You are on page 1of 33

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA BẢO HIỂM


-----o0o-----

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Đề tài:
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH
NGHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI
THỨ 3 TRÊN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên : Vũ Thị Huyền Trang


MSV : 11185265
Lớp : Bảo hiểm xã hội 60
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Xuân Tiệp

HÀ NỘI, 03/2021
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3....................................6
1.1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân  sự. .6
1.1.1 Trách nhiệm dân sự..................................................................................6
1.1.2. Các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự..........................................8
1.1.3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự..................................................................8
1.2 Sự cần thiết triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đối với người thứ 3..................................................................9
1.2.1 Sự cần thiết phải triển khai nghiệp vụ bảo hểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đối với người thứ 3....................................................................9
1.2.2 Cơ sở hình thành tính bắt buộc của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.....10
1.2.3 Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba....................................................................................................12
1.3 Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới đối với người thứ 3.......................................................................13
1.3.1 Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm.............................................13
1.3.2 Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí...................................................16
1.3.3 Hợp đồng bảo hiểm................................................................................17
1.3.4 Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm.....................18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3 TẠI THỊ
TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM............................................................20
2.1. Thực trạng thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới20
2.2 Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới với người thứ ba tại thị trường bảo hiểm Việt Nam......................21
2.2.1 Công tác khai thác..................................................................................21
2.2.2 Công tác giám định và bồi thường.........................................................22
2.2.3 Đánh giá tình hình kinh doanh nghiệp vụ ngành qua một số năm.........23
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI
NGƯỜI THỨ BA TRÊN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM.........27
3.1 Đánh giá thuận lợi và khó khăn của ngành..........................................27
3.1.1 Những thuận lợi......................................................................................27
3.1.2 Những khó khăn.....................................................................................28
3.2 Giải pháp..................................................................................................29
3.2.1 Giải pháp đối với các doanh nghiệp bảo hiểm.......................................29
3.2.2 Giải pháp đối với các cơ quan quản lý...................................................29
3.3. Một số kiến nghị.....................................................................................29
3.3.1 Đối với hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.....................................................29
3.2.3 Đối với doanh nghiệp Bảo hiểm............................................................30
KẾT LUẬN....................................................................................................31
MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế thị trường giao thông vận tải là ngành kinh tế - kí thuật
có vị trí quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến các ngành kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng. Giao thông là một bộ phận của cơ sở hạ tầng. Sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của
ngành giao thông vận tải. Bởi vậy có thể nói giao thông vận tải là huyết mạch
của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phat triển
kinh tế, xã hội của đất nước.
So với các nước khác trong khu vực thì nước ta là nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế trung bình khá cao, đạt được kết quả đó là nhờ sự tăng trưởng
của từng ngành, tưng lĩnh vực và giao thông vận tải là một ngành có sự đóng
góp khá lớn vào con số đó . Ngoài ra giao thông vận tải còn chuyên chở hàng
hóa cho các ngành khác vì vậy có thể nói GTVT vừa đóng góp trực tiếp vủa
đóng góp gián tiếp vào thu nhập quốc dân của nước ta.
Giao thông vận tải nước ta gồm các hình thức chủ yếu: Vận tải đường
bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Trong đó vận tải đường bộ
bằng xe cơ giới là hình thức phổ biến nhất, được sử dụng rộng rãi trong nền
kinh tế. Với tốc độ vận chuyển nhanh hoàn thành quá trình vận chuyển một
cách triệt để, chi phí vận chuyển tương đối thấp nên vận chuyển bằng xe cơ
giới tiện lợi hơn rất nhiều so với vận chuyển bằng các hình thức khác . Hơn
nữa xe cơ giới có khả năng chuyên chở hàng hóa, con người mọi lúc mọi nơi
kể cả những điểm mà vận tải đường sắt, hàng không không tới được.
Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, vận chuyển bằng xe cơ giới
cũng không ngừng phát triển, số lượng xe lưu hành trên thị trường tăng lên
một cách đáng kể. Bên cạnh đó,chất lượng hệ thống đường bộ nước ta còn
kém, việc tu sửa lại chưa đồng bộ, đường xá còn chật hẹp, chắp vá nhiều
cộng hết công suất của các phương tiện, sự thiếu ý thức của người tham gia
giao thông, thậm chí do nhu cầu thị trường, do cuộc sống mà người ta sử dụng

1
những chiếc xe đã cũ nát, không đảm bảo an toàn để mà chuyên chở hàng
hóa…. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra các vụ tai nạn giao thông làm chết
hàng vạn người và bị thương không biết bao cá nhân. Đồng thời có rất nhiều
chủ xe cơ giới gặp khó khăn khi các phương tiện giao thông của họ gặp tai
nạn.
Từ thực tế đau thương và thảm khốc đó nghiệp vụ “ Bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ” đã ra đời với
mục đích chia sẻ rủi ro, giảm bớt đau thương, thiệt hại cho người bị nạn và
chủ phương tiện. Đây là một nghiệp vụ bảo hiểm mang tính chất xã hội cao
cả, giúp ổn định xã hội thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Thấy được tâm quan trọng của nghiệp vụ này tôi đã nghĩ đến việc tìm hiểu,
nghiên cứu và viết về đề tài “Thực trạng nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba trên thị trường Việt Nam”

2
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3

1.1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân  sự
1.1.1 Trách nhiệm dân sự
a. Khái niệm
Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là
một loại trách nhiệm pháp lý – một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên
cứu tổng quát trong môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Trách
nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất
lợi theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật. Nghĩa vụ
dân sự là một quan hệ pháp lý giữa trái chủ và người thụ trái xác định, tại đó
người thụ trái bị pháp luật cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Việc vi phạm nghĩa
vụ được xem như vi phạm pháp luật, người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu
hậu quả bất lợi gọi là trách nhiệm dân sự.
b. Đặc điểm
Từ khái niệm trách nhiệm dân sự trên, ta có thể rút ra được một số
đặc điểm của trách nhiệm dân sự như sau:
Trước hết, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, khác với
trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích xác lập các
chế tài cụ thể.
Thứ hai, trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng phạt mà là một
biện pháp buộc người có hành vi vi phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường
cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Trách nhiệm dân sự khác với trách
nhiệm hình sự ở chỗ: trách nhiệm hình sự tập trung sự chú ý vào hành vi; còn
trách nhiệm dân sự tập trung sự chú ý vào thiệt hại hay hậu quả của hành vi.
Do đó, trong trách nhiệm dân sự, dù có hành vi vi phạm nhưng không có sự
thiệt hại, thì không dẫn tới nghĩa vụ bồi thường. Tuy nhiên, trong trách nhiệm
hình sự người ta cũng quan tâm tới hậu quả ở mức độ nhất định. Và trong

3
trách nhiệm dân sự đôi khi người ta (ở một số nền tài phán) cũng chỉ chú ý tới
hành vi trong một dạng trách nhiệm nhất định nào đó. Trách nhiệm hình sự
thể hiện sự phản ứng của xã hội đối với kẻ phạm tội trên cơ sở suy diễn hành
vi bị trừng phạt đó chống lại sự bình ổn chung của cộng đồng. Ngược lại,
trách nhiệm dân sự không phải là sự phản ứng của xã hội đối với người vi
phạm mà là sự hỗ trợ của pháp luật đối với người bị thiệt hại do vi phạm gây
ra để khôi phục lại tình trạng tài chính như khi không có sự vi phạm. Vì vậy
các chế tài dân sự mang tính chất tư, chứ không mang tính chất công như chế
tài hình sự. Dù sao cũng có những vi phạm xảy ra làm phát sinh cả trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm lương tâm.
Thứ ba, trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm hợp đồng và
trách nhiệm ngoài hợp đồng. Có tác giả chia trách nhiệm ngoài hợp đồng
thành trách nhiệm dân sự phạm và trách nhiệm chuẩn dân sự phạm (20).
Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không được thực hiện gây thiệt
hại cho bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài
hợp đồng phát sinh khi một người có lỗi gây thiệt hại cho một người khác và
người bị thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm hợp đồng hay trách
nhiệm ngoài hợp đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa
vụ, nhưng được phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ hợp đồng hoặc
từ pháp luật. Tuy nhiên sự phân biệt có ý nghĩa trong việc chứng minh. ở đây,
cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là một nguồn gốc phát sinh
nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng phát sinh trên cơ sở sự thống
nhất ý chí của các đương sự hay hành vi pháp lý. Còn nghĩa vụ bồi thường
phát sinh ngoài ý chí của đương sự, có nghĩa là do luật định. Quan niệm này
có thể còn phải tranh luận, ví dụ trong hợp đồng có thể qui định về chế tài vi
phạm hợp đồng, và khi hợp đồng bị vi phạm, bên vi phạm tự nguyện thi hành.
Nhưng cũng có ý kiến phân tích: khi hợp đồng bị vi phạm thì người vi phạm
không mong muốn phải gánh chịu chế tài như vậy. Tuy nhiên, cần phải hiểu
rằng nếu các bên đặt ra các giải pháp và tự thi hành trong việc vi phạm nghĩa

4
vụ hợp đồng, thì không dẫn tới tranh chấp pháp lý, do đó không cần thiết sự
cưỡng chế thi hành. Nên đặt vấn đề nghĩa vụ trong trường hợp này ít có ý
nghĩa.
1.1.2. Các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự.
Các yếu tố làm phát sinh nghĩa vụ dân sự chính là một số căn cứ làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự được quy định tại điều 13 Bộ luật Dân sự
2005. Cụ thể các yếu tố làm phát sinh nghĩa vụ gồm:
Điều 13. Căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
Quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập từ các căn cứ sau đây:
1. Giao dịch dân sự hợp pháp;
2. Quyết định của Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác;
3. Sự kiện pháp lý do pháp luật quy định;
6. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
7. Thực hiện công việc không có uỷ quyền;
8. Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật
9. Những căn cứ khác do pháp luật quy định.
1.1.3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Trong cuộc sống, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức đều phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật cho từng hành vi ứng xử của mình. Nhìn chung,
khi một người nào đó vì bất cẩn mà gây ra thiệt hại cho người khác thì phải
chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại đó mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường cho người khác có thể phát sinh theo hợp
đồng khi giữa các bên có liên quan có mối quan hệ hợp đồng ( ví dụ như hợp
đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động: hợp đồng vận
chuyển giữa hãng vận chuyển và hành khách; hợp đồng mua bán giữa nhà sản
xuất và khách hàng…) hoặc phát sinh ngoài hợp đồng ( ví dụ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với bên thứ ba ). Cho dù phát sinh theo hợp đồng hay
ngoài hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường theo luật đều khiến các cá nhân và

5
các tổ chức ( thường là các doanh nghiệp ) có phát sinh trách nhiệm phải chịu
thiệt hại tài chính một cách gián tiếp. Tùy theo lỗi và thiệt hại thực tế của bên
thứ ba mà thiệt hại trách nhiệm phát sinh có thể là rất lớn hoặc không đáng
kể. Trong trường hợp phải bồi thường thiệt hại với một số tiền lớn, sự ổn định
tài chính của cá nhân hay tổ chức có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Bảo hiểm trách nhiệm ra đời một mặt giúp cho các cá nhân và tổ chức
trong xã hội có thể ổn định tài chính khi trách nhiệm pháp lý phát sinh, mặt
khác đảm bảo khả năng được bồi thường cho bên bị thiệt hại do lỗi của các cá
nhân và tổ chức này. Có rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm khác nhau,
tuy nhiên có một cố nghiệp vj bảo hiểm chủ yếu sau:
BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
BH TNDS của nhà vận chuyển trong ngành hành không dân dụng
BH TNDS của chủ sử dụng lao động đối với người lao động
Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
Bảo hiểm trách nhiệm công cộng
Bảo hiểm trách nhiệm đối với tài sản
BH TNDS của chủ tàu biển
1.2 Sự cần thiết triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
1.2.1 Sự cần thiết phải triển khai nghiệp vụ bảo hểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3    
Lịch sử phát triển bao đời nay đã cho thấy những rủi ro bất ngờ luôn xảy
ra ngoài ý muốn của con người. Mà tính mạng con người là vô giá không thể
tính toán bằng tiền cụ thể, cũng khó có thể đánh giá được thiệt hại về sức
khoẻ một cách chính xác.
Công cuộc phát triển về giao thông vận tải đã đem lại sự phồn vinh cho
toàn xã hội song điều đó lại cũng chính là nguyên nhân gây ra tai nạn, làm
thiệt hại đến tính mạng sức khoẻ, tinh thần, tài sản của con người và của toàn

6
xã hội, gây nên khó khăn về kinh tế, tình cảm cho người bị nạn.
Như vậy tai nạn giao thông là mối đe dọa từng ngày từng giờ đối với các
chủ phương tiện, mặc dù nhà nước ta đã có nhiều biện pháp ngăn ngừa, hạn
chế tai nạn một cách tích cực song vẫn không thể tránh khỏi. Khi tai nạn xảy
ra thì việc giải quyết hậu quả thường phức tạp, kéo dài, cho dù nhà nước có
quy định rõ chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức
khoẻ, tính mạng và tài sản do việc lưu hành xe của mình gây ra theo nguyên
tắc “gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu”.
Phần lớn các vụ tai nạn xảy ra đều được bồi thường theo thoả thuận
giữa chủ phương tiện và người bị hại nên dẫn đến nhiều khúc mắc trong việc
bồi thường (hoặc bồi thường không xứng đáng hoặc bồi thường không đúng
thiệt hại thực tế), có những vụ tai nạn chủ xe không có điều kiện để giải quyết
bồi thường, nhiều trường hợp lái xe bị chết trong vụ tai nạn đó cho nên việc
giải quyết tai nạn trở nên khó khăn hơn.
Nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị hại và giảm bớt gánh nặng cho chủ
xe BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời và đáp ứng kịp
thời nhu cầu của xã hội. Chính phủ đã ban hành NĐ30/HĐBT và hiện nay
được thay bằng NĐ 115/CP/1997 “về chế độ thực hiện bảo hiểm bắt buộc
TNDS của chủ xe cơ giới”. Như vậy càng khẳng định quyết tâm của Chính
phủ thực hiện triệt để loại hình bảo hiểm này. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất
để các công ty bảo hiểm đẩy mạnh công tác bảo hiểm cho chủ xe cơ giới tại
Việt Nam.
1.2.2 Cơ sở hình thành tính bắt buộc của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Trên thế giới hiện nay, ở các nước có ngành bảo hiểm phát triển thì hầu
hết các nghiệp vụ BH TNDS nói chung và nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba nói riêng đều được thực hiện dưới hình thức bắt
buộc. Ở Việt Nam, theo đó tại điều 308 bộ luật này có quy định các lỗi sau
đây phát sinh trách nhiệm dân sự:
- Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghiệp vụ dân sự

7
thì phải chịu TNDS khi có lỗi cố ý hoặc có lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xẩy ra.
- Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải bồi thường hoặc có thể biết
trước thiệt hại sẽ xẩy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Trong trường hợp phát sinh TNDS gây thiệt hại cho bên thứ ba thì người
gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba. Điều
này được quy định trong điều 307 Bộ Luật dân sự Việt Nam, cụ thể như sau:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính được thành tiền cho bên vi phạm gây ra, bao gồm
tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại,
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
- Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một
khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Trên tinh thần đó của luật sư, luật kinh doanh bảo hiểm ngày 22/2/2000
cũng có những quy định cụ thể về từng loại hình BH TNDS theo đó tại khoản
2 điều 8 luật kinh doanh bảo hiểm quy định:
Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a) Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, BH TNDS của người vận chuyển
hàng không đối với hành khách.
b) Bảo hiểm TNDS nghề nghiệp đối với hoạt động với hành khách.
c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo

8
hiểm.
d) Bảo hiểm cháy nổ.
Như vậy, ở nước ta bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba được thực hiện bắt buộc theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện
bắt buộc góp phần đảm bảo tính công bằng trong xã hội và đảm bảo quyền lợi
của mọi công dân. Ngoài ra, thực hiện bắt buộc còn góp phần nâng cao tinh
thần trách nhiệm và ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông của mọi
người dân và đặc biệt là các chủ phương tiện xe cơ giới.
1.2.3 Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba
a. Đối với chủ xe
BHTNDS của chủ xe cơ giới không chỉ đóng vai trò to lớn đối với người
bị thiệt hại mà còn đối với cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho các chủ
xe khi tham gia giao thông.
- Tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin, khi điểu khiển các phương tiện
tham gia giao thông.
- Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, trong
đó có lỗi của chủ xe thì công ty bảo hiểm nơi mả chủ xe tham gia ký kết bảo
hiểm tiến hành bồi thường nhanh chóng để các chủ xe phục hồi lại tinh thần,
ổn định sản xuất., phát huy quyền tự chủ về tài chính, tránh thiệt hại về kinh
tế cho chủ xe.
- Có tác dụng giúp cho chủ xe có ý thức hơn trong việc đề ra các biện
pháp hạn chế, ngăn ngừa tai nạn bằng cách thông qua bảo hiểm TNDS của
chủ xe.
- Góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị
nạn. Đây là mục đích cao cả trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối
với người thứ ba.
b. Đối với người thứ ba
- Thay mặt người thứ ba bảo vệ quyền lợi chính đáng cho họ. Vì khi chủ
xe gây tai nạn thì công ty thay mặt của xe bồi thường những thiệt hại cho nạn

9
nhân một cách nhanh chóng, kịp thời mà không phụ thuộc vào tài chính của
chủ xe.
- BHTNDS cũng giúp cho người thứ ba ổn định về mặt tài chính cũng
như về mặt tinh thần, tránh gây ra căng thẳng hay sự cố bất thường từ phía
người nhà nạn nhân (trong trường hợp người thứ ba bị chết).
c. Đối với xã hội
- Từ công tác giám định cũng như công tác bồi thường sau mỗi một vụ
tai nạn, công ty bảo hiểm sẽ thống kê được các rủi ro và nguyên nhân gây ra
rủi ro để từ đó đề ra biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất một cách hiệu quả
nhất, giảm bớt những đáng kể do hậu quả tai nạn giao thông gây ra cho mỗi
người, giảm bớt thiệt hại cho toàn xã hội. Đây là một hoạt động thể hiện
phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh".
- BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba còn làm giảm nhẹ
gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời làm tăng thu cho ngân sách cho
nhà nước. Việc đóng phí sẽ là nguồn chủ yếu để chi trả bồi thường cho người
thứ ba.
Đây là mục đích chủ yếu của nghiệp vụ của nhà nước Việt Nam, nó thể
hiện vai trò trung gian hoà giải có tính chất pháp lý của công ty bảo hiểm.
Với tư cách là một nghiệp vụ bảo hiểm, BHTNDS của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội, thể hiện tính
nhân đạo, nhân văn cao cả trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Một lần nữa
BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba lại khẳng định sự cần thiết
khách quan cũng như tính bắt buộc của nghiệp vụ BHTN dân sự của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba.
1.3 Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới đối với người thứ 3       
1.3.1 Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
a. Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình bảo
hiểm trách nhiệm pháp lý có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự phát

10
sinh của chủ xe gây ra thiệt hại cho người thứ ba trong quá trình lưu hành sử
dụng xe. Người tham gia bảo hiểm ( người được bảo hiểm ) thường là chủ xe,
phần trách nhiệm dân sự của chủ xe có thể phát sinh do chủ xe hoặc do lái xe
gây ra thiệt hại. TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm
hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ
ba khi xe lưu hành gây tai nạn.
TNDS ở đây bao gồm:
 Trách nhiệm liên quan quyền sở hữu tài sản. Do đặc điểm của chủ xe
cơ giới là sử dụng động cơ và chuyển động với vận tốc cao nên tự bản thân nó
có thể gây ra tai nạn và làm thiệt hại cho người thứ ba mà không phải do lỗi
của chủ xe hay lái xe. Tuy nhiên với tư cách là chủ sở hữu, chủ xe chịu trách
nhiệm dân sự đối với những thiệt hại đó.
 Trách nhiệm dân sự phát sinh từ trách nhiệm phải điều khiển xe an
toàn, không có những hành vi sơ suất gây thiệt hại cho người thứ ba.
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc
lưu hành xe gây ra tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với
người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Điều kiện phát sinh
trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm:
 Điều kiện thứ nhất: Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe
của bên thứ ba.
 Điều kiện thứ hai: Chủ xe ( lái xe ) phải có hành vi trái pháp luật. Có
thể do vô ý hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi
phạm các quy định khác của Nhà nước…
 Điều kiện thứ ba: phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật của chủ xe ( lái xe ) với những thiệt hại của người thứ ba.
 Điều kiện thứ tư: Chủ xe ( lái xe ) phải có lỗi.
Bên thứ ba trong BH TNDS chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị
thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn nhưng loại trừ:
- Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe;
- Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con

11
cái…
- Hành khách, những người có mặt trên xe;
- Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên;
Lý do loại trừ chủ yếu do những người ngồi trên xe cơ quan hệ lợi ích
trực tiếp với lãi xe. Lái xe, phụ xe, người làm công cho chủ xe là những người
làm thuê cho chủ xe để nhận công chính vì vậy theo quy định họ không được
coi là những người thứ ba. Cha mẹ, vợ, chồng, con cái… của lái xe họ là
những người thân của chủ xe nên không được coi là những người thứ ba.
Hành khách, những người có mặt trên xe; tài sản, tư trang, hành lý của những
người nêu trên họ đều có hình thức bảo hiểm riêng như bảo hiểm hành khách
hay bảo hiểm tài sản chính vì vậy họ không phải người thứ ba. Hơn nữa việc
loại trừ này còn giúp cho công ty bảo hiểm có thể phòng chống được trục lợi
bảo hiểm do những người lãi xe dàn dựng.
b. Phạm vi bảo hiểm
Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba chịu trách
nhiệm những thiệt hại của người thứ ba bao gồm:
 Thiệt hại về con người: tính mạng, sức khoẻ
 Thiệt hại về tài sản
 Thiệt hại về kinh doanh do thiệt hại về tài sản gây nên, hoặc thiệt hại
về thu nhập do thiệt hại về người gây ra
 Ngoài ra, công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với những chi phí
cần thiết và hợp lý nhằm hạn chế tổn thất xảy ra thêm ( thiệt hại tính mạng,
sức khoẻ những người tham gia cứu chữa, chi phí ngăn ngừa tai nạn, cấp cứu
và chăm sóc nạn nhân … ) và những chi phí ra tòa trong trường hợp nếu cần.
Mặc dù tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự nhưng công ty bảo hiểm
không chịu trách nhiệm bồi thường:
 Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại.
 Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiệt hại an toàn để tham gia giao
thông theo quy định của bộ giao thông vận tải.
 Chủ xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ.

12
 Thiệt hại do chiến tranh, bạo động.
 Thiệt hại do gián tiếp do tai nạn.
 Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, cắp trong tai nạn.
 Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ trường hợp có thoả thuận
khác giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
 Tài sản đặc biệt: Tiền, vàng bạc, đá quý, tranh ảnh quý, đồ cổ, thi hài,
hài cốt
1.3.2 Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí
Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm
đóng phí BH TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượng đầu
phương tiện của mình. Mặt khác, các phương tiện khác nhau nên phí bảo
hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện ( hoặc nhóm phương tiện ).
Phí bảo hiểm thường tính theo năm:
P=f+d
Trong đó:
P : Phí bảo hiểm/1xe
F : Phí thuần
D : Phụ phí ( tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng phí bảo hiểm )
Phí thuần được xác định theo công thức:

n
∑ Ci
i =1
f= n
∑ Ci
i =1
Trong đó:
S: Số vụ tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe
T: Số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tai nạn trong năm i
C: Số lượng phương tiện cùng loại tham gia bảo hiểm trong năm i.
n: Số năm thống kê

13
Trên đây là cách tính phí trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các
phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn ( xe tải hạng nặng, xe kéo
ro mọc… ) thì tính thêm tỷ lệ phu phí so với mức phí cơ bản. Việt Nam hiện
nay thường cộng thêm 30% phí cơ bản.
Phí đối với phương tiện hoạt động ngắn hạn ( tính tròn tháng ):

Phí năm x Số tháng không hoạt động


Phí ngắn hạn =
12 tháng

Hoặc :
Phí ngắn hạn = Phí năm x Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng
Cách tính tròn tháng ở đây được tính theo phương thức:
- Nếu thời điểm tính phí được tính từ ngày 15 trở đi thì phí tính cả tháng đó
- Nếu thời điểm tính phí được tính dưới ngày 15 trở lại thì phí không tính
tháng đó.
Khi chủ xe đã đóng phí cả năm mà tại thời điểm nào đó phương tiện
ngừng hoạt động hoặc chuyển quyền sở hữu không chuyển quyền bảo hiểm
mà trước đó chủ xe chưa có khiếu nại và được bảo hiểm bồi thường thì được
hoàn phí. Số phí hoàn lại:

P năm x Số tháng không hoạt động


P hoàn lại =
12 tháng
Chủ xe có trách nhiệm phải nộp phí đầy đủ. Công ty bảo hiểm sẽ quy
định thời gian, số lần, mức phí tương ứng và tỷ lệ giảm phí tùy theo số lượng
phương tiện tham gia bảo hiểm và tỷ lệ tổn thất ( thông thường mức giảm tối
đa là 20% ). Nếu không thực hiện đúng quy định bị phạt tùy theo hợp đồng
giữa công ty bảo hiểm và chủ xe.
1.3.3 Hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là hợp đồng về bảo hiểm trách
nhiệm dân sự hay chính là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm
(doanh nghiệp bảo hiểm) với bên tham gia bảo hiểm (tổ chức, cá nhân), theo

14
đó doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt
hại đối với người thứ ba thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm
xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, còn bên tham gia bảo hiểm có
nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang những đặc điểm chung của
hợp đồng bảo hiểm, đồng thời có những đặc trưng riêng.
1.3.4 Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm
Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm được xác định trên cơ sở mức
TNDS thực tế phát sinh
Mức TNDS = Thiệt hại thực tế x Mức độ lỗi
phát sinh của bên thứ ba của chủ xe (lái xe)

Mức độ lỗi của chủ xe chủ yếu được xác định giựa trên kết quả điều tra
của cảnh sát giao thông, của các giám định viên… và được tính theo phần
trăm mức độ lỗi của hai bên.
Vậy, mức TNDS phát sinh thông thường phụ thuộc vào thiệt hại thực tế
của bên thứ ba và mức độ lỗi của chủ xe, lái xe. Tuy nhiên, mức TNDS phụ
thuộc vào phán quyết cuối cùng của chủ xe, lái xe. Tuy nhiên, mức TNDS
phụ thuộc vào phán quyết cuối cùng của toà án hoặc do sự thoả thuận của 2
bên. Phán quyết này thường dựa trên khả năng tài chính của chủ xe, hoặc
hoàn cảnh gia đình, thu nhập của người thứ ba, có thể do người thứ ba là trụ
cột gia đình mà bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn thì mức trách nhiệm
sẽ cao hơn dẫn đến số tiền bồi thường phải được trả tiền trên tinh thần nhân
đạo. Ví dụ trong trường hợp phán quyết của Toàn án dựa trên khả năng tài
chính của chủ xe : Tại mỹ, trong 1 vụ tai nạn giao thông, bên A và bên B đâm
vào C, C bị thương nặng, toà án yêu cầu bồi thường 15 triệu đôla. Xác định
trách nhiệm : lỗi của bên A là 20%, bên B là 80%, vậy bên A phải đền 3 triệu,
bên B đền 12 triệu cho bên C. Nhưng bên B là một chủ xe tải nếu bán hết chỉ
được đến tổng số tiền là 3,2 triệu đôla. Do đó, toà án phán quyết, bên B đến

15
0,2 triệu, còn lại bên A đền hết, phán quyết đó được giải thích như sau: nếu
không có 20% lỗi của bên A thì C sẽ không bị thương nặng đến thế, hơn nữa,
bên A là công ty lớn, có khả năng tài chính lớn nên toà án yêu cầu bồi thường
để bảo vệ quyền lợi người bị hại.
Ngoài ra, các công ty bảo hiểm thường giới hạn trách nhiệm theo một số
tiền nhất định gọi là số tiền bảo hiểm. Nếu TNDS phát sinh lớn hơn hạn mức
trách nhiệm đó thì phần lớn hơn chủ xe ( lái xe ) phải tự chịu.

16
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3 TẠI
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM

2.1. Thực trạng thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam
năm qua đã có một bước tăng trưởng khả quan. Là nghiệp vụ mũi nhọn của
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, bảo hiểm xe cơ giới năm qua tăng khá, đóng
góp đáng kể vào mức tăng chung toàn thị trường. Hơn thế nữa, đây là một
loại hình bảo hiểm khá phổ biến, có mức độ ảnh hưởng lớn tới người dân.
Theo thông tin từ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, tính đến hết tháng
10/2020 doanh thu bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới đạt 3.639 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 8%, tăng trưởng 17%, tỷ lệ bồi thường 17%. Chia sẻ với
Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, lãnh đạo một công ty bảo hiểm cho biết, kể
từ khi quy định tổng kiểm tra các phương tiện giao thông trên toàn quốc chính
thức có hiệu lực từ giữa tháng 5 năm 2020, doanh thu bảo hiểm bắt buộc
TNDS chủ xe của hầu hết các công ty bảo hiểm phi nhân thọ đều ghi nhận
mức tăng trưởng trên 30%, thậm chí có doanh nghiệp đến 100%. Nổi lên là
các công ty bảo hiểm top đầu như Bảo Việt chiếm đến trên 20% thị phần, kế
đó là bảo hiểm PVI, PTI hay bảo hiểm Bảo Minh và Petrolimex.
Kết quả trên có được là nhờ nhiều chính sách chế độ quản lý của các cơ
quan chức năng được ban hành đã có tác động tích cực tới thị trường. Môi
trường pháp lý thuận lợi đó thúc đẩy thị trường bảo hiểm xe cơ giới tăng
trưởng lâu dài. Nghị định 214/2013/NĐ-CP ban hành ngày 10/02/2014 sửa
đổi Nghị định 103/2008/NĐ-CP về nội dung bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới. Trong đó có điểm đáng chú ý nhất là thời hạn bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của xe cơ giới tối thiểu là 1 năm, khuyến khích chủ
xe mua bảo hiểm nhiều hơn 1 năm với chế độ giảm phí. Việc mở rộng phạm
vi bảo hiểm và nâng mức trách nhiệm, phí trách nhiệm dân sự bắt buộc đối

17
với người thứ ba được nâng lên 50% với tỷ lệ phí tăng lên 1,5 lần… giúp số
phí thu tăng lên đáng kể. Nghị quyết số 32 của Chính phủ về công tác trật tự
an toàn giao thông trong đó có chương trình đội mũ bảo hiểm là cơ hội để các
doanh nghiệp bán bảo hiểm xe máy kết hợp với chương trình này. Thông tư
liên tịch số 16 của Bộ Công an - Bộ Tài chính được ban hành tạo thuận lợi
cho việc giám định tai nạn, giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng và
hỗ trợ khai thác bảo hiểm
Ngoài ra, chính sách miễn thuế và giảm thuế nhập khẩu đối với xe ô tô
(cả xe mới và xe cũ) đã khiến lượng xe nhập tăng vọt. Theo số liệu từ Tổng
cục Hải quan, lượng xe ô tô nhập khẩu nguyên chiếc mở tờ khai vào Việt
Nam trong nửa đầu tháng 2/2021 đạt 4.508 chiếc, trị giá gần 101 triệu USD.
Trong khi đó, lượng xe nhập khẩu vào Việt Nam cả tháng 1/2021 chỉ là 4.281
xe, tổng kim ngạch hơn 111 triệu USD. Như vậy, dù chỉ mới qua 15 ngày đầu
tháng 2/2021, lượng xe nhập vào đã nhiều hơn cả tháng 1/2021. Dự kiến
tháng 3/2021, Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự (TNDS)
của chủ xe cơ giới thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP sẽ bắt đầu có hiệu
lực, góp phần đẩy mạnh công tác phổ biến BH TNDS trong nước.
2.2 Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới với người thứ ba tại thị trường bảo hiểm Việt Nam
2.2.1 Công tác khai thác
Khâu khai thác là khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành
bại của Công ty bảo hiểm nói chung và đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm nói
riêng. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên các Công ty bảo hiểm
bằng các biện pháp quảng cáo, chính sách khách hàng phù hợp nhằm rất tập
trung khai thác tối đa các hợp đồng bảo hiểm có thể được. Đặc biệt, với
nghiệp vụ bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì việc khai
thác có nhiều thuận lợi và khả năng ký kết HĐBH cũng dễ dàng hơn so với
các nghiệp vụ bảo hiểm khác, vì đây là bảo hiểm bắt buộc đối với các chủ xe.

18
Bảng 2.1: Doanh thu phí bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba của các công ty bảo hiểm giai đoạn 2015-2020.
Đơn vị tính: 1 000 đồng
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Bảo Việt 719,8 704,4 903,4 960,6 989,5 1174,2
PJICO 659,3 701,8 823,4 899,1 930,7 1011,2
Bảo Minh 545,7 595,3 620,8 710,0 787,1 832,9
PTI 643,7 700,8 898,2 935,1 978,5 1088,6
MIC 675,2 721,4 799,6 860,0 920,4 1002.8
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Bảo Việt, Mic, PJICO, Bảo Minh, PTI
2.2.2 Công tác giám định và bồi thường
Công tác GĐ&BT là khâu rất quan trọng mà bất kỳ một DNBH nào
cũng luôn phải chú trọng thực hiện tốt công tác này để đảm bảo chăm sóc
khách hàng tận tình khi khách hàng có rủi ro và tổn thất nhằm khắc phục
mọi hậu quả một cách chính xác và nhanh chóng.
Tai nạn giao thông vẫn đang ngày ngày là mối lo ngại của mỗi người
dân. Chính tình hình tai nạn ngày một gia tăng nên dẫn đến các thiệt hại về
vật chất, TNDS xe ngày một tăng và dẫn đến số tiền bồi thường cho nghiệp
vụ bảo hiểm bắt buộc tăng cao.
Mức chi GĐ&BT bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới của các Công ty bảo
hiểm trên địa bàn tỉnh luôn giữ ở mức tương đối ổn định. Mặc dù số chi có
tăng nhưng không đột biến và bất ngờ.
Phần chênh lệch giữa doanh thu phí và chi GĐ&BT bảo hiểm TNDS
chủ XCG của các công ty luôn đạt ở mức tương đối cao. Không có DNBH
nào trong số 5 DNBH được chọn để nghiên cứu có mức chênh lệch quá
thấp ở các năm hoặc không có chênh lệch dương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện bảo hiểm
TNDS chủ xe cơ giới tại một số công ty bảo hiểm trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn tại
một số hạn chế sau:

19
- Tốc độ phát triển về doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe
cơ giới của các Công ty bảo hiểm trên thị trường qua các năm chưa đồng đều.
Có những năm rất cao (PTI năm 2015 đạt trên 150%) nhưng có năm lại không
bằng mức thu của năm trước (Bảo Việt năm 2019 đạt gần 80%). Riêng năm
2019, các công ty đều có kết quả khai thác không đạt kết quả, chỉ có Bảo
Minh và MIC là ổn định và vượt kế hoạch.
- Khi thu nhập tăng lên, nhiều người dân có nhu cầu mua sắm các phương
tiện giao thông đường bộ đảm bảo an toàn và điều kiện đi lại, vì thế nên lượng
XCG tăng lên nhanh. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng về doanh thu phí nghiệp vụ
bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ XCG chưa tương xứng. Công tác khai thác chưa
bám sát thị trường, nhiều phương tiện hiện có dang lưu hành tại địa phương nhưng
lại tham gia bảo hiểm tại tỉnh khác.
- Chi GĐ&BT cho nghiệp vụ này vẫn còn ở mức cao chưa có sự kiểm
soát mức tăng của chi. Mặc dù KQKD nghiệp vụ bảo hiểm này của các Công
ty bảo hiểm trong ngành đang còn ở mức khả quan.
2.2.3 Đánh giá tình hình kinh doanh nghiệp vụ ngành qua một số năm
2.2.3.1 Tình hình kinh doanh
Thời gian qua thị trường BH đã đạt mức tăng trưởng cao và ổn định,
năng lực tài chính của các DNBH tiếp tục được nâng cao. Các DNBH cũng đã
nâng cao công tác quản trị, điều hành; đa đạng hóa sản phẩm; chuyên nghiệp
hóa kênh phân phối… Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát BH ngày một
nâng cao; hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh BH ngày càng hoàn
thiện. Theo đó, thị trường BH Việt Nam được coi là một trong các kênh dẫn
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế; tổng số tiền các DNBH đầu tư trở lại
nền kinh tế tăng trưởng bình quân 17,7%/năm.
Cụ thể, năm 2016, tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DNBH
ước đạt 186.572 tỷ đồng, tăng 16,49% so với năm 2015; năm 2017, các
DNBH đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 251.639 tỷ đồng, tăng 27% so với
năm 2016. Riêng 6 tháng đầu năm 2018, thị trường BH tiếp tục duy trì tốc độ

20
tăng trưởng ấn tượng, các DNBH đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 277.384 tỷ
đồng, tăng 27,47% so với cùng kỳ năm 2017.
Theo đại diện Cục Quản lý, giám sát BH, hoạt động đầu tư của các
DNBH đảm bảo an toàn, hiệu quả. Cơ cấu đầu tư của các DNBH tập trung
vào các tài sản có tính an toàn cao như trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân
hàng (chiếm tỷ trọng trên 85%). Cụ thể năm 2016, riêng đầu tư vào trái phiếu
chính phủ của các DNBH chiếm tỷ trọng 57,21%; năm 2017, đầu tư vào trái
phiếu chính phủ chiếm tỷ trọng hơn 60% trong tỷ trọng danh mục đầu tư...
Các DNBH cũng đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu DN, góp vốn vào DN khác,
chiếm tỷ trọng 8%, các tài sản đầu tư còn lại (cho vay, kinh doanh bất động
sản, ủy thác đầu tư và hoạt động khác, chiếm tỷ trọng không đáng kể 5%).
“Việc các DNBH mua trái phiếu chính phủ, đặc biệt là trái phiếu chính
phủ dài hạn 20-30 năm đã khẳng định vai trò của BH là một trong các kênh
dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, góp phần tái cơ cấu nợ công và ổn định
kinh tế vĩ mô. Đồng thời cũng thể hiện lòng tin và cam kết của nhà đầu tư
nước ngoài đối với Chính phủ và công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam”, đại diện cơ quan quản lý về BH nhấn mạnh.
Bên cạnh hoạt động đầu tư, các DNBH luôn tích cực hỗ trợ, khẩn
trương thực hiện bồi thường cho khách hàng khi không may xảy ra rủi ro.
Theo đó, năm 2016, tổng số tiền thực bồi thường và trả tiền BH của các
DN ước đạt 25.872 tỷ đồng; năm 2017, tổng số tiền thực bồi thường và trả
tiền BH ước đạt 31.325 tỷ đồng, tăng 22,2% so với năm 2016. 6 tháng đầu
năm 2018, các DNBH chi trả quyền lợi BH ước đạt 16.322 tỷ đồng, tăng
22,43% so với cùng kỳ.
Việc giải quyết bồi thường, chi trả quyền lợi BH nhanh chóng đã giúp
khách hàng kịp thời khắc phục khó khăn, góp phần ổn định cuộc sống và sản
xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh - xã hội; đồng thời, thể hiện uy tín, tính
chuyên nghiệp cũng như cam kết lâu dài của các DNBH nhằm mang lại lợi
ích cao nhất cho khách hàng và cộng đồng.

21
2.2.3.2 Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý
Theo Chiến lược phát triển thị trường đến năm 2020 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 193/QĐ-TTg, đến năm 2020, thị trường
BH sẽ đạt được các chỉ tiêu phát triển như: tổng doanh thu ngành BH đạt 3%
4% GDP; quy mô các quỹ dự phòng nghiệp vụ BH nhằm đáp ứng nghĩa vụ
chi bồi thường và trả tiền BH cho khách hàng tăng gấp 4,5 lần so với năm
2010; tổng nguồn vốn huy động cho nền kinh tế của các DNBH đến năm
2020 tăng gấp 3,5 lần so với năm 2010…
Để đảm bảo thị trường BH phát triển bền vững song vẫn đảm bảo quyền
lợi của các DNBH cũng như quyền lợi của bên mua BH, cơ quan quản lý về
BH cho biết, sẽ tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý. Theo đó, sẽ sớm sửa
đổi, bổ sung Luật Kinh doanh BH một cách tổng thể theo hướng hệ thống
pháp luật mới sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng hơn và đồng bộ hơn hoạt động
kinh doanh BH trong mối liên kết với các mảng thị trường dịch vụ tài chính,
đảm bảo thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về dịch vụ BH; đánh giá
kết quả thực hiện Luật Kinh doanh BH giai đoạn 2015 - 2020…
Bên cạnh đó, sẽ sớm ban hành những chính sách phù hợp khuyến khích
các DN phát triển sản phẩm BH, đảm bảo đáp ứng nhu cầu BH đa dạng của
mọi lĩnh vực kinh tế và tầng lớp dân cư; triển khai những chính sách ưu đãi
phù hợp để hỗ trợ các DNBH phát triển các sản phẩm BH có ý nghĩa an sinh -
xã hội và các sản phẩm BH có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế như BH vi mô,
BH thiên tai, BH tài sản công... Đồng thời, đa dạng và chuyên nghiệp hóa các
kênh phân phối BH; nâng cao chất lượng của đội ngũ đại lý BH; nghiên cứu
để ban hành các quy định tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển các kênh
phân phối mới như phân phối BH qua thương mại điện tử, qua mạng điện
thoại di động...
Đồng thời, cơ quan quản lý sẽ xây dựng và ban hành các quy định về
quản trị rủi ro DN, đặc biệt là các yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông
tin và các chuẩn mực về ngành nghề quản trị điều hành, nhân lực, làm định

22
hướng cho các DNBH nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều
hành đạt chuẩn mực quốc tế, hoạt động hiệu quả, đảm bảo khả năng cạnh
tranh trong bối cảnh hội nhập, góp phần tạo lập môi trường pháp lý đồng bộ,
minh bạch hỗ trợ DNBH phát triển bền vững.

23
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI
NGƯỜI THỨ BA TRÊN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM

3.1 Đánh giá thuận lợi và khó khăn của ngành.


3.1.1 Những thuận lợi
Có được sự thành công như trên là do nhiều yếu tố mang lại. Dịch vụ sau
bán hàng luôn được ngành rất chú trọng, trong đó quan trọng nhất là phải đảm
bảo việc giải quyết bồi thường cho khách hàng một cách nhanh chóng và thỏa
đáng. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, lãnh đạo nhành luôn coi đó là nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của mình, coi đây không chỉ
thuần tuý là vấn đề đền bù tài chính mà còn là sự quan tâm, chia sẻ tình cảnh
khó khăn mỗi khi khách hàng không may gặp rủi ro. Lãnh đạo ngành đã đến
thăm, động viên, hỗ trợ bằng tiền, hiện vật với tổng giá trị kịp thời cho một số
đơn vị và địa phương khu vực Miền Trung bị tổn thất lớn do bão số 9 và số 11
trong năm 2009, ảnh hưởng đại dịch Covid 19 năm 2019,2020 và hàng loạt
các hoạt động xã hội khác.
Cùng với đó ngành bảo hiểm đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao
và kịp thời của Chính phủ và Bộ tài chính. Mục tiêu của chính phủ là xây
dựng ngành bảo hiểm Việt Nam là phát triển nhanh và bền vững trong bối
cảnh hội nhập.
Quan hệ quốc tế của ngành bảo hiểm đã sâu rộng hơn trên tất cả các mặt.
Ngành đã nhận được nhiều sự giúp đỡ hỗ trợ của các cơ quan giám sát bảo
hiểm và các tổ chức quốc tế.
Nhận thức của người dân về bảo hiểm đã được nâng lên rõ rệt. Đối với
khách hàng, đóng phí bảo hiểm là để mua lấy sự yên tâm trong công việc,
chia sẻ lo ngại về những mầm mống rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống. Đối
với cộng đồng, bảo hiểm góp phần to lớn trong việc điều hòa cán cân thu
nhập, điều tiết lợi ích và ổn định xã hội….

24
25
3.1.2 Những khó khăn
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây suy giảm kinh tế tại nhiều quốc gia
trong đó có Việt Nam; thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh vẫn xảy ra liên tiếp, thị
trường chứng khoán suy giảm sâu và mạnh; thị trường bất động sản đóng
băng…. Đã ảnh hưởng trực tiếp đến bồi thường bảo hiểm và kết quả hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
Khủng hoảng kinh tế khiến khả năng thích ứng với thực tiễn của các
doanh nghiệp bảo hiểm được bộc lộ rõ nét, các công ty thích ứng tốt đã có lãi
và cũng có các công ty chưa thích ứng được nên đã bị thua lỗ.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh
nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh
tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do
cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp
cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường
chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi
gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn
còn hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai,
nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật
sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa
thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn
gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ
các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và
công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển
lành mạnh của ngành bảo hiểm.
Việc mở cửa thị trường sẽ vừa tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự phát
triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo
hiểm trong nước nói riêng. Bắt đầu từ ngày 1/1/2008, theo cam kết WTO, thị
trường bảo hiểm của Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn toàn, với việc cho

26
phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo
hiểm bắt buộc. Lúc đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải chịu áp lực
cạnh tranh lớn hơn, khi sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị
trường bảo hiểm Việt Nam nhiều hơn, sâu hơn và rộng hơn
3.2 Giải pháp
3.2.1 Giải pháp đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
 Chú trọng công tác tư vấn
 Nâng cao năng lực phục vụ, trình độ chuyên môn của nhân viên/đại lý
bảo hiểm
 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
 Đa dạng hóa các kênh phân phối sản phẩm
 Phát triển bộ phận chăm sóc khách hàng
 Thực hiện tốt công tác giám định-bồi thường.
 Có chính sách phân khúc thị trường khách hàng
3.2.2 Giải pháp đối với các cơ quan quản lý
 Hoàn thiện chính sách về bảo hiểm
 Sửa đổi, bổ sung và nâng mức trách nhiệm trong bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
 Tạo hành lang pháp lý ổn định và rõ ràng trong hoạt động kinh doanh
bảo hiểm
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1 Đối với hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
- Hiệp hội bảo hiểm là cầu nối giữa các doanh nghiệp bảo hiểm vì vậy hiệp
hội cần tích cực vận động các doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường phối hợp
trong công tác khai thác bảo hiểm, nâng cao chất lượng hoạt động bảo hiểm,
góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ tài chính trong công tác xây dựng cơ chế chính
sách bảo hiểm và tuyên truyền bảo hiểm, góp phần đảm bảo các chính sách
bảo hiểm được ban hành kịp thời và phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh
doanh, được các đối tượng nhận thức đúng và thực hiện tốt.

27
3.2.3 Đối với doanh nghiệp Bảo hiểm
Để tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty trong thời gian tới tôi đưa ra
một số giải pháp góp ý cho công ty như sau:
- Tích cực thu hồi các khoản nợ cũ, nợ ngắn hạn.
- Đánh giá mức độ rủi ro cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm, đối tượng
nào có mức độ rủi ro cao và số tiền bảo hiểm lớn thì nên tái cho các công ty
khác. Đây là niệm pháp nhằm đảm bảo an toàn cho công ty.
- Tuyển dụng các chi nhánh, các tổng đại lý tại các tỉnh, thành phố trên
toàn quốc để khi có rủi ro xảy ra ở đâu thì có chi nhánh của công tu pử tỉnh đó
xuống kiểm tra, giám định hiện trường. Đảm bảo nguyên tắc nhanh chóng,
kịp thời, chính xác. Đây là cách để các công ty bảo hiểm mở rộng mạng lưới
kinh doanh, nhằm giới thiệu sản phẩm đến với người dân ở các vùng sâu cách
thủ đô và các trung tâm thương mại.
- Tiếp tục duy trì và nghiên cứu phát triển các kênh phân phối sản phẩm
mới qua ngân hàng, bưu điện, e-commerce, telemarketing,…..nhằm tiết kiệm
chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Cải thiện chất lượng công tác quản trị điều hành: Nâng cao công tác tự
quản thông qua xây dựng và tổ chức thực hiện các quy trình quản lý nghiệp
vụ, kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt
động kinh doanh, tăng cường công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong công ty.
- Hợp tác, chia sẻ với các doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm khác trong
công tác khai thác, chống trục lợi bảo hiểm, hạn chế cạnh tranh không lành
mạnh.
- Đầu tư xây dựng và áp dụng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công
tác quản lý nhằm giảm thiểu chi phí, hạn chế các trường hợp trục lợi bảo
hiểm.

28
KẾT LUẬN

Để triển khai một loại hình bảo hiểm phải trải qua nhiều giai đoạn, từ lúc
xác định nhu cầu thị trường đến xây dựng mức phí, triển khai kế hoạch thực
hiện, bổ sung khiếm khuyết, phổ biến sâu rộng trên thị trường….đòi hỏi cả
một quá trình lâu dài và rất tốt kém.
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba cũng vậy nhưng có những điểm khác vì đây là nghiệp vụ bắt buộc nên
mọi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ việc áp dụng theo quy định của nhà nước.
Quy tắc, biêu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm đã được bộ tài chính quy định
rất rõ trong thông tư số 126/2008/TT-BTC. Tất cả các công ty bảo hiểm trên
thị trường Việt Nam có trách nghiệm thực hiện thông tư này.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra
đời nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên thứ ba, giúp đỡ chủ xe trong những vụ
tai nạn xảy ra. Đây là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Cũng chính vì vậy
tôi chọn đề tài : Triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba tại thi trường bảo hiểm Việt Nam.
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba đã được triển khai một cách có hiệu quả trên thị trường bảo hiểm Việt
Nam. Bên cạnh đó nghiệp vụ này còn gặp phải rất nhiều khó khăn vì vậy
trong bài viết này tôi đã mạnh dạn đề ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
triển khai nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc của chủ xe đối với người thứ ba, từ đó
ổn định xã hội, tạo đà cho sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế.
Mong rằng những ý kiến đóng góp của tôi trong bài viết này sẽ ít nhiều
giải quyết được những khó khăn mà các công ty trên thị trường gặp phải. Từ
đó nâng cao tính bắt buộc cho nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
se cơ giới đối với người thứ ba trong thời gian tới.

29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình bảo hiểm
Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm
Tạp chí bảo hiểm
Quyết định 23/2007/QĐ-BTC
Thông tư 126/2008/TT-BTC
Nghị định 103/2008/NĐ-CP
Thông tư liên tịch số 35/2009/TTLT_BTC_BCA
Tạp chí bảo hiểm
Báo cáo kết quả kinh doanh phòng xe cơ giới

30

You might also like