You are on page 1of 53

CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TẠI VIỆT NAM

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO


VÀ CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO 6
1.1 Tổng quan về năng lượng tái tạo 6
1.1.1 Khái niệm 6
1.1.2. Các nguồn năng lượng tái tạo chủ yếu 6
1.1.3. Vai trò của năng lượng tái tạo 11
1.1.4. Một số rào cản trong việc phát triển năng lượng tái tạo 13
1.2 Chính sách về phát triển năng lượng tái tạo 17
1.2.3 Một số cơ chế được sử dụng trong chính sách năng lượng tái tạo 19

CHƯƠNG 2: CÁC CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TẠI
VIỆT NAM 27
2.1 Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam 27
2.2 Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo 30
2.3 Một số chính sách về phát triển năng lượng tái tạo 32
2.3.1. Các văn bản luật 32
2.3.1.1 Luật đầu tư 2020 32
2.3.1.2. Luật điện lực sửa đổi 2012 33

2.3.1.3. Luật Bảo vệ môi trường 2020 34


2.3.1.4. Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả 35

2.3.1.5. Luật điện lực sửa đổi 36

2.3.2. Các nghị định 36


2.3.2.1. Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật đầu tư 36

2.3.2.2. Nghị định 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo vệ
môi trường. 37

2.3.2.3. Nghị định 32/2017/NĐ-CP quy định chính sách cho vay tín dụng đầu tư Nhà
nước 37

2.3.3. Các quyết định 38


2.3.3.1. Quyết định 2068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng
lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 38
2.3.3.2. Quyết định 2139/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt Chiến lược quốc gia
về biến đổi khí hậu 40
2.3.3.3. Các quyết định về cơ chế khuyến khích và hỗ trợ các dự án về năng
lượng tái tạo tại Việt Nam 41
2.3.3.4. Quyết định 1208/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia
giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành 45

2.3.4. Các thông tư 46


2.3.4.1. Thông tư 32/2014/TT-BCT về trình tự xây dựng, áp dụng Biểu giá chi phí tránh
được và ban hành Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các nhà máy thủy điện nhỏ 46

2.3.4.2. Thông tư 40/2014/TT-BCT quy định quy trình điều độ hệ thống điện quốc gia 46
2.3.4.3. Thông tư số 44/2015/TT-BCT của Bộ Công thương ngày 09 tháng 12 năm 2015
quy định về phát triển dự án, Biểu giá chi phí tránh được và Hợp đồng mua bán điện mẫu
áp dụng cho các dự án điện sinh khối 47

2.3.4.4. Thông tư 16/2017/TT-BCT quy định phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện
mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời 47

2.3.4.5. Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15 tháng 01 năm 2019 quy định thực hiện
phát triển điện gió và Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các dự án điện gió 48

KẾT LUẬN 49
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu của các quốc gia
trên thế giới. Trong những năm qua, nền kinh tế thế giới đã ghi nhận những mốc son
chói lọi khi đạt được những thành tựu lớn, góp phần đáng kể trong việc cải thiện cuộc
sống của con người. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng đi cùng với tăng trưởng kinh
tế thế giới là những vấn nạn nghiêm trọng mà con người hiện nay đang phải đối mặt,
trong đó phải kể đến tài nguyên thiên nhiên suy kiệt, cân bằng hệ sinh thái bị phá vỡ
và ô nhiễm môi trường ở mức báo động. Khi đó, các quốc gia trên thế giới buộc phải
chuyển dịch cơ cấu ngành năng lượng theo hướng sạch và bền vững, để có thể giảm
dần những tác động xấu tới môi trường và sức khỏe con người. Do vậy mà hiện nay,
năng lượng tái tạo đang được xem là giải pháp và xu hướng tất yếu của ngành năng
lượng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Theo TS. Nguyễn Mạnh Hiến - Hội đồng phản biện tạp chí năng lượng Việt
Nam, nước ta có tiềm năng đặc biệt lớn ở việc khai thác các nguồn năng lượng tái tạo
như: Thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối… Năng lượng tái tạo đã và
đang thu hút nhiều sự quan tâm, có vai trò ngày càng quan trọng và cấp bách đối với
Việt Nam. Việc chuyển đổi dần dần sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo không
những góp phần đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia, chiến lược tăng trưởng
xanh, mà còn góp phần làm giảm tác động của hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu
gây ra cho môi trường và con người.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam cần rất nhiều nguồn
năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo để phục vụ cho tiến trình phát triển. Nhu
cầu sử dụng năng lượng tái tạo ở Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng cùng với sự
tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế - xã hội. Việc đáp ứng đủ nhu cầu về năng lượng tái
tạo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề và thách thức. Mặc dù là quốc gia giàu tiềm năng về năng lượng
tái tạo nhưng cho đến nay việc đầu tư cho phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam
vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh sẵn có. Để làm được điều đó, Việt
Nam cần hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp triển khai các dự án năng lượng tái tạo. Theo Nguyên Bộ trưởng
Bộ Công thương Trần Tuấn Anh, “Việc đổi mới quản lý và hướng tới những cơ chế,
chính sách có tính đột phá là một nội dung quan trọng để thực hiện được mục tiêu phát
triển lĩnh vực năng lượng tái tạo”.
Xuất phát từ bối cảnh và nhu cầu cấp thiết đó, nhóm tác giả lựa chọn đề tài:
“Chính sách về phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam” với mong muốn đóng góp
vào các nghiên cứu, đánh giá nhằm hoàn thiện chính sách phát triển năng lượng tái tạo
ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu về lĩnh vực có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây tình hình nghiên cứu hoàn thiện các chính sách, thể
chế pháp lý về phát triển năng lượng tái tạo rất được chú trọng. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu được thực hiện, có thể nêu ra một số công trình sau đây:
Thứ nhất là Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về các biện pháp khuyến
khích, hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phan Duy
An - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010. Bài luận văn đã phân tích các
vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ phát triển năng
lượng tái tạo ở Việt Nam tại thời điểm năm 2010, đánh giá thực trạng pháp luật về các
cơ chế khuyến khích hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Trên cơ sở đó,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các cơ chế khuyến
khích, hỗ trợ, phát triển năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, từ năm 2011 cho đến nay, hầu
hết các văn bản pháp luật về cơ chế khuyến khích trong lĩnh vực năng lượng tái tạo đã
được ban hành mới, sửa đổi, thay thế, bổ sung, nên một số phân tính về quy định tại
thời điểm đó đã không còn tương thích.
Thứ hai là bài nghiên cứu “Năng lượng tái tạo trên biển và định hướng phát
triển tại Việt Nam” của tác giả Dư Văn Toán, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2015. Trong bài nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những cơ chế chính sách hiện có
phục vụ định hướng xây dựng một chiến lược quốc gia phát triển năng lượng tái tạo
của Việt Nam. Đồng thời, bài nghiên cứu này đã đánh giá sơ bộ tiềm năng năng lượng
tái tạo trên biển ở Việt Nam, sự tác động qua lại giữa khai thác các nguồn năng lượng
và mức độ ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên chưa phân tích đi sâu về các quy
định pháp luận, các cơ chế luật pháp điều chỉnh các mối quan hệ này.
Thứ ba là Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về khuyến khích đầu tư năng
lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thanh Hải, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2019. Luận văn nghiên cứu về
cơ sở lý luận về quy định pháp luật liên quan đến khuyến khích đầu tư năng lượng
xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo của Việt Nam. Tác giả đã phân tích, đánh
giá những khó khăn, bất cập khi áp dụng các quy định pháp luật đó vào thực tiễn thị
trường năng lượng Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp để sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh
khung pháp lý hiện tại của Việt Nam.
Thứ tư là tổng luận “Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam” của
Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (2015), nội dung của báo cáo chủ
yếu làm rõ các mối tương tác giữa biến đổi khí hậu và năng lượng cùng những thành
tựu của khoa học kỹ thuật trong việc tác động lên sản xuất và tiêu thụ năng lượng
nhằm giảm thiểu các tác nhân gây ra biến đổi khí hậu. Tác giả đã đưa những số liệu cụ
thể để chứng minh rõ tiềm năng và triển vọng phát triển của năng lượng tái tạo tại Việt
Nam.
Ngoài ra, còn nhiều nhà nghiên cứu khoa học khác cũng có những công trình
nghiên cứu về chủ đề năng lượng tái tạo ở nhiều góc độ khác nhau. Những công trình
đó đã giúp nhóm có những kiến thức nền tảng để đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu và phân
tích về các chính sách phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về năng lượng tái tạo và chính sách năng lượng tái tạo, mục
tiêu chính của đề tài là phân tích hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về phát triển
năng lượng tại Việt Nam cùng với các chính sách phát triển năng lượng tái tạo đã và
đang có mặt tại nước ta. Từ đó, nhóm tác giả đưa ra một số đánh giá về các chính sách
này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, tiểu luận có nhiệm vụ sau:
Một là, đưa ra cơ sở lý luận về năng lượng tái tạo (khái niệm, vai trò của năng
lượng tái tạo, và các nguồn năng lượng tái tạo chủ yếu); và các chính sách về phát
triển năng lượng tái tạo.
Hai là, phân tích, làm rõ các chính sách để phát triển năng lượng tái tạo ở Việt
Nam. Trong đó làm rõ tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam, hệ thống
cơ quan quản lý nhà nước về phát triển năng lượng và một số chính sách kinh tế về
phát triển năng lượng tái tạo.
Ba là, đánh giá các chính sách về phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam,
tìm ra những vấn đề vướng mắc, bất cập thực tế trong các chính sách; để từ đó góp
phần hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển năng lượng tái tạo ở
Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Các chính sách có liên quan đến các việc khuyến khích
hỗ trợ, phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam
Phạm vi thời gian: Nhóm tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu các chính sách
khuyến khích hỗ trợ, phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam trong khoảng thời
gian từ năm 2010 đến nay.
Phạm vi không gian: Nhóm tác giả tập trung và các vấn đề lý luận pháp luận,
thực trạng pháp luật, thực tiễn thực thi pháp luật và các giải pháp, kiến nghị để hoàn
thiện hệ thống chính sách về phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm:
Phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
so sánh, phương pháp suy diễn và quy nạp, phương pháp thống kê số liệu, ...
6. Kết cấu bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài tiểu luận
được cấu trúc hóa thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lượng tái tạo và chính sách về phát triển năng
lượng tái tạo.
Chương 2: Các chính sách về phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
Chương 3: Đánh giá các chính sách về phát triển năng lượng tái tạo tại Việt
Nam.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
VÀ CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
1.1 Tổng quan về năng lượng tái tạo
1.1.1 Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt, “năng lượng” là danh từ chỉ đại lượng vật lý đặc trưng
cho khả năng sinh công của một vật. Theo thuyết tương đối của Albert Einstein, năng
lượng được xác định là một thước đo khác của lượng vật chất được xác định theo công
thức E = mc 2❑ (khối lượng nhân với vận tốc ánh sáng bình phương). Đơn vị để đo
năng lượng trong hệ đo lường quốc tế là kg (m/s).
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về năng lượng tái tạo trong các văn bản pháp
luật khác nhau của Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các định nghĩa được đưa ra bằng
việc liệt kê các nguồn năng lượng tái tạo. Chẳng hạn theo Thông tư số 32/2014/TT-
BCT của Bộ Công thương ngày 09/10/2014 quy định về trình tự xây dựng áp dụng
Biểu giá chi phí tránh được và ban hành hợp đồng mua bán điện mẫu cho các nhà máy
thủy điện nhỏ, năng lượng tái tạo được định nghĩa như sau: “Năng lượng tái tạo là
năng lượng được sản xuất từ thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, thủy triều, địa nhiệt, sinh
khối, đốt chất thải rắn trực tiếp, khí chôn lấp rác thải, khí của nhà máy xử lý rác thải
và khí sinh học” [4, Điều 2, khoản 12]. Theo Thông tư số 40/2014/TT-BCT của Bộ
Công thương ngày 5/11/2014 quy định quy trình điều độ hệ thống điện quốc gia,
“Năng lượng tái tạo bao gồm năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy
triều, năng lượng địa nhiệt, năng lượng sinh khối, năng lượng khí sinh học” [5, Điều
79, khoản 2]. Theo Luật số 50/2010/QH12 của Quốc hội ngày 17 tháng 6 năm 2010
quy định về Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: “Tài nguyên năng lượng
tái tạo gồm sức nước, sức gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học và các
tài nguyên năng lượng khác có khả năng tái tạo” [Điều 3, khoản 3]. Các định nghĩa
trên mang tính nguồn gốc vì việc xác định xét theo nguồn của năng lượng (gió, mặt
trời,...), điều này khó điều chỉnh khi phát sinh nguồn năng lượng mới trong tương lai.
Do chưa thống nhất giữa các văn bản khác nhau, việc xây dựng văn bản pháp luật của
Nhà nước cần được hệ thống lại và thống nhất trong áp dụng để đảm bảo pháp luật đi
vào thực tế hiệu quả.
1.1.2. Các nguồn năng lượng tái tạo chủ yếu
Đứng trước thực tế nhu cầu sử dụng năng lượng ngày càng cao nhưng những
nguồn năng lượng hóa thạch như dầu, khí đốt, than,… đang ngày càng trở nên khan
hiếm cũng như gây ra những tác hại khôn lường cho môi trường, chúng ta cần tìm ra
những dạng năng lượng mới để thay thế cho chúng. Trong những năm gần đây, năng
lượng tái tạo đã và đang phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng được lan rộng ở tất cả
các loại quy mô. Phần lớn những năng lượng tái tạo đều có nguồn gốc từ các thành
phần từ thiên nhiên, có thể tái tạo và thân thiện với môi trường hơn so với những năng
lượng truyền thống.
1.1.2.1. Năng lượng mặt trời
Năng lượng mặt trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát từ mặt
trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt nguyên tử khác phóng ra từ nó.
Đây là nguồn năng lượng đầu tiên trên thế giới, được con người tận dụng trước cả khi
học cách tạo ra lửa. Các nhà khoa học nhận định, đây là năng lượng sạch, có thể tái
tạo được với trữ lượng dồi dào, thân thiện với môi trường và giá thành rất thấp. Chính
nhờ những ưu điểm đó, năng lượng mặt trời là giải pháp hoàn hảo khi giúp các địa
phương tiết kiệm được chi phí và sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng từ nước ngoài.
Năng lượng mặt trời đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và tồn tại của
mọi sinh vật trên trái đất. Những năm gần đây, các quốc gia trên thế giới đang cùng
nhau khai thác và ứng dụng nguồn năng lượng này vào sản xuất cũng như đời sống
thường ngày. Hoạt động dựa trên hiệu ứng quang điện, hệ thống điện năng lượng mặt
trời đã giúp chuyển hóa năng lượng từ các hạt photon thành điện năng, tạo ra một
nguồn điện sạch và an toàn cho người sử dụng.
1.1.2.2. Năng lượng gió
Năng lượng gió hiện nay được xem là một trong những nguồn năng lượng phát
triển nhanh nhất thế giới cùng tiềm năng khai thác dồi dào. Gió được hình thành dựa
trên sự chuyển động của không khí dựa trên sự chênh lệch áp suất của khí quyển. Đã
từ lâu, gió đóng vai trò là nguồn cung cấp năng lượng cần thiết cho con người. Từ
hàng nghìn năm trước, chúng ta đã biết tận dụng năng lượng gió để căng buồm ra khơi
hoặc xây các cối xay gió phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đến tận bây giờ, con người
vẫn nỗ lực khai thác dạng năng lượng thiên nhiên này, gần đây nhất là tận dụng sức
gió để làm quay các tuabin phát điện.
1.1.2.3. Năng lượng thủy điện
Năng lượng thủy điện, hay còn có tên gọi khác là thủy điện hoặc thủy năng, là
dạng năng lượng được sinh ra trong quá trình khai thác sức nước trong chuyển động.
Nhờ có thế năng, nước được tích tụ lại ở các đập lớn làm quay tuabin nước và máy
phát điện, tạo ra một lượng lớn năng lượng thủy điện. Ngoài ra, con người cũng có thể
khai thác thủy điện qua việc sử dụng năng lượng động lượng của nước hay các nguồn
nước không bị tích tụ bằng cách xây dựng các đập chứa nước.
Từ thời cổ đại, con người đã biết tận dụng sức nước để phục vụ cho đời sống,
như người dân ở Hy Lạp đã sử dụng dòng nước chảy để làm quay bánh xe của nhà
máy xay xát lúa mì từ hai nghìn năm trước; đầu thế kỷ XX, tại cao nguyên Scotland
đã tạo ra những nhà máy thủy điện để cung cấp riêng nguồn điện cho sản xuất,... Tiếp
nối những phát minh đó, con người ngày nay đã ứng dụng trình độ khoa học tiên tiến
hơn để ứng dụng nguồn năng lượng nước hiệu quả hơn. Trong thế kỷ 21 này, thủy
điện được xem là dạng năng lượng tái tạo được sử dụng rộng rãi nhất khi chiếm tới
20% tổng lượng điện trên toàn thế giới.
Lợi ích lớn nhất của sử dụng thủy điện là hạn chế được giá thành khi xây dựng
những nhà máy phát điện. Các nhà máy thủy điện sẽ bớt được gánh nặng khi giá thành
của các nhiên liệu tăng cao, bởi lẽ nguồn năng lượng từ sức nước gần như là vô tận, ít
chi phí bảo trì và không gây chất thải làm ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, tuổi thọ của
những nhà máy thủy điện cũng dài hơn những nhà máy nhiệt điện, một số nhà máy
thủy điện đã được xây dựng được gần một thế kỷ nhưng vẫn hoạt động hiệu quả mà
không cần tu sửa.
1.1.2.4. Năng lượng sinh khối
Sinh khối bao gồm tất cả những vật liệu sinh học có nguồn gốc từ sự sống hoặc
sinh vật sống trên trái đất. Phần lớn sinh khối được chiết xuất từ thực vật, ngoài ra nó
còn xuất hiện trong bã thải công nghiệp, giấy vụn, khí thiên nhiên từ bãi chôn lấp rác,
phân trong chăn nuôi,...
Năng lượng sinh khối được sử dụng từ rất lâu, ở cả ba dạng rắn, lỏng và khí
nhằm phục vụ từng mục đích của con người. Trong sản xuất, người ta thường đốt sinh
khối để tạo nhiên liệu cho các lò hơi, giúp các doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng kinh
tế và cũng góp phần hạn chế chất thải thải ra môi trường. Trong đời sống, sinh khối
được chuyển thành dạng lỏng cung cấp năng lượng cho các động cơ đốt.
1.1.2.5. Năng lượng địa nhiệt
Đây là dạng năng lượng được khai thác từ nhiệt trong tâm trái đất, được cho là
một trong những nguồn năng lượng tái tạo sạch và bền vững nhất. Nguồn năng lượng
này được bắt đầu khai thác từ thế kỷ XX và đến nay, con người vẫn không ngừng
nghiên cứu để khai thác và tận dụng triệt để địa nhiệt.
Ưu điểm của địa nhiệt là có thể khai thác ở hầu hết mọi khu vực trên thế giới,
ngay cả những nơi lạnh giá nhất tới những hoang mạc nóng quanh năm. Nguồn địa
nhiệt trong những năm tới được dự báo là sẽ tăng mạnh do những kỹ thuật tìm kiếm
và dụng cụ khai thác ngày càng phát triển.
Thực tế, tần suất hoạt động của nhà máy địa điện rất lớn, liên tục suốt
ngày đêm và không phụ thuộc vào các yếu tố về thời tiết. Việc xây dựng những nhà
máy này thường không tốn nhiều diện tích, và chi phí cũng thấp hơn so với việc đốt
nhiên liệu hóa thạch thông thường. Tuy Việt Nam được nhận định là một trong những
nước có tiềm năng địa điện trung bình so với thế giới, nước ta vẫn chưa có nhiều công
trình để khai thác nguồn năng lượng này.
1.1.2.6. Năng lượng thủy triều
Năng lượng thủy triều được sinh ra bởi sự lên xuống của thủy triều. Nguyên lý
hoạt động của loại năng lượng này dựa vào hiệu ứng thuỷ năng, cụ thể là sự thay đổi
chiều cao của cột nước làm quay tuabin và tạo ra điện. Tuy loại năng lượng này được
đánh giá là có tiềm năng rất lớn trong tương lai, song, trong giai đoạn hiện nay thì nó
vẫn đang được nghiên cứu và phát triển thêm. Hạn chế của mô hình này đó là sự cần
một diện tích tự nhiên lớn và lượng đầu tư khá cao cho mỗi thiết bị sử dụng, ngoài ra
thì rất nhiều quốc gia không đáp ứng đủ tất cả những điều kiện về địa lý cho mô hình
này.
1.1.2.7. Năng lượng sinh học
Năng lượng sinh học được sinh ra thông rất nhiều quá trình sinh học hiện đại.
Nguồn gốc của chúng được lấy từ động vật, các loại lúa mì hoặc các loại chất thải
trong nông nghiệp và công nghiệp.
Sử dụng năng lượng từ nhiên liệu sinh học sẽ giúp giải quyết chi phí vận
chuyển và lưu kho hơn so với các dạng năng lượng truyền thống, ngoài ra cũng giảm
bớt sự phụ thuộc của con người vào các nguyên liệu hoá thạch. Tuy nhiên, trong quá
trình sản xuất năng lượng sinh học, nhiều quốc gia đã đốt mía làm thải ra một lượng
lớn khí thải metan và oxit nito.

1.1.2.8. Các loại năng lượng tái tạo khác


Bên cạnh những nguồn năng lượng tái tạo đã được đề cập và hầu hết các nguồn
năng lượng này đều đã được thay thế cho nguồn năng lượng từ nguyên - nhiên - vật
liệu hóa thạch, giúp cải thiện chất lượng môi trường, còn có những nguồn năng lượng
khác sau đây:
* Năng lượng sóng biển
Sóng biển chứa đựng một nguồn năng lượng rất lớn. Gió thổi trên mặt biển tạo
ra những con sóng lớn, không ngừng nghỉ. Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, trình độ công nghệ cũng được nâng cao, nhiều quốc gia đã thành công trong
việc sử dụng năng lượng sóng biển để tạo ra cơ năng làm quay tuabin máy phát điện
và chuyển hóa thành điện năng. Phát điện bằng năng lượng sóng biển không tốn năng
lượng khởi động và không đòi hỏi chi phí bảo trì; chính vì vậy, nguồn năng lượng này
được kỳ vọng sẽ giúp giải quyết nguy cơ thiếu năng lượng của toàn thế giới. Tuy
nhiên, trên thực tế, không phải bất kỳ quốc gia nào cũng thích hợp để áp dụng công
nghệ và xây dựng mô hình năng lượng này. Việc sử dụng công nghệ nguồn năng
lượng sóng biển gây ảnh hưởng đến môi trường do tiếng ồn cửa những tuabin máy
phát điện gây ra.
* Pin nhiên liệu
Pin nhiên liệu là một thiết bị điện hóa với quá trình biến đổi hóa năng thành
điện năng nhờ quá trình oxy hóa nhiên liệu. Các pin nhiên liệu được phân loại theo
chất điện phân, điện cực và các chất xúc tác trong pin nhưng nguồn nguyên liệu chính
là H2 và O2 trong không khí. Pin nhiên liệu được kỳ vọng sẽ nắm giữ vai trò chủ đạo
trong viễn cảnh nguồn năng lượng của thế giới trong tương lai với những đặc điểm nổi
trội có thể kể đến như hiệu suất cao, mức ổn định lớn, độ phát xạ thấp, không gây
tiếng ồn, không gây ô nhiễm môi trường.
* Năng lượng từ dòng hải lưu
Các dòng chảy trên biển chảy theo một hướng tương đối ổn định và có lưu
lượng lớn, ẩn chứa nguồn năng lượng. Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều quốc gia áp
dụng nguồn năng lượng này và sản xuất điện thành công. Ở Việt Nam, dự án nhà máy
phát điện hải lưu một chiều đã được phê duyệt và triển khai ở khu vực phía Bắc vịnh
Vân Phong (thuộc tỉnh Khánh Hòa). Đây là một tín hiệu tốt để có thể tìm được một
nguồn năng lượng sạch, nguồn năng lượng mới, từ đó phát huy tiềm năng lợi thế biển
ở Việt Nam.
* Năng lượng khí Hydro
Nguyên tố Hydro có mặt ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, điển hình ở dạng
nước. Khí Hydro có khả năng chuyển hóa thành nhiệt năng mà không gây ra hiệu ứng
nhà kính, có thể cung cấp năng lượng cho vận chuyển dưới dạng các xe chạy điện
dùng khí Hydro cũng như sưởi ấm nhà ở và phát điện. Hiện nay, nhiều quốc gia đã
thành công trong việc khuyến khích, ứng dụng nguồn năng lượng này vào tiến trình
phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, việc áp dụng nguồn năng lượng khí Hydro đòi
hỏi chi phí đầu tư lớn đang là bài toán đặt ra chưa có lời giải nên việc ứng dụng dạng
năng lượng Hydro còn chưa được phổ biến ở nhiều quốc gia.

1.1.3. Vai trò của năng lượng tái tạo


1.1.3.1. Thay thế năng lượng hóa thạch và năng lượng nguyên tử
Sự phát triển của nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo góp phần quan
trọng trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Mục tiêu cấp thiết của Việt Nam là
đảm bảo nguồn năng lượng cung cấp bằng cách giảm thiểu các rủi ro như xảy ra xung
đột các nguồn năng lượng hay sự biến động lớn về giá cả. Do vậy, cần phải có một
cách tiếp cận mới và sáng tạo đối với vấn đề an ninh năng lượng bằng cách đa dạng
hóa các nguồn năng lượng, trong đó có phát triển nguồn năng lượng sạch và năng
lượng tái tạo với mục tiêu tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên quốc gia, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế đất nước.
1.1.3.2. Bảo vệ môi trường
Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, biểu hiện rõ nhất có thể
kể đến như sự nóng lên của trái đất, băng tan, nước biển dâng cao… Các hiện tượng
thời tiết bất thường kéo dài dẫn đến thiếu hụt nguồn lương thực, thực phẩm và xuất
hiện hàng loạt dịch bệnh trên cả người và động vật. Việt Nam chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ hiện tượng nước biển dâng, bão, lũ do vị trí địa lý ở ven biển. Sự gia tăng khí
CO2 trong khí quyển do khai thác và sử dụng nhiên liệu hóa thạch là nguyên nhân
chính gây ra sự biến đổi khí hậu. Không chỉ có vậy, sản xuất điện từ năng lượng hóa
thạch gây ra tác hại rất lớn tới sức khỏe cộng đồng. Sự ô nhiễm không khí và nước do
các nhà máy nhiệt điện than và nhiệt điện khí có liên quan đến với các vấn đề về sức
khỏe con người như bệnh về đường hô hấp, thần kinh, tim mạch và gây ung thư…
Trong khi đó, phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo lại tạo ra rất ít khí nhà
kính so với các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Vì vậy, để giảm thiểu các nguy cơ tiêu
cực mà biến đổi khí hậu đem lại đồng thời đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững,
cơ cấu năng lượng Việt Nam cần chuyển dịch từ dạng không bền vững sang dạng
năng lượng thân thiện với môi trường.
1.1.3.3. Đáp ứng các mục tiêu kinh tế
Phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo góp phần tăng trưởng
kinh tế bền vững thông qua các mục tiêu trọng điểm sau:
* Tạo ra nhiều cơ hội việc làm
So với ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch đã được cơ khí hóa và cần
nhiều vốn, phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo lại ưu tiên sử dụng nhiều
nhân lực hơn. Các dự án năng lượng tái tạo sẽ sử dụng nhiều lao động, bao gồm cả lao
động phổ thông và lao động có trình độ cao, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao
trình độ cho người lao động Việt Nam.
* Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn
Phần lớn các nhà máy thủy điện, các công trình năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo đều đặt ở những vùng sâu, vùng xa. Hệ thống đường giao thông phục vụ cho
quá trình thi công xây dựng và vận hành nhà máy đã trở thành hệ thống giao thông
nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
* Phát triển kinh tế đa mục tiêu
Việc khai thác và sử dụng năng lượng tái tạo góp phần bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Ngoài mục đích phát điện, các dự
án thủy điện còn góp phần giảm thiểu lũ trong mùa mưa, cấp nước trong mùa khô,
phát triển chăn nuôi thủy sản, tạo ra cảnh quan môi trường có khả năng phát triển du
lịch, cung cấp đủ nhu cầu năng lượng điện đáp ứng các mục tiêu kinh tế.
Bên cạnh đó, nguồn năng lượng tái tạo còn góp phần bảo vệ môi trường bền
vững. Nguồn năng lượng này không thải ra các chất ô nhiễm gây thiệt hại cho môi
trường, không gây tổn hại đến các hệ sinh thái. Để thực hiện các mục tiêu giảm thiểu
biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí CO2 từ hoạt động năng lượng thì việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật khuyến khích đầu tư phát triển năng lượng sạch, năng lượng
tái tạo cho phát triển điện năng được xem là một công cụ, giải pháp quan trọng của
Việt Nam.
Đặc biệt hơn hết, nguồn năng lượng tái tạo hỗ trợ cung cấp năng lượng cho khu
vực nông thôn, miền núi và hải đảo; vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Phát
triển, cung cấp điện và năng lượng cho người dân ở nông thôn, các vùng khó khăn có
tầm ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội quan trọng như tạo việc làm, xóa đói nghèo, bảo
đảm công bằng xã hội, phát triển kinh tế và đô thị hóa.
Với những vai trò như vậy, ngành năng lượng tái tạo được kỳ vọng sẽ góp phần
giải quyết các vấn đề cấp thiết, là giải pháp và xu hướng tất yếu của ngành năng lượng
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Theo báo cáo của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) năm 2018 tại diễn
đàn năng lượng Việt Nam, về chính sách phát triển NLTT, mặc dù NLTT mang lại
nhiều lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường, tuy nhiên, dạng năng lượng này chưa được
phát triển nhanh, rộng tại Việt Nam. Điều này ta có thể thấy được qua các rào cản như
sau:

1.1.4. Một số rào cản trong việc phát triển năng lượng tái tạo
1.1.4.1. Tính không ổn định của năng lượng tái tạo
Do chịu tác động từ tự nhiên nên năng lượng tái tạo có tính ổn định thấp hơn so
với các nguồn năng lượng truyền thống. Điển hình tại Việt Nam, những nguồn năng
lượng được đem vào khai thác và sử dụng như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió,
năng lượng thủy triều...
Với nguồn năng lượng mặt trời, chỉ có thể khai vào ban ngày vào những ngày
có mặt trời, còn ban đêm hay những ngày trời âm u, mưa thì hệ thống sẽ không hoạt
động.
Hay với năng lượng gió, các tua-bin gió chỉ có thể sinh điện vào những thời
điểm có tốc độ gió thổi trong khoảng 4-25 m/s. Tốc độ gió phải tối thiểu 4 m/s thì các
tua-bin gió mới bắt đầu chạy đều và phát điện, nhưng nếu vượt quá 25 m/s thì các tua-
bin sẽ ngừng hoạt động để tránh hỏng hóc trong điều kiện gió mạnh. Chính vì tính
chưa ổn định, NLTT vẫn chưa đem lại tính ổn định như các loại năng lượng đang sử
dụng hiện tại.
1.1.4.2 Rào cản về công nghệ kỹ thuật và nguồn nhân lực có chuyên môn
Về rào cản kỹ thuật, VEA cho rằng đánh giá tài nguyên NLTT, đặc biệt là các
số liệu về NLTT của Việt Nam chưa được xây dựng hoàn thiện, tin cậy làm cơ sở cho
phát triển dự án.
Ví dụ như để các dự án điện sử dụng NLTT ở khu vực nông thôn hiệu quả, theo
VEA, lưới điện ở khu vực nông thôn cần phải nâng cấp trước khi kết nối với các
nguồn điện sử dụng NLTT. Nếu không có thỏa thuận liên quan đến trách nhiệm của
mỗi bên trong việc trả tiền cho việc nâng cấp cần thiết, điểm yếu này trong lưới điện
sẽ là một rào cản đáng kể để NLTT phát triển ở các khu vực nông thôn.
Ông Trần Viết Ngãi – Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam – cho biết, một
trong những khó khăn lớn nhất với NLTT ở Việt Nam là vấn đề lưu điện để bảo đảm
ổn định tần số điện. Do đó, rất cần công nghệ lưu điện bằng pin lithium nhưng hiện
nay, chúng ta không đủ khả năng để sản xuất. Hầu như công nghệ trong nước chưa
đáp ứng được yêu cầu về máy móc, thiết bị cho các ngành năng lượng mới, các nhà
đầu tư phải nhập khẩu công nghệ và thiết bị từ nước ngoài…
Ngoài ra, việc thiếu các dịch vụ cung cấp thiết bị thay thế, sửa chữa, vận hành
và bảo dưỡng (O&M) hệ thống cũng là một trong nguyên nhân làm gia tăng chi phí
đầu tư của dự án NLTT - rào cản về công nghệ kỹ thuật
Bên cạnh đó, VEA cho rằng, chúng ta đang vướng vào rào cản về nguồn nhân
lực kỹ thuật. Điều này thể hiện ở việc hiện tại, trong các trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề chưa có ngành học chuyên sâu về lĩnh vực năng lượng tái tạo. Giảng viên
cho lĩnh vực này còn thiếu, chương trình học còn hạn chế,… tạo nên một lỗ hổng lớn
về nhân sự cho lĩnh vực công nghệ xanh mới mẻ này. Đây là một cản trở cho sự phát
triển lĩnh vực năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
1.1.4.2 Rào cản thể chế và pháp lý
Về rào cản thể chế đối với NLTT tại Việt Nam:
Thứ nhất, theo VEA, thị trường hóa các chi phí phát sinh: NLTT sẽ không thể
cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng với nguồn điện thông thường cho đến khi có
các chính sách mới được áp dụng để đưa vào các chi phí của các nguồn nhiên liệu hóa
thạch theo cơ chế thị trường.
Thứ hai, các đơn vị điện lực địa phương chưa quen với NLTT, cách thức để các
nguồn NLTT có thể phù hợp với hệ thống điện của đơn vị mình.
Thứ ba, phát triển năng lượng còn gặp rào cản trong cơ chế giá khuyến khích
mua điện chưa cao; khó khăn và chi phí cho việc đấu nối vào hệ thống điện quốc gia;
thiếu kinh nghiệm phát triển và thiếu kỹ sư, nhân công lành nghề cho các dự án; dành
đất cho phát triển dự án NLTT…
Về mặt rào cản pháp lý, NLTT còn vấp phải những vấn đề như sau:
Thứ nhất, hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đáp ứng các yêu cầu
thực tế trong quá trình thiết kế, đầu tư xây dựng và quản lý khai thác vận hành các
công trình NLTT, điển hình là các công trình điện gió, điện mặt trời còn thiếu.
Thứ hai, tiêu chuẩn đấu nối. Hiện chúng ta còn thiếu các tiêu chuẩn kết nối
thống nhất cho nguồn điện NLTT. Trách nhiệm của các đơn vị điện lực và chủ đầu tư
nguồn điện tái tạo đối với các công trình đấu nối với hệ thống điện chưa được xác
định rõ ràng. Kết quả là các chi phí của các công trình kết nối vào lưới điện có thể trở
thành rào cản đáng kể đối với các dự án nhỏ.
Thứ ba, các yêu cầu cấp phép. Yêu cầu cấp phép hoạt động điện lực nghiêm
ngặt cũng có thể đặt ra một rào cản.
Thứ tư, bất lợi do cạnh tranh không lành mạnh. Điện sản xuất từ NLTT thường
phải đối mặt với sự bất lợi cạnh tranh không lành mạnh do các chính sách hiện nay
không quy định phải trả các chi phí môi trường và xã hội đối với công nghệ cung cấp
điện từ nguồn nhiên liệu hóa thạch.
1.1.4.3 Rào cản kinh tế tài chính
Theo báo cáo của VEA, hiện tại gần như chưa có nhiều dự án NLTT được triển
khai, các nhà đầu tư phát triển dự án NLTT chưa thật hiểu rõ về lợi ích và các rủi ro
liên quan.
Khoản đầu tư vào các dự án NLTT quá lớn: hầu hết các thiết bị làm dự án ở
Việt Nam không sản xuất được mà phải nhập khẩu. Điều này đã đội giá thành chi phí
đầu tư tăng cao. Chẳng hạn, nhập khẩu tuabin gió của Mỹ, châu Âu thì tiền vận
chuyển cũng chiếm 10-15% giá trị công trình. Bên cạnh đó, do cơ sở hạ tầng của nước
ta chưa tốt, một số dự án nhà đầu tư phải tự bỏ tiền ra làm đường vận chuyển thiết bị,
dẫn đến đội giá thành đầu tư. Các khoản chi phí giao dịch cao. Các dự án có quy mô
vừa và nhỏ trong khi đó lại có chi phí giao dịch cao trong nhiều giai đoạn của quá
trình phát triển.
Bên cạnh đó rất khó huy động vốn tại các địa phương. Các nhà đầu tư tại các
địa phương bị hạn chế về nguồn lực, phải nói rằng với Việt Nam, NLTT là lĩnh vực
đầu tư mới, chưa quen thuộc với nhiều nhà đầu tư tại địa phương, có khả năng rủi ro
trong việc bảo đảm thu được lợi nhuận chắc chắn. Về phía các bản lãnh đạo tỉnh, Ông
Đỗ Minh Kính - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bình Thuận cho biết: "Bình Thuận
hiện có 95 dự án điện mặt trời,... nhưng, quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc
chưa được khai thông…, các nhà đầu tư chưa đáp ứng về năng lực quản lý, năng lực
tài chính; việc đền bù giải tỏa gặp nhiều khó khăn…".
Mặt khác, việc thu xếp nguồn vốn, các nhà đầu tư dự án NLTT thường làm
việc với các ngân hàng và các tổ chức tài chính để vay vốn, nhưng đầu tư vào NLTT
có nhiều rủi ro do các dự án NLTT có nhu cầu về vốn lớn nhưng công suất và sản
lượng lại phụ thuộc thời tiết, khí hậu, đồng thời khả năng thu hồi vốn lâu do suất đầu
tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống. Vì vậy, các tổ chức tài chính,
ngân hàng thương mại thường chưa thật sự quan tâm và sẵn sàng cho vay các dự án
đầu tư vào lĩnh vực NLTT.
Về cơ chế giá FIT (Feed-in Tariff, là biểu giá điện hỗ trợ, được đưa ra nhằm
khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo), theo Ông Nguyễn Văn Vy –
Phó chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho biết: “Giá FIT cho các dự án năng
lượng tái tạo được áp dụng chung, không phân biệt quy mô sẽ dẫn đến bất cập, các dự
án có quy mô lớn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn dự án nhỏ”. Việc áp dụng thống nhất
giá FIT cho các dự án năng lượng tái tạo trên cả nước cũng làm hạn chế nguồn lực
phát triển.
Như vậy, mặc dù tiềm năng là rất lớn song gặp phải các rào cản trên, NLTT
vẫn chưa thực sự phát triển tại VN. Các nhà đầu tư lo ngại về tính không ổn định của
NLTT, cùng với đó các rào cản về pháp lý cũng như về công nghệ là rất lớn. Do vậy,
sự can thiệp và hỗ trợ của Chính phủ là vô cùng quan trọng để thúc đẩy ngành NLTT
có thể phát huy được hết tiềm năng của mình và đem lại những lợi ích như mong đợi.

1.2 Chính sách về phát triển năng lượng tái tạo


1.2.1 Khái niệm chính sách
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách
được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản
chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”. Nhìn chung, có thể nói chính sách là sản
phẩm của quá trình ra quyết định lựa chọn các vấn đề, mục tiêu và giải pháp để giải
quyết các vấn đề đó.
1.2.2 Khái niệm chính sách phát triển năng lượng tái tạo
Chính sách phát triển năng lượng tái tạo là thuật ngữ được sử dụng để mô tả
các hành động của Chính phủ nhằm mục đích thúc đẩy, khuyến khích sử dụng và đầu
tư vào các nguồn năng lượng tái tạo, giúp cho ngành này có thể phát triển thuận lợi và
dễ dàng hơn nhằm giảm bớt sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nguồn nguyên liệu hóa
thạch để đạt mục tiêu về một nền kinh tế phát triển xanh, sạch và bền vững.

1.2.3 Một số cơ chế được dùng trong phát triển năng lượng tái tạo
1.2.3.1 Cơ chế hạn ngạch (định mức chỉ tiêu)
Nội dung: Chính phủ quy định bắt buộc các đơn vị sản xuất (hoặc tiêu thụ) phải
đảm bảo một phần lượng điện sản xuất/tiêu thụ từ nguồn NLTT, nếu không sẽ phải
chịu phạt theo định mức đặt ra theo tỷ lệ.
Ưu điểm:
- Sẽ tạo ra một thị trường cạnh tranh giữa các công nghệ NLTT, nhờ đó làm
giảm giá thành sản xuất NLTT.
- Giúp Chính phủ chỉ quy định hạn ngạch nhằm đạt mục tiêu định ra cho
NLTT, còn giá thành sẽ do thị trường cạnh tranh tự quyết định. Ngoài ra, giá phạt
được tính toán và đưa ra như giới hạn trần cho tổng chi phí ảnh hưởng tới người tiêu
dùng.
Nhược điểm:
- Đơn vị sản xuất sẽ phải chịu những rủi ro và chi phí lớn ngoài khả năng kiểm
soát.
- Cơ chế này sẽ ưu tiên phát triển các công nghệ chi phí thấp nhất, do đó sẽ
không thúc đẩy phát triển các dạng công nghệ kém cạnh tranh hơn.
Ví dụ: Tiêu chuẩn tỉ lệ năng lượng tái tạo. Cơ chế này đã được đề cập đến trong
Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến
năm 2050 với lộ trình cho các đơn vị phát điện như sau: Các đơn vị phát điện có công
suất lắp đặt lớn hơn 1 GW (trừ BOT) có tỉ lệ điện sản xuất từ năng lượng tái tạo (trừ
thủy điện công suất > 30 MW) tối thiểu là 3% từ 2020, 10% từ 2030 và 20% từ 2050.
1.2.3.2 Cơ chế giá cố định
Nội dung: Chính phủ định mức giá cho mỗi kWh sản xuất ra từ NLTT, định
mức giá có thể khác nhau cho từng công nghệ NLTT khác nhau. Thông thường là
định mức giá này cao hơn giá điện sản xuất từ các dạng NL hoá thạch, do đó sẽ
khuyến khích và đảm bảo lợi ích kinh tế cho NLTT. Chính phủ tài trợ cho cơ chế giá
cố định từ nguồn vốn nhà nước hoặc buộc các đơn vị sản xuất, truyền tải phải mua hết
điện từ nguồn NLTT.
Ưu điểm:
- Cơ chế này giảm thiểu những rủi ro cho các nhà đầu tư vào NLTT.
- Với giá cố định đặt ra khác nhau cho các dạng NLTT, Chính phủ có thể
khuyến khích đầu tư vào các công nghệ NLTT cần phát triển với các mục tiêu khác
nhau.
- Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tăng sản xuất năng lượng tái tạo sẽ
giúp các quốc gia giảm bớt sự phụ thuộc vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch.
Nhược điểm:
- Với giá cố định cho một thời gian dài sẽ khó kiểm soát được lợi nhuận của
các nhà đầu tư. Giảm dần giá cố định có thể được áp dụng, tuy nhiên cần phải được
công bố rõ ràng để giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư.
- Chính phủ không thể biết trước sẽ có bao nhiêu dự án NLTT được đầu tư, do
đó không biết trước được tổng chi phí cho cơ chế này trong ngắn hạn cũng như dài
hạn.
- Tăng chi phí cho việc điều độ và nảy sinh các vấn đề kỹ thuật cho hệ thống
điện do các nhà quản lý lưới buộc phải tiếp nhận nguồn điện NLTT.
Ví dụ:
Cơ chế khuyến khích phát triển điện gió (Quyết định 37, 39), điện sinh khối
(Quyết định 24, 08), điện từ chất thải rắn (Quyết định 31) và điện mặt trời (Quyết định
11, 13). Các cơ chế này có bao gồm: Áp dụng giá mua ưu đãi cố định trong 20 năm
với các mức giá khác nhau đối với từng loại hình năng lượng tái tạo; Giá bán điện
được tham chiếu theo đồng USD, thanh toán bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá tại thời
điểm thanh toán.
Cơ chế giá FIT ( cơ chế giá bán điện cố định): đây là các mức giá áp dụng cho
điện sản xuất tư các nguồn năng lượng tái tạo để bán lên lưới điện hoặc sử dụng tại
chỗ. Thuật ngữ này sử dụng cho điện năng lượng tái tạo nói chung, không chỉ dành
cho điện năng lượng mặt trời.
1.2.3.3 Cơ chế đấu thầu
Cơ chế đấu thầu là tên gọi tắt của cơ chế phát triển dự án điện mặt trời nổi, dự
án điện mặt trời mặt đất, dự án điện mặt trời mái nhà, dự án điện gió trên bờ.
Nội dung: Chính phủ sẽ đề ra các tiêu chí đấu thầu cạnh tranh, có thể riêng cho
từng loại công nghệ NLTT. Danh sách các dự án NLTT sẽ được lựa chọn từ thấp đến
cao cho đến khi thỏa mãn mục tiêu phát triển đặt ra cho từng loại NLTT và được công
bố. Sau đó Chính phủ, hoặc cơ quan quản lý được uỷ quyền sẽ buộc các đơn vị sản
xuất điện bao tiêu sản lượng từ các dự án trúng thầu (có hỗ trợ bù giá).
Ưu điểm:
- Sự cạnh tranh làm giảm chi phí bù giá tối thiểu. Chính phủ hoàn toàn có thể
kiểm soát số lượng dự án được lựa chọn, có nghĩa là kiểm soát được chi phí bù lỗ.
- Việc cố định giá cho các dự án trúng thầu cũng là một đảm bảo cho nhà đầu
tư lâu dài.
- Sẽ mang lại cho việc phát triển thị trường điện năng lượng tái tạo tại Việt
Nam, bao gồm duy trì một quy trình cạnh tranh cho việc đầu tư NLTT với chi phí tối
ưu, kết hợp các mục tiêu NLTT của quốc gia và triển khai thực hiện đồng bộ với kế
hoạch mở rộng lưới điện, xây dựng một bộ tiêu chí xếp hạng bao gồm tiềm năng kỹ
thuật, khả năng phát điện tái tạo và khả năng sử dụng đất với các chỉ số liên quan
được phân tích theo các mục tiêu kinh tế; có khả năng điều chỉnh công suất linh hoạt
sau mỗi đợt đấu giá.
- Những lợi ích về ngân sách trung và dài hạn; đóng góp vào phát triển kinh tế
địa phương; phát triển cơ sở hạ tầng và cộng đồng; sử dụng hợp lý, hiệu quả đất và tài
nguyên cũng như là đóng góp vào mục tiêu chung về giảm phát thải khí nhà kính của
quốc gia
Nhược điểm:
Khi trúng thầu, nhà đầu tư có thể sẽ trì hoãn việc triển khai dự án do nhiều lý
do: chờ đợi thời cơ để giảm giá thành đầu tư, chấp nhận đấu thầu lỗ chỉ nhằm mục
đích găm dự án không cho đơn vị khác cạnh tranh và sẽ không triển khai các dự án
lỗ…Chính phủ có thể đưa ra các chế tài xử phạt để hạn chế các nhược điểm này.
Ví dụ:
Dự thảo Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ quy định về phát triển các dự án
điện năng lượng tái tạo tại Việt Nam lần thứ sáu (Dự thảo Quyết định 6) của Bộ Công
Thương. Mục tiêu của Quyết định thể hiện trong quá trình soạn thảo là tìm ra nhà đầu
tư phù hợp nhất để phát triển dự án năng lượng tái tạo thông qua cơ chế đấu thầu.
1.2.3.4 Cơ chế cấp chứng chỉ
Nội dung:
Với cơ chế này có thể là chứng chỉ sản xuất, hoặc chứng chỉ đầu tư, hoạt động
theo nguyên tắc cho phép các đơn vị đầu tư vào NLTT được miễn thuế sản xuất cho
mỗi kWh, hoặc khấu trừ vào các dự án đầu tư khác.
Ưu điểm:
Đảm bảo sự ổn định cao, đặc biệt khi cơ chế này được dùng kết hợp với các cơ
chế khác để tăng hiệu quả.
Nhược điểm:
- Tuy nhiên, sự ổn định cao đó này phải được ghi rõ trên văn bản về thời hạn
cấp chứng chỉ.
- Hạn chế nữa là cơ chế này thiên về ủng hộ các đơn vị lớn, có tiềm năng và
nhiều dự án đầu tư để dễ dàng khấu trừ thuế vào đó.
Ví dụ:
Chứng chỉ năng lượng tái tạo (RECs) là công cụ giao dịch được sử dụng để đáp
ứng các mục tiêu tiêu thụ năng lượng tái tạo tự nguyện hay tuân thủ các yêu cầu chính
sách năng lượng tái tạo.
Một đơn vị REC được tạo ra khi một nguồn năng lượng tái tạo tạo ra một
megawatt giờ (MWh) điện và phát lượng điện này lên lưới điện. RECs lại không giới
hạn về địa lý, rằng buộc truyền tải.

REC là một công cụ linh hoạt để đạt mục tiêu năng lượng sạch và hỗ trợ thị
trường năng lượng tái tạo.

Hiện tại, Việt Nam chưa có cơ chế hỗ trợ phát triển NLTT một cách tổng thể,
ngoài cơ chế hỗ trợ giá riêng cho cho điện gió được thông qua năm 2011. Trong một
số dự án nghiên cứu do Viện Năng Lượng tiến hành trong thời gian qua, một số cơ
chế khác như cơ chế đấu thầu hoặc cơ chế hạn ngạch cũng đã cho thấy có khả năng
thích hợp, cùng với việc đề xuất một số thể chế nhằm thúc đẩy sự phát triển NLTT.
Ngoài ra, để hỗ trợ các dự án NLTT nhỏ và độc lập (không nối lưới), các nghiên cứu
trên cũng cho thấy một “cơ chế cấp tín dụng trực tiếp cho người tiêu dùng” là thích
hợp trong điều kiện của Việt Nam.Tuy nhiên, việc áp dụng bất cứ cơ chế nào cũng
nên áp dụng bổ sung các chế tài hoặc các cơ chế hỗ trợ khác để phát huy hiệu quả tối
đa sự hỗ trợ phát triển NLTT.
CHƯƠNG 2: CÁC CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG
TÁI TẠO TẠI VIỆT NAM
2.1 Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam
Theo các nghiên cứu của Chính phủ Việt Nam và các tổ chức quốc tế và trong
nước, Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng
tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời, gió, sinh khối.
2.1.1 Tiềm năng phát triển năng lượng mặt trời tại Việt Nam
Đối với năng lượng mặt trời, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng khá tốt
về phát triển nguồn năng lượng mặt trời với tốc độ bức xạ (GHI) đạt từ 4 - 5
kWh/m2/ngày, số giờ nắng khoảng từ 1.600 - 2.700 giờ/năm. Đặc biệt, các khu vực
phía Tây của vùng Tây Bắc, vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, bức xạ ở
mức cao hơn so với các vùng khác, giá trị bức xạ đạt trên 4,8 kWh/m2/ngày đối với
các tỉnh duyên hải từ Nha Trang tới Bà Rịa - Vũng Tàu và dải phía Tây từ Gia Lai đến
An Giang, với số giờ nắng đạt khoảng 2.200 - 2.700 giờ/năm. Theo nghiên cứu năm
2018 của một số tổ chức tài chính quốc tế và báo cáo của Bộ Công thương, tổng diện
tích khả dụng để phát triển điện mặt trời chiếm gần 14% tổng diện tích toàn quốc, với
tiềm năng lý thuyết khoảng 1.500 GW.
Về tiềm năng phát triển điện mặt trời trên mái nhà, các thành phố tại khu vực
miền Trung và miền Nam đều có tiềm năng lớn về điện mặt trời trên mái nhà. Theo
kết quả nghiên cứu đánh giá của Bộ Công thương phối hợp với Ngân hàng Thế giới
năm 2017 về tiềm năng năng lượng mặt trời trên mái nhà, khu vực nội thành thành
phố Hồ Chí Minh có khoảng 316.535 tòa nhà có tiềm năng điện mặt trời trên mái nhà
với tổng diện tích khoảng 50,4 triệu m2, tổng công suất khoảng 6.380 MWp tương
đương 17,9 triệu MWh/năm; khu vực ngoại thành có tiềm năng điện mặt trời trên mái
nhà ước tính sơ bộ khoảng 29.000 MWp. Khu vực nội thành thành phố Đà Nẵng có
khoảng 148.882 tòa nhà có tiềm năng điện mặt trời trên mái nhà với tổng diện tích
khoảng 9,15 triệu m2, tổng công suất khoảng 1.140 MWp tương đương 3,23 triệu
MWp/năm; khu vực ngoại thành có tiềm năng điện mặt trời trên mái nhà ước tính sơ
bộ khoảng 1.000 MWp.
2.1.2 Tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam
Về năng lượng gió, tiềm năng sơ bộ của gió biển Việt Nam là vào khoảng hơn
5000 TWh, đứng thứ 11 trong số các quốc gia có năng lượng gió cao nhất. Theo Bản
đồ Gió Toàn cầu (Global Wind Atlas) ước tính, hơn 39% diện tích của Việt Nam có
tốc độ gió trung bình hàng năm trên 6 m/s ở độ cao 65m và hơn 8% diện tích đất liền
của Việt Nam có tốc độ gió trung bình hàng năm trên 7 m/s. Điều này tương ứng với
tiềm năng tài nguyên gió là 512 GW và 110 GW. Tiềm năng kỹ thuật của điện gió trên
bờ vào khoảng 42 GW phù hợp với dự án điện gió quy mô lớn.
Tiềm năng gió ngoài khơi lớn hơn nhiều so với tiềm năng gió trên bờ do địa
hình bờ biển dài và gió ngoài khơi thường có tốc độ cao, ổn định hơn. Hạ tầng cho
điện gió ngoài khơi và lưới điện cũng ít bị hạn chế bởi vấn đề sử dụng đất.
Điện gió ngoài khơi: Theo báo cáo của Viện Năng lượng năm 2020, tổng tiềm
năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi của nước ta là khoảng 160 GW, trong đó Quảng
Ninh (11 GW); Hà Tĩnh (4,4 GW); Ninh Thuận (25 GW); Bình Thuận (42 GW); Trà
Vinh (20 GW).
Viện nghiên cứu Năng lượng bền vững (ISF) ước tính tiềm năng gió ngoài khơi
của Việt Nam có thể lên tới 609 GW, giả thiết chỉ tính đến các khu vực ven biển với
độ sâu tối đa là 50 m và khoảng cách tối đa từ bờ là 70km (dựa trên dữ liệu khí tượng
năm 2015). Hệ số công suất điện gió ở Việt Nam ước tính trung bình vào khoảng 36%
cho khu vực trên bờ và 54% ngoài khơi.
Nguồn: Tạp chí Năng lượng Việt Nam

2.1.3 Tiềm năng phát triển năng lượng sinh khối tại Việt Nam

Với đặc thù là một nước nông nghiệp, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng phát
triển ngành năng lượng sinh khối (NLSK) với khả năng khai thác khoảng 150 triệu tấn
mỗi năm.
Theo thống kê, khả năng khai thác bền vững để sản xuất năng lượng sinh khối
ở nước ta là khoảng 150 triệu tấn/năm. Công suất tạo ra từ nguồn sinh khối phế thải
nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác hữu cơ đạt khoảng 400 MW. Trong đó, một số
dạng sinh khối có thể khai thác được ngay để sản xuất điện hoặc áp dụng công nghệ
đồng phát năng lượng (sản xuất cả điện và nhiệt) là: trấu ở Đồng bằng sông Cửu
Long, bã mía dư thừa tại các nhà máy đường, cây trồng năng lượng như cỏ voi, rác
thải sinh hoạt trong các đô thị lớn, chất thải chăn nuôi và chất thải hữu cơ khác từ chế
biến nông – lâm – hải sản.

Số liệu từ Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, tiềm năng sản xuất năng lượng sinh
khối từ gỗ củi ở nước ta có thể đạt 14,6 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030; phế thải
từ nông nghiệp có thể đạt 20,6 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030; từ rác thải đô thị
đạt khoảng 1,5 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030. Trong cả nước, Đồng bằng sông
Cửu Long là vùng có tiềm năng phát triển ngành năng lượng này lớn nhất, chiếm
33.4%; kế đến là Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung với 21.8%.

2.1.4

2.2 Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo
Quyết định 2068/QĐ-TTg năm 2015 phê duyệt Chiến lược phát năng lượng tái
tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và quy định về trách nhiệm
quản lý nhà nước về phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo như sau:
- Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý thống nhất về phát triển và sử
dụng năng lượng tái tạo trong cả nước. Các Bộ có liên quan theo chức năng và
nhiệm vụ của mình, thực hiện việc quản lý phát triển và sử dụng năng lượng tái
tạo trong lĩnh vực có liên quan.
- Các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về năng lượng tại các tỉnh
và thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là các tỉnh) có trách nhiệm thực
hiện việc quản lý phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo tại địa bàn quản lý
của mình.
Trong đó, Bộ Công Thương là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực
phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo và với các nhiệm vụ chính như sau:
- Thực hiện các nhiệm vụ được giao quy định tại Quyết định này.

- Xây dựng lộ trình thực hiện Quyết định này, trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, phê duyệt.

- Thực hiện các nghiên cứu và các dự án thí điểm về công nghệ năng lượng tái
tạo.

- Lựa chọn đô thị, các xã đặc trưng của các vùng sinh thái để xây dựng đề án
thí điểm phát triển khu vực đô thị, nông thôn xanh; trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp để nhân rộng ra trong toàn quốc.

- Xây dựng cơ chế thị trường minh bạch để thúc đẩy đầu tư phát triển và sử
dụng nguồn năng lượng tái tạo.

- Tăng cường phát triển nguồn nhân lực cho sự phát triển các nguồn năng lượng
tái tạo.

- Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để thực hiện lồng ghép phát triển các dự
án năng lượng tái tạo vào các với Chương trình cấp điện nông thôn, Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới và các chương trình khác
có liên quan trên địa bàn nông thôn, miền núi và hải đảo.

- Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức về lợi ích của việc
phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới trong
lĩnh vực năng lượng tái tạo.

- Ban hành các quy định và hướng dẫn các đơn vị có liên quan thực hiện để
đảm bảo tiếp cận lưới điện công bằng đối với các dự án nguồn điện sản xuất
điện bằng việc sử dụng nguồn năng lượng tái tạo.

- Đề xuất các cơ chế, chính sách mới, các quy định cho việc khuyến khích đầu
tư phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, phù hợp với từng giai đoạn,
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Ta có sơ đồ hệ thống tổ chức Quản lý Nhà nước về phát triển năng lượng tái
tạo từ trung ương đến địa phương như sau:
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp
2.3 Phân tích một số chính sách về phát triển năng lượng tái tạo
2.3.1 Định hướng phát triển ngành năng lượng tái tạo chung tại Việt Nam
Nhận thấy tầm quan trọng và tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo tại Việt
Nam, nhà nước ta đã không ngừng đưa ra các văn bản luật, nghị định, quyết định
nhằm mục đích định hướng phát triển mạnh hơn nữa ngành này, đồng thời với đó là
đặt ra các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho ngành năng lượng tái tạo tại nước ta. Bên
cạnh đó, theo thời gian, các văn bản trên cũng được tiến hành bổ sung, chỉnh sửa cho
phù hợp với hoàn cảnh tình hình thực tế của đất nước.
2.3.1.1 Các văn bản luật
* Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả 2010
Ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội ban hành Luật sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; chính sách,
biện pháp thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả.
Trong đó, Điều 3 Khoản 5 chính sách của Nhà nước đưa ra rằng: Tăng đầu tư,
áp dụng đa dạng hình thức huy động các nguồn lực để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học,
phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả;
phát triển năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng, điều kiện của Việt Nam góp phần
bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, Điều 6 khoản 1 phần c văn bản luật cũng chỉ ra chiến lược chung:
Thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, ưu tiên phát triển hợp lý công
nghệ năng lượng sạch, nâng cao tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo.
Hơn thế nữa, tại điều 24 khoản 2 cũng cho thấy “Khuyến khích sản xuất, sử
dụng nguồn năng lượng tại chỗ bằng sức nước, sức gió, ánh sáng mặt trời, khí sinh
học, phụ phẩm nông nghiệp và các nguồn năng lượng tái tạo khác”.

* Luật điện lực sửa đổi 2012


Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Điện lực số 24/2012/QH13 do Quốc
hội ban hành ngày 20/11/2012 là luật căn cứ theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10 và Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
điện lực số 28/2004/QH11. Trong đó, năng lượng tái tạo là lĩnh vực được bổ sung tại
một số điều khoản như:
Tại Điều 1, Khoản 2 là bổ sung Khoản 1a vào sau Khoản 1; sửa đổi, bổ sung
Khoản 3 và Khoản 4 Điều 4, trong đó có điểm 4 nêu rõ: “Đẩy mạnh việc khai thác và
sử dụng các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo để phát điện; có chính sách ưu
đãi đối với dự án đầu tư phát triển nhà máy phát điện sử dụng các nguồn năng lượng
mới, năng lượng tái tạo.”
Tiếp đó, Điều 1, Khoản 3 có quy định sửa đổi và bổ sung Khoản 1 và Khoản 3
Điều 8 cũ như sau: “Quy hoạch phát triển điện lực phải hợp với quy hoạch các nguồn
năng lượng sơ cấp cho phát điện gồm cả nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo và
có tính đến quy hoạch khác có liên quan theo quy định của pháp luật.”
Điều 1, Khoản 4 bổ sung cho Điều 8a vào sau Điều 8. Điều 8a là nội dung quy
hoạch phát triển điện lực. Theo như bổ sung trong Khoản 1 của Điều 8a, quy hoạch
phát triển điện lực quốc gia trong điểm d, chương trình phát triển điện lực quốc gia có
nhiều lĩnh vực, trong đó có năng lượng tái tạo. Tại Khoản 2, quy hoạch phát triển điện
lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, điểm c, có đánh giá năng lượng tái tạo là
một trong những tiềm năng phát triển nguồn điện tại địa phương.
Sau sửa đổi và bổ sung, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều luật Điện lực đã thể
hiện rõ tầm quan trọng của năng lượng tái tạo. Ngoài ra, ta có thể dễ dàng nhận thấy,
năng lượng tái tạo được Nhà nước đặc biệt quan tâm như quy hoạch phát triển điện
phải phù hợp hay được đánh giá là một trong những tiềm năng phát triển.

* Luật đầu tư 2020


Trong Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 do Quốc hội ban hành ngày 17/06/2020,
tại Chương III, Điều 16, Khoản 1, điểm b, văn bản đã chỉ rõ Sản xuất năng lượng tái
tạo là một trong những ngành, nghề được ưu đãi và hỗ trợ đầu tư. Theo điều 15, khoản
1 của văn bản này, các ngành, nghề được quy định trong điều 16 (trong đó có Sản xuất
năng lượng tái tạo) sẽ nhận được các hình thức ưu đãi đầu tư bao gồm:
- Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, bao gồm áp dụng mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn
bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn thuế, giảm thuế và các ưu đãi khác
theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định;
nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất theo quy định của pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất;
- Khấu hao nhanh, tăng mức chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế.
Như vậy, Luật đầu tư năm 2020 đã sử dụng các cơ chế khuyến khích tạo ra các
ưu đãi cho các ngành sản xuất năng lượng tái tạo. Đặc biệt, các ưu đãi về thuế được
nhấn mạnh cho thấy Nhà nước đang tạo những điều kiện tốt nhất để vừa giúp đỡ các
doanh nghiệp, tổ chức đang sản xuất năng lượng tái tạo có môi trường hoạt động
thuận lợi, vừa góp phần thu hút thêm đầu tư vào các ngành này.

* Luật Bảo vệ môi trường 2020


Theo như Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 do Quốc hội ban hành
ngày 17/11/2020, tại Chương I, Điều 5, Khoản 3, năng lượng tái tạo nằm trong chính
sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường. Theo đó, năng lượng tái tạo là năng lượng
cần được phát triển.
Theo Chương V, Mục 3, năng lượng tái tạo được đề cập tới trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường trong hoạt động xây dựng và giao thông vận tải. Cụ thể, Điều 64,
Khoản 2, bảo vệ môi trường trong hoạt động xây dựng, việc quy hoạch phải hướng tới
tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng tái tạo. Điều 65, Khoản 7, Chính phủ
khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo cho phương tiện giao thông: “Chính phủ
ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích phát triển phương tiện giao thông
công cộng, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng tái tạo, mức tiêu hao nhiên
liệu thấp, phát thải thấp hoặc không phát thải; lộ trình chuyển đổi, loại bỏ phương tiện
giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi
trường.”
Năng lượng tái tạo được sử dụng để kiểm soát các chất gây ô nhiễm và thuộc
chính sách, nguồn lực bảo vệ môi trường, cụ thể:
Các hoạt động đầu tư kinh doanh về bảo vệ môi trường được ưu đãi trong đó có
dịch vụ giao thông vận tải công cộng sử dụng năng lượng điện; nhiên liệu tái tạo; sản
xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. (Chương XI, Mục 2, Điều 141, Khoản 2,
điểm b)
Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ môi trường như: tư
vấn, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện môi trường, công nghệ môi trường;
công nghệ tiết kiệm năng lượng, sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và tư
vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo,
tiết kiệm năng lượng. (Chương XI, Mục 2, Điều 114, Khoản 3, điểm d và điểm đ)
Phát triển nguồn năng lượng tái tạo là một trong những lĩnh vực bảo vệ môi
trường, đem lại thu nhập từ việc phát hành trái phiếu xanh. (Chương XI, Mục 3, Điều
150, Khoản 2, điểm e).
Như vậy, không chỉ ở lĩnh vực Điện lực, mà năng lượng tái tạo luôn được Nhà
nước ưu ái áp dụng cơ chế khuyến khích trên nhiều lĩnh vực, bao gồm cả bảo vệ môi
trường. Nhắc tới bảo vệ môi trường không thể không nhắc tới năng lượng tái tạo, vì
đây là nguồn năng lượng sạch ít gây hại đến môi trường.

2.3.1.2. Các nghị định


* Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật đầu tư
Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật đầu tư với các nội dung về ngành
nghề đầu tư kinh doanh; ưu đãi và hỗ trợ đầu tư; thực hiện hoạt động đầu tư, quyết
định chủ trương đầu tư, cấp giấy chứng nhận đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư được
ban hành ngày 12/11/2015. Tại phần phụ lục 1, trong phần liệt kê các ngành nghề đặc
biệt được hưởng ưu đãi đầu tư bao gồm sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch,
năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải. Điều này thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối
với các hoạt động sản xuất năng lượng tái tạo.
* Nghị định 19/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
bảo vệ môi trường.
Tại chương VI, mục 1, điều 27, khoản 1, điểm b cam kết sử dụng các quy trình,
thiết bị sản xuất hiệu quả để tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu thô, giảm thiểu ô
nhiễm môi trường. Chương VII, điều 38, khoản 3 nêu rõ Bộ Công Thương chủ trì,
phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định các dạng năng lượng tái tạo khác
theo quy định tại Khoản 13 Phụ lục III Nghị định này. Trong phần phụ lục III liệt kê
hai hoạt động bảo vệ môi trường được ưu đãi hỗ trợ bao gồm:
13. Sản xuất xăng, nhiên liệu diezen và nhiên liệu sinh học được chứng nhận
hợp quy; than sinh học; năng lượng từ sử dụng sức gió, ánh sáng mặt trời, thủy triều,
địa nhiệt và các dạng năng lượng tái tạo khác.
14. Sản xuất, nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện chuyên dùng sử dụng
trực tiếp trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải; quan trắc và phân tích môi
trường; sản xuất năng lượng tái tạo; xử lý ô nhiễm môi trường; ứng phó, xử lý sự cố
môi trường.
* Nghị định 32/2017/NĐ-CP quy định chính sách cho vay tín dụng đầu tư Nhà
nước
Nghị định 32/2017/NĐ-CP quy định chính sách cho vay tín dụng đầu tư Nhà
nước về đối tượng được vay tín dụng đầu tư, điều kiện vay, mức vốn cho vay, thời hạn
và lãi suất vay tín dụng đầu tư tại ngân hàng đầu tư và phát triển. Trong phần phụ lục
danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư, ngành công nghiệp bao gồm dự án đầu
tư xây dựng nhà máy phát điện sử dụng các nguồn năng lượng: Gió, mặt trời, địa
nhiệt, sinh học, điện sinh khối và các tài nguyên năng lượng khác có khả năng tái tạo;
Dự án sản xuất ứng dụng sáng chế bảo vệ môi trường được Nhà nước bảo hộ dưới
hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc bằng độc quyền giải pháp hữu ích theo
quy định của pháp luật. Chính sách thể hiện sự khuyến khích và tạo điều kiện của
chính phủ trong việc xây dựng các cơ sở hạ tầng để khai thác các nguồn năng lượng
tái tạo.
2.3.1.3. Các quyết định
* Quyết định 1208/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực
quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030
Ngày 21/07/2011, Thủ tướng Chính phủ đưa ra Quyết định số 1208/QĐ-TTg
Phê duyệt quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm
2030. Quyết định hướng tới mục tiêu sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng
lượng trong nước, kết hợp với nhập khẩu năng lượng sơ cấp cho sản xuất điện; cung
cấp đầy đủ điện năng với chất lượng ngày càng cao, giá cả hợp lý cho phát triển kinh
tế - xã hội; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Trong đó, luôn nâng cao và ưu tiên
phát triển nguồn điện năng lượng tái tạo.
Tại Điều 1, Khoản 2, điểm b đã vạch rõ mục tiêu cho nguồn năng lượng tái tạo
trong sản xuất điện. Trong vòng 10 năm, từ năm 2010 – 2020 tăng 1%, cụ thể từ 3,5%
- 4,5% tổng điện năng sản xuất. Năng lượng tái tạo khẳng định rõ vai trò của mình
hơn, khi mục tiêu từ năm 2020 – 2030 được đưa ra. Cũng trong vòng 10 năm, những
con số trong vòng 10 năm này sẽ tăng 1,5%, cụ thể từ 4,5% - 6% tổng điện năng sản
xuất. Đặc biệt, ở điểm này, năng lượng tái tạo được nêu rõ rằng đây là nguồn ưu tiên
phát triển.
Tiếp đó, tại Điều 1, Khoản 3, điểm a nêu rõ chiến lược từng bước gia tăng tỷ
trọng của điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo, cụ thể:
Đưa tổng công suất nguồn điện gió từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng
1.000 MW vào năm 2020, khoảng 6.200 MW vào năm 2030; điện năng sản xuất từ
nguồn điện gió chiếm tỷ trọng từ 0,7% năm 2020 lên 2,4% vào năm 2030.
Phát triển điện sinh khối, đồng phát điện tại các nhà máy đường, đến năm
2020, nguồn điện này có tổng công suất khoảng 500 MW, nâng lên 2.000 MW vào
năm 2030; tỷ trọng điện sản xuất tăng từ 0,6% năm 2020 lên 1,1% năm 2030.
Trong cơ cấu nguồn điện, năng lượng tái tạo năm 2020 chiếm khoảng 5,6%
tổng công suất các nhà máy điện và 4,5% điện năng sản xuất và nhập khẩu. Tầm nhìn
tới năm 2030, năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng 9,4% tổng công suất các nhà máy
điện và 6% điện năng sản xuất.
Cũng tại điều khoản này của điểm d, 377 nghìn hộ dân nông thôn được cấp
điện từ năng lượng tái tạo giai đoạn 2011 – 2015 và 231 nghìn hộ từ năm 2016 –
2020.
Khoản 2 và Khoản 3 đã đưa ra được những con số định lượng rõ ràng nhất, cho
thấy năng lượng tái tạo không chỉ được phát triển mà ngày càng được nâng cao, thể
hiện rõ ràng ở những con số không chỉ tăng mà còn tăng dần.
Ngoài ra, tại Điều 1, Khoản 4, điểm a, năng lượng tái tạo được áp dụng chính
sách ưu đãi về tài chính và mở rộng hợp tác quốc tế trong giải pháp đảm bảo an ninh
cung cấp điện. Hay, Điều 2, Khoản 1, điểm h, có nêu rõ Bộ Công thương cần liên kết
xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các dự án năng lượng
mới và tái tạo, chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển năng lượng tái tạo.
Có thể thấy rằng, quyết định trên nhấn mạnh rất rõ về nguồn điện năng lượng
tái tạo trong quá trình phát triển nguồn điện quốc gia. Không chỉ bằng những con số
cụ thể, rõ ràng, rành mạch mà quyết định còn chỉ ra những chính sách cần làm, nên
làm để luôn ưu tiên, khuyến khích nguồn năng lượng sạch này.
* Quyết định 2139/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến
đổi khí hậu
Quyết định này đã chỉ ra trong bối cảnh biến đổi khí hậu gây ra những tác động
nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới, việc sử
dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới sẽ mang lại lợi ích nhờ mức phát thải khí
nhà kính thấp tuy nhiên lại đòi hỏi đầu tư lớn và có giá thành cao (mục I, điều 1). Do
đó trong mục IV về các nhiệm vụ chiến lược, điều 5a đã đề ra chiến lược phát triển
các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới một cách phù hợp, trong đó bao gồm:
- Rà soát quy hoạch và phát triển thủy điện hợp lý, đa mục tiêu, đến năm 2020,
tổng công suất các nhà máy thủy điện đạt khoảng 20.000 – 22.000 MW.
- Đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai các công nghệ sản xuất năng lượng từ các
nguồn năng lượng tái tạo và năng lượng mới, bao gồm năng lượng gió, năng lượng
mặt trời, thủy triều, địa nhiệt, nhiên liệu sinh học, năng lượng vũ trụ; xây dựng và
triển khai rộng rãi các chính sách huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế -
xã hội trong ứng dụng và nhân rộng sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo.
- Đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia theo hướng phát triển đồng bộ các
nguồn năng lượng; tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 5% tổng
năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2020 và khoảng 11% vào năm 2050.
Nhìn chung, văn bản này về biến đổi khí hậu đã cho thấy tầm quan trọng của
năng lượng tái tạo và đưa ra những chiến lược chung cơ bản nhằm phát triển năng
lượng tái tạo. Những điều này cũng đã được đề cập và triển khai một cách chi tiết, cụ
thể và rõ ràng vào năm 2015 trong văn bản Quyết định số 2068 được đề cập dưới đây
cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đến vấn đề phát triển nguồn NLTT.
* Quyết định 2068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo
của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Ngày 25/11/2015, Thủ tướng Chính phủ đưa ra Quyết định 2068/QĐ-TTg Phê
duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2050. Đây là một trong những văn bản chi tiết nhất từng được đưa ra tại Việt
Nam về phát triển năng lượng tái tạo, trong đó nổi bật là Điều 1 với những quan điểm,
chiến lược, định hướng và biện pháp rõ ràng của Nhà nước về vấn đề phát triển năng
lượng tái tạo.
Thứ nhất, tại phần I Điều 1, Quyết định đã cho thấy quan điểm của nhà nước ta
về việc phát triển năng lượng tái tạo, trong đó nhấn mạnh việc kết hợp phát triển năng
lượng tái tạo với triển khai thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, phát
triển cùng các ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, sử dụng kết hợp công nghệ ngắn
hạn và dài hạn, kết hợp các chính sách ưu đãi hỗ trợ với cơ chế thị trường nhằm thúc
đẩy việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo. Cùng với đó, quyết định cũng chỉ rõ
quan điểm cần kết hợp tái cơ cấu với nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh
vực năng lượng tái tạo, bao gồm nâng cao năng lực quản lý nhà nước; từng bước loại
bỏ các rào cản, ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển năng lượng
tái tạo phù hợp.
Thứ hai, với những quan điểm chính như trên, phần II Điều 1 của Quyết định
đã chỉ rõ chiến lược và mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo, đó là nâng cao tỷ lệ tiếp
cận nguồn năng lượng sạch và điện năng của người dân khu vực nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tăng tổng của các nguồn năng lượng
tái tạo, trong đó bao gồm nguồn điện sản xuất từ NLTT, diện tích hấp thụ của các dàn
nước nóng năng lượng mặt trời, quy mô sử dụng công nghệ khí sinh học,…
Thứ ba, phần III Điều 1 của Quyết định đưa ra Định hướng phát triển năng
lượng tái tạo chi tiết cho từng giai đoạn, cụ thể như sau:
- Định hướng giai đoạn từ năm 2015 đến 2030:
+ Phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo độc lập nhằm đáp ứng
mục tiêu điện khí hóa nông thôn (đến năm 2020 hầu hết các hộ dân nông
thôn có điện, năm 2030 hầu hết các hộ dân nông thôn được sử dụng
nguồn năng lượng sạch, hợp vệ sinh)
+ Đầu tư phát triển các nhà máy phát điện sử dụng năng lượng tái tạo nối
lưới: Khuyến khích đầu tư phát triển nhà máy phát điện từ nguồn năng
lượng tái tạo nối lưới khả thi, thí điểm có chọn lọc và tập trung nguồn
lực cho nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ và xây dựng cơ sở
dữ liệu cho mục đích dài hạn
+ Cùng với đó là phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo để cung
cấp nhiệt năng và nguồn nhiên liệu sinh học.
- Định hướng đến 2050:
+ Tập trung nguồn lực, khai thác và sử dụng tối đa tiềm năng năng lượng
tái tạo trong nước bằng công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực
tế của, mang lại hiệu quả cao.
+ Phát triển mạnh mẽ thị trường công nghệ năng lượng tái tạo, ngành công
nghiệp sản xuất máy móc thiết bị, cung cấp dịch vụ năng lượng tái tạo
trong nước.
+ Tăng cường mạnh tiềm lực cho nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và
ứng dụng các dạng năng lượng tái tạo mới.
Thứ tư, phần IV nêu ra định hướng phát triển theo các lĩnh vực, bao gồm thủy
điện, năng lượng sinh khối, nguồn điện gió, nguồn năng lượng mặt trời, trong đó đã
nêu ra định hướng những con số cụ thể về phát triển các nguồn năng lượng này.
Thứ năm, phần V nêu ra các cơ chế, chính sách về hình thành thị trường về
năng lượng tái tạo, chính sách giá điện và bảo đảm đầu tư, trách nhiệm đóng góp vào
việc phát triển ngành năng lượng tái tạo của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh
vực điện lực, cơ chế thanh toán bù trừ, các chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho phát triển
và sử dụng năng lượng tái tạo (bao gồm các ưu đãi tín dụng, ưu đãi về các loại thuế,
sự ưu tiên cho các nghiên cứu liên quan đến phát triển và sử dụng tài nguyên năng
lượng tái tạo) và các chính sách bảo vệ môi trường đi kèm.
Thứ sáu, Phần VI kết luận bằng 10 giải pháp nhằm thực hiện các chiến lược đề
ra được trình bày chi tiết, trong đó nổi bật có Tăng cường quản lý nhà nước, Lập quy
hoạch và kế hoạch phát triển nguồn năng lượng tái tạo, Xây dựng các tiêu chuẩn, quy
chuẩn quốc gia, Các giải pháp nâng cao tỷ lệ phát triển và sử dụng các nguồn năng
lượng tái tạo, Hỗ trợ tài chính cho phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, Phát triển
nguồn nhân lực, công nghệ và hợp tác quốc tế về phát triển năng lượng tái tạo, ….
Nhìn chung, văn bản trên đã đưa ra các định hướng chi tiết cùng các mục tiêu
cụ thể và các giải pháp kèm theo trong phát triển năng lượng tái tạo của nước ta với cả
các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.
Như vậy, ta có thể thấy Chính phủ và Nhà nước đã đặt nhiều sự quan tâm đến
việc sử dụng và khai thác các nguồn năng lượng tái tạo nói chung ở nước ta. Các định
hướng và quy hoạch phát triển nguồn năng lượng tái tạo đã cho thấy quan điểm thống
nhất của nhà nước về việc khuyến khích nhằm tạo các điều kiện thuận lợi nhất để các
ngành năng lượng tái tạo phát triển. Năng lượng tái tạo nói chung đang dần khẳng
định mình qua những chính sách khuyến khích của Nhà nước.

2.3.2. Các chính sách nhằm phát triển từng nguồn năng lượng tái tạo nói
riêng tại Việt Nam.
2.3.2.1. Các quyết định về cơ chế khuyến khích và hỗ trợ các dự án về năng
lượng tái tạo tại Việt Nam
Qua thời gian, Việt Nam đã liên tục đưa ra các quyết định về các cơ chế
khuyến khích và hỗ trợ các dự án về năng lượng tái tạo cũng như chỉnh sửa các quyết
định cho phù hợp với từng hoàn cảnh. Dưới đây là bảng tổng hợp tóm tắt một số quyết
định quan trọng nổi bật về vấn đề này:
Bảng 1: Các quyết định về cơ chế khuyến khích và hỗ trợ các dự án về
năng lượng tái tạo tại Việt Nam

S Quyết Phạm Cơ chế khuyến khích, hỗ trợ


tt định vi điều chỉnh

1 Quyết định số Cơ chế hỗ trợ - Trách nhiệm mua điện từ các dự án điện gió (Chương III,
37/2011/QĐ- phát triển các Điều 11): Việc mua bán được thực hiện theo Hợp đồng mẫu
TTG ngày dự án điện gió do Bộ Công thương ban hành.
29/06/2011 tại Việt Nam - Ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, phí (Chương III, Điều 12):
Các dự án được hưởng các ưu đãi về tín dụng đầu tư, được
miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài
sản cố định và đầu vào chưa được sản xuất trong nước,
được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật Đầu
tư, Luật Thuế,..
- Ưu đãi về hạ tầng đất đai (Chương III, Điều 13): được
miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh có trách nhiệm giao đất để chủ đầu tư thực hiện các
dự án điện gió, …
- Hỗ trợ giá điện đối với dự án điện gió nối lưới (Chương
III, Điều 14): Nhà nước hỗ trợ giá điện cho Bên mua điện
207 đồng/kWh thông qua Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam
(không được áp dụng cơ chế trợ giá cho sản lượng điện của
dự án theo các quy định hiện hành khác).
- Ưu đãi, hỗ trợ đối với các dự án điện gió không nối lưới
(Chương III, Điều 15): Dự án điện gió không nối lưới được
hưởng ưu đãi, hỗ trợ quy định tại Điều 12, Điều 13 Quyết
định này, Chủ đầu tư xây dựng đề án giá điện và xác định
tổng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trình Bộ Công
Thương thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.

2 Quyết Cơ chế - Trách nhiệm mua điện từ các dự án điện sinh khối nối
định số hỗ trợ phát lưới (Chương III, Điều 11)
24/2014/QĐ- triển các dự - Ưu đãi về vốn đầu tư và thuế (Chương III, Điều 12): Các
TTg ngày án phát điện dự án được hưởng các ưu đãi về tín dụng đầu tư và tín dụng
24/03/2014 sử dụng năng xuất khẩu, được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
lượng sinh nhập khẩu để tạo tài sản cố định và đầu vào chưa được sản
khối tại Việt xuất trong nước, được miễn giảm thuế thu nhập doanh
Nam nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế.
- Ưu đãi về hạ tầng đất đai (Chương III, Điều 13): được
miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí đủ quỹ đất để thực hiện dự
án, …
- Giá bán điện của các dự án điện sinh khối nối lưới
(Chương III, Điều 14): các dự án nhận được trợ cấp theo
điều này không được áp dụng cơ chế trợ giá cho sản lượng
điện của dự án theo các quy định hiện hành khác.
- Ưu đãi, hỗ trợ đối với các dự án điện sinh khối không nối
lưới (Chương III, Điều 15): Dự án điện sinh khối không nối
lưới được hưởng ưu đãi, hỗ trợ quy định tại Điều 12, Điều
13 Quyết định này, Chủ đầu tư xây dựng đề án giá điện và
xác định tổng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trình Bộ
Công Thương thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. Tổng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được trích
từ Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam.

3 Quyết Cơ chế - Trách nhiệm mua điện từ các dự án phát điện sử dụng chất
định số hỗ trợ phát thải rắn (Điều 11, Chương 3): Việc mua bán điện được thực
31/2014/QĐ- triển các dự hiện thông qua hợp đồng mua bán điện được lập theo Hợp
TTg ngày án phát điện đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án phát điện sử
05/05/2014 sử dụng chất dụng chất thải rắn do Bộ Công Thương ban hành
thải rắn tại - Ưu đãi về vốn đầu tư, thuế (Điều 12, Chương 3): được
Việt Nam hưởng các ưu đãi về tín dụng đầu tư theo các quy định pháp
luật hiện hành về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của
Nhà nước, được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa
nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án; hàng hóa nhập
khẩu là nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước
chưa sản xuất được, được miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế.
- Ưu đãi về đất đai (Điều 13, Chương 3): được miễn,
giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp
luật hiện hành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bố
trí đủ quỹ đất để chủ đầu tư thực hiện các dự án phát điện
sử dụng chất thải rắn.
- Hỗ trợ giá điện đối với dự án phát điện sử dụng
chất thải rắn (Điều 14, Chương 3): Các dự án phát điện sử
dụng chất thải rắn áp dụng giá bán điện theo quy định tại
Khoản 1 Điều này không được áp dụng cơ chế hỗ trợ giá
cho sản lượng điện của dự án theo các quy định hiện hành
khác; giá mua điện được điều chỉnh theo biến động của tỷ
giá đồng/USD.

4 Quyết Cơ chế - Trách nhiệm mua điện từ các dự án điện mặt trời
định số khuyến khích (Điều 9, Chương III): Việc mua bán điện được thực hiện
11/2017/QĐ- phát triển các thông qua hợp đồng mua bán điện mặt trời được lập theo
TTg ngày dự án điện Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện
11/04/2017 mặt trời tại mặt trời do Bộ Công Thương ban hành.
Việt Nam. - Ưu đãi về vốn đầu tư và thuế (Điều 10, Chương
III): được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu
để tạo tài sản cố định cho dự án; thực hiện theo quy định
của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đối với hàng hóa nhập khẩu phục vụ sản xuất của dự án là
nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản
xuất được, được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với dự án điện mặt trời được thực hiện như đối với dự
án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật
hiện hành về thuế.
- Ưu đãi về đất đai (Điều 11, chương III): được
miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền thuê mặt
nước theo quy định của pháp luật hiện hành, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh tạo điều kiện thu xếp quỹ đất để chủ đầu tư
thực hiện các dự án điện mặt trời.
- Giá điện của các dự án điện mặt trời (Điều 12,
chương III): Chi phí mua điện từ các dự án điện mặt trời
nêu tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính toán và đưa
đầy đủ trong thông số đầu vào của phương án giá bán điện
hàng năm của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Bộ Công
Thương theo dõi, đề xuất điều chỉnh mức giá mua điện quy
định tại điểm a khoản 1 Điều này báo cáo Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định nếu cần thiết.

Như vậy, qua bảng trên, có thể thấy Nhà nước đã đề ra những cơ chế chi tiết,
tạo điều kiện ưu đãi tốt nhất có thể dành cho những dự án năng lượng tái tạo. Các cơ
chế này có thể góp phần nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và thu hút
đầu tư vào các ngành năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Ngoài ra, từ bảng cũng có thể
thấy các điều kiện cơ chế ưu đãi giữa các ngành có sự tương đồng rất lớn, cho thấy sự
quan tâm đồng đều của nhà nước dành cho các ngành năng lượng tái tạo.

2.3.2.2 Các thông tư


* Thông tư 40/2014/TT-BCT quy định quy trình điều độ hệ thống điện quốc gia
Trong thông tư 40/2014/TT-BCT mà Bộ Công Thương ban hành ngày
5/11/2014, tại Điều 79 khoản 2 có nêu rằng:
Trừ trường hợp xảy ra quá tải hoặc ảnh hưởng đến an ninh hệ thống điện,
cho phép nhà máy điện sử dụng năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, thủy triều, địa
nhiệt, sinh khối, khí sinh học tự điều khiển phát công suất tác dụng.

2.3.4.3. Thông tư số 44/2015/TT-BCT của Bộ Công thương ngày 09 tháng 12


năm 2015 quy định về phát triển dự án, Biểu giá chi phí tránh được và Hợp đồng mua
bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện sinh khối
Tại Điều 7, khoản 1 về Hỗ trợ đối với dự án điện không nối lưới:
Trường hợp công suất đặt của dự án lớn hơn công suất yêu cầu thực tế của lưới
điện khu vực, thì sản lượng điện phát thực tế của năm trước và sản lượng dự kiến phát
trong các năm tiếp theo được sử dụng làm cơ sở để xác định đơn giá hỗ trợ. Đối với
các dự án khác, sản lượng điện phát lấy theo sản lượng phát thực tế hoặc sản lượng
phát dự kiến trong dự án đầu tư đã được duyệt, lấy số lớn hơn;
Tổng mức đầu tư dự án lấy theo tổng mức đầu tư trong dự án đầu tư được
duyệt; Tại điều 8, khoản 3 có nêu: “Trước ngày 20 tháng 12 hàng năm, Tổng cục
Năng lượng có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất trình Bộ trưởng Bộ Công Thương
xem xét, ban hành Biểu giá chi phí tránh được áp dụng cho các dự án điện sinh
khối ở mức hợp lý nhằm khuyến khích sản xuất điện từ năng lượng sinh khối,
đồng thời đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai
đoạn”.
Điều 11, khoản 3: “UBND cấp tỉnh theo dõi, giám sát, kiểm tra việc hoạt
động phát triển các dự án điện sinh khối tại địa phương theo quy hoạch phát
triển và sử dụng năng lượng sinh khối được phê duyệt, phù hợp với các quy định
tại Thông tư này”.
2.3.4.4. Thông tư 16/2017/TT-BCT quy định phát triển dự án và hợp đồng mua
bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời
Điều 4: “Việc lập, phê duyệt và công bố quy hoạch phát triển điện mặt trời
quốc gia được quy định tại Điều 5, Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4
năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích phát triển
các dự án điện mặt trời tại Việt Nam (Quyết định số 11)”.
Điều 9, khoản 1: “Đối với dự án điện mặt trời chưa có trong danh mục của một
trong các Quy hoạch: Quy hoạch phát triển điện mặt trời cấp tỉnh; Quy hoạch phát
triển điện mặt trời cấp quốc gia; Quy hoạch phát triển điện lực cấp tỉnh; Quy hoạch
phát triển điện lực cấp quốc gia được phê duyệt, Bộ Công Thương xem xét, phê duyệt
bổ sung quy hoạch dự án điện mặt trời có quy mô công suất nhỏ hơn hoặc bằng 50
MW; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung quy hoạch dự án điện mặt trời có
quy mô công suất lớn hơn 50 MW”.
Điều 20, mục 1b: “Tập đoàn Điện lực VN có trách nhiệm ban hành quy trình
đăng ký, tiếp nhận hồ sơ đề nghị lắp đặt điện mặt trời mái nhà; quy trình thủ tục
nghiệm thu, ký hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời mái
nhà”.
2.3.4.5. Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15 tháng 01 năm 2019 quy định
thực hiện phát triển điện gió và Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các dự án điện gió
Điều 3, khoản 1: “Phát triển các dự án điện gió được thực hiện theo Quy
hoạch phát triển điện lực trong đó xác định tiềm năng và khu vực phát triển điện
gió cho từng địa bàn. Các dự án điện gió chưa có trong quy hoạch phải được thực
hiện thẩm định, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, bổ sung vào Quy hoạch phát triển
điện lực”.
Điều 4, khoản 1: “Dự án điện gió có tiềm năng khai thác chưa có trong quy
hoạch phát triển điện lực được phép nghiên cứu phát triển và phải thực hiện công
tác lập, thẩm định, trình bổ sung vào Quy hoạch phát triển điện lực”.
Điều 17, khoản 1: Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo có trách nhiệm:
Tổ chức đánh giá tiềm năng điện gió lý thuyết, tiềm năng điện gió kỹ thuật và
tiềm năng điện gió kinh tế trên phạm vi cả nước, xác định phân bố tiềm năng theo
vùng để đưa vào cơ sở dữ liệu phục vụ xây dựng nội dung về quy hoạch phát
triển các dự án điện gió trong quy hoạch phát triển điện lực.
Chủ trì nghiên cứu và đề xuất cơ chế đấu giá phát triển điện gió áp dụng từ
ngày 01 tháng 11 năm 2021 báo cáo Bộ trưởng Bộ Công Thương trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, quyết định.
Điều 17, khoản 2: “Cục Công nghiệp chủ trì nghiên cứu và đề xuất quy
định về cơ chế khuyến khích phát triển sản xuất thiết bị công trình điện gió trong
nước, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong dự án điện gió báo cáo Bộ trưởng Bộ Công
Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định”.
Như vậy, các thông tư cũng sử dụng các cơ chế khuyến khích nhằm tạo điều
kiện tốt nhất cho các ngành NLTT hoạt động.
2.3.2.3. Báo cáo của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực
Sản xuất nguồn điện là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra cạn kiệt
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Đồng
thời với đó, Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong việc sản xuất nguồn điện từ năng
lượng tái tạo. Với các định hướng và mục tiêu đã nêu đối với phát triển nguồn điện từ
năng lượng tái tạo, năm 2020, Bộ Công Thương đã tham mưu trình Chính phủ Việt
Nam ban hành nhiều cơ chế khuyến khích khác nhau cho các loại hình điện NLTT
được đánh giá có tiềm năng lớn như bảng sau:
Bảng x: Tổng hợp cơ chế khuyến khích phát triển điện tái tạo

Như vậy, cơ chế chủ yếu trong việc khuyến khích phát triển điện tái tạo là FIT
cho 20 năm. Như đã phân tích, cơ chế giá FIT có nhiều tác dụng, trong đó có đảm bảo
công ăn việc làm, thúc đẩy công nghệ phát triển, đảm bảo an ninh quốc gia, … Bên
cạnh đó, cơ chế biểu giá chi phí tránh được dành riêng cho các dự án thủy điện nhỏ.
Sử dụng cơ chế này đối với các dự án thủy điện nhỏ sẽ góp phần khuyến khích các
nhà máy điện phát điện tại các khung giờ có nhu cầu sử dụng điện cao với mục đích
góp phần giải quyết bài toán thiếu công suất, quá tải lưới điện, điện áp thấp, góp phần
vận hành ổn định cho hệ thống điện quốc gia.
Ngoài ra, cũng theo Báo cáo, các dự án điện tái tạo nối lưới còn được nhận các
ưu đãi về tài chính, cụ thể như sau:
Như vậy, riêng với các dự án điện tái tạo, nhà nước ta đã đề ra nhiều cơ chế
khuyến khích hợp lý và có tác dụng lớn trong việc thu hút đầu tư vào ngành này.

2.4. Đánh giá chung về các chính sách phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam
2.4.1. Thành tựu
Qua phân tích, có thể hiện nay hệ thống các chính sách pháp luật tại Việt Nam
về phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam đã đạt được một số thành tựu như sau:
Thứ nhất, đã thống nhất quan điểm khuyến khích và tạo điều kiện tốt nhất cho
các dự án năng lượng tái tạo phát triển.
Thứ hai, các cơ chế ưu đãi được sử dụng linh hoạt góp phần làm làm giảm các
rào cản trong phát triển NLTT đang tồn tại tại nước ta, đặc biệt là rào cản về thể chế
và pháp lý cùng rào cản về kinh tế tài chính, bởi các cơ chế phát triển NLTT tại Việt
Nam hiện nay tập trung vào cải thiện thể chế và hỗ trợ về chi phí cho các doanh
nghiệp NLTT. Từ đó, các cơ chế góp phần vào thu hút nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước nhiều hơn vào ngành này, giúp các doanh nghiệp đang hoạt động về
NLTT dễ dàng phát triển hơn, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế xanh sạch và
bền vững tại Việt Nam, giải quyết các vấn đề về ô nhiễm môi trường và cạn kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Thứ ba, các văn bản thường xuyên được sửa đổi và bổ sung, cho thấy sự quan
tâm cho Nhà nước rất sát sao và kịp thời để thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế
của thời cuộc.
2.4.2. Một số điểm cần xem xét
Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định, song theo tìm hiểu và phân tích
của nhóm, các chính sách phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam còn có một số
điểm cần xem xét lại như sau:
Thứ nhất, như đã chỉ ra trong phần Khái niệm, có thể thấy khái niệm về năng
lượng tái tạo trong các văn bản khác nhau tại Việt Nam còn chưa hoàn toàn thống
nhất, điều này cần được xem xét để giảm bớt các trở ngại và mâu thuẫn khi thực thi
các chính sách về NLTT.
Thứ hai, chia sẻ tại Diễn đàn “Cơ chế thu hút đầu tư phát triển bền vững năng
lượng tái tạo tại Việt Nam” do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức chiều 26/11,
bà Ngô Thị Tố Nhiên, Giám đốc Tổ chức Sáng kiến về dịch chuyển Năng lượng cho
biết: các chính sách về cơ chế tài chính cho năng lượng tái tạo đang có khoảng trống,
giá FIT cho điện mặt trời và điện gió đã kết thúc vào cuối tháng 10/2021. "Trong 2
năm qua, Chính phủ đã có nhiều thảo luận liên quan đến giá FIT. Với điện mặt trời,
sau giá FIT 1 là giá FIT2. Với điện gió sau giá FIT 1 từ năm 2011 và giá FIT 2 là năm
2018. Tuy nhiên, cơ chế đấu thầu hiện vẫn chưa rõ sẽ được thực hiện như thế nào.
Đây cũng là điểm cần làm rõ thời gian tới”. Bên cạnh đó, cần có chính sách phát triển
năng lượng tái tạo có lộ trình xuyên suốt, liên tục, mới có thể duy trì thị trường phát
triển và cơ chế bình đẳng hơn với các nguồn như đấu thầu theo dạng hình năng lượng
hoặc đấu thầu dịch vụ bảo trì lưới điện.
Thứ ba, việc vận hành các dự án về năng lượng tái tạo cần có nguồn nhân lực
chất lượng cao có chuyên môn tốt, song hiện nay chỉ có Quyết định 2068/QĐ-TTg đề
cập một phần nhỏ đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực này. Nhóm nghiên cứu cho rằng
cần phải có thêm các văn bản đề ra các giải pháp nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho các dự án NLTT, đồng thời với đó cũng cần phát triển các chính sách
nhằm thu hút và giữ chân các nhân tài trong ngành này.
Thứ tư, có thể thấy, với đặc điểm thay đổi năng lực phát điện (công suất)
nhanh, không kiểm soát, điều khiển được, điện từ năng lượng mặt trời và gió sẽ gây ra
dao động đáng kể tới hệ thống điện mỗi khi bức xạ mặt trời, gió biến thiên, hoặc
ngừng. Nếu các nguồn điện khác không được đầu tư thêm để thay thế tại các thời
điểm đó, hoặc các nguồn điện hiện có không được điều chỉnh tăng (hay giảm) công
suất kịp thời để bù - trừ trong khi có điện gió và điện mặt trời tham gia, hệ thống điện
sẽ mất cân bằng nguồn cấp và phụ tải tiêu thụ. Khi đó điện áp và tần số hệ thống điện
sẽ trượt ra ngoài chỉ số định mức cho phép và các hệ thống bảo vệ kỹ thuật sẽ tác
động, hậu quả nặng nề là có thể rã lưới, mất điện trên diện rộng. Do vậy, các nhà
hoạch định chính sách về phát triển NLTT cũng cần chú ý đến điểm này và tính toán
kĩ lưỡng để có thể đưa ra giải pháp để có thể vừa kiểm soát tốt nhất hệ thống điện vừa
phát huy được vai trò của nguồn điện NLTT.
Nhìn chung, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trên cần sự chung tay,
giúp sức của các cấp quản lý tại Trung ương, địa phương, sự nỗ lực của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước cùng với nhân dân để NLTT phát huy tốt nhất vai trò của
mình.
KẾT LUẬN
NLTT có vai trò to lớn trong việc thay thế năng lượng hóa thạch, bảo vệ môi
trường và đáp ứng các mục tiêu kinh tế. Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng
phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời, gió, sinh khối.
Mặc dù tiềm năng là rất lớn song gặp phải các rào cản về công nghệ kỹ thuật, rào cản
về thể chế pháp lý và rào cản về mặt kinh tế, NLTT vẫn chưa thực sự phát triển tại
VN. Chỉ khi nào sự phát triển có sự quan tâm, chỉ đạo của Nhà nước thông qua một hệ
thống chính sách, một chương trình thống nhất và sự tài trợ thích đáng của ngân sách,
cũng như các trợ giúp quốc tế về kỹ thuật, công nghệ, tài chính thì khi đó mới có thể
đạt được những kết quả nhất định. Từ đó, tiểu luận đã tập trung nghiên cứu các văn
bản chính sách và làm rõ được một số vấn đề cơ bản sau:
1. Tổng hợp và làm rõ cơ sở lý luận về khái niệm, vai trò của NLTT, đồng thời
làm rõ khái niệm và các cơ chế được sử dụng trong chính sách phát triển NLTT.
2. Phân tích tiềm năng của NLTT và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
phát triển NLTT.
3. Cuối cùng tổng hợp, phân tích các văn bản luật, nghị định, quyết định, thông
tư của Đảng và Chính phủ về phát triển NLTT.
Từ các phân tích, có thể thấy Việt Nam đang có tiềm năng rất lớn về phát triển
năng lượng tái tạo và Nhà nước ta cũng đã đưa ra rất nhiều các chính sách khuyến
khích phát triển NLTT để hướng tới một nền kinh tế xanh và sạch hơn. Chính phủ
cũng ban hành các chính sách ưu đãi khác cho các nhà đầu tư như ưu tiên cung cấp tín
dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, sử dụng hợp đồng mua
bán điện mẫu… Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều thách thức trong thực tế cần phải giải
quyết. Nhược điểm của bài tiểu luận là chưa đề xuất giải pháp cho các bất cập và
hướng đi trong việc đưa ra các chính sách phát triển NLTT.
Do giới hạn về kiến thức và điều kiện tìm kiếm thông tin, nên bài tiểu luận của
nhóm chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng em mong nhận được
góp ý và nhận xét của cô và các bạn để hoàn thiện bài tiểu luận của nhóm mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Hải (2019), Pháp luật về khuyến khích đầu tư năng lượng xanh, năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Đỗ Việt Hải (2018), Xây dựng pháp luật về phát triển năng lượng sạch và năng lượng
tái tạo tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Phan Duy An (2010), Pháp luật về các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ phát triển
năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
4. Dư Văn Toán (2018), Năng lượng tái tạo trên biển và định hướng phát triển tại Việt
Nam, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam https://www.researchgate.net/profile/Du-
Toan/publication/328254137_8_dang_NLTT_bien_Viet_Nam-
2018_The_all_VN_Marine_Renewable_energy/links/5bc1350e92851c88fd692575/8-
dang-NLTT-bien-Viet-Nam-2018-The-all-VN-Marine-Renewable-energy.pdf
5. Nguyễn Anh Tuấn (2013), Chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng
tái tạo ở Việt Nam. http://ievn.com.vn/tin-tuc/Chinh-sach-va-giai-phap-thuc-day-phat-
trien-nang-luong-tai-tao-o-Viet-Nam-5-1029.aspx
6. Phạm Thị Thu Hà (Viện Kinh tế và Quản lý - Đại học Bách khoa Hà Nội) và Nguyễn
Ngọc Anh (Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương - Bộ Công
Thương), Phát triển thị trường năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/phat-trien-thi-truong-nang-luong-tai-tao-o-
viet-nam-74889.htm
7. Phạm Kim Oanh, Năng lượng tái tạo, xu thế tất yếu của thế giới và hướng đi cho Việt
Nam. http://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/nang-luong-tai-tao--xu-the-tat-yeu-
cua-the-gioi-va-huong-di-tuong-lai-cho-viet-nam-4416.4050.html
8. Lê Ánh Ngọc, Nguyễn Văn Hồng, Trần Diệu Trang, Nghiêm Thị Huyền Trang, Giới
thiệu một số công cụ kinh tế ứng dụng trong quản lý phát thải khí nhà kính tại Việt
Nam.
http://imh.ac.vn/files/doc/2021/tap%20ch%C3%AD%20BDKH/SO
%2016%20THANG%2012.2020/TAP%20CHI%20BDKK%20SO%2016_bai
%205.pdf
9. Nguyễn Thị Thu Hương, Nguyễn Viết Ngư, Nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng nguồn
năng lượng & các rào cản, giải pháp phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
http://jst.utehy.edu.vn/index.php/jst/article/view/109/89
10. Thảo Phương, Phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam: Sức bật từ chính sách.
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/phat-trien-nang-luong-tai-tao-tai-viet-nam-suc-
bat-tu-chinh-sach-75060.htm
11. Văn phòng Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (2018), Kiến nghị của VEA về phát triển
năng lượng bền vững, bảo vệ môi trường. https://nangluongvietnam.vn/kien-nghi-cua-
vea-ve-phat-trien-nang-luong-ben-vung-bao-ve-moi-truong-21741.html
12. Trung Hiếu (2019), Rào cản trong phát triển năng lượng tái tạo.
https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Khoa-hoc/940023/rao-can-trong-phat-trien-nang-
luong-tai-tao
13. Tổng quan tiềm năng và triển vọng phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam
https://evngenco2.vn/vi/news/tin-nganh-dien/tong-quan-tiem-nang-va-trien-vong-
phat-trien-nang-luong-tai-tao-viet-nam-323.html
14. Phát triển năng lượng tái tạo: Rào cản từ cơ chế. https://iavietnam.net/phat-trien-nang-
luong-tai-tao-rao-can-tu-co-che/
15. Những rào cản khiến năng lượng tái tạo ở Việt Nam khó phát triển
https://nhadautu.vn/nhung-rao-can-khien-nang-luong-tai-tao-o-viet-nam-kho-phat-
trien-d12405.html
16. Doanh nghiệp chật vật vượt “rào cản” gia nhập thị trường năng lượng tái tạo
https://thesaigontimes.vn/doanh-nghiep-chat-vat-vuot-rao-can-gia-nhap-thi-truong-
nang-luong-tai-tao/
17. Tiềm năng và thách thức phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
http://socongthuong.tuyenquang.gov.vn/tin-tuc-su-kien/nang-luong-moi-truong/tiem-
nang-va-thach-thuc-phat-trien-nang-luong-tai-tao-o-viet-nam-ky-cuoi-111.html
18. Chính phủ (2007), Quyết định số 1855/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-
may-hanh-chinh/Quyet-dinh-1855-QD-TTg-chien-luoc-phat-trien-nang-luong-quoc-
gia-Viet-Nam-den-nam-2020-tam-nhin-2050-61256.aspx?tab=3
19. Chính phủ (2011), Quyết định số 37/2011//QĐ-TTg ngày 29/6/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam, Hà Nội
http://vbpl.vn/bocongthuong/Pages/vbpq-van-ban-goc.aspx?ItemID=26670
20. Chính phủ (2011), Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Hà Nội.
https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=152841
21. Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Hà Nội.
http://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-ban-so-1393-qd-ttg-16865
22. Chính phủ (2014), Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24/3/2014 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khối tại Việt Nam, Hà Nội
https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=172924
23. Chính phủ (2015), Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội. https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?
pageid=27160&docid=182255
24. Chính phủ (2016), Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 -
2020 có xét đến năm 2030, Hà Nội. https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?
pageid=27160&docid=183986
25. Chính phủ (2020), Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ chính trị về định
hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045, Hà Nội. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-nguyen-Moi-
truong/Nghi-quyet-55-NQ-TW-2020-dinh-huong-Chien-luoc-phat-trien-nang-luong-
quoc-gia-cua-Viet-Nam-435381.aspx
26. Chính phủ (2011), Quyết định số 37/2011/QĐ-TTG ngày 29/6/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam, Hà Nội.
https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=101330
27. Chính phủ (2018), Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng
Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29
tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án
điện gió tại Việt Nam, Hà Nội.
https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=194743
28. Chính phủ (2017), Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam, Hà
Nội. https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=189336

You might also like