You are on page 1of 40

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG


---o0o---

Tiểu luận môn:

NGUYÊN LÝ CƠ BẢN LOGISTICS VÀ QUẢN LÝ CHUỖI CUNG


ỨNG

(Học kỳ III nhóm 3 năm học 2019 – 2020)

Đề tài: Phân tích quản lý chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam

Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thanh Thủy


Sinh viên thực hiện: Thân Thị Ngọc Tú
Mã sinh viên: A36081
Số điện thoại: 0986845450
Email: tungocbg14@gmail.com

Người chấm 1 Người chấm 2


HÀ NỘI – 2020

MỤC LỤC

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG.............................1


1. Một số khái niệm............................................................................................1
a, Chuỗi cung ứng...........................................................................................1
b, Quản lý chuỗi cung ứng..............................................................................3
2. Mục tiêu của quản lý chuỗi cung ứng..........................................................10
II, THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG CÀ PHÊ VIỆT NAM
.............................................................................................................................11
1. Giới thiệu chuỗi cung ứng cà phê..............................................................11
2.Sơ đồ chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam........................................................13
3. Các nhân tố trong chuỗi cung ứng cà phê....................................................14
4. Thực trạng quản lý chuỗi cung ứng cà phê..................................................18
4.1. Dự báo nhu cầu......................................................................................18
4.2.Tổ chức quá trình sản xuất chế biến.......................................................19
4.3.Phân phối sản phẩm................................................................................20
4.4. Hoạt động vận tải...................................................................................21
5. Nhận xét đánh giá chung về chuỗi cung ứng cà phê....................................22
5.1. Thuận lợi................................................................................................22
5.2. Khó Khăn...............................................................................................23
6.Cơ hội, thách thức trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam.........24
6.1. Cơ hội trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam.....................24
6.2. Thách thức trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam..............25
6.3.Điểm mạnh trong quản lý chuỗi ứng cà phê(S)......................................26
6.4. Điểm yếu trong quản lý chuỗi cung ứng cà phê(W)...............................28
6.4. Cơ hội trong quản lý chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam(O)...................29
6.5. Thách thức trong quản lý chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam(T)............29
III. GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ............................................................30
1. Giải pháp......................................................................................................30
2. Khuyến nghị.................................................................................................31
KẾT LUẬN........................................................................................................32
PHỤ LỤC...........................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................35
LỜI MỞ ĐẦU

_Tính cấp thiết của đề tài:

Khái niệm chuỗi cung ứng lần đầu xuất hiện vào những năm 1980, và phổ
biến thế giới vào những năm 1990. Từ đó, quy trình này trở nên quen thuộc và
được áp dụng thành công vào rất nhiều công ty lớn. Tại Việt Nam khái niệm
SCM đã được nhắc tới nhiều, các doanh nghiệp cung bắt đầu chú ý, tuy nhiên để
hiểu rõ SCM là gì, làm gì để xây dựng và quản trị chuỗi cung ứng thành công thì
hầu hết các doanh nghiệp đều băn khoăn. Từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO
và đặc biệt vào năm 2009. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường, để
thực hiện các mục tiêu về thị phần cũng như các mục tiêu của mỗi doanh nghiệp,
chuỗi cung ứng đóng vai trò quan trọng . Nó giúp người tiêu dùng biết và đến
với sản phẩm, dịch vụ mà mỗi doanh nghiệp cung cấp cho thị trường. Hoạt động
quản trị chuỗi cung ứng cũng vì thế mà trở nên rất quan trọng trong hoạt động
của các nhà quản trị doanh nghiệp. Sự thành công của doanh nghiệp trên thị
trường chính là nhờ có một chuỗi cung ứng hoạt động hiệu quả. Với tốc độ thay
đổi chóng mặt cùng với những biến động khó lường của thị trường, điều quan
trọng bây giờ là doanh nghiệp phải nhận thức được các chuỗi cung ứng cũng
như vai trò của mình trong đó. Các công ty sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh đáng
kể trên thị trường một khi đã nhuần nhuyễn cách thức xây dựng và tham gia vào
một chuỗi cung ứng vững mạnh. Vì vậy việc tìm hiểu hay nghiên cứu về chuỗi
cung ứng, tìm ra những giải pháp hoàn thiện quá trình này là một việc làm cần
thiết để giúp các doanh nghiệp giảm thiểu tối đa các chi phí không đáng có, tối
đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp và tăng sức đề kháng với cuộc đua khốc liệt
đầy tính cạnh tranh. Đặc biệt đối với Chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam, khi mà
nó đã và đang trở thành một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Dù sinh sau đẻ muộn nhưng vị thế của sản phẩm cà phê Việt Nam ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế.
_Mục tiêu nghiên cứu:

* Nắm rõ tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam.


* Xác định đúng đắn đâu là điểm mạnh đâu là điểm yếu của các doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay.
* Phân tích các tác nhân trong chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam
*Đưa ra các giải pháp mới, thiết thực nhằm khắc phục điểm yếu, phát huy
điểm mạnh, giảm thiểu khó khăn, rủi ro, cũng như tận dụng những thuận lợi
trong chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam.
* Qua đó, có thể biết cách thu thập số liệu, hiểu được số liệu thống kê, tổng
hợp thông tin và tiếp cận gần hơn với ngành học.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG
1. Một số khái niệm
a, Chuỗi cung ứng
1.a.1.Khái niệm chuỗi cung ứng:

Chuỗi cung ứng (SUPPLY CHAIN) là một hệ thống tổ chức, con người,
các động lực, thông tin, các hoạt động... liên quan tới việc di chuyển sản phẩm
hay dịch vụ từ nhà cung cấp hay nhà sản xuất đến người tiêu dùng.
1.a.2.Mô hình chuỗi cung ứng:

_Chuỗi cung ứng điển hình: Một chuỗi cung ứng gồm một tập hợp các yêu
cầu của thị trường cũng như các thách thức gặp phải trong công tác điều hành.
Dù vậy, các vấn đề phát sinh căn bản là tương đồng nhau. Các doanh nghiệp
tham gia chuỗi cung ứng bất kỳ đều phải đưa ra quyết định liên quan đến 5 lĩnh
vực:

Dòng sản phẩm và dịch vụ

Thu hồi và tái chế

Nhà sản xuất


sản phẩm cuối Nhà kho
và trung
Nhà cung cấp Nhà sản xuất Chi phí tâm phân Khách
nguyên vật trung gian sản xuất phối hàng
liệu
Chi phí
Chi phí nguyên vật Chi phí vận
tồn kho
liệu chuyển

_Mô hình chuỗi cung ứng SCOR: Mô hình này được xây dụng theo hướng
nghiên cứu hoạt động cung ứng SCOR (Supply Chain Operations Reseach). Mô
hình này được hội đồng cung ứng (Supply Chain Council) phát triển. Theo mô
hình này, có 4 yếu tố được xác định như sau:
1
Hoạch định
•Dự báo lượng cầu
•Định giá sản phẩm
•Quản lý tồn kho
Phân phối
Tìm kiếm nguồn hàng
•Quản lý đơn hàng
•Lập trình giao hàng •Thu mua
•Quy trình trả hàng •Tín dụng và khoản phải
thu

Sản xuất
•Thiết kế sản phẩm
•Lập quy trình sản xuất
•Quản lý phương tiện

Thượng nguồn: tìm kiếm nguồn hàng


Trung lưu:sản xuất
Hạ nguồn:hoạt động phân phối

1.a.3.Các tác nhân/nhân tố của chuỗi cung ứng: một dây chuyền chuỗi cung
ứng gồm có 3 yếu tố tối thiểu sau:
Nhà cung cấp: các công ty bán sản phẩm/ dịch vụ là nguyên liệu đầu vào
cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Hay nói cách khác, nhà cung cấp là
các đơn vị cung cấp các nguyên liệu trực tiếp (vật liệu thô, các chi tiết của sản
phẩm, bán thành phẩm,…)
Đơn vị sản xuất: là nơi sử dụng các nguyên liệu đầu vào áp dụng các quá
trình sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng.
Khách hàng: người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất.

2
b, Quản lý chuỗi cung ứng
1.b.1.Khái niệm quản lý chuỗi cung ứng:

Quản lý chuỗi cung ứng là điều chỉnh thượng nguồn (những nhà cung
cấp) và hạ lưu (những khách hàng) để phân phối những giá trị tốt nhất với chi
phi thấp nhất có thể cho khách hàng.
Như vậy chuỗi cung ứng bao gồm cả logisics trong đó, nó là một phần
chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng bao trùm phạm vi rộng hơn logistics.
1.b.2.Những nội dung cơ bản trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản:

Nông sản là những sản phẩm hoặc bán thành phẩm của ngành sản xuất
hàng hóa thông qua gây trồng và phát triển của cây trồng. Sản phẩm nông
nghiệp bao gồm nhiều nhóm hàng thực phẩm, tơ sợi, nhiên liệu, nguyên vật liệu,
dược phẩm và ma túy bất hợp pháp, các sản phẩm độc đáo đặc thù.
* Dự báo nhu cầu:
Trong bối cảnh dịch Covid-19 lan rộng ra toàn thế giới và vẫn đang có
những diễn biến phức tạp, hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt
Nam, đặc biệt là trái cây đã và đang gặp nhiều khó khăn, thách thức do một số
thị trường tạm ngừng thông quan hoặc tăng cường kiểm dịch phòng chống
Covid-19. Để kịp thời tháo gỡ khó khăn về tiêu thụ nông sản, các bộ, ngành đã
phối hợp với các địa phương đưa ra nhiều giải pháp nhằm kết nối hỗ trợ thu
mua, tiêu thụ nông sản tồn đọng do không thể xuất khẩu cho nông dân và doanh
nghiệp; hướng dẫn một số địa phương đang trồng dưa hấu, thanh long chuyển
sang cây trồng khác dễ tiêu thụ về ngắn hạn như: đậu tương, ngô, rau…phát huy
tốt công tác thu mua cũng như chế biến để phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước,
đó là tăng cường thu mua những nhóm mặt hàng: rau, củ quả, thuỷ sản và
khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua cung ứng sản phẩm đối với
thị trường trong nước... Đây cũng là thời điểm đặt ra cho nông sản Việt Nam
những cơ hội mới tại thị trường nội địa khi việc tiêu thụ hàng hoá của người dân
đã chuyển dịch nhiều từ hàng ngoại nhập sang nội địa do việc hạn chế đi lại
nhằm tránh dịch bệnh lây lan khiến nhiều sản phẩm nhập khẩu không thể vào thị
3
trường trong nước.  Với dân số hơn 96 triệu dân, Việt Nam là thị trường tiêu thụ
nông sản rất tiềm năng. Trong thời gian qua, việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở
thị trường nội địa cũng đã khẳng định hiệu quả rõ nét trong những thời điểm đầu
ra xuất khẩu gặp khó khăn. Ngoài ra,  nhu cầu thế giới về hàng nông sản của
Việt Nam ngày càng tăng.
*Tổ chức hoạt động nuôi trồng:
Về giống: đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống
tiến bộ kỹ thuật. Phần lớn giống tốt được sản xuất trong nước. Đẩy mạnh việc
nghiên cứu lai tạo và ứng dụng giống ưu thế lai. Phải đầu tư đảm bảo yêu cầu
xây dựng cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu tạo giống mới và sản xuất
giống gốc. Giành đủ kinh phí cần thiết để nhập khẩu nguồn gien và giống tiến
bộ kỹ thuật phục vụ công tác nghiên cứu, lai tạo giống mới và để nhân nhanh
giống tốt phục vụ sản xuất đại trà. Mở rộng từng bước việc áp dụng kỹ thuật di
truyền trong công tác tạo giống cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, song
phải đảm bảo tính đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.
Về phân bón: Thực tế vài thập kỷ qua, ngành trồng trọt nước ta lạm dụng
đầu tư phân hóa học quá mức, phân hữu cơ ít được dùng, thậm chí không có đã
làm hạn chế năng suất cây trồng, sâu bệnh ngày càng tăng và phát sinh nhiều đối
tượng sâu bệnh mới với sức phá hoại nguy hiểm hơn; nhưng nguy hại lâu dài
hơn là làm đất bị thoái hóa, ô nhiễm nguồn nước và không khí…Muốn phát triển
nông nghiệp bền vững, ngành trồng trọt nước ta phải hạn chế sử dụng phân hóa
học, tăng cường sử dụng sản phẩm phân bón hữu cơ, phân khoáng thiên nhiên
thân thiện với môi trường làm ra sản phẩm nông nghiệp sạch và an toàn.
Về quản lí đất nuôi trồng: Nghiên cứu về biến động diện tích các loại đất
giai đoạn 1994-2016 của Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương cho
thấy, trong số trên 33,1 triệu ha đất đai của cả nước, lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp đang sử dụng 27,3 triệu ha chiếm 81% tổng diện tích tự nhiên. Diện tích
đất nông nghiệp tăng đều trong suốt cả giai đoạn 1994-2016 từ 18,3 triệu ha lên
27,3 triệu ha. Thay đổi lớn nhất là đất chưa sử dụng đã giảm mạnh từ 11,7 triệu
ha xuống còn 2,1 triệu ha trong cùng kỳ, điều này cho thấy việc khai thác và sử
4
dụng nguồn lực đất đai vào các mục đích khác nhau đã và đang được đẩy mạnh.
Đối với đất nông nghiệp cũng có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng lên cả đối
với đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản
nhờ đẩy mạnh khai hoang, thủy lợi đi đối với cải tạo đất. Tuy nhiên, cơ cấu đất
nông nghiệp lại có sự thay đổi mạnh mẽ do chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ
cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp thời gian qua. Chỉ tính riêng giai đoạn
2001 đến nay, mặc dù diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã tăng mạnh (từ 8,88
triệu ha lên 11,53 triệu ha, nhưng diện tích đất lúa lại giảm từ trên 4,34 triệu ha
xuống còn 4,14 triệu ha), kèm theo đó là sự tăng lên của đất cây hàng năm khác
và cây lâu năm. Việc giảm diện tích đất lúa có nguyên nhân một phần do đô thị
hóa và công nghiệp hóa đã chuyển một phần đất nông nghiệp (trong đó có đất
lúa) sang đất phi nông nghiệp, phần còn lại là do hiệu quả của trồng lúa thấp,
không mang lại thu nhập hấp dẫn như nuôi tôm, thủy sản nước ngọt, trồng cây
ăn quả, rau màu, hoa, cây cảnh, chăn nuôi…
Về kỹ thuật chăm sóc:  sản xuất nông nghiệp phần lớn duy trì ở quy mô
nhỏ lẻ, manh mún trong phạm vi hộ gia đình với phương thức canh tác thủ công,
hạn chế về cơ giới hóa và chế biến nên phần lớn nông sản vẫn đang xuất khẩu
thô, giá trị mang lại không cao. Cơ giới hóa trong nông nghiệp ở Việt Nam đã có
bước phát triển nhanh, nhiều khâu sản xuất nông nghiệp có mức độ cơ giới hóa
cao như làm đất lúa, mía, thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long giúp nông
dân giảm thiểu công việc nặng nhọc, đảm bảo thời vụ gieo trồng, góp phần nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm... Tuy nhiên, các chuyên gia nông nghiệp
đánh giá, trình độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều
hạn chế và thiếu tính đồng bộ. Hiện hơn 93% máy làm đất, máy kéo có công
suất nhỏ, năng lực chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp trong nước mới chỉ
đáp ứng được 1/3 nhu cầu. Các loại động cơ, máy kéo, máy nông nghiệp công
suất lớn đều phải nhập khẩu với chi phí đắt đỏ, nông dân không thể chi trả. Đặc
biệt, trong lâm nghiệp việc đưa máy móc vào sản xuất hầu như chưa đáp ứng
được nhu cầu, hơn 70% lượng công việc bao gồm trồng, chăm sóc, chữa cháy,
bốc xếp sau khai thác đều được làm thủ công, tiêu tốn rất nhiều nhân công.
5
Các doanh nghiệp trồng nông sản: Việt Nam có tới 3 doanh nghiệp trong
lĩnh vực nông nghiệp được Forbes vinh danh. 3 doanh nghiệp trong lĩnh vực
nông nghiệp trong tổng số 10 doanh nghiệp Việt Nam lọt vào Top 200 doanh
nghiệp có doanh thu dưới 1 tỷ USD tốt nhất Châu Á một lần nữa khẳng định thế
mạnh cũng như tiềm năng phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
* Tổ chức hoạt động thu mua:
Hằng năm, nước ta sản xuất một lượng hàng hóa nông sản lớn, là nguồn
nguyên liệu phong phú cho ngành công nghiệp chế biến cho nên thu hút sự tham
gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thực tế hoạt động
mua bán nông sản trong nước thời gian qua bộc lộ nhiều điểm bất ổn, trong đó
một phần là do sự tham gia ngày càng sâu rộng của các thương nhân nước ngoài
dưới nhiều hình thức. Thực tế thị trường nông sản trong nước đang tiềm ẩn
nhiều bất ổn với các hoạt động thu mua nguyên liệu "ngầm" của các doanh
nghiệp nước ngoài. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong ngành
cà-phê, hiện các doanh nghiệp nước ngoài thu mua đến gần 60% tổng sản lượng.
Trong ngành hàng hồ tiêu, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp nước ngoài
cũng chiếm đến 36,5% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2012. Việc  đưa sản
phẩm đến tay nhiều người tiêu dùng tồn tại bất cập, ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường. Đáng chú ý, giá nhiều loại nông sản, đặc biệt
là trái cây được nông dân bán ra ở mức thấp nhưng khi sản phẩm đến tay người
tiêu dùng thường cao hơn rất nhiều, vì qua nhiều khâu trung gian. Theo đó, việc
quản lý chất lượng sản phẩm của nhiều loại nông sản từ nơi sản xuất đến nơi
tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng chưa được chặt chẽ, để có thể truy xuất được
nguồn gốc và đảm bảo chất lượng. Nông dân chỉ định hướng sản xuất nông sản
để phục vụ xuất khẩu, chứ chưa quan tâm đúng mức đến việc đưa hàng vào bán
tại siêu thị và các kênh bán hàng cấp cao ở nội địa. Điều này đã phần nào làm
hạn chế đến việc tổ chức hệ thống phân phối và tiêu thụ sản phẩm, nhất là việc
kết nối giữa nông dân với các doanh nghiệp trực tiếp tiêu thụ hàng ở nội địa.
Ở thị trường nội địa, nhà sản xuất luôn phải đối mặt với tình trạng “được
mùa, mất giá”; nhà phân phối bị động vì hàng hóa cung ứng lệ thuộc vào mùa
6
vụ, thời tiết. Về phía người tiêu dùng phải chi trả quá cao so với giá gốc trong
khi hàng nông sản thiếu sự kiểm soát chất lượng. Đối với hệ thống phân phối
hàng nông sản xuất khẩu, tình hình “mua đứt, bán đoạn” luôn diễn ra, các tác
nhân trong chuỗi sản xuất hầu như không hề biết sản phẩm của mình sẽ đi đâu,
về đâu.
* Tổ chức quá trình sản xuất chế biến:
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), từ
năm 2013-2019 công nghiệp chế biến nông sản cả nước đã có bước phát triển
mạnh trên cả quy mô và mức độ hiện đại so với 5 năm trước (2007-2012), tốc độ
tăng trưởng giá trị gia tăng hàng năm đạt khoảng 5-7%. Xuất khẩu chiếm
khoảng 65% tổng giá trị chế biến. Bộ NNPTNT cũng cho biết, đến nay đã hình
thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến bảo quản nông sản với
khoảng 7.500 cơ sở quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu. Ngoài ra còn có
hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ, hộ gia đình rải khắp các địa bàn làm
nhiệm vụ sơ chế và chế biến phục vụ tiêu dùng nội địa. Tổng hợp số liệu thu
thập thông tin sơ bộ của 63 tỉnh, thành phố cho thấy, tất cả các tỉnh, thành phố
trong cả nước đều có doanh nghiệp chế biến đối với các ngành hàng nông lâm
thủy sản chính. Tỉnh ít nhất cũng có 2 ngành hàng chế biến (Lạng Sơn, Bắc Kạn,
Phú Thọ, Đà Nẵng); có 4 tỉnh là TPHCM, Nghệ An, Đồng Nai, Bình Dương có
tới 10-11 ngành hàng chế biến. Tuy nhiên, công nghiệp chế biến nông sản vẫn
còn nhiều tồn tại, hạn chế như chưa đáp ứng được yêu cầu đầu ra cho khâu sản
xuất nguyên liệu, gia tăng giá trị hàng nông sản qua chế biến còn thấp; chất
lượng sản phẩm chưa ổn định, còn tiềm ẩn nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực
phẩm; dây chuyền thiết bị cũ, công nghệ chưa tiên tiến, sản phẩm đơn giản, tiêu
hao nhiều nguyên liệu và năng lượng; sản phẩm chế biến sâu có GTGT cao tỉ lệ
còn thấp, chủng loại sản phẩm chế biến chưa phong phú.  Việc phát triển công
nghệ bảo quản cho nông sản là vô cùng quan trọng. Điều này sẽ giúp nông dân
giảm được tổn thất về số lượng và chất lượng, đồng thời đóng góp tích cực trong
việc duy trì chất lượng nông sản.

7
* Phân phối sản phẩm:
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản quý I/2020 giảm so với
cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 831 triệu USD, giảm 11,5%; cà phê đạt 794
triệu USD, giảm 6,4% (lượng giảm 3,9%); cao su đạt 331 triệu USD, giảm
26,1% (lượng giảm 33%); hạt tiêu đạt 156 triệu USD, giảm 17,6% (lượng giảm
0,9%).
Riêng gạo và hạt điều tăng cả lượng và giá trị, gạo đạt 653 triệu USD, tăng
7,9% (lượng tăng 1,1%); hạt điều đạt 644 triệu USD, tăng 0,8% (lượng tăng
14,3%).
Các loại nông sản chủ yếu đang được phân phối, tiêu thụ tại các chợ đầu
mối nông sản (kiểu cũ), chợ dân sinh và hệ thống siêu thị, cửa hàng... Nhìn
chung chất lượng cũng như mức độ an toàn của các loại nông sản tại các chợ
kiểu cũ chưa đạt tiêu chuẩn, khó truy xuất nguồn gốc, xuất xứ. Nông sản chủ
yếu được thu gom thông qua hệ thống thương lái tư nhân do chưa có các trung
tâm thu gom hiện đại. Sản phẩm sau thu hoạch chưa được phân loại, đóng gói,
bảo quản theo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này khiến tỷ lệ hư
hỏng sau vận chuyển cao, chất lượng rau quả giảm và cơ hội tiếp cận thị trường
thấp. Trải qua nhiều khâu trung gian giá thành nông sản cao, trong khi giá trị
tăng thêm chủ yếu rơi vào hệ thống thương lái và thu gom, người nông dân
không được hưởng. Ngoài ra, việc thu gom, vận chuyển, phân phối tự do cũng
khiến việc kiểm soát chất lượng các sản phẩm rau, quả rất khó khăn. Xây dựng
hệ thống các trung tâm cung ứng nông sản hiện đại được coi là giải pháp hiệu
quả để giải quyết các vấn đề mà mạng lưới phân phối nông sản hiện tại đang gặp
phải.
* Quản trị tồn kho:
Việt Nam cần một chuỗi các kho hàng cho hàng nông sản được xây dựng ở
những vị trí kết nối trực tiếp với nhà ga, cảng lớn có trung tâm kiểm nghiệm, để
tiện việc đóng gói, sơ chế, xuất khẩu và giám định chất lượng sản phẩm. Ở Việt
Nam, chuỗi cung ứng lạnh (cold chain logistics) vẫn còn trong giai đoạn phát
triển đầu tiên. Xe tải đông lạnh số lượng rất nhỏ. Các thiết bị vận tải trang bị cho
8
cold chain so với các nước khác còn thiếu chuyên nghiệp. Nhiều xe không có
cách nhiệt tiêu chuẩn, thiếu mạng lưới thông tin logistics nội bộ và chuỗi cung
ứng. Những năm gần đây, do thị trường gia tăng, một số công ty logistics đã đầu
tư kho lạnh quy mô lớn. Nhưng về tổng thể, thị trường kho lạnh Việt Nam còn
khá phân mảnh. Những nhà cung cấp dịch vụ kho lạnh có thị phần tương đối
như Emergent Cold, Minh Phú Gemadept, ABA, Hoàng Phi Quân, Lotte, An
Việt Cold Storage, Phan Duy, Satra, Meto, Alpha, Transimex chỉ đáp ứng được
phần nhỏ nhu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Theo báo cáo đánh giá
năng lực cung cấp dịch vụ của kho lạnh Việt Nam của Emergent Cold (2019),
chỉ hơn 50% doanh nghiệp có thể cung cấp được từ 6 - 7 dịch vụ trong kho lạnh,
hơn 20% doanh nghiệp cung cấp được từ 9 - 11 dịch vụ, và 20% là cung cấp ít
hơn 5 dịch vụ.
* Hoạt động vận tải:
Việc tìm chọn phương thức vận tải phù hợp để xuất khẩu hàng nông sản
cũng là yếu tố quan trọng được quan tâm nhiều nhất hiện nay. Trên thực tế để
xuất khẩu nông sản sạch nhanh chóng và an toàn thì việc vận chuyển bằng
đường hàng không được đánh giá là phương pháp tối ưu nhất hiện nay. Sử dụng
phương thức vận tải bằng đường hàng không để xuất khẩu nông sản sạch giúp
vận chuyển nông sản nhanh chóng hơn, giảm thiểu thời gian vận chuyển và đảm
bảo giá trị nông sản luôn cao nhất.
Nhưng vì giá cước khi vận chuyển đường hàng không tương đối cao nên
việc vận chuyển nông sản bằng đường hàng không không phải là phương thức
lựa chọn tối ưu ở mọi lúc và mọi thời điểm.
Một phương thức vận chuyển nông sản khác được sử dụng phổ biến là vận
chuyển bằng container, trong đó thực tế hầu hết những nông sản sạch Việt Nam
khi được vận chuyển xuất khẩu sang Trung Quốc đều sử dụng phương thức vận
chuyển bằng container, tuy nhiên để vận chuyển nông sản bằng container mà
không làm giảm chất lượng của nông sản cũng không phải là điều dễ dàng.
Trong đó những nông sản có thể vận chuyển được bằng container thường có
những yêu cầu nhất định, trong đó hầu hết là những nông sản có thời gian bảo
9
quản lâu dài như khoai lang, khoai tây, hành tây…. Thì việc chọn dùng phương
thức vận chuyển bằng container cũng dễ dàng hơn rất nhiều.
Riêng với những nông sản có thời gian bảo quản ngắn như vải, dưa hấu..
thường hầu hết tập trung từ những thương lái tới khi vận chuyển đến cửa khẩu từ
3 tới 5 ngày, vì vậy khi xuất khẩu cũng chỉ có khoảng 50% đối tác chấp nhận sản
phẩm, điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp và người nông
dân, trong khi  giá xuất khẩu thì cao nhưng giá mua của thương lái thì thấp..
2. Mục tiêu của quản lý chuỗi cung ứng
Mục tiêu của mọi chuỗi cung ứng là tối đa hóa giá trị tổng thể của chuỗi.
Giá trị của một chuỗi được tạo ra từ sự khác biệt giữa sản phẩm cuối cùng, cái
khách hàng nhận được và chi phí của chuỗi để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Giá trị của chuỗi cung ứng = giá trị của khách hàng – chi phí của chuỗi
cung ứng
Đối với hầu hết các chuỗi thương mại, giá trị liên quan mạnh tới khả năng
sinh lợi của chuỗi cung ứng (được coi như giá trị thặng dư của chuỗi cung ứng),
đó là sự khác biệt giữa lợi nhuận được tạo ra từ khách hàng và tổng chi phí trong
chuỗi.
Khả năng sinh lợi hay giá trị thặng dư là tổng lợi nhuận được chia sẻ trong
chuỗi cho mọi giai đoạn hay cho cả những trung gian. Chuỗi cung ứng càng có
khả năng sinh lợi cao, là chuỗi cung ứng thành công. Sự thành công của chuỗi
cung ứng nên được đo lường bằng khả năng sinh lợi của chuỗi chứ không phải
bằng lợi nhuận của các cá nhân.
Sau khi định nghĩa sự thành công chuỗi cung ứng trong phạm trù của khả
năng sinh lợi, bước tiếp theo là xem xét nguồn gốc của lợi nhuận và chi phí. Đối
với mọi chuỗi cung ứng, chỉ có duy nhất một nguồn của lợi nhuận, đó là khách
hàng. Mọi dòng thông tin, sản phẩm và vốn  tạo ra chi phí trong chuỗi. Vì vậy,
việc quản lý thích hợp các dòng này đóng vai trò quan trọng cho sự thành công
của chuỗi. Việc quản lý hiệu quả chuỗi cung ứng liên quan tới việc quản lý tài
sản của chuỗi và dòng thông tin, sản phẩm, vốn để tối đa hóa khả năng sinh lợi
của chuỗi.
10
II, THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHUỖI CUNG ỨNG CÀ PHÊ VIỆT NAM
1. Giới thiệu chuỗi cung ứng cà phê
Sản lượng và xuất khẩu cà phê luôn tăng trưởng trong nhiều năm qua và
đang đứng thứ hai thế giới, nhưng giá trị sản phẩm chưa cao. Không tăng diện
tích trồng, tập trung phát triển chế biến, xây dựng thương hiệu và nâng cao giá
trị là hướng đi sắp tới của cà phê Việt.
Ước tính của Tổng cục Thống kê cho biết năm 2019 cả nước xuất khẩu đạt
chừng 1,61 triệu tấn (tương đương 26,8 triệu bao), trị giá 2,785 tỉ USD, giảm
13,9% về lượng và giảm 21,2% về giá trị so với 2018. Tính chung cả năm 2019,
xuất khẩu cà phê đạt tổng cộng 1.653.265 tấn (khoảng 27,55 triệu bao), với tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,85 tỷ USD, giảm 11,92 % về lượng và giảm
19,28% về giá so với xuất khẩu của năm 2018, chiếm chủ yếu là cà phê
Robusta . Như vậy, năm 2019, xuất khẩu cà phê Việt Nam bị tuột mốc 3 tỉ USD
so với vài năm trở lại đây. Năm 2018, diện tính cà phê của cả nước rất lớn
khoảng 720.000 ha. Trong đó, cà Robusta khoảng 670ha (chiếm 93% diện tích),
đạt khoảng 1,71 triệu tấn (khoảng hơn 96% sản lượng). Cà Arabica, diện tích là
50.000 ha (chỉ gần 7%), sản lượng gần 67.000 tấn (chỉ gần 4%). (số liệu cao hơn
số liệu của chính thống khoảng 70.000 ha).
Theo Cục Trồng trọt, diện tích cà phê Việt Nam đạt trên 664.000 ha, sản
lượng cà phê đạt trên 1,5 triệu tấn nhân/năm; cà phê Robusta chiếm diện tích lớn
(93%), còn lại là cà phê Arabica. Nhưng người Việt vẫn chưa thể hài lòng về cà
phê Việt khi chúng ta vẫn chưa thể xây dựng được nhưng thương hiệu xứng tầm
trên thế giới. Thực trạng của ngành cà phê Việt Nam là giá trị thương phẩm rất
thấp, chỉ tạo ấn tượng là cà phê được chế biến thô, là nông sản chất lượng thấp.
Các sản phẩm cà phê của ta đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ,
chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu (đứng thứ 2, sau Brazil);
đặc biệt, cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu đã chiếm 9,1% thị phần (đứng thứ
5, sau Brazil, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ), tạo ra nhiều cơ hội cũng như triển
vọng cho ngành cà phê khi Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế
thông qua các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
11
EU là thị trường tiêu thụ nhiều nhất cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong
tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tiếp theo là Đông
Nam Á, chiếm 13% tổng lượng và tổng kim ngạch…
Thị trường bán lẻ cà phê ở Việt Nam đang nở rộ với nhiều thương hiệu nội
và ngoại cùng đua nhau cạnh tranh khốc liệt. Từ mùa vụ 2012/13 đến mùa vụ
gần đây nhất, tỷ lệ tăng trưởng trung bình (CAGR) của sản lượng cà phê tiêu thụ
tại Việt Nam ước tính đạt 8%. Đây là mức cao thứ ba trong số các quốc gia
nhập/xuất khẩu cà phê, sau Thổ Nhĩ Kỳ (10,4%) và Philippines (8,9%).
Mặc dù đã có một số thương hiệu nổi tiếng như: Vinacafe, Trung
Nguyên,... đã ghi dấu ấn trong lòng bạn bè quốc tế, nhưng để có một thương
hiệu cà phê Việt của người Việt có giá trị thương hiệu lớn để không thua kém
bất kì một thương hiệu cao cấp nào của thế giới vẫn là một thực trạng của ngành
cà phê Việt Nam đang phải đối đầu.
Phân tích chuỗi giá trị của chuỗi cung ứng café:
Khi phân tích chuỗi giá trị, nhà nghiên cứu lập sơ đồ các khâu/các lĩnh vực
và mối liên kết chính trong mỗi khâu hay lĩnh vực đó. Chỉ ra các tác nhân chính,
nút thắt chính trong chuỗi giá trị để đưa ra can thiệp hợp lý. Nhờ hiểu được một
cách có hệ thống về những mối liên kết này trong một mạng lưới, có thể đưa ra
những kiến nghị chính sách tốt hơn và hiểu hơn về tác động ngược lại của chúng
trong toàn chuỗi.
- Hình thành sơ đồ chuỗi giá trị: Sơ đồ thể hiện các hoạt động sản xuất/kinh
doanh (khâu), các tác nhân chính trong chuỗi và những mối liên kết của họ. Lập
sơ đồ chuỗi giá trị có nghĩa là vẽ một sơ đồ về hiện trạng của hệ thống chuỗi giá
trị. Trong đó, sơ đồ chuỗi giá trị chỉ rõ sự phân bổ thu nhập và giá sản phẩm
cuối cùng.

12
2.Sơ đồ chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam

Người trồng Thương Nhà sản Người bán


cà phê lái xuất lẻ

Người Người Đại lý Nhà sản


trung gian chế biến chính xuất
phủ

- Người trồng cà phê – thường trồng cà phê trên thửa đất nhỏ chỉ từ 1 hoặc
2 hécta. Nhiều người thực hiện luôn cả khâu sơ chế (phơi khô và tách vỏ).
- Người trung gian – những người trung gian có thể tham gia vào nhiều
mảng của chuỗi cung ứng. Họ có thể mua cà phê ở bất kỳ giai đoạn nào giữa trái
cà phê chín và cà phê non (xanh), sau đó tiến hành sơ chế, hoặc thu gom đủ
lượng cà phê từ nhiều hộ nông dân, rồi vận chuyển bán cho người chế biến, cho
trung gian khác hoặc cho thương lái.
- Người chế biến – là những hộ nông dân có thiết bị chế biến cà phê,  hoặc
nông dân trồng cà phê và người chế biến hợp tác để mua thiết bị chế biến cà
phê.
- Đại lý chính phủ - ở một số nước, việc mua bán cà phê do chính phủ
kiểm soát, có lẽ bằng cách mua cà phê từ những nhà chế biến với mức giá cố
định và bán đấu giá cho nhà xuất khẩu.
- Nhà xuất khẩu – mua cà phê từ các đối tác hoặc đấu thầu và sau đó bán
cho các thương lái. Kiến thức chuyên môn về khu vực địa phương và nhà sản
xuất cho phép họ đảm bảo chất lượng của chuyến hàng.
- Thương lái – cung cấp trái cà phê cho những người rang cà phê với đúng
số lượng, đúng lúc và mức giá có thể chấp nhận cho người mua và người bán.

13
- Nhà sản xuất – ví dụ như Nestlé có chuyên gia chế biến hạt cà phê tươi
thành thức uống được khách hàng ưa chuộng. Công ty cũng có thể tăng thêm giá
trị cho sản phẩm thông qua các hoạt động marketing, làm thương hiệu và đóng
gói.
- Người bán lẻ - là những người bán cà phê trong siêu thị lớn, cho đến
khách sạn và các cửa hàng ăn uống, tạp hóa.
* Chuỗi cung ứng chỉ mạnh khi có sự liên kết giữa các thành phần trong
chuỗi. Mối quan hệ giữa các tổ chức khác nhau có liên quan đến từng khâu trong
chuỗi – dù cho nó thuộc cấu trúc của quá trình phân phối, trình tự thanh toán hay
trình tự xử lý và tồn kho sản phẩm. Điều quan trọng cốt yếu của những mối
quan hệ này là cách con người đối xử với nhau. Mối quan hệ kinh doanh lâu dài
cần dựa trên sự trung thực và công bằng – các bên khi thỏa thuận thương mại
phải cảm thấy rằng họ đang có mối làm ăn tốt.
3. Các nhân tố trong chuỗi cung ứng cà phê
Khí hậu: Biến đổi khí hậu đột ngột, lượng mưa trái mùa dồi dào cùng với
thời kì hạn hán kéo dài đã gây cản trở cho người trồng cà phê ở Việt Nam, đe
dọa sinh kế của hơn 1.200 nhà sản xuất nhỏ tại địa phương. Những nông dân
này cũng đang phải đối mặt với thách thức về suy thoái đất, sâu bệnh. Thay đổi
điều kiện thời tiết cũng gây ra vấn đề với việc cung cấp nước. Nghiên cứu của
CIAT cho thấy vào năm 2050, mùa khô ở miền nam Việt Nam, bao gồm các
tỉnh Tây Nguyên, có thể kéo dài đến tháng Sáu, lâu hơn bình thường gần ba
tháng. Trong khi đó, lượng mưa ở khu vực cao nguyên vào những tháng mùa
khô có thể giảm khoảng 20mm, gây ra vấn đề lớn với khu vực mà 90% trữ
lượng nước sử dụng liên quan đến ngành sản xuất cà phê. Báo cáo mang tên “Cà
phê trong thế kỷ 21” của Tổ chức Bảo tồn Quốc tế, công bố hồi tháng Tư năm
2017, đã chỉ ra những tác động sâu sắc của những thay đổi về khí hậu tới ngành
cà phê. Đến năm 2050 tổng diện tích phù hợp cho sự phát triển cá phê vối ở Việt
Nam được dự đoán sẽ giảm từ 52.39702 km2 xuống khoảng còn một nửa là

14
28.87646 km2. Trong khi đó, việc tưới tiêu và sử dụng phân bón tràn lan ở Tây
Nguyên có thể làm suy thoái, mất những chất dinh dưỡng cần thiết của đất.
Khi khí hậu thay đổi, các vùng khác của khu vực có thể phù hợp hơn cho
việc canh tác cà phê. Tuy nhiên, nhiều trong số những khu vực đó lại đang có
rừng. Theo báo cáo, tới năm 2050 khoảng 20% diện tích khu vực phù hợp để
trồng cà phê vối ở Đông Nam Á trùng với diện tích các khu rừng đang được bảo
vệ.
Thổ nhưỡng: Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó
đất ba-zan là một trong những loại đất lý tưởng để trồng cà phê, vì các đặc điểm
lý hóa tính tốt, và tầng dày của loại đất này. Yêu cầu cơ bản của đất trồng cà phê
là có tầng sâu từ 70 cm trở lên, có độ thoát nước tốt (không bị úng, lầy). Các loại
đất thường thấy ở Việt Nam ở trên các vùng cao như granit, sa phiến thạch, phù
sa cổ, gờ nai, đá vôi, dốc tụ... đều trồng được cà phê. Ở cà phê vườn có khả năng
trồng được cả ở nơi có đá lộ đầu, ở những nơi đất dốc vẫn trồng được cà phê nếu
làm tốt công trình chống xói mòn. Dù trồng ở trên loại đất nào nhưng vai trò của
con người có tính quyết định trong việc duy trì, bảo vệ nâng cao độ phì nhiêu
của đất. Ngay cả trên đất ba-zan, nếu cà phê không được chăm sóc tốt vẫn dẫn
tới hiện tượng cây mọc còi cọc, năng suất thấp. Ngược lại ở những nơi không
phải là đất ba-zan nếu đảm bảo được đủ lượng phân hữu cơ, vô cơ, giải quyết tốt
cây đậu đỗ, phân xanh trồng xen, tủ gốc tốt cùng các biện pháp thâm canh tổng
hợp khác như tưới nước vẫn có khả năng tạo nên các vườn cà phê có năng suất
cao. Trước tiên ta phải nhắc lại hình chữ “S” của Việt Nam trải dài trên vùng vĩ
tuyến bắc, từ 8.35’(mũi Cà Mau) đến 23.33’ (mỏm Lũng Cú Hà Giang). Có
nghĩa là nước ta nằm trong vùng vĩ độ tối thích cho sự phát triển của cây cà phê
(từ khoảng 23 độ vĩ bắc đến 23 độ vĩ nam). “Yếu tố thiên thời” này cộng với
điều kiện thổ nhưỡng phù hơp như đất Bazan, độ cao tối thích và lượng mưa
tương đối… Đã cho phép ngành cà phê canh tác giống Robusta yêu cầu khí hậu
nóng ẩm ở phía Nam và giống Arabica thích nghi với khí hậu ôn hòa hơn ở phía
bắc (có cả một số vùng cao rải rác ở phía nam). Ngẫu nhiên mà nói, đây là một

15
chiến lược khai thác tiềm năng đất đai, khí hậu và lao động của cả nước một
cách hợp lý, mang lại hiệu quả cao.
Nhân tố chính trị: Nhân tố chính trị ổn định là cơ hội để mở rộng phạm vi
thị trường cũng như dung lượng của thị trường cà phê. Song nó cung có rào cản
lớn hạn chế khả năng xuất khẩu nếu như tình hình chính trị không ổn định.
Việt Nam ta có điều kiện chính trị tương đối ổn định, do vậy không chỉ là
điều kiện tốt để yên tâm sản xuất cà phê mà còn hấp dẫn các nhà đầu tư kinh
doanh cà phê vì đây chính là nguồn hàng ổn định cho họ.
Thị Trường EU bao gồm các quốc gia độc lập về chính trị và khá ổn định
trong chính sách chiến lược phát triển kinh tế. Vì vậy sẽ giúp cho Việt Nam có
thị trường ổn định.
Yếu tố cạnh tranh quốc tế: Sự cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường
quốc tế là rất mạnh mẽ và quyết liệt. Hoạt động xuất khẩu cà phê của nước ta
muốn tồn tại và phát triển được thì một vấn đề hết sức quan trọng đó là phải
giành được thắng lợi đối với đối thủ cạnh tranh về mặt giá cả, chất lương, uy
tín,... Đây là một thách thức và là một rào cản lớn đối với Việt Nam. Các đối thủ
cạnh tranh với Việt Nam về cà phê không chỉ có sức mạnh về kinh tế chính trị,
khoa học công nghệ mà ngày nay sự lên doanh liên kết thành các tập đoàn lớn,
tạo nên thế mạnh về độc quyền trên thị trường. Các tập đoàn kinh tế này có thế
mạnh rất lớn và quyết định thị trường do đó là một lực cản rất lớn với doanh
nghiệp nước ta. Nếu không tổ chức hợp lý hoạt động xuất khẩu, các doanh
nghiệp sẽ bị bóp nghẹt bởi các tập đoàn này. Chính vì vậy các doanh nghiệp
Việt Nam phải luôn biết xây dựng cho mình một thương hiệu mạnh, ngoài ra
hợp lý về giá cả, tăng chất lượng mặt hàng cà phê. Đó là thành công lớn cho
cạnh tranh về mặt hàng cà phê của Việt Nam.
Yếu tố kinh tế: Yếu tố này bao gồm các chính sách kinh tế, các hiệp định
ngoại giao, tỉ giá hối đoái,..
- Các công cụ chính sách kinh tế cua nước nhập khẩu và Việt Nam : Sẽ
giúp cho các quốc gia có được một môi trường kinh doanh phù hợp nhất. Việt
Nam với chính sách là phát triển nền kinh tế thị trường hướng mạnh vào xuất
16
khẩu, đặc biệt có chính sách mặt hàng xuất khẩu chủ lực cho cà phê vì thế nhà
nước đã có nhiều ưu đãi cho ngành cà phê. Đây là điều kiện thuận lợi cho xuất
khẩu cà phê của Việt Nam. Ngoài ra EU còn có chính sách chuyển hướng đầu tư
vào châu á, chính sách này cũng tạo cho Việt Nam nhiều lợi thế trong xuất khẩu
hàng hoá nói chung và cà phê nói riêng.
- Nhân tố thu nhập, mức sống của người dân: Mức sống người dân cao khi
đó quyết định mua cà phê không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi về giá cả theo
xu hướng giảm. Thu nhập thấp thì ngược lại. Thị trường EU là thị trường lớn có
mức thu nhập cao, giá cả rẻ không phải là điều kiện để quyết định mua hàng hay
không mà giá cao đôi khi lại là yếu tố để đánh giá chất lượng sản phẩm và quyết
định mua hàng. Ngưới dân Việt Nam thì lại khác giá rẻ là yếu tố quyết định cho
việc mua hàng. Trong việc sản xuất cà phê xuất khẩu cũng vậy, người dân Việt
Nam khi có sự giảm sút về giá cả là bỏ cây cà phê đi trồng cây khác. Điều này
ảnh hưởng nhiều đến cung cà phê. Thu nhập có ổn định thì nhu cầu tiêu dùng
mới thường xuyên khi đó mới taọ điều kiện cho sản xuất phát triển được.
- Nhân tố nguồn lực và tài nguyên thiên nhiên
Nhân tố này ảnh hưởng đến doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Nguồn
lực có đủ lớn thi mơi có khả năng thực hiện đươc hoat động xuất khẩu . Vì hoạt
động xuất khẩu chứa nhiều rủi ro. Mỗi quốc gia có lợi thế riêng trong từng mặt
hàng của mình, vì thế cơ cấu sản xuất của các quốc gia cũng khác nhau.
Việt Nam có lợi thế để sản xuất cà phê xuất khẩu . Điều kiện tự nhiên, kết
hợp nguồn nhân lực dồi dào và kinh nghiệm sản xuất cà phê của người dân Việt
Nam từ lâu đời đã tạo cho cà phê Việt Nam có hương vị riêng, có điều kiện để
giảm giá thành xuất khẩu. Đây là điều kiện để thúc đẩy việc xuất khẩu cà phê.
Yếu tố khoa học công nghệ: Các yếu tố khoa học công nghệ có quan hệ
chặt chẽ với các hoạt động kinh tế nói chung và với hoạt động xuất khẩu cà phê
nói riêng. Khoa học công ngệ ngày càng phát triển làm cho sự giao thương giữa
các đối tác ngày càng dễ dàng hơn. Khoảng cách không gian thời gian không
còn là trở ngại lớn trong việc xuất nhập khẩu. Sự phát triển của mạng thông tin
toàn cầu Internet, giúp cho mọi thông tin thị trường thế giới được cập nhật liên
17
tục thường xuyên. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng có thể quảng cáo
được sản phẩm của mình mà mà tốn rất ít chi phí.
Tuy nhiên trong việc tạo nguồn hàng xuất khẩu, đối với những nước xuất
khẩu cà phê như Việt Nam. Việc trồng trọt chế biến cà phê còn thiếu máy móc
trang thiết bị nghiêm trọng, dẫn đến chất lượng không đảm bảo, năng suất không
ổn định,…Gây khó khăn cho việc xuất khẩu cà phê.
Như vậy khoa học kỹ thuật phát triển nếu như biết áp dụng nó tốt sẽ là điều
kiện giúp cho nước ta có điều kiện hội nhập tốt hơn. Nhưng nếu như không biết
áp dụng nó thì sẽ là một cản trở lớn vì khi đó ta sẽ bị tụt hậu xa hơn với các
nước về kỹ thuật như vậy sẽ không đủ khả năng để nâng cao khả cạnh tranh cho
Việt Nam.
4. Thực trạng quản lý chuỗi cung ứng cà phê
4.1. Dự báo nhu cầu
Trước hết là nhu cầu uống cà phê hàng ngày ở các thị trường ổn định biến
đổi theo chiều hướng tăng lên ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế – Điều
này được minh chứng qua 300 năm lịch sử ngành cà phê thế giới trong
Uncommon Grounds: The History of Coffee and How It Transformed Our
World.
Thứ hai là sự đòi hỏi của các thị trường mới nổi lên cũng tăng, các nước
sản xuất cà phê cũng tăng lượng tiêu dùng. Tiêu biểu như Brazil – Quốc gia
đứng đầu về sản xuất cà phê hiện đang đứng thứ hai về lượng cà phê tiêu thụ.
Thêm vào đó, tác động của làn sóng cà phê thứ ba trên thị trường đòi hỏi cà
phê chất lượng cao (chỉ có thể là cà phê Arabcia) đang tăng lên một cách mạnh
mẽ trong khi các loại cà phê giá rẻ như cà phê hòa tan (được chế biến từ
Robusta) đang mất dần tầm quan trọng của nó.
Và như thế thị trường cà phê đòi hỏi cung cấp cà phê chè để thỏa mãn cơn
khát cà phê của thế giới. Mặt khác, việc tăng trưởng sản lượng cà phê chè rất
chậm chạp – Lượng tăng trưởng nhỏ bé đó phụ thuộc vào 3 nước: Brasil,

18
Indonesia và Việt Nam. Trong đó Indonesia và Việt Nam chủ yếu tập trung vào
cà phê vối còn cà phê chè vẫn chưa được coi trọng.

4.2.Tổ chức quá trình sản xuất chế biến


Đối với canh tác cà phê Việt Nam, có những trang trại chuyên biệt, chỉ độc
canh cây cà phê và trang trại hợp canh – với nhiều hơn một sản phẩm nông
nghiệp. Trong đó, tồn tại hai loại trang trại hợp canh chính. Đầu tiên là các trang
trại nơi các loại cây trồng khác nhau chia sẻ hoặc cùng nằm trong cùng một khu
đất. Đây được gọi là một hệ thống canh tác đồng bộ, nói cách khác có nghĩa là
trồng xen cây cà phê với các loại cây khác. Loại thứ hai là nơi các loại cây trồng
khác nhau được trồng trong các mảnh đất riêng biệt. Đây được gọi là một hệ
thống canh tác tách biệt.
Bên cạnh việc mở rộng diện tích canh tác, về thực hành canh tác cà phê để
phát triển bền vững, nhiều nông dân trồng cà phê Việt Nam đã và đang áp dụng
công nghệ sản xuất nông nghiệp tiên tiến để đạt được các chứng nhận phổ biến,
như 4C (Common Code for the Coffee Community); VietGAP (Thực hành nông
nghiệp tốt của Việt Nam); UTZ (Certified Certified); và RFA (Liên minh rừng
nhiệt đới). Tính đến cuối năm 2017, hơn 200.000ha, chiếm hơn 30% tổng diện
tích trồng cà phê của Việt Nam, được chứng nhận bởi các sáng kiến phát triển
bền vững.
Kỹ thuật chế biến phổ biến nhất tại nước ta vẫn là phương pháp phơi khô tự
nhiên sau thu hoạch. Theo phương pháp này, cà phê được sấy khô dưới ánh sáng
mặt trời hoặc trong máy sấy cơ học. Hiện tại, gần 80% chế biến sau thu hoạch là
bằng ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, nông dân, nhà sản xuất và thương nhân cà
phê ở khu vực Tây Nguyên hiện đang ngày càng sử dụng máy móc để sấy khô
quả cà phê. Thời gian sấy là khoảng 12 đến 16 giờ mỗi mẻ và độ ẩm giảm 10% -
12%. Nguyên liệu chính được sử dụng làm nhiên liệu cho máy sấy là vỏ cà phê
khô hoặc than.

19
Trong khi đó, các nhà sản xuất cà phê quy mô lớn chủ yếu sử dụng công
nghệ chế biến ướt. Đây là công nghệ xử lý phổ biến hiện nay và được áp dụng ở
nhiều quốc gia khác trên thế giới. Có hàng trăm nhà máy trên cả nước với công
nghệ chế biến bằng phương pháp ướt hoặc khô, chủ yếu được đặt tại khu vực
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Công suất thiết kế trong khoảng 1,5 triệu tấn
một năm – đủ để đáp ứng nhu cầu chế biến cà phê xanh trong cả nước. Điển
hình, tại tỉnh Đăk Lăk, 16 nhà máy chế biến ướt đã được thiết lập với tổng công
suất hàng năm trên 64.000 tấn sản phẩm.
Hiện cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu đã chiếm 9,1% thị phần (đứng
thứ 5, sau Brazil, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ), tạo ra nhiều cơ hội cũng như
triển vọng cho ngành cà phê khi Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường
quốc tế thông qua các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết.
Kể từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước, hoạt động sơ chế sau thu hoạch
đã được doanh nghiệp Việt Nam hết sức quan tâm. Nhờ vậy, từ chỗ có giá bán
tại cảng Việt Nam thấp hơn tới 400-500 USD so với giá tham chiếu tại Sở Giao
dịch Hàng hóa Luân Đôn, Việt Nam đã dần thu hẹp được khoảng cách này và
cho tới nay, giá bán cà phê Robusta của Việt Nam đã phù hợp với giá thị trường
thế giới.
Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, 160 cơ sở chế biến
cà phê rang xay, tám cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế biến cà phê
phối trộn. Cà phê bột của Trung Nguyên, cà phê hòa tan của Vinacafe không
những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà còn được hoan nghênh ở nhiều
thị trường trong khu vực, đồng thời đã bước đầu xây dựng được thương hiệu cà
phê Việt. Việc đầu tư cho chế biến sâu đã giúp ngành hàng cà phê nâng cao sức
cạnh tranh trong bối cảnh lượng xuất khẩu giảm mạnh trong những tháng gần
đây (xuất khẩu cà phê chín tháng năm 2019 ước đạt 1,25 triệu tấn và 2,15 tỷ
USD, giảm 13,3% về khối lượng và giảm 21,9% về giá trị so với cùng kỳ năm
2018).
4.3.Phân phối sản phẩm

20
Theo số liệu của Cục Chế biến và Phát triển Thị trường Nông sản xuất
khẩu cà phê tháng 12 ước đạt 126 nghìn tấn với giá trị đạt 218 triệu USD. Lũy
kế xuất khẩu cà phê năm 2019 ước đạt 1,59 triệu tấn và 2,75 tỷ USD, giảm
15,2% về khối lượng và giảm 22,4% về giá trị so với năm 2018. Nếu tính theo
niên vụ, theo trang giacaphe.com, trong niên vụ 2018 – 2019, Việt Nam đã xuất
khẩu tổng cộng 1.697.102 tấn, tương đương 28,28 triệu bao cà phê các loại,
giảm 5,42 % so với khối lượng xuất khẩu của niên vụ cà phê 2017/2018 trước
đó. Về giá trị kim ngạch, xuất khẩu trong niên vụ 2018/2019 đạt tổng cộng 2,96
tỉ USD, giảm 15,05% so với giá trị kim ngạch xuất khẩu của niên vụ trước. Theo
Cục Chế biến và Phát triển Thị trường Nông sản, Đức và Mỹ tiếp tục là hai thị
trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2019 với
thị phần lần lượt là 12,9% và 8,7%. Ngoại trừ thị trường Philippines có giá trị
xuất khẩu cà phê tăng (9,4%), hầu hết các thị trường chính đều giảm so với cùng
kì năm 2018
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê robusta
tháng 11/2019 đạt 94,5 nghìn tấn, trị giá 142,49 triệu USD, giảm 20,9% về
lượng và giảm 29,6% về trị giá so với tháng 11/2018. Tính chung 11 tháng năm
2019, xuất khẩu cà phê robusta giảm 6,4% về lượng và giảm 18,1% về trị giá so
với cùng kì năm 2018, đạt 1,376 triệu tấn, trị giá 2,081 tỷ USD. 11 tháng năm
2019, xuất khẩu cà phê chế biến tăng 1% về lượng, nhưng giảm 0,2% về trị giá
so với cùng kì năm 2018, đạt 34,9 nghìn tấn, trị giá 175,4 triệu USD. Trong đó,
xuất khẩu cà phê chế biến sang Nga tăng 57,6%; Trung Quốc tăng 104,4%; Mỹ
tăng 9,2%; Italy tăng 24,1%. Ngược lại, xuất khẩu cà phê chế biến sang Nhật
Bản, ASEAN giảm. Giá xuất khẩu bình quân cà phê chế biến trong 11 tháng
năm 2019 đạt 5.019 USD/tấn, giảm 1,2% so với cùng kì năm 2018. Trong đó,
giá xuất khẩu bình quân cà phê chế biến sang Nga đạt 6.149 USD/tấn, giảm
6,1%; sang Nhật Bản đạt 4.787 USD/ tấn, giảm 0,9%. Ngược lại, giá xuất khẩu
bình quân cà phê chế biến sang một số thị trường tăng, gồm: Đức tăng 0,2% lên
3.757 USD/tấn; Mỹ tăng 11,9% lên 4.201 USD/tấn; Indonesia tăng 2% lên 5.222
USD/tấn.
21
4.4. Hoạt động vận tải
Việc vận tải và chuyên chở từ nơi trồng trọt đến nơi sản xuất , chế biến
được thực hiện gần như bằng đường bộ . 85 % cà phê được trồng trọt ở các hộ
gia đình nhỏ lẻ , các hộ này hầu như đều có những phương tiện chuyên chở thô
sơ như xe ba gác , xe máy xới ... Các doanh nghiệp thu mua cà phê với số lượng
lớn thì có thể chuyên chở thông qua các công ty vận chuyển . Còn việc chuyên
chở hàng hóa xuất khẩu sang nước ngoài được thực hiện chủ yếu bằng vận tải
biển , gần đây có phát triển thêm vận tải đường hàng không . Thời gian gần đây ,
ngành vận tải biển và kho bãi đã có nhiều bước phát triển mới , đáp ứng được
nhu cầu . Tuy nhiên , các cảng biển lớn . thường tập trung ở những thành phố
như Sài Gòn , Hải Phòng , Quảng Ninh ... nên việc chuyên chở từ các vùng nông
thôn trồng trọt , sản xuất gặp nhiều khó khăn , tốn chi phí ... Bên cạnh đó , việc
giả xăng dầu tăng cao làm giả cước vận tải biển tăng 15-20 % cũng có tác động
đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam . Cà phê thường được vận chuyển bằng
container với mỗi container có sức chứa đến 300 bao cà phê. Với cà phê chất
lượng thấp dùng cho ngành công nghiệp cà phê hoà tan, cà phê nhân có thể được
đổ thẳng vào container đã được lót mặt trong, do một vài xưởng rang sẽ đổ trực
tiếp container vào dây chuyền rang trong ngày nhận hàng. Nhược điểm duy nhất
của phương thức vận chuyển này là nhiệt độ môi trường không ổn định có thể
làm giảm chất lượng của cà phê nhân bên trong.
5. Nhận xét đánh giá chung về chuỗi cung ứng cà phê
5.1. Thuận lợi
Sự phát triển trên diện rộng của cà phê với khí hậu và thời tiết ở các đồn
điền trồng cà phê tốt, thích hợp với sự tăng trưởng phát triển của loại cây này.
Mặt khác các chủ trang trại thường xuyên tăng cường nhiều biện pháp chăm sóc
hiệu quả nhằm kích thích quá trình tăng trưởng của cà phê. Theo số liệu nghiên
cứu thì diện tích trồng cà phê năm nay cũng được mở rộng, đạt tới 525.000
hecta, tăng 4 % so với năm ngoái. Một báo cáo đăng trên website của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ cho biết. hiện Việt Nam đang tiếp tục trồng và thử nghiệm nhiều

22
hạt cà phê mới, thơm ngon hơn, năng suất cao hơn và rất thích hợp với việc sản
xuất, tinh chế cà phê tan. Cung với chất lượng ngày càng được nâng cao thì với
nguồn nhân lực sẵn có, chăm chỉ, chịu khó,… nên giá cà phê của ta cũng tạo
điều kiện lựa chọn cho các nhà nhập khẩu.
Bên cạnh đó, cơ chế mở cửa và hội nhập kể từ khi VN chính thức gia nhập
WTO sẽ càng làm thị trường xuất-nhập khẩu cà phê VN trở nên hấp dẫn hơn,
gây được sự chú ý của nhà đầu tư về thị trường cà phê của VN. Bộ Nông nghiệp
Mỹ đánh giá rất cao về thị trường Cà phê VN, giá cà phê thô ở thị trường Mỹ và
nhiều nước Châu âu đang đội lên rất cao do nhu cầu tiêu thụ tăng nhưng sản
lượng nhập khẩu chưa đáp ứng đủ.
5.2. Khó Khăn
_Thứ nhất: cà phê vẫn chủ yếu sản xuất thô.
Cà phê vốn là một sản phẩm nông nghiệp gắn liền với cuộc sống của hàng
triệu người dân VN. Chúng ta xây sựng được những thương hiệu nổi tiếng như
Trung Nguyên, Café Moment, BMT… Tuy nhiên, dù VN là một nước sản xuất,
xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1
thế giới nhưng có một thực tế đáng buồn là trên 90% lượng cà phê vẫn là cà phê
nhân thô..
_Thứ hai: Năng suất cao nhất trên thế giới nhưng chất lượng kém xa quốc
tế.
Theo công ty Giám định cà phê là Nông sản xuất nhập khẩu CafeControl,
việc đánh giá chất lượng cà phê xuất khẩu của VN hiện được mô tả đơn giản
hơn hẳn tập quán quốc tế, và lại tồn tại đã 10 năm. Chất lượng không được nâng
cao trong khi hàng hóa qua các nhà nhập khẩu trung gian vẫn đi thẳng tới thị
trường tiêu thụ. Đến lúc này, các điểm yếu của chất lượng cà phê VN mới bộc
lộ, gây hậu quả lớn về kinh tế lẫn uy tín cho ngành cà phê VN. Bởi thế, người
mua thường mua hàng VN với giá thấp hơn cà phê Braxin, Indonesia…
_Thứ ba: Trên thị trường hiện tại diễn ra tình trạng tranh mua, tranh bán cà phê.
Xảy ra tình trạng tranh mua, bán, dễ bị khách nước ngoài ép giá. Do tiềm lực tài

23
chính mạnh, nhiều hãng nước ngoài tiến hành mua cà phê tại thời điểm giá rẻ,
sau đó đưa vào khó ngoại quan tại VN để chờ xuất khẩu. Thậm chí, DN VN
không đủ chân hàng phải nhập khẩu lại cà phê từ kho ngoại quan với giá cao
hơn để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu khác.
Ngoài ra, các khâu tổ chức mua trong nước chưa tốt, dẫn đến đầu vụ, nhiều
hộ nông dân, nhất là các hộ nghèo thường phải bán vội cà phê với giá thấp để
trang trải chi phí. Mặt khác, các DN VN vẫn phổ biến bán cà phê theo phương
thức trừ lùi, chốt giá sau. Đây là một hình thức đầu cơ  giá nên có rất nhiều rủi
ro. Trong khi đó, giá giao dịch cà phê diễn biến từng ngày, từng giây, từng phút,
đòi hỏi người giao dịch quyết định mua bán hết sức nhạy bén, vì từng lô hàng
mua bán có giá trị lớn, thậm chí khiến DN bị lỗ, phá sản ngay lập tức.
6.Cơ hội, thách thức trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam
6.1. Cơ hội trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam
Cơ hội tiếp cận thị trường lớn:
EU hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam với tỷ trọng xuất
khẩu của hàng hóa Việt Nam sang EU chiếm khoảng 18,3% và nhập khẩu từ EU
là 7,2%. Riêng mặt hàng nông sản chiếm đến 15,3% tổng kim ngạch xuất khẩu
năm 2018. Việc ký kết EVFTA sẽ mở ra cơ hội cho cả hai phía, trong đó là các
cơ hội dành cho các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam.
Một là, cơ hội mở rộng thị trường, thâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu.
Thông qua EVFTA, nông sản có cơ hội tiến sâu hơn vào thị trường EU với
khoảng 500 triệu dân; các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam dễ dàng tiếp
cận, tiến hành trao đổi mua bán với những thị trường khác có thỏa thuận thương
mại tự do với EU.
Hai là, cơ hội tiếp cận được nguồn vốn đầu tư, công nghệ hiện đại.
Ngày càng có nhiều công ty của EU chọn Việt Nam làm điểm đến để đầu
tư. Chi phí lao động ở châu Âu là khá cao, khác nhiều so với chi phí lao động
của Việt Nam. Chính điều này khiến cho khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp châu Âu là không cao. Ngược lại, cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp

24
Việt Nam lại khá hấp dẫn, các lợi thế của Việt Nam khá đa dạng, chất lượng lao
động tốt hơn cũng như việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tốt hơn so với những
nước khác trong khu vực.
Hợp tác giữa châu Âu và Việt Nam cũng mang lại nhiều lợi ích, giúp các
công ty Việt Nam tiếp cận tri thức, công nghệ của châu Âu đồng thời đem lại
cho các công ty châu Âu một cơ sở sản xuất đáng tin cậy, hiệu quả về mặt chi
phí tại châu Á.
Ba là, cơ hội tự hoàn thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm nhằm đáp ứng các quy định của EU.
Việc EVFTA được ký kết sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động trao đổi
thương mại để hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu, đáp ứng đúng các
tiêu chuẩn chất lượng và an toàn mà thị trường này đòi hỏi. Những cam kết
trong các lĩnh vực như phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp,
tự vệ), các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBTs), các biện pháp kiểm dịch
động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPSS)... đã có những tác động nhất
định tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua, được cho là
sẽ có những tác động tích cực hơn, đem lại những lợi ích đáng kể cho xuất khẩu
của Việt Nam trong thời gian tới.
6.2. Thách thức trong quản lý chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam
Cơ hội rõ ràng là rất lớn, song Việt Nam cũng gặp không ít thách thức khi
xuất khẩu nông sản sang thị trường EU.
Một là, về sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Nhu cầu sử dụng các sản phẩm ngoại nhập đặc biệt là những sản phẩm có
xuất xứ từ châu Âu đang ngày một gia tăng trong thời gian gần đây. Khi rào cản
thuế quan được gỡ bỏ, hàng châu Âu sẽ dễ dàng thâm nhập nhập thị trường Việt
Nam, lúc này các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp sức ép lớn từ phía các doanh
nghiệp châu Âu.
Hai là, về nắm bắt thông tin của doanh nghiệp liên quan EVFTA

25
Thực tế hiện nay, sự hiểu biết của DN Việt Nam về EVFTA còn hạn chế.
Hiện có tới 77% DN không biết, hoặc lần đầu nghe nói tới Hiệp định này, trong
đó, các DN xuất khẩu nông sản không phải là ngoại lệ. Nhiều doanh nghiệp thực
tế chưa tận dụng đầy đủ được các lợi ích thuế quan do không biết các FTA, thủ
tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ còn phức tạp, đặc biệt là phần lớn các doanh
nghiệp chưa đáp ứng được các điều kiện về nguyên tắc xuất xứ.
Ba là, về đáp ứng đòi hỏi khắt khe liên quan quy tắc xuất xứ.
Hiệp định EVFTA hướng tới xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới 99% số dòng
thuế. Tuy nhiên, để được hưởng mức ưu đãi này, hàng xuất khẩu sang EU cần
thoả mãn quy tắc xuất xứ. Đây có thể là một cản trở đối với hàng xuất khẩu Việt
Nam bởi nguồn nguyên liệu cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay
chủ yếu được nhập khẩu từ Trung Quốc và ASEAN. Nếu không đảm bảo được
quy tắc xuất xứ, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ được hưởng mức
thuế đãi ngộ tối huệ quốc chứ không phải là mức thuế suất 0% trong EVFTA.
Bốn là, về việc tuân thủ những quy định liên quan vệ sinh, môi trường, lao
động và quy trình công nghệ.
Bên cạnh quy tắc xuất xứ, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm
dịch động thực vật (SPS), quy định về môi trường, các rào cản kỹ thuật trong
thương mại (TBT)... cũng sẽ tạo ra những khó khăn, cản trở nhất định tới hoạt
động xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Những quy định nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm, quy tắc xuất xứ và các
yêu cầu chứng nhận chất lượng tự nguyện, về trách nhiệm môi trường của rất
nhiều tổ chức tại châu Âu cũng là những khó khăn lớn cho ngành thủy sản Việt
Nam hiện nay.
6.3.Điểm mạnh trong quản lý chuỗi ứng cà phê(S)
- Lợi thế về điều kiện tự nhiên.
Nước Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, trải dài theo
phương kinh tuyến từ 8o 30’ đến 23o 30’ vĩ độ bắc. Điều kiện khí hậu, địa lý và

26
đất đai thích hợp cho việc phát triển cà phê đã đem lại cho cà phê Việt Nam một
hương vị rất riêng, độc đáo.
Về khí hậu :
Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới, hàng năm khí hậu nắng lắm mưa
nhiều. Lượng mưa phân bố đều giữa các tháng trong năm nhất là những tháng cà
phê sinh trưởng. Khí hậu Việt Nam chia thành hai miền rõ rệt. Miền khí hậu
phía nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta. Miền
khí hậu phía bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê
Arabica.
Về đất đai : Việt Nam có đất đỏ bazan thích hợp với cây cà phê được phân
bổ khắp lãnh thổ trong đó tập trung ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ,
với diện tích hàng triệu ha.
Như vậy cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là nước và đất thì cả hai yếu tố
này đều có ở Việt Nam. Điều này tạo cho Việt Nam lợi thế mà các nước khác
không có được.
- Lợi thế về nhân công:
Việt Nam với dân số 80 triệu người trong đó 49% là trong độ tuổi lao động.
Đây là đội ngũ lao động khá dồi dào, cung cấp cho các mọi hoạt động trong nền
kinh tế quốc dân. Sản xuất cà phê xuất khẩu là một quá trình bao gồm nhiều
công đoạn, bắt đầu từ khâu nghiên cứu chon giống, gieo trồng khâu chăm sóc,
thu mua, chế biến, bảo quản, bao gói , xuất khẩu. Quá trình này đòi hỏi một đội
ngũ lao động khá lớn. Đặc biệt ở Việt Nam thì việc ứng dụng máy móc vào việc,
sản xuất chế biến cà phê chưa nhiều vì thế lợi thế về nhân công có thể giúp nước
ta giảm rất nhiều chi phí cho sản xuất cà phê xuất khẩu từ đó có thể hạ giá thành
giúp cho Việt Nam có thể cạnh tranh được về giá so với các nước trên thế giới.
- Năng suất cà phê: Cà phê Việt Nam có năng suất khá cao: Nếu như năng
suất cà phê bình quân trên thế giới là 0.55 tạ/ ha, Châu á là 0.77 tạ/ ha thì ở Việt
Nam đạt tới 1.2- 1.3 tấn/ ha. Từ năm 2000- 2004, năng suất bình quân đạt 2 tấn/
ha, có năm đạt 2,4 tấn/ ha. Năng suất cao này chính là do Việt Nam có nhiều

27
giống tốt, có các yếu tố thuận lợi về đất đai khí hậu, đặc biệt người Việt Nam có
kinh nghiệm lâu năm trong việc gieo trồng cà phê.
- Người dân Việt Nam có đức tính chịu khó cần cù, có tinh thần học hỏi
tiếp thu khoa học công nghệ để áp dụng vào trồng và chế biến cà phê xuất khẩu.
Điều này cũng là lợi thế trong việc tạo ra một nguồn hàng cho cà phê xuất khẩu.
- Cà phê Việt Nam có hương vị tự nhiên ngon. Cà phê Việt Nam được
trồng trên vùng cao nguyên, núi cao có khí hậu, đất đai phù hợp. Điều kiện này
tao cho cà phê Việt Nam có hương vị riêng, đặc biệt mà các quốc gia khác
không có được. Điều này là một lợi thế lớn của Việt Nam vì cà phê là thứ đồ
uống dùng để thưởng thức, đôi khi còn thể hiện đẳng cấp của con người trong xã
hội vì vậy hương vị cà phê luôn là một yếu tố lôi cuốn khách hàng, đặc biệt là
khách hàng khó tính.
- Về chi phí sản xuất cà phê xuất khẩu: chi phí sản xuất cà phê xuất khẩu
của Việt Nam thấp hơn so với các nước trồng cà phê xuất khẩu khác. Chi phí
bình quân của Việt Nam là 650- 700 USD/ tấn cà phê nhân. Nếu tính cả chi phí
chế biến thì giá thành cho một tấn cà phê xuất khẩu là 750- 800 USD. Trong khi
đó chi phí sản xuất của ấn Độ là 1,412 triệu USD/ tấn cà phê chè, 926,9 USD/
tấn đối với cà phê vối. Chi phí sản xuất rẻ là điều kiện thuận lợi để hạ giá thành,
tăng sức cạnh tranh cho mặt hàng cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Về quy hoạch: Việt Nam đã xây dựng, quy hoạch nhiều vùng trồng cà phê
để xuất khẩu, cho năng suất cao, chất lượng tốt như Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
và một số tỉnh Miền Trung. Đây là một lợi thế lớn để tạo ra một nguồn hàng
phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu cà phê.
6.4. Điểm yếu trong quản lý chuỗi cung ứng cà phê(W)
Thứ nhất, vấn đề tái canh lại cây cà phê đang là vấn đề khó khăn nhất. Hiện
nay lượng cây cà phê già tức là có tuổi đời trên 25 năm chiếm đến 30% trong
tổng diện tích 520.000 ha cây cà phê đang khai thác của cả nước như vậy vào
khoảng 130.000 ha. Những cây cà phê già cỗi này cho năng suất sản lượng thấp

28
vì vậy vấn đề tái canh, trồng mới lại diện tích cà phê già cỗi là vấn đề bức thiết
đề ra.
Thứ hai trong sản xuất cà phê Việt Nam chi phí đầu vào như phân bón,
nông dược (thuốc bảo vệ thực vật – PV) đang tăng lên nhanh chóng. Tuy chưa
có con số điều tra chính thức nhưng hiện nay chi phí sản xuất 1 kg cà phê của
người nông dân khoảng 3.000 đồng, trong khi giá bán ra khoảng 3.800 đồng.
Chi phí đầu vào sản xuất cà phê đang tăng lên tạo ra áp lực về giá bán ra gây
khó khăn cho ngành sản xuất cà phê.
Thứ ba, sản xuất cà phê Việt Nam thiếu yếu tố ổn định về giá kể cả trong
nước cũng như thị trường nước ngoài. Mặt hàng nông sản nói chung và đặc biệt
là mặt hàng cà phê chịu tác động rất nhiều của giá cả quốc tế, đặc biệt phụ thuộc
vào thị trường London và thị trường NewYork. Lúc ở mức giá cao nhưng có khi
giá lại xuống thấp có năm xuống cả vài trăm USD.
6.4. Cơ hội trong quản lý chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam(O)
Với thị trường cà phê thế giới đầy tiềm năng, lượng tiêu thụ cà phê mỗi
năm mỗi tăng trung bình 2.1%, đây sẽ là có hội để Việt Nam xuất khẩu lượng cà
phê lớn đến nhiều nước. Ngoài ra, theo dự báo, giá cà phê ở Việt Nam sẽ tiếp
tục tăng trong thời gian tới theo xu hướng của cà phê thế giới. Điều này giúp hỗ
trợ Việt Nam tiếp tục tăng năng suất và xuất khẩu cà phê nhiều hơn đến thế giới.
6.5. Thách thức trong quản lý chuỗi cung ứng cà phê Việt Nam(T)
Bên cạnh đó, ngành cà phê Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn
do biến động giá cả và cán cân cung - cầu. Hiện giá cà phê đã giảm sâu tới 40%
so với thời điểm năm 2010, khiến nông dân trồng cà phê gặp khó khăn và có xu
hướng giảm diện tích trồng, giảm đầu tư cho cây cà phê dẫn đến năng suất, chất
lượng cà phê bị ảnh hưởng. Nguồn cung cà phê của Việt Nam được dự báo giảm
mạnh, do người trồng giảm đầu tư cho cây cà phê và chuyển sang trồng cây
trồng xen và cây trồng khác.

29
III. GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Giải pháp
Về sản xuất, chế biến, cần đẩy mạnh công tác tái cơ cấu ngành Cà phê một
cách hiệu quả, như: xây dựng các vùng trồng tập trung, chuyên canh gắn với
phát triển công nghiệp chế biến; áp dụng tiến bộ công nghệ cao; thúc đẩy liên
kết vùng nguyên liệu với các cơ sở, nhà máy chế biến sâu để tạo nguồn hàng
đảm bảo ổn định về chất lượng và số lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường; có
giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người nông dân, doanh nghiệp thu hút đầu tư;
ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời,
cũng cần khuyến khích, tăng cường liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh
doanh cà phê với mục đích ổn định xuất khẩu, giữ vững và mở rộng thị trường.
Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, công tác xây dựng
thương hiệu phải được chú trọng và quan tâm hơn nữa. Hiện nay, công tác xây
dựng, phát triển thương hiệu chưa được doanh nghiệp nhận thức đầy đủ và triển
khai hiệu quả, là một nguyên nhân dẫn đến nông sản nói chung và cà phê nói
riêng của Việt Nam chưa được người tiêu dùng trên thế giới biết đến, vị thế
trong thương mại quốc tế của hàng hóa do vậy mà cũng thấp hơn so với các đối
thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp cần khảo sát nhu cầu của thị trường về các
lĩnh vực gồm: thị phần, thị hiếu, chất lượng, giá cả. Từ đó, xác định tỷ trọng chế
biến các loại sản phẩm (bao nhiêu % sản phẩm sơ chế; % sản phẩm tinh chế) để
định hướng phát triển, xây dựng chiến lược quảng bá, marketing, định vị thương
hiệu phù hợp với năng lực của mình. Nhà nước sẽ hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng
và phát triển thương hiệu thông qua các chiến dịch truyền thông, quảng bá hình
ảnh; các chương trình đào tạo, hướng dẫn, nâng cao năng lực thiết kế, định dạng
sản phẩm; và cách thức tạo dựng cũng như quảng bá thương hiệu.
Về công tác xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt
Nam cần chú trọng tuyển dụng và đào tạo cán bộ có trình độ ngoại ngữ và
chuyên môn; chủ động tham gia các chương trình, hoạt động xúc tiến thương
mại do Bộ Công Thương định hướng cũng như do các Bộ, ngành, Hiệp hội tổ

30
chức. Không những vậy, cũng cần tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế ở cả
trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm và tìm kiếm bạn hàng; xây dựng
kênh nghiên cứu và dữ liệu riêng về thị trường xuất khẩu thông qua sự hỗ trợ
của cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam tại các nước để cập nhật thông
tin, nhằm kịp thời điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tín
hiệu của thị trường.
2. Khuyến nghị
Năm 2014, Chính phủ đã vạch ra kế hoạch phát triển cà phê bền vững đến
năm 2020 và Tầm nhìn đến năm 2030, một chương trình nghị sự tổng thể nhằm
quản lý bền vững các nguồn lực kinh tế và môi trường cho ngành cà phê, tăng
thu nhập xuất khẩu và đảm bảo sản xuất ổn định.
Kế hoạch này bao gồm các mục tiêu kinh tế cụ thể cho hiệu suất của ngành,
như tăng cường xử lý chuyên sâu cho giá trị gia tăng để đạt doanh thu xuất khẩu
6 tỷ USD trong thập kỷ tới. Đồng thời đặt ra các mục tiêu môi trường cụ thể,
bao gồm giới hạn canh tác cà phê trên toàn quốc ở mức 600.000 ha, thay thế cây
cà phê năng suất thấp cũ bằng các giống mới cho năng suất cao hơn và có khả
năng kháng sâu bệnh tốt hơn, phân vùng lại cà phê và tiết kiệm nước phương
pháp tưới, cũng như thiết lập các tiêu chuẩn an toàn và môi trường mới cho phân
bón và thuốc trừ sâu.

31
KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích thực trạng, những nguyên nhân tồn tại của chuỗi cung
ứng cà phê Việt Nam,điểm mạnh và điểm yếu, cơ hội và thách thức ở chương II,
từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp để hoàn thiện chuỗi cung ứng cà phê Việt
Nam trong thời gian sắp tới. Các giải pháp cần được thực hiện từ 3 phía, người
nông dân, nhà nước, các công ty/doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập
khẩu cà phê. Các giái pháp này thực hiện trên cơ sở toàn diện, đảm bảo từ khâu
trồng trọt khai thác đến chế biến vận chuyển.

32
PHỤ LỤC

Biểu đồ và lượng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam theo tháng (từ
1/2018 đến 9/2019)

33
Bảng: Chủng loại cà phê Việt Nam xuất khẩu trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm
2019
(Đơn vị: Cục Xuất nhập khẩu)

34
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật thương mại Việt Nam (2005)

2. Báo điện tử Vietnamexport http://vietnamexport.com/ca-phe-viet-nam-tai-cac-thi-truong-


tren-the-gioi/vn2510365.html

3. Báo Primecoffee https://primecoffea.com/nganh-ca-phe-viet-nam-hanh-trinh-ba-thap-


ky.html

4. Báo Logistics4vn https://logistics4vn.com/hoan-thien-chuoi-gia-tri-ca-phe-viet-nam?


fbclid=IwAR0qAB4CC-i302h7Fd5IDXszqyTP9_SbdJXU6dveGR_DLyMqwZRfQt8k5Tw

5. Web Cục súc tiến thương mại http://www.vietrade.gov.vn/

6. Trang dữ liệu trademap http://agro.gov.vn/vn/tID5814_Indonesia-Vietnam-coffee-output-


risingNoble-Group.html

35

You might also like