Professional Documents
Culture Documents
Bài 17 Hệ thống bôi trơn
Bài 17 Hệ thống bôi trơn
1. Mục đích
- Giúp học sinh hiểu được kết cấu và nguyên lý làm việc của hệ thống bôi trơn.
- Giúp học sinh nắm được các mạch dầu bôi trơn.
2. Yêu cầu
- Vẽ được sơ đồ thực tế của mạch dầu bôi trơn các động cơ có tại xưởng thực tập.
- Đảm bảo an toàn và vệ sinh công nghiệp.
3. Nội dung
3.1. Nhiệm vụ của hệ thống bôi trơn
- Bôi trơn các bề mặt ma sát.
- Làm mát chi tiết
- Bao kín
- Làm sạch
- Chống han rỉ các chi tiết
3.2. Các phương án bôi trơn
3.2.1. Bôi trơn bằng phương pháp vung toé
Đầu to thanh truyền được lắp bằng vít hoặc đúc sẵn một cái” thìa” múc dầu,
lắp ở phần dưới nắp đầu to đối với động cơ kiểu đứng, lắp ở bên hông đầu to đối với động
cơ nằm ngang. Khi động cơ làm việc, thìa múc dầu sẽ múc dầu từ Catte và hắt tung tóe lên
bên trong không gian của catte, sau đó các hạt dầu sẽ rơi vào các bề mặt ma sát. Trong
trường hợp catte sâu người ta dùng kiểu bơm đơn giản để bơm dầu lên máng dầu, mức dầu
trong máng dầu được khống chế để chỉ có thìa múc dầu mà không để đầu to đập vào dầu
trong máng dầu.
Phương án bôi trơn này đơn giản, nhưng hiệu quả bôi trơn kém, ít dùng, chỉ
dùng trong động cơ nhỏ kiểu cũ.
3.2.2. Bôi trơn bằng pha dầu trong nhiên liệu
Phương pháp này được sử dụng trong động cơ xăng hai kỳ quét vòng hộp
catte- trục khuỷu. Dầu được pha với xăng theo tỷ lệ nhất định từ 1/100 5/100. Một số
động cơ xe máy cỡ nhỏ như Simson(Đức) dùng dầu pha với tỷ lệ ít hơn. Các hạt dầu trong
hỗn hợp xăng- dầu khi vào hộp catte- trục khuỷu và xy lanh sẽ ngưng đọng trên bề mặt chi
tiết để bôi trơn các bề mặt ma sát. Dầu được pha theo các cách sau:
- Cách thứ nhất: Xăng và dầu được hoà trộn trước gọi là xăng pha dầu như thường
bán ở các trạm xăng dầu.
- Cách thứ hai: dầu và xăng chứa hai thùng riêng rẽ trên động cơ. Trong quá trình
động cơ làm việc, dầu và xăng được hoà lẫn song song, tức là dầu và xăng được trộn theo
định lượng khi ra khỏi thùng chứa. Một số xe máy dùng hai kỳ như YAMAHA, SUZUKI
dùng cách pha trộn này.
Ngoài ra ở 1 số động cơ hoà trộn khác là dùng bơm phun dầu trực tiếp vào họng
khuếch tán hay vị trí bướm ga. Bơm được điều chỉnh theo tốc độ vòng của động cơ và vị
trí bướm ga nên định lượng dầu hoà trộn rất chính xác và có thể tối ưu hoá ở các chế độ
tốc độ và tải trọng khác nhau.
Cũng như bôi trơn vung tóe, phương pháp bôi trơn bằng dầu pha trong nhiên liệu
rất đơn giản nhưng không an toàn do đó khó đảm bảo đủ lượng dầu bôi trơn cần thiết. Mặt
khác, do dầu bôi trơn trong hỗn hợp bị đốt cháy cùng với nhiên liệu nên dễ tạo ra muội
than bám lên đỉnh piston ngăn cản quá trình tản nhiệt khỏi piston. Dầu pha với tỷ lệ càng
lớn, muội than hình thành càng nhiều dẫn đến piston quá nóng, dễ cháy sớm, kích nổ, bugi
bị đoản mạch. Ngược lại, pha ít dầu, bôi trơn kém dễ làm cho piston bó kẹt trong xy lanh.
3.2.3. Bôi trơn bằng phương pháp cưỡng bức
Người ta gọi là cưỡng bức vì dầu đi bôi trơn là dầu tuần hoàn có áp suất nhất
định do bơm tạo ra. Do sự tuần hoàn có áp lực nên hệ thống bôi trơn đảm bảo các nhiệm
vụ đề ra như bôi trơn, làm mát, tẩy rửa, bao kín, làm sạch.
Hệ thống bôi trơn cưỡng bức gồm các bộ phận sau: thùng dầu hoặc catte dầu,
bơm dầu, bầu lọc thô, bầu lọc tinh, két làm mát dầu, ống dẫn dầu, đồng hồ đo áp suất dầu.
3.2.2.1. Hệ thống bôi trơn cưỡng bức dùng catte ướt
Hình 16.2: Sơ đồ hệ thống bôi trơn cưỡng bức dùng catte khô.
1- Catte ; 2- Bơm chuyển ; 3- Thùng dầu ; 4- Lưới lọc sơ bộ ; 5- Bơm dầu đi
bôi trơn ; 6- Bầu lọc thô ; 7- Đồng hồ báo báo áp suất dầu ; 8- Đường dầu
chính ; 9- Đường dâu đi bôi trơn trục khuỷu ; 10- Đường dầu đi bôi trơn trục
cam ; 11- Bầu lọc tinh ; 12- Đồng hồ đo nhiệt độ dầu ; 13- Két làm mát dầu.
Do phần lớn dầu được chứa ở thùng 3 ngoài catte của động cơ nên hệ thống
bôi trơn catte khô khắc phục được những nhược điểm của của hệ thống bôi trơn catte ướt.
Cụ thể là catte không sâu nên động cơ thấp hơn, tuổi thọ của dầu được kéo dài nên chu kì
thay dầu nhiều hơn. Ngoài ra, động cơ có thể làm việc lâu dài ở địa hình dốc mà không sợ
thiếu dầu do phao không hút được dầu. Tuy nhiên, hệ thống này phức tạp hơn vì
có thêm bơm chuyển. Hệ thống bôi trơn catte khô thường thường được sử dụng cho động
cơ điesel lắp trên máy ủi, xe tăng, máy kéo, tàu thuỷ...
1
4
*Quy trình tháo lắp, thay thế bầu lọc toàn phần có lõi lọc giấy thay thế được:
- Tháo 2 ống dẫn dầu tới bầu lọc.
- Nới ốc hãm nắp bầu lọc.
- Tháo bình lọc ra khỏi động cơ vệ sinh sơ bộ.
- Tháo ốc hãm lấy nắp bình lọc, lò xo, lõi lọc.
- Rửa sạch bình lọc, lõi lọc (thay lõi nếu cần).
- Trường hợp có van an toàn tháo giống van định áp.
- Lắp ngược với quá trình tháo
A-A
Hình 16.10. Bầu lọc dầu li tâm của Hình 16.11 . Bầu lọc li tâm toàn phần
động cơ ZMZ-53 của động cơ ZIL-130
1-trục rô to; 2-giclơ; 3-máng dầu; 1-giclơ; 2-tấm lót; 3-rô to; 4-vòng đệm
4-rô to; 5-nắp rô to; 6-vỏ bầu lọc; kín; 5-nắp; 6-lưới lọc; 7-miếng đệm;
7-lưới lọc; 8-đai ốc bắt chặt nắp rô 8-vỏ; 9-trục rô to; 10-vòng của tấm
to; 9-đai ốc bắt chặt rô to; 10-đai ốc đệm; 11-vòng hãm; 12, 13, 14-bulông;
tai hồng bắt chặt vỏ bầu lọc 15-vòng chặn; 16-ống của trục; 17-
vòng bi chặn; 18-ống dẫn dầu
3.4.4. Kiểm tra mức dầu bôi trơn
Nếu mức dầu bôi trơn qua thấp dẫn đến thiếu dầu, hiệu quả bôi trơn kém, còn mức
dầu quá cao thì dễ sục lên buồng cháy, tăng công suất tổn hao cho vận chuyển và khuấy
dầu.
Chỉ tiến hành kiểm tra mức dầu bôi trơn khi động cơ đã ngừng làm việc 15 phút hoặc
tốt nhất nên kiểm tra mức dầu vào sáng sớm trước khi khởi động máy. Đổ xe nơi bằng
phẳng, tìm vị trí bố trí que thăm dầu, rút que thăm dầu ra lau khô, đặt vào lại vị trí của nó,
rồi rút ra để nghiêng đầu hướng xuống dưới.
F X
MA
L
MIN
Hình16.12. Các mức dầu trên que thăm dầu
Dầu ở mức dầu điểm MAX (F) hoặc dưới một chút là tốt. Đối với các động cơ cũ,
làm việc lâu ngày và động cơ làm việc ở vùng đồi núi thì mức dầu nên đổ quá vạch max
trên thước một chút.
3.4.5. Qui trình thay dầu bôi trơn
Sau một thời gian sử dụng, nhớt bị mất tính chất nhờn, hiệu quả bôi trơn kém, sự tổn
thất này là kết quả tất yếu của sự suy giảm các chất phụ gia. Chất ức chế ăn mòn và rỉ sét
cạn dần, cho phép sự ăn mòn và rỉ sét xuất hiện. Mặc dầu, bộ lọc dầu giữ lại các hạt nhỏ,
nhưng không thể giữ lại tất cả. Dầu động cơ sẽ bị nhiễm bẩn từ từ do cácbon hình thành
trong buồng đốt. Sự nhiễm bẩn còn do bụi lọt qua bầu lọc không khí và các mạt kim loại
do động cơ bị mài mòn. Vì vậy nên thay dầu bôi trơn.
*Tiến hành thay dầu như sau:
- Đậu xe trên đường bằng phẳng
- Cho động cơ chạy khoảng 5 phút để hóa lỏng dầu và các chất bẩn không đọng vào
đáy catte. Ngừng động cơ vài phút cho dầu rớt xuống về lại catte. Kéo thắng tay an toàn.
- Nâng xe lên đúng tầm làm việc (nếu có hệ thống nâng xe)
- Đặt thùng hứng dầu ngay dưới nút xả nhớt
- Tháo nắp đổ dầu cho thông với khí trời
- Tháo nút xả dầu cho dầu chảy ra hết
- Vặn nút xả lại (có roăng động đệm kín)
- Lau khô dầu vùng xung quanh nút dầu
- Hạ thấp xe xuống và đổ dầu mới vào đúng mức.
- Đậy nắp đổ dầu
- Khởi động máy, đèn báo lúc đầu sáng lên đến khi áp suất dầu tăng lên đúng quy định
thì đèn tắt.
- Kiểm tra sự rò rỉ dầu
- Dán nhãn hiệu và ghi ngày thay nhớt.
* Cách chọn dầu bôi trơn.
Dựa vào các chỉ số: SAE (thể hiện độ nhớt của dầu nhớt), API (thể hiện chất lượng
dầu nhớt). Hiện nay ở Việt Nam thường sử dụng nhớt đa cấp (4 mùa), đa dụng (sử dụng
được cho cả động cơ xăng cũng như động cơ điêzel).
- Nếu động cơ còn mới, sử dụng dưới 80000 km, các chi tiết động cơ còn khít, nên
dùng nhớt lỏng: SAE 30 (nhớt đơn cấp), SAE 5W-30, SAE 10W-30 (nhớt đa cấp; W-
winter-mùa động)
- Nếu xe đã chạy trên 80000 km, nên dùng loại nhớt vừa: SAE 40, SAE 5W-40, SAE
10W-40, SAE 20W-40
- Nếu xe chạy trên 160000 km, nên dùng nhớt: SAE 50, SAE 10W-40, SAE 20W-50
Với những vùng có khí hậu lạnh dưới 00C thì dùng loại nhớt lỏng , như: SAE10W...
3.4.6. Chỉ thị áp lực dầu bôi trơn
Sự hoạt động của hệ thống bôi trơn phải được kiển tra một cách chặt chẽ, để ngăn
ngừa sự hỏng hóc bất thường của động cơ. Đễ theo dõi áp lực dầu bôi trơn người ta sử
dụng cảm biến áp lực nhớt và động hồ báo áp suất hoặc sử dụng đèn báo.
Cảm biến áp lực nhớt được bố trí trên đường dầu chính hoặc đường dầu từ thân máy
lên nắp máy. Đồng hồ hoặc đèn báo được bố trí trên bảng đồng hồ phía trước mặt nguời
lái.