướng bằng gia đình, ở đó
trẻ được quan tâm chăm sóc chu đáo, có điều kiện phát huy hết khả năng của mình. Rất
tiếc trong thực tế vẫn còn những gia đình chưa thực sự là tổ ấm hoặc vì lý do khách quan
trẻ vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi, cần phải được sự giúp đỡ của xã hội.
+ Với nội dung giáo dục cụ thể gắn với tình huống cuộc sống thường ngày,
phương pháp giáo dục bằng nêu gương của chính những người thân được coi là phương
pháp giáo dục đặc trưng của gia đình.

26
+ Giaó dục gia đình mang tính cá biệt cao
Sự giao tiếp trong cuộc sống thường ngày của gia đình là điều kiện thuận lợi làm
cho các bậc cha mẹ hiểu rõ con cái mình hơn bất cứ một nhà giáo dục nào. Họ biết rõ
được những khả năng, tính cách của con mình nên cách tác động bao giờ cũng phù hợp
với đặc điểm riêng của từng trẻ. Mặt khác, gia đình là nơi thường xuyên chứng kiến kết
quả giáo dục con cái, các bậc cha mẹ biết rõ hơn mọi người những thiếu sót trong quá
trình giáo dục, từ đó có thể định hướng, điều chỉnh một cách kịp thời quá trình giáo dục
của mình hoặc với sự giúp đỡ của các cơ quan giáo dục khác. Thực tế, rất nhiều bậc phụ
huynh lại thiếu về phương pháp sư phạm, nên họ thường thực hiện quá trình giáo dục con
một cách chủ quan, cảm tính, theo kinh nghiệm là chủ yếu. Chính vì vậy những ưu thế
của giáo dục gia đình phát huy được ở mức độ nào đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách trẻ, còn tùy thuộc vào trình độ học vấn và ý thức trách nhiệm giáo dục con em
của mọi người lớn trong gia đình, trước tiên là người cha và người mẹ.
Tóm lại, giáo dục gia đình có nhiều đặc điểm khác biệt so với giáo dục nhà trường
và giáo dục của xã hội. Xét riêng về giáo dục các phẩm chất đạo đức cho trẻ, giáo dục
của gia đình có nhiều thuận lợi hơn so với giáo dục nhà trường vì nó được thực hiện trên
cơ sở của tình yêu thương ruột thịt, diễn ra một cách tự nhiên trong cuộc sống hàng ngày
và mang tính cá biệt cao. Cha mẹ là những nhà giáo dục tích cực, đồng thời cũng là tấm
gương để con cái học tập. Với những đặc trưng ấy, nhân cách của mỗi con người thường
là tấm gương phản chiếu văn hóa và giáo dục gia đình.
3.2. Qúa trình giáo dục ở gia đình
3.2.1.Nội dung giáo dục gia đình
Để phát triển toàn diện con người, quá trình giáo dục của nhà trường và gia đình
cần tiến hành 5 mặt: Giaos dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất, giáo dục lao
động, giáo dục thể chất. Giaos dục trí tuệ là nhiệm vụ đặc trưng của nhà trường, gia đình
s
a.. Giáo dục đạo đức
Đạo đức là hệ thống những quy tắc chuẩn mực biểu hiện sự tự nguyện, tự giác của
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với tự nhiên và xã hội. Để đánh giá một con
người có đạo đức hay không, người ta căn cứ vào hành vi của người đó. Hành vi đạo đức
thường biểu hiện trong hành động đối nhân xử thế, trong nếp sống, trong phong cách,
trong điệu bộ cử chỉ, trong lời ăn tiếng nói.
* Giáo dục lòng nhân ái
Lòng nhân ái là gốc của phẩm chất đạo đức trong mỗi con người. Một người giàu
lòng nhân ái, sống biết đồng cảm bao dung với người khác sẽ không bao giờ hành động
trái với chuẩn mực đạo đức. Trên cơ sở quan hệ ruột thịt, huyết thống gia đình là môi
trường thuận lợi nhất để giáo dục lòng nhân ái cho con em.
+ Qúa trình giáo dục đạo đức trong gia đình trước hết là giáo dục lòng thương yêu,
kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ông bà, cha mẹ là người lớn tuổi nhất trong gia đình đã suốt một đời lao động vất
vả góp phần tạo dựng nên sự nghiệp và nuôi dạy con cái. Vì vậy, giáo dục lòng kính
trọng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ từ xưa đến nay vẫn được coi là yếu tố đạo đức
quan trọng nhất đối với trẻ ở trong gia đình. Nếu một con người không có lòng hiếu thảo,

27
nghĩa là không biết tôn kính, nhường nhịn chăm sóc ông bà, cha mẹ - những người ruột
thịt đã có công sinh thành nuôi dưỡng, thì họ cũng không thể có tình cảm yêu thương
cộng đồng, dân tộc, lòng nhân ái đối với con người. Nói một cách khác là con người bất
hiếu thường cũng bất nhân.
Ông bà nội, ngoại đều là người có công nuôi dưỡng cha mẹ để hợp thành công sức,
máu thịt sinh thành nuôi dưỡng mình. Khi tuổi già, sức yếu ông bà đi lại chậm chạp, khó
khăn, có khi còn mang bệnh nọ, tật kia, con cháu phải vui vẻ, niềm nở, thường xuyên
giúp đỡ ông bà, cha mẹ mọi mặt trong sinh hoạt về đi lại, tiểu đại tiện, ăn uống, tắm giặt
v.v...
Kính trọng ông bà, cha mẹ thì con cháu phải thể hiện trong cách cử xử : nói năng lễ
phép, không cáu gắt, tỏ thái độ khinh miệt khi ông bà, bố mẹ nhầm lẫn, sai sót hoặc có ý
ngăn cản những suy nghĩ, hành động chưa rõ ràng, minh bạch của mình.
Ông bà, bố mẹ tuổi già trái tính, trái nết thì con cháu phải biết cách chiều chuộng,
không chấp nhặt, coi thường, dùng những lời lẽ phỉ báng, hạ nhục “lẩm cẩm, thần kinh...”
gây ra cho ông bà, cha mẹ một tâm lý uất ức, phiền muộn... làm ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe, tình cảm.
Bất kì trong trường hợp nào, kể cả lúc cha mẹ kết luận sai, áp đặt những điều không
phù hợp ... cũng phải bình tĩnh để giãi bày sai, đúng, có tình, có lí “nói phải củ cải cũng
phải nghe” không được cãi lại bằng những câu, những lời thô tục hoặc thể hiện những
hành vi khiếm nhã “giận cá chém thớt, đụng rá đá niêu” một cách thô bạo, thậm chí còn
phải phân tích, lí giải sâu sắc, nhẹ nhàng khéo léo can ngăn cha mẹ liên quan đến những
điều thị phi.
+ Giáo dục đạo đức cho trẻ còn làm cho các em biết thông cảm sâu sắc với điều
kiện, hoàn cảnh đời sống của gia đình bằng cách công khai sự thu nhập, chi tiêu chính
đáng của bố mẹ, để trẻ biết sống “Tùy gia phong kiệm” không đua ăn, đua mặc, không
suy bì, tị nạnh với những gia đình khác có điều kiện kinh tế, địa vị xã hội hơn gia đình
mình nhằm tạo nên một không khí hòa thuận, ấm cúng, đồng cam cộng khổ, đưa đời sống
gia đình ngày càng phát đạt hơn như người xưa đã dạy : “Con không chê cha khó, chó
không chê chủ nghèo”.
Phải giáo dục trẻ biết vâng lời và biết hoàn thiện công việc một cách vui vẻ khi bố
mẹ sai bảo, không để bố mẹ phải nhắc đi, chắc lại năm bảy lần mới làm.
+ Đạo đức trong gia đình còn thể hiện trong quan hệ giữa anh chị em ruột thịt. Quan
niệm “nam tôn, nữ ti” - trọng nam, khinh nữ ngày càng bị đả phá, lên án. Anh chị em, dù
trai hay gái đều bình đẳng nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm trong việc xây dựng tổ ấm gia
đình. Các bậc cha mẹ trước hết phải xử sự công bằng mọi nghĩa vụ trách nhiệm giữa con
trai cũng như con gái, và giáo dục ý thức trách nhiệm đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau “Môi hở răng lạnh, máu chảy ruột mềm”.
Cha mẹ cần giáo dục cho con cái ý thức tôn trọng và bảo vệ quan hệ tôn ti trật tự ở
trong gia đình thể hiện ra trong cách ứng xử xưng hô. Ở vị trí làm anh, làm chị thì phải tỏ
ra rộng rãi, nhường nhịn, bao dung theo đạo lý truyền thống “huynh lương, đệ đế” là
“Làm chị ở cho lành, làm anh ở cho rộng”. Còn làm em út thì phải tỏ lòng quý mến, tôn
trọng anh chị, nghe theo anh chị những việc phải, điều phải để giữ đạo lý truyền thống
gia đình:

28
Trong bất cứ trường hợp nào anh, chị em cũng không nên nói xấu, dè bỉu lẫn nhau
gây nên cảnh “huynh đệ tương tàn”, phải thẳng thắn, đấu tranh góp ý “đóng cửa bảo
nhau” vì tình cốt nhục, tránh tình trạng anh em khinh trước, làng nước khinh sau. Hơn thế
nữa phải giáo dục cho trẻ xa gần, trên dưới rõ ràng, phân minh, chẳng hạn đối với người
ít tuổi hơn nhưng ở chi trên cũng phải gọi bằng anh, bằng chị để thể hiện tình gia tộc, “Bé
xác nhưng con ông bác, to xác nhưng con ông chú”.
Chú bác, cô dì là những người cùng huyết thống đã một thời sinh ra lớn lên dưới một
mái nhà, cùng chung bếp lửa với cha mẹ, cùng đồng cam cộng khổ từ tuổi ấu thơ “cùng
một khúc ruột chia ra”. Vì vậy, phải giáo dục cho trẻ luôn luôn có thái độ tôn kính, yêu
thương, đồng cảm, khi nói năng, cư xử phải lễ độ, từ tốn. Họ là những người có thể thay
mặt cha mẹ, gần gũi nhất với mình như tục ngữ đã có câu “mất cha còn chú, mất mẹ bú
vú dì”.
Trong trường hợp chú bác, cô gì gặp khó khăn, bất trắc thì phải chia sẻ, giúp đỡ theo
khả năng của mình, không nên thờ ơ, lãnh đạm hoặc tỏ thái độ khinh thường, ngạo mạn
làm cho tình cảm huyết thống ngày càng phai nhạt.
Từ tình cảm yêu thương những người thân yêu ruột thịt, gia đình còn phải giáo dục
con em biết thương yêu người khác.
Mỗi một con người từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi xuống mộ đều gắn bó
với hai loại quan hệ: quan hệ với ông bà, cha mẹ, anh em họ hàng trên cơ sở huyết thống,
người ta gọi đó là quan hệ gia đình, gia tộc và một loại quan hệ thứ hai là với bạn bè, với
cộng đồng, dân tộc gọi chung là quan hệ xã hội. Đây là quan hệ phức tạp, phong phú hơn
nhiều so với quan hệ huyết thống. Vì vậy ngay từ tuổi nhỏ dù đang sống trong phạm vi
gia đình là chủ yếu, các bậc cha mẹ cũng cần phải giáo dục, rèn luyện cho trẻ có những
hành vi đạo đức cơ bản trong quan hệ xã hội.
Con người ta được sinh ra ở trên đời, trừ những kẻ không may bị mất trí, còn thì ai
ai cũng biết cảm nhận sự sung sướng, hạnh phúc, vinh dự hay đau khổ thấp hèn. Và tất
nhiên nhu cầu, nguyện vọng tất yếu tự nhiên là được sung sướng hạnh phúc, không ai
muốn đau khổ, đói rách, tủi nhục thấp hèn. Nếu như có người phải chấp nhận một sự rủi
ro bất hạnh nào đó cũng chỉ vì “lực bất tòng tâm” không đủ sức xô đẩy ra khỏi cuộc đời
mình mà thôi. Vì vậy, giáo dục lòng nhân ái chính là giáo dục yêu thương con người, yêu
thương đồng loại, bởi họ cũng bằng xương, bằng thịt, tim óc biết đau đớn, xót xa, ân óan
như ta.
Sự sai biệt giữa loài người với các loài động vật khác chính là khả năng thấu cảm
những tình cảm nhân bản kinh nghiệm, tinh tế đặc biệt đó. Vì vậy, trong học thuyết của
Khổng giáo coi đức “nhân” là đức đứng đầu đạo lí của con người ở trong trời đất. Con
người có lòng nhân ái sẽ là con người không có hành vi “ích kỉ hại nhân” tức là chỉ biết
mưu mô thủ đọan đem lại điều lợi cho mình mà không động lòng trắt ẩn đến sự thiệt hại
đau đớn, nặng nề của người khác về mặt vật chất cũng như tinh thần. Học thuyết “nhân
ái”của Khổng giáo đã nêu lên một cách tổng quát là bất luận điều gì mà làm cho mình
đau thương, mất mát, thiệt thòi... do thiên hại hay nhân hại gây ra ... thì cũng không mong
cho người khác gặp phải? Vì họ cũng là con người bằng xương bằng thịt như mình, ai mà
không “của đau, con xót”. Hơn thế nữa, những điều gì tốt đẹp mình muốn đạt được như
làm ăn thịnh vượng, sức khỏe dồi dào hoặc lập thân nên sự nghiệp danh giá, cao sang...

29
thì cũng mong người khác đạt được, lập được như nguyện vọng, ước muốn của mình.
Chính vì thế mà cha ông ta đã khuyên một câu rất ngắn gọn, đơn giản bao hàm đầy đủ ý
nghĩa nhân sinh của lòng nhân ái là “Thương người như thể thương thân” và được cụ thể
hóa bằng những hành vi đạo đức trong đời sống hàng ngày là :chia sẻ, giúp đỡ tùy tâm
mình những cảnh đời rủi ro, họan nạn.
Bất kì sống ở trong xã hội nào, con người cũng phải có lòng nhân ái, yêu thương,
đồng cảm với người khác. Vì vậy, gia đình phải có trách nhiệm, giáo dục phẩm chất đạo
đức đó cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ thể hiện trong hành vi biết tôn trọng mọi người
không tham lam, độc ác, lừa gạt, dối trá với những người xung quanh để trở thành một
người công dân lương thiện.
* Tính khiêm tốn, lễ phép : Người xưa đã có câu dạy rằng “cái gì biết thì nói là biết,
cái gì không biết thì nói là không biết thế mới gọi là biết”. Đó chính là tính khiêm tốn,
thật thà - một phẩm chất vô cùng quan trọng trong nhân cách.
Gia đình phải giáo dục cho trẻ luôn luôn tỏ ra khiêm tốn không chủ quan ngạo mạn
tự cho mình là hay, là biết hơn người khác. Tính khiêm tốn thường biểu hiện bằng những
ngôn ngữ hành vi lễ phép trong giao tiếp với mọi người, chẳng hạn:
+ Gặp người cao tuổi, thầy cô giáo thì lễ phép chào hỏi, nhường bước, bày tỏ sự
trọng thị.
+ Bất kì đối với ai cũng không nên nói năng thô tục, có hành vi gây gổ.
+ Ở ngoài đường cũng như nơi đông người không nên cười nói ba hoa làm cho
người xung quanh khó chịu. Nếu như lỡ lời hoặc va vấp làm phiền đến người khác thì
phải có lời xin lỗi. Ai giúp cho mình việc gì dù nhỏ cũng phải có lời cảm ơn...
Đức tính khiêm tốn không những giúp cho con người ta học tập được những điều
hay ở nhiều người khác mà còn làm cho người ta có phong cách cư xử, chu đáo, cẩn thận,
cung kính, không hấp tấp, vội vàng, không tranh ăn, tranh nói, khoe khoang, phô trương
năng lực của mình. Chính vì vậy mà họ càng được nhiều người tin tưởng, mến phục.
* Tính chân thực: Quy luật tất yếu để tồn tại và phát triển của mỗi con người ở trong
xã hội là phải giao tiếp ứng xử với người xung quanh. Quan hệ giao tiếp, ứng xử đó có
đạt được những ý muốn, có thuyết phục được mọi người xung quanh không, điều đó phụ
thuộc vào đức tính chân thực của mỗi cá nhân.
Chân thực, chân thành, trung thực đều có nghĩa tương tự là đối lập với dối trá, man
trá, giả dối v.v... mà các bậc cha mẹ cần phải quan tâm giáo dục cho trẻ từ tuổi nhỏ.
Con người có tính chân thực cũng chính là con người luôn luôn tôn trọng nhân cách,
phẩm giá của mình, không để cho những người xung quanh coi thường, khinh bỉ, đồng
thời cũng là người giữ được chữ tín, lấy chữ tín làm gốc rễ cho các mối quan hệ, cho nên
được mọi người tin tưởng.
Chân thực là một nét nhân cách đẹp của con người. Nhưng đây là một nét nhân cách
rất khó khăn, phức tạp trong quá trình rèn luyện, giáo dục. Vì vậy, các bậc cha mẹ phải
đặc biệt quan tâm giúp đỡ trẻ nỗ lực ý chí, chiến thắng bản thân mình bằng những biểu
hiện cơ bản :
+ Mình có lỗi thì dũng cảm nhận lỗi, không trốn tránh hoặc đổ vây cho người
khác.

30
+ Tôn trọng sự thật, không thay đen, đổi trắng, dù trong hoàn cảnh bất lợi cho
mình.
+ Lời nói phải thống nhất với việc làm, thực hiện đúng lời hứa, không mưu mô,
thủ đọan lừa lọc chiếm đoạt của cải vật chất của người khác...
Để cho quan hệ giữa con người với con người được bền vững, lâu dài, thực sự tin
tưởng lẫn nhau thì mỗi một cá nhân phải rèn luyện đức tính thật thà.
Ngày nay giáo dục gia đình Việt Nam đang đứng trước trước những thử thách lớn
lao, khi nền kinh tế theo cơ chế thị trường đang vô cùng bề bộn. Nhiều giá trị của các
nguồn văn minh thế giới ồ ạt du nhập vào chưa được gạn lọc, kiểm định, đang tạo ra biết
bao tệ nạn xã hội lan tràn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách của nhiều lứa tuổi,
đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần quan tâm giáo dục cho
trẻ những yếu tố đạo đức truyền thống tốt đẹp mang đậm đà bản sắc dân tộc, dù phải sử
dụng đến các khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” hay “Công, dung, ngôn, hạnh” nhưng
cũng đã đạt được mục đích làm cho con cái chúng ta trở thành những người công dân
chân chính, lương thiện góp phần tạo ra đời sống hạnh phúc của gia đình và xã hội.
b. Giáo dục thái độ, kĩ năng lao động
Lao động của con người là một quy luật tất yếu để tồn tại và phát triển cá nhân cũng
như xã hội. Nó còn là tiêu chí số một để đánh giá đạo đức và tài năng con người ở trong
bất cứ xã hội lạc hậu hay văn minh nào. Nếu không có lao động của cá nhân thì sớm
muộn gì con người cũng tự đánh mất giá trị vốn có và hạ thấp phẩm chất của mình xuống
trình độ con vật. Bản chất tốt đẹp rạng rỡ của hoạt động lao động và của con người lao
động trước hết là để tự nuôi sống mình, không phải là một loại kí sinh sống bám gia đình
và xã hội như một chân lí đã khẳng định: “Bất cứ con người nào không lao động cũng là
một kẻ đi lừa”. Lao động là nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với chính bản thân mình và đối
với xã hội “ Có làm thì mới có ăn”.
Giáo dục thái độ, kĩ năng, thói quen lao động đối với con người là vô cùng quan
trọng phải bắt đầu từ tuổi ấu thơ. Thái độ lao động, kĩ năng, thói quen và tình yêu lao
động là những yếu tố nhân cách gốc, gia đình phải đặc biệt quan tâm, không có một lực
lượng nào có thể thay thế được gia đình từ khi trẻ con ở tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành.
Nội dung giáo dục lao động cho trẻ trong gia đình cần chú ý hình thành cho trẻ
những vấn đề sau:
- Thái độ tôn trọng mọi loại lao động chân tay cũng như trí óc vì lao động tạo ra sản
phẩm vật chất và tinh thần cần thiết cho đời sống con người trong xã hội.
Tôn trọng, quý mến đối với mọi người lao động, vì bất cứ là nghề nghiệp gì cũng
cần thiết cho đời sống xã hội. Kính phục, khiêm tốn, kiên trì học tập, noi gương những
người lao động giỏi, sáng tạo, chăm chỉ, chuyên cần, vượt khó khăn bằng ý chí tự lực
cánh sinh. “Bàn tay ta làm nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
- Có thái độ lao động tự giác theo nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và tương trợ các
thành viên khác vì cuộc sống chung của gia đình.
- Căn cứ vào sự trưởng thành theo lứa tuổi mà các bậc cha mẹ giáo dục cho trẻ kĩ
năng, thói quen lao động tự phục vụ và những kỹ năng lao động khác trong gia đình từ
đơn giản đến phức tạp. Chẳng hạn, rửa mặt, đánh răng như thế nào cho sạch sẽ, sắp xếp

31
đồ dùng thế nào cho gọn gàng. Đồ dùng trong gia đình lấy chỗ nào làm xong phải lau
chùi sạch sẽ đặt vào chỗ đấy, không quăng quật bừa bãi, sẵn đâu vứt đấy.
- Giáo dục cho trẻ làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, có trách nhiệm hoàn
thành việc đó phù hợp với khả năng của mình khi được cha mẹ giao. Điều quan trọng là
cha mẹ làm sao giáo dục cho trẻ thói quen lao động tự giác : thấy khóm hoa trong vuờn bị
đổ thì dựng nó dậy, thấy chiệc ghế xộc xệch thì sửa lại cho chắc chắn, thấy nhà bẩn thì
cầm chổi quét, thấy tủ bụi bặm thì giặt giẻ lau chùi v.v... không phải chờ đến ông bà, cha
mẹ nhắc nhở nhiều lần. Một nhà giáo dục lỗi lạc đã khẳng định rằng “Lao động tự giác
là liều thần dược để nâng cao giá trị và nhân phẩm con người”. Bởi vì theo ông, người
nô lệ da đen cũng lao động dưới đòn roi của chủ - đó là loại lao động cưỡng bức đã hạ
thấp vị trí con người xuống vị trí con vật (trâu, ngựa...).
- Mọi hoạt động lao động dù đơn giản nhất, kể cả lao động tự phục vụ, cha mẹ cần
giáo dục cho trẻ tinh thần vượt khó - có nghĩa là chiến thắng sự chây lười “muốn ăn mà
không muốn làm” đặc biệt là trẻ khi chưa ý thức được lao động là quy luật tất yếu, là
nghĩa vụ thiêng liêng của tất cả con mọi người.
- Giáo dục thái độ, kĩ năng, thói quen đối với lao động phải kèm theo ý thức trách
nhiệm quý trọng những sản phẩm lao động, tức là phải biết sử dụng đúng mức, vừa phải
các sản phẩm, vật dụng hằng ngày của cá nhân và gia đình. Nói một cách khác là, phải
giáo dục ý thức thái độ cần cù trong lao động, tiết kiệm trong chi tiêu, cần đi với kiệm
như kinh nghiệm của cha ông “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” biết “ăn buổi trưa,
chừa bữa tối” không sử dụng, chi tiêu lãng phí, nhất là độ tuổi chưa kiếm ra tiền cái gì
cũng phải dựa vào cha mẹ. Đặc biệt trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, mẫu mã
quần áo, giày dép các vật dụng hằng ngày được thay đổi thường xuyên theo một gia tốc
chóng mặt rất dễ thu hút trẻ vào việc đua ăn, đua mặc, đua chơi gây những lãng phí cho
gia đình. Các bậc cha mẹ cần giáo dục thuyết phục trẻ mua sắm, sử dụng hợp lí, đúng
mức theo tinh thần kiệm ước như ông cha ta đã từng rút ra kinh nghiệm quý giá “buôn
tàu, bán bè không bằng ăn dè để xẻn” nhằm ổn định đời sống của gia đình.
So với thành phố, trẻ em nông thôn có nhiều điều kiện để rèn luyện thái độ, kĩ năng,
thói quen tự phục vụ và giúp đỡ gia đình như các việc chăn trâu, cắt cỏ, kiếm củi, chăn
nuôi, làm cỏ bón phân, thu hoạch ngô, khoai, đậu, lạc v.v... và những nghề thủ công phụ
trợ cho kinh tế gia đình. Gia đình ở thành phố không có nhiều việc như gia đình nông
thôn, song nếu cha mẹ lưu ý quan tâm thì cũng có thể tổ chức hoạt động lao động cho trẻ
theo một lịch trình hàng, hàng tuần, hàng tháng như làm vệ sinh gia đình, nấu ăn, chăm
sóc cây cảnh hoặc làm nghề ...
- Trong gia đình, các bậc cha mẹ cũng cần quan tâm đến việc giáo dục lao động cho
trẻ em gái theo đặc điểm giới tính như may vá, thêu thùa, đan dệt, việc nội trợ, nấu
nướng, chế biến thực phẩm, làm bánh ... nhằm phát triển ở các em nữ tính kháo tay, hay
làm, dịu dàng, tỉ mỉ, cẩn thận, gọn gàng v.v... Mặc dù trong xã hội hiện đại đã có sẵn các
dịch vụ đời sống sinh hoạt của gia đình. Nhưng với chức năng là người phụ nữ, người vợ,
người mẹ trong tương lai thì loại lao động “nữ công, gia chánh và nghệ thuật” của nó
thông qua việc tổ chức lao động sẽ đem lại không khí cộng tác gắn bó, gần gũi, hòa hợp ở
trong gia đình là rất cần thiết.

32
Ở lứa tuổi thanh thiếu nhi, lao động chủ yếu của các em được coi là lao động học
tập. Do đó, việc giáo dục giúp các em hoàn thành được lao động trí óc, phát triển trí tuệ
gia đình cũng có vai trò rất to lớn. Các bậc cha mẹ có thể giúp trẻ cách học tập, kiểm tra
và tổ chức, thực hiện việc học tập ở nhà một cách đầy đủ, nghiêm túc, theo yêu cầu của
nhà trường làm thế nào để tạo nên thái độ nghiêm túc, tâm lí thoải mái cho các em trong
thời gian lao động trí óc. Gia đình phải làm con cái hiểu được ý nghĩa vô cùng quan trọng
của lao động học tập không những là lao động chính đối với các em hiện tại mà còn rất
cần thiết đối với tương lai, đối với cả cuộc đời, để trẻ có ý thức nỗ lực hết mình mới
thành đạt trong cuộc sống tương lai.
c. Giáo dục thể chất và thẩm mĩ.
Cuộc đời của một con người có khỏe mạnh, trường thọ hay không là kết quả của
một quá trình giữ gìn, chăm sóc sự phát triển của cơ thể ngay từ tuổi ấu thơ cho đến lúc
trưởng thành, cả giai đoạn trung niên cho đến khi về già. Nhưng sự phát triển thể chất ở
lứa tuổi thanh thiếu niên có một ý nghĩa rất đặc biệt. Đó là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ
nhất tất cả các cơ quan, chức năng sinh lí của cơ thể, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các giai
đoạn sau cuộc đời. Giáo dục thể chất cho trẻ ở trong gia đình, trước hết các bậc cha mẹ
phải quan tâm đến sự ăn uống. Bởi vì chính sự ăn uống là con đường dễ gây ra bệnh tật
“bệnh do nhập khẩu”. Ơ tuổi thanh thiếu niên như người ta thường nói, “già thì lo làm trẻ
thì tham ăn”, hoặc “ăn không biết no, chơi không biết chán” cho nên phải giáo dục ở trẻ ý
thức:
- Không ăn uống xô bồ, tạp nham dẫn đến sự rối loạn tiêu hóa, dễ sinh ra các bệnh đường
ruột.
- Ăn uống phải đến mức độ vừa no không quá thái “tham thực, cực thân” làm cho bộ máy
tiêu hóa phải vất vả đào thải ra ngoài.
- Phải tập thói quen cho trẻ rửa ráy, tắm giặt thường xuyên để cho cơ thể sạch sẽ thơm
tho.
- Động viên khuyến khích trẻ thực hiện chế độ thể dục buổi sáng, tham gia các hoạt
động thể thao phù hợp với sở thích, nhu cầu, nhằm phát triển năng khiếu của cá nhân.
- Giáo dục các em ý thức phòng bệnh nhằm giữ gìn bảo vệ sức khỏe là chủ yếu, chữa
bệnh là điều vạn bất đắc dĩ.
Việc giáo dục thể chất cho trẻ còn gắn liền với việc tổ chức vui chơi giải trí, nghỉ
ngơi, tham quan du lịch v.v... theo điều kiện hoàn cảnh của từng gia dình.
Xã hội càng văn minh tiến bộ thì việc thưởng thức cái đẹp, thể hiện cái đẹp của con
người ngày càng cao, trở thành một nhu cầu quan trọng trong đời sống hăng ngày. Nguồn
gốc của cái đẹp là cuộc sống hiện thực xã hội với tính da dạng phong phú của nó mà con
người có thể bắt gặp khắp nơi. Con người càng yêu cái đẹp bao nhiêu thì càng từ bỏ, căm
ghét cái xấu xa, bẩn thỉu bấy nhiêu. Nhờ vậy mà con người trở thành thanh cao, có văn
hóa.
Con người tiếp thu cái đẹp đầu tiên chính là ở trong gia đình. Vai trò của gia đình,
của các bậc cha mẹ đặc biệt quan trọng đối với việc giáo dục thẩm mĩ. Những ấn tượng
đầu tiên về cái đẹp của màu sắc, của âm thanh trong tiếng ru của mẹ, những xúc cảm của
sự âu yếm, vuốt ve nồng ấm tình thương, tình người đã được gia đình truyền đạt từ
những năm tháng tuổi thơ. Có thể nói những mầm mống của cái đẹp được tiếp nhân ở

33
trong gia đình là nền tảng để xây dựng cái đẹp của cả cuộc đời. Thế giới tự nhiên sinh
thái, đời sống xã hội, các hoạt động văn hóa nghệ thuật của con người như thơ ca, hội
họa, điêu khắc... chứa đựng biết bao vẻ thâm thúy, sâu sắc của nó. Vì vậy, không phải cha
mẹ nào cũng có khả năng, trình độ để phân tích, giảng giải, trang bị cho trẻ những kiến
thức, trình độ thẩm mĩ chuyên sâu trong tất cả cái loại hình đó. Nhưng giáo dục, rèn
luyện cho trẻ những xúc cảm, những tình cảm thẩm mĩ về cái đẹp trong giao tiếp, quan hệ
giữa con người với con người, con người với tự nhiên, với xã hội và ngay chính với bản
thân mình thì các bậc cha mẹ có thể thực hiện được.
Trong gia đình, ngay từ tuổi ấu thơ, các bậc cha mẹ đã phải dạy cho trẻ “học ăn học
nói, học gói học mở” về cách xưng hô, cư xử với mọi người sao cho phù hợp với quy tắc,
chuẩn mực của xã hội, đó chính là cái đẹp, là những yếu tố thẩm mĩ gắn chặt chẽ với lối
sống có văn hóa. Cái đẹp thường gắn bó với cái “chân”, cái “thiện” thể hiện một nhân
cách tốt đẹp. Nếu thiếu hụt sự giáo dục “thẩm mĩ” của gia đình thì con người tuy có bản
chất tốt nhưng trong giao tiếp ứng xử với người khác có thể trở thành cẩu thả, thiếu tế
nhị, thậm chí thô lỗ khiến cho người ta khó chịu. Vậy, giáo dục thẩm mĩ ở trong gia đình,
trước hết phải quan tâm giáo dục những hành vi trong nếp sống lịch sự, lễ phép cho trẻ.
- Dạy con “Ăn cho đẹp”. Ăn đẹp tức là không hấp tấp, vội vàng làm rơi vãi lung tung;
không vừa ăn vừa nói nhồm nhoàm; không đào bới đĩa thức ăn để chọn miếng ngon cho
mình…
- Dạy con “Nói cho đẹp”. Nói thế nào cho đẹp? Giọng nói phải rõ ràng, dịu dàng, nhã
nhặn; không nói trống không; chửi thề; chửi tục, cướp lời người khác; phải dùng những
từ, những ý thể hiện sự trọng thị đối với người lớn tuổi hơn mình như vâng, dạ v.v...
- Dạy con “Mặc cho đẹp”. Mặc thế nào cho đẹp? Quần áo phù hợp với hình dáng, lứa
tuổi, không ăn mặc lố lăng. Tùy theo hoạt động mà ăn mặc cho thích hợp ( lúc đi học, lúc
lao động, lúc ở nhà, lúc ra đường); quần áo phải gọn gàng sạch sẽ v.v...
- Dạy con “Hành vi cư xử đẹp”. Hành vi cư xử đẹp không chỉ thể hiện ở lời nói đẹp
mà còn thể hiện ở việc làm, tác phong, cử chỉ, đi đứng, chào hỏi đúng mực, tế nhị, tôn
trọng mọi người trong giao tiếp. Không chỉ có hành vi đẹp trong gia đình, mà ở ngoài xã
hội, nơi công cộng, mỗi người cũng phải ý tứ, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi cần thiết,
không làm phật lòng, khó chịu mọi người. Tất cả những hành vi đó là trình độ thẩm mĩ
văn hóa cần thiết phải được giáo dục từ trong gia đình. Bởi vì, “cái đẹp là nguồn gốc lớn
lao của sự trong sạch về đạo đức, phong phú về tinh thần và hoàn thiện về thể lực”. Trên
đây là một số gợi ý cơ bản về những nội dung cần thiết giáo dục thẩm mĩ cho trẻ ở trong
gia đình. Tất nhiên tùy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình mà các bậc cha
mẹ lựa chọn các phương tiện phù hợp giúp các em phát triển những năng khiếu riêng làm
cho thẩm mĩ nhân sinh ngày càng thêm phong phú hoàn hảo hơn.
3.2.2.Nguyên tắc giáo dục trong gia đình
Qúa trình giáo dục hình thành nhân cách cho cá nhân bao giờ cũng bắt đầu từ việc
tác động đến mặt nhận thức và tình cảm, giúp cá nhân hiểu và có thái độ đúng về chuẩn
mực hành vi, rèn luyện kỹ năng vận dụng sự hiểu biết ấy vào thực tế cuộc sống. Với
những đặc điểm riêng của mình, giáo dục trong gia đình muốn đạt được kết quả phải thực
hiện những nguyên tắc cơ bản sau đây.
* Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học

34
+ Nguyên tắc khoa học trong giáo dục gia đình thể hiện ở chỗ cha mẹ và những
chủ thể khác trong giáo dục gia đình phải tuân theo qui luật phát triển của tự nhiên và xã
hội đồng thời phải phù hợp với qui luật phát triển tâm sinh lý của trẻ.
+ Nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình phải đúng với bản chất của tự
nhiên và những chuẩn mực xã hội, phù hợp với mức độ phát triển cơ thể, khả năng và đặc
điểm tâm lý riêng của từng đứa con.
+ Để thực hiện được nguyên tắc khoa học, các bậc cha mẹ và những chủ thể giáo
dục khác trong gia đình phải có sự kiến thức về quá trình giáo dục, về qui luật phát triển
tâm sinh lý của trẻ ở các độ tuổi khác nhau, nhất là phải hiểu rõ được đặc điểm cụ thể của
con em mình. Nếu thiếu sự hiểu biết này, quá trình giáo dục trẻ trong gia đình sẽ gặp thất
bại.
Thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều bậc cha mẹ thiếu kiến thức sư phạm, cộng thêm
với áp lực của xã hội cùng với sự kỳ vọng về con cái quá lớn. Họ đã giáo dục con một
cách phản khoa học, sợ con chịu ảnh hưởng xấu từ môi trường nên cấm đoán con một
cách thái quá hoặc luôn coi con là những đứa trẻ non nớt cần bảo vệ chu đáo, kết quả là
trẻ không phát triển được tính tự lập. Đặc biệt có những gia đình bắt ép con học quá
nhiều so với khả năng của trẻ, áp lực học tập nặng nề đã dẫn tới việc trẻ rối nhiễu về tâm
lý. Đó là một minh chứng cho giáo dục của gia đình Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều bất
cập.
*Nguyên tắc tôn trọng nhân cách
Con người ai cũng muốn được người khác quan tâm tới mình, đối xử tốt với mình.
Trẻ em không nằm ngoài qui luật ấy, nếu được cha mẹ và mọi người trong gia đình tôn
trọng, thương yêu, trẻ có cảm giác an toàn phát triển tốt về mọi mặt. Ngược lại nếu cha
mẹ và người thân không quan tâm hoặc bị đối xử thô bạo trẻ sợ hãi, điều đó ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của trẻ.
Văn hóa gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Nho giáo, quan
điểm giáo dục con cái của họ là “Yêu cho roi cho vọt”. Có nhiều người hiểu chưa đúng
nguyên lý này nên họ nghiêm khắc với con quá mức, dạy con bằng roi vọt, cấm đoán
mắng con bằng những lời lẽ thô bạo xúc phạm. Kết quả giáo dục của những gia đình này
là con cái họ ngoan ngoãn, nhưng chúng lại thụ động nhút nhát, thiếu khả năng sáng tạo.
Ở những gia đình mà cha mẹ là người có nhân cách xấu, sự giáo dục con bằng cách đánh
đập, hành hạ đã làm cho nhiều đứa trẻ phát triển lệch chuẩn về nhân cách.
Trong thời đại văn minh hiện nay, mọi người phải có ý thức tôn trọng người khác
ngay từ khi còn bé. Đánh đập, xỉ vả con cái là điều cấm kỵ trong gia đình.
Tôn trọng nhân cách trong giáo dục có nghĩa là những chủ thể giáo dục trong gia
đình (ông bà, cha mẹ, anh chị) không được phép xúc phạm đến thân thể và nhân cách của
trẻ. Đánh giá đúng và đối xử bình đẳng, phù hợp với khả năng, quyền lợi, nghĩa vụ của
trẻ trong gia đình.
Nguyên tắc này được thể hiện qua cách ứng xử hàng ngày trong quan hệ giữa chủ
thể và đối tượng giáo dục ở gia đình.
- Các bậc cha mẹ không được dạy con theo cách “Yêu cho roi cho vọt”, không
dùng vị thế bề trên của mình để áp đặt thô bạo cho con cái.

35
- Không được xúc phạm con bằng những lời mắng mỏ, xỉ vả, nhục mạ con cái,làm
mất danh dự của con trước mặt mọi người.
- Đánh giá đúng và tạo mọi điều kiện để khả năng của con được phát huy, đặt ra
yêu cầu để con phấn đấu nhưng ở giới hạn có thể, không nên đưa ra yêu cầu quá cao và
bắt ép con phải thực hiện. Nếu yêu cầu quá cao so với khả năng của trẻ sẽ tạo ra áp lực
nặng nề, trẻ sẽ lo lắng chán nản, thiếu tự tin ở chính bản thân mình.
- Trong cuộc sống gia đình, phải xây dựng nề nếp ổn định, cha mẹ có thái độ kiên
quyết để rèn luyện cho con cái nhiều thói quen tốt, nhưng mọi quyết định phải hợp lý.
Cha mẹ phân tích để con cái nhận thức rõ ý nghĩa của những yêu cầu mà mình đặt ra, từ
đó trẻ mới tự giác thực hiện. Bởi vì một mệnh lệnh phi lý sẽ làm cho uy tín của người đưa
ra lệnh mất hiệu lực, làm cho người thực hiện hoặc bất phục tùng hoặc nói dối.
*Nguyên tắc thống nhất giữa lời nói và việc làm của các chủ thể giáo dục
Thước đo nhân cách của con người không phải là lời nói hay, mà là việc làm và
kết quả của việc làm. Là môi trường đầu tiên trong quá trình xã hội hóa con người, hành
vi ứng xử, việc làm của các thành viên trong gia đình được trẻ em nhỏ tuổi bắt chước một
cách tuyệt đối. Cha mẹ và mọi người lớn trong gia đình luôn luôn là một tấm gương cho
trẻ noi theo. Do vậy đòi hỏi mọi người trong gia đình nói và làm, học và hành phải đi đôi
với nhau. Tránh hiện tượng nói hay, làm dở, nói tốt làm xấu, nói một đằng làm một nẻo
hoặc nói mà không làm. Cha mẹ dạy con cái phải gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ trong sinh
hoạt và ăn uống nhưng bản thân cha mẹ lại sống luộm thuộm, nhếch nhác, thì lời dạy của
cha mẹ sẽ không bao giờ đem lại kết quả. Trẻ em trong gia đình không tin tưởng vào cha
mẹ thậm chí coi thường. Chúng sẽ không phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai.
Ý nghĩa lớn lao của nguyên tắc này là để giúp cho việc hình thành nhân cách gốc
trong sự thuần nhất, chân chính trong mọi trường hợp, mọi nơi, mọi lúc. Không thực hiện
tốt nguyên tắc này gia đình dễ tạo nên những con người có nhân cách giả dối.
* Nguyên tắc lấy tình thương làm nền tảng
Tình cảm là động lực của hành động. Xuất phát từ tình cảm yêu thương mang tính
huyết thống, quá trình giáo dục ở gia đình dễ dàng sử dụng được sức mạnh của tình cảm
để cảm hóa thuyết phục con cái. Vì thương yêu con cái, cha mẹ dễ dàng vượt qua khó
khăn, hy sinh tất cả vì con, con cái cũng dễ dàng nghe cha mẹ, vượt khó khăn không chỉ
vì bản thân mà còn vì cha mẹ và người thân trong gia đình. Trong quá trình giáo dục, sự
yêu thương ngọt ngào của cha mẹ và người thân có sức mạnh gấp nhiều lần những mệnh
lệnh hoặc những lời răn đe cứng rắn. Tuy nhiên tình yêu thương con cái phải là tình yêu
thương chân chính, tình yêu có lý trí nếu không cũng dễ tạo nên những đứa con sống ích
kỷ, luôn đòi hỏi ở người khác phải vì mình.
3.2.3. Phương pháp giáo dục gia đình.
Có nhiều phương pháp giáo dục trong gia đình, các phương pháp chia thành ba
nhóm sau đây.
* Nhóm phương pháp phát triển nhận thức, hình thành niềm tin và tình cảm đạo
đức
+ Phương pháp thuyết phục
Thuyết phục là sự tác động của nhà giáo dục (cha mẹ, vợ chồng) bằng lời nói đến
đối tượng giáo dục (con cái, chồng vợ) nhằm giảng giải các khái niệm đạo đức, các chuẩn

36
mực đạo đức nhằm giúp họ hiểu biết, tin tưởng vào nhà giáo dục và chính bản thân mình.
Trong thuyết phục vừa có sự giảng giải, vừa có sự đàm thoại, tranh luận giữa nhà giáo
dục với đối tượng giáo dục để làm sáng tỏ vấn đề, thông tư tưởng, và củng cố niềm tin.
Muốn thuyết phục có kết quả, nhà giáo dục cần lưu ý :
+ Căn cứ vào trình độ hiểu biết, lứa tuổi mà nói, mà giảng giải. Người trẻ tuổi và
trình độ kém phải dùng các từ dể hiểu, có hình ảnh để chứng minh, với tuổi cao, người có
trình độ thì nói có lí lẽ và lô gíc chặc chẽ, giọng nói phải ngọt ngào.
+ Con đường tốt nhất để hình thành niềm tin cho đối tượng giáo dục là đưa ra
những biểu tượng, những kinh nghiệm hành động thực tiễn từ trong cuộc sống, từ những
tấm gương trong sáng của những con người cụ thể, gần gũi nhất và dễ hiểu nhất. Trong
đó, nhà giáo dục phải dựa vào trình độ hiểu biết, cùng vốn sống (kinh nghiệm cũ) của
mình và giảng giải cho phù hợp với tâm sinh lý đối tượng giáo dục. Như vậy đòi hỏi nhà
giáo dục phải thông hiểu tâm lý của đối tượng giáo dục.
+ Nhà giáo dục hay người thuyết phục cần có sự tế nhị, khôn khéo trong việc lựa
chọn thời cơ mới đưa vấn đề ra giảng giải, đàm đạo, để đối tượng giáo dục tự giác nghe
và hứng thú đàm thoại, tranh luận, dám đưa ra những quan điểm riêng của mình. Thí dụ,
khi đang xem một bộ phim, tới một màn kịch gây cấn, ta đưa ra nhận xét về hành vi đạo
đức của một nhân vật để gia đình tranh luận, đánh giá, cùng nhận định. Hoặc cũng có thể
nhân một câu chuyện kể về một sự việc trên đường phố, trong xóm làng mà ta đưa ra đàm
thoại, khen chê ...
Thuyết phục cần tránh kiểu nói khuôn sáo, khoa chương, dài dòng, khích bác, có
ý ám chỉ phê bình.
Đối tượng giáo dục chỉ hưởng ứng nhà giáo dục khi mà nhà giáo dục tỏ thái độ ân
cần, thông cảm, xúc động trước vấn đề đưa ra giảng giải với tất cả tâm hồn và niềm tin.
Với những nhà giáo dục lãnh cảm, hình thức chủ nghĩa thì phương pháp thuyết phục là
vô bổ, vô nghĩa đối với đối tượng giáo dục. Như vậy cuộc đàm thoại, trò chuyện chỉ có
kết quả nếu giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục không xuất hiện một hàng rào tâm lý
(tức là không có thái độ thờ ơ, chống đối, thành kiến). Kinh nghiệm cho biết, những
người mắc khuyết điểm thường có tâm lý mặc cảm tội lỗi hoặc định kiến nên rất khó nói
chuyện, khó thuyết phục.
+ Phương pháp nêu gương
Nêu gương là phương pháp hướng sự chú ý của đối tượng giáo dục tới hình ảnh về
người thực, việc thực trong cuộc sống hoặc trong các hình thức nghệ thuật (Văn học, phim
ảnh..) nhằm mục đích lôi kéo họ làm theo người tốt, việc tốt qua con đường học tập và bắt
chước.
Con người vốn có bản chất hướng thiện, luôn luôn noi theo những tấm gương tốt
của người thật, việc thật, của các nhân vật tốt trong văn học, nghệ thuật phim truyện (các
anh hùng, bác học, vĩ nhân ... ). Song tấm gương tốt nhất mà con cái thường hay noi theo
là bắt chước cha mẹ, ông bà, tiếp đó là bạn bè.
Thông thường, con trai hay bắt chước cha, con gái bắt chước mẹ và em bắt chước
anh chị, trò bắt chước thầy. Các em thường bắt chước từng hành vi, cử chỉ, lời nói, việc làm.
Sự bắt chuớc đó được lặp đi lặp lại, kéo dài tháng này qua tháng khác, lâu dần thành thói

37
quen. Các em bắt chước cả hành vi tốt lẫn hành vi xấu, vì vậy ca dao tục ngữ Việt Nam mới
có câu : “Cha nào con ấy, rau nào sâu đó”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Để làm gương cho con cái noi theo, cha mẹ cần lưu ý như sau :
- Sống với nhau hoà thuận, chung thuỷ nhân ái, thương yêu dù có đói khổ hay no đủ
sung sướng.
- Sống lương thiện chân chính với phương châm : “Đói cho sạch, rách cho thơm”
và “Giấy rách giữ lấy lề”.
- Sống có văn hoá, văn minh, lịch thiệp, gon gàng, sạch sẽ, kỷ luật, trật tự và khiêm
tốn, nhã nhặn, để “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời và nói cho vừa lòng nhau”
- Chăm chỉ, cần cù và tiết kiệm, phải biết hy sinh cho con cái :
* Nhóm phương pháp rèn luyện để hình thành những kỹ năng, kỹ xảo và thói
quen đạo đức
+ Phương pháp rèn luyện qua vui chơi :
Vui chơi có một tầm quan trọng rất lớn trong đời sống con người sau lao động.
Song đối với con trẻ, chơi có ý nghĩa như lao động của người lớn. Thái độ của đứa bé khi
chơi như thế nào thì sau này lớn lên, trong lao động, thái độ của nó cũng sẽ như thế đó.
Vì vậy việc giáo dục một người lao động tương lai phải được tiến hành trước hết trong trò
chơi.
Ở tuổi thơ ấu, đứa bé chơi là chính, chức năng lao động của nó hoàn toàn không
đáng kể và không vượt quá mức độ tự phục vụ. Nó bắt đầu tự xúc lấy để ăn, tự đắp lấy
chăn, tự mặc lấy áo. Nhưng trong những việc làm này vẫn còn mang nhiều yếu tố chơi.
Trong một gia đình có tổ chức tốt, các chức năng lao động này trở nên phức tạp dần dần,
đầu tiên chỉ để cho đứa bé tự làm lấy việc của nó, sau đó làm đến những công việc có ý
nghĩa đối với cả gia đình. Nhưng chơi vẫn là công việc nó thích hơn, say mê và quan tâm
hơn cả.
Đến tuổi đi học, lao động đã chiếm một địa vị quan trọng nó gắn liền với một trách
nhiệm nghiêm chỉnh hơn, một hình ảnh rỏ ràng hơn và cụ thể hơn về cuộc sống tương lai
của đứa bé, đó là một công việc rất gần với hoạt động xã hội, thời gian này, đứa bé còn
chơi nhiều, nó ham chơi và đôi khi phải trải qua những cuộc đấu tranh tư tưởng khá phức
tạp. Lúc đó nó thấy chơi thích hơn lao động, đến nỗi nó xếp công việc lại một bên để chơi
cái đã. Những cuộc đấu tranh tư tưởng như thế sở dĩ xảy ra là vì sự giáo dục đứa bé chơi
và sự giáo dục các nhiệm vụ lao động cho đứa bé đã làm không tốt, vì cha mẹ đã phạm
những sai lầm trong việc tổ chức hướng dẫn. Do đó ta thấy việc chỉ đạo trò chơi của trẻ là
vô cùng quan trọng.
Trong cuộc sống, ta thấy nhiều thanh niên đã rời ghế nhà trường từ lâu, nhưng vẫn
còn thích chơi hơn lao động. Phải xếp hạng người này vào loại ham chơi quá đáng và
quên cả công việc, sự việc. Những người này đã đem những thói quen trong lúc chơi vào
cuộc sống nghiêm chỉnh, vào cả lao động : “Lử khử lừ đừ, vừa làm vưà chơi”.
Nên nhớ rằng với trẻ, môt trò chơi tốt giống một công việc lao động tốt. Bởi chơi
đem lại cho trẻ niềm vui sáng tạo hoặc là một niềm vui chiến thắng hoặc là một niềm vui
thẩm mỹ, và đó là những niềm vui tích cực. Trò chơi tập cho con người có thói quen cố
gắng về thể lực và tâm lý, cần thiết cho lao động mai sau.

38
Muốn vậy, các bậc cha mẹ cần chú ý mấy điều trong việc tổ chức hướng dẫn cho
con chơi.
Làm cho trẻ chơi thật sự tích cực sáng tạo và hứng thú.
Không để cho trẻ chưa xong công việc này đã chạy sang việc khác. Làm việc gì
trong vui chơi, phải làm cho đến đầu đến cuối.
Làm cho trẻ hiểu rõ giá trị cụ thể và lợi ích của mỗi đồ chơi, chăm sóc, giữ gìn đồ
chơi, nơi để đồ chơi phải có trật tự, phải sắp đặt ngăn nắp, không được làm hỏng đồ chơi,
nếu hỏng phải sửa lại, nếu khó sửa, bố mẹ sẽ giúp đỡ.
Bố mẹ phải chú ý đến thái độ của đứa bé đối với đồ chơi. Không được làm hỏng đồ
chơi, phải yêu quý đồ chơi, nhưng cũng không phàn nàn tiếc mãi nếu đồ chơi đã hỏng.
Làm cho trẻ biết cách vui chơi cùng các bạn bè với thái độ trung thực, vui vẻ, hoà
thuận, biết tuân thủ các quy tắc của trò chơi và biết nhường nhịn giúp đỡ bạn cùng chơi,
phối hợp trong chơi.
+ Phương pháp giáo dục rèn luyện qua lao động :
Xưa nay lao động bao giờ cũng vẫn là căn bản đối với đời sống con người, bảo đảm
cho con người sống một cách sung túc và có văn hoá. Khi con người không lao động thì
“Nhàn cư vi bất thiện”. Vì vậy, lao động, phải là một trong những phương pháp, con
đường xã hội hoá con người.
Vai trò của trẻ trong xã hội tương lai, giá trị công dân của nó sẽ hoàn toàn phụ thuộc
vào mức độ tham gia lao động xã hội và sự chuẩn bị cho nó đi vào lao động. Vả lại hạnh
phúc của nó, mức sống của nó cũng phụ thuộc vào điều đó.
Thực tiễn cuộc sống cho ta thấy, tất cả mọi người đều có khả năng lao động, nhưng
có người biết làm việc giỏi, có người lại kém, có kẻ chăm, có người lười. Nguyên nhân
chính của sự khác nhau đó phần lớn là do sự rèn luyện, giáo dục, nhất là lúc còn trẻ. Vì
vậy việc chuẩn bị đi vào lao động, việc giáo dục những đức tính yêu lao động là cần thiết
không chỉ cho xã hội, mà cho hạnh phúc của mọi người.
Giáo dục bằng lao động không chỉ làm cho cơ bắp phát triển, chân tay khoẻ mạnh,
khéo léo, mà còn làm cho trí tuệ sáng tạo nẩy nở, hàng loạt các đức tính tốt được nảy sinh
: Thông minh, tháo vát, dũng cảm, cần cù chịu khó, có tinh thần trác nhiệm và tình đồng
đội.
Phương pháp giáo dục qua lao động ở gia đình càn lưu ý:
- Phải giao cho đối tượng giáo dục một công việc dài hơi và nó phải suy nghĩ về
cách thức làm việc, tránh giao cho họ những việc có tính chất sai vặt. Thí dụ : “Con hãy
chịu tránh nhiệm trang trí phòng khách sao cho đẹp” còn chớ nên sai “Treo cho mẹ bức
tranh vào đây”.
- Phân công công việc cụ thể , các công việc lao động trao cho trẻ cần có mức độ
tăng dần khó khăn theo lứa tuổi. Từ lúc bé, con người phải bắt đầu tham gia vào các công
việc gia đình rồi. Công việc đó phải bắt đầu trong các trò chơi, trong lao động tự phục vụ
bản thân như rửa mặt, giặt phơi khăn mặt, gấp quần áo, chăn màn nơi phòng ngủ của
mình. Sau đó tuỳ tuổi lớn bé và hoàn cảnh sống của gia đình mà ta giao việc. Chẳng hạn,
cha mẹ giao cho trẻ tưới hoa, lau bụi cửa sổ, lau sàn nhà, dọn cơm, rửa cốc bát đĩa, giặt
hoặc là gấp quần áo cho cả nhà. Trẻ sắp xếp thật ngăn nắp tủ thuốc của gia đình hoặc tủ

39
quần áo, tủ sách ...Giúp đỡ bố mẹ hay anh chị công việc nội trợ. Nếu gia đình có vườn thì
chịu trách nhiệm trồng và chăm bón một vài luống, hay vài gốc cây hoa.
- Qúa trình trẻ thực hiện cônng việc được giao, cha mẹ và người lớn trong gia đình
cần kiểm tra, nhắc nhở đôn đốc thường xuyên trẻ làm đến nơi đến chốn, để tạo thói quen
chịu khó, tự giác, cẩn thận trong lao động.
Giáo dục bằng lao động chỉ có kết quả khi đối tượng giáo dục tham gia lao động
một cách hứng thú, say mê và tự giác. Tuy vậy đôi khi chúng ta vẫn thường gặp những
trẻ lười biếng. Lúc đó ta cần tìm nguyên nhân để động viên giáo dục. Thí dụ :
- Lười biếng do sức khoẻ quá yếu ta cần giao việc nhẹ, vừa sức.
- Lười biếng do ham chơi quá mức, ta cần nghiêm khắc phân tích cái lợi giữa chơi
và lao động cùng tác hại của sự đam mê trong chơi, sau đó là có lịch trình và kỷ luật rỏ
ràng giữa chơi và lao động.
- Lười do sự nuông chiều của cha mẹ làm cho trẻ quen thân mất nết, thì phải sửa
chữa ngay từ cha mẹ ...
+ Phương pháp giáo dục rèn luyện qua học tập :
Là con đường chủ đạo cho việc hình thành mọi phẩm chất đạo đức của con người
theo một định hướng nhất định. Ngay từ ngày xưa cha ông ta đã chỉ ra tầm quan trọng
của sự học tập “Nhân bất học, bất chi lý”, mà bất chi lý là bất nhân. Có nghĩa là người
không học sẽ không có trí tuệ - mà không trí tuệ sẽ không có tính người. Ngày nay xã hội
văn minh lại càng đòi hỏi con người phải học. Học ngay khi còn bé và học suốt đời, bao
gồm học ăn sao khoa học, học nói sao cho có lễ độ, học gói, học mở ... sao cho có nghề
nghiệp để sinh sống ...
Sự học ngày nay đòi hỏi tốn công tốn sức gấp nhiều lần so với xưa kia. Trong gia
đình dạy cho mọi người học các chuẩn mực hành vi mới để tạo ra gia phong, gia lễ hợp
với thời cuộc. Còn học nghề, học khoa học kỹ thuật là phải gửi con em đến trường, phải
nhờ các gia sư giỏi giang hỗ trợ cho gia đình, cho các bậc làm cho mẹ.
Song về mặt ý thức thì nó là trách nhiệm của chính gia đình, của cha mẹ đối với con
cái, chớ có khoán trắng nhà trường, cho xã hội và cũng tránh vô trách nhiệm được đâu
hay đó. Nên nhớ rằng để của cải cho con cái dễ mất trắng tay còn để chữ cho con cáí là
để cái chìa khoá vạn năng giúp con cái thành công trong sự nghiệp sau này. Trách nhiệm
chính của cha mẹ đối với con cái trong việc học hành là hãy dành nhiều thời gian, tiền
của cho con ăn học và luôn luôn theo dõi sát sao, kiểm tra, đôn đốc việc học hành của
con, việc dạy dỗ của thầy.
+ Phương pháp giáo dục rèn luyện qua việc mở rộng giao tiếp
Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với con người, qua đó con người trao đổi
với nhau về tư tưởng, tình cảm, vốn sống vốn hiểu biết, có ảnh hưởng tác động qua lại lẫn
nhau. Giao tiếp rộng bao nhiêu tâm hồn con người càng phong phú bấy nhiêu, ông cha ta
có câu “Đi một đàng, gặp một sàng khôn”. Trong giao tiếp con người ta thường bắt
chước lẫn nhau về mọi mặt, đặc biệt với những con người trẻ tuổi, khi mà ý thức chưa
phát triển, chưa có sự phê phán, chưa có chính kiến riêng của mình dễ bắt chước cả cái
tốt lẫn cái xấu. Vì vậy gia đình cần phải chú ý đến việc mở rộng mối quan hệ và định
hướng cho trẻ trong quá trình giao tiếp. Con đường đúng đắn nhất của các bật làm cha
làm mẹ đối với con cái là mở rộng giao tiếp có định hướng, có hướng dẫn và lựa chọn

40
như : Nên chơi với ai ? Nên đi đâu, lúc nào? Trong giao tiếp nên tiếp thu cái gì ? Và
không nên học cái gì ? Trong cuộc sống gia đình cũng như trong quan hệ với mọi người,
cha mẹ luôn luôn phải là tấm gương mẫu mực về hành vi giao tiếp cho con cái noi theo.
Tóm lại : Giáo dục con trẻ có rất nhiều phương pháp, nhưng theo tâm lý học Macxit
thì lao động, học tập, vui chơi và giao tiếp là 4 phương pháp và cũng là 4 con đường cơ
bản để rèn luyện con em chúng ta trong gia đình có giáo dục, có nhân cách gốc và toàn
diện. Chúng ta không bao giờ được bỏ qua một phương pháp nào cả.
*Nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi
+ Phương pháp thưởng phạt
Gia đình là một xã hội, một quốc gia thu hẹp lại, quốc gia và gia đình đều phải có
kỷ cương và có kỷ luật. Muốn vậy phải có pháp luật, pháp gia. Trong đó có biện pháp
thưởng và phạt một cách nghiêm minh, công bằng và đúng đắn. Những ai làm tròn trách
nhiệm sẽ được khen thưởng. Ai không hoàn thành nhiệm vụ công dân vi phạm pháp luật,
pháp gia thì phải phạt.
Thưởng, phạt là phương pháp giáo dục rất tốt cho mọi thành viên trong gia đình,
trước tiên là hình thành được ý thức kỷ luật.
Các vị cha mẹ đừng quên rằng kỷ luật không phải tạo ra bằng một phương pháp nào
đó mà là kết quả của toàn bộ hệ thống các phương pháp giáo dục, trong đó có cả thưởng,
lẫn phạt. Kỷ luật đúng đắn là điều cần thiết nên nhà giáo dục phải hết sức tế nhị, khôn
khéo trong việc thưởng và phạt. Thưởng và phạt là một công việc khó khăn, phức tạp
song là phương pháp rất hữu hiệu cho sự nghiệp giáo dục của gia đình.
Khen thưởng là phương pháp khuyến khích các hành vi tốt đẹp của con người. Song
nó chỉ có giá trị giáo dục khi ta tuân thủ đúng những yêu cầu của sư phạm học.
Thí dụ : Khen đúng mức ; Khen thưởng phải khách quan, công bằng ; Khen đúng
lúc, đúng chỗ
Khen thưởng trong gia đình có nhiều hình thức như : Biểu dương bằng lời nói trước
mặt mọi người, tặng thưởng hiện vật (tiền, quần áo, vé đi xem xiếc, một chuyến đi du
lịch...) Tuỳ theo công trạng, tuỳ hoàn cảnh và tuỳ lứa tuổi mà ta lựa chọn. Song chớ gây
ra cho đối tượng giáo dục chạy theo lợi ích vật chất. Cần để cho họ hiểu rõ khen là sự
đánh giá tiến bộ về đạo đức và nhân cách.
Trách phạt : Đã có khen thưởng thì phải có trách phạt, đó là một quy luật tất yếu.
Chúng bổ sung cho nhau nhằm mục đích giáo dục con người đi vào kỷ cương của pháp
gia. Ai làm tốt và làm tròn trách nhiệm sẽ được khen. Ngược lại ai làm xấu, không hoàn
thành trách nhiệm, vi phạm kỷ luật thì phải trừng phạt.
Có 2 mục đích chính của trách phạt. Một là để răn dạy người có lỗi phải nhận lỗi,
phải sửa chữa và sau đó không được mắc lại khuyết điểm cũ nữa. Hai là để răn đe ngăn
chặn mọi thành viên khác chưa mắc lỗi lầm đừng có bắt chước mà mắc lỗi lầm thì cũng
sẽ bị trừng phạt như vậy và còn cao hơn nữa.
Trách phạt là viên thuốc chữa bệnh cho bệnh nhân và là thuốc phòng bệnh cho
những người khác trong gia đình, trong quốc gia. Muốn cho trách phạt ở trong gia đình
có hiệu nghiệm thì phải làm cho người mắc khuyết điểm nhận thức được rằng : Đó là một
điều công bằng, xác đáng và rất cần thiết, chứ không phải là một sự trừng trị, báo thù,

41
trừng phạt cho hả dạ vì cơn tức giận. Vì vậy trước khi trách phạt phải tìm cho rõ nguyên
nhân của kẻ mắc lỗi lầm và chỉ ra cho họ tội lỗi, tác hại để họ tự nhận, tự sửa chữa.
Khi họ đã sửa chữa khuyết điểm rồi, chúng ta chớ có thành kiến, đừng nên nhắc đi,
nhắc lại nhiều lần mà làm cho con người mắc lỗi xấu hổ, tức giận .
Trách phạt trong gia đình có nhiều hình thức từ quở mắng, khiển trách đến chịu mọi
hình phạt nhất định. Song sự trách phạt ấy, phải có mức độ tương xứng với tội lỗi, tuổi
tác và ý thức của người bị mắc khuyết điểm.
Tuyệt đối không dùng phương thức trách phạt làm nhục hình đối với trẻ : trói, đánh
đập, sỉ vả, chửi rủa, hoặc đuổi ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn cơm ... Vì những biện pháp này
vừa vi phạm nhân quyền vừa phản tác dụng, rất có hại. Vì có thể do bị đuổi ra khỏi nhà,
trẻ bơ vơ dễ bị kẻ xấu lôi cuốn vào con đường bụi đời, lưu manh trộm cắp ...
Tóm lại, để giáo dục con cái nên người gia đình phải sử dụng nhiều phương pháp giáo
dục khác nhau. Mỗi phương pháp có ưu thế nhất định trong việc hình thành những phẩm
chất của nhân cách, vì vậy cần sử dụng phối hợp các phương pháp.
*CÁCH NUÔI DẠY TRẺ THEO KIỂU UY QUYỀN SO VỚI ĐỘC ĐOÁN
Các nghiên cứu về nuôi dạy trẻ ở Mỹ đã xác định 3 phong cách làm cha mẹ
(Baumrind, 1971):
Những cha mẹ uy quyền (authoritative) quan tâm con cái là một cách quyết đoán
nhưng cũng hợp lý và công bằng. Vì thế cách này còn được gọi là phong cách dân chủ
quyết đoán – hay phong cách làm cha mẹ “cân bằng”. Sự quản lý hay kiểm soát trẻ trong
phong cách này phụ thuộc vào mức độ chín chắn hay trưởng thành của trẻ và cha mẹ
thường biểu lộ tình cảm ấm áp, cởi mở đối với trẻ. Cha mẹ kiểu uy quyền đưa ra các
đường hướng, chỉ dẫn cho con nhưng không thực hiện một cách cứng nhắc mà cho con
được lựa chọn phụ thuộc vào mức độ phát triển và trách nhiệm của trẻ.
Kết quả ban đầu từ các nghiên cứu ở Mỹ đã ủng hộ cho tính ưu trội của phong
cách uy quyền. Trẻ lớn lên với những người có phong cách nuôi dạy kiểu uy quyền
thường phát triển được các nét nhân cách có giá trị và hữu ích hơn như cảm xúc tích cực
hơn, tự tin hơn và độc lập hơn (Karavasilis, Doyle, &Markiewicz, 2003). Phong cách uy
quyền chuẩn bị tốt cho trẻ trong cuộc sống, làm trẻ khoẻ mạnh hơn về mặt tâm lý, thành
thạo hơn, ít gặp lo âu hơn so với trẻ được nuôi dạy theo phong cách khác. Thanh thiếu
niên có cha mẹ theo phong cách uy quyền thường thông thạo hơn về mặt xã hội, có mức
độ tự trọng, tự tin cao hơn và sáng tạo nhiều hơn (Collins&Laursen, 2004; Spera, 2005).
Phong cách cha mẹ theo kiểu uy quyền dường như cũng có tác động tích cực tới cảm giác
lạc quan của trẻ và giúp trẻ tạo nên niềm tin rằng mình đang sống trong một thế giới có
trật tự cùng với những mục tiêu phát triển khả thi, có thể đạt được. Các tác động này có
ảnh hưởng đến cả những năm tháng học đại học, trong đó, sinh viên có cha mẹ theo
phong cách uy quyền biểu hiện trầm cảm ít hơn và sự thích nghi xã hội lớn hơn (Jackson,
Pratt, Hunsberger, &Pancer, 2005)
Những bậc cha mẹ độc đoán (authoritarian) yêu cầu điều trước tiên và trên hết là
sự tuân phục, vâng lời và họ kiểm soát con rất chặt chẽ. Tính gia trưởng độc đoán có thể
xuất phát từ các môi trường khắc nghiệt, trong đó cha mẹ thấy rằng vai trò của họ là phải
bảo vệ con và giữ chúng tránh xa những điều có hại.

42
Con cái của những cha mẹ theo phong cách độc đoán biểu hiện sự lo âu nhiều hơn,
phát triển các phong cách nhận thức thiếu vắng sự tự nhiên và tò mò.
Các bậc cha mẹ kiểu tự do (permissiveness) – cho phép con mình sống cuộc sống
của chúng, không can thiệp hay kỷ luật nhiều. Phong cách làm cha mẹ kiểu này gần với
phong cách làm cha mẹ theo kiểu không can dự do Maccoby & Martin (1983) xác định.
Tuy nhiên các bậc cha mẹ theo phong cách tự do vẫn để tâm đến con cái họ và thể hiện
sự ấm áp trong các mối quan hệ với con cái, trong khi cha mẹ không can dự thường là
những người thờ ơ, không quan tâm.
Một nghiên cứu khác ở Trung Quốc phát hiện ra rằng, phong cách làm cha mẹ
kiểu độc đoán có tương quan nghịch với sự thích nghi với trường học, trong khi đó trẻ em
từ các gia đình có cha mẹ uy quyền lại xoay sở, ứng phó tốt hơn trong quá trình thích
nghi xã hội nói chung (Chen, Dong, &Zhou, 1997).
Một tổng quan các nghiên cứu gần đây đã khẳng định ưu điểm dài lâu của phong
cách uy quyền trong nuôi dạy con cái và ưu điểm này không phụ thuộc vào các giá trị văn
hoá liên quan đến các xã hội theo xu hướng cộng đồng hay xu hướng cá nhân (Sorkhabi,
2005). Sự ấm áp, chấp nhận trẻ của cha mẹ là yếu tố quan trọng đối với các hệ quả tích
cực ở bất kỳ nơi đâu. Việc làm cha mẹ theo kiểu uy quyền (dân chủ, quyết đoán) đã trở
thành một giá trị phổ quát, vì các ưu thế của nó không bị giới hạn bởi văn hoá. Các
nghiên cứu so sánh đã khẳng định ưu điểm của phong cách uy quyền so với phong cách
độc đoán, tự do, vì nó tạo ra sự gắn kết hơn trong gia đình và giúp con người thực hiện
các chức năng tâm lý tốt hơn (Dwairy, Acoui, Abouseir & Farah, 2006).
Câu hỏi ôn tập
1. Xã hội hóa là gì? Hãy phân tích chức năng xã hội hóa của gia đình
2. Phân tích các phương thức tác động của gia đình đến sự phát triển nhân cách của
các thành viên.
3. Giáo dục gia đình có những thuận lợi gì so với giáo dục của nhà trường
4. Phân tích mục đích, nội dung giáo dục của gia đình
5. Phân tích, nguyên tắc, các phương pháp giáo dục của gia đình
...................................................................................................................

43
Chương III. VÒNG ĐỜI GIA ĐÌNH
Mục tiêu: Sau khi học xong nội dung chương 3, sinh viên có thể:
11)Định nghĩa được vòng đời gia đình là gì
12)Trình bày được các cách phân loại vòng đời gia đình
13)Phân tích được các giai đoạn trong vòng đời gia đình
14)Chứng minh được các khủng hoảng tâm lý gia đình từ các vòng đời gia đình
********************************
3.1. Khái niệm và các giai đoạn của vòng đời gia đình
3.1.1. Khái niệm Vòng đời gia đình
  Vòng đời của một gia đình là một câu chuyện về cuộc sống của một gia đình,
chiều dài thời gian tồn tại, mặt động lực của cuộc sống gia đình. Khái niệm này được sử
dụng bởi các nhà xã hội học, nhà tâm lý học, tâm lý trị liệu để mô tả một số sự kiện quan
trọng đặc trưng của gia đình hạt nhân.
Vòng đời của một gia đình  là một chuỗi các giai đoạn mà gia đình trải qua trong
sự phát triển của nó. Có những giai đoạn, hoặc giai đoạn, của vòng đời, đó là, thời kỳ tồn
tại của gia đình từ một sự kiện gia đình đến một sự kiện gia đình khác.
Thuật ngữ “vòng đời gia đình” (Family Life Cycle) được giới thiệu bởi E. Duvall
và R. Hill vào năm 19481 . Họ hiểu gia đình như là một hệ thống động lực theo hai quy
luật:
– luật về cân bằng (mỗi gia đình tìm cách bảo tồn trạng thái hiện tại của
mình, để ở lại giai đoạn phát triển này)
– Luật phát triển (mỗi hệ thống gia đình phải trải qua vòng đời của chính
mình, đó là, một chuỗi các giai đoạn phát triển nhất định)
3.1.2. Cách phân chia các giai đoạn phát triển gia đình
Có một số lượng lớn các chu kỳ khác nhau của chu kỳ gia đình. Các tác giả khác nhau sử
dụng các chỉ số khác nhau làm tiêu chí lựa chọn các giai đoạn:
- sự hiện diện hoặc vắng mặt của trẻ em và tuổi của trẻ; 
- tuổi của vợ chồng; giai đoạn phát triển của hôn nhân ; 
- thay đổi trong các chức năng gia đình riêng lẻ; 
- thay đổi cấu trúc gia đình; 
- thay đổi trong các phương pháp giao tiếp trong gia đình, v.v.
Có những giai đoạn của vòng đời. Giai đoạn vòng đời là khoảng cách từ một sự
kiện gia đình đến một sự kiện khác. 
Ý tưởng về vòng đời đến từ xã hội học, ban đầu cô lập 24 giai đoạn của vòng đời
(Duval, Hil, 1948). Vào những năm 60 của thế kỷ 20, khi khái niệm này được xem xét
trong tâm lý trị liệu, vòng đời của một gia đình bắt đầu giảm xuống còn 7-8 giai
đoạn. Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân bổ các giai đoạn của vòng đời
của gia đình.
Trong các tài liệu xã hội học, chu trình của cuộc sống gia đình thường được coi là
một quá trình được tổ chức xung quanh sự phát triển của một đứa trẻ và được xác định

1
Duvall, E. M. & Hill, R. L. Report of the Committee on the Dynamics of Family Interaction. Washington, D.C.
National Conference on Family Life, 1948

44
bởi các giai đoạn của cha mẹ. Về vấn đề này, các nhà xã hội học trong nước A.I. Antonov
xác định 4 giai đoạn chính của vòng đời [25, tr.101]: 
1) Giai đoạn trước khi làm cha mẹ - từ kết hôn đến sự ra đời của đứa trẻ đầu tiên
2) Giai đoạn làm cha mẹ sinh sản - khoảng thời gian giữa sự ra đời của đứa con đầu
tiên và đứa con cuối cùng (nó có thể trùng lặp, và trong trường hợp sinh của một
đứa trẻ trùng với lần tiếp theo); 
3) Giai đoạn làm cha mẹ xã hội hóa (giai đoạn nuôi dưỡng) - giai đoạn từ khi sinh ra
trẻ đầu tiên đến sự tách biệt đứa con cuối cùng khỏi gia đình; 
4) Giai đoạn trở thành ông bà - giai đoạn từ khi sinh đứa cháu đầu tiên đến cái chết
của một trong những tổ tiên (các tổ tiên trở thành ông bà)
Tiêu chuẩn phân chia vòng đời của gia đình thành các giai đoạn trong các tài liệu
tâm lý là: những thay đổi trong các chức năng riêng biệt của gia đình; thay đổi cấu trúc
gia đình; thay đổi trong các phương pháp giao tiếp trong gia đình. 
1. Thời kỳ triều đình trước hôn nhân.
2. Cặp vợ chồng trẻ chưa có con. 
3. Gia đình trẻ có con nhỏ. 
4. Gia đình có con, học sinh và thanh thiếu niên (gia đình trưởng thành). 
5. Gia đình có con lớn hơn. Tách trẻ em khỏi cha mẹ 
6. Gia đình lão hóa.
Nhiệm vụ phát triển của gia đình là những yêu cầu được áp đặt bởi môi trường bên
ngoài trong gia đình, mà gia đình như một hệ thống phải đối phó với từng giai đoạn để
phát triển thành công hơn nữa. 

  1. Thời kỳ khai quật trước hôn nhân. 


  Nhiệm vụ phát triển của gia đình. 
  - có được kinh nghiệm trong giao tiếp với đại diện của các giới khác; 
  - đạt được sự độc lập về vật chất và tâm lý một phần từ gia đình cha mẹ; 
  - lựa chọn đối tác hôn nhân; 
  - mua lại kinh nghiệm về sự tương tác cảm xúc và kinh doanh với anh ta. 
  Thời kỳ tòa án trước hôn nhân có thể bị chậm trễ. Có những lý do sau đây cho hiện
tượng này: khó khăn về tài chính và kinh tế; tâm lý ("Hội chứng mẹ Do Thái"). 
  2. Cặp vợ chồng trẻ chưa có con. 

  Nhiệm vụ phát triển của gia đình:

  - sự khác biệt với gia đình cha mẹ; 

  - xác định ranh giới bên ngoài và bên trong của gia đình; 

  - phê duyệt ban đầu vai trò hôn nhân; 

  - sự hình thành truyền thông trong gia đình. 

45
  3. Gia đình trẻ có con nhỏ. 

  Nhiệm vụ phát triển của gia đình: 


- tách biệt và phối hợp các vai trò liên quan đến quan hệ cha con và làm mẹ; 
- thích nghi với căng thẳng về thể chất và tinh thần cao; 
- thích nghi với giới hạn hoạt động chung bên ngoài gia đình, vv 

  4. Một gia đình có con ở trường và thanh thiếu niên hoặc một gia đình trưởng thành
(hôn nhân trung niên).
Tiêu chí cho sự trưởng thành của gia đình là thời gian tồn tại của nó (ít nhất 7-10 năm).
Giai đoạn trưởng thành của cuộc sống gia đình chiếm tới khủng hoảng tuổi 30 năm
(tổng kết những kết quả đầu tiên và điều chỉnh kế hoạch cuộc sống).  Giai đoạn này
cũng có thể bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng giữa cuộc sống. 

  Mục tiêu phát triển cho gia đình của học sinh:
1. Việc phân phối lại trách nhiệm hoặc lĩnh vực trách nhiệm: 
  - ai nên liên hệ với nhà trường; 
 - ai sẽ giúp trẻ ở trường, v.v. 
2. Việc phân phối lại thời gian: 
  - Thay đổi lịch trình của người lớn (và về công việc, và về giải trí); 
  - Thay đổi kế hoạch nghề nghiệp của cha mẹ, v.v. 
3. Định nghĩa lại ranh giới gia đình: 
  - sự giúp đỡ của ông bà trong việc nghiên cứu và nuôi dưỡng con vi phạm các ranh
giới bên ngoài;
  - xác định lại các khu vực ảnh hưởng của các thành viên trong gia đình mở rộng. 
  Các nhà nghiên cứu nêu bật những khó khăn cụ thể của một số gia đình liên quan đến
việc bắt đầu đi học của trẻ. Những khó khăn liên quan đến việc bắt đầu đi học của trẻ
được đặc biệt nhận thức bởi cha mẹ cụ thể, và đôi khi buộc phải chuyển sang một nhà
tâm lý học. Đồng thời, cha mẹ thường tin rằng vấn đề của một đứa trẻ là trên thực tế
thường là vấn đề của chính họ hoặc các vấn đề của quan hệ hôn nhân. 
  Dưới đây là ví dụ về các tình huống điển hình: 
1. Cha mẹ lo lắng quá mức về sự tiến bộ của trẻ (không siêng năng, không muốn
học).
  Trong hầu hết các trường hợp, mối quan tâm cho sự thành công của đứa trẻ là
vấn đề thành công của chính họ. Cha mẹ vô thức xác định sự thành công của đứa
trẻ với thành công của mình, đặc biệt là khi anh cảm thấy sự chuyên nghiệp của
mình không thành công. Và sau đó - đào tạo một đứa trẻ trong một ngôi trường ưu
tú, tham quan các phần có uy tín, v.v. - Có dấu hiệu uy tín của gia đình. 
2. Nếu mối quan hệ hôn nhân bị phá vỡ giữa cha mẹ, thì các vấn đề của đứa trẻ ở
trường có thể thực hiện một chức năng ổn định quan trọng. 
  Cha mẹ được tham gia vào những khó khăn của đứa trẻ, được tham gia vào các

46
vấn đề của mình, không chú ý đến các vấn đề riêng của họ và mối quan hệ hôn
nhân tan vỡ. 
  Mục tiêu phát triển cho gia đình vị thành niên: 
1. Phân phối lại quyền tự chủ và kiểm soát giữa cha mẹ và thanh thiếu niên.
2. Thay đổi loại thái độ và hành vi của cha mẹ. 
Gia đình ở giai đoạn này phải đối mặt với một nhóm đối thủ - một nhóm đồng
đẳng. Và cha mẹ cần phải cho con mình một tuổi thiếu tự chủ hơn. Tuy nhiên, việc cung
cấp quyền tự chủ tuyệt vời là đầy những hậu quả tiêu cực. Nó phải được nhớ rằng một
thiếu niên cần cả quyền tự chủ và hỗ trợ cùng một lúc. Nó là cần thiết để kết hợp quyền
tự chủ với giao tiếp đối tác với con trai hoặc con gái của bạn và với các mối quan hệ tin
tưởng. 
3. Chuẩn bị chăm sóc trẻ tại nhà. 
 4. Sửa đổi mối quan hệ hôn nhân. 
 Các giải pháp cho vấn đề này là do: 
a) việc thông qua của vợ chồng thông qua cuộc khủng hoảng của ba mươi
năm; 
b)   b) toàn bộ giai đoạn của "tình yêu lãng mạn".
 5. Gia đình có con lớn hơn. Tách trẻ em khỏi bố mẹ. 
 Giai đoạn này cũng được gọi là "hôn nhân của một tuổi trưởng thành." Nó rơi vào
độ tuổi của vợ chồng 45-60 năm. Sự khởi đầu của giai đoạn này có thể tương ứng với
cuộc khủng hoảng giữa cuộc đời của vợ chồng, chiếm 40-45 năm. Mặc dù nó có thể ở
giai đoạn trước của vòng đời gia đình, ví dụ, vào giữa thế kỷ 20, các chuyên gia liên kết
nó với độ tuổi 3540 năm. 

  Nhiệm vụ phát triển gia đình: 


1) Tái thiết quan hệ hôn nhân. 
  Giải pháp của nhiệm vụ này là do các điểm quan trọng sau đây: 
  - Có những thay đổi đáng kể trong hoạt động của sinh vật của vợ hoặc chồng; 
  - vợ chồng đang trải qua một cuộc khủng hoảng tuổi khác; 
  - trẻ em rời khỏi gia đình.

2) Tách biệt (tách) của đứa trẻ khỏi gia đình; chăm sóc đúng cách của trẻ em từ nhà. 
3) Cách để lại một người đàn ông trẻ (cô gái) từ gia đình là vô cùng quan trọng. Nếu một
người đàn ông trẻ rời khỏi gia đình của mình, không bao giờ nhìn thấy cha mẹ của mình,
cuộc sống của mình không phải là rất thành công. Nếu anh ở với bố mẹ và cho phép anh
quản lý cuộc sống của anh, cuộc sống của anh cũng không diễn ra tốt đẹp. Cách rời khỏi
gia đình được xác định bởi thái độ đối với gia đình. Các nhà nghiên cứu xác định hai loại
vị trí như vậy [25, pp.197-198]: 
a) chọn lựa đáp ứng. 
 Vị trí này có nghĩa là người thanh niên, rời khỏi nhà, làm điều này theo ý muốn của
chính mình và biết rằng anh ta luôn có thể yêu cầu sự ủng hộ hoặc trở về. 
c) phản ứng - cưỡng bức.

47
Ở vị trí này, người đàn ông trẻ rời khỏi nhà chống lại ý chí hay di cốt, cũng chống
lại ý chí, chẳng hạn, vì tội lỗi. Sự hỗ trợ tốt nhất cho trẻ em được cung cấp bởi các
bậc cha mẹ không ngừng đối thoại quan hệ đối tác tích cực với con cái trưởng thành
của họ, tin tưởng sự phán xét của họ và tôn trọng quyết định của họ. 
7. Gia đình lão hóa. 
  Một gia đình lão hóa là một gia đình đã cơ bản hoàn thành chức năng của cha mẹ. 
  Nhiệm vụ phát triển của gia đình: 
1. Thích ứng với chăm sóc và nghỉ hưu. 
2. Việc tái cơ cấu vợ chồng thời gian tự do. 
3. Sửa đổi mối quan hệ hôn nhân. 
Các giải pháp cho vấn đề này là do thực tế là vợ chồng với nhau có thể chi tiêu lên đến
24 giờ một ngày.
Các giai đoạn của giai đoạn này là phức tạp bởi các bệnh của vợ chồng liên quan đến
tuổi tác. Bệnh của một trong những người phối ngẫu cũng có thể hoạt động như một
chất ổn định của hệ thống gia đình. Ví dụ, một người vợ bị ốm khi một người chồng đã
cống hiến cả đời mình cho một sự nghiệp nghỉ hưu. Chăm sóc vợ, chồng cô lấy lại cảm
giác về sự liên quan và tầm quan trọng của mình.
E. Duvall [2] (1957) xem xét các giai đoạn sau của vòng đời gia đình, dựa trên các tiêu chí
về sự hiện diện hoặc vắng mặt của trẻ em trong gia đình và tuổi của chúng:
1. Họ hình thành (0-5 tuổi), không có con.
2. Gia đình màu mỡ, tuổi của đứa trẻ lớn hơn đến 3 năm.
3. Gia đình có trẻ em mẫu giáo, đứa con cả 3-6 tuổi.
4. Gia đình có học sinh, con cả 6–13 tuổi.
5. Gia đình có con nhỏ tuổi, trẻ lớn hơn 13-21 tuổi.
6. Gia đình, "gửi" trẻ em vào cuộc sống.
7. Vợ chồng trưởng thành.
8. Lão hóa gia đình.
E. K. Vasilyeva [3] (1975) xác định 5 giai đoạn của chu kỳ gia đình, với các tiêu chí lựa
chọn đã được bổ sung như có gia đình riêng cho trẻ em, bắt đầu hoạt động công việc của
trẻ và trẻ em sống chung với cha mẹ:
1. Sự ra đời của một gia đình: từ thời điểm kết hôn cho đến khi sinh đứa con đầu
lòng.
2. Sự ra đời và nuôi dạy con cái: tiếp tục cho đến khi bắt đầu công việc ít nhất một
đứa trẻ.
3. Sự kết thúc của chức năng giáo dục của gia đình : nó tiếp tục cho đến thời điểm
khi không một trong những đứa trẻ vẫn còn trong sự chăm sóc của cha mẹ.
4. Sống chung với cha mẹ có con, ít nhất một trong số đó không có gia đình riêng.
5. Vợ chồng sống một mình hoặc với những đứa trẻ có gia đình riêng.
B. Carter và M. MacGoldrick [4] (1988) phân biệt sáu giai đoạn của vòng đời gia đình, các
tiêu chí để phân biệt đó là sự hiện diện hay vắng mặt của trẻ em trong gia đình và tuổi tác
của chúng:
1. Tình trạng không gia đình: người đàn ông độc thân và phụ nữ chưa lập gia đình.
2. Gia đình mới cưới.

48
3. Gia đình có con nhỏ.
4. Gia đình có thanh thiếu niên.
5. Thoát trẻ em trưởng thành khỏi gia đình.
6. Gia đình ở giai đoạn phát triển muộn.
V. A. Sysenko [5] (1989) xác định bốn giai đoạn, tiêu chuẩn để phân biệt đó là số năm vợ
chồng đã kết hôn:
1. Cuộc hôn nhân rất trẻ - từ 0 đến 4 năm kết hôn.
2. Cuộc hôn nhân trẻ - từ 5 đến 9 tuổi.
3. Trung hôn nhân - từ 10 đến 19 tuổi.
4. Hôn nhân cũ hơn - hơn 20 năm hôn nhân.
A.I. Antonov và V.M. Medkov [6] (1996) xem xét bốn giai đoạn chính của vòng đời:
1. Giai đoạn tiền sinh - từ kết hôn đến sự ra đời của đứa trẻ đầu tiên.
2. Giai đoạn làm cha mẹ sinh sản là khoảng thời gian giữa sự ra đời của đứa con đầu
tiên và đứa con cuối cùng.
3. Giai đoạn xã hội hóa giai đoạn làm cha mẹ (giai đoạn nuôi dưỡng) là khoảng thời
gian từ khi sinh ra người đầu tiên đến sự tách biệt đứa con cuối cùng khỏi gia
đình.
4. Giai đoạn tổ tiên là khoảng thời gian từ khi sinh cháu trai đầu tiên đến cái chết của
một trong những ông bà (ông bà trở thành ông bà).
G. Navaitis [7] (1999) xác định sáu giai đoạn phát triển của gia đình, được xác định trên cơ
sở các giai đoạn quan hệ hôn nhân:
1. Trò chuyện trực tiếp.
2. Kết hôn
3. Giai đoạn tuần trăng mật .
4. Giai đoạn của gia đình trẻ.
5. Gia đình trưởng thành.
6. Gia đình lớn tuổi hơn.
Chu kỳ sống gia đình Theo D. Levy, nghiên cứu về vòng đời của một gia đình đòi hỏi
một phương pháp tiếp cận theo chiều dọc. Điều này có nghĩa là gia đình trải qua những
giai đoạn nhất định trong sự phát triển của nó, giống như những giai đoạn mà cá nhân trải
qua trong quá trình tạo mầm.
Các giai đoạn của vòng đời gia đình có liên quan đến việc tạo ra một gia đình, với sự xuất
hiện của các thành viên gia đình mới và “khởi hành” của những người già. Những thay
đổi này trong thành phần gia đình theo nhiều cách thay đổi chức năng vai trò của nó.
Carter và Mac Goldring (1980) phân biệt sáu giai đoạn của vòng đời gia đình: tình trạng
gia đình thêm: những người độc thân và chưa lập gia đình chưa tạo ra gia đình; gia đình
mới cưới; gia đình có con nhỏ; gia đình có thanh thiếu niên; thu hồi trẻ em trưởng thành
từ gia đình; gia đình ở giai đoạn phát triển muộn.
V.A. Sysenko nổi bật: cuộc hôn nhân rất trẻ - từ 0 đến 4 năm hôn nhân; hôn nhân trẻ - từ
5 đến 9 tuổi; hôn nhân giữa - từ 10 đến 19 tuổi; những cuộc hôn nhân cũ hơn - hơn 20
năm hôn nhân.
G. Navaitis xem xét các giai đoạn phát triển gia đình sau đây:

49
Trò chuyện trực tiếp. Ở giai đoạn này, cần phải đạt được một phần độc lập về tâm lý và
vật chất từ gia đình di truyền, để có được kinh nghiệm trong giao tiếp với người khác,
chọn một người bạn đời, để có được kinh nghiệm trong giao tiếp cảm xúc và kinh doanh
với anh ta.
Hôn nhân - chấp nhận vai trò xã hội hôn nhân.
Tuần trăng mật. Nhiệm vụ của nó bao gồm: chấp nhận những thay đổi về cường độ cảm
xúc, thiết lập khoảng cách tâm lý và không gian với gia đình di truyền, đạt được kinh
nghiệm tương tác trong việc giải quyết các vấn đề tổ chức cuộc sống hàng ngày của gia
đình, tạo sự gần gũi và phối hợp ban đầu của vai trò gia đình.
Giai đoạn của gia đình trẻ. Phạm vi của giai đoạn: quyết định về việc tiếp tục gia đình -
sự trở lại của vợ đối với hoạt động chuyên môn hoặc sự bắt đầu chuyến thăm của trẻ đến
cơ sở giáo dục mầm non
Một gia đình trưởng thành, đó là, một gia đình thực hiện tất cả các chức năng của nó.
Nếu ở giai đoạn thứ tư gia đình đã được bổ sung với một thành viên mới, sau đó ở thứ
năm nó được bổ sung với tính cách mới. Vai trò của cha mẹ thay đổi cho phù hợp. Khả
năng của họ để đáp ứng nhu cầu chăm sóc của trẻ, bảo đảm phải được bổ sung bởi khả
năng giáo dục và tổ chức các kết nối xã hội của trẻ.
Giai đoạn kết thúc khi các em đạt được sự độc lập một phần từ gia đình cha mẹ. Các
nhiệm vụ tình cảm của gia đình có thể được coi là giải quyết khi ảnh hưởng tâm lý của trẻ
em và cha mẹ với nhau đến với trạng thái cân bằng, khi tất cả các thành viên gia đình có
điều kiện tự chủ.
Gia đình lớn tuổi hơn. Ở giai đoạn này, quan hệ hôn nhân được gia hạn, nội dung mới
được trao cho các chức năng của gia đình (ví dụ, chức năng giáo dục được thể hiện bằng
cách tham gia vào việc nuôi dưỡng của cháu) (Navaytis G., 1999).
Sự hiện diện của các vấn đề giữa các thành viên gia đình có thể là do cần phải di chuyển
gia đình đến một giai đoạn phát triển mới và thích nghi với các điều kiện mới.
Sự căng thẳng nhất thường là giai đoạn thứ ba (theo phân loại của Carter và
McGoldring), khi đứa trẻ đầu tiên xuất hiện, và giai đoạn thứ năm, khi cấu trúc gia đình
không ổn định do “sự xuất hiện” của một số thành viên trong gia đình và “khởi hành” của
người khác. Ngay cả những thay đổi tích cực cũng có thể dẫn đến căng thẳng trong gia
đình.
Những trải nghiệm bất ngờ và đặc biệt đau thương như thất nghiệp, chết sớm hoặc sinh
con muộn có thể gây khó khăn cho việc giải quyết vấn đề phát triển gia đình và chuyển
sang giai đoạn mới. Phong cách cứng nhắc và rối loạn chức năng của các mối quan hệ gia
đình cũng làm tăng khả năng rằng ngay cả những thay đổi bình thường trong gia đình
cũng sẽ là một cuộc khủng hoảng.
Những thay đổi trong gia đình được coi là bình thường hoặc là "bất thường". Những thay
đổi bình thường trong gia đình là những biến đổi mà gia đình có thể mong đợi. Và "bất
thường", ngược lại, đột ngột và bất ngờ, chẳng hạn như, ví dụ, cái chết, tự tử, bệnh tật,
chuyến bay, v.v.
Theo D. Levy (1993), có những loại thay đổi sau đây trong gia đình:
"Knockout" (mất thành viên gia đình vì nhiều lý do khác nhau);

50
"Tăng trưởng" (bổ sung của gia đình liên quan đến việc sinh, nhận con nuôi, sự xuất hiện
của một ông nội hoặc bà ngoại, trở về từ dịch vụ quân sự); thay đổi dưới ảnh hưởng của
các sự kiện xã hội (kinh tế, trầm cảm, động đất, vv); thay đổi sinh học (tuổi dậy thì, mãn
kinh, vv); thay đổi lối sống (bảo mật, di dời, thất nghiệp, vv);
"Bạo lực" (trộm cắp, cưỡng hiếp, đánh đập, vv). Trong quá trình trị liệu tâm lý, nó được
kiểm tra ở mức độ mà gia đình thích nghi hoặc không thích ứng với những thay đổi này,
miễn là gia đình linh hoạt trong việc thích nghi. Người ta tin rằng một gia đình mở và
linh hoạt là thịnh vượng nhất và chức năng. Có một sự liên tục hoàn toàn của các gia đình
từ tối ưu (được tổ chức tốt, tương đối mở để thay đổi) đến các rối loạn chức năng đáng kể
(hỗn loạn, cứng nhắc, các hệ thống khép kín tương tác kém với thế giới bên ngoài).

Источник: http://psylist.net/family/00022.htm

Vòng đời là một đặc điểm năng động của gia đình. Các giai đoạn chính (giai đoạn) của
vòng đời của gia đình và nội dung tâm lý của họ. Gia đình trẻ là một giai đoạn đặc biệt
trong cấu trúc của chu kỳ gia đình. Cuộc khủng hoảng gia đình có quy định và bản chất
tự nhiên của sự xuất hiện của chúng. Nguyên nhân tâm lý của khủng hoảng gia
đình. Cuộc khủng hoảng phi quy chuẩn trong gia đình.

Cuộc sống cuộc sống như một đặc điểm năng động của gia đình
Gia đình là hệ thống xã hội đầu tiên và quan trọng nhất trong giao lưu liên tục
với môi trường. Các chức năng của gia đình là tùy thuộc vào hai luật bổ sung cơ bản -
pháp luật của cân bằng nội môi (tập trung vào duy trì sự kiên định và ổn định) và pháp
luật phát triển. Luật phát triển có nghĩa là một gia đình, giống như bất kỳ hệ thống nào,
có thể được mô tả trong khía cạnh lịch sử về mặt nguồn gốc, phát triển và thanh lý
(chấm dứt sự tồn tại). Do đó, chúng ta có thể nói về vòng đời của một gia đình và một
chu kỳ và chuỗi các giai đoạn biến đổi của nó từ lúc bắt đầu đến lúc chấm dứt hoạt
động cuộc sống.
Vòng đời của một gia đình là một câu chuyện về cuộc sống của một gia đình,
chiều dài của nó trong thời gian, động lực của chính nó; cuộc sống gia đình, phản ánh tần
suất, sự đều đặn của các sự kiện gia đình.
Sự kiện gia đình - những sự kiện quan trọng nhất cho cuộc sống gia đình, ảnh
hưởng đáng kể đến sự thay đổi trong cấu trúc gia đình. Bộ sưu tập các sự kiện gia đình
tạo thành các giai đoạn chính của chu kỳ gia đình.
Như bạn đã biết, những người trẻ vừa kết hôn và vợ chồng đã sống cùng nhau hơn
một thập kỷ, đối xử với nhau một cách khác, đối mặt với nhiều vấn đề và khó khăn khác
nhau, điều này không thể ảnh hưởng đến bầu không khí gia đình.
Vòng đời của sự phát triển của gia đình được xác định bởi các sự kiện khách quan
(sinh, tử) và được thực hiện trong bối cảnh những thay đổi liên quan đến tuổi của tất cả
các thành viên trong gia đình. Những thay đổi về tâm lý của tuổi tác liên quan đến tính
cách của mỗi thành viên trong gia đình đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của họ: hệ thống
nhu cầu cá nhân và động cơ, cách thức hành vi và hoạt động của nó, địa vị xã hội của các

51
thành viên gia đình, và do đó phong cách giao tiếp và bản chất của gia đình nói chung
thay đổi.
Công nhận những khác biệt này đã dẫn đến sự cần thiết phải xác định các giai
đoạn chính của vòng đời gia đình. Tầm quan trọng của giai đoạn này chủ yếu được xác
định bởi các vấn đề phát triển điển hình cho từng giai đoạn của vòng đời, kiến thức giúp
vợ chồng, chuẩn bị cho sự xuất hiện và giải quyết của họ, và mặt khác, phát triển hệ
thống các khuyến nghị từ chuyên gia trợ giúp xã hội và tâm lý cho gia đình .
Ý tưởng về chu kỳ gia đình xuất hiện trong tâm lý học trong những năm 40 của thế
kỷ XX, đến từ xã hội học. Khái niệm “chu kỳ phát triển gia đình” được sử dụng lần đầu
tiên vào năm 1948 bởi E. Duvall và R. Hill tại hội nghị quốc gia Mỹ về cuộc sống gia
đình, nơi họ đã đưa ra một báo cáo về sự năng động của tương tác gia đình. Ban đầu, 24
giai đoạn của chu kỳ gia đình đã được xác định.
Vào những năm 60, khi ý tưởng này bắt đầu được xem xét trong tâm lý trị liệu,
vòng đời của gia đình bắt đầu giảm xuống còn 7-8 giai đoạn.
Có nhiều phân loại khác nhau của các giai đoạn của vòng đời gia đình. Trong
trường hợp này, thông thường họ tiến hành từ các chi tiết cụ thể của các nhiệm vụ mà gia
đình là một nhóm ở mỗi giai đoạn phải giải quyết cho hoạt động thành công hơn nữa của
nó. Trong hầu hết các trường hợp, việc định kỳ này dựa trên sự thay đổi về vị trí của trẻ
em trong cấu trúc gia đình. Một cách tiếp cận tương tự là điển hình cho cả các nhà khoa
học trong và ngoài nước.
Đặc biệt, E. Duval trong vòng đời được phân bổ 8 giai đoạn trên cơ sở một tiêu chí
như chức năng sinh sản và giáo dục của gia đình (sự hiện diện hay vắng mặt của trẻ em
trong gia đình và tuổi của chúng).
Giai đoạn đầu tiên. Họ hình thành (0–5 tuổi), không có con.
Giai đoạn thứ hai. Phân bón cho gia đình, tuổi của trẻ lớn hơn lên đến 3 năm.
Giai đoạn thứ ba. Gia đình có trẻ em mẫu giáo, đứa con lớn nhất từ 3-6 tuổi.
Giai đoạn thứ tư. Gia đình có học sinh, con cả 6–13 tuổi.
Giai đoạn thứ năm. Gia đình có con nhỏ, trẻ lớn hơn 13-21 tuổi.
Giai đoạn thứ sáu. Gia đình, "gửi" trẻ em vào cuộc sống.
Giai đoạn thứ bảy. Vợ chồng trưởng thành.
Giai đoạn thứ tám. Lão hóa gia đình.
Đương nhiên, không phải bất kỳ gia đình nào cũng có thể được xem qua lăng kính
của phân loại này; Có rất nhiều nhóm gia đình “không phù hợp” trong bất kỳ phân loại
nào. Ví dụ, các gia đình có trẻ em rất khác nhau về tuổi, đã kết hôn nhiều lần và có con từ
các cuộc hôn nhân trước đó, không đầy đủ (với một gia đình) với cha mẹ của một trong
những người phối ngẫu, vv. các gia đình, bất kể nhiệm vụ cụ thể nào có thể giải quyết, ở
một giai đoạn nào đó của vòng đời nó phải đối mặt với những khó khăn điển hình cho
giai đoạn phát triển này, kiến thức sẽ giúp đối phó với họ nhiều hơn nữa.

3.2. Các giai đoạn chính của vòng đời gia đình
Rất thường xuyên, các vấn đề nảy sinh trong gia đình do thực tế là các thành viên
không thể di chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, hoặc một giai đoạn “chồng
chéo” với những người khác (ly dị, hôn nhân thứ cấp, trẻ em từ hôn nhân đầu tiên,

52
vv). Nó chỉ ra rằng gia đình sống như hai giai đoạn cùng một lúc: ví dụ, nơi có một đứa
trẻ nhỏ và thiếu niên, các vấn đề xuất hiện là đặc điểm của một và các giai đoạn phát triển
khác của gia đình, tạo thêm khó khăn trong việc thực hiện các chức năng của hôn nhân và
của cha mẹ.
Đồng thời, phương pháp tiếp cận phát triển gia đình dựa trên những thay đổi về
chức năng sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái khó có thể được coi là phương pháp đúng đắn
nhất. Mối quan hệ gia đình không chỉ là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Chính thức,
một gia đình tồn tại từ khi đăng ký đến việc giải thể hoặc chấm dứt hôn nhân, và tinh thần
tâm lý của nó nảy sinh khi mối quan hệ trong một cặp vợ chồng trở nên quan trọng, ảnh
hưởng đến cảm giác, suy nghĩ và hành vi, và vẫn như vậy cho đến khi những mối quan hệ
này vẫn còn quan trọng. Do đó, sẽ là hợp lý hơn nếu xác định giai đoạn phát triển gia
đình là một nhóm nhỏ bởi toàn bộ các mối quan hệ khác nhau được kết nối với gia đình
và ý nghĩa của chúng trong một hoặc một thời kỳ hoạt động khác.
Với điều này trong tâm trí, chúng ta có thể xem xét các nhiệm vụ điển hình và các
vấn đề ở các giai đoạn khác nhau của vòng đời của một gia đình hiện đại. Cần lưu ý rằng
không có khả năng giải quyết các vấn đề gia đình là đặc điểm của một giai đoạn đòi hỏi
phải di chuyển chúng đến một giai đoạn khác của vòng đời. Đổi lại, ở giai đoạn mới,
nhiệm vụ của riêng họ xuất hiện, cần phải được giải quyết, và cộng với các vấn đề chưa
được giải quyết của giai đoạn trước được thêm vào điều này.
Vì vậy, gia đình phải đối mặt với những khó khăn đặc biệt, được đi kèm với sự
cần thiết phải cơ cấu lại toàn bộ hệ thống gia đình, phân phối lại vai trò và trách nhiệm
của gia đình. Tuy nhiên, để làm điều này ngay lập tức là gần như không thể. Do đó, một
cuộc khủng hoảng tự nhiên nảy sinh trong gia đình, đi kèm với nó trong quá trình chuyển
đổi từ giai đoạn này sang vòng đời khác. Cuộc khủng hoảng như vậy được mô tả bởi thực
tế là các mối quan hệ gia đình cũ đã không thể chấp nhận được và những mối quan hệ
mới chưa được tạo ra.

3.2.1. Thời kỳ tiền hôn nhân. Mục tiêu chính của giai đoạn này là để đạt được một phần
độc lập về tâm lý và vật chất từ gia đình di truyền (cha mẹ), để có được kinh nghiệm
trong giao tiếp với người khác, chọn một đối tác hôn nhân, và đạt được kinh nghiệm
trong tương tác kinh doanh và cảm xúc với nó.
Đối với một số người, giai đoạn này bị trì hoãn quá mức. Những người trẻ tuổi có thể
tránh hôn nhân vì những lý do nằm trong gia đình cha mẹ của họ. Nhưng trong cùng một
cách, họ có thể phấn đấu cho cuộc hôn nhân sớm, cố gắng tự giải thoát khỏi mối quan hệ
ràng buộc của họ với cha mẹ của họ. Nhiều người không thể kết hôn với người thân của
họ do những khó khăn về tài chính và kinh tế (thiếu công việc được trả lương quá mức,
bất chấp sự sẵn có của giáo dục nghề nghiệp, vấn đề nhà ở của họ, vv).

3.2.2. Hôn nhân và giai đoạn không có con. Ở giai đoạn này, các cặp vợ chồng nên
thiết lập những gì đã thay đổi trong tình trạng xã hội của họ và xác định ranh giới bên
ngoài và bên trong của gia đình: người quen của chồng hoặc vợ sẽ được "cho phép" cho
gia đình và tần suất; bao lâu vợ chồng được phép ở bên ngoài gia đình mà không có một
đối tác; bao nhiêu can thiệp được cho phép trong hôn nhân của cha mẹ của vợ / chồng (ở

53
giai đoạn này nó là rất quan trọng như thế nào gia đình mới nhận thức được con dâu hoặc
con rể).
Nói chung, trong thời gian này một cặp vợ chồng trẻ phải nắm giữ một số lượng lớn các
cuộc đàm phán và thiết lập một tập hợp các thỏa thuận về các vấn đề khác nhau (từ các
giá trị đến thói quen). Các vấn đề xã hội, cảm xúc, tình dục và các vấn đề khác có thể
phát sinh.
Đầu tiên, người ta nên chấp nhận những thay đổi về cường độ cảm xúc, thiết lập khoảng
cách tâm lý và không gian với gia đình di truyền, có được kinh nghiệm về tương tác trong
việc giải quyết các vấn đề tổ chức cuộc sống hàng ngày của gia đình, chấp nhận và điều
phối ban đầu vai trò xã hội của vợ chồng (gia đình).
Thứ hai, câu hỏi về hỗ trợ vật chất và hỗ trợ tài chính của gia đình sẽ được giải quyết: ai
sẽ kiếm tiền, mà tầng lớp xã hội sẽ thuộc về gia đình nào.
Thứ ba, cần thiết phải tạo ra sự thân mật trong các mối quan hệ, có thể kèm theo sự xuất
hiện của các vấn đề tình dục do thiếu kinh nghiệm, sự khác biệt trong giáo dục, mức độ
ham muốn, vv Ở giai đoạn này, bạn cũng nên xem xét các vấn đề nghề nghiệp của từng
người phối ngẫu, thảo luận về khả năng sinh con đầu tiên có bao nhiêu đứa trẻ được lên
kế hoạch trong gia đình. Nó có thể chỉ ra rằng một trong các vợ chồng là không kết quả,
và sau đó câu hỏi mới sẽ xuất hiện: có hay không để có một đứa con nuôi dưỡng cho giáo
dục, hoặc nó là giá trị ly dị và cố gắng để tạo ra một gia đình.
Trong điều kiện thực tế hiện đại của Nga, nhiều cặp mới cưới đã không ngay lập tức
quyết định về sự ra đời của đứa con đầu lòng của họ; ngày càng có nhiều trường hợp khi
các cặp vợ chồng không đăng ký, thích cái gọi là hôn nhân dân sự để hợp pháp hoá quan
hệ. Điều này cũng tạo ra các vấn đề riêng của mình trong mối quan hệ.

3.3.3. Gia đình trẻ có con nhỏ. Giai đoạn này được xác định bằng cách tách vai trò liên
quan đến quan hệ cha con và làm mẹ, sự phối hợp, cung cấp vật liệu cho các điều kiện
sống gia đình mới, thích ứng với căng thẳng về thể chất và tinh thần cao, hạn chế hoạt
động chung của vợ chồng bên ngoài gia đình, không đủ khả năng ở một mình, v.v.
Đôi khi một cặp vợ chồng chưa sẵn sàng cho sự xuất hiện của trẻ em, và sự ra đời của
một đứa trẻ không mong muốn có thể làm phức tạp các vấn đề của giáo dục của
mình. Ngoài ra, những người coi cuộc hôn nhân của họ là một nỗ lực thử nghiệm thấy
rằng sẽ khó khăn hơn nhiều cho họ để lại.
Có những trường hợp khi sự ra đời của một đứa trẻ được mẹ coi là một cách để lấp
đầy thâm hụt của tình yêu. Trong khi mang thai, người mẹ có thể hài lòng với hình ảnh
của việc có được một sinh vật sẽ yêu cô ấy. Sự sụp đổ của một giấc mơ đến sau khi sinh
con do cần phải “bỏ cuộc” rất nhiều. Trầm cảm sau sinh đôi khi được coi là phản ứng với
sự mất mát không thể cứu nổi của tuổi thơ của một người.
Tính năng cơ bản quan trọng của giai đoạn này của vòng đời gia đình là sự chuyển
tiếp của vợ chồng sang đầu của việc thực hiện chức năng cha mẹ. Sự hình thành một vị trí
của cha mẹ là nhiều khía cạnh, một quá trình khủng hoảng quan trọng đối với cả cha lẫn
mẹ, phần lớn định trước số phận của sự phát triển của trẻ em trong gia đình, bản chất của
mối quan hệ cha mẹ và con và sự phát triển nhân cách của cha mẹ.

54
Vai trò của cha mẹ về cơ bản khác biệt so với hôn nhân khi thành lập công đoàn
hôn nhân, cả hai đối tác được tự do chấm dứt mối quan hệ hôn nhân và giải tán hôn nhân,
trong khi cha mẹ là vai trò “suốt đời” của cá nhân và không thể bị hủy bỏ. Ngay cả trong
trường hợp được gọi là "bị bỏ rơi", khi cha mẹ từ bỏ quyền và nghĩa vụ của họ để nuôi
con, để anh ta ở bệnh viện thai sản hoặc trại trẻ mồ côi, cha mẹ vẫn giữ trách nhiệm về
lựa chọn đạo đức, cha mẹ còn lại, ngay cả khi chỉ sinh học.
Một số vấn đề quan trọng ở giai đoạn này có liên quan đến việc ai sẽ chăm sóc đứa
trẻ. Vai trò mới cho cha mẹ đang nổi lên; bố mẹ họ trở thành ông bà (bà cố và ông
bà). Có một sự thay đổi độ tuổi đặc biệt: cha mẹ già phải nhìn thấy người lớn ở con cái
của họ. Đối với nhiều người, đây là một quá trình chuyển đổi khó khăn. Những gì không
được làm việc giữa hai vợ chồng nên được thực hiện với sự hiện diện của một người thứ
ba: ví dụ, một trong những bậc cha mẹ (thường là mẹ) bị buộc phải ở nhà và chăm sóc
đứa trẻ, trong khi người kia (chủ yếu là cha) cố gắng giữ kết nối với thế giới bên ngoài.
Có một vùng thu hẹp của vợ giao tiếp. Nguồn cung cấp vật chất rơi vào người
chồng, vì vậy anh "tự giải phóng" mình khỏi việc chăm sóc đứa trẻ. Trên cơ sở đó, xung
đột có thể phát sinh do sự quá tải của vợ với công việc gia đình và mong muốn của người
chồng “nghỉ ngơi” bên ngoài gia đình. Một vấn đề khá quan trọng của giai đoạn này có
thể là vấn đề tự thực hiện của một người mẹ, hoạt động của họ chỉ giới hạn trong gia
đình. Cô có thể có cảm giác không hài lòng và ghen tị với cuộc sống năng động của
chồng mình. Hôn nhân có thể bắt đầu bị phá vỡ khi người vợ tăng nhu cầu hỗ trợ chăm
sóc trẻ, và người chồng sẽ cảm thấy rằng vợ và con của mình can thiệp vào công việc và
sự nghiệp của mình.
Trong mối quan hệ với một gia đình người Nga trẻ tuổi, trong một số người có nhu
cầu tách biệt với thế hệ cũ (thay đổi hoặc thuê một căn hộ, vv), ở những người khác, trái
lại, tất cả các mối quan tâm đều được chuyển cho ông bà (cặp mới cưới không trở thành
cha mẹ).
Khi đứa trẻ lớn hơn, người mẹ có thể trở lại làm việc. Về vấn đề này, có một vấn
đề mới: làm thế nào để đối phó với một đứa trẻ - tìm một vú em hoặc xác định anh ta
trong một cơ sở giáo dục mầm non.
Các bà mẹ đơn thân gặp phải các vấn đề đặc biệt - trẻ bắt đầu đặt câu hỏi về cha
của chúng. Ngoài ra, trong tất cả các gia đình có thể có một vấn đề về sự thống nhất các
yêu cầu đối với trẻ và kiểm soát hành vi của trẻ: bà nội chiến, người mẹ đam mê mọi thứ,
và người cha đặt quá nhiều quy tắc và cấm; đứa trẻ cảm thấy và thao túng chúng. Cùng
với điều này, gia đình đặt ra câu hỏi về việc chuẩn bị một đứa trẻ đi học, và lựa chọn một
cơ sở giáo dục thích hợp cũng có thể dẫn đến những bất đồng giữa các thành viên trong
gia đình trưởng thành.
3.2.4. Gia đình có con em học sinh (gia đình trung niên)
Thời gian một đứa trẻ đi học thường đi kèm với một cuộc khủng hoảng trong gia
đình. Xung đột giữa cha mẹ trở nên rõ rệt hơn, vì sản phẩm của các hoạt động giáo dục
của họ là đối tượng xem công khai. Lần đầu tiên, họ đang trải qua một thực tế rằng đứa
trẻ sẽ một lần lớn lên và rời khỏi nhà, và chúng sẽ bị bỏ lại một mình với nhau.
Có thể có một số vấn đề liên quan đến đời sống học đường của trẻ - câu hỏi về tính
hữu dụng về trí tuệ của con trai hay con gái đang tụt hậu ở trường đang được giải quyết

55
(sau đó bạn sẽ phải chuyển đứa trẻ đến trường đặc biệt hoặc tổ chức học phí cá nhân tại
nhà); Có thể có vấn đề với độ lệch trong hành vi.
Ở giai đoạn này, phụ huynh quyết định vấn đề phát triển toàn diện của trẻ (tập thể
thao đồng thời, âm nhạc, ngoại ngữ) hoặc lựa chọn các lớp theo sở thích và khuynh
hướng. Cùng với điều này, đứa trẻ (vị thành niên) đang được dạy để làm nhiệm vụ gia
đình, phân phối của họ, và kết hợp với nghiên cứu. Có thể chuyển sang một trường khác
(hoặc liên quan đến việc tái định cư, hoặc để nghiên cứu chuyên sâu về bất kỳ môn học
nào). Ngay cả khi trẻ em đến tuổi vị thành niên, cha mẹ vẫn chăm sóc cho họ, không tin
tưởng họ tự quyết định và không chú ý đến thực tế là thanh thiếu niên tìm kiếm tự do và
phấn đấu để tự thực hiện.
Trong thời gian này, cha mẹ vẫn dành nhiều thời gian và năng lượng cho sự
nghiệp của chính họ, vì vậy ít chú ý đến thế giới tâm linh và tinh thần của đứa trẻ. Đôi
khi vì lợi ích của đứa trẻ, cha mẹ hy sinh của riêng mình (bao gồm cả chuyên
nghiệp). Sau đó, ở tuổi sau, cha mẹ có thể buộc tội đứa trẻ can thiệp vào sự nghiệp của
họ. Cha mẹ lớn tuổi có xu hướng đổ lỗi cho đứa trẻ vì những vấn đề của họ, sự bi quan
của họ trong cuộc sống có thể được truyền cho thiếu niên.
Trong một số gia đình có vấn đề mất quyền lực của cha mẹ (cha mẹ luôn bảo vệ
đứa trẻ khỏi "sự thật của cuộc sống", và khi đối mặt với thực tế, thiếu niên nhận ra rằng
mình không được dạy điều sai). Một vấn đề quan trọng khác là sự khác biệt giữa hy vọng
và dự đoán của cha mẹ của một đứa trẻ trưởng thành, thực sự. Thanh thiếu niên đang mất
kiểm soát, thể hiện sự quan tâm tích cực đến các hoạt động bên ngoài trường học và gia
đình. Trong bối cảnh này, vợ chồng có thể gặp vấn đề với cha mẹ của họ, khi họ già đi,
đang ngày càng trở nên không khỏe và cần được chăm sóc. Do đó, thế hệ giữa bị tấn công
bởi rất nhiều áp lực từ cả phía trên và phía dưới, điều này có thể làm trầm trọng thêm mối
quan hệ gia đình mang tính chất của một cuộc khủng hoảng kéo dài.
Đặc điểm tâm lý chính của gia đình ở giai đoạn này của vòng đời là sự trùng hợp
ngẫu nhiên hoặc giao điểm quan trọng của các giai đoạn tuổi khủng hoảng của mỗi thế hệ
hệ thống gia đình. Thế hệ ông bà lớn tuổi phải đối mặt với nhu cầu ngừng hoạt động sản
xuất và hoạt động xã hội (nghỉ hưu) và tái cơ cấu lối sống liên quan đến sự xuất hiện các
vấn đề mất sức mạnh thể chất và khả năng.
Thế hệ giữa các cặp vợ chồng - cha mẹ bước vào một cuộc khủng hoảng giữa cuộc
sống, đòi hỏi phải suy nghĩ lại về cách sống và tổng kết. Cuối cùng, thế hệ trẻ - thanh
thiếu niên - tuyên bố quyền thừa nhận tình trạng mới của họ - tình trạng của một người
trưởng thành, nhất thiết dẫn đến việc tái cấu trúc hệ thống quan hệ cha-con. Giao điểm
của ba cuộc khủng hoảng tuổi - người già (cho ông bà), giữa cuộc sống (cho cha mẹ) và
tuổi thiếu niên (cho trẻ em) - gia đình mở rộng trải qua ba thế hệ tạo ra một lỗ hổng đặc
biệt của hệ thống gia đình ở giai đoạn này của vòng đời. Đó là ở giai đoạn này mà sự lo
lắng tối đa của các thành viên gia đình, cảm giác mất an toàn, không an toàn được quan
sát thấy.
3.2.5. Gia đình của tuổi trưởng thành, mà trẻ em để lại
Thông thường giai đoạn phát triển gia đình này tương ứng với cuộc khủng hoảng
giữa cuộc đời của vợ chồng. Thường trong giai đoạn này của cuộc đời, người chồng nhận
ra rằng anh ta không còn có thể leo lên cao hơn trên bậc thang sự nghiệp, nhưng trong

56
tuổi trẻ của mình, anh mơ thấy một điều gì đó hoàn toàn khác. Sự thất vọng này có thể
tràn qua cả gia đình, và đặc biệt là về người vợ.
Một trong những xung đột phổ biến là khi một người đàn ông đến tuổi trung niên
và có được một địa vị xã hội cao, anh ta trở nên hấp dẫn hơn đối với phụ nữ trẻ, trong khi
vợ của anh ta, vì sự hấp dẫn vật lý quan trọng hơn nhiều, cảm thấy anh ta trở nên ít thú vị
hơn đàn ông. Trẻ em ít có khả năng ở nhà hơn, và hóa ra là chúng đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong gia đình. Có lẽ đó là thông qua những đứa trẻ mà cha mẹ giao tiếp với
nhau, hoặc sự chăm sóc của họ và tình yêu dành cho họ đã được thực hiện bởi vợ
chồng. Cha mẹ đột nhiên có thể thấy rằng họ không có gì để nói chuyện với nhau. Hoặc
những bất đồng và vấn đề cũ, giải pháp đã bị trì hoãn do sự ra đời của trẻ em, đột nhiên
tăng cường.
Trong các gia đình mà chỉ có một phụ huynh, anh ta có thể cảm thấy sự chăm sóc
của đứa trẻ là sự khởi đầu của một tuổi già cô đơn. Trong gia đình đầy đủ trong giai đoạn
này số lượng ly hôn tăng lên. Nếu xung đột là rất sâu, cố gắng giết người và tự sát xảy
ra. Giải quyết vấn đề nảy sinh trong giai đoạn trưởng thành của hôn nhân là khó khăn hơn
nhiều so với những năm đầu, khi một cặp vợ chồng trẻ chưa ổn định và đang trong quá
trình tạo ra khuôn mẫu mới của sự tương tác. Bởi thời gian này, các khuôn mẫu đã được
phát triển bởi gia đình, cả giải quyết vấn đề và tránh chúng, thường trở nên không đầy
đủ. Đôi khi điều này dẫn đến việc tăng cường hành vi có vấn đề - ví dụ, say rượu hoặc
lạm dụng vợ / chồng - và dần dần nó đạt đến một mức độ không thể chấp nhận.
Giai đoạn này của vòng đời của gia đình, như đã đề cập, được đặc trưng bởi một
mức độ cao của sự lo lắng. Những trải nghiệm về mất đi tình yêu, thất vọng, “mất giá”
của một đối tác và giảm cảm giác hài lòng chủ quan với hôn nhân trở nên cụ thể cho một
mối quan hệ hôn nhân. Ngoại tình, không thường xuyên ở giai đoạn này, phản ánh mong
muốn của vợ chồng để sửa đổi kết quả cuộc hành trình cuộc sống của họ và tìm kiếm cơ
hội mới để tự thực hiện thông qua việc tìm kiếm một đối tác khác với mục tiêu cuộc sống
mới và cơ hội mới cho sự phát triển cá nhân được liên kết, thiết lập các mối quan hệ tình
cảm và thân mật. cảm giác tội lỗi và cay đắng.
Như một quy luật, việc tìm kiếm một đối tác khác không phải là quá nhiều thất
vọng trong cái cũ như là một sự suy nghĩ tiêu cực về các kết quả quan trọng và một nỗ
lực để “bắt đầu cuộc sống từ đầu”. Sự thiếu quyết tâm của cuộc khủng hoảng giữa cuộc
đời là do sự thiếu an toàn cá nhân và không có khả năng giải quyết một cách có chủ ý các
nhiệm vụ phát triển liên quan đến tuổi tác dựa trên việc huy động các nguồn lực của hệ
thống gia đình cũ.
Tất nhiên, cuộc khủng hoảng này thường khiến cho cá nhân xác định các mục tiêu,
ưu tiên và giá trị cuộc sống mới, chỉ phơi bày và làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn
lâu dài của hệ thống gia đình, tiết lộ bản chất bất hòa và phá hoại, dẫn đến việc chấm dứt
tự nhiên hoạt động của gia đình. . Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, mối quan hệ
giữa cha và con vẫn còn và gia đình tan vỡ vẫn nhận ra chức năng nuôi con.
Trẻ em nên cảm thấy như người lớn (có nghĩa là, họ đang tiếp cận giai đoạn đầu
tiên): họ có mối quan hệ lâu dài, hôn nhân là có thể, các thành viên mới được bao gồm
trong nhóm gia đình. Ở giai đoạn này, các vấn đề mới nảy sinh: liệu việc lựa chọn trẻ em
có phù hợp với mong đợi của cha mẹ hay không; nơi nào những người trẻ dành thời

57
gian? Câu hỏi đặt ra là trao đổi căn hộ để phân bổ nhà ở cho các cặp mới cưới. Một lựa
chọn khá phổ biến là khi một bà ngoại đến cùng với cha mẹ của một trong những cặp mới
cưới, và họ di chuyển vào căn hộ (của anh ấy) (tình huống "chờ đợi cái chết của bà hoặc
ông nội").
Một vấn đề khác là chỗ ở cưỡng bức của những người trẻ với cha mẹ của họ. Cháu
xuất hiện, và câu hỏi đặt ra là bà nên nghỉ việc. Tuy nhiên, điều này rất khó thực hiện, bởi
vì các bà mẹ hiện đại thường xa tuổi về hưu.

3.2.6. Gia đình lão hóa


Ở giai đoạn này, các thành viên trong gia đình lớn tuổi nghỉ hưu hoặc làm việc bán
thời gian. Có một sự thay đổi tài chính: người già nhận được ít tiền hơn những người trẻ
tuổi, vì vậy họ thường trở nên phụ thuộc về tài chính đối với trẻ em. Có thể di chuyển đến
một nơi cư trú mới ở một địa phương khác hoặc đến một căn hộ khiêm tốn hơn (ở Nga
đôi khi có thể để lại cho ngôi làng, cho đất nước, vv).
Ở giai đoạn này, quan hệ hôn nhân được gia hạn, nội dung mới được trao cho các
chức năng của gia đình (ví dụ, chức năng giáo dục được thể hiện qua sự tham gia trong
việc nuôi dạy cháu). Nghỉ hưu có thể làm cho vấn đề ở một mình với nhau thậm chí còn
cấp tính hơn. Ngoài ra, việc thiếu tự thực hiện có thể dẫn đến các triệu chứng. Tuy nhiên,
các triệu chứng của một người phối ngẫu giúp người khác thích nghi với việc nghỉ
hưu. Ví dụ, sau khi rời công việc, người chồng có thể cảm thấy rằng nếu anh ấy từng
sống một cuộc sống năng động, anh ấy đã giúp đỡ người khác, bây giờ anh ta đã trở
thành vô dụng và không biết cách lấp đầy thời gian rảnh rỗi của anh ta. Khi vợ anh ngã
bệnh, anh lại có một chức năng hữu ích: anh phải giúp cô bình phục. Bệnh của vợ anh
bảo vệ anh khỏi sự trầm cảm anh rơi vào khi cô trở nên tốt hơn. 
3.2.7. Giai đoạn cuối của vòng đời gia đình
Ngược lại với các giai đoạn trước của vòng đời gia đình, sự cần thiết phải thay đổi
cấu trúc vai trò của nó được xác định bởi quá trình lão hóa không đồng đều của vợ chồng
và mất khả năng trước đó của họ. Tầm quan trọng lớn cũng là yếu tố chấm dứt hoạt động
chuyên môn, ảnh hưởng đến sự phân bố vai trò của “người trụ cột” và “bà chủ (chủ nhân)
của ngôi nhà” giữa vợ chồng.
Phụ nữ thành công hơn nhiều và thích ứng nhanh hơn với vị trí của người hưu
trí. Họ thường giữ trong gia đình tình trạng cũ của họ như là bà nội trợ, quản gia chịu
trách nhiệm cho ngân sách gia đình, và người tổ chức thời gian giải trí của mình. Vai trò
của người chồng trong gia đình thường bị giới hạn trong vai trò của “người trụ
cột”. Trong trường hợp chấm dứt công việc, anh mất vai trò này và thậm chí thường cảm
thấy thiếu nhu cầu của mình trong gia đình, kể từ khi nghỉ hưu, đóng góp của mỗi người
phối ngẫu vào ngân sách gia đình được cân bằng.
Trong hầu hết các trường hợp, một "cuộc cách mạng nhung yên tĩnh" xảy ra trong
gia đình, kết quả trong đó là chuyển tất cả quyền lực cho vợ. Thật không may, biến thể
phát triển của các sự kiện này đã phá vỡ và sắp xếp các mối quan hệ hôn nhân, kết thúc
chúng trong các thói quen hàng ngày của cuộc sống hàng ngày, bị phá vỡ chỉ bằng cách

58
xem các chương trình truyền hình, cảm xúc và cảm xúc của các anh hùng đền bù cho vợ
chồng. ảo tưởng.
Cách ngược lại để phát triển hệ thống gia đình gắn liền với việc tìm kiếm các khu
vực mới có ý nghĩa và dễ tiếp cận, đối với các mục tiêu do đối tác lựa chọn, giúp đỡ và
hỗ trợ của đối tác trong việc đạt được chúng.
Một phiên bản khác của việc tái cấu trúc cơ cấu vai trò của gia đình có liên quan
đến sự suy giảm mạnh mẽ về sức khỏe của một trong các vợ chồng và sự tập trung nỗ lực
của gia đình nhằm giải quyết nhiệm vụ chính - bảo tồn cuộc sống, sức khỏe và tạo ra chất
lượng cuộc sống thỏa đáng cho người phối ngẫu bị bệnh.
Một vai trò đặc biệt quan trọng ở giai đoạn này của vòng đời của gia đình bắt đầu
được chơi bởi thế hệ trung gian của nó, trên đó hỗ trợ tình cảm và chăm sóc cho các bậc
cha mẹ bị bệnh và già cần giúp đỡ phụ thuộc. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng con
gái có nhiều khả năng giúp đỡ cha mẹ già hơn con trai. Trợ giúp bao gồm mua sắm hàng
tạp hóa, dọn dẹp, nấu ăn, chăm sóc cho ông bà bị bệnh. Khá thường xuyên, con gái buộc
phải thay đổi công việc để giải quyết các vấn đề chăm sóc người thân bị bệnh nặng.
Cũng giống như nó xảy ra sau khi sinh con, người phụ nữ, đáp ứng mong đợi xã hội, giải
quyết sự lựa chọn có lợi cho việc chăm sóc cho các thành viên khuyết tật của gia đình mở
rộng, tuy nhiên, việc thực hiện điều đó phụ thuộc vào sự tham gia của cô trong hoạt động
lao động, sự hiện diện của trẻ em và tuổi của họ sức khỏe của cô ấy. Một thực tế thú vị là
phụ nữ có trẻ em chịu đựng những căng thẳng và căng thẳng liên quan đến vai trò đi kèm
với việc thực hiện vai trò gia đình đa dạng của họ.
V.A. Alperovich phân biệt ba loại quan hệ giữa vợ chồng già: “cùng tồn tại”, “đối
tác”, “những người bạn yêu thương”. Những loại mối quan hệ này khác nhau về sự gần
gũi về cảm xúc và sự hiểu biết lẫn nhau của các đối tác, phân phối quyền và nghĩa vụ,
hoạt động chung, sở thích và giá trị, và sự tham gia cảm xúc trong các mối quan hệ gia
đình.
Một vấn đề khác cụ thể đối với giai đoạn này là góa phụ và sự hình thành một mô hình
mới của hoạt động quan trọng sau khi mất vợ / chồng. Có một số mô hình điển hình nhất,
việc lựa chọn và thực hiện mỗi mô hình đều được điều chỉnh bởi một số lượng lớn các
yếu tố, và quan trọng nhất trong số đó là tuổi của một người phối ngẫu duy nhất, đo
lường sự tham gia của anh ấy trong nhiều loại hoạt động xã hội, sở thích và giao tiếp
khác nhau. , đặc điểm tính cách, các loại đối phó cụ thể (hành vi đối phó).
Các mô hình điển hình sau đây của một cách sống mới có thể được gọi là:
•  "cuộc sống trong quá khứ", chăm sóc trong những kỷ niệm và lý tưởng hóa quá
khứ, mất đi ý nghĩa của cuộc sống và từ chối tương lai, sự cô đơn có ý thức;
•  "cuộc sống như chờ đợi cái chết", chuẩn bị cho "tái hợp" với vợ / chồng, chờ đợi
sự kết thúc của cuộc sống con đường, đi tôn giáo hoặc tìm kiếm một biện minh triết học
để hoàn thành vòng đời;
•  chủ nghĩa vô tội chiếm ưu thế , tổng tập trung vào sức khỏe của một người, hạnh
phúc, thỏa mãn nhu cầu và sở thích của chính mình; loại hoạt động hàng đầu là tự chăm
sóc và tự chăm sóc;

59
•  hội nhập như tăng cường các mối quan hệ với gia đình của trẻ em , việc tìm
kiếm vai trò gia đình mới, việc thực hiện chính mình như một bà ngoại (ông nội); loại
hoạt động hàng đầu là chăm sóc cho các thành viên của gia đình mở rộng;
•  tự thực hiện trong các hoạt động chuyên môn hoặc xã hội;
•  tái hôn, tạo ra một hệ thống gia đình mới.
Các mô hình xây dựng, như bạn có thể thấy, chỉ là ba mô hình cuối cùng. Tái hôn
là một hiện tượng khá hiếm gặp trong xã hội chúng ta, đặc biệt là đối với phụ nữ, những
người có nhiều khả năng là đàn ông hơn phụ nữ. Các tùy chọn điển hình nhất cho họ là
tích hợp với gia đình của trẻ em.
Một người phối ngẫu có thể chết, và sau đó người sống sót phải thích ứng với cuộc
sống một mình. Thường thì anh buộc phải tìm kiếm những mối liên hệ mới với gia đình
mình. Trong trường hợp này, một người phối ngẫu duy nhất buộc phải thay đổi phong
cách sống của mình và vô tình chấp nhận lối sống được cung cấp cho anh ta bởi trẻ
em. Đôi khi anh ta buộc phải chuyển từ gia đình này sang đứa trẻ khác. Đương nhiên,
điều này là xa hiệu quả tốt nhất về tình trạng thể chất và tinh thần của mình.
Ở trong một gia đình có con riêng của mình, vợ chồng góa chồng đau đớn kinh
nghiệm sự cô lập tâm lý của mình với những người khác. Những trẻ em bị chiếm đóng
với các vấn đề của họ ít quan tâm hoặc không quan tâm đến ý kiến của mình về một số
vấn đề, hoặc tình trạng sức khỏe, mà mọi người đã biết. Vì vậy, một bà ngoại (ông nội),
người mà con cái trưởng thành của cô không chú ý, tìm kiếm và tìm thấy sự an ủi trong
những đứa cháu của mình, bù đắp cho chấp trước này vì thiếu cảm xúc ấm áp cho cô
trong gia đình.
Đôi khi, như một cách thoát khỏi tình huống này, để thoát khỏi sự cô đơn và có thể đáp
ứng nhu cầu giao tiếp với mọi người trong thế hệ của mình, vợ chồng góa bụa, mặc dù
tuổi già của mình, bước vào một cuộc hôn nhân mới. Trong trường hợp như vậy, khoảng
cách tình cảm và thể chất của anh ta với con cái của anh ta tăng lên, đến mức vỡ hoàn
toàn của mối quan hệ.
Gần đây, một phương pháp mới để phân biệt các giai đoạn của vòng đời gia đình
đã nổi lên trong các nghiên cứu gia đình trong nước. Các tác giả của nó A. I. Antonov và
V. M. Medkov tin rằng chu trình gia đình được xác định bởi các giai đoạn của sự làm cha
mẹ, đó là, sự hoàn thành của gia đình chức năng chính của nó - sự sinh ra, nuôi dưỡng và
xã hội hóa của trẻ em. Có bốn giai đoạn chính:
1. Giai đoạn trước khi sinh - từ kết hôn đến khi sinh đứa con đầu lòng.
2. Giai đoạn làm cha mẹ sinh sản - khoảng thời gian giữa sự ra đời của đứa con
đầu và cuối. Nó có thể giao nhau một phần (và trong trường hợp sinh của một đứa trẻ duy
nhất hoàn toàn biến mất) với giai đoạn tiếp theo.
3. Giai đoạn làm cha mẹ xã hội hóa - giai đoạn từ khi sinh đứa con đầu tiên đến
sự tách biệt đứa con cuối cùng khỏi gia đình.
4. Giai đoạn của tổ tiên - giai đoạn từ sự ra đời của đứa cháu đầu tiên đến cái chết
của một trong những tổ tiên.
Ở giai đoạn trước hôn nhân, vợ chồng đang chuẩn bị để trở thành cha mẹ và hình
thành một gia đình theo nghĩa nghiêm ngặt của từ, bởi vì chỉ có sự ra đời của trẻ em biến
cặp vợ chồng thành một gia đình, vợ chồng thành một người cha và mẹ.

60
Ở giai đoạn nuôi dạy con cái sinh sản , đứa con đầu tiên xuất hiện và có thể là sự
ra đời của đứa con thứ hai và sau đó, tùy theo nhu cầu của gia đình đối với trẻ em. Giai
đoạn này có thể ngắn hơn hoặc dài hơn, tùy thuộc vào số lần sinh. Và chỉ trong một
trường hợp, cô ấy không có thời gian, khi chỉ có một đứa con duy nhất trong gia đình.
Giai đoạn thứ hai dẫn đến giai đoạn thứ ba, giai đoạn làm cha mẹ xã hội hóa, trong đó trẻ
em được nuôi dưỡng. Đối với nhiều bậc cha mẹ, giai đoạn này không bao giờ kết thúc,
nhưng nó nên được giới hạn ở một trong hai tuổi đến, hoặc đến thời điểm chia tay những
đứa trẻ trưởng thành cuối cùng. Sự chậm trễ của bộ phận này vì nhiều lý do (ví dụ, do
thiếu nhà ở) kéo dài giai đoạn xã hội hóa của trẻ em người lớn trong một thời gian không
xác định. Hiện tượng “xã hội hóa kéo dài”, khi một người trưởng thành vẫn còn là một cử
nhân, tiếp tục sống với cha mẹ, sẽ là một trong những đặc điểm của giai đoạn thứ
ba. Người ta phải phân biệt giữa "xã hội hóa kéo dài" và "tiếp tục", khi nào, do học tập
hoặc vì lý do khác, hôn nhân và bắt đầu cuộc sống độc lập bị trì hoãn.
Sự xuất hiện của cháu trai đầu tiên biến cha mẹ sáng lập thành ông bà, ông bà, mặc dù
điều này không có nghĩa là kết thúc giai đoạn “làm cha mẹ xã hội hóa”, vì trẻ nhỏ vẫn có
thể bị bỏ lại trong gia đình. Giai đoạn cuối cùng - cuộc sống tổ tiên - kéo dài cho đến khi
cái chết của vợ chồng.
Tất cả những điều trên cho phép chúng ta phân biệt ít nhất năm sự kiện gia đình
(kết hôn, sinh đứa con đầu lòng, sinh đứa con cuối cùng, tách cha mẹ của trẻ em trưởng
thành hoặc, chính xác hơn, sinh đứa cháu đầu, cái chết của một hoặc vợ / chồng khác),
tạo thành bốn giai đoạn của chu kỳ gia đình. Một biến thể của chu kỳ gia đình này có thể
được coi là một chu trình gia đình hoàn chỉnh lý tưởng.
Thật không may, không phải mọi gia đình, vì nhiều lý do của một trật tự khách
quan và chủ quan, có thể trải qua những giai đoạn này trong sự phát triển của nó. Sự ly
thân ngẫu nhiên và cưỡng bức của vợ / chồng, cha mẹ và con cái, ly hôn và tử vong tạo
ra, ở các giai đoạn khác nhau của cuộc sống gia đình, sự đa dạng của các dạng phân
mảnh, dẫn tới chu trình gia đình không đầy đủ. Về vấn đề này, những khó khăn sau phát
sinh:
• Ở giai đoạn đầu , mối quan hệ có thể phức tạp bởi thực tế là một trong các vợ
chồng đã kết hôn;
• trong giai đoạn thứ hai , có thể ly dị, kết quả sẽ là cha mẹ đơn thân có con; hoặc
cái chết của trẻ em đưa vợ chồng vào giai đoạn trước khi sinh, trả lại cho họ hành vi sinh
sản hoặc để họ không có con và khuyến khích con nuôi;
• ở giai đoạn thứ ba - nuôi dạy con cái xã hội - trẻ em vì lý do tương tự trở thành trẻ
mồ côi hoặc mất liên lạc chuyên sâu với cha mẹ hoặc chết, dừng giai đoạn xã hội hóa và
làm cho các sự kiện chu kỳ gia đình tiếp theo không thể, hoặc vợ hoặc chồng mới sinh
cũng như ly dị;
• Trong giai đoạn thứ tư , sự góa chồng của một trong các vợ chồng được mong đợi
và cái chết của người còn lại, mặc dù có thể ly dị và chết vì trẻ em người lớn.
Có giới hạn tuổi xấp xỉ cho từng giai đoạn của vòng đời gia đình, điển hình của mỗi
nền văn hóa.
Đồng thời, câu hỏi đặt ra: thời gian của mỗi giai đoạn trong chu kỳ gia đình là bao
nhiêu và thời gian hôn nhân có ảnh hưởng đến bản chất của các nhiệm vụ và vấn đề mà

61
gia đình phải giải quyết tại bất kỳ thời điểm nào của hoạt động? Về vấn đề này, cách tiếp
cận của VA Sysenko để phân biệt các giai đoạn của cuộc sống gia đình không phải là
không quan tâm. Theo ý kiến của mình, tất cả các cuộc hôn nhân có thể được nhóm lại
như sau: rất trẻ - lên đến 4 năm; thanh niên, 5–9 tuổi; trung bình - 10–19 năm; người cao
niên - 20 tuổi trở lên.
Việc phân chia các giai đoạn của cuộc sống gia đình như vậy không thể được coi là
nghiêm ngặt do việc phân bổ thời gian rất có điều kiện, dựa trên các tiêu chuẩn nghiên
cứu nhân khẩu học xã hội. Ví dụ, sự chuyển đổi từ những cuộc hôn nhân rất trẻ thành
những trẻ nhỏ thường được hoàn thành trước năm năm do sự “tiến triển” của đứa trẻ đầu
tiên. Tuy nhiên, giai đoạn của “gia đình trẻ” được phân biệt bởi tất cả các nhà nghiên cứu
mà không có ngoại lệ từ quan điểm của vô số các vấn đề tâm lý và trong nước, mà
thường phá hủy gia đình ở giai đoạn đầu của sự hình thành của nó. Một phần lớn các gia
đình trẻ rơi ra ngay từ đầu cuộc hôn nhân chung của họ. Những lý do chính cho việc chia
tay những cuộc hôn nhân như vậy là thiếu chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân, điều kiện
sống nghèo nàn, thiếu nhà ở riêng,
Gia đình trẻ là một giai đoạn đặc biệt trong cấu trúc của một gia đình gia
đình
Nhiều vấn đề mà vợ chồng trẻ phải đối mặt trong giai đoạn hình thành gia đình đã
dẫn đến sự tách biệt của gia đình trẻ trong số các loại hình công đoàn gia đình khác nhau
thành một nhóm riêng biệt. Ngoài ra, một gia đình trẻ được phân biệt bởi một số tính
năng tâm lý không được tìm thấy trong các giai đoạn tiếp theo (giai đoạn) của cuộc sống
gia đình. Vì vậy, nó có ý nghĩa để sống trên các đặc điểm của một gia đình trẻ chi tiết
hơn.
Trong từ điển giáo dục gia đình, một gia đình trẻ đề cập đến một cặp vợ chồng có
hoặc không có con, với một cuộc sống gia đình lên đến năm năm và tuổi của vợ chồng
không quá 30 tuổi.
Vợ chồng vừa mới kết hôn phải đối mặt với nhiều vấn đề. Họ cần phải thiết lập một
sự cân bằng tối ưu của khoảng cách / khoảng cách, để giải quyết vấn đề của hệ thống
phân cấp gia đình và các lĩnh vực trách nhiệm. Họ đột nhiên có thể nhận ra rằng họ rất
khác nhau, và sợ hãi bởi những khác biệt này. Lần đầu tiên, câu hỏi có thể xuất hiện:
“Nếu chúng ta khác nhau, chúng ta đang làm gì với nhau?” Họ có thể bắt đầu đấu tranh
với những khác biệt hoặc đơn giản là sẽ cố gắng không để ý đến họ.
Rất thường xuyên vào lúc bắt đầu cuộc hôn nhân của họ, cặp đôi mới cưới tránh
mâu thuẫn và chỉ trích lẫn nhau, bởi vì họ muốn duy trì một bầu không khí thân thiện
trong gia đình và không làm tổn thương cảm xúc của người kia. Nhưng nếu những mâu
thuẫn này vẫn còn đó, mong muốn của vợ hoặc chồng để che giấu chúng hoặc không
thông báo sau một thời gian dẫn đến thực tế là những mâu thuẫn phát triển, và vợ chồng
ngày càng dễ bị kích thích và mạnh mẽ hơn.
Một cách khác để vượt qua sự khác biệt là cuộc đấu tranh quyền lực. Vợ chồng có
thể cố gắng công khai cấp dưới đối tác của họ cho bản thân hoặc thao túng chúng với sự
giúp đỡ của sự yếu đuối và bệnh tật.
Một vấn đề quan trọng khác trong giai đoạn này là việc thiết lập các ranh giới gia
đình . Một cặp vợ chồng trẻ nên thiết lập một lãnh thổ tương đối độc lập với ảnh hưởng

62
của cha mẹ, và cha mẹ, lần lượt, cần phải thay đổi cách họ tương tác với trẻ em sau khi
họ đã tạo ra gia đình riêng của họ.
Trong trường hợp có xung đột với cha mẹ, vợ / chồng có thể phát triển hành vi có
triệu chứng. Ví dụ, một người vợ có chồng không thể ngăn cản mẹ mình can thiệp vào
công việc của một gia đình trẻ có thể gặp các triệu chứng như một cách thích ứng với tình
trạng này. Một số cặp vợ chồng cố gắng để bảo vệ sự độc lập của họ, hoàn toàn cắt đứt
bản thân khỏi sự tương tác của họ với cha mẹ của họ. Thông thường, những nỗ lực đó
không kết thúc thành công và làm việc theo hướng hủy diệt hôn nhân, vì nghệ thuật sống
trong hôn nhân giả định đạt được sự độc lập kết hợp với duy trì mối quan hệ tình cảm với
người thân.
Đối với các cuộc hôn nhân rất trẻ không chỉ là bước đầu tiên vào vai trò xã hội của
vợ chồng, vv Thời kỳ hôn nhân này là khó khăn và nguy hiểm nhất từ quan điểm về sự ổn
định của gia đình. Một cặp vợ chồng trẻ có thể trải qua những căng thẳng thân thiện với
gia đình liên quan đến việc sinh và nuôi dưỡng trẻ em, giảm thời gian và cơ hội hạn chế
cho giải trí và giải trí, tăng mệt mỏi về thể chất và thần kinh. Các vấn đề của tiến bộ
chuyên nghiệp và thành tích của tình trạng xã hội đang trở nên cấp tính hơn. Tất cả điều
này ảnh hưởng đến tình yêu và tình bạn của vợ chồng.

3.2. Các khủng hoảng của cuộc sống gia đình


3.2.1. Cơ chế khủng hoảng gia đình
Một cuộc khủng hoảng quy định đặc trưng cho sự chuyển tiếp giữa các giai đoạn
của vòng đời và được trải qua hầu như mọi gia đình. Với sự giải quyết thành công của
một tình huống khủng hoảng, như một quy luật, sự phát triển hài hòa của gia đình và
sự phát triển cá nhân của các thành viên của nó xảy ra .
Là một phần của phương pháp tiếp cận hệ thống, việc xem xét chi tiết đầu tiên về
vòng đời gia đình đã được trình bày trong cuốn sách “Tâm lý bất thường” của J.
Haley (1973) [8] . Tác giả lưu ý rằng các triệu chứng của một cuộc khủng hoảng thường
xảy ra nhất ở các điểm chuyển tiếp từ một giai đoạn của vòng đời này sang vòng đời
khác.
Các cơn khủng hoảng quy định xảy ra khi việc đi qua bất kỳ giai đoạn nào trong vòng đời
bị cản trở. Đồng thời, các phương pháp được sử dụng để đạt được các mục tiêu được sử
dụng trước đây hết hiệu lực trong việc đáp ứng nhu cầu mới của các thành viên trong gia
đình.
Mỗi giai đoạn mới được kết hợp với những thay đổi trong toàn bộ cấu trúc gia
đình và có một số nhiệm vụ phải đối mặt với gia đình. Nhiều gia đình đã thành công vượt
qua giai đoạn chuyển tiếp, xây dựng lại và thích ứng với điều kiện mới. Tuy nhiên, nếu
gia đình không thể tái cơ cấu, điều này sẽ làm phức tạp việc thông qua các cuộc khủng
hoảng pháp lý tiếp theo.
V. Satir (1992) xác định mười giai đoạn khủng hoảng chính trong chu kỳ gia đình [9]  :
1. Quan niệm, mang thai và sự ra đời của đứa trẻ đầu tiên.
2. Sự khởi đầu của sự thông thạo ngôn ngữ của con người.
3. Cải thiện mối quan hệ của đứa trẻ với môi trường.
4. Mục nhập của đứa trẻ ở tuổi vị thành niên.

63
5. Nuôi con, rời nhà cha mẹ.
6. Hôn nhân của trẻ em người lớn, nhập cảnh vào gia đình của các thành viên mới
(con dâu, con rể).
7. Sự khởi đầu của thời kỳ mãn kinh trong cuộc đời của một người phụ nữ.
8. Giảm hoạt động tình dục nam.
9. Hình thành cha mẹ trong vai trò của ông bà.
10. Khởi hành từ cuộc đời của một người phối ngẫu.
Một số tác giả [10] theo một cách tiếp cận tích hợp (2006), trong đó bảy cuộc khủng hoảng
pháp lý gia đình liên quan đến vòng đời gia đình được nêu bật:
 Khủng hoảng 1. Thực hiện các nghĩa vụ hôn nhân.
 Khủng hoảng 2. Nắm vững vai trò của cha mẹ của vợ chồng và thực tế là một người
mới đã xuất hiện trong gia đình.
 Khủng hoảng 3. Sự bao gồm trẻ em trong các cấu trúc xã hội bên ngoài (mẫu giáo,
trường học).
 Khủng hoảng 4. Chấp nhận thực tế rằng một đứa trẻ đã bước vào tuổi vị thành niên,
thử nghiệm với sự độc lập của mình .
 Khủng hoảng 5. Một đứa trẻ lớn lên rời khỏi nhà.
 Khủng hoảng 6. Vợ chồng vẫn ở bên nhau một lần nữa.
 Khủng hoảng 7. Chấp nhận cái chết của một người phối ngẫu.
Vì vậy, gia đình trong sự phát triển của nó trải qua một loạt các giai đoạn (giai đoạn), mỗi
giai đoạn có cả khủng hoảng và cơ hội cho sự phát triển cá nhân của các thành viên trong
gia đình và sự phát triển của hệ thống gia đình nói chung.
Cơ chế suy thoái các mối quan hệ trong gia đình
Trong quá trình phát triển các mối quan hệ hôn nhân gia đình, các nhà tâm lý học
xác định các giai đoạn “suy thoái trong các mối quan hệ”, đặc trưng bởi sự gia tăng cảm
giác không hài lòng với nhau, sự khác biệt về quan điểm được tìm thấy ở vợ chồng,
những cuộc cãi vã trở nên thường xuyên hơn, có một cuộc biểu tình thầm lặng, một cảm
giác thất vọng và nản lòng. Thời kỳ này được gọi là tình huống khủng hoảng trong hôn
nhân.
Cuộc khủng hoảng gia đình được dựa trên một số mô hình phát triển quan hệ trong
gia đình . Do đó, người ta không nên tìm kiếm nguyên nhân của tình huống được tạo ra
chỉ trong hành vi của một trong những thành viên trong gia đình hoặc đối tác hôn
nhân. Các mẫu này phải được biết và được xem xét, điều chỉnh hành vi của chúng phù
hợp với chúng. Trong một tình huống khủng hoảng, trước hết, cần phải kiên nhẫn, để
tránh các quyết định và hành động phát ban.
Có một số giai đoạn như vậy, hoặc suy thoái, trong các mối quan hệ mà không phải
tất cả các gia đình đều thành công vượt qua. Chúng có thể xảy ra:
• trong những ngày đầu tiên sau đám cưới;
• sau 2-3 tháng của cuộc sống hôn nhân;
• sau 6 tháng;
• trong một năm;
• sau khi sinh đứa con đầu lòng;
• vào năm thứ ba của hôn nhân;

64
• vào năm 7-8;
• sau 12 năm của cuộc sống gia đình;
• trong 20–25 năm.
Các giai đoạn khủng hoảng gia đình trên được coi là có điều kiện, bởi vì họ không
có kinh nghiệm của tất cả các gia đình. Đồng thời, nên nhớ rằng sự chuyển đổi của một
gia đình từ một giai đoạn của đời sống hôn nhân sang người khác thường đi kèm với sự
xuất hiện của các tình huống khủng hoảng. Bất kỳ sự kiện bình thường, tự nhiên nào
trong đời sống của gia đình (hôn nhân, sinh con, đi học của trẻ em, bệnh của ai đó, vv),
những thay đổi trong gia đình hoặc trong cấu trúc của nó gây ra bởi những sự kiện này
luôn gây ra một số vấn đề tình huống đòi hỏi phải thông qua các quyết định thích hợp,
huy động các nguồn lực cần thiết.
Để mô tả các tình huống vấn đề như vậy do quá trình chuyển đổi từ giai đoạn này
sang vòng đời khác, nhà nghiên cứu người Mỹ Rona Rapoport năm 1963 đã đưa ra khái
niệm “căng thẳng chuẩn mực” hoặc “khủng hoảng bình thường”. Cô lưu ý rằng trong sự
phát triển bình thường của gia đình có một số khoảnh khắc được gọi là "điểm không thể
đảo ngược", đó là ranh giới giữa các giai đoạn của vòng đời và đó là quan trọng cho sự
phát triển của gia đình. Họ dẫn đến việc giải quyết cuộc khủng hoảng và sự phát triển của
gia đình, hoặc đến sự phức tạp của tình huống, sự bất bình trong gia đình và sự tan vỡ
tiếp theo của gia đình.
Cuộc khủng hoảng gia đình là sự xung đột giá trị của một cá nhân và xã hội liên
quan đến việc sinh và xã hội hóa trẻ em, kết quả là không thực hiện các chức năng sinh
sản và xã hội hóa của gia đình, kèm theo sự suy yếu của gia đình như là một công đoàn
của họ hàng, công đoàn của cha mẹ và con cái, liên kết vợ chồng, sự suy yếu của khả
năng của họ hàng - cha mẹ - hôn nhân. sản xuất gia đình, hoạt động chung của cha mẹ và
con cái.
Thay đổi các giai đoạn chu kỳ cuộc sống gia đình là một vấn đề trong việc phát triển
hệ thống gia đình, có nghĩa là, cuộc khủng hoảng kinh nghiệm của mỗi gia đình, các nội
dung trong đó - trong việc giải quyết các mâu thuẫn giữa những thách thức mới đối mặt
với gia đình, và bản chất của sự tương tác và giao tiếp giữa các thành viên trong gia đình.
Mỗi quá trình chuyển đổi từ một giai đoạn của vòng đời này sang một giai đoạn
khác của vòng đời sẽ tạo ra các mục tiêu và mục tiêu mới cho gia đình và yêu cầu tái cơ
cấu và chức năng, bao gồm sự thay đổi về hệ thống phân cấp các chức năng gia đình, giải
pháp câu hỏi về tính ưu việt và lãnh đạo và phân phối vai trò. Độ phân giải thành công
của các cuộc khủng hoảng chuyển tiếp đảm bảo hoạt động hiệu quả của gia đình và sự
phát triển hài hòa của nó.
Thông thường trong việc phát triển quan hệ hôn nhân, có hai giai đoạn quan
trọng ( quy định) . Đó là trong những giai đoạn ly hôn và tái hôn thường xuyên nhất, mà
sau này hóa ra, cũng là "một sai lầm". Như một quy luật, không thể tránh được những
cuộc khủng hoảng như vậy, nhưng có ý thức quản lý chúng, sự xuất hiện của chúng trong
lợi ích của việc củng cố thêm gia đình là có thể và cần thiết.
Giai đoạn quan trọng đầu tiên bắt đầu giữa năm thứ 3 và thứ 7 của sự tồn tại của
gia đình và, trong một trường hợp thuận lợi, kéo dài khoảng một năm. Vai trò hàng đầu
trong trường hợp này được chơi bởi sự biến mất của tâm trạng lãng mạn, hoạt động đối

65
lập với sự tương phản trong hành vi của đối tác trong khoảng thời gian yêu thương và
trong cuộc sống gia đình hàng ngày, sự bất đồng ngày càng tăng về thái độ, tần suất ngày
càng tăng của cảm xúc tiêu cực, gia tăng căng thẳng trong mối quan hệ, không hài lòng,
sự xuất hiện của phản đối ngầm, cảm xúc gian lận và hối hận. Một tình huống khủng
hoảng có thể phát sinh mà không có ảnh hưởng của bất kỳ yếu tố bên ngoài nào xác định
tình hình kinh tế trong nước của vợ chồng, mà không có sự can thiệp của cha mẹ, ngoại
tình, hoặc bất kỳ đặc điểm nhân cách bệnh lý nào ở một trong các vợ chồng.
Trong những trường hợp như vậy, bạn nên hạn chế các cuộc trò chuyện về quan hệ
hôn nhân, tạm thời tránh những biểu hiện của tình yêu lãng mạn và thảo luận chung về
các vấn đề thực tế (ví dụ, nuôi dạy con cái). Tốt hơn là tập trung vào các cuộc trò chuyện
về lợi ích nghề nghiệp của đối tác, dẫn dắt một cuộc sống cởi mở khi mỗi người phối
ngẫu không từ bỏ các mối quan tâm và mối quan hệ của mình hơn là yêu cầu xã hội của
đối tác. Trong giai đoạn khủng hoảng này, vợ chồng phải độc lập tìm cách thoát khỏi tình
huống, bởi vì sự can thiệp của bên thứ ba chỉ có thể làm trầm trọng thêm tình hình. Mối
quan hệ của vợ chồng, mặc dù nhiều năm kết hôn, rất mong manh, và bất kỳ can thiệp
bên ngoài bất cẩn có thể làm trầm trọng thêm sự hủy diệt gia đình và dẫn đến vỡ các mối
quan hệ gia đình.
Giai đoạn quan trọng thứ hai bắt đầu vào khoảng giữa năm thứ 13 và 23 sống
chung với nhau. Cuộc khủng hoảng này ít sâu hơn, nhưng lâu hơn thời gian đầu tiên (có
thể kéo dài vài năm). Nó trùng với "cuộc khủng hoảng giữa cuộc sống" được biết đến
trong tâm lý học tuổi tác. Đến bốn mươi năm, người đó bắt đầu cảm nhận rõ sự khác biệt
giữa giấc mơ, kế hoạch cuộc sống và quá trình thực hiện của họ. Không phải ai cũng có
thể di chuyển dọc theo con đường của cuộc sống theo đúng ý định ban đầu. Như một quy
luật, thực tế hóa ra là một biên tập viên độc ác của các kế hoạch lý tưởng.  Ngoài ra, thời
gian báo chí nặng nề bắt đầu được cảm nhận, và người đó không còn chắc chắn rằng anh
ta sẽ có thời gian để làm mọi thứ mà anh ta muốn.
Thái độ của người khác cũng thay đổi: đó là thời gian để phân phối những tiến bộ
kết thúc, một khoảng thời gian trôi qua khi nó tâng bốc được coi là "hứa hẹn", "hứa hẹn",
"có khả năng và thậm chí là tài năng." Môi trường xã hội đang chờ đợi để thực hiện "lời
hứa" và đánh giá một người trưởng thành bởi những gì anh đã đạt được trong cuộc
sống. Kết quả của cuộc khủng hoảng trung niên là sự phát triển của một hình ảnh mới của
bản ngã, xem xét lại mục tiêu cuộc sống, giới thiệu các sửa chữa trong mọi lĩnh vực của
sự tồn tại bình thường, mang tính cách phù hợp với điều kiện sống thay đổi.
Cuộc khủng hoảng giữa cuộc sống là một thách thức khó khăn cho gia đình. Nhiều
cá nhân trưởng thành (đặc biệt là đàn ông) cố gắng thúc đẩy sự thất bại cá nhân của họ
bởi sự lo lắng của gia đình và các vấn đề không cho phép họ nhận ra mình đầy đủ, bởi vì
họ phải dành nhiều thời gian và công sức cho trẻ em. Trong những trường hợp như vậy,
việc chăm sóc trong cuộc sống độc lập của trẻ em làm rối loạn cân bằng gia đình. Phần
lớn những gì đã được ẩn đằng sau sự vô ích của cuộc sống hàng ngày, mở ra dưới dạng
các vấn đề trần truồng. Thông thường, vợ chồng đã sống với nhau trong hai thập niên,
nuôi dạy con cái, kiểm tra nhà của họ, rất ngạc nhiên khi thấy rằng họ đã trở thành người
lạ, và rời đi.

66
Sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng thứ hai trong mối quan hệ hôn nhân thường
trùng với cách tiếp cận của giai đoạn xâm nhập, với sự bất ổn về cảm xúc, nỗi sợ hãi, sự
xuất hiện của nhiều khiếu nại soma, sự xuất hiện của một cảm giác cô đơn liên quan đến
việc chăm sóc trẻ em. Tình dục thể hiện mình ở một bên, "nó không phải là quá muộn."
Trong tình trạng khủng hoảng này, cần phải cố tình phân tâm vợ chồng khỏi những
vấn đề về lão hóa và giới thiệu họ với nhiều nhóm giải trí khác nhau, điều này sẽ đòi hỏi
một số can thiệp bên ngoài, vì bản thân họ, như một quy luật, không thể chủ động được
nữa. Bạn không nên quá kịch tính các sự kiện ngoại tình. Tốt nhất là nên chờ cho đến khi
bạn tình của bạn có một mối quan tâm cao hơn trong các vấn đề ngoại tình (thường thì nó
kết thúc).
Theo nhà trị liệu gia đình người Mỹ V. Satir, gia đình, khi mỗi thành viên phát triển,
phải trải qua 10 giai đoạn khủng hoảng lớn, kèm theo sự lo lắng gia tăng, đòi hỏi thời
gian chuẩn bị và phân phối lại các lực lượng tinh thần và thể chất.
1. Khái niệm, mang thai và sự ra đời của đứa trẻ đầu tiên. Hôn nhân như một mối
quan hệ là đến một mức độ nào đó ích kỷ và phát triển thành một gia đình như một mối
quan hệ vị tha. Có một sự thay đổi trong cơ cấu vai trò của gia đình.
2. Sự khởi đầu của việc học của con người về lời nói của con người, đòi hỏi công
việc nghiêm túc của cha mẹ.
3. Cải thiện mối quan hệ của trẻ với môi trường bên ngoài, thường xuyên nhất ở
trường. Sự cần thiết cho trẻ em và phụ huynh thích ứng với hoàn cảnh khi các yếu tố của
trường, thế giới “đường phố” bước vào gia đình.
4. Việc nhập cảnh của trẻ em vào tuổi vị thành niên, những khó khăn về tuổi tác, có
thể xung đột với cha mẹ.
5. Lớn lên trẻ, rời khỏi nhà để tìm kiếm sự độc lập, độc lập. Cảm thấy cha mẹ và
giai đoạn này là một sự mất mát (hội chứng tổ trống).
6. Cuộc hôn nhân của trẻ em người lớn, gia nhập vào gia đình của các thành viên
mới (con rể, con rể, cháu), các vấn đề trong quan hệ với họ.
7. Sự khởi đầu của thời kỳ mãn kinh trong cuộc đời của một người vợ của người
phụ nữ.
8. Giảm hoạt động tình dục ở nam giới .
9. Sự hình thành của cha mẹ như ông bà.
10. Thời kỳ hoàng hôn: sự ra đi của vợ chồng.

LÝ DO NGHIÊN CỨU
Cùng với các điều kiện khách quan có thể dẫn đến sự nổi lên của khủng hoảng trong
gia đình, cũng có những yếu tố chủ quan liên quan đến đặc điểm cá nhân của vợ chồng
và thay đổi cảm giác yêu thương , cũng có thể gây ra mối quan hệ khủng hoảng trong hôn
nhân. Tại sao nó xảy ra tình yêu đó sau một thời gian biến thành sự thờ ơ, và thậm chí có
thể ghét?
Nó đã trở thành một sự thật tầm thường rằng hôn nhân là một điều khó khăn và các
yêu cầu cho một đối tác không ngừng phát triển. Ngày nay, vì một cuộc hôn nhân hạnh
phúc, không đủ để một người đàn ông mang vào nhà nhiều tiền như cần thiết cho một
cuộc sống thoải mái, và vợ anh ta rất giỏi trong việc dọn phòng. Nó không phải là bí mật

67
mà theo thời gian, vấn đề phát triển, mà trở thành một trở ngại không thể vượt qua cho vợ
chồng và dẫn đến một cuộc khủng hoảng gia đình. Đây là một số trong số họ.
1. Một  thái độ phù phiếm với những mối quan tâm và vấn đề của một người bạn
đời. Một người chồng và vợ không thể thoát ra khỏi nhận thức của nhau và bất cứ lúc nào
đều bị xúc phạm bởi thực tế là người kia không thể (không muốn) thực hiện "ham muốn
ấp ủ" của họ.
2.  Tha thứ và khinh thường trong quan hệ giữa vợ hoặc chồng . Đồng thời, phụ nữ
phải chịu đựng thực tế là người chồng theo thời gian thường quên những ngày quan trọng
của hôn nhân, ngày sinh của những người thân yêu. Bởi vì chồng cô dành rất nhiều thời
gian làm việc, và cô ấy phải hạn chế cuộc sống kinh doanh của mình. Vợ anh muốn
chồng cô cho cô biết rằng anh nhớ vợ mình và coi cô là một trợ lý trung thành trong tất cả
các chủ trương của anh.
Chồng, về phần mình, cũng không thích bị lãng quên về họ. Một người đàn ông đôi
khi thậm chí nhạy cảm hơn một người phụ nữ. Anh ấy nghĩ như thế này: cô ấy luôn có
thời gian để làm tóc và trang điểm, nhưng tôi không có ...
3.  Nhu cầu tăng cao đối với vợ / chồng (họ đang chờ đợi những gì họ không thể
cung cấp từ người bạn đời). Bây giờ trong số một số lượng lớn phụ nữ quan điểm như
vậy chiếm ưu thế: "Bây giờ tôi là vợ của chồng, và chồng có nghĩa vụ làm cho tôi hạnh
phúc, không có vấn đề gì nó chi phí anh ta." Yêu cầu đang được đưa ra: mức lương của
người phối ngẫu phải cao, và bản thân anh ta phải nhẹ nhàng và chu đáo.
Người chồng, lần lượt, cũng không phải là nghịch đảo để nâng thanh cho một nửa
của họ. Một người vợ nên là một bà nội trợ tuyệt vời và người mẹ, nuôi dưỡng chồng
mình trong thời gian, luôn luôn nhìn tốt, tương ứng với nguyện vọng tình dục của con
người. Nếu một người phụ nữ không đáp ứng được những phẩm chất "tiêu chuẩn" này,
người đàn ông tin rằng anh ta có quyền đạo đức để ly dị hoặc có một người tình.
4.  Quyết định ham muốn tình dục của các đối tác. Đôi khi một người phụ nữ không
thích nếu một người đàn ông yêu cầu từ cô ấy những gì cô ấy không muốn. Mặt khác, trái
lại, phấn đấu cho những gì vợ chồng chưa sẵn sàng. Hôn nhân chỉ có thể được cứu bởi sự
thẳng thắn hoàn toàn của vợ chồng về những tuyên bố của họ đối với tình dục và sự từ
chối những yêu cầu quá mức hoặc tưởng tượng quá bạo lực. Tuy nhiên, cho dù cuộc hôn
nhân này sẽ vẫn hạnh phúc là một câu hỏi lớn.
5.  Cảm thấy ghen tị với sự thành công của đối tác. Ngày nay, nó có thể xuất hiện
trong cả hai đối tác - về một nghề nghiệp thành công, lương lớn, vv. Nếu một người
chồng thành công, đôi khi vợ bắt đầu lo sợ rằng cô ấy không cần người phối ngẫu thành
công của mình, bị xuống hạng, điều này càng thú vị với anh ấy bởi phụ nữ.  Cùng với
ghen tị, có một cảm giác ghen tuông. Những cảm xúc tương tự này đặc biệt với đàn
ông. Kết quả là, cuộc sống cùng nhau bắt đầu phá vỡ.
6. Các  đối tác làm cho nó rõ ràng cho người khác rằng anh không còn thu hút anh
ta . Thật vậy, người ta chỉ nói với một người đàn ông hay một người phụ nữ rằng anh ta
(cô ấy) đã mất tất cả sự quan tâm với bạn, rằng có những người khác, hấp dẫn hơn, thông
minh hơn, tình dục hơn, khi cái hang bắt đầu mở rộng nhanh đến mức không có hy vọng
phục hồi.

68
Các nhà tâm lý nói rằng tình yêu có nhịp sinh học của riêng nó: nó bắt nguồn, phát
triển và sau đó có thể biến mất. Những khoảnh khắc "đỉnh" nhất của cảm giác làm mát
trong gia đình rơi vào những năm đầu tiên, thứ ba, thứ bảy và thứ mười bốn sống cùng
nhau.
Cần lưu ý rằng, như một quy luật, nó là không thể tránh được những cuộc khủng
hoảng như vậy, nhưng để quản lý có ý thức sự xuất hiện của họ trong lợi ích của việc
tăng cường hơn nữa gia đình là có thể. Để làm điều này, vợ chồng cần phải biết rằng
những sai lầm chính của vợ chồng dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng của gia đình.

Biểu hiện của khủng hoảng gia đình


1.  Các cặp vợ chồng không muốn thừa nhận sự tồn tại của một vấn đề, có nghĩa là
họ không làm bất cứ điều gì để vượt qua nó, hoặc tại thời điểm xuất hiện của họ hoặc sau
này. Họ giả vờ rằng vấn đề không tồn tại.
Ví dụ, người chồng tức giận vì mẹ vợ liên tục đưa ra lời khuyên cho vợ mình về
cách sống với chồng. Tuy nhiên, anh không nói gì với vợ mình. Và nếu anh ta rụt rè về vị
trí của người mẹ chồng khó chịu với anh ta, vợ anh ta chỉ đơn giản trả lời: "Đó là mẹ." Và
khi trẻ em xuất hiện, mẹ chồng cầm tất cả các dây cương trong tay và bắt đầu chỉ huy
không chỉ con gái, mà cả gia đình. Chồng và vợ đang tranh cãi vì sự can thiệp quá mức
của mẹ vợ trong cuộc sống gia đình của họ. Bây giờ họ có một vấn đề lớn, cần được giải
quyết ngay từ khi bắt đầu cuộc sống gia đình.

2.  Vợ chồng không thảo luận về tài chính với nhau. Người vợ kém hơn so với
chồng hoặc, trái lại, bản thân cô ấy tiến hành tất cả các vấn đề tài chính của gia
đình. Nhưng một tình huống có thể phát sinh trong đó gia đình khẩn trương cần tiền,
nhưng họ thì không. Các khoản phí theo sau, và đột nhiên một tình huống khủng hoảng
nghiêm trọng sẽ phát sinh có thể tránh được nếu họ cùng thảo luận về tình trạng tài chính
của gia đình họ. Tài chính nên là một doanh nghiệp chung, bất kể ai mang tiền vào nhà.
3.  Vợ chồng không nghe, và do đó không nghe thấy nhau. Vợ chồng không chú ý
đến nhu cầu của nhau, và khi một cuộc khủng hoảng phát sinh, mọi người cố gắng tìm ra
một giải pháp đáp ứng được sở thích và nhu cầu của riêng mình. Họ bắt đầu cãi nhau thay
vì giải quyết vấn đề với nhau.
Để giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính, tình dục và xã hội mới nổi, bạn có
thể sử dụng các kỹ thuật tâm lý đơn giản.

Quy tắc ứng xử trong tình huống khủng hoảng


1. Hãy sẵn sàng cho 60% và hy vọng rằng chỉ có 40 sẽ được trả lại cho bạn Khi một
cặp vợ chồng cố gắng xây dựng mối quan hệ của họ trên cơ sở chẵn lẻ, mọi người mong
đợi làm thế nào anh ta sẽ nhận được 50% của mình. Nhưng nếu mọi người sẵn sàng cho
60%, thì theo thời gian họ sẽ học cách làm mọi thứ luôn dễ chịu với nhau.
2. Chuẩn bị cho cuộc trò chuyện nghiêm túc bắt đầu với một cụm từ êm dịu và
khích lệ: "Anh yêu em." Nó giúp chứa đựng tính khí bốc đồng. Bạn nhắc nhở một nửa

69
rằng, bất chấp những vấn đề, trong tâm hồn bạn, bạn quan tâm đến hòa bình và hạnh phúc
của mình.
3. Thương lượng với thẻ mở. Nói: "Tôi muốn điều này và" hoặc "Đây là những gì
tôi nghĩ ...". Điều này sẽ giúp bạn dễ dàng tìm ra giải pháp thỏa hiệp hơn.
Thành công của việc giải quyết khủng hoảng gia đình phần lớn phụ thuộc vào mức
độ nghiêm trọng của nó. Các nhà tâm lý phân biệt một số mức độ khủng hoảng hôn
nhân. Một cuộc khủng hoảng nhẹ thường bắt đầu đột ngột và cũng dừng đột ngột. Những
xung đột nghiêm trọng lặp đi lặp lại, như một quy luật, không xảy ra: đã đốt cháy trong
một ngọn lửa cãi nhau, các bên bắt đầu cư xử thận trọng và thận trọng hơn. Một cuộc
khủng hoảng vừa phải tiếp tục trong ít nhất ba tháng. Người ngoài có thể không nhận
thấy điều đó: bên ngoài, hòa bình ngự trị trong gia đình. Nhưng đây là sự bình tĩnh trước
cơn bão, đầy sự thù địch thù địch và thù địch. Khủng hoảng gia đình nghiêm trọng không
qua được trong vòng sáu tháng. Ở đây, không chỉ tình yêu có thể biến mất, nhưng thường
có sự thù hận lẫn nhau. Gia đình chấm dứt tồn tại.
Để tránh khủng hoảng gia đình do làm mát lẫn nhau hoặc thiếu hiểu biết lẫn nhau,
vợ chồng không nên biến hôn nhân thành thói quen, cùng tồn tại. Bạn phải luôn luôn cho
đối tác của bạn biết bạn yêu quý với anh ấy như thế nào, anh ấy có ý nghĩa thế nào với
bạn rằng anh ta là hạt của bạn, mà không có bạn sẽ rất tệ. Để làm được điều này, bạn cần
phải tự mình làm việc, vì bản thân hạnh phúc không đến, mà được tạo ra bởi hai người
yêu thương .

CÁC NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÔNG HÌNH THÀNH TRONG GIA


ĐÌNH
Cùng với cái gọi là khủng hoảng pháp lý liên quan đến các sự kiện gia đình quan
trọng mà mỗi gia đình trải qua trong vòng đời của nó, các cuộc khủng hoảng phi quy định
cũng được phân biệt, vốn có chỉ dành cho các gia đình nhất định. Cuộc khủng hoảng gia
đình không quy định thường gắn liền với các biến cố như ly dị, ngoại tình, thay đổi gia
đình, không liên quan đến sinh con, nhận nuôi con nuôi, không thể sống chung vợ chồng
vì nhiều lý do, mang thai thiếu niên, khó khăn về tài chính, v.v. Căng thẳng gây ra các
cuộc khủng hoảng gia đình lạm dụng được chia thành siêu cứng và mạn tính.
Bởi những căng thẳng siêu cứng bao gồm: cái chết của một người bạn đời, cha mẹ
hoặc trẻ em; ngoại tình; một sự thay đổi mạnh mẽ và cơ bản trong tình hình xã hội của
phát triển gia đình (thay đổi địa vị xã hội, tình hình tài chính của gia đình); bệnh mãn tính
nặng của một số thành viên.
Các yếu tố gây căng thẳng mạn tính (dài hạn) tác động theo nguyên tắc “đá rơi
mòn” và bao gồm các yếu tố như điều kiện vật chất và nhà ở không thuận lợi; căng thẳng
cảm xúc cao và tải trọng kinh niên đáng kể trong các hoạt động chuyên môn; tải hộ gia
đình quá mức; vi phạm giao tiếp giữa các cá nhân và xung đột lâu dài trong cả hệ thống
con của hôn nhân và phụ huynh.
Các yếu tố của sự thay đổi mạnh mẽ trong khuôn mẫu của cuộc sống gia đình và
tổng kết khó khăn (tác động của "giọt cuối cùng") cũng được đặc trưng bởi sự căng thẳng
đáng kể.

70
Khả năng của một gia đình để chống lại stressors được xác định bởi sự gắn kết của
nó và sự hiện diện của các nguồn lực nội bộ và bên ngoài để chống lại căng thẳng.  Sự
xuất hiện của một sự kiện khủng hoảng bất ngờ dẫn đến sự mất cân bằng của hệ thống gia
đình và đòi hỏi phải thích ứng với một thực tế mới. Cơ chế tâm lý của sự thích ứng như
vậy, theo J. Sandler, là sự từ chối thành tựu của hình ảnh lý tưởng trước đây của gia đình
và sự thay thế của nó với một lý tưởng gần gũi với thực tế. Quá trình cá nhân của gia đình
đóng vai trò như một điều kiện cho sự phát triển bình thường của nó, hướng tới tương lai
và ngăn chặn sự “mắc kẹt” và thoái lui trước các trạng thái lý tưởng hiện có trước đó.
Các dạng khủng hoảng phi quy chuẩn và nguy hiểm nhất là ghen tuông và ngoại
tình. Một tính năng đặc biệt của những cuộc khủng hoảng như vậy là chúng chỉ liên quan
đến một cặp vợ chồng, nhưng chúng có ảnh hưởng tiêu cực đến cả gia đình nói chung và,
trước hết, trên những đứa trẻ lớn lên trong đó. Thật không may, một lựa chọn khá phổ
biến để giải quyết các cuộc khủng hoảng như vậy là sự tan rã của hệ thống gia đình (ly
dị), đòi hỏi sự xuất hiện của các vấn đề xã hội và tâm lý mới trong mỗi thành viên của
một gia đình tan vỡ.
CÂU HỎI VÀ NHIỆM VỤ
1. Xác định khái niệm “chu kỳ sống gia đình” và đặt tên cho các phương pháp tiếp
cận chính để phân biệt các giai đoạn của chu kỳ gia đình.
2. Mô tả các định luật cơ bản về phát triển gia đình trong suốt vòng đời của nó. Xác
định các điều kiện của tình huống khủng hoảng trong hôn nhân.
3. Điều gì có nghĩa là do khủng hoảng pháp lý trong phát triển gia đình? Nội dung
tâm lý của họ là gì? Điều gì đặc trưng cho cuộc khủng hoảng gia đình không quy
định? Sự khác biệt chính của chúng với quy định là gì?
4. Tác động của "cuộc khủng hoảng giữa cuộc sống" đối với các mối quan hệ gia
đình là gì?
5. Các yếu tố nguy cơ cho sự phá hủy và phân hủy của một gia đình ở từng giai
đoạn của vòng đời của nó là gì? Các yếu tố của khả năng phục hồi của nó?
6. Xây dựng lại lịch sử hẹn hò và tạo ra một gia đình với một nhóm gia đình đã
biết. Cố gắng xác định giai đoạn của vòng đời của nó và khả năng của một cuộc khủng
hoảng quy định (không quy định) trong mối quan hệ hôn nhân. Bạn nghĩ gì là yếu tố
nguy cơ và chìa khóa cho sự bền vững của các mối quan hệ trong tương lai trong gia đình
này là gì? Tại sao

Phân tích các tình huống sau và trả lời các câu hỏi.

Tình huống 1. “ Chồng tôi và tôi đã kết hôn được 18 năm, và bây giờ chúng tôi
giống như hai người bạn tốt hơn là một vài người yêu đam mê. Chúng tôi rất hiếm khi
quan hệ tình dục. Mối quan hệ của chúng tôi có thể được gọi là "thoải mái". Một số phần
của tôi đang háo hức trở lại với niềm đam mê trước đó, nhưng bạn bè của tôi tin rằng
trong thực tế, sau nhiều năm của cuộc sống hôn nhân, tất cả các cặp vợ chồng đến như
nhau. Có lẽ họ nói đúng là tôi muốn quá nhiều? ”

71
Tình huống 2. “Chồng tôi và tôi cần giúp đỡ. Chúng tôi sống với nhau trong sự hòa
hợp hoàn hảo trong mười tám năm, đã nuôi dạy bốn đứa con, và bây giờ hóa ra là không
có dấu vết của niềm đam mê với nhau. Chúng tôi có một mối quan hệ suôn sẻ và yên
tĩnh, nhưng ít hơn và ít hơn chúng tôi muốn có quan hệ tình dục, và phần còn lại của
chúng tôi trị vì buồn chán. Tôi không muốn tin rằng đây là kết thúc tự nhiên của bất kỳ
cuộc hôn nhân nào. Chúng ta có thể mang niềm đam mê trở lại vào mối quan hệ của
chúng ta không? ”
1. Cuộc khủng hoảng pháp lý nào trong mối quan hệ hôn nhân chúng ta đang nói
đến? Điều gì đặc trưng cho cuộc khủng hoảng này?
2. Vợ chồng nên biết gì về các tính năng của cuộc khủng hoảng này?
3. Nếu một người phụ nữ (tình huống 1) mù quáng dựa vào ý kiến “có thẩm quyền”
của bạn bè? Họ là gì đúng và những gì là sai? Hãy biện minh cho câu trả lời của bạn.
4. Bạn sẽ đưa ra những khuyến nghị nào cho các cặp vợ chồng trong khủng hoảng
trong mối quan hệ của họ?

Tình huống 3. “Thỉnh thoảng tôi bị dày vò bởi nghi ngờ liệu vợ và tôi có phù hợp
với nhau hay không, bởi vì chúng tôi vẫn còn có vấn đề và xung đột xảy ra. Chúng tôi đã
ở bên nhau được 8 năm và yêu nhau rất nhiều. Trong thời gian này, chúng tôi đã học
được rất nhiều, nhưng vẫn tiếp tục phân loại mọi thứ trên những trò lừa đảo. Chúng ta
phải suy nghĩ tất cả các thời gian về cách không xúc phạm lẫn nhau, để học cách chú ý
nhiều hơn đến một đối tác và đồng thời cố gắng không vượt qua một số ranh giới nhất
định. Bạn có nghĩ rằng những khó khăn này có thể vượt qua được không? ”
1. Các đối tác hôn nhân không nhận thức được kinh nghiệm của một cuộc khủng
hoảng gia đình? Mọi thứ xảy ra với họ - đó có phải là một tai nạn hay một sự đều đặn
không?
2. Chiến thuật của mối quan hệ của họ đúng như thế nào?
3. Có thể vượt qua điều gì khiến chồng tôi lo lắng nhiều không? Bạn cần làm
gì? Hãy biện minh cho câu trả lời của bạn.

Tình huống 4. “Cuộc hôn nhân của chúng tôi là hai mươi tám tuổi, và mười người
cuối cùng trong số họ chồng tôi và tôi hoàn toàn thờ ơ với nhau. Cách đây một thời gian,
chúng tôi đã suy nghĩ nghiêm túc về việc ly hôn, nhưng chúng tôi đã đi đến kết luận rằng
không ai trong chúng tôi muốn xây dựng cuộc sống của chúng tôi một lần nữa. Liệu
chúng ta có thể hồi sinh tình yêu hay tốt hơn là đến với các điều khoản với thực tế là tình
cảm của chúng ta dành cho nhau đã chết đi? ”
1. Một vấn đề quan tâm đến người vợ là gì? Làm thế nào hợp lý là mối quan tâm
của cô?
2. Vợ chồng nên được hòa giải với tình huống hay điều gì đó nên thay đổi trong mối
quan hệ của họ? Làm thế nào để làm điều này? Điều gì trong số họ nên chủ động?

72
3. Bạn có thể cung cấp cặp vợ chồng này để vượt qua tình trạng khủng hoảng trong
một cuộc hôn nhân?

Tình hình 5. "Bất cứ khi nào tôi cố gắng nói chuyện với chồng về những gì mối
quan hệ của chúng tôi không phải là rắc rối-miễn phí, và thuyết phục anh về sự cần thiết
cho công việc nghiêm trọng trên chúng, ông nói rằng" thích để có những điều đúng như
thật, và khá hài lòng với cuộc sống của mình “. Nó không phù hợp với tôi, nhưng, dù tôi
có làm gì đi chăng nữa, anh ta cũng bỏ qua mọi nỗ lực của tôi. Anh ta chỉ không muốn
thay đổi. Làm thế nào để tôi làm cho anh ấy tự mình làm việc? ”
Tình huống 6. "Lấy một cái gì đó từ chồng tôi giống như đâm một bức tường đá
với đầu của bạn. Anh ấy từ chối thảo luận về mối quan hệ của chúng tôi, tuyên bố rằng
chỉ có tôi có vấn đề, và khi tôi mời anh ấy đọc sách về các mối quan hệ gia đình hoặc đi
đến một nhà tâm lý học, anh ấy nói tôi có thể đi bất cứ đâu, và anh ấy nên bị bỏ lại một
mình. Vì vậy, những năm trôi qua. Cuộc hôn nhân của chúng ta sắp sụp đổ, nhưng anh ta
không muốn hiểu điều này; Tôi cảm thấy như thể cứu một gia đình chỉ là kinh doanh của
riêng tôi. Bạn nghĩ gì về điều này? Có cách nào để đánh thức chồng tôi không? ”
1. Làm thế nào hợp lý là mối quan tâm của phụ nữ về sự thờ ơ của chồng đối với
tình trạng gia đình hiện tại?
2. Có thể ép buộc một người khác thay đổi mà không có ham muốn riêng của mình,
đặc biệt là nếu anh ta không thấy vấn đề trong cuộc sống của mình?
3. Người phụ nữ nên làm gì để “khuấy động” chồng mình và chứng minh rằng cuộc
sống của họ với nhau có thể khác, thú vị hơn?
4. Triển vọng cho những cuộc hôn nhân như thế nào? Điều gì có thể xảy ra với gia
đình nếu người chồng không bao giờ muốn thay đổi điều gì đó trong mối quan hệ của họ
với vợ của họ?

Tình huống 7. “Tôi không hiểu điều gì đang xảy ra với tôi. Trong một thời gian tôi
thực sự không thể sống mà không có một người chồng, tôi cần phải liên tục nhìn thấy anh
ta, nói chuyện với anh ta, được xung quanh anh ta. Nhưng sau đó có vẻ như một cái gì đó
"phá vỡ" trong tôi - nó trở nên hoàn toàn thờ ơ với tôi cho dù anh ta có hay không. Những
gì trước đây hài lòng, chỉ mang lại đau buồn, khó chịu. Lúc đầu, tôi thích tất cả mọi thứ
về anh ấy, và anh ấy luôn quan tâm đến tôi, nhưng bây giờ ... Có vẻ như với tôi rằng mỗi
năm một cái gì đó là để lại mối quan hệ của chúng tôi. Đây có phải là cách tình yêu rời đi
và chúng ta sẽ phải chia tay với thời gian? ”
1. Bạn nghĩ gì về giai đoạn nào của cuộc sống gia đình và cái nào của cuộc khủng
hoảng pháp lý trong mối quan hệ hôn nhân là nó? Các tính năng của dòng chảy của nó
là gì?
2. Làm thế nào hợp lý là mối quan tâm của người phụ nữ về một sự tách biệt có thể
từ chồng?
3. Bạn có đề nghị gì cho một người phụ nữ quan tâm đến tương lai của gia đình
mình?

73
Tình huống 8. “Suốt đời, Harry làm việc chăm chỉ, liên tục tiến về phía trước. Anh
chuẩn bị cho nghỉ hưu, mua một chiếc xe với một chiếc xe kéo để đi bất cứ nơi nào anh
muốn, và quyết định bán nhà. Bây giờ anh cảm thấy tự do. Vợ ông, Helene, đã chống lại
việc bán nhà, nhưng ông đảm bảo với bà rằng mọi thứ sẽ ổn. Cuối cùng, cô tin anh và
đồng ý với đề xuất này.
Một ngày sau khi Harry nghỉ hưu, đã bán ngôi nhà, họ đã chuẩn bị cho giấc mơ của
mình. Hai tháng sau, họ ngừng nói chuyện với nhau. Sáu tháng sau, Harry bị ốm
nặng; một năm sau, anh ta đã ra đi.
Nó phải được nói rằng Harry thích áp đặt các quy tắc và yêu cầu của mình trên tất
cả mọi người, anh muốn mọi thứ được thực hiện chính xác như anh thấy phù hợp. Anh
không biết cách giao tiếp với mọi người, thiếu kiên nhẫn và phân loại. Nhờ tính cách của
mình, anh đã trải qua những thay đổi rất quan trọng, tách rời cuộc sống quá khứ của mình
khỏi những gì đang chờ đợi phía trước. Hậu quả thật khủng khiếp. Trong thời gian bệnh
tật, Helen từ chối chăm sóc cho anh ta, và ngay cả sau khi anh ta chết, sự thù địch đối với
anh ta rất mạnh đến nỗi cô ấy không đến dự đám tang. ”
1. Các tính năng của cuộc khủng hoảng liên quan đến việc nghỉ hưu của vợ / chồng
là gì? Điều khác biệt về trải nghiệm của cuộc khủng hoảng này ở nam giới là gì? Ở phụ
nữ?
2. Những gì có thể không hoặc không muốn cung cấp cho Harry, bán nhà gia đình
và đi trên một chuyến đi xe với vợ?
3. Ai là người đổ lỗi cho những gì đã xảy ra với cặp đôi này? Lỗi của từng người
phối ngẫu là gì? Hãy biện minh cho câu trả lời của bạn.
4. Có thể tránh được thảm kịch xảy ra cho gia đình này không? Bạn cần làm gì cho
việc này?

CHU KỲ SỐNG GIA ĐÌNH: GIAI ĐOẠN VÀ KHỦNG HOẢNG


Nội dung Các giai đoạn của cuộc sống gia đình và khủng hoảng Cuộc khủng hoảng
đầu tiên - một gia đình trẻ Sự xuất hiện của đứa trẻ đầu tiên 3 năm khủng hoảng Cặp đôi
khủng hoảng với trẻ em 6-12 tuổi Khủng hoảng tuổi teen Trẻ em rời khỏi nhà Giai đoạn
"tổ trống" Dấu hiệu của cuộc khủng hoảng gia đình Làm thế nào để đối phó với một cuộc
khủng hoảng gia đình Cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài bao lâu? Mọi người quan tâm
đến nguyên nhân và cách thức của nó, lo lắng về chất lượng cuộc sống của họ. Nhưng vì
một lý do nào đó không học cách hiểu tâm lý của khủng hoảng gia đình . Mặc dù sự hiểu
biết về các quy luật của vòng đời của gia đình là quan trọng hơn những khoảnh khắc vật
chất. Bất kỳ gia đình nào, như một hệ thống xã hội, cũng đang trải qua các giai đoạn, và
sự chuyển tiếp giữa chúng chỉ là khủng hoảng. Trong đó đi cả với tổn thất và với chiến
thắng. Các giai đoạn của cuộc sống gia đình và khủng hoảng Các gia đình, như một sinh
vật, đi qua chu kỳ: sinh, hình thành, phát triển. Sự tan rã của gia đình có thể xảy ra ở bất
kỳ giai đoạn nào, nhưng rất có thể trong việc chuyển đổi quan hệ gia đình mà các thành
viên của “tế bào xã hội” chưa sẵn sàng thích nghi. Vòng đời gia đình - câu chuyện về các
sự kiện gia đình và các mối quan hệ. Các giai đoạn - một tập hợp các tập phim quan
trọng. Trở lại năm 1948, các nhà tâm lý học E. Duval và R. Hil đã nói về 24 giai đoạn
phát triển quan hệ gia đình. Sau đó, các chu kỳ được giảm xuống còn bảy bước quan

74
trọng. Những gì bạn cần biết về những thay đổi tự nhiên trong cuộc sống gia đình? Cuộc
khủng hoảng đầu tiên - một gia đình trẻ Cuộc khủng hoảng đầu tiên đang chờ đợi một gia
đình trẻ. Không có gì lạ trong năm kể từ ngày kết hôn thường được gọi là "Calico
Wedding", có nghĩa là sự mong manh và sự đa dạng sáng tạo về mối quan hệ giữa vợ
chồng. Sự khác biệt của các nhân vật, thói quen, thái độ tạo ra một kính vạn hoa của
những khoảnh khắc hạnh phúc và những cuộc cãi vã "lapping". Hiện tượng tương tự cũng
xảy ra trong các gia đình dân sự. Đôi khi chu kỳ này kéo dài đến năm năm. Hơn nữa, nó
sẽ xác định những gì sẽ là con đường ra khỏi giai đoạn khủng hoảng đầu tiên. Đàm phán
và thỏa thuận là vũ khí chính ở giai đoạn của một gia đình mới nổi nhằm đạt được sự hài
hòa. Nếu bạn tìm cách giải quyết những mâu thuẫn, học cách làm mịn mâu thuẫn, dừng
lại kịp thời, khi tức giận, không phải lý do, bắt đầu nói, giúp đỡ nhau, và không thay đổi
trách nhiệm một cách trẻ con, cuộc sống gia đình sẽ trở thành một phẩm chất mới. Sự
xuất hiện của đứa trẻ đầu tiên Điểm bùng phát là sự xuất hiện của đứa trẻ đầu tiên. Khi
một gia đình đi từ một cặp vợ chồng không có con đến tình trạng của một gia đình hoàn
chỉnh, sự tập trung vào nhau bị phá vỡ. Và xây dựng các mối quan hệ trong đó một thành
viên mới đã xuất hiện đòi hỏi sự khôn ngoan và kiên nhẫn trên cả hai mặt. Đối với điều
này, điều quan trọng là sự gắn bó tình cảm của vợ chồng phát triển thành tình bạn. Nếu
không, mỗi đóng lại về vấn đề và khiếu nại của họ. Đôi khi một người phụ nữ nghĩ rằng
cô sẽ nhận được một tình yêu thiếu từ người phối ngẫu của mình từ em bé của mình.
Nhưng, phải đối mặt với nhiệm vụ của người mẹ, rơi vào trầm cảm, nhận ra rằng "cho" là
một lần nữa. Vì vậy, sự ra đời của một đứa trẻ nên được tiếp cận một cách cẩn thận và
cùng nhau được chuẩn bị cho một giai đoạn mới trong gia đình. Một người phụ nữ trải
qua rất nhiều tải trọng: vật lý, nội tiết tố và tâm lý. Một người đàn ông cũng đang bị căng
thẳng , nhưng nhiệm vụ của anh ta là hiểu được tình trạng của người phối ngẫu và không
phản đối chức năng “người kiếm tiền” của anh ta đối với người cha. Sau khi tất cả, một
người cha cũng là một phụ huynh. Ở giai đoạn này của cuộc sống là khả năng quan trọng
để hỗ trợ lẫn nhau. Nếu trước khi sinh của một em bé có mâu thuẫn, họ trở nên trầm trọng
hơn. Do đó, không nhất thiết phải nghĩ rằng trẻ sơ sinh sẽ hít thở cuộc sống thành một
mối quan hệ rối loạn, mặc dù điều này thỉnh thoảng xảy ra. Nhưng thường xuyên hơn,
các vấn đề đặt trên “tạm dừng” sẽ một lần nữa thể hiện bản thân trong thời kỳ khủng
hoảng tiếp theo. 3 năm khủng hoảng Mà đến trên đạt đến một đứa trẻ của ba năm. Ở giai
đoạn của một gia đình có trẻ em mẫu giáo từ 3-6 tuổi, các bà mẹ để lại nghị định cho
công việc. Ngoài nhiệm vụ hộ gia đình, có chuyên môn. Có tải mới trên cả hai vợ chồng.
Cảm giác rằng chỉ đơn giản là không có sự riêng tư dẫn đến trầm cảm và căng thẳng. Kid
thích nghi ở trường mẫu giáo. Giới thiệu về gia đình của một vú hoặc bà ngoại cũng đòi
hỏi một số câu hỏi: vấn đề về sự thống nhất các yêu cầu đối với hành vi của đứa trẻ,
chuẩn bị cho trường học, phát triển mầm non. Để xây dựng lại lối sống trong chu kỳ này,
mà không phải chịu áp lực tự nhiên, là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng có thể thực hiện
được. Nếu bạn nhận ra rằng nó sẽ dễ dàng hơn khi mọi thứ "trở nên đúng hướng". Kiểm
soát cảm xúc tiêu cực, giao tiếp với nhau , tham gia vào cuộc đối thoại và tìm kiếm sự hài
hòa. Tình bạn phải được biến thành tôn trọng và chấp nhận đầy đủ của đối tác với tất cả
những bất lợi Cặp đôi khủng hoảng với trẻ em 6-12 tuổi Một cặp vợ chồng có con từ 6–
12 tuổi đi học - một gia đình trung niên - nhận ra lần đầu tiên đứa con đầu lòng của họ sẽ

75
ra đi sớm hay muộn. Và vợ chồng có thái độ khác nhau đối với khách hàng tiềm năng ở
một mình với nhau. Ở giai đoạn này của cuộc sống, giai đoạn khủng hoảng của các thành
viên gia đình chồng lên nhau: sự xuất hiện của đứa trẻ thứ hai, mất việc hoặc chuyển đến
nơi khác, một cuộc khủng hoảng ở tuổi trung niên ở nam giới, bệnh tật của thế hệ già.
Một đứa trẻ đã đến tuổi bảy kinh nghiệm một giai đoạn trưởng thành khác , được thể hiện
trong hành vi. Phụ huynh có một giai đoạn thích ứng với sự độc lập của một thành viên
gia đình nhỏ. Trường căng thẳng về trẻ em và động lực của cha mẹ để học thêm căng
thẳng . Sự gia tăng chi tiêu cho biết thêm các yếu tố của cuộc khủng hoảng tài chính
trong gia đình, góp phần vào sự mất cân đối của hệ thống quan hệ. Một lý do khác cho
cuộc khủng hoảng là sản phẩm của "canh tác" chung được trưng bày và những sai lầm
của cha mẹ trở nên rõ ràng. Xác minh hiệu quả của giáo dục cho thấy mâu thuẫn trong
gia đình và mâu thuẫn với người ngoài. Kết hợp sự nghiệp và giáo dục không phải lúc
nào cũng có thể hài hoà. Các biến dạng ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần của tất cả các
thành viên trong gia đình, trực tiếp hoặc gián tiếp. Lý tưởng nhất, ở giai đoạn này của
kiến thức đầy đủ của nhau, tình yêu đích thực cho các đối tác đến. Nhưng nếu các mối
quan hệ trong các vòng đời trước không được hoàn thành, các tuyên bố lẫn nhau không
cho phép chúng ta hành động như một “mặt trận thống nhất” chống lại các vấn đề. Và
thường xuyên nhất, về mặt không khí tâm lý, một gia đình trung niên là giai đoạn đáng lo
ngại và bận rộn nhất trong toàn bộ vòng đời. Bởi vì có một “sự thỏa mãn” với nhau, và
khát khao cảm giác và cảm xúc mới. Khủng hoảng tuổi teen Khi một đứa trẻ lớn lên đến
một cuộc khủng hoảng tuổi teen , hầu hết các bậc cha mẹ bắt đầu một cuộc khủng hoảng
trung niên . Các giai đoạn của cuộc sống gia đình với trẻ em lớn tuổi hơn là trong cuộc
khủng hoảng do trẻ em đến tuổi dậy thì và những thách thức liên quan đến quá trình này.
Và cũng với những thay đổi sinh lý và tâm lý đang diễn ra của chính cặp vợ chồng. Đánh
giá lại trải nghiệm cuộc sống mở mắt để bỏ lỡ cơ hội. Lỗi riêng sẽ bị xóa trên đối tác.
Đàn ông có thể nhìn vào mặt xác nhận tính nam tính và khả năng sống của họ. Duy trì hệ
thống phân cấp trong gia đình là có thể nếu một hệ thống quy tắc linh hoạt được thiết lập
và thông tin liên lạc trong gia đình được thiết lập. Trẻ em rời khỏi nhà Giai đoạn khi trẻ
em rời khỏi nhà của cha mình buộc vợ chồng phải đánh giá mối quan hệ của chúng mà
không có con. Bản chất của các mối quan hệ với trẻ em tìm kiếm sự độc lập đang thay
đổi. Sửa đổi thói quen của cuộc sống, thay đổi thói quen và nhịp điệu gây căng thẳng.
Điều này đặc biệt đúng đối với phụ nữ không làm việc, những người làm suy yếu nhận
thức về tầm quan trọng của họ nếu làm mẹ là hoạt động chính và tự thể hiện. Chỉ có khả
năng lấp đầy khoảng trống với các hoạt động khác sẽ giúp tồn tại cuộc khủng hoảng ở
giai đoạn này. Giai đoạn "tổ trống" Giai đoạn "tổ trống" . 50% các cặp vợ chồng ly hôn
khi họ đến để hiểu rằng không có gì khác liên kết với nhau. Tuổi suy giảm về sức khỏe,
nghỉ hưu, mối đe dọa gần kề của tuổi già và cái chết gây ra những trải nghiệm khủng
hoảng. Tồn tại họ có thể là lợi ích chung của vợ chồng. Nó không đáng sống cuộc sống
của trẻ em trưởng thành. Sau khi tất cả, cuối cùng, bạn có thể dành tất cả thời gian cho
nhau. Sự mất mát của một đối tác là cuộc khủng hoảng tiếp theo của cùng chu kỳ sống.
Đầu ra sẽ là xây dựng các mối quan hệ mới với gia đình của trẻ em người lớn, cháu. Tập
trung vào công việc tiếp theo hoặc tự phát triển, một sở thích . Nó cũng có thể tạo ra một
gia đình mới. Các nguyên nhân khác của khủng hoảng gia đình: Phản quốc Thay đổi thu

76
nhập. Và ngay cả khi chúng phát triển. Bệnh nghiêm trọng và kéo dài. Những thay đổi
trong thành phần gia đình: cái chết của một thành viên, sự xuất hiện của cha mẹ. Thay đổi
lối sống, thay đổi mạnh mẽ, du lịch. Bất khả kháng: thù địch, khác biệt chính trị. Khi vợ
chồng trở nên nhận thức được sự phát triển không gian của mối quan hệ gia đình, một sự
hiểu biết xuất hiện rằng cảm xúc không qua đời, nhưng có một hình thức cập nhật. Mỗi
chu kỳ có ý nghĩa riêng của nó. Không có mối quan hệ mạnh mẽ là có thể mà không có
khủng hoảng. Vượt qua chúng, một người trở nên trưởng thành, tinh thần phát triển và
nhiệt tình. Quản lý khủng hoảng là thay đổi để phù hợp với vai trò trong hoàn cảnh mới
và giúp đối tác chấp nhận những thay đổi này. Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng gia đình
đến một mức độ hỗ trợ lẫn nhau và hiểu biết lẫn nhau bằng cách thiết lập các mối quan hệ
phù hợp với tình hình. Nếu các đối tác không muốn thay đổi thì sự chênh lệch sẽ gia tăng
theo từng căng thẳng và chắc chắn sẽ dẫn đến sự tan rã của gia đình. Dấu hiệu của cuộc
khủng hoảng gia đình Không phải mọi cuộc cãi vã đều là một cuộc khủng hoảng. Cạnh
tranh, tức giận, kích thích và oán giận cũng phát sinh trong một thời kỳ hoàn toàn thịnh
vượng. Và không phải lúc nào cũng là những khoảnh khắc khủng hoảng thể hiện sự tranh
cãi. Có bao nhiêu câu chuyện về cuộc sống mà cặp đôi vợ chồng dường như bình tĩnh
lặng lẽ và gần như hòa bình phân tán. Ngoài những vụ bê bối và bất mãn lẫn nhau, có
những dấu hiệu khủng hoảng khác trong gia đình: Thiếu sự hiểu biết lẫn nhau và ý kiến
chung về bất kỳ vấn đề quan trọng nào. Giảm thiểu tuổi thọ thân mật. Vợ chồng không cố
gắng làm hài lòng lẫn nhau. Tất cả các câu hỏi liên quan đến trẻ em đều đi kèm với các
cuộc cãi vã . Các đối tác khó chịu vì bất kỳ lý do gì. Một trong những vợ chồng liên tục
thua kém ý kiến của người kia. Bởi vì hành vi phạm tội này . "Tâm thần gia đình" - khi
không có sự đồng cảm và hiểu biết về cảm xúc của người khác. Không có mong muốn
chia sẻ kinh nghiệm, niềm vui và vấn đề của họ. Vợ chồng không giao tiếp và dành thời
gian ở nơi làm việc hoặc ngoài gia đình. Điều chính là hiểu được trong thời gian bất hòa
là một thành phần của giai đoạn mới của các mối quan hệ hôn nhân. Làm thế nào để đối
phó với một cuộc khủng hoảng gia đình Nếu có một nhận thức rằng cặp vợ chồng của
bạn đang trong cuộc khủng hoảng, đây là một nửa thành công trong việc rời bỏ nó thành
công. Làm thế nào để đối phó với cuộc khủng hoảng gia đình và mang mối quan hệ đến
một cấp độ khác? Giao tiếp. Nói chuyện lần lượt tất cả các vấn đề và khiếu nại lẫn nhau.
Âm thanh các quy tắc chung, phân phối nhiệm vụ. Hãy đến một thỏa hiệp, đó là, để kết
quả như vậy mà sẽ phù hợp với tất cả mọi người. Có thể xin lỗi nếu bạn nhận ra rằng bạn
đã nhầm lẫn. Học cách tha thứ . Nếu bạn chưa sẵn sàng, sau đó thay vì bỏ qua, hãy giải
thích trạng thái của bạn, chuyển cuộc trò chuyện. Đừng chỉ trích đối tác với các nhân
chứng. Trong tuyên bố tuyên bố đi mà không có lời lăng mạ và khái quát. Đừng khiêu
khích một đối tác. Nếu anh ta đã bị căng thẳng , hãy giúp anh ta. Không hành vi phát ban.
Đi mà không có quyết định vội vàng. Nhìn vào đối tác của bạn với đôi mắt mới, tìm điểm
tiếp xúc mới. Tham khảo các nhà tâm lý học. Chỉ với sự hợp tác của vợ chồng, mong
muốn lẫn nhau để bảo tồn mối quan hệ và dịch chúng thành chất lượng khác, để lại cuộc
khủng hoảng mới và gắn kết. Đừng bỏ cuộc, tự mình làm việc, làm mọi thứ có thể trong
từng vòng đời để giữ một gia đình hạnh phúc . Để được người chiến thắng, không thua.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

77
1.  Aleshina Yu E. Chu kỳ phát triển gia đình: nghiên cứu và các vấn đề // Vestnik
MGU. Series 14 "Tâm lý học". 1987. Số 2. P. 60–72.
2.  Vitek K. Các vấn đề về hạnh phúc hôn nhân. M., 1988.
3.  Dombrovsky A., Velenta T. Family Crisis // Tâm lý gia đình và trị liệu gia đình. 2005.
№ 3.
4.  Karabanova OI Tâm lý quan hệ gia đình và các nguyên tắc cơ bản của tư vấn gia
đình. M., 2004.
5.  Kratochvil S. Tâm lý trị liệu của gia đình và tình dục. M., 1991.
6.  Olifirovich N. I., Zinkevich-Kuzemkina T. A., Velenta T. F. Gia đình khủng hoảng:
hiện tượng, chẩn đoán, hỗ trợ tâm lý. M.; Obninsk, 2005.
7.  Olifirovich N. I., Zinkevich-Kuzemkina T. A., Velenta T. F. Tâm lý của khủng hoảng
gia đình. SPb., 2006.
8.  Pergamenchik L. A. Khủng hoảng tâm lý học. Minsk, 2004.
9.  Polivanova K. N. Tâm lý của khủng hoảng tuổi. M., 2000.
10.  Paige S. Hôn nhân: con đường để hòa hợp. M., 1995.
11.  Strelkov Yu. K. Tâm lý của cuộc khủng hoảng cuộc sống và các sự kiện quan trọng //
Tạp chí Tâm lý. 1993. V. 14. Số 5. P. 141-152.
12.  Tseluyko V. М. Tâm lý của gia đình hiện đại. M., 2004 (2006).
13. https://sunmag.me/sovety/26-02-2014-zhiznennyj-tsikl-semi-etapy-i-krizisy.html

78
CHƯƠNG IV: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA GIA ĐÌNH KHÔNG ĐẦY ĐỦ VÀ SỰ
TAN VỠ CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TÂM LÝ CỦA CÁC THÀNH VIÊN
CÁC VẤN ĐỀ NÀY SINH TRONG MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH

Mục tiêu: Sau khi học xong nội dung chương 4, sinh viên có thể:
15)Chỉ ra được những tác động của gia đình
16)Phân tích được các trường hợp không mong muốn của gia đình, các vấn đề nảy
sinh
17)Xây dựng được chương trình hỗ trợ, can thiệp đối với gia đình
*******************************************
I. Gia đình không đầy đủ
* Gia đình không đầy đủ được hiểu là gia đình thiếu vắng cha mẹ. Gia đình không
đầy đủ có nhiều loại:
- Thiếu vắng cha
- Thiếu vắng mẹ
- Thiếu vắng cả hai
* Nguyên nhân dẫn đến gia đình không đầy đủ
- Cha, mẹ mất
- Cha mẹ đi làm xa, trường hợp này dẫn đến thiếu vắng tạm thời
- Cha mẹ không quan tâm gì đến con cái, trường hợp này do ly hôn hoặc quá lo
làm ăn, sống ích kỷ thiếu trách nhiệm với con cái.
* Ảnh hưởng của sự thiếu vắng cha mẹ đến tâm lý của các thành viên trong gia
đình và tâm lý của con cái.
+ Trường hợp vắng hoàn toàn (mất cha, mất mẹ hoặc mất cả hai) là nguy cơ cho
con cái. Nếu trẻ không được bù đắp kịp thời bởi tình yêu thương của người thân trong gia
đình hoặc bởi những người khác sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, dễ rơi vào
trạng thái mất an toàn khủng hoảng, trầm uất.
+ Trong những ngày đầu thiếu vắng cha, mẹ không khí tâm lý trong gia đình ảm
đạm nặng nề, tâm trạng của các thành viên buồn rầu, nhớ nhung. Trách nhiệm đối với con
cái của người ở lại hoặc của các thành viên khác trong gia đình càng thêm nặng nề khó
khăn.
+ Nếu thiếu vắng người cha, nguyên tắc uy quyền sẽ không còn đối với đứa trẻ. Sự
mạnh mẽ nam tính của con trai có thể bị giảm xuống.
+ Thiếu vắng người mẹ đối với con cái, hậu quả càng trầm trọng hơn đặc biệt đối
với trẻ nhỏ tuổi.
- Nếu thiếu vắng mẹ ngay từ những ngày đầu, không được bù đắp kịp thời bởi sự
chăm sóc chu đáo và tình thương yêu của người khác, trẻ sẽ rơi vào trạng thái bất an, sự
hình thành và phát triển cơ thể cũng như tâm lý bị rối nhiễu. Các nhà tâm lý gọi đó là
hiện tượng “Hội chứng vắng mẹ”. Hiện tượng này thường xuất hiện sau 3 tháng.
- Biểu hiện của hội chứng vắng mẹ trước tiên là phản ứng cư xử thiếu hòa nhập,
các hình thái vận động chậm trễ đặc biệt là tư thế ngồi, bò, giảm hứng thú, sợ hãi quá
mức trước người lạ. Trong 6 tháng tiếp theo trẻ tỏ ra thờ ơ, ít vận động, biếng ăn, không

79
lên cân mặc dù được thỏa mãn đầy đủ, ngủ kém, đi ngoài nhiều. Trầm lặng, thiếu chủ
động không đáp ứng được những kích thích bên ngoài.
- Năng lực thích nghi với hoàn cảnh của trẻ kém, rối loạn trong giao tiếp. Gặp ai
chúng cũng bám lấy một cách dễ dàng thái quá, có khi tỏ ra lo hãi gọi mẹ hoặc tỏ ra vô
cảm hoặc quá ngoan ngoãn, im lặng, thụ động buồn rầu. Đặc biệt sức đề kháng các bệnh
lây nhiễm hay nhiễm trùng bị giảm.
- Từ 3 đến 5 tuổi, những triệu chứng rối nhiễu có thể còn xuất hiện, sau 5 tuổi rối
nhiễu hiếm dần, tuy nhiên phương diện tình cảm đã biểu lộ những hậu quả tai hại.
Hội chứng vắng mẹ nếu không được khắc phục nhanh chóng có thể để lại dấu vết
không thể xóa nhòa trong tâm trí của trẻ ngay cả khi nó đã trở thành một người trưởng
thành. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều công trình, những trẻ em “bị hội chứng vắng
mẹ” có thể trở thành những người không có khả năng cho và nhận tình cảm, khả năng
thiết lập các mối quan hệ tình cảm hạn chế. Chúng có những rối nhiễu về nhận thức và
những phẩm chất tâm lý khác như chỉ số IQ giảm, tính tình thất thường, tập trung chú ý
khó khăn, thiếu óc phê phán, tư duy ngôn ngữ chậm phát triển. Nhà tâm lý Goldfar
(người Pháp) nhận xét về những đứa trẻ này như sau : Cư xử hung bạo, thích các trò giải
trí, thiếu kiềm chế, không thấy ở chúng những dạng bình thường về lo lắng và ức chế.
Những sự đồng nhất hóa bị hạn chế và những tình cảm hời hợt không bền chặt. Tác giả
Spit thì khẳng định : Có thể tiên đoán là trong tương lai sự gia tăng của số trẻ em có vấn
đề, không thích ứng xã hội, những trẻ em phạm pháp do chậm khôn và tâm bệnh sẽ tỷ lệ
thuận với sự biến mất của đời sống gia đình.
+ Với những trường hợp vì công việc, cha hoặc mẹ phải xa con cái, trẻ thường
được bù đắp sự thiếu hụt bằng tình thương và sự chăm sóc của người ở nhà và những
người thân khác. Bản thân họ vẫn có ảnh hưởng tới nhân cách của con cái mặc dù vắng
mặt, trẻ không có những biểu hiện rối nhiễu, tuy nhiên vẫn có phần thiệt thòi. Tình cảm
của trẻ với người đi vắng không thể bền chặt như trường hợp trẻ được cha mẹ trực tiếp
chăm sóc thường xuyên.
+ Với những trường hợp cha mẹ là người ích kỷ, khi chia tay nhau họ không có
trách nhiệm với con cái, hoặc vẫn sống chung trong gia đình nhưng không hề để ý tới
con, trẻ không chỉ thiệt thòi mà có thể còn nảy sinh thái độ coi thường cha mẹ. Bởi lẽ họ
là tấm gương xấu về tinh thần trách nhiệm đối với con.
Tóm lại, thiếu vắng cha mẹ là nỗi bất hạnh cho trẻ, cần phải khắc phục tình trạng
này bằng sự quan tâm của mọi người thân trong gia đình, anh em họ hàng, cộng đồng xã
hội. Với những trường hợp thiếu vắng cha mẹ vì lý do chủ quan, những người cha người
mẹ hãy nhìn lại mình để thực hiện tốt nghĩa vụ với con cái.
II. Xung đột gia đình và ảnh hưởng của nó đến các thành viên trong gia đình
1/ Xung đột gia đình và nguyên nhân của nó
Xung đột gia đình là gì?
Theo từ điển “Từ và ngữ Việt Nam”, xuất bản năm 2000, GS Nguyễ Lân cho rằng
“Xung đột là sự đụng chạm, va chạm với nhau, mâu thuẫn với nhau”.
Xung đột trong gia đình là sự biểu hiện của các mâu thuẫn giữa các thành viên
trong gia đình với nhau, do sự bất đồng hay có quan điểm khác nhau về nhận thức, nhu
cầu, thị hiếu, tình cảm, tính cách, thói quen sinh hoạt v v.

80
Xung đột trong gia đình cũng giống như xung đột của con người trong các môi
trường xã hội khác, thường bắt nguồn từ nhận thức, cá tính của mỗi người.
Bản chất tâm lý con người mang tính chủ thể, không ai giống ai. Trước một vấn đề
mỗi người thường có cách nhìn nhận khác nhau, thái độ cảm xúc khác nhau, quan điểm
hành xử khác nhau xuất phát từ vị trí quyền lợi của mình (chín người mười ý). Điều đó
dẫn tới bất đồng ý kiến, mâu thuẫn với nhau là điều tất yếu. Tuy nhiên mọi sự mâu thuẫn,
bất đồng quan điểm chỉ dẫn tới xung đột khi nào con người quan hệ hợp tác với nhau,
sống chung với nhau, dẫn tới va chạm về quyền lợi của nhau. Chẳng hạn, cùng sống
trong một nhà tập thể, người thích ăn mặn, người thích ăn nhạt, họ sẽ không xung đột với
nhau về vấn đề này nếu mỗi người nấu riêng một nồi. Ngược lại nếu họ ăn chung với
nhau, một người sẽ hài lòng vì phù hợp với mình, ngược lại người kia sẽ bực mình vì
không thể ăn được thức ăn quá mặn, trong trường hợp đó ắt xảy ra sự xung đột. Do
vậy trong cuộc sống gia đình, nếu mỗi người nhận ra được tính tất yếu của vấn đề này, có
cách ứng xử khéo léo đảm bảo sự tôn trọng quyền lợi của người khác sẽ tránh được nhiều
xung đột không đáng có và nếu xung đột xảy ra cũng dễ dàng giải quyết thành công.
Các loại xung đột trong gia đình
Xung đột trong gia đình rất đa dạng phong phú, có thể phân thành nhiều loại khác
nhau, tùy thuộc vào cách tiếp cận.
+ Dựa vào qui mô, có xung đột nhỏ và xung đột lớn.
- Xung đột nhỏ là những xung đột biểu hiện những mâu thuẫn lặt vặt thường xảy
ra trong cuộc sống thường ngày của gia đình, do thói quen, hoặc do ứng xử không khéo
léo của các thành viên gây ra. Chẳng hạn vợ cẩn thận, còn chồng sống luộm thuộm. Hoặc
anh em tỵ nạnh với nhau vì quyền lợi và nghĩa vụ không công bằng. Những xung đột này
không quan tâm giải quyết kịp thời, cứ để tích tụ lại sẽ thành xung đột lớn.
- Xung đột lớn là sự thể hiện những mâu thuẫn lớn khá gay gắt đi đến cãi nhau,
đánh nhau. Chẳng hạn, vợ sống chung thủy nhưng chồng ngoại tình. Hoặc cha mẹ xúc
phạm con cái bằng sự mắng nhiếc, thậm chí đánh đập. Con phản ứng lại gay gắt, thậm chí
bỏ nhà ra đi. Những xung đột này thường để lại hậu quả nặng nề, nếu không khắc phục
khéo léo dễ dẫn tới sự ly tán gia đình.
+ Căn cứ vào tính chất quan trọng, có xung đột thứ yếu và xung đột chủ yếu.
- Xung đột thứ yếu thông thường là sự biểu hiện của mâu thuẫn thứ yếu, do sự
khác nhau về nhu cầu, thị hiếu nho nhỏ, mỗi người chỉ cần có sự thông cảm nhân nhượng
lẫn nhau là giải quyết xong. Thí dụ, người thích ăn cay nhiều, người ăn cay ít. Cả hai
thương lượng với nhau, hãy cho ít cay, còn ai thích cay nhiều hãy múc riêng để cho thêm
ớt theo sở thích của mình.
- Xung đột chủ yếu là xung đột do những mâu thuẫn lớn liên quan đến quyền lợi
và những vấn đề hệ trọng. Muốn giải quyết xung đột này, hai bên phải bàn bạc, rồi đi
đến thống nhất, nhường nhịn lẫn nhau, một trong hai người phải hy sinh quyền lợi của
mình vì người khác, trên cơ sở tình yêu thương và ý thức trách nhiệm đối với con cái và
gia đình. Đây cũng là vấn đề nan giải trong gia đình, không giải quyết khéo léo sẽ dẫn tới
xung đột ở mức độ cao hơn, gọi là xung đột đối kháng. Xung đột này không thể giải
quyết bằng sự ôn hòa để chung sống với nhau, thường là phải đưa ra tòa để phân xử. Kết

81
quả gia đình tan vỡ, ly tán. Thí dụ, Một trong hai người ngoại tình, không thể thương
lượng với nhau, dẫn tới ly hôn, phải đưa ra tòa để giải quyết.
+ Dựa vào mối quan hệ giữa các thành viên, xung đột gia đình bao gồm các loại
sau:
- Xung đột thế hệ, đó là xung đột giữa các thành viên không cùng thế hệ như cha
mẹ với con cáigiai , ông bà, cô chú với các cháu. Loại xung đột này thường xuất hiện ở
những gia đình mở rộng, gia đình nhiều thế hệ. Nguyên nhân chủ yếu là do những thay
đổi của tuổi tác, của đời sống xã hội dẫn đến sự khác nhau về quan điểm, cách sống, tính
cách. Ở nước ta, sự thay đổi của các yếu tố xã hội từ thời kỳ chiến tranh, thời kỳ kinh tế
bao cấp sang kinh tế thị trường đã làm cho các thế hệ càng khác xa nhau về quan điểm
đạo đức, lối sống, thẩm mỹ, tính năng động, cách làm ăn, sinh hoạt v v. Xung đột giữa
các thế hệ càng phức tạp.
- Xung đột giữa anh em trong gia đình liên quan đến quyền lợi, trách nhiệm, sự
quan tâm của cha mẹ.
- Xung đột giữa vợ và chồng. Là loại xung đột đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đến sự tồn tại hay tan vỡ của gia đình. Nguyên nhân của loại xung đột này rất
phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố như kinh tế, quan điểm, cách sống của vợ chồng trái
ngược nhau, sự chung thủy, quan hệ thiếu bình đẳng...
2/ Các mức độ và biểu hiện của xung đột
Bất kỳ loại xung đột nào trong gia đình đều xuất hiện và phát triển ở nhiều mức độ
khác nhau, tùy thuộc vào cách ứng xử của các thành viên.
+ Mức độ thứ nhất là xung đột xuất hiện. Khi nhận thức của mọi người trái ngược
nhau, thái độ khác nhau trước một hành vi của một thành viên, hay một sự kiện, một vấn
đề của gia đình trong các lĩnh vực kinh tế, sinh hoạt, truyền thống gia phong, giáo dục
con cái v v. Chẳng hạn, chồng muốn có quan hệ bạn bè rộng rãi, thích nhậu nhẹt. Trong
khi đó vợ sống khép mình, chi tiêu rất dè xẻn. Hoặc ông bà thích những bài hát dân ca
truyền thống, cháu cho đó là lạc hậu và thích nghe nhạc híp hốp...Trước những bất đồng
về quan điểm, cách sống này thường xuất hiện sự tranh cãi và ở mỗi người đã xuất hiện
những xúc cảm khó chịu về nhau.
Nếu mọi người tự nhìn lại bản thân mình và người khác, tự điều chỉnh hành vi của
mình, thuyết phục người khác nhượng bộ hoặc bản thân mình phải nhượng bộ, mâu thuẫn
sẽ được giải tỏa. Nếu không xung đột sẽ dồn nén, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng ở mức
độ cao hơn.
+ Mức độ thứ hai: Xung đột đến cao độ, con người nổi nóng, bực tức vì mâu thuẫn
không được giải quyết. Lúc này cơn tức giận xuất hiện ở mỗi người thể hiện ở sự khó
chịu thông qua những hành vi cau mày, nhún vai, bĩu môi, trợn mắt cùng với những lời
nói gay gắt, từ ngữ tục tằn thô lỗ. Quan hệ giữa hai người là những cuộc đấu khẩu cãi vã
nhau. Cuộc cãi vã này kéo dài cho tới khi một trong hai người đủ tỉnh táo để kiềm chế lại
không nói, đi chỗ khác, làm việc khác hoặc có sự can ngăn của người thứ ba. Kết thúc
giai đoạn này là mỗi thành viên trút được dồn nén, quan hệ giữa các bên mâu thuẫn đi
đến sứt mẻ, căng thẳng hơn. Cảm xúc tiêu cực xuất hiện như xót xa, buồn chán, hối hận,
nuối tiếc....Những người thiếu ý chí thường tìm cách giải tỏa bằng hành động hút thuốc,
uống rượu, trút giận lên người khác. Đến đây mỗi thành viên nhận ra lỗi lầm của mình,

82
khoan dung độ lượng, sẵn sàng xin lỗi và tha lỗi cho người khác, xung đột sẽ được chấm
dứt. Nếu không mâu thuẫn sẽ tiếp tục phát triển.
+ Mức độ thứ ba là xung đột gay gắt thể hiện ở hành động. Khi xung đột không
được giải quyết, mỗi bên vẫn không tự nhìn nhận lại mình, giữ nguyên thái độ hằn học
với đối phương, mâu thuẫn vẫn âm ỉ, bị dồn nén. Khi có cơ hội, xung đột bùng phát thể
hiện qua những hành động “Nổi khùng”, thiếu làm chủ của bản thân.
Tùy thuộc vào đặc điểm khí chất, tính cách hành động nổi khùng ở mỗi người thể
hiện qua những hình thức khác nhau. Có thể là đập phá đồ đạc, đánh đập người khác, xỉa
xói, chửi rủa (bạo lực trong gia đình). Người tức giận có bộ mặt giữ tợn, gân guốc, vung
tay, đấm đá... Đó là con người bản năng, cái vô thức ngự trị hành động, con người không
phân biệt được phải trái, đúng sai, tốt xấu, lợi hại, không nghĩ đến hậu quả của cơn nóng
giận (con người điên tức thì). Hậu quả là làm tổn hại đến cơ thể người khác và tài sản của
gia đình. Trong trường hợp này, đối phương cần sáng suốt như bớt lời, dịu giọng, hòa
nhã, lánh đi nơi khác để người nóng giận được hả hê, năng lượng của cơn nóng giận được
giải tỏa, nguội dần qua đi (Nếu không chịu thiệt, không rút lui có thể dẫn tới cuộc hỗn
chiến giữa hai người). Ý thức, tư duy thức tỉnh lúc đó con người nóng nảy mới lấy lại
được bình tĩnh, thăng bằng, chuyển sang sự hồi tâm, đủ bình tĩnh để nhìn lại mình. Con
người nóng giận ấy biết tỏ ra hối hận, thương cảm, tự nhủ trong lòng mình lần sau không
hành động như thế nữa. Một số ít người thể hiện sự hối hận của mình bằng việc làm dũng
cảm là xin lỗi và khắc phục hậu quả do mình gây ra, thái độ hòa nhã để làm lành hoặc
chăm làm hơn để chuộc tội. Khi ấy đối phương phải sẵng sàng tha thứ, nếu dùng những
lời khích bác, thô bạo thể hiện sự coi thường họ, mâu thuẫn mới lại xuất hiện, cơn tức
giận mới lại bùng phát.
Ở giai đoạn xung đột gay gắt, cũng có người hành động theo hướng trầm cảm,
dày vò bản thân, xuất hiện những cơn uất ức. Cơn uất ức thường có ở những người ở vị
thế thấp hơn, bị lãnh đạo. Đó là cơn tức giận bị kiềm chế lặn vào trong do sự áp chế của
uy quyền và cường quyền. Ở đây con người bị chèn ép, dồn nén, nhu cầu không được
thỏa mãn. Ở trạng thái uất ức, con người cũng “nổi khùng”, bật ra một loạt hành vi mang
tính bản năng, tư duy, ý thức không còn điều khiển nổi. Họ có hành động phản đối không
ra mặt hoặc đập phá ngấm ngầm, đi đâu đá đấy, đánh mèo, đá chó, hoặc không nói,
không cãi nhưng sai một đằng làm một nẻo. Có những người sinh ra chai lỳ, mặt lạnh
như tiền, phẫn uất, buồn rầu chán nản. Sự phẫn uất có thể được giải thoát bởi lời khuyên
giải của bạn bè, sự thông cảm của người đã làm họ uất ức hoặc do sự thay đổi của môi
trường sống, sự tác động của các bác sỹ tâm lý.
Như vậy, xung đột gia đình diễn ra ở nhiều mức độ, nó nhanh chóng được giải tỏa
ở mức độ nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhận thức, thái độ và cách ứng xử của mỗi bên
xung đột và của tất cả các thành viên trong gia đình. Trong thực tế, ở hầu hết các gia đình
đều có xung đột xuất hiện ở giai đoạn thứ nhất, vì đó là qui luật của cuộc sống. Khi con
người sống chung với nhau, quyền lợi trách nhiệm liên quan tới nhau, quan điểm chính
kiến và tính cách khác nhau ắt dẫn đến sự mâu thuẫn với nhau. Nếu mọi người đều sáng
suốt, vị tha, biết cách ứng xử khéo, xung đột mới xuất hiện sẽ qua đi nhanh chóng, lấy lại
được sự cân bằng, bình yên trong cuộc sống gia đình. Nếu để cho những xung đột xuất

83
hiện thường xuyên và không được giải quyết kịp thời, triệt để dễ có nguy cơ tan vỡ gia
đình.
3/ Ảnh hưởng của xung đột gia đình đến các thành viên
+ Tạo ra không khí gia đình căng thẳng, trạng thái cảm xúc tiêu cực bao trùm lên
mọi thành viên trong gia đình, ai cũng chán nản buồn rầu, bực bội, thất vọng, mất niềm
tin vào cuộc sống gia đình, cảm thấy bế tắc trong việc giải quyết mâu thuẫn. Tâm trạng
này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, công việc, học tập, sinh hoạt gia đình không ổn
định. Con người ít ăn, ít ngủ, làm việc uể oải, bỏ bê công việc. Có người tìm chỗ khác để
giải khuây như cờ bạc, rượu chè, quan hệ bất chính với người khác.
+ Trẻ em trong gia đình sợ hãi, mất cảm giác an toàn, không được quan tâm chăm
sóc đầy đủ, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập. Trẻ có xu hướng thoát ly gia đình,
tìm đến những quan hệ khác trong xã hội, đặc biệt là quan hệ bạn bè, dễ bị lôi kéo vào
những hiện tượng tiêu cực, nhân cách phát triển theo hướng xấu.
4/ Nguyên nhân và hướng giải quyết xung đột trong gia đình
4.1.Nguyên nhân dẫn tới xung đột gia đình
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới xung đột gia đình. Trong đó có những nguyên
nhân chủ yếu thuộc về đặc điểm tâm lý của mỗi thành viên, thể hiện qua cung cách ứng
xử của mỗi người trong quan hệ với nhau, dẫn đến mâu thuẫn với nhau.
4.1.1 Do mâu thuẫn về tâm lý
Đây là nguyên nhân rất cơ bản. Như nội dung của phần trên đã đề cập, bản chất
tâm lý con người vốn mang tính chủ thể, mỗi người có những quan điểm nhận thức và
thái độ riêng không ai giống ai, khi sống chung với nhau dễ tạo ra sự không hòa hợp. Gia
đình là một nhóm nhỏ bao gồm các thành viên không cùng thế hệ. Đặc biệt trong quan hệ
vợ chồng, trước khi kết hôn với nhau, mỗi người sống ở mỗi gia đình khác nhau. Nhân
cách mỗi người chịu ảnh hưởng bởi hai “tiểu nền văn hóa “ khác nhau. Những lý do ấy
khiến cho sự khác biệt về mặt tâm lý của các thành viên trong gia đình là tấ yếu. Nếu mọi
người không tự nhìn nhận chính mình, không quan tâm đến người khác để thỏa hiệp,
nhún nhường, chịu đựng một cách có ý thức sẽ dẫn tới xung đột.
4.1.2. Do mâu thuẫn về quyền lợi
Bản chất con người ai cũng ích kỷ, hám lợi, lợi nhiều thì làm nhiều lợi, lợi ít làm
ít, không có lợi thì không làm. Để có lợi cho mình nhiều hơn, con người ta phải đấu tranh
với nhau. Trong quá trình đấu tranh ấy, điều trước tiên là mọi người cần một sự công
bằng. Gia đình là một nhóm nhỏ của xã hội, các thành viên cũng không nằm ngoài qui
luật này. Nếu gia đình không điều hòa được quyền lợi giữa các thành viên một cách công
bằng, hợp lý gia đình dễ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn, chồng lam lũ kiếm tiền
nuôi gia đình, vợ không có công ăn việc làm nhưng lại tiêu pha hoang phí vào những việc
làm đẹp cho bản thân, không lo chu đáo cho việc học hành của con cái. Hoặc cha mẹ sắm
sửa, phân chia tài sản cho các con một cách thiên vị, con được yêu quí nhiều quyền lợi
nhiều, con ít được yêu quí, trách nhiệm công việc nhiều hơn nhưng quyền lợi lại ít hơn.
Những lý do đó đều dẫn đến xung đột lớn trong gia đình. Trong thực tế nhiều gia đình
sống nghèo khó về vật chất nhưng đầm ấm về tình cảm, vì mọi người biết nhường nhịn
hy sinh cho nhau, không có sự tranh giành quyền lợi. Ngược lại có gia đình giàu có
nhưng không hạnh phúc, anh em cãi nhau, thậm chí đánh nhau chỉ vì sự thiệt hơn trong

84
việc phân chia tài sản do cha mẹ để lại. Vì vậy để gia đình trở nên đầm ấm hạnh phúc,
người cha người mẹ hay người đứng đầu trong gia đình phải thật sự công bằng trong việc
phân chia quyền lợi trách nhiệm cho con cái và mọi thành viên trong gia đình.
4.1.3. Con người thường mắc sai lầm là đánh giá không khách quan về mình và
người khác.
Theo nghiên cứu của các tác giả người Mỹ (Ross & Sicoly, Brown 1990, Conway
& Ross 1984) : Thông thường con người ta có xu hướng nhận định hành vi, việc làm, kết
quả theo cách thiên vị của chính họ. Con người thường tranh công về mình, phủ nhận
trách nhiệm khi sai lầm. Nếu họ làm tốt họ thường nói về khó khăn trong công việc và
khả năng của mình. Nếu không tốt, họ sẽ chỉ ra các yếu tốt của ngoại cảnh làm cản trở
khả năng của họ. Trong xung đột, con người thường chú ý đến hành vi tiêu cực của đối
phương, đỗ lỗi cho họ và nhận các yếu tố tích cực về phần mình. Cách nhận thức và đánh
giá như vậy thường làm cho xung đột ngày càng tăng thêm.
4.1.4.Những nguyên nhân khác
Ngoài những nguyên nhân cơ bản nêu trên, mỗi loại xung đột gia đình còn do
nhiều nguyên nhân đặc trưng khác trong từng kiểu quan hệ gây nên.
* Xung đột vợ chồng
Sự không hòa hợp với nhau về tâm hồn là nguyên nhân chính gây nên xung đột vợ
chồng. Bên cạnh đó sự khác nhau về nhu cầu tình dục, sự phức tạp của cuộc sống vợ
chồng cũng là những yếu tố làm nảy sinh xung đột vợ chồng.
+ Xung đột do không hòa hợp về nhu cầu tình dục
Nhu cầu tình dục và việc thỏa mãn nhu cầu tình dục là vấn đề quan trọng, đặc
trưng của quan hệ vợ chồng. Ở nước ta trong thời kỳ phong kiến vấn đề này dường như là
cấm kỵ, người ta không dám hoặc là ngại nói tới. Khi xây dựng gia đình mọi người phải
từ mò mẫm học hỏi. Ngày nay khoa học, văn hóa xã hội phát triển, người ta có cách nhìn
cởi mở hơn, nhưng nhìn chung mọi người vẫn ngại ngùng khi nói tới vấn đề tình dục. Có
những cặp vợ chồng ly hôn về vấn đề này, nhưng đưa ra lý do trước tòa cũng chỉ bằng
một câu đơn giản là “không hợp nhau”.
Nhu cầu tình dục cũng như các nhu cầu cơ thể khác của con người, có tính bản
năng và mức độ ở mỗi người là khác nhau, ở nam giới thường cao hơn nhiều so với nữ
giới. Sự thỏa mãn nhu cầu này ở con người khác xa so với con vật thể hiện ở tính văn hóa
và được điều khiển bởi ý thức. Quan hệ tình dục không chỉ là sự giao lưu về thể xác mà
còn là sự giao lưu về tâm hồn, tình cảm. Các nhà khoa học còn chỉ ra rằng, diễn biến của
sự khoái cảm trong quan hệ giữa nam và nữ là khác nhau. Ở nam diễn ra rất nhanh, trong
khi ở nữ châm và kéo dài. Nếu vợ chồng không biết được qui luật này, trong quan hệ dễ
tạo ra sự lệch pha, từ đó nảy sinh sự bực dọc, khó chịu dẫn tới mâu thuẫn. Tình trạng này
kéo dài, người không được thỏa mãn sẽ tìm đến nguồn cảm hứng khác. Đó là một trong
những nguyên nhân dẫn tới ngoại tình. Để tránh hiện tượng này cả vợ và chồng phải có
sự hiểu biết khoa học về vấn đề tình dục, phải hiểu nhau, thẳng thắn nói với nhau về
những trục trặc trong quan hệ và phải có trách nhiệm tạo điều kiện thỏa mãn cho nhau
một cách văn hóa.
+ Xung đột do ngoại tình.

85
Do sự không hòa hợp về nhu cầu tình dục và sự nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
trong cuộc sống vợ chồng. Người chồng hoặc người vợ không còn hấp dẫn như xưa, cuộc
sống vợ chồng trở nên nhàm chán. Con người lại hay tò mò thích của lạ, thích cái mới, đó
là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng ngoại tình. Người đàn ông thường có thói quen ngoại
tình nhiều hơn đàn bà. Cho dù ai ngoại tình, đều là vi phạm đạo đức, pháp luật, làm tổn
thương đến đời sống tình cảm của gia đình, cần phải lên án. Ngoại tình dưới hình thức
nào đều dẫn tới sự xung đột bất hạnh cho gia đình. Trước tiên là những cơn ghen, những
cuộc chỉ chích cãi vã, dẫn tới gia đình lục đục, không giải quyết được ổn thỏa còn làm
cho gia đình tan vỡ.
+ Xung đột do con cái.
- Trước tiên là đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng phải thay đổi thói quen sinh
hoạt, công việc nhiều hơn, bận rộn hơn. Thiên chức làm mẹ của người phụ nữ khiến
người vợ dành hết thời gian cho con cái, ít quan tâm đến chồng, cộng thêm với những
khó khăn mới phát sinh, dễ làm cho người chồng bực bội, thậm chí thấy cô đơn. Có
trường hợp chồng đi ngoại tình ngay khi đứa con đầu lòng ra đời. Do vậy người vợ phải
hiểu cho tâm trạng của người chồng trong hoàn cảnh này, khéo léo kéo chồng cùng quan
tâm chăm sóc con cái và quan tâm đến chồng về mặt tình cảm, không tạo cho họ sự hẫng
hụt.
- Trong thời đại ngày nay, một số thanh niên nam nữ kết hôn nhưng vợ hoặc
chống lại muốn hưởng thụ cá nhân, không thích sinh con hoặc sinh con ra muốn thuê
người nuôi dưỡng trẻ, người phụ nữ sợ xấu và sợ khổ không thích thực hiện chức năng
làm mẹ. Điều đó cũng dẫn tới xung đột gia đình.
- Có gia đình sinh nhiều con, sự vất vả của vợ chồng được nhân lên, cuộc sống
thiếu thốn, khó khăn đủ điều cũng là nguyên nhân làm nảy sinh những xung đột xung
quanh con cái, thiếu thốn tiền bạc do đông con gây ra.
- Do thiếu kiến thức và sự thống nhất trong cách nuôi dạy con, nhiều gia đình rơi
vào hiện tượng “Chống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong khi tác động đến con cái. Hoặc
một trong hai người không quan tâm đến con. Kết quả con cái học hành sút kém hoặc hư
hỏng vợ chồng lại đổ lỗi cho nhau, không khí gia đình càng trở nên ngột ngạt căng thẳng.
+ Xung đột gia đình do chi tiêu quản lý kinh tế không có kế hoạch.
Bên cạnh tình cảm, tiền bạc cũng vô cùng quan trọng quyết định hôn nhân, hạnh
phúc gia đình, vì tiền giúp cho việc thỏa mãn mọi nhu cầu của cuộc sống gia đình. Gia
đình quá nghèo đói cũng là nguyên nhân của sự xung đột, nhiều gia đình lục đục vì thiếu
tiền. Nhưng nhiều gia đình lắm tiền cũng vẫn xung đột vì sự quản lý, chi tiêu tiền bạc
trong gia đình không có kế hoạch, người keo kiệt, người hoang phí hoang phí, vợ chồng
không tin tưởng lẫn nhau. Kinh nghiệm của các gia đình hạnh phúc cho thấy : mọi thành
viên trong gia đình đều lao động, chi tiêu có kế hoạch, bàn bạc công khai tin tưởng lẫn
nhau. Người chồng ít keo kiệt, người vợ căn cơ trong quản lý thì gia đình êm ấm.
* Xung đột giữa các anh chị em trong gia đình
+ Thời kỳ nhỏ tuổi sự xung đột giữa anh em trong gia đình xung quanh sự tị nạnh
miếng quà, tấm bánh hoặc những công việc vặt trong gia đình hoặc vì tình yêu thương
của cha mẹ. Những xung đột này xảy ra thường xuyên nhưng theo kiểu trẻ con, không

86
sâu sắc, tan nhanh. Càng lớn, ý thức phát triển trẻ càng ít cãi nhau, còn bảo ban lo lắng
cho nhau trong học cuộc sống.
+ Khi lập gia đình, mâu thuẫn giữa anh chị em trong gia đình thường liên quan đến
việc phân chia tài sản do cha mẹ để lại, trách nhiệm của mỗi người với việc chăm sóc cha
mẹ già hoặc xích mích với nhau do cách ứng xử của các cô con dâu trong vấn đề ứng xử
với cha mẹ, anh em họ hàng.
Thực tế cho thấy mối quan hệ của anh em trong gia đình như thế nào phụ thuộc
vào cách giáo dục, thái độ của cha mẹ đối với con cái ngay từ nhỏ. Cha mẹ công bằng
trong ứng xử, thương yêu con cái hết mực, giáo dục trẻ có ý thức trách nhiệm với mọi
thành viên trong gia đình, quan hệ anh em sẽ tốt đẹp.
* Xung đột giữa cha mẹ và con cái
+ Xung đột giữa cha mẹ và con cái xảy ra khi tự ý thức của trẻ xuất hiện, ba tuổi
trẻ đã làm cho cha mẹ bực mình giận giữ vì sự bướng bỉnh chống đối của nó. Càng lớn
mâu thuẫn càng phức tạp tuy nhiên ở tuổi nhi đồng, con cái còn ở thế bị cha mẹ áp đảo.
Sang tuổi thiếu niên, sự phát triển tâm lý của trẻ rất phức tạp, các em muốn được cha mẹ
đối xử bình đẳng trong khi nhân cách phát triển chưa tương xứng. Mặt khác nhiều người
cha, người mẹ lại thiếu sự hiểu biết về đặc điểm tâm lý ở tuổi này, coi các em như những
đứa trẻ, bắt ép ra lệnh, mắng mỏ đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới xung đột. Nhiều gia
đình đau đầu vì con cái, mâu thuẫn không giải quyết được trẻ học sút kém, theo bạn xấu,
thậm chí bỏ nhà ra đi. Để tránh được những xung đột gay gắt, cha mẹ phải hiểu con cái,
mặc dù phải nghiêm khắc trong giáo dục nhưng luôn tôn trọng và tạo điều kiện cho khả
năng của chúng phát triển.
+ Trong gia đình nhiều thế hệ thường xảy ra xung đột giữa cha mẹ chồng với nàng
dâu. Trong gia đình phong kiến ngày xưa, mâu thuẫn giữa nàng dâu với mẹ chồng rất
nặng nề, theo lễ giáo của đạo Nho con dâu thường phải chịu nhiều thiệt thòi, có trách
nhiệm phục vụ và chịu sự áp đặt của cha mẹ chồng. Ngày nay, mối quan hệ này có phần
bình đẳng hơn, tuy nhiên mâu thuẫn giữa cha mẹ chồng và nàng dâu còn khá gay gắt,
trong đó chủ yếu là mẹ chồng với nàng dâu. Do sự khác nhau về tuổi tác, quan hệ huyết
thống, mẹ chồng và nàng dâu có thể rất khác nhau về quan điểm, tính cách, thói quen
sinh hoạt. Ở vị thế người mẹ chăm sóc lo cho con từ tấm bé, người mẹ nào cũng muốn
cho con được sung sướng và cảm thấy mãn nguyện hạnh phúc khi con cái cũng biết quan
tâm thương yêu cha mẹ. Khi lớn lên con lập gia đình, tình cảm phải có sự san sẻ, phải
quan tâm đến vợ mình. Trong trường hợp đó người mẹ cảm thấy hẫng hụt, nếu con trai
đối xử với mẹ và vợ không không khéo, bà cảm thấy tủi thân cho rằng “Nó coi vợ hơn
mẹ”. Đồng thời hay để ý đến con dâu, nếu con dâu lo chu đáo cho chồng, bà cảm thấy an
tâm, ngược lại nếu con dâu không chu đáo trong quan hệ ứng xử và công việc gia đình,
để cho chồng làm nhiều việc, bà cảm thấy sót sa cho con mình. Từ đó hay chỉ chích, kể
lể, nói xấu nàng dâu, một số bà mẹ còn hay so sánh cuộc sống của con dâu bây giờ với
cảnh làm dâu ngày xưa để chê bai chì chiết, từ đó xảy ra xung đột lớn. Để tránh tình trạng
này, mỗi thành viên trong gia đình, nhất là những người mẹ người vợ phải có cái nhìn
rộng lượng, hiểu nhau và thông cảm cho nhau, khéo léo trong ứng xử, cuộc sống trong
gia đình sẽ hạnh phúc.

87
+ Trong gia đình mở rộng còn xảy ra xung đột giữa cha mẹ với con riêng của
chông (con riêng của vợ).
Do không có quan hệ huyết thống, cộng với bản chất ích kỷ của mỗi con người
luôn chỉ nghĩ về cái riêng cho mình và cho con của mình, cho nên mẹ ghẻ (bố dượng)
thường đối xử không công bằng với con riêng của chồng (của vợ). Con mình thì thương
yêu, quan tâm, đối với con riêng của chồng (của vợ) thì lạnh nhạt, hắt hủi. Trong khi đó
đứa trẻ vốn đã tổn thương về mặt tình cảm do mất mẹ, mất cha hoặc cha mẹ chia tay. Khi
cha mẹ lập gia đình mới, trẻ phải ở với người đến thay thế vị trí của cha hoặc mẹ nó.
Trong thâm tâm trẻ có sự liên tưởng đến cha hoặc mẹ mình, từ đó nảy sinh lòng nghen tỵ.
Ngoài ra lời rèm pha của những người không hài lòng với mẹ ghẻ hoặc cha dượng của
nó, làm cho đứa trẻ càng khó chịu về sự có mặt của họ trong gia đình. Đó chính là lý do
dễ gây nên xung đột trong mối quan hệ của cha mẹ với con riêng của chồng (hoặc vợ).
Xung đột trong mối quan hệ này sẽ không xuất hiện nếu như cha mẹ hiểu được sự
thiệt thòi và tâm lý của con riêng của chồng (của vợ), đối xử công bằng, có trách nhiệm
và thương yêu chúng như chính con để của mình.
Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân khác nhau làm xuất hiện xung đột gia đình, để
giữ gìn hạnh phúc mỗi thành viên phải thấy rõ được vai trò trách nhiệm của mình trong
các mối quan hệ gia đình, khéo léo ứng xử để phòng tránh không để xung đột lớn xảy ra.
4. 2. Hướng giải quyết xung đột
Cuộc sống vô cùng phức tạp, dù mọi người ý thức và cố gắng giữ gìn, đôi khi
xung đột giữa các thành viên vẫn cứ xảy ra. Không có gia đình nào cuộc sống lại phẳng
lặng như gương không hề gợn sóng, ngay cả những gia đình sống rất hạnh phúc cũng vẫn
có xung đột, chỉ khác là xung đột xuất hiện rất ít, qui mô nhỏ và không phải là những
xung đột trầm trọng có tính đối kháng. Điều quan trọng là cách ứng xử của mỗi người
phải khéo để cho những xung đột nhanh chóng qua đi. Khi xung đột xảy ra cần lưu ý :
- Bình tĩnh, kiềm chế cảm xúc của mình vì “giận mất khôn”, lựa chọn những lời
nói, hành động hợp lý để người đang nóng giận nguôi ngoai dần. Những điều cần phải
nói và muốn nói hãy để khi nào cả hai đã hết giận và sáng suốt.
- Không nói quá nhiều, phải tôn trọng người thân của mình không dùng những lời
thô lỗ, cay độc để xỉ vả, xúc phạm. Giữ thể diện cho người thân của mình.
- Tự kiểm điểm lại mình, nếu sai trái tỏ ra biết lỗi và sẵn sàng sửa lỗi “Tiên trách
kỷ hậu trách nhân”.
- Nhún nhường, nhịn nhục, vì hạnh phúc gia đình “Một câu nhịn là chín câu lành”.
Nhất là trong quan hệ vợ chồng, mỗi người là một nửa của nhau, không nên đặt ra mục
đích thắng thua cho mình trong việc giải quyết xung đột. Vì thắng hay thua trong xung
đột gia đình đều là thất bại, đều làm tổn hại đến hạnh phúc gia đình.
- Khi xung đột giải quyết xong phải quên đi nhanh chóng để lấy lại không khí vui
vẻ cho gia đình, không bao giờ nhắc lại những khuyết điểm hay lỗi lầm mà người thân
của mình đã nhận ra và có thái độ hối hận.
III. Bạo lực gia đình
1.Khái niệm bạo lực gia đình
Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về bạo lực gia đình.Tuy nhiên một định nghĩa
có tính pháp lý về BLGĐ lại chưa được ban hành.

88
BLGĐ thông thường được hiểu là sự ứng xử bằng vũ lực hoặc không bằng vũ lực
do những người trong gia đình thực hiện chống lại những người trong gia đình đó.
BLGĐ là ngược đãi bằng tình cảm, thể xác hay tình dục của thành viên gia đình
bằng một thành viên khác. ( Jhon. Macionis, 2004)
BLGĐ là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Luật phòng,
chống BLGĐ của Việt Nam, 2007)
Định nghĩa BLGĐ của Liên hợp quốc thông qua năm 1993 được các tổ chức cũng
như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó, BLGĐ là bất kỳ hành
động bạo lực nào dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất về thân thể, tâm lý hay tình
dục hay những đau khổ của những người trong gia đình, bao gồm cả sự đe dọa có những
hành động như vậy, việc cưỡng bức hay cướp đoạt sự tự do.
Qua một số định nghĩa về bạo lực gia đình, có thể hiểu hành vi bạo lực bao gồm:
+ Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng.
+ Lăng mạ, hoặc có hành vi cố ý khác cố ý xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
+ Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng.
+ Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con.
+ Cưỡng ép quan hệ tình dục.
+ Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên trong gia
đình.
+ Cưỡng ép thành viên của gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ, kiểm soát thu nhập của thành viên nhằm tạo ra tình trạng về tài chính.
+ Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
2.Các hình thức của bạo lực gia đình
Phân loại các loại hình BLGĐ là một vấn đề phức tạp, tuy nhiên lại là vấn đề hết
sức quan trọng bởi nó cho phép mô tả đa diện thực trạng vấn đề để tìm ra phương cách
hữu hiệu cho phép khắc phục thực trạng vấn đề. Dựa theo kết quả các nghiên cứu về
thực trạng bạo lực gia đình có thể nói đến các hình thức bạo lực cơ bản sau đây.
+ Theo phương thức ứng xử: Có sử dụng vũ lực hay không bằng vũ lực có thể
phân BLGĐ thành hai loại hình chính: bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần.
Bạo lực thể chất: là những hành vi bạo lực mà người gây ra bạo lực thường sử
dụng súc mạnh cơ bắp( tay, chân) hoặc công cụ ( thậm chí vũ khí) đối với nạn nhân.
Những hình thức phổ biến của bạo lực thể chất thường là : đánh, đập, tát, đấm đá, cưỡng
bức tình dục…Những hành vi bạo lực này ngoài việc gây đau đớn về thể xác và để lại
dấu vết trên thân thể nạn nhân còn gây đau đớn về tinh thần, tình cảm.
Trong bạo lực, có thể có các cấp độ sau:
Đối xử tồi tệ về thể chất: bất kỳ hành vi nào sử dụng sức mạnh thể lực đối với nạn
nhân cho dù có để lại thương tích hay không, bao gồm các hành động cấm đoán, kiểm
soát, xô đẩy thô bạo, đánh đập..Đối xử tồi tệ về thể chất còn bao gồm cả việc ngăn cấm
phụ nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn họ tiếp cận các nhu cầu

89
vật chất của mình: ăn, uống, nghỉ ngơi..
Bạo lực/ lạm dụng tình dục: là cưỡng bức, ép buộc một phụ nữ phải làm những
công việc lien quan đến tình dục trái với mong muốn của họ; bàn luận những bộ phận
trên cơ thể của nữ, đòi hỏi tình dục,cưỡng hiếp, giam cầm và sử dụng các công cụ tình
dục; xem phụ nữ như là một đối tượng của tình dục.
Bạo lực tinh thần/ tình cảm: là những hành vi nhằm hạ tâm lý và những lời sỉ
nhục, đe dọa, sự lãng quên/ bỏ rơi không quan tâm…Nhưng hành vi bạo lực này không
dễ phát hiện và pháp luật khó can thiệp.
Trong bạo lực tinh thần người ta có thể chia ra:
- Đe dọa, hăm dọa: bằng cách nhìn chằm chằm hoặc bằng các hành động, lời nói
với tính chất đe dọa hoặc có tính chất khiêu khích.
- Gán nhãn: là hành vi gán cho phụ nữ những từ ngữ thiếu tôn trọng như ngu ngốc,
điên dồ, vô dụng, không có giá trị…hoặc quy gán cho phụ nữ không có khả năng làm mẹ,
làm người nội trợ.
Bạo lực tinh thần không để lại dấu vết, thương tích trên người nạn nhân, cộng
đồng không nhìn thấy và pháp luật khó can thiệp vì thiếu chứng cứ, nhưng nó gây ra
những vết thương tâm lý, tình cảm khó lành và hậu quả không thể lường trước được.
+ Theo quan hệ của các đối tượng BLGĐ có thể phân chia thành một số hình thức
bạo lực sau: bạo lực giữa vợ chồng với nhau( bạo hành hôn nhân); bạo lực giữa các thành
viên lớn tuổi; bạo lực của người lớn đối với trẻ em; bạo lực ngược- người nhỏ tuổi với
người lướn tuổi.
Bạo lực giữa vợ chồng với nhau( bạo hành hôn nhân) là loại BLGĐ phổ biến,
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong loại hình BLGĐ này người ta phân biệt một
số hình thức chính: cưỡng bức thân thể, cưỡng bức tình dục; cưỡng bức tâm lý, tình cảm;
cưỡng bức về xã hội; cưỡng bức về tài chính.
Cưỡng bức thân thể: thượng cẳng chân, hạ cẳng tay nhằm gây thương tích cho nạn
nhân như đấm đạp,xô đẩy, tát, nắm tóc, kéo lê, vặn cổ tay, làm gãy xương, đâm bằng dao;
hạn chế các nhu cầu thiết yếu ( ăn, uống, ngủ) bằng cách giấu dược phẩm, thực phẩm,
nước uống; pha rối không cho ngủ hoặc ép dung rượu, cần sa, ma túy; bỏ rơi nơi đường
vắng vẻ nguy hiểm.
Cưỡng bức tình dục: ép bạn đời làm tình và xem hình ảnh khiêu dâm; ép “chăn
gối” sau khi đánh đập; cố tình dày vò bộ phận sinh dục, không cho dung thuốc ngừa thai,
làm tình hậu môn ; cưỡng hiếp khi bạn đời ngủ, đau ốm; coi người phối ngẫu như một
thứ đồ chơi, chê bai cách làm tình…
Cưỡng bức tâm lý, tình cảm: Bắt bạn đời sống trong bầu không khí sợ hãi; khủng
bố nạn nhân đến hoảng loạn tâm thần như nhục mạ trước công chúng; dùng lời lẽ chỉ
trích quá đán( so sánh với vợ, chồng người khác bằng những lời lẽ mạt sát, gọi người
phối ngẫu là “ vợ, chồng tồi”, “mẹ cha tồi”…); dùng lời đường mật hứa hẹn cho hy vọng
rồi nút lời; liên tục truy hỏi, nói nặng lời dể hạ nhân phẩm; làm mất tự trọng, kể lại một
cách giễu cợt những vụ tình ái riêng tư.
Cưỡng bức về xã hội: cắt đứt mối quan hệ giữa vợ ( chồng) và người thân trong
gia đình, với bạn bè thân hữu, đe dọa họ; cô lập bạn đời bằng nhốt trong nhà , cắt điện
thoại, không cho đi đâu và giao tiếp với bất kỳ ai.

90
Cưỡng bức tài chính: bao vây kinh tế; kiểm soát tiền bạc; bắt bạn đời lệ thuộc về
tiền nong, không cho giữ tiền và đi làm, bắt phải hỏi xin tiền và chứng minh mọi mua
sắm chi tiêu lớn nhỏ.
Bạo lực giữa các thành viên lớn tuổi trong gia đình là bạo lực giữa các anh chị
em, mẹ chồng nàng dâu, em chồng chị dâu…
Bạo lực của người lớn đối với trẻ em là loại bạo lực của cha mẹ đối với con cái;
ông bà với cháu; anh chị đối với em.
Bạo lực ngược- người nhỏ tuổi với người lớn tuổi hơn: con cái bạo lực cha mẹ,
cháu ngược đãi ông bà, em hành hạ anh chị…
+ Phân loại theo giới là cách tiếp cận thường gặp trong các nghiên cứu về BLGĐ.
Theo cách này người ta nói đến bạo hành phụ nữ trong gia đình, và ít thường xuyên hơn,
nạn bạo hành ngược- phụ nữ bạo hành nam giới.Trong mỗi tiểu loại này lại có thể thấy sự
có mặt các loại hình BLGĐ đã nói ở trên.
3.Nguyên nhân của bạo lực gia đình
3.1 Nhóm nguyên nhân về tâm lý và nhận thức
Bao gồm các nguyên nhân: quan niệm trọng nam khinh nữ, tư tưởng gia trưởng;
bất bình đẳng giới; tâm lý che dấu, cam chịu; học vấn thấp, nhận thức kém, không biết
quyền, thiếu hiểu biết pháp luật, không biết cách ứng xử phù hợp.
Liên quan đến nhóm nguyên nhân này có thể thấy rõ trên thực tế vấn đề bạo lực
gia đình đã xảy ra từ rất nhiều năm nay, bởi đất nước ta là đất nước khá phong kiến, cảnh
chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ vẫn còn đè nặng. Hiện nay trong mọi tầng lớp
nhân nhân không kể người giàu, người nghèo, không kể là người tri thức hay người bình
dân đều xảy ra bạo lực gia đình.Theo ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, nguyên
nhân sâu xã của bạo lực gia đình do tư tưởng bất bình đẳng giới, cụ thể là “ trọng nam,
khinh nữ”, lối xử sự gia trưởng tồn tại giai dẳng. Từ xua đến nay, trong gia đình, quyền
uy của người đàn ông luôn cao hơn người phụ nữ. Dựa vào quyền ấy, nhiều ông chồng tự
cho mình cái quyền được đánh vợ, coi đánh vợ như là “ một sự giáo dục” và “ thể hiện
quyền lực” của bề trên đối với kẻ dưới. Trong nhiều trường hợp ở các gia đình mọi việc
đổ hết cho người phụ nữ, người chồng có quyền phán quyết, hành hạ, đánh đập vợ, con..
Cũng trong nhóm nguyên nhân này phải kể đến tâm lý của chị em phụ nữ vì
thương chồng nên cũng muốn giấu diếm, đôi khi bị chồng đánh gãy răng, sưng mặt, sưng
mặt thì vẫn nói tôi bị té chứ không dám nói tôi bị chồng đánh. Quan niệm phụ nữ là phải
cam chịu, với những dằng buộc về gia đình, con cái, nhiều người sẵn sang bỏ mặc dù bị
hành hạ rất rã man. Sự cam chịu của họ cũng tiếp tay cho sự tái phạm của chồng. Nhiều
chị em là nạn nhân của BHGĐ đã không được đã không được ủng hộ, giúp đỡ của người
thân và những người xung quanh cũng chính từ quan niệm cam chịu này.
Cách suy nghĩ thiếu tự tin, cam chịu khiến người phụ nữ càng khó thoát ra khỏi
những trói buộc trong một gia đình không còn tình yêu và sự bình đẳng.Nhiều người
trong số họ nghĩ rằng, bị đánh đập là bình thường, là lỗi tại mình và không bao giờ cho
người khác biết. Đôi khi bị chồng miệt thị, chê bai quá nhiều, họ lại nghĩ mình là một kẻ
rất tệ hại, không đáng coi trọng.
Đằng sau những tệ nạn BHGĐ còn có những lý do sâu xa khác. Đó là trình độ văn
hóa thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật, về quyền của mình mà bản thân những

91
người trong cuộc cũng chưa nhận thức được. Có địa phương mỗi năm có hang trăm người
tự tử vì BLGĐ nhưng chưa có ai lên tiếng về vấn đề này. Trong số những người bị
BHGĐ rất nhiều người thậm chí không biết mình là nạn nhân của một dạng tội phạm đặc
biệt. Nhiều người trong số họ chỉ mong được giải thoát khỏi người chồng/ cha/ anh bạo
hành của mình, không cần biết người gây ra những đau đớn cho mình bị xử lý như thế
nào.
Một nguyên nhân khác thuộc nhóm này là sự thiếu kỹ năng ứng xử. Điều quan
trọng nhất để thoát khỏi bạo hành gia đình là nạn nhân phải biết tự bảo vệ mình. Họ cũng
phải ý thức được mình đang sống trong nạn bạo hành thì mới có thể lên tiếng, tìm sự trợ
giúp và đấu tranh chống lại nó. Trước khi đợi một ai đó cứu giúp, phải biết tự giải thoát
cho mình. Kỹ năng ứng xử trong gia đình- giữa các cặp vợ chồng, giữa người lớn, giữa
người lướn và trẻ em …- là một phần quan trọng góp phần giữa gìn sự bền vững cho gia
đình.
3.2 Nhóm nguyên nhân xuất phát từ lối sống và hoàn cảnh sống
Có rất nhiều lý do để giải thích sự tồn tại và mức độ của BLGĐ.Một số trường hợp
do người chồng hoặc vợ ( con, cháu…) rơi vào tệ nạn xã hội, nghiện rượu, hút hít, đánh
đề…đánh đập vợ con …đòi tiền để thỏa mãn cơn nghiện. Một số trường hợp khác là do
căng tha thẳng, thần kinh không ổn định, thất vọng trong cuộc sống. Nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến BLGĐ, theo rất nhiều nghiên cứu, chủ yếu là do say rượu và mượn rượu
(60-70%), khó khăn về kinh tế, do vợ hoặc chồng ngoại tình. Một số ông chồng đánh vợ
với những lý do rất vô lý như vợ không đẻ được con trai, vợ nói nhiều, thậm chí nói ít;
đánh vợ để trả thù vì ngày xưa “cưa” khó…Trong trường hợp người chồng/ cha đánh vợ/
con vô cớ hoặc không hợp lý thì được giải thích là do chồng/ cha say rượu, ham mê cờ
bạc, nghiện hút hay chỉ đơn giản là quá nóng tính. Khi say rượu, ham mê cờ bạc, nhiều
ông chồng/ cha mất tự chủ và thường giải quyết bất đồng với vợ con bằng những hành vi
bạo lực. Đó cũng là lý do của nhiều trường hợp chồng/ cha đánh vợ/ con một cách
nghiêm trọng đã từng xảy ra trong thực tế.
Những bất đồng về kinh tế, nuôi dạy con cái, tình dục…cũng là nguyên nhân dẫn
đến bạo lực. Tuy nhiên, các nghiên cứu lại cho thấy đây thường không phải là nguyên
nhân trực tiếp( hoặc không được thừa nhận ) và người chồng/ cha phải tìm những lý do
hợp lý khác như làm trái ý chồng/ cha để có thể đánh đập, mắng chửi vợ/ con.
Hoàn cảnh sống khó khăn cũng là một nguyên nhân dẫn đến gia tăng tình trạng
BLGĐ. Trong số các nạn nhân của BLGĐ rất ít người có đủ tiền, thời gian và thông tin
để gọi điện đến tận nơi nhờ tư vấn và giúp đỡ.
Tuy nhiên trên thực tế bạo hành vẫn diễn ra ở tất cả các nhóm gia đình, không
phân biệt trình độ, mức sống. Trước đây, người ta cứ cho rằng bạo hành gia đình đi liền
với trình độ nhận thức thấp, đời sống đói nghèo và lạc hậu. Nhưng thực tế, nhiều nạn
nhân là những người có trình độ cao và mức sống khá giả. Do đó, cần nhấn mạnh ở đây
nhóm nguyên nhân về lối sống của các gia đình và từng cá nhân trong gia đình.
3.3 Nhóm nguyên nhân từ môi trường quản lý xã hội
Việc phòng chống BLGĐ chưa được quan tâm đúng mức; chính quyền địa phương
chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo hành gia đình; thiều những quy định cụ thể về
luật pháp để giáo dục, xử lý có hiệu quả đối với người gây bạo lực để họ thay đổi hành vi

92
theo hướng tích cực.
Việc điều chỉnh các mối quan hệ có liên quan đến BHGĐ được quy định tại nhiều
văn bản pháp luật như hiến pháp năm 1992, luật hôn nhân và gia đình , luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố
tụng hình sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh về người cao tuổi. Tuy
nhiên các điều luật còn chung chung, thiếu những quy định cụ thể như: chưa có định
nghĩa pháp lý về bạo lực gia đình; chưa xác định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước về phòng, chống bạo lực gia đình; chưa có quy định pháp lý về biện pháp nghăn
ngừa BLGĐ; biện pháp hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân BLGĐ. Thiếu các quy định pháp lý mang
tính đặc thù để giáo dục, xử lý có hiệu quả đối với người gây bạo lực để họ thay đổi theo
hướng tích cực.
Ở nhiều nơi, chính quyền địa phương chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo
hành gia đình. Họ nghĩ rằng đó là chuyện riêng của mỗi gia đình, không thuộc chức năng,
nhiệm vụ giải quyết của chính quyền. Ngay chính bản thân người phụ nữ là nạn nhân
cũng không lên tiếng đấu tranh và sẵn sang bỏ qua.
4. Hậu quả của bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, làm tổn thương đến sức khoẻ
và thể xác, gây rối loạn trật tự an toàn xã hội và tổn thương tâm lý, tinh thần cho nạn
nhân và những người xung quanh. Nghiêm trọng hơn, bạo lực gia đình đã vi phạm đến
quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ
và trẻ em. Thậm chí, nó còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hưởng
xấu đến thế hệ tương lai. Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của
gia đình Việt Nam. 
4.1 Tác động tới sức khỏe và nhân phẩm của người phụ nữ
Bạo lực gia đình gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đối với phụ nữ. Nó
không những làm tổn thương về thể xác, tinh thần mà còn liên quan chặt chẽ đến sự kiểm
soát đời sống tình dục cũng như vị trí, vai trò của phụ nữ trong hoạt động chính trị - kinh
tế - văn hóa... Bạo lực gia đình gây ảnh hưởng sâu sắc về mặt tinh thần của người phụ nữ
khiến phụ nữ không yên tâm làm việc, hoặc luôn có cảm giác lo sợ, buồn bã, muốn tự tử
và là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến tan vỡ gia. Theo thống kê chưa đầy đủ ở
Mỹ, cứ 100 vụ ly hôn thì có trên 90% là nguyên nhân do bạo hành, tỷ lệ này ở Thái Lan
là 76%, Hà Nội là 51%, TP. Hồ Chí Minh là 56%.
Những hậu quả trực tiếp của BLGĐ –đối với sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình
dục của phụ nữ là rất lớn,dẫn tới bệnh tật và đôi khi dẫn đến cái chết. Bạo lực thân thể,
lạm dụng tình dục và quấy rối tình cảm làm cho phụ nữ có nguy cơ mang thai ngoài ý
muốn, mang thai bị những rủi ro cao, nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS, các bệnh lây truyền
qua đường tình dục, nạo phá thai không an toàn và nạo phá thai nhiều lần.
Bạo hành gia đình hiện nay không đơn thuần là bạo hành về thể xác, người phụ nữ
phải chịu những trận đòn roi oan nghiệt của chồng, để lại những vết thương trên da thịt.
Đó là cách của kẻ “phàm phu tục tử”. Đối với những ông chồng “học rộng tài cao” thì lại
có cách “dạy vợ” văn minh hơn, kín tiếng nhưng lại vô cùng thâm thuý. Đó là bạo hành
về tinh thần, chửi bới, lăng mạ, xỉ nhục, gây ức chế…nó không để lại vết thương trên cơ
thể, nhưng lại làm cho người phụ nữ tê liệt về tinh thần, bị trầm cảm kéo dài, tổn hại

93
nghiêm trọng đến thần kinh và thể xác.
Không ít phụ nữ sau đó đã phải điều trị lâu dài tại các bệnh viện tâm thần, tốn kém
thời gian, tiền bạc mà khả năng hoàn toàn bình phục là rất khó, khả năng tái phát bệnh là
rất cao. Nhưng có lẽ nặng nề nhất và phổ biến hiện nay là bạo hành toàn diện, tức là
người phụ nữ vừa bị tổn thương về mặt thể chất, vừa bị tổn thương về mặt tinh thần
4.2 Tác động tới nhân cách trẻ em
Bạo lực gia đình đối với trẻ em dẫn đến nhiều hậu quả khác nhau. Theo số liệu
của Tổ chức Cứu trợ trẻ em  Thụy Điển, 43,6% trẻ sợ hãi hốt hoảng khi bị đánh, 24,9%
trẻ bị đánh cảm thấy bình thường như không có gì xảy ra, 19,1% trẻ khi bị đánh tỏ ra lầm
lì không phản ứng. Bạo lực gia đình với trẻ em còn có thể dẫn đến tử vong hoặc tự sát.
Hành vi tự sát là một trong những giải pháp (giải pháp tiêu cực) của nạn nhân bạo lực gia
đình. Nghiên cứu của Tiến sỹ Hoàng Bá Thịnh, trường ĐHKHXH&NV về bạo lực gia
đình tại 6 tỉnh, thành phố năm 2007 cho thấy, ở địa bàn nào cũng có những trường hợp tự
tử liên quan đến bạo lực gia đình, có địa phương số trường hợp tự tử lên đến hàng trăm ca
mỗi năm như trường hợp huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Có trường hợp cha chửi mắng
con, nguyền rủa con khiến con mình tự vẫn chỉ vì nghi con lấy 5.000đ.
 Bạo lực gia đình tác động xấu tới trẻ em. Những tác động này bao gồm: sự gây hấn, sợ
hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng, rối nhiễu tâm lý và trầm cảm. Bạo lực gia đình có thể
ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập, kỹ năng giải quyết vấn đề của trẻ em. Bạo lực gia đình
nghiêm trọng và xảy ra thường xuyên thường dẫn tới các hiện tượng bất ổn tinh thần sau
chấn thương như: tê liệt cảm giác hoặc bị ám ảnh bởi những hành vi bạo lực mà trẻ em là
nạn nhân. 
  Trẻ em khi nhỏ thường xuyên hoặc thỉnh thoảng chứng kiến cảnh cha đánh chửi
mẹ thì với bé trai dần dần sẽ hình thành nhận thức rằng làm đàn ông có quyền đánh đập
phụ nữ và rồi khi trở thành chồng thì chàng trai cũng có cách ứng xử như vậy đối với vợ.
Với các bé gái, chứng kiến cảnh mẹ bị cha mắng chửi, đánh đập thì có thể sau này cô gái
cũng sẽ cam chịu cảnh bạo lực nếu có hoặc sẽ có ác cảm với đàn ông. Theo các chuyên
gia tâm lý, những người chứng kiến cảnh bạo lực hoặc chính họ là nạn nhân của bạo lực
sẽ ít nhiều tiếp nhận hành vi bạo lực đó trong tâm trí. Với trẻ em sống trong gia đình có
hành vi bạo lực, lớn lên ra ngoài xã hội có thể sẽ rụt rè, sợ hãi người khác, không dám
bày tỏ suy nghĩ của mình nhưng cũng có thể sử dụng bạo lực để giải quyết những mâu
thuẫn nảy sinh trong cuộc sống.Trong nhiều nước các nhà khoa học nghiên cứu tâm lý trẻ
em đã kết luận nếu cha mẹ hay xung đột thì con cái có nguy cơ dẫn đến hành vi bạo lực
sau này là 60%.trưòng hợp trẻ em chứng kiến cảnh tượng cha mẹ đánh đập, chửi mắng,
nguyền rủa. Những cảnh tượng ấy để lại cho trẻ những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng về
sau, trong tâm lý học người ta thường gọi là "hiệu ứng ám ảnh”
Mỗi khi cha mẹ xung đột và có thể là dùng bạo lực đều để lại cho các em những
sang chấn tâm lý nhất định, đó là những "vết hằn". Những lời quát tháo và thái độ hung
hãn của cha mẹ đều để lại dấu ấn trên vỏ não, có những vết thương chẳng bao giờ có thể
phai mờ. Đặc biệt khi nảy sinh bạo lực càng dễ làm trẻ hình thành những dấu vết, nếu
càng nhiều dấu vết thì mức độ hằn sâu trong trẻ càng lớn, dấu vết đó sẽ trở nên "quen
thuộc" và khi có điều kiện sẽ bộc lộ ngay.
Rồi còn những trẻ em bị chính cha mẹ ngược đãi, có thể bị đánh đập, nguyền rủa

94
từ phía gia đình. Hằng năm trên thế giới có hàng triệu trẻ em bị khủng hoảng trầm trọng,
rối loạn tâm thần hoặc các bệnh tâm căn khác, nhiều trường hợp rơi vào trạng thái stress
quá mức, lo âu, trầm cảm dẫn đến tự tử hoặc dẫn đến trạng thái trơ lì.
Các chuyên gia tâm lý cho rằng nếu như cha mẹ xung đột, đối xử với con mình
theo kiểu "thương cho roi cho vọt" thì trẻ càng có nguy cơ theo khuynh hướng bạo lực
sau này. Mỗi lời nói, thái độ, hành vi của người lớn đều ảnh hưởng nhất định đến đời
sống tâm lý trong suốt cuộc đời con người, khi có điều kiện nó sẽ được đánh thức và thực
hiện các hành vi tương tự như người lớn.
4.3 Hậu quả đối với cộng đồng
Chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ của luật pháp, công an, toà án và xã hội, kể cả các
dịch vụ bảo vệ trẻ em và xử phạt những kẻ phạm tội. Chi phí cho việc thực thi Luật
phòng chống bạolực gia đình như tuyên truyền và các chi phí khác như y tế, giáo dục…
rất tốn kém. Sự đóng góp cho xã hội của những phụ nữ là nạn nhân của bạo lực đã giảm
đi do bị ảnh hưởng về năng suất lao động, khả năng tạo thu nhập và việc làm.
5. Các biện pháp phòng chống bạo lực gia đình
BLGĐ là một trong những hành vi vi phạm pháp luật cần được loại trừ, nhất là
trong xã hội hiện đại văn minh ngày nay. Để ngăn chặn và đẩy lùi hành vi BLGĐ, đòi hỏi
các cấp các nghành, các tổ chức,cá nhân và từng gia đình phải có nhiều giải pháp tích cực
phòng chống có hiệu quả BLGĐ.
5.1 Nhóm giải pháp thay đổi nhận thức của các gia đình và cá nhân
Nhóm giải pháp này bao gồm việc tuyên truyền, tư vấn, giáo dục để chuyển đổi
nhận thức, thái độ và hành vi của cộng đồng, gia đình và từng cá nhân về bản chất của
BLGĐ và việc phòng chống BLGĐ.
Để can thiệp và phòng chống tình trạng bạo lực, thay đổi nhận thức trong cộng
đồng về vấn đề này được đặt lên hang đầu “ có người thường xuyên tát vợ, nhưng họ
không thấy đấy là hành vi bạo lực”- bà Lê Thị quý, chuyên gia của trung tâm nghien cứu
giới và phát triển thuộc trường Đại Học khoa học và nhân văn xã hội, nhận xét.
Cần nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới cho người dân để cả nam và nữ
đều nhận thức được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trong xã hội. Cũng qua đó
nâng cao nhận thức của người dân để họ không coi BLGĐ là chuyện vặt, chuyện nội bộ
của các gia đình, hay là vấn đề cá nhân mà phải nhận thức đố là vấn đề xã hội và cần giải
quyết nó bằng các chính sách, pháp luật thích hợp.
Để thực hiện nhóm giải pháp này, trước hết cần tăng cường các hoạt động truyền
thông, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về
bình đẳng giới, đặc biệt là giới nữ để biết cách tự bảo vệ mình trước hành vi BLGĐ. Cần
lưu ý đưa nội dung giáo dục đời sống gia đình, xây dựng các mối quan hệ thân thiện,
đoàn kết các thành viên trong gia đình vào các bài tuyên truyền, tư vấn và giáo dục cộng
đồng, vào nội dung sinh họat tại các tổ dân phố và các hoạt động cộng đồng khác.
Sự thay đổi nhận thức ở mỗi cá nhân, gia đình là tiền đề cho việc thay đổi thái độ
và hành vi ứng xử của họ. Nó đồng thời là tiền đề cho việc thực hiện thành công các giải
pháp khác.
5.2 Nhóm giải pháp thay đổi lối sống, hoàn cảnh sống của các gia đình và cá
nhân.

95
Nhóm giải pháp này tập trung vào việc thay đổi lối sống, nâng cao đời sống vật chất
tinh thần, thỏa mãn các nhu cầu tình cảm và tạo không khí hạnh phúc cho mỗi gia đình.
Trang bị cho các cá nhân và gia đình những kỹ năng ứng xử cần thiết trong đời
sống gia đình: kỹ năng ứng xử giữa vợ chồng, anh chị em,giữa các thế hệ…Một phần
quan trọng góp phần giữ gìn sự bền vững cho gia đình chính là kỹ năng ứng xử giữa
những người trong gia đình, tuy nhiên vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức trong
những năm qua.
Kỹ năng ững xử trong trong đời sống gia đình cũng cho phép các nạn nhân tương
lai tránh được những vụ bạo lực không đáng có khi họ thách thức sự kiên nhẫn của
chồng/ cha, đẩy họ đến tình trạng giận mất khôn.
Hình thành lối sống có ý thức và bản lĩnh ở các thành viên gia đình. Trước khi chờ
sự can thiệp của pháp luật, các chị em đặc biệt là các nạn nhân hãy tự cứu mình bằng giải
pháp không chấp nhận chung sống với kẻ vũ phu. Trong trường hợp đó, ly hôn là giải
thoát chị em khỏi kẻ thường xuyên đánh đập mình, đòi lại quyền con người của chị em.
Người phụ nữ ( và các thành viên gia đình nói chung) phải biết tự bảo vệ hạnh phúc của
mình.
Phát huy tối đa vai trò của các tổ chức xã hội trong việc phòng, chống BLGĐ,
bênh vực và bảo vệ hội viên các tổ chức mình, tạo ra dư luận lên án và xử lý nghiêm các
hành vi BLGĐ, đặc biệt đối với giới nữ và trẻ em. Gắn chặt phòng chống BLGĐ với
phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
Cần có sự giúp đỡ từ phía cộng động làng xóm, bởi lẽ rất nhiều phụ nữ khi bị
chống đánh thường im lặng, nín chịu. Bị chồng đánh tím mặt thì nói với hang xóm, bạn
bè là bị vấp ngã. Chồng nói vài câu xin lỗi là nguôi ngoai, chịu làm lành. Họ không thấy
rằng nếu bị chồng đánh lần thứ nhất mà không phản ứng mạnh thì chuyện bị đánh lần thứ
hai, thứ ba chăc chắn sẽ xảy ra.
5.3 Nhóm giải pháp về quản lý môi trường xã hội
Nhóm giải pháp này tập trung vào việc: xây dựng các mô hình bảo vệ phụ nữ, trẻ
em trước những hành vi bạo lực gia đình; ban hành luật phòng chống BLGĐ, xây dựng
và hoàn thiện chính sách pháp luật về gia đình, phụ nữ và bình đẳng giới; tăng cường sự
tham gia của các cấp đẳng ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, ban ngành của
các địa phương vào công tác phòng chống BLGĐ; xây dựng thiết chế gia đình bền
vững…
Giải pháp quan trọng trong nhóm này là xây dựng các mô hình phòng chống bạo
lực gia đình ở cơ sở, đảm bảo hoạt động các mô hình hoạt động có chất lượng, có hiệu
quả trong việc ngăn chặn, can thiệp các vụ bạo lực gia đình. Ngành dân số, gia đình và trẻ
em cần tổ chức ngay các đội xung kích,các nhóm, các câu lạc bộ phòng chống BLGĐ,
phối hợp với nghành tư pháp lồng ghép nội dung BLGĐ vaog nội dung của các tổ hòa
giải ở cơ sở, giải quyết trước các mối bất hòa, xung đột ngăn chặn kịp thời hậu quả có thể
xảy ra từ bạo lực gia đình. Thông qua mô hình này thu thập thêm thông tin đầy đủ về
BLGĐ để có kiến nghị, đề xuất kịp thời.
Tạo khuôn khổ pháp lý để giải quyết vấn đề BLGĐ.Tạo khuôn khổ pháp lý cho
việc phòng chống BLGĐ bao gồm ban hành luật phòng chống BLGĐ, xây dựng và hoàn
thiện chính sách, pháp luật về gia đình, phụ nữ và bình đẳng giới.

96
Tăng cường sự tham gia của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị
xã hội, ban nghành của các địa phương vào công tác phòng chống BLGĐ, xây dựng thiết
chế gia đình phát triển bền vững là những giải pháp không thể thiếu trong việc quản lý xã
hội nhằm phòng chống BLGĐ.Vấn đề BLGĐ chỉ giảm khi ý thức cộng đồng được nâng
lên. Chính vì vậy nhà nước cần có chính sách cụ thể để bảo vệ phụ nữ, trẻ em. Bên cạnh
đó, cần có hình thức trừng trị nghiêm khắc đối với những người gây ra bạo lực trong gia
đình. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể xây dựng được những gia đình thực sự theo
đúng nghĩa và mang giá trị truyền thống. Cụ thể là cần tập trung làm tốt những vấn đề
sau: kiên quyế xử lý nghiêm những người có hành vi BLGĐ ; xây dựng các biện pháp
phòng ngừa hành vi BLGĐ và xây dựng gia đình văn hóa, ấm no hạnh phúc, phát triển
bền vững; nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong gia đình trong phòng ngừa, giải
quyết mâu thuẫn gia đình; nâng cao trách nhiệm của xã hội, chính quyền, đoàn thể trong
phòng, chống BLGĐ.
Ba nhóm giải pháp trên liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Việc thay đổi
nhận thức là nền tảng của thay đổi lối sống. Việc ban hành các đạo luật, quy định có tính
pháp lý là khung chiếu cho sự thay đổi nhận thức và lối sống của các gia đình, đồng thời
là khung pháp lý cho hoạt động của các tổ chức xã hội, chính quyền trong ngăn chặn và
đẩy lùi tệ nạn BLGĐ. Ngược lại pháp luật khó có thể được thực thi nếu nhận thức của
người dân không được nâng cao, hoàn cacnhr sống của họ không được cải thiện. Chính vì
vậy các giải pháp phải được thực hiện một cách đồng bộ, liên tục và nhất quán.
IV. Ly hôn và ảnh hưởng của ly hôn đối với các thành viên trong gia đình
1.Ly hôn và xu hướng ly hôn trong hôn nhân hiện đại
Xung đột trong quan hệ vợ chồng nếu không được giải quyết, cả hai bên không
chịu lùi bước, kết quả tất yếu là chia tay, gia đình tan vỡ, quan hệ gắn bó cha mẹ với con
cái, anh em ly tán.
+ Trong lịch sử nhân loại, quan hệ vợ chồng chịu sự chi phối của các yếu tố xã hội
như phong tục, thế chế xã hội, hệ tư tưởng, tôn giáo. Nhìn chung sự tác động của những
yếu tố này theo hướng khắt khe, tạo sự bền vững cho quan hệ vợ chồng, trong đó người
phụ nữ có phần chịu thiệt thòi (Như quan điểm của Nho giáo, người phụ nữ phải tam tòng
tứ đức).
+ Ngày nay sự vận động và phát triển của xã hội diễn ra nhanh chóng, trong xu thế
đó tình trạng ly hôn cũng có nhiều đổi thay. Theo nghiên cứu của các nhà xã hội, tình
hình ly hôn ở nhiều nước trên thế giới đều có xu hướng tăng nhanh. Riêng đối với nước
ta, vấn đề ly hôn đang diễn ra ở mức khá cao. Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Minh (viện
trưởng Viện nghiên cứu gia đình và giới thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam) gần đây
có trên 60 nghìn vụ ly hôn/ năm và xu hướng này đang tiếp rục gia tăng, cứ sau 4 năm lại
tăng gấp đôi. Tỷ lệ ly hôn và ly thân cao nhất là ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu
Long. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng ly hôn là các cặp vợ chồng thiếu kỹ năng
sống, kỹ năng ứng xử trong cuộc sống chung gặp nhiều khó khăn, khác biệt trong sinh
hoạt. Trong khi cuộc sống hiện đại cả vợ chồng cùng đi làm, cùng bị cuốn vào vòng xoáy
kiếm tiền, làm giàu, thăng tiến. Thời gian gặp gỡ giữa cha mẹ và con cái, giữa cha mẹ với
nhau ít, khiến cuộc sống gia đình hiện đại gặp nhiều khó khăn. Trong số các cặp ly hôn,
nguyên nhân hàng đầu là về lối sống 27,7%, ngoại tình 25,9%, kinh tế 13%, bạo lực gia

97
đình 6,7%, sức khỏe 2,2% và xa nhau lâu ngày 1,3%. ( Trích báo Tiền Phong ngày 27/06/
2008)
Lý luận và thực tế chứng minh, sau khi ly hôn, tỉ lệ tái hôn ở nam giới cao hơn nữ
giới. Vì tình yêu thương con cái người phụ nữ thường ở vậy để lo lắng cho con, tuy nhiên
cơ hội để tái hôn đối với người phụ nữ cũng khó hơn. Chính vì vậy mọi sự ly tán gia
đình, trẻ em và phụ nữ thường là người chịu thiệt thòi hơn cả.
2/ Ảnh hưởng của ly hôn đến các thành viên trong gia đình
+ Hậu quả nặng nề của sự ly hôn đến tâm lý của các thành viên trong gia đình xuất
hiện ngay từ trước khi ly hôn. Đối với người Việt Nam, sự chia tay của vợ chồng không
dễ dàng như người phương Tây. Sau những xung đột gay gắt không thể giải quyết được,
hai người mới đi đến quyết định chia tay. Ngay cả với những cuộc chia tay hợp lý và cần
thiết, trong thời gian này thường có sự đấu tranh tư tưởng gay gắt của cả hai người và sự
can thiệp tích cực của những người thân trong gia đình, chính quyền và pháp luật. Ngoài
việc phải chứng kiến những xung đột giữa cha và mẹ, con cái họ rất lo sợ trước sự đe dọa
gia đình phải ly tán. Chính vì vậy mọi thành viên trong gia đình thường có tâm trạng
nặng nề căng thẳng.
+ Sau khi ly hôn phần lớn cả hai đều hẫng hụt trước sự ly tán của gia đình, cha mẹ
và con cái phải thay đổi cách sống, thói quen sinh hoạt trong hoàn cảnh mới. Trẻ em là
người chịu thiệt thòi nhất, chúng phải hấng chịu tất cả sự đổ vỡ của gia đình.
- Phải chia tay với cha hoặc mẹ và anh chị em, cuộc sống trong gia đình mới ở
phía trước đầy bất trắc.
- Sự chán nản hẫng hụt làm cho học tập của trẻ sút kém, mặc cảm với bạn bè
- Khi gia đình không còn là tổ ấm, trẻ thường hướng tới bạn bè hay người nào đó
mà chúng tin tưởng để bù đắp sự thiếu hụt về tình cảm. Điều đó dễ làm trẻ rơi vào cạm
bẫy của những tệ nạn xã hội và cũng là lý do giải thích tại sao những trẻ em thuộc gia
đình ly hôn có tỉ lệ phạm pháp nhiều hơn trẻ em ở gia đình bình thường.
- Theo nghiên cứu của nhiều tác giả người Pháp, trẻ em đều đánh giá cao về gia
đình. Dưới con mắt của các em hình ảnh cha mẹ được nâng lên thành hình tượng lý
tưởng, cha mẹ là chỗ dựa vững chắc của các em. Nhưng đối với trẻ em của những gia
đình ly hôn, trẻ đánh giá thấp vai trò của gia đình, chúng cho rằng gia đình làm cản trở sự
phát triển bình thường của con người. Điều đó làm ảnh hưởng đến sự kết hôn của các em
sau này. Do không thấy được giá trị của gia đình nên các em quá thất vọng hoặc quá kỳ
vọng về gia đình trong tương lai, đó là lý do các em khó kết hôn. Các nhà khoa học người
Mỹ còn đưa ra dự báo về mức độ ly hôn của con cái những gia đình này giống như “một
vết xe đổ”.
Tóm lại, cha mẹ ly hôn con cái họ là người gánh chịu hậu quả, chúng bị tổn
thương về mặt tâm lý, nhân cách dễ phát triển lệch lạc. Trách nhiệm này trước hết thuộc
về các bậc cha mẹ. Vì vậy họ cần có trách nhiệm với gia đình và con cái, phải biết cách
giải quyết những bất đồng trong quan hệ vợ chồng một cách tối ưu nhất. Tránh được sự
ly hôn, sống hòa hợp là tốt nhất cho cả gia đình và xã hội. Cũng theo TS Nguyễn Đức
Minh “ Bất kỳ trong tình huống nào, ly hôn cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống của
những đứa trẻ. Phần lớn trẻ sống với mẹ sau khi gia đình tan vỡ và rất ít người bố chu
cấp đầy đủ cho con cái, khiến đời sống vật chất của trẻ cũng bị ảnh hưởng....phải cố

98
gắng để hạn chế tối đa việc ly hôn. Mặc dù người chồng, người vợ có thể vui mừng vì
hạnh phúc mới, nhưng con cái họ khổ là vấn đề đã được khẳng đinh. Có thể có người lập
luận con cái cũng khổ khi bố mẹ cố gắng sống chung, nhưng không còn hạnh phúc”
V. Cảm giác an toàn của trẻ trong gia đình
1. Cảm giác an toàn ở trẻ
Khi sống trong bụng mẹ, trong thời kỳ cộng sinh, trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào người
mẹ. Sự phụ thuộc tuyệt đối này được người mẹ đảm nhận, bảo vệ, trạng tháI an toàn ở trẻ
mang tính tự nhiên, sinh học, theo qui luật tự nhiên và bình đẳng cho mọi đứa trẻ. Đến
khi cất tiếng khóc chào đời rời khỏi sự bảo vệ tuyệt đối của người mẹ, trẻ phải tiếp xúc
với rất nhiều quan hệ mới, đồ vật hiện tượng hoàn toàn khác thời kỳ bào thai. Không phải
ngẫu nhiên nhà tâm lý học Catrin Horney(1885- 1952) nói rằng, con người bẩm sinh đã
có cảm giác lo âu: đứa trẻ lọt lòng mẹ đã có cảm giác này, cảm giác lo âu, sợ hãi bám
riết con người, nó trở thành thuộc tính tâm lý của nhân cách. Nhiều nhà khoa học cho
rằng, tình yêu của cha mẹ, sự tiếp xúc thường xuyên của họ đối với trẻ có ý nghĩa không
kém gì ánh sáng mặt trời và không khí. Sự nâng niu, bé ẵm, xoa nắn đứa trẻ của người
mẹ, tạo ra một cảm giác thoải mái, an toàn ở trẻ. Cảm giác an toàn ở trẻ là trạng thái tâm
lý thể hiện sự an toàn, hài lòng dễ chịu, vui sướng mãn nguyện khi được thỏa mãn đầy đủ
các yêu cầu. Cảm giác an toàn là trạng thái tâm lý ở trẻ được sinh ra khi người mẹ, những
người xung quanh thỏa mãn được các nhu cầu sinh học một cách thoải mái, bình yên, ấm
áp đích thực cho trẻ. Nhất là nhu cầu về tình yêu thương của người thân.

Cảm giác an toàn ở trẻ xuất hiện khi đứa trẻ được che chở, bảo vệ, nâng niu, bế ẵm,
cho ăn, ngủ… luôn luôn được hưởng nhiệt độ ấm áp của thân thể người mẹ, lớn lên được
hưởng bầu không khí hòa thuận ấm áp tình người máu mủ ruột thịt, mà suốt đời trẻ ngoài
gia đình không quan hệ người nào có thể thay thế được một cách tuyệt đối. Mỗi lần rời
tay mẹ, không nghe tiếng mẹ nói, không cảm nhận hơi thở ấm áp của mẹ, trẻ cựa quậy,
lấy tay quờ quạng tìm mẹ, không thấy mẹ trẻ khóc. Nỗi lo “mất mẹ” xuất hiện, cảm giác
mất an toàn xuất hiện dần cùng với sự xa cách mẹ.
Được sống trong cảm giác an toàn, trẻ cảm thấy yên tâm, vui sướng, hấp thụ tốt
chất dinh dưỡng lớn nhanh về thể chất. Trẻ mạnh dạn trong việc tiếp xúc với người khác
và thế giới xung quanh, nhờ vậy nhập tâm nhanh chóng cảm xúc, kinh nghiệm xã hội loài
người, ngôn ngữ và các chức năng tâm lý phát triển tốt.
Cảm giác an toàn, là chỗ dựa vững chắc, nó như là một “niềm tin” vững chắc để trẻ
mạnh dạn đi vào thế giới đồ vật, vào các quan hệ xã hội xung quanh, giúp cho trẻ phát
triển bình thường các chức năng tâm lý, nhất là tri giác và vận động tìm hiểu đồ vật, chú
ý có chủ định xuất hiện..,
Bố mẹ vắng nhà, trẻ đến nhà trẻ, mẫu giáo lần đầu tiên, cảm giác an toàn bị đe dọa,
sinh lo hãi. Những lúc lo hãi như vậy các em thường bám lấy đồ chơi quen thuộc như con
búp bê, con gấu, cái ô tô hoặc hòn bi, miếng vải. Từ “bỏ mẹ” “xa mẹ” gợi lên một nỗi
kinh hoàng khó tả, đã ăn sâu vào tiềm thức sâu thẳm trong lòng trẻ.
đối với người lớn khi cuộc sống có nhiều biến đổi bất ngờ, quá nhiều may rủi
đã sinh cảm giác mất an toàn, xuất hiện lo hãi: người ta hay cúng tế, đến chùa chiền, đền,

99
miếu cầu xin sự bình yên, an toàn, ở châu Âu những người làm nghề nguy hiểm như lái
xe chẳng hạn thường mang (bùa) huy hiệu của thánh Christophe để mong được an toàn.
Để tạo cảm giác an toàn ở trẻ đòi hỏi phải thực hiện tốt các điều kiện sau:
Trước hết là nhiệt độ nơi trẻ nằm tùy theo độ tuổi phải đảm bảo ấm áp, trẻ vừa mới sinh
không nên để quá lạnh, quá nóng đối với giới hạn 37 0C, mà suốt 9 tháng trẻ ở nhiệt
độ này.
Âm thanh, không được quá mạnh, trẻ sợ tiếng ồn ào với cường độ mạnh (vì trong bụng
mẹ trẻ được nghe nhịp tim đều đặn, êm ái và sự vận chuyển máu nhịp nhàng…)
Những ngày đầu ánh sáng tốt nhất cần có cường độ yếu, nên sử dụng ánh sáng tự
nhiên.
Không khí trong phòng của trẻ thoáng, sạch sẽ.
Cho trẻ tắm (nước ấm khoảng từ 30-370C…) kỳ cọ nhẹ nhàng, mơn man như xoa nắn.
Không nên tách trẻ xa mẹ ngay sau khi sinh. Theo tháng tuổi người mẹ xa dần con, để
trẻ không có cảm giác “mất mẹ”, luôn giữ một mức độ hợp lý cọ sát thân thể mẹ và
con, để trẻ được nhìn, nghe và ngửi, sờ mó thấy mẹ… - Lời nói âu yếm, dịu dàng,
sự chăm sóc thành tâm của mẹ cha, những người trong gia đình.
Những tác động của âm thanh, ánh sáng sẽ tăng về cường độ cùng với sự phát triển lứa
tuổi.
Cho trẻ bú, ăn theo một nếp, thói quen nhất định sao cho trẻ ở tư thế thoảI máI nhất, ăn
no và cảm nhận được sự hài lòng thỏa mãn cao nhất.
Cho trẻ ngủ theo giờ giấc, tốt nhất qua lời ru, sự vỗ về xoa nắn, cùng với những âm
thanh êm dịu.
Trẻ đi đại tiểu tiện sao cho thuận lợi nhất, không được tạo ra một sự sợ hãI vì sự quát
mắng của cha mẹ, anh chị hoặc có cảm giác đau đớn.
Yếu tố quan trọng bậc nhất để trẻ có cảm giác an toàn là thái độ, cảm xúc, tình cảm…
của cha mẹ và những thành viên trong gia đình, thương yêu thật sự đối với trẻ một
cách hoàn toàn tự giác, chân thành : Sự ra đời của đứa trẻ là sự mong đợi của mọi
người trong gia đình, được thừa nhận như nó vốn có (dù là trai hay gái), cha mẹ và
người thân yêu thương trẻ một cách thực sự
Sự kết hợp hài hòa, hợp lý các yếu tố trên tạo nên một cảm giác an toàn cho trẻ.
2. Sự mất an toàn của trẻ trong gia đình.
Nhà tâm lý học Mỹ Spitz khi nghiên cứu trẻ em, ông nhận thấy trong sự phát triển
tâm lý có 3 mốc quan trọng đó là:
Sau 3 tháng kể từ ngày sinh trẻ biết mỉm cười, nhưng phải đến tháng thứ 6 thì 95%
số các trẻ (nghiên cứu 145 trẻ lọt lòng đến tháng thứ 12) không mỉm cười đối với người
lạ mặt. Xuất hiện mỉm cười đây là mốc thứ nhất đánh dấu sự chuyển giai đoạn.
Mốc thứ 2. được đánh dấu bằng sự lo hãi người lạ mặt. Biểu hiện : từ chối không
muốn giao tiếp, lấy tay che mặt, cúi mặt xuống hoặc la hét khóc lên. hiện tượng sợ hãI
khi đứng trước người lạ mặt và nỗi sợ khi gặp một kinh nghiệm đau đớn ví dụ như đã bị
tiêm thì sau này thấy ống tiêm là trẻ sợ hoặc thấy người mặc bơ-lu trắng là khóc, sự xuất
hiện lo hãi mất an toàn xuất hiện ở tháng thứ 8 (nói một cách chính xác là khỏang từ
tháng thứ 6 đến tháng thứ 8).

100
Mốc thứ 3 là trẻ biết đi, vượt ra khỏi vòng tay của mẹ, đây là bước phiêu lưu đầy
nguy hiểm. Dưới sự bảo vệ của cha mẹ trước đây là âu yếm, dịu dàng thì nay nhường chỗ
cho những mệnh lệnh cấm đoán la mắng… Đứa trẻ cũng dần dần biết phản ứng cưỡng lại
những mệnh lệnh đó “không” hoặc lắc đầu. Từ “không” đi với lắc đầu, xua tay nói lên
một ý định chung là từ chối, là phủ định. đứa trẻ bắt đầu mâu thuẫn với mẹ, bị dằng xé
giữa một mặt là tình yêu đối với cha mẹ, một mặt là chống lại, từ “không” và sự lắc đầu,
xua tay, một cử chỉ biểu hiện mâu thuẫn đó.
Nếu điều kiện để tạo cảm giác an toàn của trẻ không đảm bảo. Sống thiếu tình
thương, mọi người không thừa nhận, cuộc sống có nhiều thay đổi làm cho trẻ mất cảm
giác an toàn.
Có thể khái quát sự mất an toàn của trẻ trong gia đình theo các dạng:
Quan hệ của cha mẹ không dân chủ bình đẳng tạo ra một không khí tâm lý căng thẳng,
cùng với hành vi la hét, đập phá, cãi nhau gây cho trẻ sự mất an toàn, lo hãi.
Sự thiếu vắng mẹ, hoặc cho sống cùng với những người lạ (ví dụ ngày đầu trẻ đến nhà
trẻ, mẫu giáo) hoặc do cha mẹ ly hôn quá sớm con phải tách ra ở với bố hoặc mẹ,
bố hoặc mẹ thiếu tự tin khi chăm sóc con trẻ.
Cha hoặc mẹ coi đứa trẻ là nguyên nhân gây ra các mối bất hòa trong gia đình, dồn trút
tức giận, bực dọc vào đầu trẻ.
Sự thiếu thốn tình cảm chăm sóc của cha và mẹ, có thể dẫn đến bệnh mất ngủ, hay giật
mình dễ mắc bệnh đường hô hấp (nhất là đối với trẻ khoảng 6 tháng).
Nếu trẻ còn nhỏ trong 6 tháng đầu, việc xa mẹ, tách mẹ khỏi gia đình, tạo ra ở trẻ sự lo
hãI ghê gớm. Theo Spirz: nếu trẻ có quan hệ không tốt với mẹ thì 90% số trẻ sẽ bị
bệnh chứng (phảI xa mẹ); còn nếu trẻ có quan hệ tốt với mẹ thì chỉ có 29% số trẻ bị
bệnh chứng. Như vậy khi vắng mặt của “người mẹ đầy tình cảm” trẻ sẽ lo hãI nhiều
dễ sinh bệnh, trong khi đó “người mẹ vô tình”, mà vắng mặt thì số trẻ lo hãI ít hơn
nhiều.
Sau đây là những quan hệ đặc biệt của các thành viên trong gia đình làm cho trẻ dễ
sợ hãi, mất cảm giác an toàn.
Gia đình tan vỡ, đứa trẻ phải sống với những người lạ.
Đứa trẻ phải sống với mẹ ghẻ, bố dượng, con chồng hoặc con vợ.
Đứa trẻ phải làm con nuôi.
Sự xuất hiện một đứa em, mà bản thân trẻ không mong muốn, nhất là đứa em lại trung
tâm tình cảm, tình yêu của cha mẹ.
Bố mẹ đau ốm vì bệnh hiểm nghèo lâu dài hoặc bố, mẹ một trong hai người mất sớm.
Cảm giác an toàn xuất hiện ở trẻ nếu được bố mẹ, những người nuôi, đỡ đầu đánh
giá tốt, khi trẻ luôn được sống trong những tình yêu thương chân thực của mọi người,
mọi thành viên trong gia đình, mặc dù tình trạng của nó thế nào (xấu xí về hình thể, kém
cỏi về nhận thức về phát triển trí tuệ… ) thì nó sẽ có niềm tin ngay từ lúc bé và trong quá
trình lớn lên, sẽ rất thỏai máI, yêu đời. đứa trẻ sẽ cố gắng phát triển trí tuệ của nó, để khai
thác tối đa những khả năng vốn có và tận dụng mọi cơ hội đến với nó trong cuộc sống. trẻ
sẽ cố gắng giảI toả những hạn chế, những “mặc cảm” mà tạo hóa bắt nó gánh chịu.
Sự mất cảm giác an toàn ở trẻ nhiều khi xảy ra do cha mẹ thiếu tri thức cần thiết
nuôi dạy trẻ:

101
Quát tháo, đập phá, hò hét khi say rượu, làm cho trẻ sợ.
Những lễ hội gia đình như đám cưới mở nhạc hết cỡ khi trẻ trong nhà chưa đầy tháng
tuổi; hoặc đánh cãi nhau gần nơi trẻ ngủ (thời xưa có địa phương kiêng không cho
tổ chức cưới xin khi trong nhà có người đẻ; hoặc không cho cưới con cái khi cha mẹ
vừa mất nếu có thì cưới lúc cha mẹ chưa chết – gọi là “cưới chạy tang” - để cho
người mẹ, nếu mang thai, thì không có ảnh hưởng đến đời sống tâm lý trẻ em sau
này).
Đánh, hăm dọa, hành hạ trẻ về thể xác và tinh thần làm cho trẻ sợ sệt, hoảng lọan, nếu
thường xuyên như thế trẻ dễ dàng suy nhược thần kinh, bệnh tật.
Luôn thay đổi môi trường sống, làm cho trẻ (0-3 tuổi) luôn ở trạng thái lo âu sợ hãi.
Do xung đột trong gia đình mẹ phải sống ly thân với con cáI sau khi trẻ chưa đầy 36
tháng tủôi.
- Trẻ sợ bóng tối, do vậy cha mẹ không nên để trẻ dưới 6 tuổi ở nhà một mình khi
bóng đêm tràn về (đặc biệt sự sợ hãI tăng đến mức hoảng loạn nếu trẻ dưới 36 tháng
tuổi).
Ngoài những nguyên nhân bên ngoài gây ra sự mất an toàn ở trẻ, chúng ta còn
nhận thấy, do cấu tạo cơ thể trẻ khác nhau, nhất là kiểu hình thần kinh khác nhau – mà
đứa trẻ này quá sợ hãI đối với kích thích này còn đứa trẻ khác lại không sợ. đến nhà trẻ,
mẫu giáo các cháu biểu lộ phản ứng sợ hãI khác nhau có khi đối với cùng một đồ chơI,
một con giống. Sở dĩ như vậy là vì ở mỗi gia đình có cách dọa trẻ khác nhau, cách cấm kị
khác nhau. những khác biệt này rất cần quan tâm, nếu mỗi khi trẻ đI xa hoặc từ nhà trẻ
mẫu giáo về nhà trẻ sợ một vật gì đó. ví dụ có một gia đình dọa trẻ “ông công an” “ông
tóc dài”… không nên như vậy, vì biểu tượng ấu thơ của trẻ quá trong trắng, hãy dọa,
ngăn cấm trẻ có mức độ, có giới hạn đủ để hướng hành động vào điều ta mong muốn.
Tóm lại: Sự mất an toàn dẫn đến những rối loạn tạm thời về tâm lý (biểu hiện của sự rối
loạn hành vi : trẻ sợ hãi, không ăn, không ngủ...không làm chủ được hành vi của mình)
Nếu cảm giác mất an toàn kéo dài dẫn đến stress
+ Stress là trạng thái căng thẳng tinh thần ( lo âu, căng thẳng )
+ Stress là nguyên nhân, nguồn gốc sinh ra các bệnh khác nhau
- Bệnh tâm thể: Có thể đau tim, đau đầu, đau dạ dày, mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa.
Nhưng các cơ quan không hề bị tổn thương mà nguyên nhân là do rối loạn chức năng.
Đối với trẻ thường có những biểu hiện nóng, sốt,...không rõ nguyên nhân.
- Rối loạn tâm lý (nhiễu tâm), thậm chí tâm thần: sợ hãi, hoảng loạn, trầm cảm
hoặc hung tính, cảm xúc thất thường, không nói, không cười.
Với trẻ em nguyên nhân dẫn tới cảm giác bất an, stress hầu hết đều xuất phát từ
phía gia đình như : Sự thiếu vắng của người thân: mất cha, mất mẹ, mất cả hai người
hoặc cha mẹ đi xa lâu ngày hoặc do trẻ bị bỏ rơi, thiếu quan tâm, bù đắp kịp thời bởi tình
thương yêu của người khác. Cũng có thể do trẻ bị cha mẹ, người thân đối xử tệ bạc như
đánh đập, dọa nạt hay trẻ sợ hãi trước những xung đột gay gắt trong gia đình. Vì vậy mọi
người phải có trách nhiệm tạo cảm giác an toàn cho trẻ, nếu không may thiếu vắng mẹ
cha ngay từ nhỏ, phải có biện pháp bù đắp sự thiếu hụt này bằng tình thương và sự quan
tâm đặc biệt của người thân trong gia đình và xã hội

102
Câu hỏi

1/ Gia đình không đầy đủ là gì? Có những loại nào? Cho ví dụ minh họa? Nguyên
nhân nào dẫn tới gia đình không đầy đủ?
2/ Sự thiếu vắng của người nào trong gia đình không đầy đủ sẽ là nguy cơ đối với
sự phát triển tâm lý của trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo? Tại sao? Chị hãy cho biết cách
khắc phục trường hợp này để trẻ phát triển bình thường cả về thể chất và tâm lý.
3/ Xung đột gia đình là gì? Có những loại nào? Cho ví dụ minh họa.
4/ Phân tích diễn biến và những biểu hiện của xung đột gia đình. Từ đó rút ra
những kết luận cần thiết để hạn chế sự xuất hiện và ngăn chặn sự phát triển của xung đột
gia đình.
5/ Vì sao nói xung đột vợ chồng là loại xung đột nguy hiểm nhất đối với hạnh
phúc gia đình? Hãy phân tích nguyên nhân dẫn tới xung đột vợ chồng. Làm thế nào để
hạn chế sự xuất hiện và phát triển xung đột vợ chồng?
6.Bạo lực gia đình là gì? lấy ví dụ về các loại bạo lực gia đình.
7. Tại sao ở nước ta tình hình bạo lực gia đ ình vẫn có chiều hướng gia t ăng?
8. Hãy cho bi ết những nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và biện pháp nhằm
hạn chế, xóa bỏ hiện tượng bạo lực trong gia đình.
9.Vì sao hiện tượng ly hôn ngày càng có chiều hướng gia tăng? Hậu quả của việc
ly hôn là như thế nào?
10. Theo bạn làm thế nào để hạn chế tình trạng ly hôn?

Bài tập

1/ Đặt mình vào vị trí người vợ (người chồng) trong gia đình, anh/chị ứng xử như
thế nào để giữ được hạnh phúc gia đình khi “một nửa” của mình có những hành vi sau
đây :
- Chồng/ vợ có tình nhân.
- Chồng ra ngoài uống rượu say về nhà gây sự với vợ và con.
- Chồng/vợ hay ghen nên rất khó chịu nếu vợ/chồng mình nói chuyện với bạn
trai/bạn gái
- Chồng/vợ kiểm tra tiền bạc trong gia đình vì cho rằng vợ/chồng tiêu hoang phí.
2/ Vì sao xung đột giữa cha mẹ với con cái thường xuất hiện và biểu hiện gay gắt
khi con ở độ tuổi thiếu niên? Làm thế nào để hạn chế và giải quyết mối xung đột này
trong gia đình?
3/ Đặt mình vào vị trí của người mẹ (người cha) trong gia đình, bạn ứng xử như
thế nào nếu con bạn không nghe lời, bỏ học đi chơi điện tử.
4/ Vì sao quan hệ mẹ chồng – nàng dâu trong gia đình hay xảy ra mâu thuẫn? Để
hạn chế và giải quyết mâu thuẫn này theo chị mẹ chồng và nàng dâu phải làm như thế
nào?
5/ Lấy một ví dụ về một tình huống xung đột giữa mẹ chồng và nàng dâu mà chị
đã từng trải hoặc chứng kiến. Hãy mô tả tình huống và phân tích cách ứng xử của mỗi

103
người, từ đó rút ra những kết luận cần thiết trong hoàn cảnh tương tự để đảm bảo mối
quan hệ tốt đẹp giữa mẹ chồng và nàng dâu.
6/ Anh chị em trong gia đình từ nhỏ đến lớn xung đột với nhau thường do những
nguyên nhân nào? Cha mẹ và mọi thành viên trong gia đình phải làm gì để hạn chế và
giải quyết mối xung đột này?
7/ Nguyên nhân nào từ phía gia đình dẫn tới hiện tượng trẻ em bị stress ? Cách đề
phòng hiện tượng này? Chị hãy mô tả chân dung một trẻ em tuổi nhà trẻ hoặc mẫu giáo
mà chị đã gặp có biểu hiện stress và cho biết nguyên nhân, cách khắc phục đối với trường
hợp cụ thể ấy?

TRẮC NGHIỆM TÌNH TRẠNG HÔN NHÂN

1. Quan hệ vợ chồng đối với bạn là :


- Quan trọng ( 0 điểm)
- Bình thường (1 điểm)
- Chỉ vì nể anh ấy mà chiều theo (2 điểm)
2. Chồng bạn về muộn có hơi men, bạn sẽ :
- Bực tức và làm ầm lên (2 điểm)
- Bực tức nhưng không nói gì, mặc kệ anh ta (1 điểm)
- Cố nén bực tức và tìm cách giúp anh ta rửa mặt, thay quần áo ( 0 điểm)
3. Các bạn nói chuyện với nhau một cách:
- Lạnh lùng như người lạ (2 điểm)
- Khá vui vẻ nhưng hơi ngượng ngạo (1 điểm)
- Không thỏ thẻ cả ngày song vẫn có hương vị như hồi yêu nhau ( 0 điểm)
4. Khi chi tiêu mọi thứ trong gia đình, hai bạn sẽ :
- Cùng nhau bàn bạc để tìm phương án tiết kiệm nhất ( 0 điểm)
- Chồng bạn hoặc bạn toàn quyền quyết định việc này (1 điểm)
- Luôn cãi nhau để bắt buộc người kia phải theo ý thích của mình (2 điểm)
5. Các bạn có hay trao đổi ý kiến với nhau không?
- Chỉ khi nào thấy cần thiết (2 điểm)
- Nếu có điều kiện, các bạn đều dành thời gian kể chuyện công tác, xã hội, gia
đình...cho nhau biết. (1 điểm)
- Luôn tìm thời gian để gần nhau và tâm sự với nhau ( 0 điểm)
6. Chồng bạn quan tâm đến con cái như thế nào?
- Rất có trách nhiệm ( 0 điểm)
- Không hề quan tâm đến chúng mà coi đó là trách nhiệm của bạn (2 điểm)
- Thỉnh thoảng mới hỏi han con cái vì quá bận, song luôn động viên gần gũi chúng
khi cần thiết. (1 điểm)

7. Khi chẳng may to tiếng, một trong hai người sẽ


- Cố nén giận để im lặng và tìm lúc thuận lợi phân tích đúng, sai ( 0 điểm)
- Làm ầm lên để áp đảo người kia dành phần thắng về mình (1 điểm)
- Dồn nỗi bực dọc vào việc khác theo kiểu giận cá chém thớt (2 điểm)

104
8. Hai bạn đều có những người bạn cùng giới và khác giới. Chồng (vợ) bạn đối xử với họ
như thế nào
- Xem thường, lạnh nhạt khi tiếp xúc với họ (2 điểm)
- Quan hệ bình thường xã giao để vừa lòng họ (1 điểm)
- Anh ấy (cô ấy) tự nghiên cứu mối quan hệ của bạn với những người đó để có thái
độ đối xử tương ứng. ( 0 điểm)
9. Có bao giờ chồng bạn “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay đối với bạn không”
- Bất cứ lúc nào trái ý anh ta (2 điểm)
- Thỉnh thoảng khi anh ấy quá nóng giận song sau đó rất hối hận (1 điểm)
- Không bao giờ ( 0 điểm)
10. Bạn có nghi ngờ người bạn đời của bạn lăng nhăng với bồ nhí :
- Luôn lo sợ tới điều đó (2 điểm)
- Đôi lúc song vẫn tin ở anh ấy (cô ấy) biết dừng đúng lúc (1 điểm)
- Không bao giờ. ( 0 điểm)

Kết quả

+ Từ 0 đến 10 điểm : Nếu bạn chỉ đạt điểm 0 cho các câu trả lời thì có nghĩa là là
bạn không hề có một gia đình trên thực tế. Vì rằng điều đó quá hoàn hảo
Nếu bạn đạt điểm trong khoảng này thì có thể yên tâm gia đình của bạn rất hạnh
phúc, tuy có những lúc chưa thật vừa ý, hôn nhân của bạn bền vững.
+ Từ 10 đến 15 điểm: Hôn nhân của bạn gặp phải những trục trặc lớn, nếu không
cẩn thận sẽ dẫn đến tan vỡ. Nếu hai bạn đều cho là đúng và không thay đổi thì không còn
cách nào cứu vớt tình trạng này.. Vậy hãy vì nhau, vì con cái để hòa hợp làm lại từ đầu.
+ Từ 15 đến 20 điểm : Hôn nhân của bạn quả là địa ngục. Hai người sẽ khó chịu
khi gặp mặt, vì vậy khó mà chung sống thoải mái dưới một mái nhà. Khả năng ly dị là rất
lớn, nếu như hai bạn không muốn phải chịu đựng lẫn nhau.
........................................................................................................

HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH


Phải chăng cuộc sống gia đình hiện nay mong manh hơn, dễ đổ vỡ hơn trước? Đây
không chỉ là một câu hỏi mà còn như một thực tế đáng buồn vẫn diễn ra xung quanh
chúng ta, và không loại trừ việc nó còn ẩn nấp đâu đó đe dọa chính hạnh phúc của chúng
ta. Những thống kê xã hội học tỉ lệ ly hôn vẫn tiếp tục tăng cao cho thấy đây thực sự là
một vấn nạn xã hội.
Ứng xử ra sao khi buộc phải tỏ thái độ?
Trắc nghiệm gia đình của The Sun ( Phan Thị Minh Thu TTTV Giới sưu tầm)
1/ Bạn chọn cách ứng xử ra sao nếu chồng (vợ) của bạn thổ lộ mối bận tâm đến
việc gần đây ít nói chuyện với nhau?
a. Khẳng định mình cũng nghĩ đến điều đó, ấn định thời gian để hai người trò
chuyện.
b. Nói rằng mình không thấy vấn đề gì cả
c. Đồng ý và nói với chồng (vợ) tất cả những điều bạn không thích ở họ.

105
d. Phản ứng bằng cách quát to “ Không còn việc gì làm hay sao mà cứ nghĩ linh
tinh”.
2/ Bạn thấy có một tin nhắn từ “người cũ” của bạn đời khi chồng (vợ) không có
mặt ở đó, bạn sẽ :
a. Cảm thấy có lỗi vì mình đã rình mò những thông tin về chồng (vợ)
b. Nói về chuyện này trong bữa ăn tối bằng một thái độ điềm tĩnh.
c. Tỏ ra bực bội, khó chịu và luôn trả lời “Không có gì” khi chồng (vợ) hỏi lý do
trước thái độ của bạn
d. Buộc tội chồng (vơ) phản bội, vì bạn rõ ràng có bằng chững về việc này.
3/ Chồng (vợ) phàn nàn vài lời không hay về bạn khi bạn đang ăn uống với bạn bè.
Bạn sẽ :
a. Cười to như vừa nghe được một câu chuyện đùa.
b.Nhíu mày khó chịu nhưng đợi đến khi bạn trở về nhà sẽ làm rõ mọi chuyện.
c. Trả lời bằng những lời nói khiếm nhã và cười to với bạn bè.
d. Giải tán cuộc nhậu.
4/ Khi chồng (vơ.) của bạn lên cân quá nhanh, bạn sẽ phản ứng :
a. Không phản ứng gì cả, dù có thay đổi thế nào thì cũng không quan trọng.
b.Vờ như vô tình nói rằng cả hai vợ chồng có vẻ tăng cân và đề nghị cùng tìm
cách giảm cân.
c. Không quanh co, nói thẳng với chồng (vợ)
d. Bạn cảm thấykhông thể sống cùng với một người không hoàn hảo.
5/ Chồng (vợ) bị ốm nằm một chỗ, thái độ của bạn thế nào?
a. Lập tức gọi điện xin nghỉ làm.
b. Bạn đi làm và vài giờ lại gọi điện về một lần bày tỏ sự quan tâm rồi nấu đồ ăn
bổ dưỡng cho chồng (vợ) khi trở về.
c. Chỉ bị cảm cúm thông thường không cần quá quan tâm.
d. Bực dọc vì người kia làm khó chịu mình.
The Sun tiết lộ đáp án:
- Nếu chọn nhiều câu a, bạn là người chồng (vợ) tuyệt vời. Tuy nhiên hãy cẩn
thạn, bởi người chồng (vợ) của bạn có thể cảm thấy ngạt thở vì sự quan tâm thái quá của
bạn. Bạn nên dành thời gian cho chính mình. Một mối quan hệ lành mạnh là cả hai cảm
thấy thoải mái, đều được cho và nhận.
- Nếu chọn nhiều câu b, bạn là người biết làm cho chồng (vợ) hạnh phúc nhưng
vẫn giữ được sự độc lập của mình. Yêu một người không có nghĩa là quên mất bản thân
mình, mỗi người vẫn cần tôn trọng không gian riêng của người kia.
- Nếu chọn nhiều câu c, bạn nên xem lại cách ứng xử của mình với chồng (vợ) do
thói bốc đồng dễ làm tổn thương người khác, cần giữ bình tĩnh và suy nghĩ kỹ để không
phải hối hận sau mỗi lời thốt ra.
- Nếu nhiều câu trả lời d, từ “Hạnh phúc “ không tồn tại trong mối quan hệ của
hai người bởi bạn không trân trọng điều đó cũng như chính chồng (vợ) của mình.

………………………………………………………

106

You might also like