You are on page 1of 248

Bầu cử tự do và công bằng

Trang 1
Bầu cử tự do và công bằng

Nhiều tác giả

BẦU CỬ
TỰ DO VÀ CÔNG BẰNG

Nhà xuất bản Tự Do

Trang 2
Bầu cử tự do và công bằng

Nhà xuất bản Tự Do xuất bản và phát hành vào tháng


06/2021. Bản quyền quyển sách này thuộc về NXB Tự
Do và các tác giả.

Tuyển chọn và biên tập: Ngọc Minh

Thiết kế bìa: Park Bùi

Trình bày: Trần Khánh Lương

Trang 3
Bầu cử tự do và công bằng

Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU CỦA NHÀ XUẤT BẢN TỰ DO………6
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC BẦU CỬ TỰ DO VÀ CÔNG
BẰNG .............................................................................. 11
1. Bầu cử và nguyên tắc toàn dân kiểm soát .............. 13
2. Nguyên tắc bỏ phiếu kín ........................................... 14
3. Quyền bỏ phiếu ......................................................... 16
4. Thủ tục đăng ký làm cử tri ...................................... 17
5. Sự quan trọng của số lượng người tham gia bỏ
phiếu ............................................................................ 18
6. Điều kiện tranh cử vào các chức vụ lãnh đạo......... 20
7. Ý nghĩa “đại diện” của đại biểu quốc hội ............... 24
8. Bảo đảm tính công bằng của tiến trình bầu cử ...... 25
9. Quốc hội nên có một viện hay hai viện.................... 28
10. Vị trí nguyên thủ quốc gia không bắt buộc phải
bầu phổ thông ............................................................. 31
11. Bầu cử và cơ quan tư pháp .................................... 33
12. Các đại diện dân cử có được phép thay đổi đảng
giữa các kỳ bầu cử ...................................................... 34
13. Quyền lực của cử tri giữa các kỳ bầu cử .............. 36
14. Trưng cầu dân ý ...................................................... 37
MỘT SỐ HỆ THỐNG BẦU CỬ HIỆN NAY TRÊN
THẾ GIỚI ....................................................................... 40
A. PHƯƠNG PHÁP BẦU THEO ĐA SỐ: ............ 43

Trang 4
Bầu cử tự do và công bằng

I. Phương pháp đa số tương đối áp dụng cho đơn vị


bầu cử một đại diện (SMDP) ................................. 45
II. Phương pháp lá phiếu thay thế (AV) ................... 48
III. Phương pháp hai vòng (TRS) .............................. 52
B. PHƯƠNG PHÁP BẦU THEO TỶ LỆ: ............ 57
I. Các phương pháp đại diện tỉ lệ theo danh sách
(PR) .......................................................................... 62
II. Phương pháp lá phiếu duy nhất có thể chuyển
nhượng (STV) ......................................................... 70
II. Phương pháp bầu cử hỗn hợp phụ thuộc............. 75
BẦU CỬ PHI DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM ..................... 79
I. CÁC NGUỒN RỦI RO ĐE DỌA TÍNH CÔNG
BẰNG CỦA TIẾN TRÌNH BẦU CỬ ....................... 83
II. ỨNG CỬ VIÊN ................................................... 89
III. VẬN ĐỘNG TRANH CỬ .................................. 97
IV. QUYỀN LỰC CỦA CỬ TRI GIỮA CÁC KỲ
BẦU CỬ .................................................................... 119
V. PHƯƠNG PHÁP BẦU CỬ .............................. 122
VI. CÁC THỦ TỤC ĐĂNG KÝ LÀM CỬ TRI ... 125
LỰA CHỌN HỆ THỐNG BẦU CỬ CHO VIỆT NAM
TƯƠNG LAI ................................................................. 131
I. Ý nghĩa của bầu cử chính trị. ................................. 133
II. Các yêu cầu của một hệ thống bầu cử.................. 136
III. Lựa chọn thể chế. ................................................. 139
IV. Lựa chọn Quốc Hội. ............................................. 143
V. Tản quyền hay tập quyền. ..................................... 146

Trang 5
Bầu cử tự do và công bằng

VI. Lựa chọn hệ thống bầu cử. .................................. 148


VII. Tổng kết. .............................................................. 167
BẦU CỬ LÀ CÁCH CHỌN RA HIỀN TÀI - NGUYÊN
KHÍ CỦA QUỐC GIA ................................................. 169
HỆ THỐNG BẦU CỬ NHẬT BẢN ............................ 194
I. Tổng quan về hệ thống chính trị Nhật Bản........... 194
II. Hệ thống bầu cử Nhật Bản.................................... 201
Lời kết:......................................................................... 216
MỘT SỐ HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở CHÂU ÂU ......... 218
I. VƯƠNG QUỐC ANH ............................................. 219
II. CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC .......................... 224
III. VƯƠNG QUỐC THỤY ĐIỂN ............................ 234
IV. CỘNG HÒA PHẦN LAN .................................... 238
Các nguồn tham khảo ................................................... 245

Trang 6
Bầu cử tự do và công bằng

LỜI NÓI ĐẦU


CỦA NHÀ XUẤT BẢN TỰ DO

Đảng Cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam vẫn tổ


chức các cuộc bầu cử theo định kỳ 5 năm một lần, họ
sử dụng những cuộc bầu cử này để tuyên truyền rằng
Việt Nam là một quốc gia có dân chủ. Năm nay, nhà
cầm quyền Cộng sản Việt Nam lại tiếp tục tổ chức kỳ
bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Thời gian

Trang 7
Bầu cử tự do và công bằng

diễn ra cuộc bầu cử này được ấn định vào ngày Chủ


nhật, 23/05/2021.

Ở các nước dân chủ tự do, các kỳ bầu cử là dịp sinh


hoạt chính trị sôi nổi của toàn dân, là dịp để mỗi người
dân thể hiện chính kiến cũng như quyền làm chủ đất
nước của mình. Nhưng tại một quốc gia độc tài như
Việt Nam, bầu cử chỉ là một hoạt động mang tính hình
thức, chiếu lệ. Mọi quyết định thực sự đều thuộc về
đảng Cộng sản cầm quyền.

Nhằm giúp Quý độc giả có thêm nhiều thông tin về các
quy trình bầu cử để bảo đảm có được một cuộc bầu cử
thật sự công bằng; các phương pháp bầu cử khác nhau
có thể tạo ra các kiểu chính quyền khác nhau; cũng như
các cách hiểu khác nhau về quyền và trách nhiệm bầu
cử... Nhà xuất bản Tự Do đã tổ chức một cuộc thi viết
với chủ đề: “BẦU CỬ TỰ DO VÀ CÔNG BẰNG”,
bắt đầu từ ngày 12/03/2021 và kết thúc vào ngày
30/04/2021.

Sau khi đăng thông báo về cuộc thi, chúng tôi đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm và các bài viết gửi về tham
gia. Điều này quả thật đã gây bất ngờ lớn đối với chúng
tôi, vì nó chứng tỏ sự quan tâm của độc giả và người
dân đến vấn đề bầu cử. Điều này cũng cho thấy, người
dân Việt Nam hoàn toàn không thờ ơ với bầu cử, với

Trang 8
Bầu cử tự do và công bằng

chính trị. Chỉ vì chúng ta chưa có quyền và chưa có cơ


hội để thực sự cầm trên tay một lá phiếu trung thực. Lá
phiếu mà mỗi người dân hoàn toàn có quyền tự quyết
định để lựa chọn người đại diện cho mình, trong số
những người ra tranh cử một cách công bằng.

Mỗi bài viết dự thi đều thể hiện sự nghiêm túc nghiên
cứu, khả năng phân tích, tổng hợp thông tin và kiến
thức rất tốt của người viết. Ban Biên tập Nhà xuất bản
Tự Do đã cùng nhau thảo luận, đánh giá các bài thi dựa
trên những tiêu chí đã đặt ra và chúng tôi đã lựa chọn
được 7 bài xuất sắc nhất để trao giải. Bảy bài này đã
được chúng tôi đăng tải lần lượt trên website và
fanpage của NXB. Nay chúng tôi tổng hợp lại trong
cuốn sách này với tựa đề “Bầu cử tự do và công bằng”.

Nội dung các bài viết xoay quanh những vấn đề sau:

1. Các phương thức, hệ thống bầu cử của một


số quốc gia dân chủ trên thế giới.

2. Các tiêu chuẩn, những diễn giải về việc như


thế nào là bầu tự do và công bằng.

3. Phân tích, bình luận về những yếu tố tạo ra


các cuộc bầu cử phi dân chủ ở VN và so sánh
với các nước dân chủ.

Trang 9
Bầu cử tự do và công bằng

4. Đề xuất một phương thức bầu cử mới cho


Việt Nam tương lai để có được một nền dân chủ
bền vững.

Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn những đóng góp của
Quý độc giả và các tác giả được giải trong cuộc thi này.

Nhà xuất bản Tự Do

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…

Trang 10
Bầu cử tự do và công bằng

MỘT SỐ NGUYÊN TẮC BẦU CỬ


TỰ DO VÀ CÔNG BẰNG
An Nhiên

Bầu cử là một thiết chế quan trọng để người dân thể


hiện quyền chính trị và quyền làm chủ quốc gia của
mình. Thông qua bầu cử, công dân lựa chọn ứng viên
cho các vị trí trong chính quyền, và uỷ quyền cho

Trang 11
Bầu cử tự do và công bằng

những người được chọn hành động đại diện cho cộng
đồng của mình trong suốt nhiệm kỳ của họ.

Ở tầm quốc gia, bầu cử có hai mục đích:

Thứ nhất: Chọn ra người đứng đầu chính phủ (là


cơ quan hành pháp cao nhất), thông qua đó, người
dân ủng hộ cho chính sách chung mà chính phủ đó
sẽ theo đuổi.

Thứ hai: Chọn ra thành viên của hội đồng đại diện
cho người dân (gọi là cơ quan lập pháp hoặc quốc
hội). Đây là những người sẽ quyết định về luật
pháp và thuế má, đồng thời thay mặt người dân để
giám sát các hoạt động của chính phủ.

Trang 12
Bầu cử tự do và công bằng

Câu hỏi đặt ra là: Có phải bất kỳ quốc gia nào có tổ


chức các kỳ bầu cử là quốc gia đó có dân chủ hay
không?

Câu trả lời là không.

Có rất nhiều quốc gia độc tài nhưng vẫn tổ chức các kỳ
bầu cử định kỳ nhằm mục đích mị dân, giả mạo dân
chủ. Do đó, không phải cứ có tổ chức bầu cử là bảo
đảm có dân chủ. Những cuộc bầu cử phải tuân thủ một
số quy tắc để bảo đảm đó là các cuộc bầu cử tự do và
công bằng thì mới bảo đảm được tính dân chủ.

Trong phạm vi bài này, tôi xin trình bày sơ lược một
số quy tắc quan trọng để bảo đảm một cuộc bầu cử là
tự do và công bằng.

1. Bầu cử và nguyên tắc toàn dân kiểm soát

Bầu cử là một biện pháp để thực hiện nguyên tắc toàn


dân kiểm soát trong một nền dân chủ đại diện; bởi vì:

Trang 13
Bầu cử tự do và công bằng

1. Bầu cử chứng tỏ rằng quyền lực bắt nguồn


từ người dân và được duy trì nhờ sự tin tưởng
của người dân;

2. Các chính trị gia phải chịu trách nhiệm giải


trình trước người dân và phải chịu trách nhiệm
về những hành động chính trị của mình;

3. Nguy cơ bị bãi nhiễm chức vụ là điều bảo


đảm rằng các chính trị gia phải thỏa mãn niềm
tin của người dân và thực hiện những thay đổi
về nhân sự cũng như đường lối chính sách khi
hoàn cảnh khách quan đòi hỏi phải thay đổi.

2. Nguyên tắc bỏ phiếu kín

Việc bỏ phiếu công khai khiến cho cử tri dễ bị tổn


thương trước các sức ép không đúng từ giới có quyền
lực. Những kẻ có quyền lực và có tiền có thể sử dụng
quyền lực và đồng tiền của mình để thao túng bầu cử,
họ có thể là các quan chức, các chủ lao động, chủ đất,
tăng lữ...

Trang 14
Bầu cử tự do và công bằng

Bỏ phiếu kín có thể tạo ra cơ chế để bảo đảm không ai


khác có thể biết cử tri đã bầu cho ứng viên nào. Do đó,

Trang 15
Bầu cử tự do và công bằng

nguyên tắc bỏ phiếu kín hiện nay đã được xác định là


đặc điểm trọng tâm của bất kỳ nền dân chủ nào.

3. Quyền bỏ phiếu

Ở phần lớn các nền dân chủ, những đối tượng bị loại
trừ thường xuyên là trẻ em, tội phạm đã bị kết án, và
người nước ngoài ngụ cư.

Dưới một độ tuổi nhất định, hầu hết trẻ em không có


đủ kinh nghiệm hay cảm nhận về hậu quả lâu dài của
sự lựa chọn của chúng. Ở hầu hết các xã hội, có một
“bộ” những quyền mà trẻ em có được cùng một lúc và
đó là lúc xác định các em trưởng thành: quyền kết hôn,
quyền sở hữu tài sản, quyền tố tụng trên tư cách của
chính mình, và quyền bỏ phiếu. Những quyền này
thường đến cùng nhau vào khoảng độ tuổi 18, là tuổi
muộn nhất để rời trường tiểu học và bắt đầu có nghĩa
vụ quân sự. Tuy nhiên, ấn định bất kỳ một độ tuổi nào
cũng ít nhiều có tính tuỳ tiện. Có bằng chứng cho thấy
trẻ em ngày nay trưởng thành sớm hơn trong quá khứ.
Trong bất kỳ trường hợp nào, trưởng thành là một tiến

Trang 16
Bầu cử tự do và công bằng

trình liên tục, và việc chuẩn bị cho tư cách công dân


dân chủ phải bao gồm cả sự tham gia vào tiến trình ra
quyết định tập thể ở gia đình và trường học từ lứa tuổi
nhỏ nhất có thể.

4. Thủ tục đăng ký làm cử tri

Quy trình đăng ký làm cử tri ở Mỹ

Thủ tục đăng ký cử tri có một ý nghĩa rất quan trọng


đối với quyền bỏ phiếu. Mục đích của việc đăng ký làm
cử tri trước khi bầu cử diễn ra rất đơn giản: Cử tri phải
được xác định trên tư cách cá nhân và hành động bỏ

Trang 17
Bầu cử tự do và công bằng

phiếu của họ cần được lưu lại để không ai bỏ phiếu hai


lần, không ai giả làm cử tri khác, hay là bỏ phiếu khi
không có quyền bỏ phiếu.

Thủ tục phù hợp với thực tiễn thực hành dân chủ ở
những nơi tốt nhất là: Việc đăng ký mang tính bắt buộc,
việc làm hồ sơ người đăng ký phải được thực hiện bởi
những công chức được trả lương và được đào tạo vì
mục đích này, gần với thời điểm bầu cử nhất có thể, và
phải được duy trì tách biệt, độc lập cả về vật chất lẫn
tổ chức khỏi các hồ sơ nhà nước khác (ví dụ: hồ sơ
thuế, hồ sơ hôn nhân…).

5. Sự quan trọng của số lượng người tham


gia bỏ phiếu

Trên thế giới, đa số các quốc gia không coi việc đi bầu
là một quy định bắt buộc, và hiện nay đang có tình
trạng suy giảm số lượng cử tri đi bỏ phiếu. Ở những
nơi mà kết quả bầu cử có vẻ là đã được định trước, hoặc
kết quả không còn gì nhiều để mong đợi, tỷ lệ người đi
bầu sụt giảm rất mạnh. Đây là một chỉ dấu đáng lo ngại,
cho thấy rằng mọi thứ trong tiến trình dân chủ có lẽ

Trang 18
Bầu cử tự do và công bằng

không ổn. Theo các cuộc khảo sát thăm dò dư luận,


nhiều cử tri thể hiện thái độ rất bất mãn với các chính
trị gia, coi họ như một đám chỉ vì quyền lợi bản thân
và không hề có liên hệ gì đến nguyện vọng của dân;
hoặc đánh giá sự khác biệt về đường hướng giữa các
đảng phái đã trở nên ngày càng mờ nhạt.

Một trong những cách để tăng lượng cử tri đi bầu là


làm sao để người ta thật sự dễ bỏ phiếu. Gần đây, trong
các nền dân chủ lâu đời, người ta đã tiến hành nhiều
thử nghiệm khác nhau để tạo điều kiện cho cử tri bỏ
phiếu từ nhà, ví dụ như bỏ phiếu và gửi qua bưu điện.
Nhiều nước còn đang xem xét việc bỏ phiếu điện tử từ
nhà hoặc từ nơi làm việc.

Tuy nhiên, vấn đề đối với bỏ phiếu ở nhà là nó làm tăng


đáng kể rủi ro gian lận, giả mạo; cũng như có thể khiến
cho cử tri phải chịu những sức ép không đúng từ trong
gia đình. Trong bất kỳ trường hợp nào, các biện pháp
thuần tuý kỹ thuật đều không giải quyết được những
vấn đề tiềm ẩn, chẳng hạn như việc cử tri bị cô lập.

Trang 19
Bầu cử tự do và công bằng

Tại một số nước như Australia, việc đi bầu là một việc


bắt buộc đối với công dân. Cơ sở của việc cưỡng bức
đi bầu là: Để có được quyền bầu cử, các thế hệ trước
đã phải đấu tranh và hy sinh rất nhiều. Vì vậy, việc
tham gia bầu cử, đóng góp một phần để tạo ra chính
quyền và chọn người đại diện, không chỉ là quyền mà
còn là trách nhiệm công dân. Hành động vắng mặt phải
được ghi nhận vào hồ sơ bầu cử của công dân. Tuy
nhiên, lập luận này cũng gặp một số phản bác, theo đó,
có gì đó mâu thuẫn nếu chúng ta biến một cuộc “bầu
cử tự do” thành bắt buộc; cũng như số lượng cử tri vắng
mặt tạo nên một tín hiệu quan trọng hay là dấu hiệu
cảnh báo sớm về những bất cập trong tiến trình dân
chủ, không thể che giấu được.

6. Điều kiện tranh cử vào các chức vụ lãnh


đạo

Trên nguyên tắc, bất kỳ ai có quyền bỏ phiếu thì đều


có thể tranh cử. Tuy nhiên, đa số các nước đòi hỏi độ
tuổi đối với ứng viên cao hơn đối với cử tri. Việc chọn
ra người đại diện không phải vì những chuyên môn đặc

Trang 20
Bầu cử tự do và công bằng

biệt của họ, mà vì cử tri tin tưởng họ sẽ hành xử đúng


lương tâm trong việc bảo vệ lợi ích của đơn vị bầu cử,
giám sát hoạt động và các đề xuất của chính phủ, cũng
như xúc tiến chương trình hành động mà nhờ nó họ đã
được bầu chọn.

Điều kiện cần thiết để có sự minh bạch và trách nhiệm


giải trình trong bầu cử là: Công việc mà họ làm không
phải là công việc được bảo đảm trọn đời.

Mặc dù nhiều người có thể làm công việc của người


đại diện, nhưng rất ít người thực sự trở thành đại diện.
Trong phần lớn trường hợp, một cá nhân cần trở thành
thành viên của một đảng chính trị và phải làm việc cho
đảng một thời gian. Họ thường tích lũy kinh nghiệm từ
những chức vụ dân cử ở cấp địa phương. Khi muốn
tranh cử, họ cần thuyết phục hội đồng lựa chọn hoặc
ban chấp hành đảng về sự xứng đáng của họ so với
những người khác. Và có lẽ họ phải chịu thất bại một
vài lần trước khi có thể giành thắng lợi. Do vậy, cần rất
nhiều quyết tâm cũng như may mắn khi muốn trở thành
một người đại diện. Chỉ những người có quan tâm rất

Trang 21
Bầu cử tự do và công bằng

mạnh mẽ đến chính trị, và sẵn sàng làm những công


việc với nhiều giờ giấc bất tiện, mới đi đến cùng được.

Hầu hết các hệ thống bầu cử đều chọn ứng viên bằng
cách yêu cầu bắt buộc phải có một số lượng tối thiểu
chữ ký ủng hộ từ các cử tri có đăng ký ở đơn vị bầu cử
tương ứng; thậm chí, có nơi còn yêu cầu phải đặt cọc,
và số tiền đặt cọc sẽ bị mất nếu ứng viên đó không đạt
được số lượng phiếu tối thiểu.

Ở Pháp và một số quốc gia khác còn có quy định ứng


cử viên quốc hội không được là quan chức chính phủ,
không được làm thị trưởng, chủ tịch một cơ quan chính
quyền, chủ tịch một hội đồng tỉnh hoặc vùng… Nếu
đang giữ một trong những chức vụ này mà muốn tranh
cử, họ phải từ chức trước khi nộp hồ sơ ứng cử.

Bầu cử sơ bộ

Ở Mỹ, ứng viên trong mỗi đảng được chọn ra bằng một
cuộc bầu cử sơ bộ. Cử tri tham gia các cuộc bầu cử sơ
bộ chỉ giới hạn từng đảng, nghĩa là, cử tri đã đăng ký
của đảng nào thì bỏ phiếu trong nội bộ đảng đó.

Trang 22
Bầu cử tự do và công bằng

Mặc dù cách này tạo điều kiện cho cử tri có tiếng nói
trong việc quyết định ai tranh cử cũng như ai trúng cử,
nhưng nó làm gia tăng chi phí bầu cử một cách khủng
khiếp, do đó cũng gây ra tình trạng thiên vị đối với
những cá nhân giàu có hoặc được người giàu chống
lưng. Vì nhược điểm này nên các đảng phái thường
chọn ứng viên bằng cách để toàn bộ đảng viên bỏ phiếu
ở khu vực hay đơn vị bầu cử tương ứng.

Một cuộc tranh luận giữa các ứng viên của đảng Dân
chủ Mỹ trong kỳ bầu cử sơ bộ năm 2020

Trang 23
Bầu cử tự do và công bằng

7. Ý nghĩa “đại diện” của đại biểu quốc hội

Có hai nguyên tắc dân chủ:

Nguyên tắc quyền tối cao thuộc về toàn dân, nghĩa


là, mọi quyền lực chính trị đều bắt nguồn từ nhân dân,
chính phủ và quốc hội phải chịu sự kiểm soát của toàn
dân. Nguyên tắc này được tóm tắt lại trong quan niệm
người đại diện được coi là đại lý của cử tri: Được uỷ
quyền bởi cử tri, hành động vì cử tri, chịu trách nhiệm
giải trình trước cử tri, và có thể bị cử tri bãi miễn.

Nguyên tắc thứ hai được hiểu theo nghĩa là đại diện
thu nhỏ, đó là sự vận dụng nguyên tắc bình đẳng chính
trị: Mỗi lá phiếu đều có cùng giá trị, bất kể người bỏ
phiếu sinh sống ở đâu hay bầu cho đảng nào. Chừng
nào nguyên tắc này được thoả mãn, chừng đó, cơ quan
lập pháp được coi là có tính đại diện thu nhỏ cho toàn
bộ cử tri, và phản ánh cả sự phân bổ về địa lý lẫn phân
bổ về phiếu bầu giữa các đảng khác nhau.

Trang 24
Bầu cử tự do và công bằng

8. Bảo đảm tính công bằng của tiến trình


bầu cử

Có ba nguồn rủi ro đe doạ tính công bằng của tiến trình


bầu cử:

1. Lợi thế của đảng hoặc liên minh các đảng


cầm quyền;

2. Hành vi xấu trong bầu cử;

3. Ảnh hưởng của đồng tiền.

Đối với rủi ro thứ nhất, lợi thế của đảng hoặc liên
minh các đảng cầm quyền, loại rủi ro này chỉ có thể
hạn chế chứ không bao giờ có thể xóa bỏ hoàn toàn.

Điều quan trọng nhất là toàn bộ tiến trình bầu cử, từ


việc vạch biên giới đơn vị bầu cử, thủ tục đăng ký làm
cử tri và quy định về cách hành xử trong chiến dịch vận
động, đến tiến trình bỏ phiếu và thủ tục đếm phiếu…
đều phải được giám sát bởi một uỷ ban bầu cử độc lập.
Thành viên của ủy ban bầu cử này phải được sự phê
chuẩn của tất cả các đảng chính trị. Uỷ ban này có

Trang 25
Bầu cử tự do và công bằng

nhiệm vụ điều tiết việc các đảng tiếp cận với giới
truyền thông trong suốt chiến dịch vận động. Tổ chức
của các đảng phải tách rời về mặt pháp lý với việc tổ
chức chính quyền. Các bộ trưởng, các quan chức chính
quyền bắt buộc phải giao lại hết các nhiệm vụ chính
thức trong đảng, và không được hưởng bất kỳ đặc
quyền đặc lợi nào trong thời gian diễn ra chiến dịch vận
động tranh cử.

Đối với rủi ro thứ hai, hành vi xấu trong bầu cử, đây
là mối đe dọa đối với tính công bằng của tiến trình bầu
cử, bắt nguồn từ các kiểu hành vi xấu của ứng viên,
đảng viên và người ủng hộ. Ví dụ như: hối lộ cử tri;
ngăn cản người dân đăng ký bỏ phiếu; đe doạ cử tri;
đóng giả làm cử tri; phá rối, không cho ứng viên đối
lập vận động; thu thùng phiếu; nhét thật nhiều phiếu
bầu của mình vào thùng phiếu; kiểm phiếu gian lận...

Chỉ có thể tránh khỏi những chuyện này nếu cảnh sát
và nhân viên tổ chức bầu cử được giao nhiệm vụ bảo
đảm sự an toàn thể chất của ứng viên và cử tri, cũng
như bảo vệ tính liêm chính của tiến trình bầu cử. Sự

Trang 26
Bầu cử tự do và công bằng

lựa chọn và tập huấn cho những nhân viên tổ chức bầu
cử phải là trách nhiệm của uỷ ban bầu cử quốc gia.

Sự có mặt của các nhà quan sát quốc tế có kinh nghiệm


cũng là một sự hỗ trợ đặc biệt. Họ vừa đóng vai trò
người ngoài để bảo đảm bầu cử công bằng, vừa là
người phổ biến cách bầu cử tốt nhất.

Các tiêu chuẩn quốc tế về bầu cử “tự do và công bằng”,


cũng như về hoạt động giám sát bầu cử, giờ đây đã
được luật hoá và được chấp nhận rộng rãi.

Rủi ro thứ ba, ảnh hưởng của đồng tiền, là mối đe doạ
lớn đối với tính công bằng của tiến trình bầu cử, xuất
phát từ lợi thế khi ứng viên hoặc đảng phái sở hữu tài
sản lớn hoặc có người giàu hậu thuẫn. Cách đơn giản
nhất để làm giảm tác động của chuyện này là đặt ra
những hạn chế nghiêm ngặt cho số tiền mà ứng viên và
các đảng phái có thể chi tiêu, cả ở tầm địa phương lẫn
quốc gia; đồng thời tạo điều kiện để tất cả ứng viên
cũng như đảng phái đều có thể tiếp cận truyền thông
công ích, theo những quy định mà uỷ ban bầu cử đề ra.

Trang 27
Bầu cử tự do và công bằng

Ngoài ra, việc thăm dò dư luận tuy ít đe doạ đến tính


công bằng của bầu cử, song cũng có một số ảnh hưởng
nhất định. Một số quốc gia đã ra luật cấm công bố kết
quả thăm dò dư luận vào tuần cuối cùng của kỳ bầu cử
hay trong toàn bộ thời gian diễn ra bầu cử. Giả định ở
đây là kết quả thăm dò có thể tác động đến tâm lý cử
tri, do đó cũng có tác động đến kết quả bầu cử. Việc
thăm dò dư luận còn khuyến khích người dân tập trung
một cách không đúng vào kết quả được dự đoán mà bỏ
đi những vấn đề sẽ quyết định kết quả bầu cử.

9. Quốc hội nên có một viện hay hai viện

Chức năng của quốc hội hay cơ quan lập pháp là thanh
tra, kiểm tra và phê chuẩn luật pháp, thuế má và chi
tiêu công; giám sát chính phủ; phê chuẩn các công ước
và giám sát tiến triển xử lý khiếu nại cũng như bồi
thường cho người dân trong trường hợp có sai phạm về
quản lý. Việc có hai viện nhằm bảo đảm sự xem xét
đầy đủ nhất và rộng rãi nhất quá trình thực thi các chức
năng của quốc hội.

Trang 28
Bầu cử tự do và công bằng

Lâu đài Westminster – Tòa nhà Quốc hội Anh

Hai viện khác nhau sẽ có hai cách thức bầu cử khác


nhau. Thông thường, thượng viện thường được bầu
gián tiếp, hoặc theo các đơn vị bầu cử khác nhau, hoặc
trong những khoảng thời gian khác nhau, sao cho chỉ
một tỷ lệ nhất định thành viên thượng viện có thể tranh
cử vào cùng một thời điểm nào đó.

Trong chế độ đại nghị, hạ viện thường có quyền lực ưu


tiên hơn thượng viện. Do hạ viện được cả nước bầu cử
đồng thời và trực tiếp, nên hạ viện trở thành nguồn chủ
đạo tạo tính chính danh cho chính quyền. Thượng viện

Trang 29
Bầu cử tự do và công bằng

nhiều nhất thì cũng chỉ có một quyền có giới hạn, đó là


quyền trì hoãn hoặc phủ quyết luật. Ưu tiên này dành
cho hạ viện đặc biệt rõ nét ở các nước mà thượng nghị
sĩ được chỉ định chứ không qua bầu cử cạnh tranh.

Hiện nay, chu kỳ bầu cử bốn năm một lần được chấp
nhận rộng rãi trên thế giới. Đây là sự dung hoà hợp lý
giữa một bên là nhu cầu vận hành liên tục của chính
quyền và một bên là yêu cầu phải phản hồi, phải có
trách nhiệm giải trình đối với người dân. Tuy nhiên,
vẫn có thể thấy nhiều biến thể xoay quanh chuẩn bốn
năm này, ví dụ như ở Hoa Kỳ, Hạ viện được bầu hai
năm một lần, còn Thượng viện làm việc theo nhiệm kỳ
sáu năm.

Cho dù thời gian chính xác của mỗi nhiệm kỳ là bao


nhiêu đi nữa, thì điều quan trọng là thời điểm của bầu
cử không phải do chính quyền đang tại vị quyết định,
nhằm tránh tạo ra lợi thế bất công cho đảng hoặc các
đảng đang nắm quyền. Thời hạn của các nhiệm kỳ phải
được quy định rõ ràng trong hiến pháp quốc gia.

Trang 30
Bầu cử tự do và công bằng

10. Vị trí nguyên thủ quốc gia không bắt


buộc phải bầu phổ thông

Vị trí nguyên thủ quốc gia, về bản chất, là một vị trí


mang tính nghi thức và biểu tượng. Nguyên thủ quốc
gia đại diện cho sự thống nhất của cả đất nước, đứng
ngoài sự cạnh tranh của các đảng phái; và thể hiện sự
thống nhất của một quốc gia cho dù quốc gia đó thường
xuyên có sự thay đổi về chính quyền. Các thể chế chính
trị khác nhau có phương thức lựa chọn vị trí nguyên
thủ quốc gia rất khác nhau.

Chức năng biểu tượng có thể có tầm quan trọng đặc


biệt vào những thời khắc khủng hoảng quốc gia hoặc
có xung đột về hiến pháp, khi ấy nguyên thủ quốc gia
có thể thực thi quyền lực tương đối theo chủ quan.

Các chế độ khác nhau

Trong chế độ tổng thống, vị tổng thống được bầu sẽ kết


hợp cả chức năng nghi thức của nguyên thủ quốc gia
lẫn chức năng hành pháp của người đứng đầu chính
phủ (ví dụ: Nga, Mỹ, và phần lớn các nước châu Mỹ
Latin).

Trang 31
Bầu cử tự do và công bằng

Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier – người


được bầu thông qua một Hội nghị Liên bang

Trong chế độ đại nghị, Nguyên thủ quốc gia là một


cương vị tách biệt hoàn toàn khỏi chức vụ đứng đầu
chính phủ (thủ tướng). Nguyên thủ quốc gia có thể có
hình thức là một tổng thống không thuộc nhánh hành

Trang 32
Bầu cử tự do và công bằng

pháp, do quốc hội hoặc một hội đồng chọn ra (Đức,


Ireland, Ấn Độ, v.v.). Hoặc, Nguyên thủ quốc gia có
thể có hình thức quân chủ lập hiến, với ngôi vị được
truyền đời theo dòng họ và sẽ cầm quyền trọn đời (Anh,
Nhật Bản, Thái Lan, Tây Ban Nha, v.v.).

Không có câu trả lời đơn giản nào cho câu hỏi chế độ
nào là tốt nhất, bởi vì mỗi chế độ đều cần được đánh
giá trong tương quan với cả một hệ thống hiến pháp.

11. Bầu cử và cơ quan tư pháp

Tư pháp có chức năng pháp lý hơn là chức năng chính


trị. Phẩm chất bắt buộc của tư pháp là tính thống nhất
và chí công vô tư, chứ không phải tính chất phổ biến,
toàn dân. Ngành tư pháp cần được miễn trừ khỏi sự bất
thuận phổ biến hay khỏi nguy cơ quá gần gũi với một
thành phần nào đó trong cộng đồng. Vì vậy, hình thức
tuyển dụng tư pháp là vấn đề thuộc về dân chủ chính
danh, nghĩa là sự bổ nhiệm từ những đại biểu dân cử.
Và để tránh bất công, nhiệm kỳ của ngành tư pháp

Trang 33
Bầu cử tự do và công bằng

thông thường phải dài hơn nhiệm kỳ của các cơ quan


dân cử.

Các Thẩm phán Tối cao Pháp viện Mỹ có nhiệm kỳ


trọn đời

12. Các đại diện dân cử có được phép thay


đổi đảng giữa các kỳ bầu cử

Đây là một vấn đề gây tranh cãi.

Khi một ứng viên tham gia tranh cử dưới danh nghĩa
một đảng nào đó, ứng viên đó đã lựa chọn khuynh
hướng chính trị của mình và tự ràng buộc họ với việc

Trang 34
Bầu cử tự do và công bằng

được đảng đó ủng hộ. Bên cạnh đó, việc đổi đảng có
thể mang tính ích kỷ, ví dụ trong việc theo đuổi các
chức vụ công quyền. Nó gây ra cho cơ quan lập pháp
sự bất ổn đáng kể, cũng như làm thất vọng ý nguyện
của cử tri.

Vì những lý do này, quốc hội một số nước đã đưa ra


những điều khoản chống việc thay đổi đảng. Bắt buộc
đại biểu nào vào đảng khác giữa nhiệm kỳ đều phải từ
chức, hoặc phải tranh cử lại trong một cuộc bầu cử giữa
kỳ. Tuy nhiên, quy định như vậy có vấn đề là nó vi
phạm một nguyên tắc đã được thừa nhận: Đại biểu
quốc hội phải được tự do phát biểu và hành động như
họ muốn, vì lợi ích của cử tri của họ; họ chỉ có thể mất
ghế nếu bị buộc tội phạm luật hình sự, hoặc nếu có
quyết định của toàn thể cơ quan lập pháp bãi miễn họ.

Trang 35
Bầu cử tự do và công bằng

13. Quyền lực của cử tri giữa các kỳ bầu cử

Sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng, hành động chính trị duy
nhất mà cử tri có là bỏ phiếu trong các kỳ bầu cử; như
vậy, giữa các kỳ bầu cử, cử tri chẳng có quyền gì. Do
khả năng phải đối diện cử tri trong tương lai cấu thành
nên một kỷ luật quan trọng đối với các đảng cầm
quyền, và buộc các đảng ấy phải tham vấn công luận
liên tục.

Bên cạnh đó, có rất nhiều tổ chức xã hội dân sự để cử


tri có thể tham gia gây ảnh hưởng đến chính quyền đối

Trang 36
Bầu cử tự do và công bằng

với những vấn đề cụ thể vào giữa các kỳ bầu cử. Chẳng
hạn, họ có thể tham gia các nhóm vận động, hội tình
nguyện, tham gia trong các chiến dịch vận động, liên
hệ với đại biểu quốc hội và thành viên chính phủ, tham
gia biểu tình, tham gia tham vấn trước khi làm luật,
chất vấn đại diện về các chính sách v.v… Ngày nay,
mạng internet giúp cho việc theo sát diễn biến hoạt
động của chính phủ và quốc hội dễ dàng hơn.

14. Trưng cầu dân ý

Hầu hết các nền dân chủ đều đòi hỏi phải tổ chức trưng
cầu dân ý, có khi trưng cầu được tổ chức do yêu cầu
của đa số có đủ tư cách bỏ phiếu, có khi do những đề
xuất thay đổi hiến pháp hoặc các đạo luật có ý nghĩa
lập hiến.

Lý do để trưng cầu dân ý là: Hiến pháp thuộc về toàn


dân, chứ không phải về thành viên quốc hội hay chính
phủ đương nhiệm; và vì thế nó phải được toàn dân trực
tiếp phúc quyết.

Trang 37
Bầu cử tự do và công bằng

Brexit là một quyết định được trưng cầu dân ý

Ở một vài quốc gia, người ta tổ chức trưng cầu dân ý


trong một số đáng kể các vấn đề chính sách và luật
pháp, thường là sau khi có một tập hợp chữ ký với số
lượng nhất định ủng hộ đề xuất trưng cầu dân lý.
Những cuộc trưng cầu dân ý như vậy có thể diễn ra
dưới hình thức phủ quyết hồi tố những đạo luật hiện
hành. Trưng cầu dân ý cũng có thể tạo điều kiện cho
công dân tích cực có sáng kiến luật pháp mới, trong
trường hợp đó trưng cầu dân ý có thể mang tính chất tư

Trang 38
Bầu cử tự do và công bằng

vấn cho cơ quan lập pháp, hoặc cũng có thể mang tính
bắt buộc.

Việc ủng hộ hay chống đối trưng cầu dân ý là một


trong những vấn đề không có câu trả lời đúng hay
sai. Các nền dân chủ khác nhau sẽ áp dụng những cách
thức khác nhau tuỳ theo truyền thống chính trị của họ.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc cho phép trưng cầu dân
ý về lập pháp và các sáng kiến của công dân đang dần
trở nên phổ biến hơn trên thế giới.

Lý do là công cụ toàn dân này đang được coi là một


cách để làm giảm khoảng cách giữa cơ quan lập pháp
và cử tri. Việc đòi hỏi các sáng kiến như thế không xâm
phạm các quyền hiến định, tiếng nói của người thiểu số
hay các thành phần khác trong xã hội, tạo ra một cơ chế
bảo đảm cần thiết và chống lạm dụng.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…
Trang 39
Bầu cử tự do và công bằng

MỘT SỐ HỆ THỐNG BẦU CỬ


HIỆN NAY TRÊN THẾ GIỚI
Anh Thư

Bầu cử là một hoạt động chính trị quan trọng và có


những tác động to lớn đến việc hình thành thể chế
chính trị, cũng như ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
chính trị của xã hội. Những phương pháp bầu cử khác
nhau sẽ tạo ra những hệ thống chính trị rất khác nhau,
đồng thời ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định chính trị

Trang 40
Bầu cử tự do và công bằng

của một quốc gia. Hiện nay, các nước trên thế giới đang
áp dụng rất nhiều phương thức bầu cử khác nhau,
nhưng tựu trung có thể tóm gọn trong ba phương pháp:
đa số; tỷ lệ và hỗn hợp. Trong các phương pháp trên lại
chia thành nhiều phương thức nhỏ và phức tạp hơn.

Trang 41
Bầu cử tự do và công bằng

Trên thế giới hiện nay, hệ thống bầu cử được sử dụng


phổ biến nhất là bầu cử theo tỷ lệ, tiếp đến là bầu cử
theo đa số, các hệ thống khác ít được sử dụng hơn. Ở
một số khu vực, các hệ thống bầu cử tương đối đồng
nhất, ví dụ: 81% các nước vùng Caribe và Bắc Mỹ sử
dụng hệ thống đa số; tương tự, 74% các nước Mỹ
Latinh và 70% các nước Tây Âu sử dụng hệ thống tỷ
lệ. Ngược lại, khu vực Bắc Phi và Trung Đông lại sử
dụng những hệ thống bầu cử khác nhau.

Có nhiều nguyên nhân để một quốc gia lựa chọn nột hệ


thống bầu cử, chẳng hạn như: đảm bảo tính công bằng;
giảm bớt chia rẽ sắc tộc, hay lợi ích phe phái; do ảnh
hưởng của truyền thống hoặc di sản thuộc địa… Tuy
nhiên, lý do quan trọng nhất trong việc áp dụng hệ
thống bầu cử thường liên quan đến sự cạnh tranh lợi
ích giữa các phe phái. Do cách thức bầu cử ảnh hưởng
đến việc ai sẽ là người chiến thắng trong các cuộc bầu
cử, nên các lực lượng khác nhau cố gắng lựa chọn hệ
thống nào có lợi nhất cho mình. Và hệ thống bầu cử
được lựa chọn là kết quả của sự thỏa thuận giữa các
phe phái.

Trang 42
Bầu cử tự do và công bằng

Để cung cấp cho độc giả một tầm nhìn tương đối tổng
quát về các phương pháp bầu cử đang được thực hiện
trên thế giới, trong phạm vi bài dự thi này, tôi chỉ xin
giới thiệu sơ lược một số điểm chính, cũng như những
ưu nhược điểm của các phương pháp bầu cử nói trên.

A. PHƯƠNG PHÁP BẦU THEO ĐA SỐ:

Phương thức bầu đa số

Trang 43
Bầu cử tự do và công bằng

Trước hết, cần nói rằng, bầu cử có hai hình thức khác
nhau: Cách thứ nhất là bầu trực tiếp cho ứng cử viên;
và cách thứ 2 là bầu cho đảng phái chính trị, sau đó
đảng chính trị sẽ chỉ định thành viên của mình trở thành
người thắng cử.

Hệ thống bầu cử theo đa số là hệ thống trong


đó ứng viên hay đảng nhận được nhiều phiếu
nhất sẽ chiến thắng. Hệ thống này được gọi là
“đa số” là vì chúng thường giúp cho một đảng
có thể giành được đa số ghế trong quốc hội,
ngay cả khi đảng đó không giành được đa số
phiếu bầu.

Hệ thống này có xu hướng giúp cho các đảng lớn đạt


được chiến thắng, trong khi các đảng nhỏ thường chỉ
giành được ít ghế hoặc thậm chí không giành được ghế
nào, cho dù họ vẫn đạt được một số phiếu bầu nhất
định. Có nhiều phương pháp đa số đang được sử dụng
trên thế giới, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một số dạng
phổ biến nhất.

Trang 44
Bầu cử tự do và công bằng

I. Phương pháp đa số tương đối áp dụng


cho đơn vị bầu cử một đại diện (SMDP)

Đây là hệ thống đa số đơn giản nhất và được sử dụng


phổ biến nhất, chủ yếu ở Anh và các thuộc địa cũ của
Anh như Canada, Mỹ…

Một phiên họp tại Hạ viện Anh

Thông thường, cả nước sẽ được chia thành các đơn vị


bầu cử, với quy mô tương đương nhau về dân số. Mỗi
đơn vị bầu cử chỉ bầu ra một người đại diện duy nhất.
Mỗi cử tri có một lá phiếu, và họ sẽ bỏ lá phiếu đó cho

Trang 45
Bầu cử tự do và công bằng

ứng viên mà họ ủng hộ. Ứng viên nào giành được nhiều
phiếu nhất là người thắng cuộc, và trở thành người đại
diện cho đơn vị bầu cử. Hệ thống này còn được gọi là
hệ thống “ngựa chạy về nhất”, nghĩa là người giành
được nhiều phiếu nhất là người thắng cuộc giống như
trong các cuộc đua ngựa.

Hệ thống SMDP có một số ưu – nhược điểm sau:

Ưu điểm:

1. Hệ thống này rất đơn giản, do đó cử tri dễ


dàng hiểu và áp dụng; do đó cũng dễ dàng cho
việc quản lý và chi phí bầu cử tương đối thấp.

2. Làm gia tăng trách nhiệm của người đại


diện. Bởi vì chỉ có một người đại diện trong một
đơn vị bầu cử, nên có thể dễ dàng quy trách
nhiệm về những gì xảy ra trong đơn vị bầu cử
đó cho người đại diện, và buộc họ phải làm việc
có trách nhiệm hơn, tốt hơn, nếu muốn tiếp tục
được bầu trong kì bầu cử kế tiếp.

Trang 46
Bầu cử tự do và công bằng

3. Tạo ra chính phủ đa số một đảng. Đây là


dạng chính phủ có sự ổn định và khả năng chịu
trách nhiệm cao hơn so với các dạng chính phủ
khác.

Nhược điểm:

1. Tạo ra kết quả dưới đại diện ở cấp đơn vị


bầu cử. Nghĩa là, một ứng viên có thể chiến
thắng với tỷ lệ phiếu bầu dưới 50%.

2. Tạo ra kết quả dưới đại diện ở cấp độ quốc


gia. Bởi vì, có thể có trường hợp, một đảng nào
đó có rất ít hoặc không có ứng viên giành được
ghế trong quốc hội, trong khi tổng số phiếu mà
các ứng viên của đảng đó nhận được trên toàn
quốc khá lớn. Ngược lại, một đảng khác có thể
giành được đa số ghế trong quốc hội, thậm chí
là tất cả, song lại chỉ nhận được số lượng phiếu
ít hơn 50% trên toàn quốc; bởi các ứng viên
của họ về nhất trong các đơn vị bầu cử.

Trang 47
Bầu cử tự do và công bằng

3. Khuyến khích gian lận trong việc phân chia


đơn vị bầu cử. Đây là một hiện tượng phổ biến
đối với những quốc gia áp dụng hệ thống này.

4. Khuyến khích cử tri bỏ phiếu chiến lược hơn


là bỏ phiếu theo sở thích thực sự. Nghĩa là bỏ
phiếu cho ứng viên mình thích, nhưng không
phải thích nhất, song lại là ứng viên có khả
năng giành chiến thắng.

5. Khuyến khích tạo ra các đảng sắc tộc trong


những nước mà các nhóm sắc tộc sống tập
trung thành từng khu vực. Kết quả làm cho các
quốc gia bị chia rẽ về địa lý tạo ra các khu vực
riêng biệt do các đảng khác nhau kiểm soát;
đồng thời không khuyến khích các đảng thu hút
cử tri ra bên ngoài khu vực thành trì của đảng
mình.

II. Phương pháp lá phiếu thay thế (AV)

Để tránh hiện tượng ứng viên chiến thắng mà không


cần giành được trên 50% phiếu bầu, một số nơi đã cho

Trang 48
Bầu cử tự do và công bằng

phép cử tri lựa chọn ứng viên theo thứ tự ưu tiên, thay
vì chỉ bỏ phiếu cho một ứng viên duy nhất. Tức là cử
tri sẽ đánh số trong một danh sách các ứng viên theo
sở thích của mình. Nếu có ứng viên giành được đa số
tuyệt đối hơn 50% với ưu tiên một, thì ứng viên đó
giành chiến thắng. Nếu không có ứng viên nào đạt
được trên 50% với ưu tiên một, thì ứng viên có ưu tiên
một thấp nhất sẽ bị loại. Số phiếu của người này sẽ
được tái phân phối cho các ứng viên khác, theo ưu tiên
thứ hai của cử tri bỏ trên lá phiếu của người này. Quá
trình này được thực hiện lặp đi lặp lại cho đến khi có
một ứng viên giành được đa số tuyệt đối và trở thành
người thắng cuộc.

Một điều thú vị của phương pháp này là, lúc đầu một
ứng viên giành được nhiều phiếu nhất. Tuy nhiên, sau
nhiều lần tái phân phối phiếu theo ưu tiên của cử tri, thì
ứng viên khác lại trở thành người thắng cuộc. Phương
pháp này được áp dụng cho bầu cử Hạ viện Úc, Fiji,
hay bầu Tổng thống ở Ireland.

Trang 49
Bầu cử tự do và công bằng

Hạ viện Úc

Trang 50
Bầu cử tự do và công bằng

Các ưu – nhược điểm của phương pháp AV:

Ưu điểm:

1. Phương pháp AV giữ được phần lớn ưu điểm


của phương pháp SMDP. Chẳng hạn, do chỉ có
một người đại diện được bầu, nên cử tri có thể
dễ dàng quy trách nhiệm cho họ về các chính
sách và buộc họ phải làm việc tốt hơn nếu muốn
trúng cử trong kì bầu cử kế tiếp.

2. Cử tri có nhiều cơ hội hơn trong việc thể hiện


quan điểm bầu cử của mình.

3. Giúp cử tri không cần bỏ phiếu chiến lược,


mà bỏ phiếu cho người họ thích nhất. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, điều này không đồng
nghĩa với việc loại bỏ hoàn toàn hiện tượng bỏ
phiếu chiến lược.

4. Khuyến khích ứng viên vận động bầu cử ra


bên ngoài khối cử tri cốt lõi truyền thống, để
giành lấy ưu tiên số hai, số ba của cử tri. Đây
cũng là lý do khiến cho hệ thống này được

Trang 51
Bầu cử tự do và công bằng

khuyến khích sử dụng cho các xã hội có sự chia


rẽ sâu sắc về sắc tộc như Bosnia, Fiji và Nam
Phi.

Nhược điểm:

1. Nhiều ý kiến phê phán cho rằng, ứng viên


chiến thắng có thể không giành được đa số
tuyệt đối “thực sự”. Bởi vì người giành được
nhiều phiếu ưu tiên một nhất, có thể lại không
phải là người chiến thắng.

2. Phức tạp và gây khó khăn cho cử tri trong


việc bỏ phiếu, cũng như tốn kém về tiền bạc và
thời gian trong việc tổ chức bầu cử.

3. Khả năng sai sót hoặc gian lận trong việc tái
phân phối phiếu.

III. Phương pháp hai vòng (TRS)

Theo phương pháp này, việc bầu cử có thể phải tiến


hành hai vòng.

Trang 52
Bầu cử tự do và công bằng

Nếu có ứng viên hay đảng trong vòng bầu cử đầu tiên
giành được một mức phiếu cụ thể theo quy định
(thường là trên 50%) thì sẽ chiến thắng. Nếu không thì
tổ chức bầu cử vòng hai, thường là một hoặc hai tuần
sau đó. Ứng viên hay đảng nào giành được nhiều phiếu
nhất ở vòng hai sẽ là người chiến thắng.

Phương pháp hai vòng này được chia thành hai dạng
chính: TRS tuyệt đối và TRS tương đối.

- Phương pháp TRS tuyệt đối: áp dụng cho đơn vị


bầu cử một đại biểu, trong đó mỗi cử tri có một lá phiếu
và bầu cho một ứng viên. Ứng viên nào đạt trên 50%
phiếu trong vòng thứ nhất thì chiến thắng. Nếu không
thì hai ứng viên giành được nhiều phiếu nhất sẽ chạy
đua trong vòng hai. Ai giành được nhiều phiếu hơn
trong vòng hai thì chiến thắng.

Trang 53
Bầu cử tự do và công bằng

Các ứng viên tranh cử Tổng thống Pháp năm 2017

Phương pháp này được sử dụng trong các cuộc bầu cử


tổng thống ở nhiều nước như Pháp, Mali và hầu hết các
nước Mỹ Latinh. Nó cũng được sử dụng cho các cuộc
bầu cử quốc hội ở một số nước như Haiti, Kyrgyzstan
và Ukraine.

- Phương pháp TRS tương đối: áp dụng cho đơn vị


bầu cử một đại biểu, trong đó mỗi cử tri có một phiếu
và bỏ cho một ứng viên.

Trang 54
Bầu cử tự do và công bằng

Hạ viện Pháp

Nếu ứng viên nào giành được trên 50% phiếu trong
vòng đầu thì chiến thắng. Nếu không thì những ứng
viên vượt qua được một ngưỡng quy định, sẽ tiếp tục
chạy đua trong vòng hai. Trong vòng hai, ứng viên nào
giành được nhiều phiếu nhất (không nhất thiết phải lớn
hơn 50%), thì chiến thắng.

Phương pháp này được dùng cho bầu cử Hạ viện Pháp,


trong đó tất cả ứng viên giành được trên 12.5% trong
vòng một thì sẽ được tham gia chạy đua cho vòng hai.

Trang 55
Bầu cử tự do và công bằng

Các ưu – nhược điểm của phương pháp TRS:

Ưu điểm:

1. Trao cho cử tri nhiều lựa chọn hơn so với


phương pháp SMDP. Chẳng hạn, một cử tri bỏ
phiếu cho một ứng viên bị thua trong vòng một
sẽ có thêm một cơ hội bỏ phiếu quyết định
người chiến thắng trong vòng hai.

2. Cho phép cử tri thay đổi ý kiến, qua đó thay


đổi ứng viên, khi họ có nhiều thông tin mới về
các ứng viên trong khoảng thời gian giữa hai
vòng bầu cử.

3. Cử tri ít bị thúc đẩy phải bỏ phiếu chiến lược


hơn so với phương pháp SMDP, bởi họ có cơ
hội thứ hai để ảnh hưởng lên kết quả bầu cử.

4. Khuyến khích các ứng viên chạy đua trong


vòng hai vận động ra ngoài thành trì chính trị
của họ, giành sự ủng hộ từ cử tri của các ứng
viên đã bị thua trong vòng một.

Trang 56
Bầu cử tự do và công bằng

Nhược điểm:

1. Do bầu cử hai vòng, nên tốn kém chi phí


quản lý bầu cử, tốn thời gian cho cử tri. Thực
tế cho thấy có sự sụt giảm đáng kể số lượng cử
tri đi bầu trong vòng bầu cử thứ hai.

2. Tạo ra kết quả không tỉ lệ giữa số phiếu và


số ghế. Số liệu cho thấy, phương pháp này tạo
ra kết quả bất tỉ lệ nhất so với các phương pháp
bầu cử khác.

3. Làm giảm sự đại diện của nhóm thiểu số.


Chẳng hạn, Guinier cho rằng nhiều bang miền
nam nước Mỹ áp dụng phương pháp TRS để
làm giảm khả năng chiến thắng của các ứng cử
viên người Mỹ gốc Phi.

B. PHƯƠNG PHÁP BẦU THEO TỶ LỆ:

Mục tiêu của phương pháp bầu cử tỉ lệ là tạo ra kết quả


tỉ lệ - tức số ghế tương ứng với số phiếu. Ví dụ: Nếu

Trang 57
Bầu cử tự do và công bằng

một đảng giành được 10% số phiếu, thì sẽ giành được


10% số ghế; giành được 20% số phiếu, thì sẽ giành
được 20% số ghế; v.v… Có thể chia phương pháp bầu
cử tỉ lệ thành hai dạng chính là: phương pháp đại diện
tỉ lệ theo danh sách đảng (list PR) và phương pháp lá
phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (STV).

Phương thức bầu theo tỷ lệ

(tỷ lệ ghế của mỗi đảng tương ứng với tỷ lệ phiếu)

Trang 58
Bầu cử tự do và công bằng

Các phương pháp này có hai đặc điểm chung:

1. Áp dụng cho đơn vị bầu cử nhiều đại diện. Vì


nếu áp dụng cho đơn vị bầu cử một đại diện, thì
không thể phân chia ghế cho các đảng theo tỉ
lệ số phiếu mà các đảng giành được.

2. Sử dụng một hạn ngạch (quota) hoặc một


ước số (divisor) để xác định ai là người được
bầu trong các đơn vị bầu cử.

Phương pháp này có các ưu – nhược điểm sau:

Ưu điểm:

1. Tạo ra kết quả bầu cử tỉ lệ. Điều này giúp


tránh được hiện tượng một đảng giành được
một số lượng phiếu bầu đáng kể song lại chỉ
giành được ít ghế; hoặc một đảng chỉ giành
được dưới 50% phiếu bầu, song lại được trên
50% số ghế trong quốc hội. Vì vậy, kết quả bầu
cử sẽ công bằng hơn.

Trang 59
Bầu cử tự do và công bằng

2. Các đảng nhỏ có nhiều khả năng sẽ có chân


trong quốc hội, theo tỉ lệ số phiếu mà họ giành
được. Điều này khuyến khích cử tri không cần
phải bỏ phiếu chiến lược, mà có thể bỏ phiếu
theo sở thích thực sự của mình.

3. Một số học giả cho rằng phương pháp này


thích hợp hơn với các xã hội có sự chia sẽ sâu
sắc về tôn giáo và sắc tộc. Nó tạo cơ hội cho
mọi nhóm đều có chân trong quốc hội. Qua đó,
hình thành các chính phủ liên minh, chia sẻ
quyền lực, hợp tác để cùng giải quyết các vấn
đề nhằm đảm bảo quyền lợi của tất cả các
thành phần trong xã hội. Vì vậy, hệ thống chính
trị trở nên ổn định hơn so với việc một nhóm đa
số nắm quyền và gạt các nhóm thiểu số ra khỏi
đời sống chính trị mà các phương pháp bầu cử
đa số thường tạo ra.

4. Từ các lý do trên, tỉ lệ cử tri đi bỏ phiếu trong


hệ thống PR thường cao hơn so với hệ thống đa
số.

Trang 60
Bầu cử tự do và công bằng

Nhược điểm:

1. Có xu hướng tạo ra các chính phủ liên minh


với một số vấn đề cố hữu. Rất khó buộc các
đảng trong chính phủ liên minh chịu trách
nhiệm cho các chính sách của chính phủ. Bởi
vì, trong kì bầu cử kế tiếp, dù có thể mất đi một
phần sự ủng hộ, song họ vẫn có thể có chân
trong chính phủ liên minh. Mặt khác, các chính
phủ liên minh thường kém ổn định hơn so với
các chính phủ một đảng do các phương pháp
bầu cử đa số tạo ra.

2. Phương pháp này cho phép các đảng nhỏ và


cực đoan có chân trong quốc hội. Sự tồn tại của
các đảng cực đoan có thể làm xói mòn nền dân
chủ, như đã từng xảy ra trong quá khứ với
Đảng Nazi (của Hitler) trong Cộng hòa
Weimar.

3. Các đảng nhỏ mà phương pháp tỷ lệ tạo ra,


lại có vai trò lớn trong quá trình hình thành
chính phủ và thường nhận được sự nhượng bộ

Trang 61
Bầu cử tự do và công bằng

lớn hơn nhiều so với tỷ lệ số ghế mà họ có. Điều


này là vì các đảng lớn cần họ để thành lập
chính phủ hoặc thông qua một chính sách nào
đó.

4. Sự liên hệ giữa người đại diện và cử tri


thường yếu, bởi có nhiều người đại diện trong
cùng một đơn vị bầu cử. Nhiều khi, cử tri không
biết được ai đang đại diện thực sự cho đơn vị
bầu cử của họ.

I. Các phương pháp đại diện tỉ lệ theo danh


sách (PR)

Theo các phương pháp này, mỗi đảng đưa ra một danh
sách ứng viên cho mỗi đơn vị bầu cử. Sau đó, họ sẽ
nhận được số ghế tỉ lệ với số phiếu mà đảng của họ
giành được trong cuộc bầu cử.

Các phương pháp PR khác nhau ở một số điểm quan


trọng như sau:

Trang 62
Bầu cử tự do và công bằng

a) công thức để phân chia số ghế cho các đảng


(hạn ngạch hay thương số);

b) độ lớn của đơn vị bầu cử;

c) ngưỡng bầu cử;

d) dạng danh sách đảng.

Công thức phân chia ghế: có hai công thức là hạn


ngạch (quotas) và thương số (divisors)

Theo phương pháp hạn ngạch (quotas), thì hạn ngạch


là số phiếu đảm bảo cho một đảng giành được một ghế
trong một đơn vị bầu cử, được xác định bởi công thức:

𝑉𝑑
Q(n) =
𝑀𝑑 + 𝑛

Trong đó:

- Vd là tổng số phiếu hợp lệ trong đơn vị bầu cử


d;
- Md là số ghế của đơn vị bầu cử d;

Trang 63
Bầu cử tự do và công bằng

- n là một số nguyên tùy theo phương pháp tính


(n là 0 với hạn ngạch Hare, là 1 với hạn ngạch
Hagenbach-Bischoff, v.v...)

Ví dụ, với hạn ngạch Hare cho một đơn vị bầu cử có


10 ghế đại diện và 100 ngàn phiếu hợp lệ. Số phiếu để
một đảng giành được một ghế tại đơn vị bầu cử đó sẽ
là 100,000:10 = 10,000.

Nhưng với hạn ngạch Hagenbach- Bischoff cho đơn vị


bầu cử tương tự sẽ là 100,000:(10+1) = 9.090 phiếu.

Theo phương pháp thương số (divisors), tổng số phiếu


mà một đảng giành được trong một đơn vị bầu cử sẽ
được chia cho một chuỗi các số gọi là số chia. Số ghế
được phân phối cho các đảng theo các thương số lớn
nhất.

Cụ thể: Người ta chia tổng số phiếu của từng đảng cho


chuỗi số 1,2,3,4,5 v.v… và mỗi đảng đạt được một
chuỗi các thương số là kết quả của phép chia đó. Sau
đó, người ta so sánh các thương số, với cùng một số

Trang 64
Bầu cử tự do và công bằng

chia sẽ chọn được thương số lớn nhất. Nếu đơn vị bầu


cử có 10 ghế thì chọn ra 10 thương số lớn nhất.

Kết quả là, nếu đảng A có 5 thương số lớn nhất thì nhận
được 5 ghế, đảng B có 2 thương số lớn nhất thì được 2
ghế, v.v…

Độ lớn đơn vị bầu cử là số đại diện được bầu trong


một đơn vị bầu cử.

Đây là nhân tố chính ảnh hưởng đến sự tỉ lệ của hệ


thống bầu cử. Các hệ thống bầu cử sẽ có sự tỉ lệ lớn
hơn khi đơn vị bầu cử có độ lớn lớn hơn.

Ví dụ, một đảng cần giành được hơn 25% số phiếu để


đảm bảo giành được một ghế trong đơn vị bầu cử có độ
lớn là 3 (hay có ba đại diện), nhưng sẽ chỉ cần hơn 10%
số phiếu trong đơn vị bầu cử có độ lớn là 9. Kết quả
bầu cử sẽ trở nên bất tỉ lệ khi độ lớn bầu cử nhỏ, bất kể
công thức bầu cử nào được sử dụng.

Độ lớn của đơn vị bầu cử rất khác nhau giữa các nước.
Chẳng hạn, Hà Lan, Slovakia có đơn vị bầu cử là toàn

Trang 65
Bầu cử tự do và công bằng

quốc với 150 đại biểu, trong khi Chile có đơn vị bầu cử
chỉ với hai đại biểu.

Độ lớn của đơn vị bầu cử cũng có ảnh hưởng lớn đến


mối liên hệ giữa người đại diện và cử tri. Khi độ lớn
đơn vị bầu cử tăng, thì mối liên kết giữa người đại diện
và cử tri giảm.

Ngưỡng bầu cử quy định số phiếu tối thiểu mà một


đảng phải giành được để có chân trong quốc hội. Có
hai loại là ngưỡng chính thức được áp đặt về mặt pháp
lý và ngưỡng tự nhiên do một đặc điểm toán học của
phương pháp bầu cử tạo ra. Độ lớn của ngưỡng bầu cử
có ảnh hưởng lớn đến sự tỉ lệ của hệ thống bầu cử.

Ở Hà Lan, bất cứ đảng nào nếu giành được hơn 0.67%


số phiếu quốc gia thì cũng giành được ghế trong quốc
hội. Đây là ngưỡng tự nhiên do có 150 ghế được phân
phối trong một đơn vị bầu cử quốc gia, tức là 100%:150
= 0.67%.

Trang 66
Bầu cử tự do và công bằng

Trong khi đó, ngưỡng chính thức được viết trong luật
bầu cử. Ví dụ, các đảng chính trị ở Israel phải giành
được 2% số phiếu bầu quốc gia mới có thể giành được
ghế trong quốc hội, ở Thổ Nhĩ Kỳ, các đảng phải giành
được tối thiểu 10% số phiếu mới có ghế trong quốc hội.

Ngưỡng chính thức được sử dụng để làm giảm sự phân


mảnh của quốc hội và ngăn không cho các đảng quá
nhỏ có ghế trong quốc hội. Ngưỡng chính thức có ảnh
hưởng lớn đến kết quả bầu cử. Chẳng hạn, có rất nhiều
đảng nhỏ không vượt qua được ngưỡng 10% trong
cuộc bầu cử Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2002. Số
lượng đảng nhỏ này nhiều đến mức, tổng số phiếu cử
tri bầu cho các đảng này chiếm 46% tổng số phiếu
trong cuộc bầu cử. Điều này có nghĩa là 46% số phiếu
cử tri trở thành phiếu vô nghĩa.

Các dạng danh sách đảng: có hai loại là danh sách


đóng và danh sách mở

Với danh sách đảng đóng, cử tri bầu cho đảng chứ
không bầu cho ứng viên cụ thể. Trật tự ứng viên giành

Trang 67
Bầu cử tự do và công bằng

được ghế do đảng quyết định. Ghế thứ nhất dành cho
ứng viên được ghi danh ở vị trí đầu tiên trong danh
sách, ghế thứ hai cho ứng viên được ghi danh ở vị trí
thứ hai v.v… Do đó, nếu một đảng giành được bốn ghế
trong một đơn vị bầu cử, thì bốn ứng viên đầu tiên
trong danh sách sẽ trở thành những người đại diện. Các
ứng viên còn lại bị loại.

Phương pháp này có hai ưu điểm:

1. Gia tăng kỉ luật trong đảng;

2. Nếu muốn cho các ứng viên thiểu số hoặc


ứng viên nữ giành chiến thắng, thì có thể đặt
họ lên đầu danh sách của đảng.

Trong danh sách đảng mở, cử tri không chỉ bầu cho
đảng mà còn bầu cho ứng viên trong đảng mà mình
thích. Ứng viên nào giành được nhiều phiếu nhất thì
trở thành người đại diện cho đảng. Chẳng hạn, nếu một
đảng giành được bốn ghế trong một đơn vị bầu cử, thì
bốn ứng viên nào giành được nhiều phiếu bầu nhất sẽ
trở thành người đại diện cho đảng.

Trang 68
Bầu cử tự do và công bằng

Lá phiếu theo danh sách đảng mở (trên) và đóng (dưới)

Trang 69
Bầu cử tự do và công bằng

Phương pháp này cho phép cử tri tự do hơn trong việc


lựa chọn các ứng viên mà mình thích. Tuy nhiên, nó
làm suy yếu sự kiểm soát của đảng đối với đảng viên
và dẫn đến việc cạnh tranh trong nội bộ đảng để trở
thành người đại diện, vì vậy làm suy yếu đảng.

II. Phương pháp lá phiếu duy nhất có thể


chuyển nhượng (STV)

Đây là hệ thống bầu cử tỷ lệ duy nhất không sử dụng


danh sách đảng. Nó được sử dụng cho đơn vị bầu cử
nhiều đại diện. Thông thường, cử tri sẽ đặt các con số
bên cạnh tên các ứng viên, cho biết lựa chọn số một, số
hai, số ba... của mình.

Để giành chiến thắng, các ứng viên phải đạt đươc một
hạn ngạch hay ngưỡng phiếu bầu nào đó. Nếu không
đủ ứng viên đạt được hạn ngạch cần thiết để dại diện
cho đơn vị bầu cử, thì ứng viên với số lượng lựa chọn
đầu tiên ít nhất sẽ bị loại. Số phiếu từ ứng viên bị loại
và số phiếu dư từ các ứng viên đã được bầu chọn, sẽ
được tái phân phối cho các ứng viên còn laị. Quá trình
này diễn ra cho đến khi có đủ số ứng viên đạt được hạn
ngạch để đại diện cho đơn vị bầu cử.

Trang 70
Bầu cử tự do và công bằng

Lá phiếu chuyển nhượng

Đây là một hệ thống bầu cử khá phức tạp.

Các ưu – nhược điểm của phương pháp này:

Ưu điểm:

1. Cung cấp cho cử tri cơ hội để truyền đạt


nhiều hơn thông tin về sở thích của mình. Cử

Trang 71
Bầu cử tự do và công bằng

tri trong hệ thống SVT có cơ hội sắp xếp theo


trật tự tất cả các ứng viên hơn là đơn thuần bỏ
phiếu theo kiểu có hay không. Sở thích của cử
tri sẽ được tái phân phối khi một ứng viên thắng
cử hoặc bị loại, nên giảm thiểu số phiếu bị lãng
phí.

2. Cho phép cử tri bỏ phiếu cho các ứng viên


của các đảng khác nhau, và điều này có nghĩa
rằng cử tri có thể bỏ phiếu cho các ứng viên có
quan điểm chính sách tương tự với họ ngay cả
khi ứng viên đó đến từ các đảng khác.

3. Khuyến khích ứng viên thu hút các nhóm bên


ngoài khối cử tri cốt lõi của mình.

4. Giúp giảm bớt chia rẽ, nhất là trong các xã


hội có sự chia rẽ lớn.

5. Cử tri không cần phải bỏ phiếu chiến lược


và tăng cường mối liên kết giữa cử tri và người
đại diện, khiến người đại diện có trách nhiệm

Trang 72
Bầu cử tự do và công bằng

và quan tâm hơn đến các vấn đề địa phương mà


mình đại diện.

Nhược điểm:

1. Làm suy yếu tính thống nhất trong đảng. Bởi


vì cử tri được phép xếp hạng các ứng viên trong
cùng một đảng, khiến cho các ứng viên này có
thể sẽ vận động chống lại nhau.

2. Hệ thống khó sử dụng trong các đơn vị bầu


cử lớn, do tính phức tạp.

C. PHƯƠNG PHÁP BẦU CỬ HỖN HỢP

Hệ thống bầu cử hỗn hợp sử dụng kết hợp cả hai


phương pháp tỉ lệ và đa số trong việc phân bổ số ghế.
Hầu hết hệ thống này sử dụng nhiều cấp bầu cử, thường
là hệ thống đa số cho cấp thấp (đơn vị bầu cử cơ sở -
quận) và hệ thống tỉ lệ sử dụng cho cấp cao (khu vực
hoặc quốc gia).

Trang 73
Bầu cử tự do và công bằng

Có hai dạng hệ thống bầu cử hỗn hợp, đó là: độc lập


và phụ thuộc.

I. Phương pháp bầu cử hỗn hợp độc lập

Đây là hệ thống sử dụng đồng thời cả hai hệ thống đa


số và tỉ lệ một cách độc lập với nhau, còn được gọi là
“hệ thống hỗn hợp song song”. Dạng này sử dụng công
thức đa số và tỷ lệ cho hai cấp bầu cử riêng biệt. Ví dụ,
tại Ukraine vào năm 1998 và 2002, một nửa số nghị sỹ
được bầu với hệ thống đa số SMDP ở cấp địa phương,
và nửa còn lại được bầu với hệ thống tỷ lệ theo danh
sách đảng PR cho cấp quốc gia.

Tỷ lệ phân chia số ghế giữa phương pháp đa số và


phương pháp tỷ lệ tùy vào từng quốc gia, như ở
Ukraine là 50 - 50. Ở một số nước, ví dụ Hàn Quốc
người dân chỉ có một lá phiếu sử dụng cho cả hai bộ
phận của hệ thống bầu cử. Một số nước khác, như Nhật,
người dân có hai lá phiếu: một cho bộ phận đa số, và
một cho bộ phận tỷ lệ.

Trang 74
Bầu cử tự do và công bằng

Hai lá phiếu bầu Hạ viện Nhật Bản

(bên trái là lá phiếu bầu cho ứng cử viên,

bên phải là lá phiếu bầu cho đảng)

II. Phương pháp bầu cử hỗn hợp phụ thuộc

Hệ thống này áp dụng công thức tỉ lệ phụ thuộc vào sự


phân bổ số ghế do công thức đa số tạo ra. Bộ phận tỷ
lệ được sử dụng để bù đắp cho sự bất tỷ lệ mà hệ thống
đa số tạo ra. Hệ thống này sử dụng công thức đa số và
tỷ lệ cho hai cấp bầu cử riêng biệt. Ví dụ, Mexico bầu

Trang 75
Bầu cử tự do và công bằng

300 đại biểu theo công thức đa số SMDP trong các đơn
vị cơ sở và 200 đại biểu theo hệ thống danh sách đảng
PR trong năm đơn vị bầu cử cấp khu vực, mỗi đơn vị
bầu 40 đại biểu. Các nước sử dụng hệ thống hỗn hợp
phụ thuộc bao gồm Albania, Đức, và New Zealand.

Trong hệ thống này, cử tri có hai lá phiếu. Họ bỏ lá


phiếu thứ nhất cho một người đại diện ở cấp cơ sở
(phiếu ứng viên), và lá phiếu thứ hai cho một danh sách
đảng ở cấp cao hơn, cấp khu vực hay quốc gia (phiếu
đảng). Dạng hệ thống này cho phép cử tri có thể bỏ lá
phiếu đầu tiên của mình cho ứng viên đến từ một đảng,
và lá phiếu thứ hai cho một đảng khác. Kết quả bầu cử
trong hệ thống hỗn hợp phụ thuộc này sẽ tỷ lệ hơn kết
quả trong hệ thống hỗn hợp độc lập.

Trang 76
Bầu cử tự do và công bằng

Hai lá phiếu bầu Hạ viện Đức.

Phiếu bên trái bầu ứng cử viên, phiếu bên phải bầu
theo đảng.

Trang 77
Bầu cử tự do và công bằng

Nhìn chung, các hệ thống hỗn hợp là một nỗ lực kết


hợp những mặt tích cực của các hệ thống đa số và tỷ
lệ. Hệ thống hỗn hợp giúp giảm bớt kết quả bất tỷ lệ,
đồng thời đảm bảo rằng một số người đại diện có liên
hệ trực tiếp với đơn vị bầu cử cụ thể. Hệ thống hỗn hợp
phụ thuộc tạo ra hai nhóm nghị sỹ, một nhóm chịu trách
nhiệm với cử tri ở đơn vị bầu cử, và một nhóm chịu
trách nhiệm với đảng. Điều này ảnh hưởng đến sự gắn
kết trong đảng.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…

Trang 78
Bầu cử tự do và công bằng

BẦU CỬ PHI DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM


Ngọc Ánh

Tại Việt Nam, nhà cầm quyền và rất nhiều người dân
cho rằng, Việt Nam có dân chủ, vì Việt Nam vẫn tổ
chức các cuộc bầu cử định kỳ, cũng như vẫn tổ chức
các cuộc tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với công dân.
Vậy điều này có đúng hay không?

Trang 79
Bầu cử tự do và công bằng

Thực tế cho thấy, nếu chỉ dựa vào việc có tổ chức các
cuộc bầu cử thì chưa đủ để khẳng định một quốc gia có
dân chủ. Bởi vì, trên thế giới có rất nhiều kẻ độc tài tổ
chức những cuộc bầu cử gian lận để mạo danh dân chủ
và tìm kiếm tính chính danh cho mình. Nếu chỉ nhìn
vào các cuộc bầu cử hình thức mà không xét đến các
yếu tố để tạo nên một cuộc bầu cử thực sự dân chủ thì
không thể đánh giá được thực chất và mức độ dân chủ
ở một quốc gia.

Tổng thống Emomali Rahmon, nhà độc tài Tajikistan,


nắm quyền từ 1994 đến nay và qua 4 nhiệm kỳ.

Trang 80
Bầu cử tự do và công bằng

Ngay trong các nền dân chủ, việc gian lận bầu cử vẫn
có thể xảy ra, những người hoặc đảng phái nắm quyền
luôn phải chịu nhiều rủi ro về chính trị và luôn có nguy
cơ thất cử ở những nhiệm kỳ kế tiếp. Do đó, họ có thể
giở trò gian lận trong kỳ bầu cử mà họ đang nắm quyền.
Để bảo đảm cho nền dân chủ được vận hành, cần phải
có một cơ chế hữu hiệu nhằm ngăn chặn những người
nắm quyền giở trò gian lận. Cơ chế đó chính là các
nguyên tắc “bầu cử tự do và công bằng”.

Các tiêu chuẩn để có “bầu cử tự do và công bằng” là:

1. Mỗi công dân đều có một lá phiếu, và mỗi lá


phiếu đều có giá trị như nhau;
2. Tất cả các công dân đủ điều kiện theo quy
định đều có quyền tự do tham gia ứng cử;
3. Tất cả các ứng cử viên đều có cơ hội như
nhau để giới thiệu với cử tri về các ý tưởng và
đề xuất của mình;
4. Ứng cử viên hoặc đảng phái chính trị nào được
nhiều phiếu nhất sẽ được nắm quyền;

Trang 81
Bầu cử tự do và công bằng

5. Các cử tri được tự do bầu cho ứng cử viên họ


muốn bầu, mà không sợ bị tấn công bạo lực
hoặc bị đe dọa.
6. Các đợt bầu cử diễn ra thường kỳ (khoảng 4
hoặc 5 năm một lần), nhờ thế mà các nhà lãnh
đạo và các dân biểu không thể nắm quyền quá
lâu.

Để bảo đảm giữ vững các tiêu chuẩn trên, cần phải có
sự đánh giá về những quy định và cách hành xử gây
ảnh hưởng lên quá trình bầu cử, cũng như những tác
động xấu có thể tạo ra gian lận bầu cử và hành vi phản
dân chủ.

Vậy quy trình bầu cử của Việt Nam có gì khác so với


các nước dân chủ và sự phi dân chủ thể hiện ở những
yếu tố nào? Chúng ta cùng tìm hiểu và đối chiếu với
các nước dân chủ thông qua các vấn đề sau đây.

Trang 82
Bầu cử tự do và công bằng

I. CÁC NGUỒN RỦI RO ĐE DỌA TÍNH CÔNG


BẰNG CỦA TIẾN TRÌNH BẦU CỬ

Có thể kể ra ba nguồn rủi ro chính đe dọa tính công


bằng của tiến trình bầu cử, đó là:

- Lợi thế mà đảng cầm quyền có được nhờ đang nắm


giữ chính quyền;

- Hành vi xấu của các ứng viên, đảng phái;

- Đồng tiền chi phối bầu cử.

1. Rủi ro từ đảng cầm quyền

Trong ba nguồn rủi ro trên, có thể thấy, rủi ro lớn nhất


đến từ đảng cầm quyền. Các nước dân chủ thường hạn
chế điều này bằng biện pháp thành lập một ủy ban bầu
cử độc lập. Ủy ban này có nhiệm vụ giám sát toàn bộ
quá trình bầu cử. Thành viên của uỷ ban này phải nhận
được sự phê chuẩn của tất cả các đảng chính trị trong
nước đó.

Trang 83
Bầu cử tự do và công bằng

Ở Việt Nam, đảng Cộng sản chiếm ưu thế tuyệt đối.


Đảng Cộng sản và Mặt trận Tổ quốc – một cánh tay nối
dài của đảng - chi phối hoàn toàn quá trình bầu cử. Từ
việc xét duyệt hồ sơ của các ứng cử viên, thành lập ủy
ban bầu cử các cấp, các tổ bầu cử, lên danh sách cử tri,
cho đến việc đếm phiếu, kiểm phiếu… tất tần tật đều
do người của đảng hoặc người do đảng chỉ định thực
hiện. Hoàn toàn không có bất cứ một ủy ban hay tổ
chức xã hội độc lập nào được tiếp cận và giám sát quá
trình bầu cử cũng như quá trình kiểm đếm phiếu. Do
đó, tỷ lệ phiếu thắng cử của các đại biểu Quốc hội Việt
Nam luôn cao một cách khôi hài ở mức 80% - 90%. Ví
dụ như trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa 14 – năm 2016,
ông Nguyễn Phú Trọng trúng cử với tỷ lệ 86,47% số
phiếu – một tỷ lệ phiếu không bao giờ có thể đạt được
ở các nước dân chủ.

Một điều khác cũng rất quan trọng để bảo đảm sự công
bằng là việc tổ chức của các đảng phải tách rời về mặt
pháp lý với việc tổ chức chính quyền. Nhưng ở Việt
Nam, quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản

Trang 84
Bầu cử tự do và công bằng

được công khai với điều 4 Hiến pháp. Đảng Cộng sản
nắm giữ luôn cả ba nhánh quyền lực: hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Với quyền lực toàn diện và tuyệt đối
như vậy về mặt pháp lý và tổ chức chính quyền, việc
đảng có thể tự tổ chức các cuộc bầu cử công bằng là
điều không tưởng.

2. Hành vi xấu

Rủi ro từ các kiểu hành vi xấu của ứng viên, đảng phái
và người ủng hộ, có thể kể đến như: hối lộ hoặc đe doạ
cử tri; đóng giả làm cử tri; phá rối, không cho ứng viên
đối lập tiếp xúc cử tri; thu thùng phiếu; nhét thật nhiều

Trang 85
Bầu cử tự do và công bằng

phiếu bầu của mình vào thùng phiếu; kiểm phiếu gian
lận; …

Để ngăn chặn các hành vi này, các nước dân chủ luôn
bố trí những nhân sự phù hợp, bao gồm cả cảnh sát lẫn
nhân viên tổ chức bầu cử. Họ được giao nhiệm vụ bảo
đảm sự an toàn về thể chất của ứng viên và cử tri, đồng
thời bảo vệ tính liêm chính của tiến trình bầu cử.
Những nhân viên tổ chức bầu cử phải do uỷ ban bầu cử
quốc gia huấn luyện.

Đồng thời, cần có các nhà quan sát quốc tế có kinh


nghiệm, đây là một đặc điểm tiêu chuẩn của bầu cử
toàn quốc ở tất cả các nước dân chủ. Họ đóng vai trò
vừa như người ngoài, bảo đảm kỳ bầu cử công bằng,
vừa như người phổ biến cách thức bầu cử tốt nhất.

Ở Việt Nam, từ sau 1975 đến nay, chưa bao giờ người
dân thấy xuất hiện những quan sát viên quốc tế trong
các kỳ bầu cử, kể cả các phóng viên nước ngoài. Có thể
thấy, hành vi gian lận phổ biến nhất là việc “định
hướng cử tri” theo “quân xanh, quân đỏ” và tráo đổi

Trang 86
Bầu cử tự do và công bằng

phiếu bầu. Việc định hướng cử tri khá lộ liễu và đồng


nhất từ các cơ quan công quyền trước và trong các kỳ
bầu cử, thông qua việc giới thiệu những hồ sơ “ấn
tượng” hoặc “mờ nhạt” của các ứng cử viên; những gợi
ý úp mở; hoặc thậm chí là bố trí những “người hướng
dẫn” – thường là người của chính quyền cơ sở - ngay
tại các điểm bỏ phiếu. Việc tráo đổi phiếu bầu tuy
không thể tìm ra những bằng chứng chính xác do sự
kiểm soát chặt chẽ của đảng Cộng sản, nhưng có khá
nhiều bằng chứng gián tiếp như có những lãnh đạo bị
người dân rất ghét nhưng vẫn luôn trúng cử với tỷ lệ
cao ngất ngưởng.

Công an và nhân viên bầu cử cũng luôn có mặt tại các


điểm bầu cử, điểm tiếp xúc cử tri. Nhưng sự hiện diện
của họ không phải để đảm bảo tính công bằng, mà
nhằm bảo đảm thực hiện đúng ý đồ của đảng. Điều này
thể hiện rất rõ qua cách hành xử của họ đối với các ứng
cử viên độc lập ra tranh cử trong kỳ bầu cử năm 2016.

Ông Nguyễn Đình Hà – một ứng cử viên Quốc hội


độc lập khóa 14 năm 2016 tại Hà Nội - kể với

Trang 87
Bầu cử tự do và công bằng

phóng viên BBC rằng, khi ông đến hội nghị cử tri,
tức vòng hiệp thương 2, ông thấy có rất nhiều công
an, cả thường phục lẫn sắc phục ở hội trường. Mặt
trận Tổ quốc đã chọn những người không hề quen
biết với ông để kết tội ông là gây rối trật tự công
cộng, không có đóng góp gì cho địa phương. Tuy
nhiên, ông cho rằng việc "gây rối trật tự công
cộng" thực chất là một vụ bắt cóc do công an dựng
nên nhằm bôi xấu cá nhân trước thềm hội nghị lấy
ý kiến cử tri nơi cư trú.

Ủy ban Bầu cử Hà Nội tiếp nhận hồ sơ ứng cử đại


biểu Quốc hội của ông Nguyễn Đình Hà

Trang 88
Bầu cử tự do và công bằng

II. ỨNG CỬ VIÊN

Trên nguyên tắc, bất kỳ ai có quyền bỏ phiếu thì đều


có thể tranh cử. Tuy nhiên, đa số các nước đều đòi hỏi
ngưỡng tuổi của ứng viên cao hơn cử tri; cùng với điều
kiện về nơi cư trú và quốc tịch. Ngoài ra, mỗi nước lại
có thêm những điều kiện khác nhau.

Hầu hết hệ thống bầu cử của các nước dân chủ đều bắt
buộc ứng viên phải vận động được một số lượng tối
thiểu chữ ký ủng hộ từ các cử tri ở đơn vị bầu cử mà
họ tranh cử; hoặc phải đặt cọc một số tiền và số tiền
này sẽ bị mất, nếu ứng viên không đạt được số lượng
phiếu bầu tối thiểu. Ở Mỹ, để tranh cử các vị trí cấp
Liên bang phải đặt cọc 5.000USD. Ứng viên Tổng
thống Pháp phải thu thập được 500 chữ ký ủng hộ từ
các chính khách Pháp, ứng cử viên vào Hạ viện Pháp
phải đặt cọc 2.000 Franc. Ở một số nước, chỉ những
ứng viên đại diện cho các đảng đã đăng ký từ trước mới
được tranh cử.

Trang 89
Bầu cử tự do và công bằng

Tiêu chuẩn của các ứng cử viên ở Mỹ

Điều kiện về nơi cư trú gắn liền với đơn vị bầu cử cũng
là một điều quan trọng. Mỗi đại biểu Quốc hội sẽ đại
diện cho cộng đồng bầu ra họ, do đó, họ cần phải rất
gần gũi với cộng đồng đó để người dân có thể gặp gỡ,
tiếp xúc một cách dễ dàng; đồng thời vị đại biểu có thể
có những hiểu biết rõ ràng về các vấn đề của cộng
đồng. Vì vậy, người đại diện cho một cộng đồng phải
là người sinh sống trong cộng đồng đó trong một
khoảng thời gian tối thiểu được quy định cụ thể.

Trang 90
Bầu cử tự do và công bằng

Và để tránh tình trạng lạm quyền, nhiều nước quy định


các quan chức, công chức nhà nước không được tranh
cử quốc hội. Họ chỉ được tranh cử sau khi từ chức khỏi
bộ máy công quyền; hoặc ngược lại, họ phải từ bỏ vị
trí đại diện nếu muốn trở thành quan chức. Ví dụ, vào
đầu năm 2009, bà Hillary Cliton đã từ chức Thượng
nghị sỹ - một chức vụ dân cử, để trở thành Ngoại
trưởng Mỹ - một quan chức của Chính phủ Obama.

Cử tri thường có những yêu cầu khá cao đối với ứng
cử viên. Do đó, tuy không bị luật pháp ràng buộc,
nhưng các đảng phái, các tổ chức, liên minh thường
đưa ra những yêu cầu khắt khe với các ứng cử viên.

Đó là:

- Sự nổi tiếng phổ biến trong phạm vi khu vực bầu


cử, vùng địa phương hoặc trong cả nước, tùy vào
vị trí mà họ tranh cử;

- Trình độ chuyên môn đáng kể và học vấn cao,


thường nghiêng về các ứng cử viên có học vấn về
pháp lý hoặc kinh tế;

Trang 91
Bầu cử tự do và công bằng

- Khả năng hùng biện, tranh luận, giành thiện cảm


và sự ủng hộ của đám đông;

- Sức khoẻ tốt để chịu được khối lượng công việc


lớn cũng như áp lực tâm lý;

Tại Việt Nam, mọi thứ hoàn toàn ngược lại. Các ứng
viên đại biểu Quốc hội hoàn toàn không quan tâm đến
những vấn đề của cử tri, họ cũng chẳng cần có tài hùng
biện, cũng chẳng cần hiểu biết về pháp luật, hoặc thậm
chí có những người mang bệnh nan y cũng không sao.
Thứ họ cần là sự hài lòng của đảng đối với họ. Đại biểu
Quốc hội luôn là những người hoàn toàn xa cách với
dân chúng và đại đa số họ là quan chức trong bộ máy
công quyền từ Trung ương đến địa phương. Đại biểu
Quốc hội luôn là những người mà người dân khó có thể
gặp gỡ và tiếp xúc vì địa vị lãnh đạo của họ. Thông
thường, luôn có gần một nửa số đại biểu Quốc hội là
những cán bộ cấp Trung ương được cử về để tranh cử
tại địa phương.

Trang 92
Bầu cử tự do và công bằng

Chúng ta hãy xem xét dự kiến phân bổ ghế đại biểu


Quốc hội khóa 15 thì sẽ rõ. Theo Nghị quyết 115 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 thì tổng số đại
biểu Quốc hội khóa 15 dự kiến là 500 người, trong đó
có 207 người đang làm việc trong bộ máy nhà nước ở
cấp Trung ương, 293 đại biểu còn lại là ở cấp địa
phương.

207 ghế của Trung ương được phân chia cụ thể như
sau:

- Các cơ quan đảng cấp Trung ương: 10 ghế

- Cơ quan Chủ tịch nước: 3 ghế;

Trang 93
Bầu cử tự do và công bằng

- Khối Chính phủ: 15 ghế;

- Khối Lực lượng vũ trang: 13 ghế;

- Các cơ quan của Quốc hội: 133 ghế;

- Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc và các tổ


chức thành viên: 29 ghế.

- Các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát, Kiểm toán


nhà nước, …: mỗi cơ quan 1 ghế

293 ghế còn lại sẽ được phân bổ cho các quan chức
đang làm việc tại bộ máy công quyền ở các tỉnh, thành
trên cả nước. Đại đa số các đại biểu không chỉ là đảng
viên, mà còn là lãnh đạo cao nhất của mỗi cơ quan.

Có thể thấy, khi mỗi ứng cử viên Quốc hội đều là


những quan chức hoặc người đứng đầu một cơ quan
quyền lực nhà nước và được đảng Cộng sản lựa chọn,
họ hoàn toàn không phải là người đại diện cho dân. Họ
chỉ tuân theo ý chí, mệnh lệnh của của đảng Cộng sản
và xa rời dân chúng. Điều này đã biến người dân Việt

Trang 94
Bầu cử tự do và công bằng

Nam thành tầng lớp thấp cổ bé họng, không có tiếng


nói lẫn quyền lực chính trị trong xã hội.

Theo bà Nguyễn Thị Kim Ngân, cựu Chủ tịch Quốc


hội khoá 14, Quốc hội khóa 15 sẽ để từ 25 đến 50 ghế
cho người ngoài đảng. Những người ngoài đảng này,
về lý thuyết thì vẫn là những ứng cử viên độc lập,
không do đảng lựa chọn. Tuy nhiên, để trở thành ứng
cử viên đại biểu Quốc hội thì họ phải làm hồ sơ ứng cử
nộp cho Mặt trận Tổ quốc địa phương. Sau đó, họ phải
trải qua một quá trình thẩm tra về lý lịch, về tôn giáo…
Nếu hồ sơ được chấp nhận, họ lại tiếp tục phải qua 3
vòng hiệp thương với các thành phần do Mặt trận Tổ
quốc lựa chọn. Ba vòng hiệp thương này có thể coi
như một bộ lọc để loại bỏ, sàng lọc những người
không vừa mắt đảng.

Trả lời phỏng vấn đài BBC, Luật gia Nguyễn Đình
Hà nói:

"Từ vòng hồ sơ, tôi đã bị cấp chính quyền địa


phương gây khó dễ bằng việc ghi những lời nhận
xét không tốt vào trong lý lịch ứng viên, dù điều

Trang 95
Bầu cử tự do và công bằng

này là vi phạm pháp luật và tôi đã chứng minh


nhưng họ không sửa sai.

Nhận xét của địa phương trong lý lịch tranh cử của


ông Nguyễn Đình Hà

Theo quy định thì trách nhiệm kê khai đảm bảo sự


trung thực là của người khai, chính quyền địa
phương chỉ có quyền đóng dấu xác nhận chứ không
có quyền đánh giá việc nhân thân người đó là tốt
hay xấu, gương mẫu hay không. Việc xác minh ai

Trang 96
Bầu cử tự do và công bằng

có tiền án hình sự thuộc về cơ quan tư pháp khi cần


làm lí lịch tư pháp, còn sơ yếu lý lịch để tự ứng cử
không yêu cầu. Họ hoàn toàn sai từ ngay bước cơ
bản nhất.

Họ nói rằng đây là bên công an cung cấp, điều này


chứng tỏ có sự nhúng tay của công an vào việc xác
minh hồ sơ của tôi”.

III. VẬN ĐỘNG TRANH CỬ

Vận động tranh cử là một hoạt động quan trọng và


không thể thiếu trong quá trình bầu cử. Vận động tranh
cử làm cho bầu cử trở nên dân chủ, khách quan, công
bằng. Nó giúp cho cử tri làm quen với chương trình
hành động của các chính đảng và các ứng cử viên, giúp
cử tri có những phương án khác nhau để lựa chọn.
Trong khi đó, các đảng phái, các ứng cử viên tiến hành
việc tuyên truyền nhằm tác động lên dư luận và sự lựa
chọn của cử tri.

Trang 97
Bầu cử tự do và công bằng

Ý nghĩa của bầu cử ở chỗ, nó không phải là sự phản


ánh đồng thuận trên bề mặt xã hội, mà là dịp để mỗi
công dân có quyền thể hiện ý chí, quan điểm của mình
về bộ máy quyền lực nhà nước. Vận động bầu cử tạo
cơ sở cho cử tri biết được cần gửi gắm ý chí, quan điểm
vào ai. Bầu cử nói chung và vận động bầu cử nói riêng
mở ra con đường giải quyết một cách dân chủ những
mâu thuẫn trong xã hội, loại trừ sự đụng độ về thể chất,
qua đó đạt được sự ổn định và trật tự trong đời sống xã
hội. Vận động tranh cử là phương thức hợp lý, hợp
pháp để các bên thuyết phục dân chúng về ý kiến, quan
điểm của mình. Ở các nước dân chủ, vận động tranh cử
đã trở thành một nếp sinh hoạt quen thuộc trong đời
sống chính trị.

Vận động tranh cử quan trọng trên hai phương diện:

- Hoạt động vận động tranh cử của các chính đảng;

- Những quy định của pháp luật về vận động bầu


cử: Những nguyên tắc chính trong vận động bầu
cử, vai trò của thông tin đại chúng, nguồn tài chính
trong vận động bầu cử…

Trang 98
Bầu cử tự do và công bằng

1. Hoạt động vận động tranh cử

Ông Biden trong một cuộc vận động tranh cử


Tổng thống Mỹ năm 2020

Mỗi đảng phái khi tham gia vận động tranh cử sẽ phải
đưa ra một “chương trình hành động chính trị”, hay
nói cách khác là “lời hứa chính trị” của mình nếu họ
thắng cử. Chương trình hành động thường bao gồm
bốn lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị trong nước và
chính trị đối ngoại. Cử tri thường đặc biệt quan tâm đến
khía cạnh xã hội của chương trình hành động. Vì vậy,

Trang 99
Bầu cử tự do và công bằng

các ứng cử viên thường phải dành một khoảng cho


những hứa hẹn về mặt xã hội.

Ở Việt Nam, tuy các ứng cử viên cũng có chuẩn bị


chương trình hành động của họ, nhưng chẳng mấy cử
tri được biết đến vì hoạt động tranh cử hoàn toàn do
Mặt trận Tổ quốc chủ trì. Mỗi buổi hội nghị cử tri chỉ
tầm 50 – 60 người và thành phần tham gia đều do Mặt
trận Tổ quốc lựa chọn.

Hội nghị hiệp thương lần 3 để lựa chọn ứng cử viên


Quốc hội khóa 15 của thành phố Hà Nội

Trang 100
Bầu cử tự do và công bằng

Điều dễ hiểu là Mặt trận Tổ quốc sẽ chọn những người


biết nghe lời, ít phản biện, ít thắc mắc; những ai không
có giấy mời sẽ không được vào tham dự. Và sau khi
đắc cử, những lời hứa của các ứng cử viên cũng bay
theo mây khói, chẳng bao giờ nghe nhắc đến nữa.

2. Pháp luật về vận động bầu cử

a) Quy định của pháp luật

Luật pháp đại đa số các nước có những quy định tương


tự trong vận động bầu cử, như:

- Tự do tuyên truyền;

- Những điều kiện bình đẳng cho mọi ứng cử viên;

- Thái độ vô tư của các cơ quan công quyền đối


với mọi ứng cử viên;

- Giám sát chi phí vận động bầu cử.

Trang 101
Bầu cử tự do và công bằng

Trong khi đó, luật pháp Việt Nam quy định quá trình
bầu cử phải có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và
Hội đồng nhân dân các cấp.

Theo Điều 66 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại


biểu Hội đồng nhân dân năm 2015:

Ứng cử viên vận động bầu cử thông qua việc gặp


gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri
ở địa phương nơi họ ứng cử. Ban Thường trực
Ủy ban MTTQVN cấp tỉnh chủ trì phối hợp với
UBND ở đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc
cử tri cho những người ứng cử đại biểu Quốc hội,
ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh. Thành phần
tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri gồm đại diện các
cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri ở địa phương.

Với quy định này thì việc tự do vận động tranh cử là


điều không thể.

Trả lời đài RFA ngày 04/05/2016, cô Nguyễn Trang


Nhung, một ứng viên độc lập của Quốc hội khóa 14 tại
Sài Gòn cho biết:

Trang 102
Bầu cử tự do và công bằng

Ứng cử viên độc lập, Thạc sỹ Nguyễn Trang Nhung

“Nếu có nỗ lực giới thiệu về mình trong cộng


đồng dân cư, thì việc làm đó cũng bị ngăn chận.
Ngay như bản thân tôi khi đi giới thiệu về tôi,
được một vài hộ dân, dừng lại một hộ một lúc thì
ông Trần Văn Minh là chủ tịch ủy ban Mặt trận
tổ quốc phường bảy đến nhà đó, ông ấy được ai
đó báo tin, có thể là bởi một hộ dân mà tôi đã đi
qua để giới thiệu về mình, cũng có thể là an ninh
ở đó, và tôi cho rằng họ theo dõi tôi trong những
ngày gần hội nghị.

Trang 103
Bầu cử tự do và công bằng

Tôi vẫn tin có một sự tử tế nào đó từ phía ban tổ


chức, nhưng khi hội nghị diễn ra thì không như
tôi nghĩ. Có thể đó là một suy nghĩ ngây thơ
chăng?”.

Mặt trận Tổ quốc về danh nghĩa là một tổ chức tập hợp


tất các đoàn thể và đảng chính trị, trong đó bao gồm cả
đảng Cộng sản. Nhưng thực chất Mặt trận Tổ quốc lại
là một tổ chức do đảng lãnh đạo. Đứng đầu Mặt trận
Tổ quốc hiện nay là ông Đỗ Văn Chiến, một Bí thư
Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng. Và hội
nghị cử tri có thể gọi là một “nét quái đản” của cơ chế
bầu cử Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, khi Mặt trận Tổ
quốc sử dụng nó để “đấu tố” những cử tri độc lập là
những người phản biện xã hội hoặc bất đồng chính kiến
bất chấp luật pháp.

Trang 104
Bầu cử tự do và công bằng

Ông Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, thường


trực Ban Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam - tặng hoa
chúc mừng ông Đỗ Văn Chiến giữ chức Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa 9,
nhiệm kỳ 2019 – 2024.

Mặt trận Tổ quốc có vai trò quá to lớn trong quá trình
bầu cử, như: tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu
người ứng cử, tham gia giám sát việc bầu cử… Ngoài
ra, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc còn cùng
nhau quyết định việc thành lập các Uỷ ban bầu cử, Ban
bầu cử. Như vậy, không thể có tính khách quan cũng
như sự vô tư của các cơ quan công quyền đối với các

Trang 105
Bầu cử tự do và công bằng

ứng cử viên cũng như toàn bộ quá trình bầu cử. Ngay
cả những ứng cử viên độc lập đắc cử, tuy về mặt hình
thức là họ tự ứng cử, nhưng trên thực tế thì họ cũng là
những người do đảng lựa chọn, chứ không phải do
người dân quyết định bằng lá phiếu.

Theo ông Nguyễn Đình Hà:

"Một số ứng cử viên độc lập lọt vào là để làm


màu cho công chúng chứ không phải họ thực tâm.
Và những người đó thường sống và làm việc theo
chủ trương của đảng Cộng sản. Thậm chí có
tiếng là đại biểu Quốc hội cũng mang lại được
cho những người đó lợi ích trong việc làm ăn".

b) Quy tắc ứng xử

Ngoài những quy định pháp lý, các nước dân chủ còn
có những quy tắc ứng xử trong vận động bầu cử dành
cho các đảng phái và các ứng cử viên. Ví dụ như:

- Không dùng bạo lực và doạ dẫm;

Trang 106
Bầu cử tự do và công bằng

- Không mang vũ khí trong các cuộc mít tinh và


biểu tình;

- Không ra những tuyên bố không đúng sự thật


hoặc có tính chất khiêu khích;

- Các cuộc mít tinh, tuần hành của các đảng phái
khác nhau phải được tổ chức vào những thời
điểm khác nhau;

- Không cho phép sử dụng những hình ảnh của


các đảng khác và không được phá hoại những tài
liệu tuyên truyền của các đảng khác.

Vào kỳ bầu cử Quốc hội khóa 14 năm 2016, phong trào


dân chủ Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện sự tham gia
của hơn một trăm ứng cử viên độc lập. Đa số trong đó
là những nhà hoạt động xã hội, những người bất đồng
chính kiến và phản biện xã hội, những người đấu tranh
cho dân chủ nhân quyền. Họ thường được gọi là những
người “tự ứng cử”. Tuy nhiên, những ứng viên độc lập

Trang 107
Bầu cử tự do và công bằng

này đã gặp phải sự ngăn cản từ chính quyền địa phương


các cấp nhằm loại bỏ họ khỏi danh sách ứng cử viên.

Bà Đặng Bích Phượng – một ứng cử viên độc lập Quốc


hội khóa 14 - đã nói khi trả lời phỏng vấn của đài BBC
rằng, bà đã hiểu chỉ những người nói theo chỉ đạo và
chỉ những người có giấy mời mới được tham dự buổi
hiệp thương và chính quyền sử dụng lực lượng quần
chúng để loại bỏ những ứng cử viên độc lập thông qua
các vòng hiệp thương.

"Tôi biết những người ủng hộ mình hầu như


không một ai được mời. Vì vậy, tôi yêu cầu những
người trong khu dân cư phải được mời vì họ mới
hiểu được con người tôi ra sao. Tôi cũng yêu cầu
có nhà báo nhưng mọi yêu cầu của tôi đều bị từ
chối với lý do là phòng nhỏ nên không mời hết
được. Tôi viết đơn không tham gia buổi hiệp
thương này.

Trong trường hợp này, quần chúng ở đây là


những người có tri thức thấp, hoặc là những
người về hưu nhưng không có tính phản biện,

Trang 108
Bầu cử tự do và công bằng

luôn nghe theo 'đảng và nhà nước,' từ đó sẵn


sàng vu khống những người mà họ không biết.

Vì cư dân ở tòa chung cư tôi ở đa phần cùng cơ


quan và sống cùng tôi từ bé nên họ rất hiểu gia
đình nhà tôi, nên để vu khống tôi rất khó. Thế là
họ chọn cử tri ở đơn vị khác để họ gần như là đấu
tố mình. Đó là vũ khí mà họ dùng để gạt bỏ những
ứng cử viên độc lập.

Bà Đặng Bích Phượng và bà Nguyễn Thúy Hạnh, 2


ứng cử viên độc lập của Quốc hội khóa 14

Trang 109
Bầu cử tự do và công bằng

Một người tự ứng cử bị loại không có ý nghĩa


nhưng 100 người mà cả 100 bị loại thì là vấn đề
khác. Việc tự ứng cử sẽ khiến nhà cầm quyền bị
buộc vào thế phải đối phó với những người ứng
cử tự do”.

Trả lời đài RFI ngày 10/04/2016, tiến sĩ Nguyễn Quang


A, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, nhận xét:

“Đối với các nhà hoạt động nhân quyền và dân


chủ, quyết tâm của chính quyền là loại bỏ họ
bằng mọi cách. Điều này đã được tiến hành bằng
rất nhiều cách, nhưng chủ yếu bằng cách để chọn
những người dưới các hội nghị (cử tri), phát biểu
những điều bất lợi, thậm chí có những trường
hợp ‘‘đấu tố’’.

Đối với trường hợp của tôi, tại cuộc hội nghị cử
tri, không diễn ra những phát biểu có tính chất
đấu tố như vậy, nhưng riêng với tôi, đấu tố đã xảy
ra khoảng một tháng rưỡi, hai tháng trước rồi.
Bởi vì cơ sở đảng ở đây đã quán triệt đến từng

Trang 110
Bầu cử tự do và công bằng

đảng viên. Họ nói rằng tôi làm ‘‘chuyện này,


chuyện nọ’’.

Tiến sỹ Nguyễn Quang A, ứng cử viên độc lập


Quốc hội khóa 14

Các ‘‘dư luận viên’’ có ba clip video nói xấu tôi,


trong đó có clip phỏng vấn ông tổ trưởng tổ dân
phố, ông trưởng ban công tác Mặt trận của tổ
dân phố, và bà chi hội trưởng Hội người cao tuổi
của tổ dân phố. Trong phỏng vấn đó, họ bôi nhọ

Trang 111
Bầu cử tự do và công bằng

đủ mọi thứ. Các clip đó được phát tán rộng rãi


trên youtube.

Sau đó, tôi có nói chuyện với ba người lãnh đạo


của tổ dân phố, họ đều nói họ không biết thông
tin gì cả (…). Tuy nhiên, bất chấp việc tôi đã cung
cấp thông tin cho họ, ông tổ trưởng dân phố, vào
ngày 19/03, đã lấy một bài 6 trang giấy của chính
trang của các ‘‘dư luận viên’’, những người
chuyên môn phá rối các cuộc tưởng niệm những
anh hùng liệt sĩ đã hy sinh ở Hoàng Sa, Trường
Sa, và ở biên giới phía Bắc. Ông ấy phô tô 6 trang
đó gửi cho tất cả các gia đình ở tổ dân phố. Thậm
chí, còn phân phát ngoài chợ, như truyền đơn.
Sau đó ông trưởng ban công tác Mặt trận lại tiếp
tục trả lời phỏng vấn của hội dư luận viên đó, bảo
vệ ông tổ trưởng dân phố.

Việc tổ trưởng dân phố, với tư cách chính quyền,


làm việc phi pháp như vậy ngược lại luật bầu cử,
tôi đã có phản đối, tố cáo, gửi cho tất cả các cơ
quan có thẩm quyền, từ Hội Đồng Bầu Cử Quốc

Trang 112
Bầu cử tự do và công bằng

Gia, đến Ủy Ban Bầu Cử Hà Nội, đến công an,


nhiều nơi khác, nhưng cho đến nay, tôi chưa
nhận được hồi âm nào…

Tất cả các kiến nghị và đơn tố cáo của tôi và một


số người khác, thì các cơ quan có thẩm quyền trả
lời – từ cấp cao nhất – đã không có một ý kiến gì
cả. Và những hành động của các cấp chính quyền
địa phương nhìn bề ngoài có thể nghĩ như thế,
nhưng tôi nghĩ rằng, nếu không có lệnh của cấp
trên, thì họ cũng không dám làm như vậy.

Bản thân luật bầu cử đã hợp thức hóa, thể chế


hóa hay hợp pháp hóa những biện pháp vi hiến,
phi dân chủ, tước quyền quyết định bằng lá
phiếu. Đó là quy định về hội nghị cử tri. Thí dụ
69 người không đồng ý việc tôi ra ứng cử (trong
hội nghị cử tri) là có thể đủ để đánh bại hơn
5.000 chữ ký ủng hộ của nhân dân khắp nơi. Và
có cái gọi là ‘‘hiệp thương’’, nhưng những người
liên quan lại không được tham gia, tức là ‘‘hiệp
thương’’ giữa các cơ quan nhà nước với nhau, để

Trang 113
Bầu cử tự do và công bằng

họ tự quyết định. Tức cái gọi là ‘‘hiệp thương’’


và ‘‘hội nghị cử tri’’ đều là các biện pháp hợp
thức hóa cho việc làm vi hiến, tước quyền ứng cử,
tước quyền lựa chọn (bằng lá phiếu) của tuyệt đại
đa số cử tri. Tôi nghĩ đây là vấn đề cốt lõi.

Chúng tôi đấu tranh là để thay đổi những quy


định như vậy, những luật như vậy. Còn những
luật đã quy định như thế, đã thiết kế cho việc như
thế, thì chuyện chính quyền cấp dưới mà họ làm,
theo định hướng của trên cấp chóp bu, thì tôi
nghĩ là điều dễ hiểu”.

Theo quy định của luật pháp Việt Nam, thì trong hội
nghị cử tri, không hề cho phép cử tri chỉ trích, thậm chí
sỉ nhục, đấu tố ứng viên, đặc biệt là sử dụng những lý
do vụn vặt và không hề liên quan tới tiêu chuẩn của
một đại biểu Quốc hội. Và theo lẽ công bằng, ứng viên
phải được quyền phản hồi lại các ý kiến của cử tri, tất
nhiên kể cả ý kiến phê bình, chỉ trích (nếu có). Tuy
nhiên, trong các hội nghị cử tri dành cho các ứng cử
viên độc lập, khi các cử tri đi quá đà, ban tổ chức hội

Trang 114
Bầu cử tự do và công bằng

nghị hoàn toàn không can thiệp, thậm chí còn yêu cầu
ứng viên phải im lặng, không cho ứng viên có cơ hội
giải thích và phản hồi những nhận xét ác ý nhằm vào
mình. Đây rõ ràng là hành vi đấu tố cá nhân. Với hành
vi này, những cử tri tham gia đấu tố và ban tổ chức hội
nghị đã có dấu hiệu của tội “xúc phạm danh dự, nhân
phẩm người khác” (Điều 121 Bộ luật Hình sự, Điều 37
và 611 Bộ luật Dân sự).

3. Bình đẳng trong bầu cử

Luật pháp các nước có những quy định khác nhau


nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong bầu cử trên các
phương diện: sử dụng các kênh thông tin đại chúng và
sử dụng các nguồn tài chính.

Về khả năng tiếp cận các phương tiện thông tin đại
chúng, luật pháp các nước có những quy định nhằm
bảo đảm hai điều sau:

Trang 115
Bầu cử tự do và công bằng

- Bảo đảm thời gian phát sóng vào giai đoạn cao
điểm không thuộc độc quyền của bất kỳ ai, mọi
chính đảng đều có thể thuê lại vào thời gian này;

Bảo đảm việc phát sóng không phụ thuộc vào


nguồn tài chính, các đảng và ứng cử viên đều
được dành một thời lượng phát sóng miễn phí
trên truyền hình và đài phát thanh nhà nước.

Luật pháp Việt Nam cũng có quy định tại Điều 67, Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân năm 2015: “Vận động bầu cử thông qua phương
tiện thông tin đại chúng”.

Tuy nhiên, các cơ quan truyền thông tại Việt Nam đều
nằm dưới sự kiểm soát của Ban Tuyên giáo đảng Cộng
sản. Chỉ số về tự do báo chí của Việt Nam luôn xếp gần
cuối bảng trong bảng xếp hạng của tổ chức Phóng Viên
Không Biên Giới (RFS). Theo công bố của RFS vào
ngày 21/04/2020, Việt Nam xếp hạng 175/180 quốc
gia. Việt Nam có hơn 700 tờ báo nhưng chỉ có một
Tổng Biên tập, chính là Trưởng ban Tuyên giáo, và
đảng Cộng sản dễ dàng sử dụng báo chí nhà nước để

Trang 116
Bầu cử tự do và công bằng

tấn công, bôi nhọ những ứng cử viên độc lập bất đồng
chính kiến với đảng. Ngay trên tờ báo Nhân dân của
đảng, ngày 14/05/2021, đã có bài viết với tiêu đề “Màn
kịch “tự ứng cử” của một số “nhà dân chủ”!”. Hay trên
báo Quân đội Nhân dân ngày 17/05/2021 có bài “Thủ
đoạn “đục nước béo cò” phá hoại cuộc bầu cử” và còn
rất nhiều bài bôi nhọ trên các trang khác.

Xếp hạng của RFS về tự do báo chí


của Việt Nam năm 2020

Ngoài ra, khi ứng cử viên là quan chức thì trong nhiều
trường hợp khó có thể phân biệt đâu là hoạt động vận

Trang 117
Bầu cử tự do và công bằng

động bầu cử, đâu là hoạt động nhà nước. Nếu so với
ứng cử viên là công dân bình thường với ứng cử viên
là quan chức, nhất là quan chức cao cấp, thì quan chức
luôn có lợi thế lớn hơn nhiều xét trên phương diện thực
lực để thực hiện lời hứa của mình. Bởi vậy cử tri dễ
nghe theo các quan chức hơn. Trong khi đó, đại đa số
các ứng cử viên đại biểu Quốc hội Việt Nam là quan
chức, hơn nữa lại là quan chức cấp cao, nên lợi thế luôn
nghiêng về phía họ là điều dễ hiểu.

Chúng ta có thể thấy, toàn bộ hoạt động bầu cử ở Việt


Nam đều do đảng Cộng sản chi phối, do đó các đại biểu
Quốc hội hay bản thân Quốc hội chỉ là bù nhìn. Chính
vì vậy, các hoạt động của Quốc hội cứ như một gánh
diễn khôi hài. Quốc hội khóa 15 còn vô cùng hài hước
khi “cuộc bầu cử” chức danh Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ đã diễn ra một cách
lố bịch, không theo quy trình và luật định.

Theo Nghị quyết 133/2020/QH14 của Quốc hội thì


ngày 23/5/2021 mới diễn ra cuộc bầu cử Quốc hội khoá
15, và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 -

Trang 118
Bầu cử tự do và công bằng

2026. Và theo luật thì sau khi có kết quả bầu cử Quốc
hội, các đại biểu Quốc hội mới trúng cử sẽ bầu chọn ra
Chủ tịch Quốc hội. Sau đó, khi Quốc hội khoá 15 đã
được kiện toàn, thì Quốc hội mới tiếp tục thực hiện bầu
hai chức danh Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ
cho nhiệm kỳ 2021 - 2026. Tuy nhiên, cả ba chức danh
này của nhiệm kỳ 2021 - 2026 đều đã có từ cuối tháng
ba đầu tháng tư vừa qua. Tức là, chức danh lãnh đạo có
trước, bầu cử Quốc hội theo sau. Như vậy, vì sao Quốc
hội khoá 14 lại có quyền bầu các chức danh lãnh đạo
cho khóa 15?

IV. QUYỀN LỰC CỦA CỬ TRI GIỮA CÁC KỲ


BẦU CỬ

Tại các nước dân chủ, vào giữa các kỳ bầu cử, cử tri có
rất nhiều kênh xã hội dân sự để họ có thể tham gia gây
ảnh hưởng đến chính quyền trong những vấn đề cụ thể.
Chẳng hạn, họ có thể tham gia các nhóm vận động, hay
nhóm gây áp lực, hội tình nguyện, các chiến dịch vận
động, liên hệ với đại biểu quốc hội và thành viên chính

Trang 119
Bầu cử tự do và công bằng

phủ, tham gia biểu tình, v.v… Ngày nay, internet giúp
cho việc theo sát diễn biến các hoạt động của chính phủ
và quốc hội, tham gia các cuộc tham vấn trước khi ra
luật, và chất vấn cá nhân các đại diện về các chính sách
còn dễ hơn.

Việt Nam đã ký và gia nhập Công ước Quốc tế về các


Quyền Dân sự và Chính trị vào năm 1982

Tuy nhiên, ở Việt Nam, các tổ chức xã hội dân sự cũng


bị đảng và Mặt trận Tổ quốc quản lý. Những tổ chức
xã hội dân sự muốn được hoạt động công khai thì phải
đăng ký với Mặt trận Tổ quốc cấp tương ứng với quy

Trang 120
Bầu cử tự do và công bằng

mô hoạt động của họ. Hệ quả tất yếu của điều này là
họ chịu sự kiểm tra và giám sát của Mặt trận Tổ quốc,
không thể có những hoạt động đi ra ngoài khuôn khổ
của Mặt trận. Những tổ chức xã hội dân sự mang tính
phản biện tất nhiên sẽ không được cấp phép và thường
bị quy chụp là “phản động”, thường xuyên bị bôi nhọ,
bị đấu tố trên các kênh thông tin của đảng và của dư
luận viên. Ngoài ra, đảng luôn tuyên truyền rằng “mọi
việc đã có đảng và nhà nước lo”, người dân đừng quan
tâm chính trị. Những người phản biện luôn có nguy cơ
phải đối diện với nguy cơ bị sách nhiễu, bị đàn áp, thậm
chí có thể trở thành tù nhân lương tâm tùy theo ý muốn
của đảng.

Như vậy, ở Việt Nam, cả trong và giữa các kỳ bầu cử,


người dân hoàn toàn không có một chút quyền lực
chính trị nào, dù Việt Nam đã ký và gia nhập Công ước
Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị vào năm
1982.

Trang 121
Bầu cử tự do và công bằng

V. PHƯƠNG PHÁP BẦU CỬ

Các nước trên thế giới có những phương pháp bầu cử


rất khác nhau, tuy nhiên có thể chia thành ba phương
pháp chính: bầu theo đa số; bầu theo tỷ lệ; và bầu hỗn
hợp, kết hợp giữa đa số và tỷ lệ.

Nói ngắn gọn thì bầu theo đa số nghĩa là ai đạt được số


phiếu bầu cao nhất tại một đơn vị bầu cử thì trúng cử.
Phương pháp này thường được áp dụng cho đơn vị bầu
cử nhỏ đơn danh. Người thắng cử sẽ là người đại diện
cho khu vực bầu cử mà họ tranh cử và họ chịu trách
nhiệm trước cử tri khu vực đó. Bầu tỷ lệ thường được
bầu theo đảng và các đảng sẽ được phân chia số ghế
theo tỷ lệ số phiếu mà họ đạt được tại khu vực bầu cử.
Phương pháp này thường được áp dụng tại những khu
vực bầu cử lớn và được chia nhiều ghế.

Phương pháp bầu cử của Việt Nam rõ ràng không phải


là phương pháp tỷ lệ vì Việt Nam chỉ có độc đảng cầm
quyền. Phương pháp bầu cử Việt Nam có vẻ nghiêng

Trang 122
Bầu cử tự do và công bằng

về phương pháp đa số khi cử tri bỏ phiếu cho ứng cử


viên và người cao phiếu hơn sẽ thắng cử.

Tuy nhiên, đơn vị bầu cử ở Việt Nam lại không phải


đơn danh. Thông thường, một khu vực bầu cử sẽ có 3
– 4 ứng cử viên thắng cử. Như vậy, tính trách nhiệm
của các đại biểu Quốc hội đối với dân rất thấp.

Danh sách 5 ứng cử viên Quốc hội khóa 15 tại tổ bầu


cử số 3, thành phố Hà Nội (cử tri sẽ bầu lấy 3 người)

Trang 123
Bầu cử tự do và công bằng

Trang 124
Bầu cử tự do và công bằng

Ngoài ra, Quốc hội Việt Nam lại thường chia thành các
“đoàn đại biểu” theo từng tỉnh, và các đoàn đại biểu
này có thể khá đông, như đoàn thành phố HCM lên đến
30 đại biểu. Và cử tri hoàn toàn không hiểu, ai là người
đại diện cho mình.

VI. CÁC THỦ TỤC ĐĂNG KÝ LÀM CỬ TRI

Mục đích của việc đăng ký làm cử tri rất đơn giản
nhưng quan trọng, nhằm:

- Xác định trên tư cách cá nhân của cử tri và lưu


lại hành động bỏ phiếu của họ để không ai bỏ
phiếu hai lần;

- Bảo đảm không có ai giả làm cử tri khác hoặc


bỏ phiếu khi không có quyền bỏ phiếu.

Đa số các quốc gia đều để công dân của mình quyền tự


nguyện lựa chọn tham gia bầu cử hay không. Tuy nhiên
ở một vài quốc gia khác, việc tham gia bầu cử là nghĩa
vụ bắt buộc, như Úc chẳng hạn. Thủ tục phù hợp với

Trang 125
Bầu cử tự do và công bằng

thực tiễn thực hành dân chủ tốt nhất nên là: Việc đăng
ký mang tính bắt buộc; việc làm hồ sơ phải được thực
hiện bởi những công chức được trả lương và được đào
tạo vì mục đích này; gần với thời điểm bầu cử nhất có
thể; và phải được duy trì tách biệt, độc lập cả về vật
chất lẫn tổ chức khỏi các hồ sơ nhà nước khác.

Một sơ đồ phòng bỏ phiếu ở nước ngoài

Ở Việt Nam, luật pháp quy định bầu cử là quyền của


công dân, không ràng buộc là một nghĩa vụ bắt buộc.

Trang 126
Bầu cử tự do và công bằng

Điều 27 Hiến pháp 2013 nêu rõ: "Công dân đủ mười


tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định."
Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân 2015 cũng quy định: "Tính đến ngày
bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 trở lên có quyền bầu cử và
đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp theo quy định của Luật này."

Một bức tranh cổ động bầu cử Việt Nam


Trang 127
Bầu cử tự do và công bằng

Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam luôn tuyên truyền


rằng “bầu cử là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của
người dân”. Thậm chí, chính quyền địa phương còn
vận động, thúc ép, lôi kéo người dân đi bầu.

Trao đổi với BBC News Tiếng Việt, luật sư Phùng


Thanh Sơn, Giám đốc Công ty luật Thế Giới Luật Pháp
tại TP HCM cho rằng:

"Tổ trưởng tổ dân phố, cảnh sát khu vực gọi điện,
đến gõ cửa từng nhà để thúc giục cử tri đi bầu
nếu không đi thì sẽ bị liệt vào "danh sách đen"
của địa phương, sau này khi cần xác nhận giấy
tờ gì sẽ bị làm khó.

Nguyên nhân của hiện tượng này, theo tôi, là xuất


phát từ bệnh thành tích của các tổ bầu cử, đơn vị
bầu cử. Và nhìn ở một góc độ nào đó, có thể nói
là 'ép' người dân thực hiện quyền của mình”.

Trang 128
Bầu cử tự do và công bằng

Quy định chung về phòng bỏ phiếu ở Việt Nam

Tuy là ép người dân đi bầu để đạt được tỷ lệ tham gia


bầu cử cao, nhưng quá trình bỏ phiếu lại chỉ mang tính
hình thức. Hiện tượng bầu giùm, bỏ phiếu giúp, bỏ
phiếu cho có… là rất phổ biến và đã xuất hiện từ rất
lâu, đến mức nó diễn ra một cách tự nhiên mà cả người
bỏ phiếu lẫn nhân viên bầu cử đều coi là rất bình
thường, rất đương nhiên. Một gia đình, thậm chí cả một
xóm chỉ có một vài người đi đến điểm bỏ phiếu và bỏ
giùm cho cả gia đình, cả xóm đó. Hiện tượng này cho
thấy, người dân hoàn toàn không quan tâm đến bầu cử,

Trang 129
Bầu cử tự do và công bằng

đơn giản vì ai cũng biết kết quả bầu cử đã có từ trước


khi những lá phiếu được kiểm đếm.

Nói tóm lại, tất cả các khâu trong quy trình bầu cử ở
Việt Nam đều do đảng Cộng sản và các cơ quan nhà
nước quyết định. Các ứng cử viên cũng như đại biểu
Quốc hội đều là người của cơ quan nhà nước hoặc
được đảng lựa chọn. Người dân hoàn toàn không có
bất kỳ quyền nào để tham gia hay giám sát.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…

Trang 130
Bầu cử tự do và công bằng

LỰA CHỌN HỆ THỐNG BẦU CỬ


CHO VIỆT NAM TƯƠNG LAI
Trần Văn Đức

Muốn cho phong trào dân chủ ở Việt Nam trở nên lớn
mạnh hơn thì các cá nhân, hay các tổ chức đấu tranh
cho dân chủ ở Việt Nam phải có sự liên kết chặt chẽ
với nhau, tạo nên một khối thống nhất (đoàn kết mới
tạo ra sức mạnh). Muốn có sự hợp tác, hưởng ứng lẫn
nhau thì phải cùng đứng chung một hệ quy chiếu, một

Trang 131
Bầu cử tự do và công bằng

quan điểm, một mục tiêu hướng tới. Có thể chia các
vấn đề cần phải thống nhất thành ba việc chính yếu bắt
buộc, đó là: Thống nhất lựa chọn thể chế, hệ thống bầu
cử; thống nhất về cách thức đấu tranh; thống nhất cái
nhìn của chúng ta về lịch sử cận đại, xác định thái độ
của chúng ta với đảng Cộng sản và bộ máy ăn theo
đảng Cộng sản.

Vậy nên cuộc thi này do Nhà xuất bản Tự Do tổ chức


rất có ý nghĩa. Nó tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có cơ
hội trình bày thiên kiến của mình về các vấn đề chính
yếu đó. Để rồi từ đó chắt lọc các ý kiến có giá trị, và
qua đó mới có thể tạo nên một phương án chung liên
kết tất cả mọi thành phần đấu tranh cho dân chủ lại với
nhau, thành một khối thống nhất.

Nếu như ví thể chế giống như thể xác, thì hệ thống bầu
cử lại giống như tinh thần (tâm trí) của con người vậy,
tuy có thể phân biệt nhưng lại không thể tách rời nhau.
Vì vậy, việc lựa chọn hệ thống bầu cử cũng quan trọng
không kém việc lựa chọn thể chế chính trị cho một
quốc gia.

Trang 132
Bầu cử tự do và công bằng

Bài viết này được trình bày với quy ước ngầm rằng,
“người đọc đã thống nhất quan điểm Viêt Nam tương
lai phải là một thể chế đa nguyên đa đảng”, và bài thi
này chỉ là lựa chọn hệ thống bầu cử phù hợp với điều
kiện của Việt Nam nhất, trong điều kiện đa đảng được
chấp thuận ở Việt Nam.

I. Ý nghĩa của bầu cử chính trị.

Bầu cử chính trị là một phương tiện (công cụ) để người


dân có thể chọn ra người (nhóm người) lãnh đạo đất
nước, phù hợp với nguyện vọng của đa số người dân
trong một quốc gia, thay mặt cho người dân quyết định
các vấn đề trọng đại của quốc gia. Đúng hơn người dân
kì vọng ở người lãnh đạo đất nước phải có tâm, có bản
lĩnh, có trí tuệ và tầm nhìn rộng (bởi không phải lúc
nào ý kiến số đông cũng là đúng) để mang lại nhiều lợi
ích cho quốc gia nhất có thể.

Lãnh đạo chính trị không giống như những dạng lãnh
đạo khác, bởi lẽ nó cung cấp cho nhà (tổ chức) lãnh
đạo rất nhiều công cụ có quyền lực mạnh. Ví dụ: làm

Trang 133
Bầu cử tự do và công bằng

luật, ra các chính sách, điều động quân đội, sử dụng


ngân sách của nhà nước… Như vậy các nhà lãnh đạo
rất có thể sử dụng các công cụ đó để làm lợi cho mình.
Chính vì lẽ đó đối với những kẻ có tham vọng thì quyền
lực chính trị luôn là thứ mà họ thèm khát. Họ sẵn sàng
làm những việc mà chúng ta cho rằng không trong sạch
(gian lận bầu cử) để đạt được mục đích của họ.

Để hạn chế việc quyền lực chính trị có thể rơi vào tay
kẻ xấu, hoặc người lãnh đạo không đủ năng lực để lãnh
đạo quốc gia, thì cuộc bầu cử phải diễn ra công bằng.

Cử tri Mỹ tham gia bầu cử

Trang 134
Bầu cử tự do và công bằng

Vậy thì công bằng trong một cuộc bầu cử là gì?

Tạm thời chúng ta có ba ý chính sau:

1. Ý thứ nhất được rút ra dưới mệnh đề sau: Tất cả


mọi người đều bình đẳng trước nhau, không phân
biệt tuổi tác, chủng tộc, địa vị… Mệnh đề này trong
bầu cử được thể hiện thành hai ý:

- Mỗi người dân (cử tri) khi đủ tuổi, và không


có vấn đề về nhận thức đều được quyền tham
gia bầu cử.

- Mỗi lá phiếu do người dân (cử tri) bầu chọn


đều có giá trị như nhau không có sự phân biệt
nào ở đây.

2. Bất kỳ ai (hay tổ chức nào) cũng có quyền tham


gia vận chuyển, và giám sát kiểm phiếu để kết quả
thực sự công bằng.

3. Ứng cử viên không được dối trá lý lịch bản thân


nhằm đánh lừa cử tri.

Trang 135
Bầu cử tự do và công bằng

II. Các yêu cầu của một hệ thống bầu cử.

Thiết kế hệ thống bầu cử cũng giống như lựa chọn thể


chế chính trị vậy, nó phức tạp và cũng có thể tùy biến
ra nhiều loại khác nhau, phù hợp với từng quốc gia.
Vậy nên không thể tùy tiện lấy hệ thống bầu cử của
một quốc gia khác, đem về áp dụng một cách máy móc
cho mình được, mà phải biết tùy biến, chắt lọc những
thứ phù hợp với điều kiện văn hóa của đất nước để áp
dụng. Tuy nhiên, về cốt lõi, lựa chọn một hệ thống bầu
cử phải tuân theo ba nguyên tắc: đơn giản, dễ hiểu và
hiệu quả.

1. Đơn giản: Tức là loại bỏ đi các khâu không cần


thiết, không mang lại hiệu quả cao. Tâm lí người
dân không thích đi bầu cử nhiều lần, vậy nên nếu
thiết kế hệ thống bầu cử rườm rà quá thì sẽ ít người
đi bầu cử, như vậy lại thành không đạt hiệu quả.
Nếu được thì nên ưu tiên hệ thống bầu cử mà người
dân chỉ phải đi bầu một hai lần.

2. Dễ hiểu: Cách thức bầu cử có dễ hiểu mới mong


phổ quát được cho dân chúng, nhất là với những

Trang 136
Bầu cử tự do và công bằng

dân tộc ít hiểu biết về chính trị như Việt Nam ta.
Từ đó mới gia tăng được số người quan tâm cũng
như thực sự đi bầu cử.

3. Hiệu quả: Việc lựa chọn hệ thống bầu cử cũng


giống như ta đang nấu canh vậy. Nhiều muối quá
thì mặn mà ít quá thì lại nhạt, cũng tương tự như
vậy với mì chính hay bột nêm, rồi lại phụ thuộc vào
khẩu vị hay thể trạng của người ăn nữa. Cùng một
món canh nhưng hai người ăn khác nhau lại có tỉ lệ
cho gia vị khác nhau.

Tương tự, việc lựa chọn hệ thống bầu cử cũng vậy,


phải dựa vào đặc điểm của đất nước ta hiện tại để
cân nhắc nên ưu tiên điều gì và cái gì thì có thể
giảm nhẹ được.

Đặc điểm của đất nước Việt Nam chúng ta cho đến hiện
tại có thể viết ngắn ngọn như sau:

Việt Nam là một quốc gia có lịch sử lập quốc sớm, trải
qua nghìn năm thăng trầm, chắt lọc tạo ra một bề dày

Trang 137
Bầu cử tự do và công bằng

văn hóa tốt đẹp cần phải được lưu giữ và phát huy. Là
một quốc gia thống nhất về lãnh thổ, đa dân tộc nhưng
chỉ có một dân tộc nắm chủ đạo về mặt dân số (dân tộc
Kinh chiếm khoảng 86% dân số). Là một quốc gia (gần
như) thống nhất về mặt ngôn ngữ, chữ viết trên toàn
quốc. Điều này dẫn đến người dân Việt Nam có văn
hóa, phong tục khá tương đồng nhau.

Tuy Việt Nam trải qua nghìn năm dựng nước nhưng
đều là chế độ quân chủ (phong kiến), hiện nay đang
sống dưới chế độ độc tài do đảng Cộng sản (ĐCS) nắm
quyền, và chưa từng biết đến chế độ dân chủ (trừ chế
độ bán dân chủ VNCH tồn tại rất ngắn ở miền Nam).
Vậy nên nhận thức về chính trị của người Việt khá
thấp, lại còn bị méo mó do sự tuyên truyền sai lệch của
ĐCS Việt Nam.

Vậy, thứ chúng ta cần ưu tiên trong đề xuất hệ thống


bầu cử là: Ngăn chặn độc tài quay trở lại trong tình
trạng dân trí chưa cao (vốn dĩ có sức đề kháng thấp đối
với độc tài).

Trang 138
Bầu cử tự do và công bằng

Có thể giảm nhẹ tính đa nguyên: Bởi Việt Nam là một


quốc gia có một dân tộc nắm chủ đạo về mặt dân số,
thống nhất về ngôn ngữ, tương đồng về mặt văn hóa.
Tức là, Việt Nam là một quốc gia có tính đồng nhất
cao. Sự sai khác của chúng ta chủ yếu là sai khác về vị
trí địa lý dẫn đến điều kiện phát triển kinh tế có chút
khác biệt. Tính đa nguyên chỉ cần chú trọng khi một
quốc gia có nhiều dân tộc cùng chung sống, mà các dân
tộc đó gần như tương đồng về mặt dân số (không có
dân tộc nào nắm chủ đạo). Ở những quốc gia như vậy
có sự khác biệt về văn hóa, phong tục của người dân là
rất lớn.

III. Lựa chọn thể chế.

Trong nội dung thi không nhắc đến thể chế, vậy nên tôi
chỉ viết sơ lược qua. Cá nhân tôi chọn thể chế Đại nghị,
tản quyền, lí do cơ bản là vì:

- Thể chế này gần với thể chế của Việt Nam hiện
tại nhất, chính vì vậy quá trình chuyển đổi sẽ ít tạo
ra bất ổn gây thiệt hại cho đất nước. Điều quan

Trang 139
Bầu cử tự do và công bằng

trọng là chúng ta phải tạo được áp lực để ĐCS phải


nhượng bộ, phải thay đổi điều 4 Hiến pháp hiện
hành, cho phép các đảng phái khác được tự do
thành lập và tham gia tranh cử Quốc hội. Làm
được điều này là chúng ta đã tiến được một bước
rất dài trong quá trình chuyển đổi thành thể chế
Đại nghị rồi.

Việc tiếp theo là để cơ quan tư pháp (Tòa án) hoạt


động độc lập với hai cơ quan còn lại là lập pháp
(Quốc hội), hành pháp (cơ quan hành chính đứng
đầu là Chính phủ). Việc cuối cùng là tách quân đội
ra khỏi đảng phái để có thể đứng trung lập, không
nghiêng về bất cứ đảng phái nào.

Điều này khác với Tổng thống chế. Cuộc chuyển


đổi từ thể chế hiện tại sang chế độ Tổng thống sẽ
phải toàn diện hơn, do Tổng thống chế có cấu trúc
khác rất nhiều so với chế độ hiện tại. Do vậy quá
trình chuyển đổi sẽ khó khăn hơn, trong trường hợp
nếu có chuyển đổi sẽ gây ra nhiều xáo trộn trong
xã hội hơn, nên khó được chấp nhận.

Trang 140
Bầu cử tự do và công bằng

- Thể chế Tổng thống không ổn định bằng chế độ


Đại nghị, bởi nó trao quá nhiều quyền lực cho Tổng
thống, trong đó có vai trò là Tổng tư lệnh quân đội
(có thể điều động quân đội). Vậy nên, nếu một khi
đất nước có biến cố xảy ra, Tổng thống rất có thể
sẽ nhân cơ hội đó để đưa đất nước quay trở lại độc
tài. Thực tế trên thế giới có rất ít nước áp dụng chế
độ Tổng thống mà thành công, phần đa đều trở lại
thành chế độ độc tài.

Chế độ Đại nghị

Trang 141
Bầu cử tự do và công bằng

- Tổng thống chế thường có giới hạn nhiệm kì làm


Tổng thống đối với mỗi cá nhân, thường là hai
nhệm kỳ. Vì vậy gần như không có gì ràng buộc một
Tổng thống khi đã sang nhiệm kì thứ hai. Điều này
thường dẫn đến sự quan liêu trong các phát ngôn
và ra các chính sách. Khác với chế độ Đại nghị vốn
không có sự ràng buộc nhiệm kì cho các đảng, vậy
nên để trúng cử các nhiệm kì sau, các đảng phái sẽ
phải cố gắng thực hiện lời hứa của mình, để gây ấn
tượng trong lòng công chúng.

Chế độ Tổng thống

Trang 142
Bầu cử tự do và công bằng

IV. Lựa chọn Quốc Hội.

Quốc hội là cơ quan lập pháp của một quốc gia. Quốc
hội được người dân bầu cử và có nhiệm vụ thông qua
hiến pháp và các bộ luật. Quốc hội thường được thiết
kế theo hình thức nghị viện.

Có hai loại quốc hội

Một viện: Quốc hội chỉ bao gồm một viện duy nhất.
Ví dụ: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,
... Chiếm 60% số lượng các nước trên thế giới.

Lưỡng viện: Quốc hội bao gồm hai viện là thượng


nghị viện và hạ nghị viện. Ví dụ: Hoa Kỳ, Canada,
Anh, Pháp, Đức, Nhật, Campuchia...

Đại biểu quốc hội tại hạ nghị viện thường là do người


dân trực tiếp bầu lên, nên còn gọi là dân biểu. Trong
khi đại biểu quốc hội tại thượng nghị viện có thể do
dân bầu hoặc không do dân bầu, thường được gọi là
nghị sĩ, hay là thượng nghị sĩ.

Trang 143
Bầu cử tự do và công bằng

Phân bổ chế độ quốc hội trên thế giới

Như vậy, ta thấy nên ưu tiên quốc hội nhất viện bởi sự
đơn giản gọn nhẹ của nó. Mặc dù quốc hội nhất viện
có nhược điểm là có thể thông qua các điều luật, chính
sách một cách vội vàng, và có thể có lợi cho đảng cầm
quyền. Thế nhưng, so với việc có thể dẫn đến bế tắc
trong quá trình thông qua các dự luật, chính sách khi
hai viện có mâu thuẫn với nhau. Thì ưu nhược điểm

Trang 144
Bầu cử tự do và công bằng

của hai loại nghị viện này bù trừ cho nhau, thứ ta có
còn lại là một quốc hội gọn nhẹ khi lựa chọn chế độ
nhất viện.

Mặt khác, có thể giảm nhược điểm của quốc hội nhất
viện bằng cách nâng tỉ lệ % đồng thuận khi biểu quyết
để thông qua một dự luật mới (giả sử phải cần hơn 70%
nghị sĩ đồng thuận); hoặc quốc hội phải thông qua hai
lần, mỗi lần biểu quyết cách nhau một khoảng thời gian
(một tháng chẳng hạn), thì dự luật mới chính thức
thông qua.

Cũng có thể giảm trừ mâu thuẫn trong quốc hội lưỡng
viện bằng cách, các thành viên thượng viện (thượng
nghị sĩ) là những người trung dung không thuộc đảng
phái nào. Thế nhưng điều này rất khó đạt được, bởi vì
muốn được như vậy thì phải quy định các cử tri bầu lên
thượng nghị sĩ phải là những người trung lập không
đảng phái, và điều này gần như là không thể. Thông
thường các thượng nghị sĩ sẽ là người có cảm tình với
một đảng nào đó hơn. Trong trường hợp nếu mọi người

Trang 145
Bầu cử tự do và công bằng

thống nhất phương án lưỡng viện thì tôi sẽ ủng hộ một


thượng viện yếu.

V. Tản quyền hay tập quyền.

Tản quyền có nghĩa là trao nhiều hơn quyền tự quyết


cho các cơ quan địa phương, thông qua đó giảm tải
khối lượng công việc cho cơ quan trung ương. Một
điều nữa, đó là chỉ có chính quyền địa phương mới hiểu
rõ rất về địa phương của mình, từ đó mới có những
chính sách hợp lí để tối ưu hóa tài nguyên, con người
ở địa phương đó.

Về mặt bầu cử, tản quyền có nghĩa là cho phép các


vùng miền được quyền tự bầu cử và có nghị viện riêng
của mình, nhằm thảo luận các chính sách, điều luật phù
hợp với hoàn cảnh từng vùng miền đó (chính sách, điều
luật của vùng nào thì chỉ áp dụng được cho vùng đó,
và chính sách, điều luật ở vùng không được trái với
chính sách, điều luật ở trung ương.)

Trang 146
Bầu cử tự do và công bằng

***

“Một ưu điểm vô cùng quan trọng khác của tản quyền


là nó làm giảm bớt xung đột chính trị, bởi vì một đảng
có thể thua ở cấp trung ương nhưng vẫn có thể nắm
quyền tại một số địa phương, nơi mà họ được tín
nhiệm.

Một điểm lợi quan trọng khác của tản quyền là, chính
nhờ các chính quyền địa phương mà mỗi khi có thay
đổi chính quyền, thì những người lên cầm quyền ở
trung ương cũng không phải là những người tập sự, mà
ít nhất đã có kinh nghiệm ở cấp địa phương.”

(Trích: Khai sáng kỷ nguyên thứ hai – Nguyễn


Gia Kiễng)

***

Tập quyền có nghĩa là tập trung hết quyền quyết định


về cho cơ quan trung ương. Cơ quan địa phương chỉ
chấp hành, hoàn toàn không có quyền tự quyết gì. Tập
quyền tạo ra một đất nước đồng nhất, ai cũng giống ai,

Trang 147
Bầu cử tự do và công bằng

vùng nào cũng áp dụng các chính sách như nhau. Trong
khi mỗi vùng miền tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên,
dân tộc mà có lối sống, văn hóa và điều kiện phát triển
riêng biệt. Vậy nên tập quyền làm tê cứng một quốc gia
và khiến quốc gia đó kém phát triển. Không những thế,
có thể còn khiến quốc gia phát triển một cách lệch lạc.

Từ những dẫn chứng trên chúng ta thấy rằng: Lựa


chọn tản quyền mới là lựa chọn đúng đắn cho Việt Nam
trong tương lai.

VI. Lựa chọn hệ thống bầu cử.

Đây là nội dung chính, tôi sẽ lấy ví dụ về Việt Nam


mình cho dễ hiểu. Chúng ta giả sử rằng, Quốc hội Việt
Nam trong tương lai có số thành viên là 500 đại biểu.

Các nước trên thế giới hiện nay có hai hệ thống bầu
cử chính, đó là:

Trang 148
Bầu cử tự do và công bằng

1. Hệ thống bầu cử theo quy tắc số nhiều/đa số.

Đặc điểm nổi bật của biệt hệ thống bầu cử này


là: Người chiến thắng là người giành nhiều
phiếu nhất, hoặc giành được đa số phiếu.

Một lá phiếu bầu theo phương thức đa số

Ở những nước phân chia khu vực/đơn vị bầu cử với


quy định mỗi khu vực/đơn vị bầu cử chỉ được bầu lấy
một đại diện duy nhất, thường áp dụng phổ biến nhất

Trang 149
Bầu cử tự do và công bằng

là hệ thống bầu cử theo quy tắc ai nhiều phiếu nhất là


thắng (First Past the Post).

Nguyên tắc “ai nhiều phiếu nhất là thắng” chỉ có thể


được áp dụng đối với đơn vị bầu cử chỉ bầu lấy một đại
diện và người chiến thắng là người nhận được nhiều
phiếu bầu hợp lệ nhất, bất kể là có đạt đa số (trên 50%)
hay không. Mỗi cử tri được nhận một lá phiếu trên đó
có ghi tên của tất cả các ứng cử viên và cử tri chỉ được
chọn lấy một cái tên duy nhất trong số đó.

Ví dụ: ở Việt Nam có 500 đại biểu Quốc hội, vậy thì
chúng ta phải chia đất nước thành 500 khu vực bầu cử,
với số dân ở mỗi khu vực không chênh nhau quá nhiều.
Cử tri ở mỗi khu vực nhận được một lá phiếu có ghi
tên tất cả các ứng cử viên trong khu vực đó, và cử tri
chỉ được bầu cho duy nhất một ứng cử viên. Kết thúc
bầu cử, ứng cử viên nào nhận được phiếu nhất là người
chiến thắng, trở thành đại biểu Quốc hội đại diện cho
khu vực đó.

Một số điểm lợi của hệ thống này là trong các nước


theo chế độ đa đảng, hệ thống này giúp tạo lập chính

Trang 150
Bầu cử tự do và công bằng

phủ một đảng cầm quyền ổn định trong suốt nhiệm kỳ


mà không phải liên minh với các đảng nhỏ khác. Hệ
thống này là một trong những nhân tố góp phần tạo ra
tình trạng hai đảng lớn thay nhau cầm quyền tại Mỹ
(Cộng hòa và Dân chủ), hay tại Anh (Công đảng và
Bảo thủ), góp phần loại bỏ đại diện các đảng cực hữu
ra khỏi cơ quan lập pháp. Do hệ thống này bầu ra người
chiến thắng đại diện cho một khu vực địa lý nhất định
nên nó cũng tạo ra mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa
đại biểu được bầu với cử tri của khu vực bầu cử. Một
số nhà bình luận cho rằng, đây là đặc tính “giải trình
trách nhiệm theo khu vực địa lý”, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng ở các xã hội nông nghiệp và các nước đang
phát triển.

Nó cũng cho phép những cá nhân có sức ảnh hưởng


trong cộng đồng tham gia tranh cử mà không cần phải
gia nhập đảng.

Tuy nhiên, hệ thống bầu cử theo nguyên tắc “ai nhiều


phiếu nhất là thắng” cũng có nhiều khiếm khuyết,
thường bị chỉ trích vì thiếu sự “công bằng” và thiếu

Trang 151
Bầu cử tự do và công bằng

tính chính đáng. Trong các chế độ đa đảng, hệ thống


này loại bỏ các đảng nhỏ ra khỏi cuộc chơi quyền lực,
và các đảng nhỏ không có được tỷ lệ đại diện công bằng
mà họ đáng được có trong cơ quan lập pháp. Ví dụ như
trong cuộc bầu cử Liên bang năm 1993 tại Canada,
đảng Bảo thủ Tiến bộ giành được 16% số phiếu bầu
nhưng chỉ có được 0,7% số ghế trong Quốc hội. Hệ
thống này còn có xu hướng loại bỏ tỷ lệ đại diện công
bằng của các nhóm sắc tộc thiểu số và của phụ nữ ra
khỏi Quốc hội.

2. Hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện


(Proportional Representation - PR)

Nguyên lý chung của hệ thống bầu cử theo tỷ lệ


đại diện là việc chuyển số phiếu mà một đảng
chính trị nhận được trong bầu cử thành số ghế
tương ứng trong cơ quan lập pháp cho đảng đó.
Một nguyên tắc chung đối với hệ thống bầu cử
theo tỷ lệ đại diện là mỗi khu vực bầu cử phải
được bầu nhiều hơn một đại biểu.

Trang 152
Bầu cử tự do và công bằng

Ở một số nước nhỏ, dân số ít, như Israel và Hà Lan, cả


nước là một đơn vị bầu cử, được bầu nhiều đại biểu. Ở
một số nước khác, ví dụ như Argentine và Bồ Đào Nha,
đơn vị bầu cử được lấy căn cứ theo tỉnh.

Một lá phiếu bầu theo đảng

Phương pháp bầu cử tỷ lệ đại diện theo danh sách cho


phép mỗi đảng được trình một danh sách các ứng cử
viên tại mỗi đơn vị bầu cử, cử tri bỏ phiếu cho một
đảng nào đó và đảng này nhận được số ghế tương ứng
với tỷ lệ phiếu bầu mà họ nhận được. Người thắng cử

Trang 153
Bầu cử tự do và công bằng

được lấy từ danh sách theo trật tự thứ tự của danh sách.
Số ghế được phân bổ được tính toán theo công thức lấy
trị số trung bình cao nhất hoặc tính số dư lớn nhất.
Công thức tính toán thế nào ảnh hưởng khá lớn đến tỷ
lệ ghế của mỗi đảng.

Nếu áp dụng cho Việt Nam chúng ta, có thể áp dụng


mỗi tỉnh là một khu vực bầu cử, như vậy cả nước có 64
khu vực bầu cử, mỗi tỉnh có số đại biểu quốc hội tỉ lệ
thuận với số dân của tỉnh đó. Bởi vì một khu vực phải
bầu nhiều đại biểu Quốc hội, nên ta phải gộp các khu
vực lại thành một khu vực lớn. Đây là điểm khác so với
cách tổ chức với hệ thống bầu cử số nhiều/đa số.

Điểm thuận lợi là: Kết quả bầu cử sẽ cho phép có một
cơ quan lập pháp có tính đại diện cao hơn hệ thống bầu
cử theo quy tắc số nhiều hay đa số. Lợi ích rõ ràng của
nó là tại những nước vốn có sự chia rẽ xã hội sâu sắc,
việc bao gồm các nhóm xã hội khác nhau, không loại
trừ nhóm yếu thế trong cơ quan lập pháp là điều kiện
cần thiết để đảm bảo hòa hợp dân tộc và ổn định. Hệ
thống này được nhiều nhà phân tích ca ngợi là tránh

Trang 154
Bầu cử tự do và công bằng

được kết quả bất công hay nguy cơ bất ổn do giảm thiểu
khả năng chi phối tuyệt đối của các đảng lớn, đồng thời
vẫn tạo cơ hội tiếp cận quyền lực nhà nước cho các
đảng nhỏ. Để làm được như vậy, đòi hỏi phải có sự
nhất trí của các đảng chính trị khi nộp danh sách ứng
cử viên của đảng, những người thể hiện ý chí và tư
tưởng của đảng.

Hệ thống này cũng tránh được lãng phí phiếu bầu, bởi
lẽ, bất kỳ lá phiếu nào cũng đóng góp vào kết quả cuối
cùng và có khả năng là thay đổi kết quả bầu cử, dù là
nhỏ. Do hệ thống này khuyến khích tính đại diện, tính
bao gồm, nên các đảng nhỏ, các lực lượng thiểu số đều
có cơ hội, nó hạn chế được đáng kể tình trạng “lãnh địa
bầu cử”, dẫn đến tính liên tục và ổn định cao hơn của
chính sách, khuyến khích hoạt động chia sẻ quyền lực
giữa các đảng phái chính trị và các nhóm lợi ích.

Tuy nhiên, hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện cũng có


những điểm bất lợi đáng kể. Hệ thống này có xu hướng
dẫn đến các chính phủ liên hiệp và hệ thống đảng phái
bị manh mún, bất ổn định. Hệ thống này cũng tạo điều

Trang 155
Bầu cử tự do và công bằng

kiện cho các đảng cực hữu hoặc cực tả có đất sống. Kết
quả của hệ thống bầu cử này thường là có một chính
phủ liên hiệp nhưng lại thiếu cơ sở liên minh vững chắc
là những điểm đồng thuận về chính sách, tư tưởng và
cơ sở ủng hộ, nên hay mất ổn định và dễ đổ vỡ.

Thêm vào đó, hệ thống này cũng tạo ra nhiều quyền


lực cho các đảng nhỏ trong cuộc mặc cả để thành lập
chính phủ liên hiệp với các đảng lớn, gây áp lực lớn
đối với các đảng lớn và cử tri rất khó có thể loại bỏ
hoàn toàn được đảng nào ra khỏi quyền lực nhà nước.

(Phần trên có tham khảo và trích đoạn bài báo


“So sánh một số hệ thống bầu cử trên thế giới”
của tác giả Bùi Hải Thêm)

Đến đây tôi muốn nhắc thêm một đặc điểm nữa của
Việt Nam hiện tại: Đó là chúng ta đang sống dưới chế
độ độc tài Cộng sản và đảng này luôn tìm cách để gia
tăng quyền lực của mình. Đây hoàn toàn là xu hướng
tâm lí bình thường, bất kì đảng nào nếu được cũng đều
muốn gia tăng quyền lực và sự chính danh của đảng

Trang 156
Bầu cử tự do và công bằng

mình. Nó chỉ nhượng bộ khi có sức ép từ sự gia tăng


nhận thức của người dân hoặc áp lực từ nước ngoài.

Vậy nên ta có thể dễ dàng hình dung đảng Cộng sản sẽ


nhượng bộ một cách từ từ. Ví dụ: Nới rộng quyền tự
do ngôn luận của người dân; cho các tổ chức dân sự
hoạt động độc lập; rồi đến cho phép các đảng được
thành lập; sau đó có thể cho các chính đảng được tham
gia tranh cử nhưng đảng Cộng sản vẫn giữ một lượng
ghế nhất định tối thiểu trong Quốc hội; cuối cùng là tự
do ngôn luận hoàn toàn và việc tranh cử giữa các đảng
diễn ra một cách công bằng.

Điều này có nghĩa là, tuy cho phép các đảng khác được
tham gia tranh cử, nhưng đảng Cộng sản sẽ làm mọi
thứ có thể để chèn ép các đảng khác (kể cả mưu hèn kế
bẩn), làm sao để đảng Cộng sản nắm được nhiều ghế
trong Quốc hội nhất, thông qua đó giữ vững quyền lực
cho mình.

Trong bối cảnh người dân vì sự thiếu hiểu biết về chính


trị dẫn đến thờ ơ đối với chính trị, không đi bầu cử và

Trang 157
Bầu cử tự do và công bằng

giám sát bầu cử. Điều này càng tạo cơ hội cho đảng
Cộng sản dễ dàng thao túng quá trình bầu cử.

Bởi vì có thể lường trước được tình trạng này, chúng


ta phải thiết kế hệ thống bầu cử sao cho có thể hạn chế
tối đa những vi phạm đó. Đợi đến khi nhận thức về
chính trị của người dân thực sự cao, ý thức được nghĩa
vụ của mình, thì những ưu tư về việc chống độc tài
không còn là gánh nặng nữa. Lúc đó chúng ta sẽ nhắc
đến các mặt khác của hệ thống bầu cử như: sự công
bằng, khả năng đại diện, tính đa nguyên…

Do hai hệ thống bầu cử cơ bản trên đều có những ưu


và nhược điểm, vậy nên đa số các nước lựa chọn hệ
thống bầu cử hỗn hợp, pha trộn tùy tỉ lệ giữa hai hệ
thống bầu cử để hạn chế nhược điểm và tận dụng ưu
điểm của hai hệ thống đó. Dưới đây tôi giới thiệu ba hệ
thống bầu cử hỗn hợp được thiết kế ra với mục đích đó.

1. Hệ thống bầu cử theo tỉ lệ đại diện, nhưng trừ


một số ghế Quốc hội dành cho các cá nhân/cộng
đồng không phải đảng phái.

Trang 158
Bầu cử tự do và công bằng

Ví dụ: Quốc hội Việt Nam có 500 đại biểu, nhưng


chúng ta chỉ dành 400 ghế để bầu cho các đảng. Trong
100 ghế còn lại, có thể dành cho cộng đồng hải ngoại
50 ghế. Bởi họ luôn là một phần máu mủ của dân tộc
mặc dù đã định cư ở nước ngoài. Họ có quyền đóng
góp ý kiến xây dựng đất nước, ngược lại cũng đòi hỏi
nhà nước cung cấp những quyền lợi chính đáng cho họ.
Còn 50 ghế, chúng ta có thể chia cho các dân tộc thiểu
số cùng chung sống trên đất nước này, mỗi dân tộc
được đại diện bởi một đại biểu trong Quốc hội.

Rất dễ thấy hệ thống bầu cử này giúp ngăn chặn một


đảng chiếm trọn Quốc hội, thông qua đó ngăn cản độc
tài. Với hệ thống này, đa số các ứng cử viên phải tranh
cử theo đảng chứ không thể tranh cử tự do. Đồng thời
nó làm cho các đảng trở nên chiếm được ít ghế Quốc
hội hơn, và dễ hình thành nên một Quốc hội yếu.

Tương tự, chúng ta có thể thiết kế với hệ thống bầu cử


theo quy tắc số nhiều/đa số, nhưng trừ ra một số ghế
Quốc hội dành cho các tổ chức không phải đảng phái.

Trang 159
Bầu cử tự do và công bằng

2. Hệ thống bỏ phiếu song song (Parallel voting)

Hệ thống này được sử dụng ở Nhật Bản, Hàn Quốc,


Đài Loan, Nga …

Ta sẽ lấy ví dụ với hệ thống bầu cử ở Việt Nam tương


lai cho dễ hiểu:

Giả sử rằng, Việt Nam tương lai lấy 50% đại biểu Quốc
hội được bầu cử theo tỉ lệ đại diện; 50% còn lại theo
quy tắc số nhiều/đa số. Với quy ước ban đầu chúng ta
có 500 đại biểu Quốc hội, như vậy có 250 ghế được
bầu theo tỉ lệ đại diện và 250 ghế được bầu theo quy
tắc theo số nhiều đa số. Để có thể bầu được 250 ghế
theo số nhiều/đa số, chúng ta phải phân cả nước thành
250 khu vực, mỗi khu vực bầu một đại biểu Quốc hội.
Còn về tỉ lệ đại diện chúng ta phải mở rộng (địa lí) khu
vực bầu cử ra (thu hẹp số khu vực bầu cử lại) để có thể
tiến hành bầu cử.

Với hệ thống bầu cử số nhiều/đa số: Chúng ta hình


thành thế lưỡng đảng với số ghế gần như nhau (hệ quả

Trang 160
Bầu cử tự do và công bằng

của kiểu bầu cử này). Giả sử đảng A được 50% của 250
= 125 ghế, đảng B được 50% của 250 = 125 ghế.

Với hệ thống bầu cử tỉ lệ đại diện: Chúng ta có nhiều


đảng, tất nhiên mỗi đảng sẽ có số ghế ít hơn 50%. Giả
sử chúng ta có ba đảng tham gia tranh cử và mỗi đảng
có số ghế gần tương đương nhau, tức là: đảng A = đảng
B = đảng C = 33% của 250 = 83 ghế.

Sau khi hoàn tất bầu cử, chúng ta có số ghế của các
đảng là: đảng A = đảng B = (125+83 = 208) = 41,6%
ghế quốc hội; đảng C = 83 = 16,6% ghế quốc hội.

Qua ví dụ trên, ta thấy: Một đảng được người dân ủng


hộ (đảng chiến thắng) hoàn toàn có thể tiệm cận đến
50% số ghế Quốc hội và tạo thành một Chính phủ
mạnh. Ngược với hệ thống tỉ lệ đại diện, vì đảng chiến
thắng rất khó chiếm trọn số ghế quốc hội, do hệ thống
bầu cử theo tỉ lệ đại diện luôn có xu hướng tạo thành
các đảng nhỏ.

Với hệ thống bầu cử này trong một quốc gia thực sự


dân chủ, nó cho phép đảng chiến thắng có đủ số ghế để

Trang 161
Bầu cử tự do và công bằng

tạo thành một Chính phủ mạnh và ổn vững. Đồng thời


cũng cho phép các đảng nhỏ có đại diện của mình trong
quốc hội tạo nên tính đa dạng, đại diện được cho nhiều
thành phần ngoài xã hội ở trong Quốc hội (tỉ lệ đại
diện). Nó cũng cho phép các cá nhân được tranh cử với
tư cách độc lập, mà không cần phải tham gia bất cứ
đảng nào (một nửa bầu theo số nhiều/đa số).

Tuy nhiên, phương pháp này vẫn chưa hoàn toàn hạn
chế được việc một đảng chiếm đa số Quốc hội (trên
50%), một khi cử tri ủng hộ đảng đó trong cả hai hệ
thống bầu cử trên. Tức là, cử tri bầu theo số nhiều/đa
số thì chọn người của đảng A và bầu theo tỉ lệ đại diện
cũng chọn đảng A. Như vậy, nếu một đảng có quyền
lực và thực hiện gian lận bầu cử, thì họ vẫn có cơ hội
để chiếm được đại đa số ghế trong quốc hội.

Bên cạnh hệ thống song song, chúng ta có hệ thống đại


diện tỷ lệ thành viên hỗn hợp cũng tương tự. Điểm khác
biệt ở chỗ, hệ thống đại diện tỷ lệ thành viên hỗn hợp
có cơ chế bù ghế, và cơ chế bù ghế này khá phức tạp.
Đại diện của hệ thống này là cách thức bầu cử ở Đức.

Trang 162
Bầu cử tự do và công bằng

3. Hệ thống bầu cử với phần thưởng đa số


(Majority bonus system)

Hệ thống này do tôi đề xuất trong cuốn “Một Quan


Điểm Về Triết Học” do NXB Tự Do xuất bản. Trên thế
giới có các quốc gia như San Marino, Ý, Hy Lạp (đã
bãi bỏ năm 2019) áp dụng hệ thống này.

Với ý tưởng rằng nếu chúng ta sợ:

a) Trong quá trình chuyển đổi sang dân chủ


của Việt Nam, đảng Cộng sản sẽ cố gắng tìm
cách hạn chế các đảng khác tham gia bầu cử
để giành tối đa lợi ích cho đảng của mình, kể
cả gian lận (thực tế là tất cả các đảng nếu được
đều muốn tối đa hóa lợi ích cho đảng mình, bất
kể theo trường phái chính trị, lí tưởng nào).
Hoặc người dân vì thiếu hiểu biết chính trị mà
quá ưu ái bầu cho một đảng nào đó, dẫn đến
đảng này có quá nhiều quyền lực trong Quốc
hội và khó bị kiểm soát.

Trang 163
Bầu cử tự do và công bằng

b) Hoặc chúng ta sợ theo chiều ngược lại với


hệ thống bỏ phiếu theo tỉ lệ đại diện sẽ tạo
thành quá nhiều đảng nhỏ. Cộng với việc các
đảng khi mới thành lập vẫn cứng nhắc theo
đuổi lập trường riêng của mình, không thể tìm
được tiếng nói chung. Điều này dẫn đến không
thành lập được Chính phủ, hoặc một Chính phủ
yếu, chậm trễ trong công tác điều hành đất
nước.

Trong tình trạng của Việt Nam chúng ta, trường hợp
một là có khả năng xảy ra. Như vậy thứ chúng ta lo
ngại không phải là một Chính phủ yếu mà là có một
đảng, vì một lí do nào đó có thể không minh bạch mà
chiếm được đa số ghế trong Quốc hội.

Có rất nhiều minh chứng trong thực tế ở các nước mới


chuyển đổi dân chủ về việc một đảng tìm mọi cách để
chiếm đa số ghế trong quốc hội, trước khi đảng đó suy
yếu dần và phải chấp nhận một cuộc bầu cử công khai,
minh bạch như ở Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và
gần đây là Campuchia (đảng của thủ tướng Hunsen

Trang 164
Bầu cử tự do và công bằng

chiếm 100% ghế Quốc hội, mặc dù có hơn 30 đảng


tham gia tranh cử vào năm 2018).

Nếu đã dự đoán trước được điều này có khả năng cao


sẽ xảy ra, vậy thì tại sao chúng ta không mặc định số
lượng ghế cố định cho đảng chiến thắng? Hoặc ít nhất
chúng ta sẽ đề xuất một giới hạn trần mà một đảng có
thể có trong quốc hội. Ví dụ: Đưa ra quy định một đảng
không thể quá 70% ghế trong Quốc hội. Nếu số phiếu
bầu của cử tri vượt quá 70% thì số % phiếu bầu dư đó
sẽ được chia cho các đảng khác theo tỉ lệ % số phiếu
bầu mà đảng đó nhận được từ cử tri theo hệ thống đại
diện tỉ lệ.

Với việc mặc định số ghế cho đảng chiến thắng, giả dụ
là 51% (hoặc 60%) ứng với Quốc hội Việt Nam là 255
(hoặc 300) ghế. Các đảng còn lại chia nhau 49% (hoặc
40%) số ghế còn lại, dựa trên tỉ lệ phiếu bầu của cử tri.
Như vậy chúng ta không phải lo một đảng chiếm quá
nhiều ghế trong Quốc hội dẫn đến độc tài. Hoặc các
đảng có số ghế với tỉ lệ ngang nhau dẫn đến không có
đảng nào đủ mạnh để thành lập Chính phủ, do đó tạo

Trang 165
Bầu cử tự do và công bằng

ra một Quốc hội và Chính phủ yếu, thậm chí không


thành lập được Chính phủ.

Một nhược điểm mà mọi người thường chê trách hệ


thống bầu cử này là nó không công bằng khi sự phân
bổ số ghế trong Quốc hội sai lệch quá nhiều so với
phiếu bầu của cử tri. Thực ra lối bầu phiếu theo số
nhiều/đa số cũng tạo ra tình trạng tương tự. Ví dụ như
trong cuộc bầu cử Liên bang năm 1993 của Canada,
đảng Bảo thủ Tiến bộ giành được 16% số phiếu bầu,
nhưng chỉ có được 0,7% số ghế trong Quốc hội.

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng: Hình thức


không quan trọng, cái chúng ta cần là mục
đích, chúng ta muốn hướng tới cái gì?

Nếu chúng ta muốn một cuộc bầu cử công bằng thể


hiện đúng nguyện vọng của người dân, chúng ta có hệ
thống bầu cử theo tỉ lệ, vấn đề là hệ thống bầu cử theo
tỉ lệ thường bị chệch hướng hoặc là một đảng chiếm
quá nhiều ghế (a), hoặc nhiều đảng có số ghế gần ngang
nhau (b) dẫn đến một Quốc hội yếu, và thường thì sẽ
nghiêng về phương án (b) hơn. Nếu chúng ta mặc định

Trang 166
Bầu cử tự do và công bằng

cho đảng chiến thắng một số ghế vừa phải, chúng ta có


một Chính phủ và một Quốc hội mạnh mẽ và ổn định.
Nhưng nhược điểm là nó chỉ thể hiện được cho ý chí
của một nhóm người ủng hộ đảng chiến thắng mà thôi.

VII. Tổng kết.

Như vậy chúng ta đã xem xét một cách tổng quát các
hệ thống bầu cử trên thế giới, về mặt cá nhân tôi vẫn
có thiện cảm với hệ thống phần thưởng đa số. Nhưng
hệ thống này được ít quốc gia sử dụng hẳn vẫn còn
nguyên do nào đó mà tôi chưa tìm hiểu hết, sử dụng nó
có phần vẫn là mạo hiểm.

Cũng là để đi đến một đồng thuận chung về tư tưởng


của các tổ chức dân sự ở Việt Nam chúng ta, tôi ủng
hộ hệ thống bầu cử song song với điều kiện nghiêm
ngặt là áp một mức trần cho số ghế tối đa một đảng có
thể có trong Quốc hội là 70%. Trong điều kiện ở một
nước đã có nền dân chủ thì không cần thiết áp mức trần
(70%) như vậy, bởi vì gần như không thể có đảng nào
có thể được ủng hộ đến mức đó.

Trang 167
Bầu cử tự do và công bằng

Thế nhưng ở những nước mới chuyển từ độc tài sang


thì lại rất cần thiết, để tránh giống như cuộc bầu cử của
Campuchia năm 2018. Với hệ thống bầu cử song song
có áp mức trần (khoảng 70%) thì kết quả cũng gần
giống với hệ thống phần thưởng đa số, nhưng được
đánh giá là công bằng hơn.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…

Trang 168
Bầu cử tự do và công bằng

BẦU CỬ LÀ CÁCH CHỌN RA


HIỀN TÀI - NGUYÊN KHÍ CỦA
QUỐC GIA
Trí Đức

Bầu cử chính là phương thức tốt nhất hiện nay của xã


hội loài người nhằm giúp một quốc gia chọn ra những
nhân tài, đại diện cho ý chí của người dân, để điều hành
đất nước và phục vụ lợi ích nhân dân. Tuy nhiên, các
cuộc bầu cử được diễn ra như thế nào, tự do, dân chủ

Trang 169
Bầu cử tự do và công bằng

hay chỉ mang tính hình thức thì nó hoàn toàn phụ thuộc
vào thể chế chính trị đang tồn tại ở quốc gia đó. Minh
chứng rõ ràng nhất cho hai sự khác biệt này, đó là các
cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ và Việt Nam. Hai quốc gia có
hai nền thể chế chính trị hoàn toàn khác nhau, nên việc
tổ chức bầu cử và lựa chọn hiền tài hoàn toàn trái
ngược nhau.

Nếu xét về lịch sử và đặc điểm của Hoa Kỳ thì ta hiểu,


không phải bỗng dưng mà Hoa Kỳ trở thành cường
quốc số 1 thế giới trong suốt nhiều thập kỷ qua. Mặc
dù so với nhiều quốc gia khác, Hoa Kỳ không phải là
nước có nguồn khoáng sản, không “giàu có” như nhiều
nước khác.

Trong cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại?” có
viết đại ý: Vì nguồn khoáng sản quý rất ít nên thực dân
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã không “thèm” xâm
chiếm Hoa Kỳ làm thuộc địa. Sau đó, chỉ vì chậm chân
hơn hai thực dân kia nên Anh Quốc ít có lựa chọn về
thuộc địa, nên đành xâm chiếm Hoa Kỳ để tận dụng
nguồn lực lao động và nông nghiệp.

Trang 170
Bầu cử tự do và công bằng

Như vậy, Hoa Kỳ cũng từng là thuộc địa của thực dân
xâm lược, cũng bị nô lệ, và sau đó là chiến tranh giành
độc lập, rồi nội chiến… Ngoài ra, đây còn là đất nước
không “may mắn” như Việt Nam, vốn được trời ban
tặng cho “rừng vàng, biển bạc”, tài nguyên thiên nhiên
phong phú.

Tới đây tôi muốn nhắc nhở rằng, những người đang
tuyên truyền, biện minh cho sự tụt hậu và chậm phát
triển ở Việt Nam là do chiến tranh kéo dài, do tàn dư
của chiến tranh… là hoàn toàn sai lầm có chủ đích.
Không chỉ có một ví dụ là Hoa Kỳ xa xôi, mà gần hơn
là Nhật Bản, nhất là họ còn phải gánh chịu hậu quả
khủng khiếp của hai quả bom nguyên tử đã tàn phá
nước họ. Nhưng Nhật Bản sau đó vẫn vươn lên đứng
hàng thứ hai thế giới về kinh tế.

Quay lại Hoa Kỳ, vì sao Hoa Kỳ lại vươn lên đứng đầu
thế giới cả về kinh tế cũng như quân sự? Mỗi một cuộc
bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ đều khiến cho các nước
trên thế giới hồi hộp dõi theo? Mỗi một quyết định

Trang 171
Bầu cử tự do và công bằng

chiến lược của Hoa Kỳ ít nhiều đều có ảnh hưởng đến


nhiều nước khác?

Nếu đọc về lịch sử của quốc gia này, chúng ta sẽ thấy


rằng, những nhà lập pháp Hoa Kỳ đã vĩ đại như thế nào
khi họ cố gắng chọn cho đất nước một thể chế chính trị
phát huy tối đa quyền tự do, dân chủ trong bầu cử để
chọn ra được những “hiền tài”, mà hiền tài chính là
nguyên khí của quốc gia.

Mặc dù, thể chế và cách thức bầu cử ở Hoa Kỳ đến nay
vẫn nhận được nhiều lời phê phán, vẫn còn những
khuyết điểm. Tuy nhiên, so với các cuộc bầu cử và thể
chế chính trị hiện tại trên thế giới, thì nó vẫn có những
ưu việt mà nhiều quốc gia chưa làm được, trong đó có
Việt Nam. Và tôi chỉ đề cập sơ qua về cuộc bầu cử ở
Hoa Kỳ trong giới hạn của bài viết ngắn này với mục
đích là so sánh Việt Nam của chúng ta.

Thứ nhất, bầu cử ở Hoa Kỳ được xem là quyền của


mỗi công dân chứ không phải là nhiệm vụ. Vì vậy,
số lượng cử tri đi bầu cử ở Hoa Kỳ trong mỗi kỳ
bầu cử có sự chênh lệch nhau, nhiều hay ít tuỳ

Trang 172
Bầu cử tự do và công bằng

thuộc vào tài năng vận động và chính sách thu hút
của các ứng cử viên.

Thứ 2, Quốc hội Hoa Kỳ chia làm lưỡng viện là


Hạ viện và Thượng viện, các nghị sĩ của các đảng
đều có mặt ở hai viện này. Các nghị sĩ ở Hạ viện
đều do người dân ở mỗi khu vực bầu cử (hạt) trực
tiếp bầu lên với nhiệm kỳ hai năm. Số lượng hạ nghị
sĩ mỗi bang khác nhau nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
số lượng dân cư. Các Hạ nghị sĩ đều sinh sống, làm
việc tại bang mà mình ứng cử và họ đại diện cho ý
chí, yêu cầu của người dân đối với chính quyền.
Các Hạ nghị sĩ không được tham gia vào bất kỳ một
tổ chức, cơ quan công quyền nào khác, họ hoàn
toàn độc lập với các cơ quan nhà nước.

Còn Thượng nghị sỹ cũng do dân bầu theo từng


bang. Và để cân bằng quyền lực giữa các bang thì
số lượng nghị sĩ ở Thượng viện lại được chia đều
cho mỗi bang hai người. Thượng nghị sĩ có nhiệm
kỳ sáu năm.

Trang 173
Bầu cử tự do và công bằng

Thứ 3, bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ không phải do


lưỡng viện quyết định, cũng không phải do chính
quyền Liên bang, mà là do cử tri và cử tri đoàn
quyết định. Bất kỳ công dân hợp pháp nào của Hoa
Kỳ cũng đều có thể thành lập Ủy ban bầu cử để vận
động sự ủng hộ cho mình. Nếu ứng cử viên có đủ
tài năng, họ có thể vận động được tài chính, số
lượng chữ ký ủng hộ theo quy định để ra tranh cử
Tổng thống. Như vậy, một ứng cử viên tự do có thể
trở thành ứng cử viên Tổng thống hay không đều
phụ thuộc vào sự ủng hộ trực tiếp của cử tri, chứ
không cần thông qua bất kỳ cơ quan công quyền
nào. Nếu ứng cử viên không nhận được sự quan
tâm đủ lớn của cử tri thì họ tự rút lui.

Trang 174
Bầu cử tự do và công bằng

Quy trình bầu cử Tổng thống Mỹ

Những công dân trở thành ứng cử viên Tổng thống phải
mất khoảng 8 tháng để đến từng bang vận động lá
phiếu cho mình, bằng cách đưa ra những lời hứa đáp
ứng nguyện vọng của đông đảo cử tri. Các ứng cử viên
Tổng thống thường là đến từ hai đảng lớn là Cộng hoà
và Dân chủ. Họ phải thể hiện tài năng của mình thông
qua những cuộc tranh luận công khai trên truyền thông.
Đây cũng là dịp để ứng cử viên bày tỏ quan điểm của
mình với cử tri, gia tăng sự hiểu biết của cử tri đối với

Trang 175
Bầu cử tự do và công bằng

các ứng cử viên, và để giữ các cử tri không bầu cho


ứng cử viên của đảng khác.

Các cuộc bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ thường kịch


tính đến giây phút chót, khi nó không chỉ phụ thuộc
vào số phiếu cử tri phổ thông, mà còn phụ thuộc vào
số phiếu của cử tri đoàn. Số lượng cử tri đoàn ở Hoa
Kỳ là 538 cử tri, bằng tổng số lượng nghị sĩ của hai
viện cộng lại. Cử tri đoàn được thành lập vào mỗi kỳ
bầu cử Tổng thống và giải tán ngay sau khi đã bầu cử
xong. Đây là những cử tri thường đại diện cho sự ủng
hộ của các cử tri phổ thông tại từng bang. Họ không
phải là công chức đang làm việc tại bộ máy chính
quyền. Lịch sử bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ cho thấy,
có những ứng cử viên giành được nhiều phiếu phổ
thông nhưng vẫn không thể trở thành Tổng thống vì số
phiếu cử tri đoàn ít hơn đối phương, hoặc là ngược lại.

Trang 176
Bầu cử tự do và công bằng

Phân bổ phiếu đại cử tri theo từng bang ở Mỹ

Quay lại vấn đề chính, đó là Việt Nam và cuộc bầu cử


ở Việt Nam. Như trên đã nói, thể chế chính trị là điều
rất quan trọng và quyết định các cuộc bầu cử diễn ra
như thế nào trong một quốc gia. Thể chế chính trị đang
tồn tại ở Việt Nam là thể chế độc đảng, Hiến pháp của
Việt Nam quy định “đảng Cộng sản là giai cấp tiên
phong của mọi giai cấp và có quyền lãnh đạo toàn
diện, tuyệt đối”. Vì vậy, tất cả những người trong bộ
máy cầm quyền từ cấp nhỏ nhất là cấp thôn, làng đến
cấp trung ương đều là đảng viên đảng Cộng sản, là
người của đảng. Tuyệt đối không có bất kỳ một người

Trang 177
Bầu cử tự do và công bằng

dân thường nào lọt vào vị trí lãnh đạo trong bộ máy nhà
nước dù là ở cấp thấp nhất.

Bầu cử ở Việt Nam gồm có hai cuộc bầu cử, đó là bầu


cử Quốc hội ở cấp Trung ương và bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp ở địa phương, thường được tổ chức
chung trong một kỳ bầu cử. Tôi xin chỉ đề cập đến cuộc
bầu cử Quốc hội vì Hội đồng nhân dân là cơ quan “mờ
nhạt” hơn rất nhiều so với Quốc hội.

Cơ cấu bộ máy nhà nước Việt Nam với các lãnh đạo
của Quốc hội khóa 14

Trang 178
Bầu cử tự do và công bằng

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nhiệm kỳ của
mỗi khoá Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là 5
năm. Vì vậy, cứ mỗi 5 năm thì ở Việt Nam lại diễn ra
một lần bầu cử. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.

Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng quy định, công dân
Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền bầu cử, và đủ 21 tuổi có
quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân (trừ
một số trường hợp như người đang bị phạt tù, tạm
giam, mất năng lực hành vi dân sự).

Như vậy, về mặt lý thuyết thì các đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân đều là của nhân dân, và nhân dân
có “phần” trong các “ghế” của hai cơ quan này. Nhưng
trên thực tế, vì đảng Cộng sản có vai trò lãnh đạo tuyệt
đối, toàn diện, nên không chỉ có các cơ quan hành
chính nhà nước, mà ngay cả toàn bộ người dân Việt
Nam cũng đều nằm dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng

Trang 179
Bầu cử tự do và công bằng

sản. Cho nên mới sinh ra chuyện “đảng cử, dân bầu”,
mà người dân chưa dám đi ngược lại với sự lãnh đạo
của đảng.

Vì là “đảng cử, dân bầu” nên hầu hết các đại biểu Quốc
hội và Hội đồng nhân dân là do đảng cử ra. Họ đều là
đảng viên, đặc biệt là những đảng viên có chức vụ lớn
trong bộ máy cầm quyền, nhằm phục vụ cho mục đích
chính trị “đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối”.

Ứng cử viên chủ chốt thuộc khối các cơ quan đảng

Trang 180
Bầu cử tự do và công bằng

Thí dụ như ở Quốc hội khoá 15, theo Nghị quyết 115
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, tổng số đại biểu dự
kiến là 500 người, trong đó có 207 người đang làm việc
trong bộ máy nhà nước ở cấp trung ương, 293 đại biểu
còn lại là ở cấp địa phương.

Dự kiến phân bổ ghế đại biểu Quốc hội khóa 15


khối các cơ quan Trung ương

Cũng trong 500 người này, bà Nguyễn Thị Kim Ngân,


cựu Chủ tịch Quốc hội khoá 14 đã tuyên bố, sẽ để cho

Trang 181
Bầu cử tự do và công bằng

25 đến 50 người là người ngoài đảng, như vậy số còn


lại ít nhất là 450 người đều là đảng viên.

Một số ứng cử viên Quốc hội khóa 15 thuộc


khối các lực lượng vũ trang

Trong số 450 người, thì có 10 ghế giành cho những


người đang làm việc tại các cơ quan đảng cấp trung
ương; cơ quan Chủ tịch nước có 3 ghế; khối Chính phủ
được sắp xếp 15 ghế; khối Lực lượng vũ trang có 13
ghế; các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Uỷ ban

Trang 182
Bầu cử tự do và công bằng

Thường vụ Quốc hội và Văn Phòng Quốc hội có 133


ghế; các cơ quan như Toà án, Viện kiểm sát, và Kiểm
toán nhà nước mỗi cơ quan được bố trí 1 người; Uỷ ban
Trung ương Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên
có 29 ghế. Còn đối với 293 ghế còn lại, sẽ được phân
bổ cho các quan chức đang làm việc tại bộ máy công
quyền ở các tỉnh, thành trên cả nước.

Tất cả các đại biểu không chỉ là đảng viên, mà còn là


lãnh đạo cao nhất của mỗi cơ quan.

Trang 183
Bầu cử tự do và công bằng

Như vậy, mỗi đại biểu là ứng cử viên Quốc hội đều là
những người đại diện cho cơ quan quyền lực mà mình
đang làm chủ hay còn gọi là lãnh đạo, hoàn toàn không
phải là người đại diện cho dân. Điều này đã biến người
dân Việt Nam thành tầng lớp thấp cổ bé họng, không
có tiếng nói lẫn quyền lực chính trị trong xã hội.

Ngoài ra, lịch sử các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội của
nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho
thấy, tất cả những người đứng đầu các cơ quan từ đảng
đến bộ máy hành chính đều trở thành ứng cử viên đại

Trang 184
Bầu cử tự do và công bằng

biểu Quốc hội và họ nghiễm nhiên trở thành đại biểu


Quốc hội.

Mặt khác, trên danh nghĩa, ứng cử viên là đại biểu của
người dân theo từng địa phương, nhưng họ có thể là
những người sinh ra ở địa phương khác, hoàn toàn
không sinh sống và làm việc tại nơi mà họ ứng cử để
trở thành đại diện cho người dân.

Ví dụ như trường hợp của ông Nguyễn Xuân Phúc,


Chủ tịch nước nhiệm kỳ 2021-2026. Ông Phúc là người

Trang 185
Bầu cử tự do và công bằng

sinh ra tại Quảng Nam, hiện đang sinh sống và làm việc
tại Hà Nội suốt hàng chục năm qua, nhưng ông Phúc
lại là ứng cử viên thuộc tổ bầu cử ở hai huyện Hóc Môn
và Củ Chi (Sài Gòn). Và người dân nơi đây phải bầu
cho một người xa lạ như ông Phúc. Chưa kể, việc ông
Phúc là Chủ tịch nước, thì khoảng cách giữa dân
thường với ông Phúc là rất xa để người dân có thể tiếp
cận gửi gắm ý kiến, đề nghị của mình.

Ngoài ra, với chức vụ Chủ tịch nước, liệu rằng ông
Phúc có thời gian để lắng nghe tiếng nói của người dân
Củ Chi, Hóc Môn, có thể “đi sâu, đi sát vào quần
chúng” thường xuyên hay không? Và mỗi lần người
dân muốn gặp ông để gửi ý kiến, kiến nghị thì ông hoặc
người dân sẽ phải vượt quãng đường gần 2.000km?
Hoặc với vai trò là Chủ tịch nước, liệu rằng ông Phúc
có đủ thời gian và kiên nhẫn để lắng nghe các cuộc điện
thoại, đọc Gmail của các cử tri đã bầu cho ông thường
xuyên hay không?

Trang 186
Bầu cử tự do và công bằng

Ông Nguyễn Xuân Phúc sinh sống và làm việc tại Hà


Nội nhưng ứng cử tại Hóc Môn, thành phố HCM

Như vậy, trong 5 năm tới, ông Phúc sẽ đóng vai Chủ
tịch nước để chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội, chịu sự chất vấn của đại biểu Quốc hội? hay
ông Phúc sẽ đóng vai là đại biểu Quốc hội để chất vấn
Chủ tịch nước, lắng nghe báo cáo của Chủ tịch nước?
Hay ông Phúc sẽ vừa tự báo cáo cho mình vừa tự chất
vấn mình vì cùng một lúc đảm nhiệm hai vị trí trên?

Trang 187
Bầu cử tự do và công bằng

Quy trình bầu cử của Việt Nam

Trang 188
Bầu cử tự do và công bằng

Ngoài ông Phúc, còn có ông Nguyễn Phú Trọng là


Tổng Bí thư, ông Phạm Minh Chính là Thủ tướng
Chính phủ đều là ứng cử viên đại biểu Quốc hội. Như
vậy, cả 3 người này đều đang nắm giữ những chiếc ghế
quyền lực cao nhất trong hệ thống chính trị ở Việt
Nam, nhưng cũng đã và sẽ là những người nằm trong
bộ máy Quốc hội thì nghiễm nhiên Quốc hội cũng sẽ
nằm trong tay họ. Vì vậy, Quốc hội dường như là tổ
chức đóng vai trò hợp thức hoá “vở kịch” bầu cử hơn
là một cơ quan lập pháp đúng nghĩa, đại diện cho ý chí
của người dân.

Còn đối với những người dân mà Quốc hội tuyên bố sẽ


“chừa” cho khoảng 25 - 50 ghế đại biểu, thì họ cũng
thuộc dạng “không ai biết” vì họ không có cơ hội,
không được đi vận động cho lá phiếu của mình trong
dân chúng. Để trở thành ứng cử viên đại biểu thì họ
phải làm hồ sơ ứng cử nộp cho Mặt trận Tổ quốc địa
phương. Họ bị cơ quan Mặt trận Tổ quốc – một cánh
tay nối dài của đảng Cộng sản - xét duyệt về lý lịch, về
tôn giáo. Nếu hồ sơ được chấp nhận, thì họ tiếp tục phải
trải qua 3 vòng xét duyệt nữa, được gọi mỹ miều là

Trang 189
Bầu cử tự do và công bằng

hiệp thương. Các vòng xét duyệt này đều do người của
các cơ quan nhà nước và đảng Cộng sản làm chủ, như:
Mặt trận tổ quốc, thường trực Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân cùng cấp.

Một số ứng cử viên là doanh nhân

(đại biểu ngoài đảng sẽ nằm trong số này chăng?)

Về sự tham gia của các cơ quan hữu quan, luật pháp


Việt Nam quy định quá trình bầu cử phải có sự tham
gia của Mặt trận Tổ quốc các cấp và Hội đồng nhân

Trang 190
Bầu cử tự do và công bằng

dân các cấp. Mặt trận Tổ quốc có vai trò rất lớn trong
việc bầu cử. Họ tổ chức các buổi hiệp thương, lựa chọn
và giới thiệu người ứng cử, tham gia giám sát việc bầu
cử… Ngoài ra, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc
còn cùng nhau quyết định việc thành lập Uỷ ban bầu
cử, Ban bầu cử. Với vai trò này của Mặt trận Tổ quốc
thì tính khách quan, vô tư trong của cuộc bầu cử đã
không còn.

Vì vậy, ngay cả những người được cho là ứng cử viên


độc lập thì về mặt hình thức là họ tự ứng cử, nhưng trên
thực tế thì họ lại là những người do đảng quyết định
chứ không phải do người dân quyết định bằng lá phiếu.

Nói tóm lại, tất cả các khâu trong quá trình bầu cử ở
Việt Nam hiện nay đều do các cơ quan nhà nước quyết
định, và ứng viên là người của cơ quan nhà nước hoặc
do cơ quan nhà nước lựa chọn. Người dân không có bất
kỳ quyền lực nào để tham gia hay giám sát.

Chính vì vai trò mờ nhạt, mang tính hình thức của


Quốc hội, nên vừa qua, “cuộc bầu cử” chức danh Chủ
tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ

Trang 191
Bầu cử tự do và công bằng

đã diễn ra một cách lố bịch, không theo quy trình và


luật định.

Theo Nghị quyết 133/2020/QH14 của Quốc hội thì


ngày 23/5/2021 mới diễn ra bầu cử Quốc hội khoá 15,
và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
Và theo luật thì sau khi bầu cử Quốc hội thì các đại
biểu Quốc hội mới bầu chọn ra Chủ tịch Quốc hội. Như
vậy, khi Quốc hội khoá 15 đã được kiện toàn, thì Quốc
hội mới sẽ thực hiện bầu cử hai chức danh Chủ tịch
nước và Thủ tướng Chính phủ cho nhiệm kỳ 2021-
2026. Tuy nhiên, cả ba chức danh này của nhiệm kỳ
2021-2026 đều đã có từ cuối tháng ba đầu tháng tư vừa
qua. Tức là, chức danh lãnh đạo có trước, bầu cử Quốc
hội theo sau. Như vậy, ai là người bầu ra 3 chức danh
trên? Trong khi về luật thì Quốc hội khoá 14 không còn
quyền bầu ra họ.

Điều này cho thấy, không chỉ có các đại biểu Quốc hội,
mà tất cả các chức danh lãnh đạo trong bộ tứ quyền lực
ở Việt Nam đều không phải do người dân bầu, cũng
như không phải do đại biểu Quốc hội bầu. Và bằng

Trang 192
Bầu cử tự do và công bằng

cách nào để họ có được chiếc ghế quyền lực thì nó vẫn


là câu trả lời còn bỏ ngỏ đối với người dân Việt Nam!

Như vậy, muốn có một phương thức bầu cử mới cho


Việt Nam trong tương lai, để đất nước có một nền dân
chủ bền vững, thì trước tiên phải thay đổi thể chế chính
trị. Vì thể chế chính trị quyết định phương thức bầu cử.
Và để thay đổi được thể chế chính trị thì đó là một con
đường dài và gian nan, đòi hỏi phải có sự tham gia của
nhiều người dân.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…

Trang 193
Bầu cử tự do và công bằng

HỆ THỐNG BẦU CỬ NHẬT BẢN


Mạnh Nguyên

I. Tổng quan về hệ thống chính trị Nhật


Bản

Nhật Bản là một quốc gia theo mô hình Đại nghị chế,
hay còn gọi là Quân chủ Đại nghị. Theo mô hình này,
Thủ tướng đứng đầu Chính phủ và nắm quyền hành
pháp. Thiên hoàng là người đứng đầu Nhà nước, mang
tính nghi lễ và là đại diện cho tinh thần dân tộc Nhật.
Hiến pháp đóng vai trò tối cao trong chính trị Nhật.

Trang 194
Bầu cử tự do và công bằng

Hệ thống chính trị Nhật Bản

Nhật Bản đã có bản Hiến pháp đầu tiên của mình và


cũng là đầu tiên của châu Á, do Minh Trị Thiên hoàng
ban hành vào ngày 11/02/1889 và tồn tại cho đến sau
Thế chiến thứ II. Bản Hiến pháp này chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ từ các mô hình của châu Âu như Đức, Anh
và Pháp.

Sau thế chiến thứ II, Hiến pháp Nhật được Tướng Mỹ
là Douglas MacArthur, người đứng đầu quân đội Đồng
Minh chiếm đóng Nhật Bản, chủ trì biên soạn lại,
chuyển đổi mô hình từ Nhà nước quân phiệt sang Nhà

Trang 195
Bầu cử tự do và công bằng

nước dân chủ, đồng thời ngăn chặn sự phục hồi của chủ
nghĩa quân phiệt, từ bỏ quyền tiến hành chiến tranh và
cấm duy trì các lực lượng vũ trang (Điều 9 Hiến pháp
Nhật Bản). Mô hình thể chế chính trị Nhật Bản hiện tại
dựa trên chế độ lưỡng viện đa đảng. Quyền lực chính
trị bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp độc lập với nhau. Thiên hoàng chỉ có địa vị
tượng trưng cho đất nước Nhật Bản và sự thống nhất
của người dân Nhật, Thiên hoàng không can dự vào
công việc chính trị của đất nước.

Quyền hạn và quan hệ giám sát lẫn nhau giữa các


nhánh quyền lực trong hệ thống chính trị Nhật Bản.

Trang 196
Bầu cử tự do và công bằng

Cơ quan lập pháp của Nhật Bản bao gồm Quốc hội
lưỡng viện, gồm Chúng nghị viện còn gọi tắt là Chúng
viện hay Hạ viện và Tham nghị viện còn gọi là Tham
viện hay Thượng viện.

Hạ viện Nhật Bản hiện nay có 465 nghị sĩ, nhiệm kỳ


bốn năm. Nhưng Hạ viện hiếm khi tồn tại được đủ 4
năm do thường bị giải thể trước nhiệm kỳ.

Trong số 465 ghế Hạ viện, có 289 nghị sĩ được bầu từ


các khu vực bầu cử đơn danh trực tiếp (bầu theo ứng
cử viên) và 176 nghị sỹ khác được bầu theo tỉ lệ (bầu
theo đảng phái). Các ứng cử viên bầu vào Hạ viện phải
ít nhất 25 tuổi.

Thượng viện Nhật Bản có 242 nghị sĩ, các Thượng


nghị sĩ có nhiệm kỳ sáu năm và cứ ba năm lại có một
nửa số ghế Thượng viện phải bầu lại. Mỗi kỳ bầu cử
Thượng viện sẽ bầu cho 121 ghế, trong đó 73 người
được bầu từ 47 tỉnh theo phương thức bầu trực tiếp và
48 người được bầu từ danh sách toàn quốc theo phương
thức tỷ lệ.

Trang 197
Bầu cử tự do và công bằng

Phân chia ghế trong Quốc hội Nhật Bản năm 2017

Trang 198
Bầu cử tự do và công bằng

Số ghế bầu theo phương thức tỷ lệ của Thượng viện


được áp dụng từ năm 1982, nhằm tránh sự thao túng
bằng tài chính trong các chiến dịch vận động tranh cử,.
Các ứng cử viên tranh cử vào Thượng viện phải ít nhất
30 tuổi. Thượng viên không bị giải thể như Hạ viện.

Quốc hội Nhật Bản có quyền bổ nhiệm Thủ tướng và


thông thường, Thủ tướng là đại diện của chính đảng
hoặc liên minh chính đảng thắng cử. Thủ tướng có
quyền giải tán Hạ viện. Mặt khác, Hạ viện có quyền
giải tán Nội các của Thủ tướng bằng một cuộc bỏ phiếu
bất tín nhiệm hoặc từ chối bỏ phiếu tín nhiệm. Nếu Hạ
viện thông qua nghị quyết không tín nhiệm hoặc từ
chối bỏ phiếu tín nhiệm Nội các, thì toàn bộ Nội các,
bao gồm cả Thủ tướng phải từ chức.

Trong quan hệ giữa hai viện của Quốc hội Nhật Bản,
Hạ viện có ưu thế hơn Thượng viện. Trong trường hợp
các quyết định được đưa ra Quốc hội mà không đạt
được sự thống nhất ý kiến giữa hai viện thì quyền quyết
định cuối cùng thuộc về Hạ viện. Theo quy định, mỗi

Trang 199
Bầu cử tự do và công bằng

công dân Nhật Bản chỉ được làm nghị sĩ của một trong
hai viện.

Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga

Trong Nội các Nhật Bản, đứng đầu là Thủ tướng, giúp
việc cho Thủ tướng là các Bộ trưởng. Thủ tướng do
Quốc hội bổ nhiệm, các Bộ trưởng được Thủ tướng lựa
chọn và bổ nhiệm. Phần lớn thành viên của Nội các,
bao gồm cả Thủ tướng phải là đại biểu của một trong
hai viện Quốc hội. Nếu Nội các buộc phải từ chức tập

Trang 200
Bầu cử tự do và công bằng

thể, họ vẫn phải điều hành công việc cho đến khi có
một Thủ tướng mới được bổ nhiệm.

II. Hệ thống bầu cử Nhật Bản

Người Nhật vận động tranh cử

1. Các ủy ban bầu cử:

a. Ủy ban bầu cử trung ương:

Ủy ban bầu cử trung ương có nhiệm vụ chính là


quản lý các công việc liên quan đến bầu cử đại

Trang 201
Bầu cử tự do và công bằng

diện theo tỷ lệ của Hạ viện, Thượng viện và các


công việc liên quan đến lựa chọn các thẩm phán
của Tòa án tối cao. Nhiệm vụ quan trọng là đưa
ra lời khuyên và khuyến nghị cho ủy ban điều
hành bầu cử cấp tỉnh hoặc thành phố về những
vấn đề này.

Số lượng thành viên là 5 người, nhiệm kỳ là 3


năm. Các thành viên ủy ban là những người
không thuộc Quốc hội và được Thượng viện bầu
ra, sau đó họ được Thủ tướng bổ nhiệm. Chủ tịch
ủy ban được bầu từ thành viên của ủy ban. Ủy
ban Bầu cử Trung ương này là một tổ chức trực
thuộc của Bộ Nội vụ và Truyền thông.

b. Ủy ban bầu cử tỉnh:

Ủy ban bầu cử tỉnh quản lý các công việc liên


quan đến các khu vực bầu cử một thành viên của
Hạ viện, các khu vực bầu cử trực tiếp của Thượng
viện, bầu cử các thành viên của hội đồng tỉnh và
thống đốc tỉnh, và cả các công việc liên quan đến
việc bầu cử các quan chức cấp huyện. Họ cũng

Trang 202
Bầu cử tự do và công bằng

tham mưu và đề xuất với ủy ban điều hành bầu


cử của thành phố.

Số lượng thành viên là 4 người, nhiệm kỳ là 4


năm. Các thành viên của ủy ban bầu cử tỉnh được
bầu bởi các thành viên của quốc hội. Chủ tịch ủy
ban được bầu từ các thành viên ủy ban.

c. Ủy ban điều hành bầu cử khu vực theo tỷ lệ của


Hạ viện

Nhiệm vụ chính liên quan đến cuộc bầu cử theo


tỷ lệ của Hạ viện. Họ cố vấn và đề xuất với các
ủy ban điều hành bầu cử của các thành phố trực
thuộc trung ương về các công việc thuộc khu vực
mà họ phụ trách.

Số lượng thành viên là 8 và nhiệm kỳ của chức vụ


là nhiệm kỳ của mỗi cuộc bầu cử tỉnh. Chủ tịch
được bầu từ trong số các thành viên ủy ban.

Trang 203
Bầu cử tự do và công bằng

d. Ủy ban bầu cử thành phố

Nhiệm vụ chính là quản lý các công việc liên


quan đến bầu cử các thành viên của hội đồng
thành phố và người đứng đầu; quản lý việc bỏ
phiếu cho tất cả các cuộc bầu cử; đồng thời phụ
trách việc lập và quản lý danh sách bầu cử.

Số lượng thành viên là 4 người, nhiệm kỳ là 4


năm.

Quang cảnh một phòng kiểm phiếu bầu cử ở


Nhật Bản

Trang 204
Bầu cử tự do và công bằng

e. Ban quản lý bỏ phiếu

Quản lý việc mở phiếu trong mỗi cuộc bầu cử. Cụ


thể, bao gồm phát hành phiếu bầu, cho phép bỏ
phiếu, xác nhận cử tri, gửi thùng phiếu cho người
quản lý kiểm phiếu và duy trì trật tự tại các điểm
bỏ phiếu. Những người quản lý bầu cử do ủy ban
bầu cử thành phố bổ nhiệm trong số các cử tri
tham gia cuộc bầu cử.

f. Quản lý kiểm phiếu

Cơ quan này xử lý các công việc liên quan đến


việc kiểm phiếu cho các cuộc bầu cử. Cụ thể, bao
gồm việc kiểm phiếu, xác định hiệu quả của
phiếu, báo cáo kết quả kiểm phiếu, lập biên bản
kiểm phiếu, duy trì trật tự phòng kiểm phiếu.

Trưởng phòng kiểm phiếu do ủy ban điều hành


bầu cử của thành phố bổ nhiệm trong số các cử
tri của cuộc bầu cử.

Trang 205
Bầu cử tự do và công bằng

g. Nhân chứng kiểm phiếu

Là những người chứng kiến quá trình kiểm


phiếu và giám sát để nó được thực hiện một
cách công bằng. Cụ thể, họ chứng kiến thủ tục
kiểm phiếu và nêu ý kiến khi xác định hiệu quả
của việc bỏ phiếu. Số lượng nhân chứng từ 3
người trở lên và 10 người trở xuống tại mỗi điểm
kiểm phiếu.

2. Bầu cử Hạ viện:

Tổng tuyển cử tại Nhật Bản là một cuộc bầu cử được


tổ chức để chọn tất cả các thành viên của Hạ viện. Tổng
tuyển cử được chia làm hai loại, một loại là do Hạ viện
hết nhiệm kỳ (4 năm); và loại thứ hai là do Hạ viện bị
giải tán trước nhiệm kỳ.

Trang 206
Bầu cử tự do và công bằng

Hạ viện Nhật Bản

Bầu cử Hạ viện là sự kết hợp từ hai hệ thống bầu cử:


Hệ thống bầu cử đơn danh theo ứng cử viên và hệ thống
bầu cử tỷ lệ theo đảng phái. Số thành viên của Hạ viện
là 465 người, trong đó 289 người được bầu theo khu
vực bầu cử đơn danh một ghế và 176 người theo tỷ lệ
đại diện. Kỳ bầu cử cho khu vực đơn danh và kỳ bầu
cử đại diện theo tỷ lệ diễn ra trong cùng một ngày.

Bầu cử đơn danh là một hệ thống trong đó một nghị sỹ


được bầu chọn để làm đại diện cho một đơn vị bầu cử.

Trang 207
Bầu cử tự do và công bằng

Toàn Nhật Bản có 289 khu vực bầu cử đơn danh, tại
mỗi khu vực này, cử tri bỏ phiếu cho các ứng cử viên
ra tranh cử. Ứng viên nào có nhiều phiếu bầu nhất là
người chiến thắng. Đó là lý do tại sao nó được gọi là
khu vực bầu cử "một ghế".

Hệ thống đại diện tỷ lệ là một hệ thống trong đó các


ghế được phân bổ cho các đảng chính trị theo tỷ lệ số
phiếu mà đảng đó thu được. Khi bỏ phiếu, cử tri chọn
tên của đảng chứ không phải tên của ứng cử viên, và
đảng có nhiều phiếu nhất sẽ được phân bổ nhiều ghế
hơn. Hệ thống đại diện tỷ lệ được tổ chức tại 11 khu
vực bầu cử (khối), và cử tri bỏ phiếu với tên của đảng
chính trị, chứ không phải tên của ứng cử viên. Số ghế
được phân bổ cho mỗi khối bầu cử là cố định. Số người
chiến thắng đối với mỗi đảng phái chính trị được xác
định tương ứng với tỷ lệ tổng số phiếu bầu mà đảng
phái chính trị đó nhận được.

Ví dụ: Một khu vực bầu cử được phân bổ 10 ghế. Nếu


một đảng chính trị nhận được 30% số phiếu bầu thì sẽ
nhận được 3 ghế (30% số ghế) tại khu vực đó.

Trang 208
Bầu cử tự do và công bằng

Khi tham gia tranh cử, tại mỗi khối bầu cử, mỗi đảng
phái sẽ nộp cho Ủy ban bầu cử một danh sách các ứng
cử viên được sắp xếp theo "thứ hạng để trở thành người
chiến thắng". Những người chiến thắng sẽ được quyết
định theo thứ tự trong danh sách đó, lấy từ trên xuống
dưới. Nếu một đảng chính trị được 3 ghế ở một khu
vực bầu cử, thì người thắng cử sẽ là 3 người đầu tiên
trong danh sách.

Bảng phân bổ số ghế cho các khối bầu cử đại diện


theo tỷ lệ của Hạ viện (cố định 176 người)

Trang 209
Bầu cử tự do và công bằng

Kết quả bầu cử Hạ viện là tổng hợp những người chiến


thắng từ cả hai phương pháp bầu cử. Mỗi cử tri khi đi
bầu sẽ bỏ phiếu cho cả 2 hệ thống bầu cử này. Một
trong những lý do để áp dụng hệ thống bầu cử hiện tại,
đặc biệt là "các khu vực bầu cử một ghế", nhằm đảm
bảo rằng các cuộc bầu cử không tốn quá nhiều chi phí.
Nếu khu vực bầu cử rộng lớn, sẽ phải tốn rất nhiều tiền
để chạy xe quanh khu vực bầu cử để chào hỏi người
dân và dán áp phích bầu cử ở nhiều nơi. Bằng cách thiết
lập các khu vực bầu cử nhỏ hơn, có thể giảm chi phí
cho ứng cử viên. Hơn nữa, với một khu vực bầu cử nhỏ,
ít dân cư, người đại diện sẽ gần gũi hơn với người dân
và nguyện vọng của người dân được truyền tải đến
Quốc hội dễ dàng hơn.

3. Bầu cử nhị phân của Thượng viện:

Đó là một cuộc bầu cử định kỳ để chọn ra một nửa số


thành viên của Thượng viện.

Hiến pháp quy định rằng, một nửa số thành viên của
Thượng viện phải được thay thế ba năm một lần. Như

Trang 210
Bầu cử tự do và công bằng

vậy, số Thượng nghị sỹ cứ luân phiên được bầu sau


mỗi ba năm và mỗi Thượng nghị sỹ có nhiệm kỳ là sáu
năm. Thượng viện không bị giải tán nên các kỳ bầu
Thượng viện luôn là cố định.

Tòa nhà Quốc hội Nhật Bản

Tương tự như bầu Hạ viện, thành viên Thượng viện


cũng được bầu theo hai phương pháp: Phương pháp
bầu trực tiếp theo ứng cử viên từng khu vực và phương
pháp bầu tỷ lệ theo đảng phái. Số thành viên của

Trang 211
Bầu cử tự do và công bằng

Thượng viện là 248 người, trong đó 100 người được


bầu theo tỷ lệ và 148 người được bầu trực tiếp từ các
khu vực bầu cử.

Thượng viện Nhật Bản

Bầu cử đại diện theo tỷ lệ của Thượng viện được bầu


chung trên toàn quốc, nghĩa là cả nước chỉ có một khu
vực bầu cử. Như vậy, các đảng phái tranh cử phải là
đảng lớn ở tầm quốc gia, các đảng nhỏ tại các địa
phương khó có thể thắng cử.

Trang 212
Bầu cử tự do và công bằng

Điểm khác biệt của bầu cử trực tiếp Thượng viện so


với Hạ viện ở chỗ: Tại mỗi khu vực bầu cử Thượng
viện, có một hoặc nhiều ứng cử viên được lựa chọn;
trong khi mỗi khu vực bầu cử của Hạ viện chỉ chọn một
ứng viên duy nhất.

Bầu cử trực tiếp của Thượng viện được tổ chức trên cơ


sở cấp tỉnh, nghĩa là mỗi tỉnh là một khu vực bầu cử,
và cử tri bỏ phiếu bằng cách nêu rõ tên của ứng cử viên
mà họ muốn giành chiến thắng. Người chiến thắng sẽ
được quyết định theo thứ tự từ ứng cử viên có số phiếu
bầu cao nhất và theo số lượng được phân bổ cố định
của mỗi khu vực bầu cử.

Cũng giống như Hạ viện, các ứng cử viên Thượng viện


được lựa chọn bằng cách kết hợp hệ thống bầu cử trực
tiếp và hệ thống đại diện tỷ lệ. Khi bầu Thượng viện,
cử tri cũng sẽ bỏ hai lá phiếu theo hai phương pháp bầu
cử đã trình bày ở trên.

Trang 213
Bầu cử tự do và công bằng

4. Các kỳ bầu cử khác:

a. Bầu hội đồng địa phương:

Bầu cử hội đồng địa phương là một cuộc bầu cử


lựa chọn tất cả các thành viên của hội đồng tỉnh
và thành phố trực thuộc trung ương (các tổ chức
công cộng địa phương). Điều này không chỉ bao
gồm việc hết nhiệm kỳ (4 năm), mà còn có trường
hợp bầu lại do hội đồng địa phương bị giải tán.

b. Bầu người đứng đầu cơ quan công quyền ở địa


phương:

Đây là một cuộc bầu cử để chọn ra những người


đứng đầu các tổ chức công địa phương như thống
đốc tỉnh và thị trưởng các thành phố trực thuộc
trung ương. Ngoài việc hết nhiệm kỳ (4 năm), còn
thực hiện các trường hợp cách chức do người
dân trực tiếp yêu cầu (triệu hồi), mất việc làm do
bỏ phiếu bất tín nhiệm, chết, nghỉ hưu, mất
quyền. bỏ phiếu, v.v…

Trang 214
Bầu cử tự do và công bằng

c. Bầu cử địa phương thống nhất

Cuộc bầu cử người đứng đầu các cơ quan công


quyền địa phương và thành viên của hội đồng địa
phương được gọi là cuộc bầu cử địa phương
thống nhất. Nó được tổ chức bốn năm một lần kể
từ năm 1947 với mục đích nâng cao nhận thức
của cử tri về các cuộc bầu cử trên toàn quốc và
thúc đẩy các cuộc bầu cử diễn ra suôn sẻ và hiệu
quả.

d. Bầu cử lại hoặc bầu cử phụ (bổ sung cho các


cuộc bầu cử chính thức và thiếu người chiến
thắng):

Sau khi các cuộc bầu cử chính thức diễn ra, có


thể có trường hợp người thắng cử qua đời, hoặc
chiến thắng bị cho là không hợp lệ do vi phạm
các quy định về bầu cử, cũng có thể có trường
hợp thành viên Quốc hội/hội đồng nghỉ hưu…
trong những trường hợp này, một cuộc bầu cử
phụ sẽ được tiến hành.

Trang 215
Bầu cử tự do và công bằng

Trong trường hợp bầu cử quốc gia, theo nguyên


tắc chung, các cuộc bầu cử phụ được tổ chức hai
lần trong một năm vào Chủ nhật thứ tư của tháng
Tư và tháng Mười.

Lời kết:

Nếu bỏ qua vai trò của đảng Cộng sản thì hệ thống
chính trị Việt Nam có cấu trúc gần giống với cấu trúc
của mô hình Đại nghị nói chung và của Nhật Bản nói
riêng. Việt Nam và Nhật Bản cũng có một số nét tương
đồng về văn hóa. Để có được một nhà nước dân chủ
như hiện nay, Nhật Bản đã phải trải qua rất nhiều biến
cố thăng trầm, cũng như một quá trình dài chuyển đổi
để thay đổi, trong đó, việc thay đổi phương thức bầu
cử đóng một vai trò quan trọng để hình thành xã hội
dân chủ. Với bài viết ngắn này, tôi hy vọng đem đến
cho độc giả một góc nhìn rộng hơn về bầu cử, khác với
cách thức bầu cử đơn giản hiện nay tại Việt Nam.

Quốc hội là cơ quan quyền lực đại diện cho người dân
và được người dân bầu ra, nên phương thức bầu cử

Trang 216
Bầu cử tự do và công bằng

Quốc hội sẽ thể hiện tính đại diện đó cao hay thấp. Một
nghị sỹ đại diện trực tiếp và chịu trách nhiệm với một
nhóm cư dân thì rõ ràng tính đại diện và trách nhiệm
sẽ cao hơn rất nhiều so với một “đoàn đại biểu Quốc
hội” gồm vài chục người, nhưng lại không biết cụ thể
ai sẽ là người chịu trách nhiệm trước người dân trong
một khu vực, một cộng đồng.

Bầu cử theo tỷ lệ cũng cho phép sự tham gia của nhiều


đảng phái. Mỗi đảng phái đại diện cho một xu hướng
chính trị khác nhau, do đó, khi có nhiều đảng phái cùng
tham gia thì sẽ cân bằng được các xu hướng chính trị,
giảm thiểu nguy cơ tạo ra xung đột. Khi có mâu thuẫn
và bất đồng chính trị thì vấn đề sẽ được giải quyết
thông qua một cuộc bầu cử mới, chứ không đẩy lên
thành xung đột vũ trang hoặc nội chiến.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…

Trang 217
Bầu cử tự do và công bằng

MỘT SỐ HỆ THỐNG BẦU CỬ Ở


CHÂU ÂU
Hoài Nam

Châu Âu là cựu lục địa có nền dân chủ khá sớm trên
thế giới. Mô hình chính trị chủ yếu ở đây là Đại nghị
chế. Chính mô hình này đã tạo ra những nền dân chủ
bền vững, ổn định, đặc biệt là khu vực Bắc Âu. Mô
hình Đại nghị cũng có khá nhiều điểm tương đồng với
Trang 218
Bầu cử tự do và công bằng

hệ thống chính trị của Việt Nam hiện nay, nếu bỏ qua
yếu tố quyền lực tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Điểm khác biệt là các hệ thống bầu cử ở châu Âu
khá phức tạp, do đó có thể tạo ra cơ chế kiểm soát và
đối trọng tốt hơn rất nhiều so với Việt Nam.

Thiết nghĩ, việc tìm hiểu về chính trị châu Âu cũng như
các cách thức bầu cử của các nước châu Âu sẽ có ích
cho Việt Nam trong tương lai nếu có thể thay đổi được
chế độ chính trị. Vì vậy, nhân cuộc thi do Nhà xuất bản
Tự Do tổ chức, tôi xin giới thiệu sơ qua hệ thống bầu
cử ở 4 quốc gia châu Âu: Anh, Đức, Thụy Điển và Phần
Lan. Hy vọng đem lại những điều mới mẻ và lý thú đến
quý vị độc giả.

I. VƯƠNG QUỐC ANH

Nghị viện Anh xuất hiện lần đầu tiên từ năm 1265,
được coi là Nghị viện có truyền thống lâu đời nhất trên
thế giới. Nghị viện Anh bao gồm 3 thành phần: Hạ viện
hay Viện Bình dân và Thượng viện hay Viện Quý tộc.

Trang 219
Bầu cử tự do và công bằng

1. Hạ viện (House of Commons)

Hạ viện Anh

Hạ viện Anh hiện nay có 659 thành viên. Một đại biểu
Hạ viện đại diện cho khoảng 89.000 dân. Để trở thành
Nghị sĩ Hạ viện, ứng cử viên phải có đủ các điều kiện
sau đây:

- Trên 21 tuổi;

- Không mắc các bệnh tâm thần;

Trang 220
Bầu cử tự do và công bằng

- Không ở trong thời gian bị hạn chế các quyền


chính trị và dân sự do vi phạm pháp luật;

- Phải đóng tiền đặt cọc 500 bảng Anh. Số tiền


này sẽ trả lại cho ứng cử viên nếu trong kỳ bầu
cử ứng cử viên thu được từ 5% số phiếu trở lên.

Cách thức bầu cử Hạ viện:

Tất cả mọi công dân từ 18 tuổi trở lên trừ những người
mất trí hoặc những người đang phải chịu án phạt tù
hoặc đang bị tạm giam vì truy cứu trách nhiệm hình sự
đều có quyền bầu cử. Phương pháp bầu cử được quy
định là bầu cử đa số tương đối, nghĩa là người thắng cử
là người có số phiếu cao nhất mà không cần vượt 50%
số phiếu bầu.

Toàn bộ Liên Hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen chia


làm 659 khu vực bầu cử. Mỗi khu vực bầu cử chỉ bầu
một đại biểu. Cử tri lựa chọn một người trong danh
sách các ứng cử viên. Số dân trong các khu vực bầu cử

Trang 221
Bầu cử tự do và công bằng

phải bằng nhau và khoảng 89.000 dân. Tỷ lệ cử tri Anh


đi bỏ phiếu là khá cao so với các nước khác.

Cách thức bầu cử Hạ viện Anh khá đơn giản và dễ hiểu.

Phân chia ghế trong Hạ viện Anh sau cuộc bầu cử


năm 2019

2. Thượng viện (House of Lords)

Thượng viện Anh hiện có 793 Thượng nghị sĩ, gồm


nhiều thành phần khác nhau, như: Tổng giám mục và
giám mục; quý tộc kế truyền (có thế kế truyền cho hậu
duệ); Thượng nghị sĩ suốt đời; và Thượng nghị sĩ tư

Trang 222
Bầu cử tự do và công bằng

pháp suốt đời. Với cơ cấu Thượng nghị sỹ như trên thì
chúng ta có thể hiểu được là các Thượng nghị sỹ của
Anh không phải do dân bầu ra, mà được lựa chọn và
bổ nhiệm.

Thượng viện Anh

Trang 223
Bầu cử tự do và công bằng

II. CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC

Quốc hội Đức có hai viện: Hạ viện và Thượng viện.

1. Hạ viện (Bundestag):

Hạ viện Đức có 598 nghị sỹ và có cách thức bầu cử khá


phức tạp. Khi tham gia bỏ phiếu, mỗi cử tri sẽ nhận
được một lá phiếu được chia làm hai phần với hai nội
dung cần bầu chọn: Phần bên trái lá phiếu dùng để bầu
cho một ứng cử viên và phần bên phải bầu cho một
đảng chính trị.

Bầu cử Hạ viện Đức

Trang 224
Bầu cử tự do và công bằng

Phần bên trái lá phiếu được sử dụng để bầu cho người


đại diện của khu vực bầu cử đơn danh, nghĩa là mỗi
khu vực bàu cử sẽ chỉ bầu cho một ứng cử viên. Phần
này được tính theo hệ thống đa số tương đối (người
chiến thắng là người có nhiều phiếu nhất) giống như
bầu cử ở Anh, Mỹ.

Hạ viện Đức

Nước Đức có 299 đơn vị bầu cử đơn danh, mỗi đơn vị


có khoảng 250 nghìn cư dân. Như vậy, cả nước Đức sẽ
có 299 nghị sỹ được bầu theo phương pháp này. Mỗi

Trang 225
Bầu cử tự do và công bằng

đảng có thể đưa một ứng cử viên của họ ra tranh cử tại


một khu vực bầu cử. Ứng viên độc lập cũng có thể tham
gia nếu họ thu thập được ít nhất 200 chữ ký từ những
người ủng hộ trong khu vực mà họ tranh cử. Cử tri bỏ
phiếu cho ứng cử viên mà mình ủng hộ để đại diện cho
khu vực của họ. Ứng viên giành chiến thắng theo
phương pháp này được bảo đảm ghế trong Hạ viện.
Phần bỏ phiếu này sẽ giúp xác định chủ nhân một nửa
số ghế tại Hạ viện Đức.

Lá phiếu bầu Hạ viện Đức được chia làm hai phần

Trang 226
Bầu cử tự do và công bằng

Phần bên phải lá phiếu dành để bầu cho một đảng chính
trị thay vì một cá nhân ứng cử viên. Kết quả của phần
lá phiếu bên phải này được tính theo từng bang. Số ghế
mà mỗi đảng nhận được tại từng bang tỷ lệ với số phiếu
bầu cho họ, tính trên tổng số ghế mà bang đó được phân
bổ. Ví dụ, bang A được phân bổ 40 ghế; một đảng
giành được 25% số phiếu trong phần bên phải của lá
phiếu tại bang A, đảng này sẽ được phân bổ 25% số
ghế trong tổng số 40 ghế đó. Nghĩa là đảng này giành
được 10 ghế tại bang A.

Phân chia ghế trong Hạ viện Đức sau cuộc bầu cử


năm 2017
Trang 227
Bầu cử tự do và công bằng

Điều khiến cuộc bầu cử trở nên đặc biệt thú vị là lá


phiếu cho phép các cử tri chia sẻ sự ủng hộ của họ giữa
các đảng. Chẳng hạn, một cử tri có thể bỏ phiếu cho
ứng cử viên đảng A ở phần bên trái lá phiếu và bầu
cho đảng B ở phần bên phải lá phiếu.

Số ghế dôi ra

Số ghế Hạ viện được phân bổ tại mỗi bang tỷ lệ theo


số dân của bang đó. Có thể xảy ra trường hợp, một đảng
sẽ nhận được số ghế thông qua bầu trực tiếp cho ứng
cử viên ở một bang nhiều hơn số ghế mà đảng này nhận
được theo cách bầu của phần bên phải lá phiếu. Do mỗi
ứng viên giành chiến thắng tại một khu vực đơn danh
được bảo đảm một ghế tại Hạ viện, đảng đó sẽ được
giữ nguyên số ghế giành được theo cách bầu trực tiếp.
Trong trường hợp này, để bảo đảm số ghế được phân
bổ cho các đảng tại Hạ viện tương ứng với tỷ lệ số
phiếu mà các đảng giành được trong phần bỏ phiếu thứ
hai, các đảng còn lại sẽ được nhận thêm ghế để cân
bằng với số ghế dôi ra mà đảng kia nắm giữ.

Trang 228
Bầu cử tự do và công bằng

Điều này dẫn đến tình trạng Hạ viện sẽ có số ghế lớn


hơn so với số ghế cơ sở là 598 ghế. Cụ thể, Hạ viện của
Đức có 709 ghế trong kỳ bầu cử năm 2017, do số ghế
dôi ra của các đảng.

Tuy nhiên, để vào được Hạ viện Đức, một đảng phải


giành được ít nhất 5% số phiếu bầu của phần dành để
bầu cho các đảng. Quy định này nhằm ngăn những
đảng nhỏ và cực đoan có thể vào Hạ viện.

Bầu Thủ tướng

Thủ tướng Đức Angela Markel

Trang 229
Bầu cử tự do và công bằng

Cử tri Đức không trực tiếp bầu Thủ tướng, mà Hạ viện


sẽ bầu ra Thủ tướng tại phiên họp đầu tiên được triệu
tập. Phiên họp này diễn ra trong vòng không quá một
tháng kể từ sau ngày bầu cử. Kỳ họp đầu tiên này cũng
có thể diễn ra sớm hơn, nếu các đảng thống nhất được
về việc thành lập liên minh sớm.

Lãnh đạo của đảng giành được nhiều ghế nhất sẽ là


người đứng ra thành lập một liên minh đa số, với tổng
số ghế của các đảng trong liên minh sẽ vượt quá 50%
số ghế của Hạ viện. Sau đó, Tổng thống - người đứng
đầu nhà nước và đóng vai trò nghi thức – sẽ giới thiệu
người này là ứng cử viên cho chức vụ Thủ tướng. Và
cuối cùng, các thành viên mới được bầu của Hạ viện sẽ
bầu Thủ tướng thông qua một cuộc bỏ phiếu kín.

2. Thượng viện (Bundesrat):

Thành viên của Thượng viện bao gồm thành viên của
chính quyền các bang. Các bang có quyền bổ nhiệm
cũng như triệu hồi các thành viên đó.

Trang 230
Bầu cử tự do và công bằng

Phân bổ số phiếu/ghế theo bang ở Thượng viện Đức

Trang 231
Bầu cử tự do và công bằng

Thông thường, mỗi bang có một đoàn đại biểu do


người đứng đầu bang (Thủ hiến) lãnh đạo. Số ghế
Thượng viện được phân bổ cho các bang tùy theo dân
số của mỗi bang. Mỗi bang sẽ có tối thiểu 3 ghế; các
bang hơn 2 triệu dân sẽ có 4 ghế; các bang hơn 6 triệu
dân sẽ có 5 ghế, và hơn 7 triệu dân có 6 ghế.

Vì Thượng viện không phải do cử tri bầu ra nên


quyền lực của Thượng viện yếu hơn so với Hạ viện.

3. Tổng thống:

Tổng thống Đức là nguyên thủ quốc gia, một vị trí


mang tính lễ nghi, được bầu với nhiệm kỳ 5 năm và tối
đa hai nhiệm kỳ. Những người tham gia bầu Tổng
thống gồm thành viên của Hạ nghị viện và đại biểu của
các bang - tổng số khoảng 1.260 người. Tổng thống có
nhiệm vụ bảo đảm sự đoàn kết và ổn định của quốc gia;
thực hiện các hoạt động chính trị mang tính biểu tượng.

Trang 232
Bầu cử tự do và công bằng

Hệ thống chính trị Đức

Điều quan trọng của hệ thống chính trị của


Đức là chất lượng lãnh đạo của các Thủ tướng
như Konrad Adenauer (1949-1963), Willy
Brandt (1969-1974), Helmut Schmidt (1974-
1982), Helmut Kohl (1982-1998) và hiện nay là
Angela Merkel là hết sức ấn tượng. Từ một đất
nước bị chia cắt, kinh tế hoàn toàn sụp đổ sau
thất bại trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai,
CHLB Đức đã vươn lên một cách mạnh mẽ,

Trang 233
Bầu cử tự do và công bằng

thống nhất hòa bình, trở thành nền kinh tế hùng


mạnh nhất châu Âu và một nước uy tín trên thế
giới.

Đó là nhờ đáp ứng được 5 yếu tố của một chế độ


chính trị tốt:

(1) Ngăn ngừa hình thành chế độ độc tài,

(2) Ngăn ngừa đảo chính,

(3) Bảo đảm chính quyền ổn định và làm được


việc,

(4) Ngăn cản việc thực thi các chính sách tồi,

(5) Kéo dài sự cầm quyền của một chính phủ


thành công.

III. VƯƠNG QUỐC THỤY ĐIỂN

Thụy Điển theo chế độ đại nghị, nghĩa là người dân sẽ


bầu Quốc hội và Quốc hội bầu chọn Thủ tướng. Quốc
hội Thụy Điển là cơ quan lập pháp một viện, gọi là
Trang 234
Bầu cử tự do và công bằng

Riksdag, có 349 nghị sỹ được bầu 4 năm một lần. Để


ứng cử Quốc hội, ứng cử viên phải đáp ứng các tiêu
chuẩn nhất định và phải được một đảng chính trị đề cử.
Hiện nay có 8 đảng chính trị tham gia Quốc hội khóa
2018-2022.

Tòa nhà Quốc hội Thụy Điển

Thụy Điển áp dụng hệ thống bầu cử đại diện tỷ lệ theo


danh sách đảng mở. Theo phương pháp này, cử tri vừa
bầu cho đảng, vừa bầu cho ứng cử viên mà họ thích
trong đảng đó. Nghĩa là, trên phiếu bầu sẽ xuất hiện tên
của đảng và cả tên các ứng cử viên của đảng đó.

Trang 235
Bầu cử tự do và công bằng

Cử tri sẽ chọn ứng viên mà họ thích nhất trong đảng


mà họ bầu chọn. Ứng viên nào giành được nhiều phiếu
nhất thì trở thành người đại diện cho đảng đó trong
Quốc hội. Nếu một đảng giành được 5 ghế trong một
đơn vị bầu cử thì 5 ứng viên có số phiếu bầu cao nhất
sẽ thắng cử.

Phân chia ghế trong Quốc hội Thụy Điển sau kỳ bầu
cử năm 2014

Trang 236
Bầu cử tự do và công bằng

Hệ thống chính trị Thụy Điển

Thụy Điển có ba cấp chính quyền là: Trung ương, vùng


và địa phương. Ngoài ra, còn có cấp châu lục ở Cộng
đồng châu Âu (EU) với mức độ ảnh hưởng ngày càng
quan trọng hơn.

Người dân Thụy Điển từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu


cử và có cơ hội gây ảnh hưởng đến các đảng đại diện
cho họ tại Quốc hội, Hội đồng tỉnh hay thành phố thông
qua bầu cử và các cuộc trưng cầu dân ý; có quyền gia
nhập các đảng chính trị hoặc góp ý vào các dự thảo báo
cáo của Chính phủ.

Trang 237
Bầu cử tự do và công bằng

Hoàng gia Thụy Điển chỉ có tính biểu tượng và nghi lễ


chứ không có trách nhiệm chính trị và quyền lực chính
thức nào.

IV. CỘNG HÒA PHẦN LAN

Phần Lan cũng là một nước dân chủ Nghị viện với sự
cạnh tranh giữa các đảng chính trị và việc phân chia
quyền lực giữa các cơ quan cao nhất của Chính phủ.

1. Bầu Quốc hội

Quốc hội Phần Lan (Eduskunta) có lịch sử lâu đời từ


thế kỷ 17 và được chính thức thành lập vào năm 1906.
Quốc hội chỉ có một viện với 200 nghị sỹ và được bầu
phổ thông. Nói chung các yếu tố cơ bản của việc tổ
chức Quốc hội Phần Lan hầu như không thay đổi trong
vòng 100 năm qua. Công dân Phần Lan từ 18 tuổi trở
lên có quyền bầu cử và bầu ra Quốc hội.

Trang 238
Bầu cử tự do và công bằng

Các đảng chính trị được bầu vào Quốc hội Phần Lan
năm 2019

Hệ thống bầu cử được thiết kế theo phương pháp tỷ lệ.


Cử tri có thể bỏ phiếu cho một đảng và ứng cử viên của
đảng đó, theo một danh sách các ứng cử viên của đảng.
Phương pháp này cũng tương tự như bầu Quốc hội
Thụy Điển. Điểm khác biệt là người bỏ phiếu có thể
xếp hạng ưu tiên cho tối đa là ba tên, trong số các ứng

Trang 239
Bầu cử tự do và công bằng

cử viên trong cùng một danh sách của đảng mà họ


chọn. Hơn nữa, một cử tri có thể bỏ phiếu cho tối đa ba
người từ bên ngoài danh sách bằng cách nhập tên của
họ vào phiếu bầu. Phương pháp D'Hondt được sử dụng
để phân bổ ghế sau khi các phiếu bầu trong danh sách,
phiếu ưu đãi và phiếu ngoài danh sách được ghép lại
với nhau theo một quy trình hơi phức tạp.

Lá phiếu của người Phần Lan

Trang 240
Bầu cử tự do và công bằng

Tòa nhà Quốc hội Phần Lan

2. Bầu Tổng thống:

Ứng cử viên Tổng thống có thể được chỉ định bởi các
đảng có ít nhất một ghế trong Quốc hội đương nhiệm;
hoặc thu thập được sự ủng hộ của 20.000 công dân.
Vào năm 1919, Tổng thống được bầu bởi đại cử tri.
Đến năm 1988, bầu cử Tổng thống được tiến hành bằng
hai phương pháp song song: vừa trực tiếp từ cử tri và
gián tiếp bởi đại cử tri trong cùng một cuộc bầu cử. Từ

Trang 241
Bầu cử tự do và công bằng

năm 1994, Tổng thống đã được bầu bằng một cuộc bỏ


phiếu phổ thông trực tiếp.

Ông Sauli Niinisto – Tổng thống Phần Lan

Nếu chỉ có một ứng viên được đề cử, người đó sẽ trở


thành Tổng thống mà không cần bầu cử. Nếu không,
vòng bỏ phiếu đầu tiên sẽ diễn ra vào ngày chủ nhật
thứ ba của tháng một trong năm bầu cử. Nếu một trong
số các ứng viên nhận được hơn 50% số phiếu bầu,
người đó sẽ trúng cử Tổng thống. Nếu không có ứng
cử viên nào giành được đa số trong giai đoạn đầu, hai
ứng cử viên có số phiếu cao nhất sẽ được bầu lại trong

Trang 242
Bầu cử tự do và công bằng

giai đoạn hai vào ba tuần sau đó. Tổng thống sẽ nắm
giữ chức vụ vào ngày đầu tiên của tháng ngay sau cuộc
bầu cử.

3. Hệ thống chính trị Phần Lan khá thích ứng,


thực dụng và dễ thu nạp:

Mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và Tổng thống


được điều chỉnh bởi các nguyên tắc của Nghị viện châu
Âu với sự tham gia của các đảng chính trị. Chính phủ
phải được đa số đại biểu Quốc hội ủng hộ để bầu ra
Thủ tướng. Tổng thống có quyền lực khá lớn trong các
lĩnh vực ngoại giao, tuy không nhiều như Tổng thống
Pháp và Tổng thống Mỹ. Trong cuộc cải cách Hiến
pháp năm 2.000, quyền lực của Tổng thống đã bị thu
hẹp, tuy nhiên do có quyền bổ nhiệm các nhân sự cao
cấp của Chính phủ, nên Tổng thống vẫn có ảnh hưởng
to lớn về chính trị. Chính phủ phải hợp tác tốt với cả
Tổng thống và Quốc hội để giúp củng cố vị thế của
Chính phủ trong các hoạt động chính trị.

Trang 243
Bầu cử tự do và công bằng

Trong lịch sử khoảng 100 năm của mình, hệ thống các


đảng chính trị của Phần Lan khá ổn định. Nguyên nhân
là do lịch sử hình thành các đảng phái gồm có các tư
tưởng dân tộc, ngôn ngữ, sự phân chia giữa chủ nghĩa
xã hội và không chủ nghĩa xã hội, đại diện các cộng
đồng nông thôn và sự ly khai của hai đảng cánh tả…

Các Chính phủ liên minh có thể khá lớn và bao gồm
các thành phần có quan điểm chính trị rất khác nhau.
Ví dụ như đảng cánh hữu lớn nhất, Đảng Bảo thủ Liên
minh Quốc gia, có mặt trong Chính phủ cùng với hai
đảng cánh tả khác trong giai đoạn từ 1995 đến 2003 và
lặp lại trong Chính phủ thành lập năm 2011.

Đồng thời các đảng mới cũng được thành lập và tham
gia vào hệ thống cũng như có chân trong Chính phủ.
Ví dụ như các đảng nhỏ Nông thôn Phần Lan, Liên
minh Xanh cũng đã tham gia Chính phủ liên minh cùng
các đảng khác.

…⅏⅏ ♣ ⅏⅏…
Trang 244
Bầu cử tự do và công bằng

Các nguồn tham khảo

https://www.sakura-vn.com/chinh-tri-nhat-ban/

http://tuphap.hatinh.gov.vn/bau-cu-dai-bieu-quoc-hoi-
va-hoi-dong-nhan-dan/seo/quy-dinh-ve-van-dong-
bau-cu-va-xu-ly-vi-pham-hanh-chinh-trong-luat-bau-
cu-dai-bieu-quoc-hoi-va-dai-bieu-hdnd-10558

http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?ti
ntucid=208736

https://vn.usembassy.gov/wp-
content/uploads/sites/40/2016/11/elections-usa_in-
brief-2016-vn.pdf

https://www.bbc.com/vietnamese/world-56812616

https://www.rfi.fr/vi/chau-a/20160410-bau-cu-quoc-
hoi-viet-nam-ung-cu-vien-doc-lap-bi-chinh-quyen-
gay-kho-khan

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-first-
independent-candidates-out-kh-
04052016085245.html

Trang 245
Bầu cử tự do và công bằng

https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/thu-
doan-duc-nuoc-beo-co-pha-hoai-cuoc-bau-cu-659728

https://nhandan.vn/binh-luan-phe-phan/man-kich-tu-
ung-cu-cua-mot-so-nha-dan-chu--645969/

https://tuoitre.vn/ong-do-van-chien-giu-chuc-chu-
tich-uy-ban-trung-uong-mat-tran-to-quoc-viet-nam-
20210412084548523.htm

https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/2
020-world-press-freedom-index-
04212020081124.html

http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan/mo-hinh-to-chuc-
he-thong-chinh-tri-o-mot-so-nuoc-chau-au-duc-thuy-
dien-phan-lan-va-nhung-goi-y-tham-chieu-doi-voi-
viet-nam--%E2%80%8B.html

https://vi.abadgar-
q.com/wiki/2007_Finnish_parliamentary_election#El
ectoral_system

Trang 246
Bầu cử tự do và công bằng

https://vi.abadgar-
q.com/wiki/1907_Finnish_parliamentary_election

https://luatminhkhue.vn/co-cau-to-chuc-cua-nghi-
vien-vuong-quoc-anh.aspx

https://www.luatkhoa.org/2016/02/3701/

https://congdongviet.se/doi-song/cach-thuc-bau-cu-o-
thuy-dien

https://stp.thanhhoa.gov.vn/mot-so-quy-dinh-cua-
phap-luat-ma-cu-tri-can-biet-ve-bau-cu-dai-bieu-
quoc-hoi-va-hoi-dong-nhan-dan-cac-cap-nhiem-ky-
2021-2026/

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-57155070

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-
chinh/Luat-Bau-cu-dai-bieu-Quoc-hoi-va-dai-bieu-
Hoi-dong-nhan-dan-2015-282376.aspx

Trang 247
Bầu cử tự do và công bằng

Trang 248

You might also like