Professional Documents
Culture Documents
HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG CĐ GIAO THÔNG VẬN TẢI TP.HCM
GIÁO TRÌNH
Ô TÔ
Bài 1: LY HỢP
I. Công dụng, phân loại, yêu cầu
II. Cấu tạo ly hợp:
1/. Ly hợp ma sát loại một đĩa
2/. Ly hợp ma sát loại nhiều đĩa
3/. Ly hợp ma sát có lò xo hình đĩa
4/. So sánh giữa lò xo xoắn và lò xo hình đĩa
4/. Ly hợp thủy lực
III. Cơ cấu điều khiển ly hợp
Bài 2: HỘP SỐ
I. Công dụng, phân loại, yêu cầu
II. Truyền động bánh răng
III. Cấu tạo các loại hộp số chính thông dụng:
1/. Hộp số 3 tiến 1 lùi, loại 2 trục
2/. Hộp số 3 tiến 1 lùi, loại 3 trục
3/. Hộp số 4 tiến 1 lùi, loại 3 trục
4/. Hộp số 5 tiến 1 lùi, loại 3 trục
IV. Hộp số phụ trên Ôtô
V. Hộp số phân phối trên Ôtô
VI. Cấu tạo các chi tiết chính trong hộp số
VII. Hộp số tự động
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đã hết sức cố gắng tổng hợp các tư liệu
tham khảo nhằm hệ thống hóa lại các nội dung cho các học viên dễ dàng tra cứu
khi học tập.
Tuy vậy, nội dung tập giáo trình này cũng vẫn còn không ít thiếu sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp chân tình để tập giáo trình này ngày càng hoàn thiện
hơn.
Chân thành cảm ơn.
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 5
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
Giáo viên biên soạn
Lê Văn Nghĩa
CHƯƠNG I
Mục tiêu:
Sau khi học bài này, học viên có khả năng:
- Hiểu rõ được cấu tạo chung của Ôtô và công dụng của các hệ thống cấu
thành ôtô, đặc biệt là hệ thống khung – gầm ôtô.
- Phân tích được các loại hệ thống truyền lực thông dụng hiện đang được bố
trí trên ôtô.
Ôtô là phương tiện vận tải đường bộ, có tên gọi là automobile (hình thành từ
phân từ auto gốc HiLạp có nghĩa là tự mình, còn phân từ mobile gốc Latinh có
nghĩa là chuyển động. )
Cách bố trí này rất gọn, không dùng truyền lực cardan, toàn bộ động cơ, bộ
ly hợp, hộp số, cầu sau chủ động liên kết thành một khối.
d). Sơ đồ 4 4 (Cầu trước và cầu sau đều chủ động, động cơ đặt trước ):
Đặc điểm của sơ đồ này là có bộ vi sai giữa 2 cầu và bộ khoá vi sai khi cần
thiết. Toàn bộ cơ cấu này xếp gọn một góc trong hộp phân phối.
e). Sơ đồ 6 4 :
Được dùng lần đầu tiên trên xe tải KAMAZ-5320 của Liên Xô sản xuất năm
1976. Đặc điểm của sơ đồ này là không dùng hộp phân phối mà dùng một cơ cấu
vi sai giữa 2 cầu rất gọn.
f). Sơ đồ 6 6 :
Dùng trên xe tải URAL375 của Liên Xô sản xuất. Ở sơ đồ này trong hộp
phân phối có cơ cấu kiểu hệ bánh răng trụ nhằm chia công suất cho các cầu trước,
cầu giữa, cầu sau. Giữa cầu sau và cầu giữa lại sử dụng vi sai kiểu bánh răng nón.
CHƯƠNG II
HỆ THỐNG
TRUYỀN LỰC
BÀI 1: LY HỢP
Mục tiêu:
Sau khi học bài này, học viên có khả năng:
- Hiểu rõ được công dụng, phân loại, yêu cầu của ly hợp dùng trên ôtô.
- Phân tích được kết cấu và hoạt động của các loại ly hợp thông dụng hiện
đang được bố trí trên ôtô.
- Biết được các cơ cấu điều khiển sự hoạt động của ly hợp.
Ly hợp loại này có từ ba đến chín lò xo xoắn. Công dụng của các lò xo là
ấn đĩa ép, đè đĩa ly hợp bám vào mặt bánh đà. Kết cấu chung gồm có: vỏ có các
khoang chứa lò xo ép và được gắn chặt vào bánh đà. Khi buông bàn đạp ly hợp,
các lò xo ép ấn đĩa ép và đĩa ly hợp áp dính vào mặt bánh đà. Trục sơ cấp của hộp
số gối đầu và quay trơn trong đuôi trục khuỷu có rãnh then hoa liên kết với lỗ then
hoa của đĩa ma sát. Trên vỏ bộ ly hợp có treo ba đòn mở ly hợp điều khiển đĩa ép.
Các đòn mở ly hợp được ấn vào do tác động của chân đạp ly hợp, qua đó tác động
lên bạc đạn chà.
b)-Hoạt động:
Khi bánh đà đang quay, ta ấn bàn đạp ly hợp, thông qua cơ cấu điều khiển
sẽ ấn ba đòn mở ly hợp xuống, các đầu kia của đòn mở sẽ nâng mâm ép lên. Lúc
này đĩa ma sát không bị ép vào mặt bánh đà nên tự do và đứng yên cùng với trục
sơ cấp của hộp số, trong lúc đó bánh đà vẫn quay, nhờ vậy liên hệ giữa động cơ
và hộp số tạm gián đoạn.
Sau khi ta cài số, buông chân ly hợp, bạc đạn chà trở về vị trí cũ, không còn
ép lên ba đòn mở nữa, các lò xo ép lại ấn mâm ép đè đĩa ma sát bám vào bánh đà,
liên kết giữa động cơ và hộp số được nối trở lại.
Ưu nhược điểm của ma sát loại một đĩa:
* Ưu điểm:
- Kết cấu đơn giản, rẻ tiền.
- Thoát nhiệt tốt.
- Đóng mở dứt khoát.
* Nhược điểm:
- Đóng không êm dịu.
- Nếu truyền moment lớn (lớn hơn 70 80 Kgm) thì đường kính của đĩa
ma sát phải lớn hoặc phải dùng nhiều đĩa.
c)-Cấu tạo đĩa ly hợp:
Đĩa ma sát hay đĩa ly hợp gồm một đĩa thép gợn sóng liên kết với moayơ lỗ
then hoa nhờ các lò xo giảm xoắn. Hai tấm bố ma sát được ghép hai bên đĩa thép
bằng cách tán đinh . Công dụng của đĩa thép gợn sóng có tính đàn hồi là dập tắt
các va chạm khi đĩa ly hợp bị ép mạnh vào mặt bánh đà.
b). So sánh ưu-khuyết điểm của ly hợp một đĩa và ly hợp nhiều đĩa:
- Ly hợp nhiều đĩa có cấu tạo phức tạp hơn ly hợp một đĩa, khi mở không dứt
khoát bằng ly hợp một đĩa, nhưng khi đóng thì êm hơn loại một đĩa. Ly hợp nhiều
đĩa truyền được mô men lớn hơn ly hợp một đĩa vì mặt ma sát lớn.
- Nếu cùng truyền một trị số mô men quay của động cơ như nhau thì ly hợp
nhiều đĩa có đường kính ngoài của đĩa ma sát nhỏ hơn ly hợp một đĩa, do đó kích
thước của vỏ ly hợp cũng nhỏ gọn hơn.
- Nhưng hiện nay người ta có xu hướng dùng loại ly hợp một đĩa ma sát
nhiều hơn vì kết cấu của loại này đơn giản hơn.
3/- Ly hợp ma sát có lò xo hình đĩa:
Loại ly hợp này được sử dụng rộng rãi trên ôtô du lịch hiện nay, loại này có
kết cấu đơn giản và khi tác dụng lực thì áp lực trên đĩa ma sát được phân bố đồng
đều. Vì lò xo ép hình đĩa nên sẽ làm luôn nhiệm vụ đòn mở.
Hoạt động:
- Khi chưa tác dụng lực lên pedal, lò xo đĩa bung ra đẩy đĩa ma sát tỳ chặt
vào bánh đà tạo thành khối cứng, do đó lực truyền động từ trục khuỷu được truyền
qua trục ly hợp (ly hợp đóng).
- Khi người điều khiển tác dụng lực lên pedal, thông qua cơ cấu điều khiển
lực sẽ tác dụng lên bạc đạn chà và đẩy bạc đạn chà đi vào làm lò xo đĩa ép lại, đĩa
ma sát không tỳ vào bánh đà nữa, do đó lực truyền động quay từ trục khuỷu sẽ
không truyền qua trục ly hợp (ly hợp mở).
Các bộ phận chính của ly hợp thủy lực là : bơm và tua bin đặt đối diện
nhau. Bên trong bơm và tua bin đều có các cánh dẫn hướng chất lỏng . Bơm cùng
vỏ của ly hợp thủy lực tạo thành 1 khối cứng, moayơ của khối này lắp chặt trên
đầu trục khủyu của động cơ. Tua bin lắp chặt trên đầu trục sơ cấp của hộp số,
vòng đệm bao kín có nhiệm vụ ngăn không cho chất lỏng lọt ra ngoài.
3/. Cơ cấu điều khiển ly hợp bằng thủy lực có trợ lực khí nén:
Hệ thống này có cơ cấu điều khiển giống như cơ cấu điều khiển bằng thủy
lực. Nhưng trên xylanh phụ của hệ thống trang bị bộ trợ lực khí nén.
BÀI 2: HỘP SỐ
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 25
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
Mục tiêu:
Sau khi học bài này, học viên có khả năng:
- Hiểu rõ được công dụng, phân loại, yêu cầu của hộp số dùng trên ôtô.
- Phân tích được kết cấu và hoạt động của các loại hộp số cơ khí thông dụng
hiện đang được bố trí trên ôtô.
- Biết được cấu tạo của các chi tiết chính điều khiển sự hoạt động của hộp số
cơ khí.
- Phân tích được kết cấu và hoạt động của hộp số tự động dùng trên các ôtô
du lịch đời mới.
nCD N BD D BD
i= = =
n BD N CD DCD
Neáu:
- i < 1: tæ soá truyeàn taêng
- i = 1: tæ soá truyeàn thaúng
- i > 1: tæ soá truyeàn giaûm (nhanh)
III.
CẤU
TẠO
CÁC
LOẠI HỘP SỐ CHÍNH THÔNG DỤNG:
1. Hộp số 3 tiến 1 lùi, loại 2 trục:
a)- Sơ đồ cấu tạo và nguyên lý hoạt động:
- Vị trí tay số 1:
Lúc này bánh răng 4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 1 trên trục sơ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 1 -> Bánh răng số 4 -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 2:
Lúc này bánh răng 5 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 2 trên trục sơ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 2 -> Bánh răng số 5 -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 3:
Lúc này bánh răng 6 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 3 trên trục sơ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 3 -> Bánh răng số 6 -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số lùi:
Lúc này bánh răng 4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua phải ăn khớp với
bánh răng số 8 trên trục số lùi. Do bánh răng số 7 trên trục sơ cấp luôn ăn khớp
với bánh răng số 8 trên trục số lùi nên sẽ làm cho trục thứ cấp quay ngược với
chiều quay ban đầu. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh răng số 7
-> Bánh răng số 8 -> Bánh răng số 4 -> Trục thứ cấp.
b)- Những điều cần chú ý:
- Hộp số này bao gồm 03 trục: trục sơ cấp, trục thứ cấp và trục số lùi. Không
có trục trung gian.
- Bánh răng 7 và 8 luôn luôn ăn khớp với nhau. Các bánh răng còn lại khi
không vào vị trí tay số của mình thì không ăn khớp với nhau.
- Các bánh răng là bánh răng trụ răng thẳng. Nếu là bánh răng nghiêng phải
có bộ đồng tốc.
- Để thực hiện việc ra vào số, các bánh răng này phải di chuyển qua lại, nên
còn gọi là hộp số dùng bánh răng di động.
- Loại hộp số hai trục này hiện nay rất ít sử dụng.
Do bánh răng số 1 và số 2 luôn ăn khớp với nhau nên khi trục sơ cấp
chuyển động sẽ làm cho trục trung gian quay theo, các bánh răng số 6 trên trục thứ
cấp và bánh răng số 8 trên trục số lùi cũng chuyển động theo.
- Vị trí tay số 1:
Lúc này bánh răng 4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 3 trên trục trung gian. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 3 -> Bánh răng số
4 -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 2:
Lúc này bộ đồng tốc trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 6 trên trục thứ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 5 -> Bánh răng số
6 -> Bộ đồng tốc -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 3:
Lúc này bộ đồng tốc trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 1 trên trục sơ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 1 -> Bộ đồng tốc -> Trục thứ cấp. Đây chính là tay số truyền thẳng, có tỷ
số truyền bằng 1.
- Vị trí tay số lùi:
Lúc này bánh răng 4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua phải ăn khớp với
bánh răng số 8 trên trục số lùi. Do bánh răng số 7 trên trục trung gian luôn ăn
khớp với bánh răng số 8 trên trục số lùi nên sẽ làm cho trục thứ cấp quay ngược
với chiều quay ban đầu. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh răng
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 30
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 7 -> Bánh răng số 8 ->
Bánh răng số 4 -> Trục thứ cấp.
b)- Những điều cần chú ý:
- Hộp số này bao gồm 04 trục: trục sơ cấp, trục trung gian, trục thứ cấp và
trục số lùi.
- Các bánh răng 1,2; 5,6; 7,8 luôn luôn ăn khớp với nhau.
- Bánh răng 3,4; 7,8 là răng thẳng và bánh răng 1,2; 5,6 là răng nghiêng.
- Loại này được sử dụng nhiều trên các ôtô.
Do bánh răng số 1 và số 2 luôn ăn khớp với nhau nên khi trục sơ cấp
chuyển động sẽ làm cho trục trung gian quay theo, các bánh răng số 6, số 8 trên
trục thứ cấp và bánh răng số 10 trên trục số lùi cũng chuyển động theo.
- Vị trí tay số 1:
Lúc này bánh răng 4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn khớp với bánh
răng số 3 trên trục trung gian. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh
răng số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 3 -> Bánh răng số
4 -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 2:
Lúc này bộ đồng tốc của tay số 2 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn
khớp với bánh răng số 6 trên trục thứ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ
cấp -> Bánh răng số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 5 ->
Bánh răng số 6 -> Bộ đồng tốc -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 3:
Lúc này bộ đồng tốc của tay số 3-4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn
khớp với bánh răng số 8 trên trục thứ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 31
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
cấp -> Bánh răng số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 7 ->
Bánh răng số 8 -> Bộ đồng tốc -> Trục thứ cấp.
- Vị trí tay số 4:
Lúc này bộ đồng tốc của tay số 3-4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua ăn
khớp với bánh răng số 1 trên trục sơ cấp. Đường truyền momen như sau: Trục sơ
cấp -> Bánh răng số 1 -> Bộ đồng tốc -> Trục thứ cấp. Đây chính là tay số truyền
thẳng, có tỷ số truyền bằng 1.
- Vị trí tay số lùi:
Lúc này bánh răng 4 trên trục thứ cấp sẽ di chuyển qua phải ăn khớp với
bánh răng số 10 trên trục số lùi. Do bánh răng số 9 trên trục trung gian luôn ăn
khớp với bánh răng số 10 trên trục số lùi nên sẽ làm cho trục thứ cấp quay ngược
với chiều quay ban đầu. Đường truyền momen như sau: Trục sơ cấp -> Bánh răng
số 1 -> Bánh răng số 2 -> Trục trung gian -> Bánh răng số 9 -> Bánh răng số 10 -
> Bánh răng số 4 -> Trục thứ cấp.
b)- Những điều cần chú ý:
- Hộp số này bao gồm 04 trục: trục sơ cấp, trục trung gian, trục thứ cấp và
trục số lùi.
- Các bánh răng 1,2; 5,6; 7,8; 9,10 luôn luôn ăn khớp với nhau.
- Bánh răng 3,4; 9,10 là răng thẳng và bánh răng 1,2; 5,6; 7,8 là răng nghiêng.
- Loại này được sử dụng nhiều trên các ôtô.
Trục sơ cấp
Trục sơ cấp chế tạo bằng thép, đúc liền với bánh răng chủ động chính. Đầu
trước trục sơ cấp lắp với ly hợp, đầu sau của trục lắp vào lỗ thành phía trước của
vỏ hộp số.
3/- Trục trung gian:
Dọc theo nắp hộp số có khoan lỗ chứa các ống trượt (6,7). Trên ống trượt
gắn cố định gắp sang số (9) và khớp gạt số (10). Đầu cuối cần số cắm vào khớp
gạt số.
Khóa định vị gồm viên bi tròn và lò xo (4,5) nằm trong lỗ khoan trên nắp
hộp số. Trên ống trượt có số lỗ khuyết tương ứng với số lượng cấp số cần cài và
thêm chỗ lõm cho vị trí tử điểm (số 0). Ở mỗi vị trí cài số, lò xo ấn viên bi lọt vào
lỗ khuyết và hãm ống trượt tại vị trí nhất định đó. Để di chuyển ống trượt phải tác
động một lực bật viên bi ra khỏi chỗ lõm.
Nhằm ngăn ngừa việc cài hai số một lúc gây hư hỏng làm bể răng, vỡ hộp
số, người ta có bố trí chốt hãm (8). Chốt này là một thỏi thép dài ráp vào trong
rãnh giữa hai ống trượt. Trên các ống trượt có khoét lỗ lõm đối diện với rãnh chốt
hãm khi chúng ở vị trí tương ứng với vị trí tử điểm. Chiều dài chốt hãm bằng
khoảng cách giữa hai ống trượt cộng với một chỗ lõm trên ống trượt. Mỗi ống
trượt sau khi cài số phải trở về tử điểm để cho ống trướt kia có thể di chuyển, lúc
này chốt hãm sẽ lọt vào lỗ khuyết của ống trượt đang ở vị trí tử điểm.
Để ngăn ngừa tình trạng cài nhầm số lùi trong lúc xe đang chạy số tới,
trong khớp gạt số có bố trí khóa an toàn dành cho số lùi. Khóa này gồm một
Cấu tạo của bộ đồng tốc gồm : Vòng răng 7 của ống trượt được lồng vào
trục thứ cấp bằng các rãnh then hoa. Số răng của vòng răng này không liên tiếp
nhau mà bị ngắt quãng bởi ba lỗ khuyết để lắp với nêm 2. Hai đầu của ống trượt
có lắp vòng đồng tốc 8, trên vòng này cũng có ba rãnh khuyết. Vỏ điều khiển (ống
nối) 6 lắp lồng vào ống trượt lò – xo 5 và bi hãm 4 nằm trong các lỗ khuyết của vỏ
điều khiển để giữ cho bộ đồng tốc luôn luôn nằm ở vị trí trung gian.
Ở hộp số thường, việc thay đổi tốc độ thông qua bàn đạp chân ga, nhưng khi
cần thay đổi lực kéo cho xe( như leo dốc, kéo tải nặng...) thì cần thiết phải về số
thấp nhằm thay đổi lực kéo cho xe. thực hiện công việc trên tài xế phải sang số
bằng tay, đòi hỏi người lái phải nhận biết tải, tốc độ động cơ để việc chuyển số
thích hợp.
Nhưng ở hộp số tự động, việc nhận biết như trên là không cần thiết mà việc lên
số hay xuống số là hoàn toàn tự động tại thời điểm phụ thuộc vào tải động cơ và
tốc độ xe.
Ưu điểm của hộp số tự động:
- Giảm mệt mỏi cho tài xế bằng cách loại bỏ các thao tác điều khiển ly hợp và
thường xuyên phải chuyển số.
- Chuyển số một cách tự động và êm dịu, giảm bớt những kỹ thuật thành thạo
trong lái xe.
- Tránh cho động cơ và hệ thống truyền lực bị quá tải tốt hơn so với cơ khí( do
qua biến mô).
Các bộ phận chính trong hộp số tự động:
a)- Bộ biến mô(Torque converter): có nhiệm vụ truyền và khuyếc đại mômen
từ động cơ bằng cách sử dụng dầu hộp số( ATF Automatic Transmission Fluid)
làm môi trường làm việc.
b)- Bộ truyền bánh răng hành tinh( Planetary gear set): gồm một hay nhiều
bộ bánh răng hành tinh, việc thay đổi tỉ số truyền nhờ vào hoạt động của các cụm
chi tiết như: ly hợp(clucth), phanh đai(band brake), phanh đĩa(disk brake), ly hợp
một chiều( one way clucth)...
- Bánh răng trung gian chủ động tương ứng với trục thứ cấp của hộp số trên xe
động cơ đặt trước- cầu sau chủ động, được ăn khớp với then hoa của trục trung
gian và ăn khớp với bánh răng bị động trung gian.
- Bánh răng mặt trời trước và sau quay liền một khối với nhau
- Cần dẫn bộ truyền hành tinh trước và bánh răng bao bộ truyền hành tinh sau
ăn khớp bằng then hoa với trục trung gian.
Mục tiêu:
Sau khi học bài này, học viên có khả năng:
- Hiểu rõ được công dụng, phân loại, yêu cầu của truyền động Cardan..
- Phân tích được kết cấu và hoạt động của các loại khớp cardan thông dụng
hiện đang được bố trí trên ôtô.
- Biết được các cách bố trí truyền động cardan.
- Để định vị khớp cardan trong khi lắp ghép, người ta đã làm trên viên bi
giữa và chạc bị dẫn những chỗ tiếp nhận chốt tựa, chốt tựa không cho dịch chuyển
theo chiều trục.
- Kết cấu này làm cho các viên bi luôn nằm trong các mặt phẳng phân giác
tạo bởi hai đường trục của khớp cardan mặc dù góc giữa các trục cardan có thể
thay đổi bất kỳ. Khớp cardan này có thể truyền moment dưới góc α .=35o
- Sơ đồ (a) cardan dùng để truyền moment quay từ hộp số đến cầu sau.
Trên sơ đồ (b) cardan dùng để truyền nối ly hợp với hộp số, nếu hộp số đặt riêng
khỏi động cơ. Ở sơ đồ (c) cardan dùng để truyền moment quay giữa hộp số và bộ
phân phối rồi qua bộ phân phối truyền cardan đến cầu trước và cầu sau chủ động
ôtô. Nếu trường hợp truyền động cardan từ hộp số đến cầu chủ động quá dài người
ta bố trí thêm gối đỡ trung gian như sơ đồ (d), làm như vậy sẽ giảm được dao
động và tăng được số vòng quay nguy hiểm của trục cardan.
- Hiệu suất và thời hạn làm việc của trục cardan phụ thuộc vào góc đặt
giữa các trục. Đối với cardan khác tốc nếu α = 8o thì hiệu suất η = 0.99. Còn đối
với cardan khác tốc nếu α = 14o thì hiệu suất η = 0.95, đồng thời lại tăng độ mòn
và sinh nhiệt.
- Để đảm bảo thời gian làm việc lâu dài của truyền động cardan thì góc đặt
lúc chịu tải không vượt quá 70 80 . Trong một số trường hợp để đảm bảo góc
đặt này người ta đặt động cơ và cầu sau nghiêng mọt góc độ phù hợp.
Cầu chủ động dùng trên ôtô bao gồm các phần chính như sau:
- Bộ truyền lực chính.
- Bộ vi sai.
- Các bán trục.
- Dầm cầu.
- Ưu điểm: Tăng được tỷ số truyền mà không cần tăng kách thước của bánh
răng bị động. Vì số lượng răng của bánh răng nón răng thẳng Z1 9 nếu không sẽ
không đảm bảo ăn khớp điều đặng, còn đối với bánh răng nón răng cong Z1 có thể
Z2
nhỏ hơn 5. Vì i 0 = mà Z1 nhỏ thì i0 tăng lên mà không cần tăng Z2. Do đó
Z1
giảm được kích thước chung của cầu xe đồng thời tăng được khoảng sáng gầm xe,
giảm được trọng lượng phần không treo.
- Răng cong làm việc êm dịu với răng thẳng vì khi làm việc các răng ăn
khớp từ từ, chiều dài ăn khớp lớn, số răng tham gia ăn khớp nhiều, do đó tuổi thọ
bánh răng tăng. Điều này rất quan trọng đối với ôtô du lịch và ôtô chở khách.
- Độ êm dịu càng tăng khi khi góc xoắn của răng càng tăng. Do đó ở ôtô
du lịch góc xoắn của răng thường lớn hơn ôtô chở khách và ôtô chở hàng.
- Nhược điểm: Lực chiều dọc trục lớn.
3. Bánh răng hypoit:
- Hai đường trục của hai bánh răng ăn khớp không gặp nhau tại một điểm
mà có độ dịch trục e nào đó.
- Loại truyền động này có kích thước nhỏ gọn hơn, truyền động êm hơn
răng cong, chạy ở tốc độ cao không ồn, có thể đặt thấp thùng xe hơn. Vì vậy, tốc
độ chuyển động trung bình của xe được tăng lên, điều này có ý nghĩa quan trọng
đối với ôtô du lịch và ôtô chở khách.
4. Trục vít bánh vít:
- Ưu điểm:
+ Có tỷ số truyền i0 lớn mà kích thước lại nhỏ, do đó trọng lượng bé.
+ Làm việc êm dịu.
+ Cho phép đặt vi sai ở giữa cầu sau, do đó có thể làm cho cầu sau đối
xứng và tháo lắp dễ dàng.
+ Khi đặt trục vít phía dưới sẽ hạ thấp được sàn xe cho nên giảm được
trọng tâm hg, do đó xe sẽ chuyển động ổn định hơn và có thể tăng được tốc độ
vận chuyển trung bình.
+ Nếu đặt trục vít lên trên bánh vít thì bôi trơn kém tuy góc nghiêng trục
cardan có giảm.
- Khuyết điểm:
+ Hiệu suất thấp (nếu lắp không chính xác thì trục vít chóng mòn).
- Truyền lực chính thường dùng trên ôtô vận tải loại trung bình và tải nặng.
Ngoài ra truyền lực chính kép được chế tạo gồm 2 cấp bánh răng ăn khớp.
- Nhờ áp dụng cặp truyền lực thứ 2 ở truyền lực chính nên tăng được tỷ số
truyền i0 mà không cần phải tăng khích thước bánh răng bộ vi sai, do đó kích
thước cầu sau sẽ nhỏ theo mặt phẳng thẳng đứng cho nên tăng được khoảng sáng
gầm xe.
III. ĐỘ CỨNG VỮNG CỦA TRUYỀN LỰC CHÍNH:
Đôï cứng vững của truyền lực chính phụ thuộc căn bản vào kết cấu của các
điểm tựa và phụ thuộc vào độ cứng vững của xe.
1. Độ cứng vững của bánh răng chủ động truyền lực chính:
- Qua thực tế người ta thấy rằng góc biến dạng của bánh răng truyền lực
chính lúc làm việc do có tác dụng của các lực sẽ phụ thuộc vào ổ bi nằm sát bánh
răng nón chủ động; phụ thuộc vào đường kính cổ trục tại các gối tựa và khoảng
cách các gối tựa; phụ thuộc vào độ căng lắp ghép ổ tựa và kết cấu ổ bi.
- Vì truyền lực chính thường làm bằng bánh răng nón xoắn nên luôn xuất
hiện lực chiều trục. Vì thế chọn ổ bi phải khử được lực chiều trục này, cho nên độ
cứng vững lớn nhất theo chiều trục phụ thuộc vào độ nghiêng của ổ thanh lăn (ổ bi
nón) và ổ bi cầu hai ổ đỡ và chặn (ổ bi cầu hai dãy đỡ chặn thì độ cứng vững theo
hướng kính lớn hơn nhiều).
- Để giảm góc uốn thì đường kính ổ trục và khoảng cách giữa các điểm
tựa phải chọn lớn.
- Để giảm công xôn trên bánh răng chủ động, khi lắp ổ thanh lăn hình nón
chú ý lắp sao cho các đầu hình nón của chúng hướng vào phía trong trục để giảm
độ côngxôn và khoảng cách giữa các gối tựa.
- Để tăng độ cứng vững của bánh răng chủ động người ta đặt ổ bi ở cả hai
phía của bánh răng (cách đặt này độ cứng vững tăng lên gấp 30 lần so với đặt
côngxôn như xe ( TA3-51 GMC). Tuy nhiên ở một số loại truyền lực kép khó bố
trí được theo phương pháp trên vì sẽ vướng cặp bánh răng ăn khớp thứ hai, còn
nếu đặt ổ bi ở cả hai phía của bánh răng thì kết cấu vỏ phức tạp.
B. BỘ TRUYỀN VI SAI:
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 51
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
I. CÔNG DỤNG, PHÂN LOẠI, YÊU CẦU:
1. Công dụng:
- Bộ vi sai đảm bảo cho các bánh xe quay với tốc độ khác nhau lúc xe quay
vòng hay chuyển động trên đường không bằng phẳng, hoặc có sự sai lệch về kích
thước của lốp, đồng thời phân phối lại moment xoắn cho hai nữa trục.
2. Phân loại:
- Theo công dụng chia thành: vi sai giữa các bánh xe, vi sai giữa các cầu, vi
sai giữa các truyền lực cạnh.
- Theo kết cấu chia thành: vi sai bánh răng nón, vi sai bánh răng trụ, vi sai
cam, vi sai trục vít, vi sai ma sát thuỷ lực, vi sai có tỷ số truyền thay đổi.
- Theo đặc tính phân phối moment xoắn chia thành: vi sai đối xứng
(moment xoắn phân phối điều trên các trục), vi sai không đối xứng (moment xoắn
phân phối không điều trên các trục).
3. Yêu cầu:
- Phân phối moment xoắn từ động cơ cho các bánh xe hay các cầu theo tỷ
lệ cho trước, phù hợp với trọng lượng bám của bánh xe với mặt đường.
- Đảm bảo số vòng quay khác nhau giữa các bánh xe chủ động khi ôtô vào
đường vòng, chạy trên đường gồ ghề hay trong nhiều trường hợp khác.
- Kích thước truyền động phải nhỏ.
- Hiệu suất truyền động cao.
II. PHÂN TÍCH CẤU TẠO BỘ VI SAI:
1. Vi sai đối xứng:
- Khi xe chạy thẳng trên đường bằng phẳng, lực cản lăn của hai bánh xe
chủ động bằng nhau, truyền lực chính kéo vỏ vi sai quay, trục chữ thập và bánh
răng hành tinh quay theo. Các bánh răng bán trục ăn khớp với các bánh răng hành
tinh cũng quay theo với tốc độ giống nhau, lúc này bánh răng hành tinh không
quay trên trục của nó, do đó hai bánh xe quay cùng tốc độ như nhau.
- Khi xe quay vòng, trục phía trong chịu lực cản lớn hơn nên quay chậm
lại, lúc này bánh răng hành tinh bắt đầu quay trên trục của nó do chịu tác dụng của
lực cản bánh xe phía trong truyền đến cho bánh răng hành tinh. Do đó làm tăng
thêm tốc độ bánh xe phía ngoài.
- Đặc điểm của loại vi sai này là kích thước bánh răng bán trục bên trái và
bên phải khác nhau.
- Nhiệm vụ của vi sai là dùng để phân phối moment xoắn không điều ra các
trục.
3. Cơ cấu gài vi sai cưỡng bức:
- Có công dụng để tăng tính năng thông qua của xe dùng cơ cấu vi sai
cưỡng bức. Nghĩa là nối cứng hai bán trục thành một trục liền, lúc đó moment ở
vỏ vi sai có thể truyền hết về một bán trục nào đấy nếu khả năng bám của bánh xe
với đường ở bán trục đó cho phép, như vậy tạo điều kiện vượt lầy rất tốt.
- Khi xe bị trượt tài xế gài vi sai kịp thời để lợi dụng động năng của xe mà
vượt lầy. Khi qua chỗ trượt rồi thì phải mở vi sai ngay để tránh mòn lốp và gây
cưỡng bức cho các chi tiết.
- Nhược điểm của cơ cấu này là phải có tác động của người tài xế có kinh
nghiệm sử dụng. Để khắc phục nhược điểm này người ta nghiên cứu các kết cấu
để tăng hệ số ma sát trong lên để khi xe bị trượt thì tự động gài vi sai và khi qua
chỗ trượt thì xe làm việc bình thường như: vi sai cam, vi sai bánh răng côn có
thêm đĩa ma sát.
4. Vi sai cam:
- Vi sai cam đặt theo hướng kính gồm có: bánh răng côn bị động (2) gắn
chặt với vỏ vi sai (3), ở một nữa vỏ vi sai (3) có chế tạo các vành ngăn (4), các
cam (5) được lắp vào vành ngăn đó và lại tựa trên vành cam ngoài (6) và vành
cam trong (7). Trên vành cam (6) và (7) có rãnh then hoa để nối với hai bán trục
truyền ra hai bên bánh xe. Khi moment quay truyền từ động cơ đến bánh răng côn
bị động (2) qua vỏ vi sai (3) và qua vành ngăn (4) truyền cho cam (5). Các đầu
cam (5) tỳ lên các vành cam (6) và (7) để truyền qua hai bên bán trục qua then
hoa. Nếu sức cản ở trên hai bánh xe chủ động như nhau thì cả hai bán trục quay
với tốc độ như nhau. Lúc này chốt (5) không dịch chuyển tương đối với bề mặt
cam (6) và (7).
- Trong trường hợp sức cản trên các bánh xe chủ động khác nhau, sẽ có
một bên bánh quay nhanh và một bên bánh quay chậm, cam (5) sẽ quay cùng với
bộ phận chủ động (3) đồng thời dịch chuyển theo hướng chiều trục. Khi đó sẽ xảy
ra sự trượt ở bề mặt làm việc của cam đối với bề mặt vành cam. Trên mặt cam của
bán trục quay chậm, tốc độ trượt của cam hướng theo chiều quay của bộ phận chủ
động. Còn trên mặt cam của bán trục quay nhanh hướng về chiều ngược lại.
- Vi sai cam có ứng suất tiếp xúc khá lớn, do có sự trượt của cam theo bề
mặt theo bề mặt làm việc của vành cam sẽ làm mòn nhanh các chi tiết của vi sai.
C. BÁN TRỤC:
I. CÔNG DỤNG, PHÂN LOẠI, YÊUCẦU:
1. Công dụng:
- Dùng để truyền moment từ truyền lực chính đền các bánh xe chủ động.
2. Phân loại:
Theo kết cấu của các ổ tựa chia ra:
- Bán trục không giảm tải
- Bán trục giảm tải 1/2.
- Bán trục giảm tải 3/4.
- Bán trục giảm tải hoàn toàn.
3. Yêu cầu:
- Truyền được moment quay đến các bánh xe chủ động.
- Khi truyền moment đến các bánh xe dẫn hướng và chủ động phải đảm
bảo tốc độ góc của bánh xe điều đặn.
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 55
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
II. PHÂN TÍCH KẾT CẤU CÁC LOẠI BÁN TRỤC TRÊN ÔTÔ:
Tuỳ theo mức độ chịu lực hướng kính và lực chiều trục phân thành bán trục
không giảm tải, giảm tải 1/2 , giảm tải 3/4 và giảm tải hoàn toàn.
1. Bán trục không giảm tải:
- Ổ tựa bên trong và bên ngoài đặt trực tiếp lên bán trục. Loại này hiện nay
không sử dụng vì làm việc căng thẳng.
2. Bán trục giảm tải 1/2 :
- Ổ tựa bên trong đặt trên vỏ vi sai và ổ tựa bên ngoài đặt trực tiếp lên bán
trục.
3. Bán trục giảm tải 3/4:
- Ổ tựa bên trong đặt trên vỏ vi sai và ổ tựa bên ngoài đặt lên dầm cầu và
moyeu bánh xe mà không đặt trực tiếp lên bán trục.
4. Bán trục giảm tải hoàn toàn:
- Ổ tựa bên trong đặt trên vỏ vi sai và 2 ổ tựa bên ngoài đặt lên dầm cầu và
moyeu bánh xe mà không đặt trực tiếp lên bán trục.
- Ở ôtô, dầm cầu dẫn hướng không chủ động nối với khung bởi hệ thống
treo phụ thuộc gồm: nhíp (1), dầm (2) được nối với khung qua nhíp (1).
- Ở hai đầu dầm có hai lỗ trụ là hai trục đứng (4), cam quay (3) nối với cần
(2) bởi trục đứng (4), trên cam quay (5) có bánh xe (6) quay tự do. Ở cam quay (5)
có đòn quay (3) với đầu hình cầu để nối với hệ thống lái. Việc quay của cam được
điều khiển bởi người lái qua hệ thống lái.
- Đối với ôtô có hệ thống treo trước độc lập thì không làm dầm cầu liền mà
làm dầm cầu cắt. Dùng dầm cầu cắt với hệ thống treo khác nhau được nghiên cứu
ở chương hệ thống treo.
2. Cầu dẫn hướng chủ động:
- Do ảnh hưởng bởi góc nghiêng ngoài nên hai bánh xe có xu hướng quay
theo tâm của nó khi chuyển động, nghĩa là bánh xe bên phải sẽ lăn về phía bên
phải và bánh xe bên trái sẽ lăn về phía bên trái. Do đó sẽ làm cho bánh xe chuyển
động đi ra ngoài phương chuyển động của ôtô.
- Hiện tượng này sẽ gây nên sự hao mòn của lốp và hư hỏng các chi tiết của
cụm bánh xe dẫn hướng.
- Để khắc phục hiện tượng trên đây các bánh xe dẫn hướng điều được đặt
độ chụm nhất định. Khi đặt bánh xe có độ chụm, các bánh xe sẽ lăn theo vòng
cung của tâm O1 (hình vẽ). Tâm này sẽ chuyển dịch về phía trước so với trục cầu
dẫn hướng.
- Thông thường độ chụm bánh xe δ = 1,5- 12 mm
- Độ chụm bánh xe phụ thuộc góc nghiêng ngoài.
- Độ chụm bánh xe được điều chỉnh nhờ đai ốc điều chỉnh ở giữa đòn
ngang của hình thang lái.
- Góc nghiêng trong của trục đứng tạo thành bởi trục đứng và mặt thẳng
đứng. Mục đích là nhằm giảm khoảng cách cánh tay đòn a do đó moment cần thiết
để quay vòng xe nhỏ và người lái điều khiển được nhẹ nhàng.
- Thông thường góc nghiêng trong của trục đứng = 0o- 12o
- Ngoài ra do cách đặt góc nghiêng này mà còn có tác dụng làm ổn định
chuyển động thẳng ôtô.
d. Góc nghiêng sau của trục đứng (Caster Angle)
- Khi quay bánh xe sẽ sinh ra moment tạo bởi lực cản ngang của bánh xe tác
dụng lên cánh tay đòn x. Cho nên góc nghiêng sau của trục đứng sẽ làm tăng
tính ổn định chuyển động thẳng của ôtô.
CHƯƠNG III
HỆ THỐNG
ĐIỀU KHIỂN
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 62
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
- Ưu điểm của loại này là giảm được trọng lượng và kích thước so với loại
trục vít – bánh răng.
- Cung răng có thể là cung răng thường hoặc cung răng bên. Cung răng bên
có ưu điểm tiếp xúc theo toàn bộ chiều dài răng, do đó giảm được ứng suất tiếp
xúc và răng ít hao mòn cho nên thích hợp với ôtô tải lớn.
b). Trục vít – con lăn:
- Loại này có ưu điểm vì trục vít có dạng glopoit cho nên chiều dài trục vít
không lớn nhưng sự tiếp xúc các răng ăn khớp được lâu hơn, nghĩa là giảm được
áp suất riêng và tăng độ chống mòn.
- Tải trọng tác dụng lên chi tiết được phân tán, tuỳ theo cở ôtô mà có 2 đến
4 vòng ren.
- Giảm ma sát, do ma sát lê thay bằng ma sát lăn.
- Có khả năng điều chỉnh khe hở ăn khớp.
- Loại cùng khối (intergral type) trong loại này, piston và xy lanh lực được
lắp đặt trực tiếp cùng khối với cơ cấu lái tại cột lái.
- Loại cần đẩy (Linkage type), trong loại xy lanh này và piston lực được lắp
ráp giữa sườn xe và cơ cấu dẫn động lái như giới thiệu nơi hình 159A, B.
Bộ lái trợ lực loại cùng khối được sử dụng rộng rãi. Bộ lái trợ lực loại cần
đẩy được sử dụng nhiều cho ôtô tải.
2. Bơm thủy lực:
Trong lúc xe lăn bánh, bơm thủy lực hoạt động liên tục để cung cấp áp suất
thủy lực cao cho cơ cấu lái. Bơm được dẫn động do cây curoi và buli trục khuỷu.
Hình 160 trình bày kết cấu của một bơm thủy lực loại cánh van (vane type). Các
cánh van trượt vào ra trong rôto và luôn luôn tiếp xúc với vách bơm dạng ôvan.
Khi rôto quay, các cánh van bung ra trong khoang lớn và thu vào trong khoang
hẹp giữa rôto và vách bơm, tạo lực hút, đẩy dầu thủy lực. Trong bơm có trang bị
van điều áp để giới hạn áo suất tối đa của bơm khoảng 750 PSI (52,50 kg/cm2).
Do đặc tính liên kết ốc – vít giữa trục vít (6) với đai ốc bị hồi chuyển (5),
nên khi ta xoay vành lái, một lực cản nhẹ ban đầu sẽ tạo ra lực đẩy dọc (endwise
thrust) tác động lên trụ lái., Chính lực đẩy dọc này làm cho van (3) dịch chuyển
theo chiều dọc một khoảng nhỏ vài dem (1 dem : 1/10 ly). Hướng dịch chuyển của
van (3) tùy thuộc vào chiều xoay vành lái và sẽ đóng hoặc mở các mạch dầu, nhờ
vậy, mặt trước hay mặt sau của piston lực (2) liên lạc được vớm bơm thủy lực và
bình chứa dầu.
Ví dụ muốn xe rẽ trái, ta xoay vành lái qua trái, van trượt (3) sẽ nhích qua
phải đóng mạch dầu 5’ và mạch dầu 2’ cách ly khỏi bơm thủy lực. Lúc này mặt
trước của piston lực (2) liên lạc với bơm thủy lực qua mạch dầu 4’ mặt sau của nó
liên lạc với bình chứa dầu qua mạch 2’ và 1’. Vì vậy piston lực được áp suất dầu
đẩy qua phải điều khiển cho xe rẽ trái.
Khi hai bánh xe dẫn hướng đã đạt được góc độ bẻ lái cần thiết, vành lái
ngưng xoay, lực cản nhẹ ban đầu kc òn, lực đẩy dọc trụ lái cũng triệt tiêu. Lúc này
các chốt và lò xo (1) đưa van trượt (3) về vị trí trung hòa hay vị trí hướng thẳng. Ở
vị trí này của van, tất cả các mạch 1’, 2’, 3’, 4’ và 5’ đều mở. Áp suất thủy lực tác
động đều lên hai mặt piston lực, giữ nó đứng tại chỗ duy trì góc bẻ lái cần thiết có
sẵn của hai bánh xe dẫn hướng. Nhờ vậy góc độ bẻ lái của hai bánh xe trước
không tự tăng quá ý muốn của người lái xe.
Lúc xoay vành lái cho xe rẽ phải, van (3) sẽ nhích qua trái đóng mở các
mạch dầu điều khiển cho bơm thủy lực tác động vào mặt sau của piston lực qua
mạch 3’ và mạch 2’. Số dầu phía trước piston lực sẽ theo mạch 4’ đến mạch 5’ trở
lại thùng chứa.
Sau khi xe qua khúc quanh, ta buông hẳn mạch 5’ trở lại thùng chứa.
Sau khi xe qua khúc quanh, ta buông hẳn vành lái, hai bánh xe trước tự trả
về hướng thẳng, van (3) mở thông tất cả 5 mạch, dầu hồi trở lại thùng chứa.
Khi xe chạy thẳng, cả hai mặt piston đều có lực tác động do áp suất của dầu
thủy lực, lúc này bơm thủy lực hoạt động không tải nên bớt tiêu tốn công suất của
động cơ.
Sau đây ta tìm hiểu thêm hệ thống trợ lái thủy lực loại cần đẩy trang bị trên
ôtô MAZ-500 (hình 166). Xy lạnh lực (5) cùng khối với van phân phối (1) và vỏ
(4). Xy lạnh lực được gắn trên dầm dọc bên trai của sườn xe, nhờ khớp bản lề hình
cầu (7) tại đầu cuối của cần (60 của piston lực. Khi hoạt động, cần và piston lực
đứng yên, trong lúc xy lạnh lực dịch chuyển do áp suất dầu thủy lực dồn vào
khoang bên phải hay bên trái của xy lạnh lực. Lúc xoay vành lái, đòn quay đứng
tác động van phân phối để van này chia dầu vào một phía của xy lạnh lực và cho
dầu của phía kia trở về thùng chứa.
- Cơ cấu loại phanh guốc có hai guốc phanh quay quanh chốt lệch tâm và
đặt đối xứng với xi lanh làm việc.
- Phanh guốc có kết cấu đơn giản, điều chỉnh khe hở giữa má phanh và
trống phanh bằng cam quay và chốt lệch tâm.
- Để đảm bảo độ mòn đồng điều ở hai má phanh thì má của guốc phanh có
hiệu quả cao ( tự siết) được làm dài hơn.
* Ngoài ra còn có cơ cấu phanh với xi lanh làm việc có đường kính piston
khác nhau. Lực tác dụng lên hai guốc phanh trong trường hợp này sẽ khác nhau,
má phanh bên phải làm việc thuận lợi hơn vì có hiện tượng tự siết, vì thế má
phanh bên phải cần ít lực ép hơn nên đường kính piston nhỏ hơn.
- Ưu điểm của loại này là má phanh mòn điều, cơ cấu này làm việc tốt khi
quay theo chiều hình vẽ (chiều tiến ôtô) và làm việc không tốt khi theo chiều
ngược lại (chiều lùi ôtô).
* Trên hình trình bày cơ cấu có hai xi lanh làm việc ở hai guốc phanh. Mỗi
guốc phanh quay quanh chốt lệch tâm, bố trí đối xứng với đường trục của cơ cấu
phanh nhằm tăng hiệu quả khi ôtô chạy tiến, nhưng lại giảm thấp hiệu quả khi ôtô
chạy lùi. Vì vậy loại này dùng cho ôtô nhỏ và thường dùng ở cầu trước.
- Các guốc phanh trên các cơ cấu phanh trình bày trên đây điều có một
điểm tựa cố định (chốt lệch tâm) nghĩa là guốc phanh chỉ có một bậc tự do.
* Sau đây là cơ cấu phanh loại bơi, guốc phanh ở cơ cấu có hai bậc tự do
và không có điểm tựa cố định. Ở cơ cấu phanh loại bơi, hai xi lanh làm việc điều
tác dụng lên đầu trên và đầu dưới của guốc phanh. Khi phanh các guốc phanh sẽ
chuyển dịch dọc theo chiều ngang và ép má phanh sát vào trống phanh. Nhờ ma
sát má phanh bị cuốn theo ống xi lanh làm việc tỳ sát vào điểm tựa cố định, lúc đó
hiệu quả phanh sẽ tốt hơn.
Hiệu quả phanh của ôtô khi tiến hay lùi đều bằng nhau. Cơ cấu phanh loại
này có khuyết điểm là kết cấu phức tạp.
+ Đối với cơ cấu phanh tự cường hoá dùng lực ma sát giữa má phanh trước
và trống phanh để cường hoá hiệu quả phanh cho má phanh sau (vì guốc phanh
trước được nối với guốc phanh sau nhờ thanh trung gian)
- Khi trống phanh quay theo chiều nào đó sẽ có một guốc phanh tựa vào
một điểm tựa cứng (2). Đặc điểm của cơ cấu phanh này là hiệu quả phanh tiến và
lùi như nhau. Tuy nhiên các piston của cơ cấu phanh này có đường kính khác
nhau. Một piston tác dụng trực tiếp lên guốc phanh trước, còn piston có đường
kính nhỏ tác dụng lên guốc phanh sau qua đòn (1). Đầu dưới của đòn (1) được nối
với guốc phanh trước qua thanh (2). Nhờ có tỷ số truyền của đòn (1) cho nên lực
của piston nhỏ tác dụng lên guốc phanh sau được tăng lên. Do đó khi thiết kế chọn
tỷ số truyền của đòn (1) như thế nào để bù lại sự khác nhau giữa đường kính của
hai piston, nhờ thế mà lực tác dụng lên hai guốc phanh bằng nhau.
- Khi ôtô tiến, cả hai guốc phanh muốn quay cùng chiều với trống phanh để
tựa vào điểm tựa (3) và (4). Khi ôtô lùi, guốc phanh trái bị trống phanh cuốn theo
rời điểm tựa (3), (4) và tỳ vào điểm tựa (5). Cho nên cơ cấu phanh này hiệu quả
phanh khi ôtô tiến lớn hơn ôtô lùi.
- Ở trường hợp các piston của cơ cấu phanh đối xứng nhau thì lực ma sát
guốc phanh trước truyền sang guốc phanh sau nhờ thanh (4) và guốc phanh sau sẽ
tỳ vào điểm tựa (3) khi phanh.
2. Phanh đĩa:
- Phanh đĩa hiện nay được sử dụng khá rộng rãi trên các ôtô. Phanh đĩa
được chia làm hai loại: loại đĩa quay và loại vỏ quay.
- Phanh đĩa loại đĩa quay: Đĩa phanh ở phía ngoài có trọng lượng nhỏ,
thường được sử dụng ở phanh trước hoặc phanh tay ở ôtô tải.
- Nhược điểm của loại phanh này là rất dễ bị hư hỏng do bụi bẩn rơi vào
khi chạy trên đường đất.
- Phanh đĩa loại vỏ quay: Khi phanh các piston ở xi lanh con (3) sẽ đẩy các
đĩa (1) dịch chuyển tương đối với nhau trong mặt phẳng quay của bánh xe theo
hướng ngược chiều nhau. Nhờ có rãnh riêng ở đĩa (1) nên các hòn bi (2) chạy theo
rãnh để ép các đĩa ma sát sát vào vỏ và tiến hành phanh.
- Ưu điểm của phanh đĩa so với phanh guốc:
- Aùp suất trên bề mặt ma sát của má phanh giảm và phân bố đều do đó
má phanh ít mòn và mòn đều.
- Điều kiện làm mát tốt, bảo đảm moment quay như nhau khi tiến và lùi.
- Lực dọc trục tác dụng lên đĩa cân bằng.
1- Pedal phanh
2- Bầu trợ lực phanh
3- Xilanh chính
4- Bình đựng dầu phanh
2. Phanh khí:
a) Thành phần của hệ thống phanh khí nén:
Hình trên giới thiệu sơ đồ hệ thống phanh khí nén, gồm các thành phần và
công dụng của chúng như sau :
- Máy nén không khí : do động cơ dẫn động, cung cấp khí nén để tác động
phanh hãm xe.
- Bình chứa khí nén : gồm 2 bình chứa khí nén do bơm nạp vào. Chúng có
khả năng cung cấp khí nén cho tám đến mười lần phanh trong trường hợp bơm
nén khí bị hỏng.
- Van điều áp : giới hạn áp suất khí nén ở mức quy định do bơm nén không
khí cung cấp (khoảng 7,7 kg/cm2)
- Tổng van điều khiển (Van phân phối) : khi tác động bàn đạp phanh, van sẽ
phân phối khí nén từ bình chứa đến các buồng phanh (búp sen). Lúc thổi phanh,
van xã khí nén từ buồng phanh thoát ra không khí.
- Bầu phanh : mỗi bánh xe có một bầu phanh, công dụng của bầu phanh là
biến đổi áp suất khí nén thành lực đẩy cơ khí để bung càng phanh hãm xe.
b) Hoạt động của hệ thống phanh khí nén:
Hình 236 giới thiệu sơ đồ kết cấu của một loại tổng van điều khiển. Khi ấn
vào bàn đạp phanh, piston P đi xuống bít lỗ giữa của van chân hơi S. Ấn thêm bàn
đạp phanh, van S sẽ mở cho khí nén từ bình chứa (5) đi vào ống dẫn đến buồng
phanh trước (3) và buồng phanh sau (8).
Tại buồng phanh (hình 237B), áp suất khí nén tác động vào màng cao su
(2’) làm cho cần (3’) và chạc (10) dịch qua phải đẩy cần điều khiển xoay trục cam
(16) ấn càng phanh cọ vào tambua hãm xe. Lúc buông bàn đạp phanh, lò xo R1
của tổng van đẩy piston P lên, van S đóng bệ của nó ngắt liên hệ giữa bình khí nén
với ống dẫn. Khí nén dùng xong từ các buồng phanh tháo trở lại tổng van theo lỗ
Tổng van điều khiển. Xy lanh thủy lực bố trí ở đầu xy lanh chân không. Xy
lanh chân không được ngăn đôi nhờ vách giữa. Piston chân không P1 và P2 cùng
cây đẩy với piston-cúppen thủy lực P4. Xy lanh chân không được chia thành 4
khoang : (1), (2), (3) và (4). Khoang (3) thông với khoang (1), thông tiếp đến vùng
dưới màng M và với bơm chân không. Khoang (4) thông với khoang (2) xuyên
qua ống rỗng của cây đẩyvà liên lạc với vùng phía bên trên màng M.
b/- Hoạt động:
Để hiểu rõ nguyên lý hoạt động của hệ thống phanh trợ lực chân không-
thủy lực, ta tìm hiểu ba chế độ hoạt động khác nhau sau đây :
- Có chân không nhưng chưa đạp phanh. Ở chế độ này, piston-cúppen P3,
van V3 và màng M rơi xuống do sức bung của lò xo R3, lò xo R2 ấn van không
khí V2 đóng cách ly áp suất không khí. Độ chân không tác dụng thông suốt qua 4
khoang theo mạch sau đây :
- Có chân không, ấn vào bàn đạp phanh : Aùp suất thủy lực từ xy lanh cái
nâng piston-cúppen P3, van V3 và màng M đi lên. V3 áp kín vào M làm cách ly
ngăn trên và ngăn dưới của màng M, đồng thời nâng V2 mở cho không khí lùa
vào khoang (2), áp suất không khí theo cây đẩy rỗng đến khoang (4). Lúc này
khoang (3) và khoang (1) thông với chân không nên áp suất không khí tác động và
mặt sau của P1, P2 đẩy hai piston này tiến tới, cây đẩy C1 lùa piston và cuppen P4
tới bơm dầu phanh xuống các xy lanh con với áp suất rất lớn để hãm xe.
Khi thôi phanh, áp suất thủy lực trong xy lanh cái mất, lò xo R3 đẩy P3, V3
và màng M tụt xuống, van không khí V2 đóng. Lúc nàyphòng dưới và phòng trên
của màng M thông nhau, sức hút của bơm chân không hút hết không khí trong các
khoang (2) và (4). Có nghĩa là lúc này hai mặt các piston P2, P2 đều là chân
không nên lò xo R1 đẩy P1 và P2 lui về vị trí cũ. V4 mở trống lỗ giữa của piston
thủy lực P4, dầu phanh từ các xy lanh con hồi về theo lỗ này trở lại xy lanh cái.
- Mất chân không, tác động phanh : đây là trường hợp phanh nguội, , có nghĩa
là phanh không có trợ lực, phải ấn chân thật mạnh vào bàn đạp phanh, Dầu
phanh từ xy lanh cái chui qua lỗ giữa piston và cúppen P4 bơm xuống các xy
lanh con tác động càng phanh hãm xe.
- Chế độ “rà” phanh : đó là trường hợp khi bàn đạp phanh được ấn xuống
đến vị trí lưng chừng ở giữa vị trí buông hoàn toàn và vị trí ấn xuống hoàn toàn..
Lúc này van không khí V2 được hé mở, không khí lùa vào ít, piston chân không
P1, P2 nhích nhẹ để tác động phanh vừa phải. Hình 242 giới thiệu hình dáng bên
ngoài bộ Servo chân không thủy lực Hydrovac trang bị trên xe tải.
Cơ cấu phanh trợ lực chân không thủy lực của ôtô du lịch (ôtô con)
ống góp hơi hút của động cơ, độ chân không này vào khoảng 17-21 inch – thủy
ngân (in.Hg). Từ ống góp hút của động cơ, một ống nối dẫn chân không đến bầu
phanh trợ lực chân không (Vacuum Brake Booster). Trên đường ống có bố trí bầu
lọc than (charcoal filter) . Bầu lọc than có công dụng hút giữ hơi xăng không cho
hơi xăng này lọt vào bầu phanh trợ lực chân không nhằm bảo vệ các chi tiết và
màng chắn làm bằng cao su.
Nguyên lý kết cấu và hoạt động của cơ cấu phanh trợ lực này cũng tươơng
như của xe tải vừa mô tả ở trên. Ở chế độ buông bàn đạp phanh, độ chân không từ
ống góp hơi hút (4) tác động vào cả 2 mặt màng chắn (1) nên màng và cây đẩy (6)
đứng yên (hình 245).
Khi ấn vào chân phanh (hình 246), van không khí (5) bít kín mặt sau của
màng (1), đồng thời mở cửa cho không khí lùa vào bầu phanh trợ lực chân không.
Lúc này mặt trước màng (1) là sức hút mặt sau là áp suất lên màng (1) tác động
cây đẩy (6) điều khiển piston-cúppen xy lanh cái bơm dầu phanh xuống các xy
lanh con hãm xe.
2. Xilanh con:
Thân được đúc bằng gang, bên trong xilanh có lắp 2 piston và 2 bát cao su,
nhờ có lò xo nên bát cao su được ép chặt với piston, ở đầu còn lại của piston có
cần đẩy tì vào cần trên của chốt má phanh, 2 đầu xilanh có gắn bạc bằng cao su,
dầu từ xi lanh chính qua rãnh dưới đi theo ống dẫn dầu còn rãnh trên dùng để xả
không khí.
Hệ thống phanh thủy lực dùng xy lanh cái kiểu piston đơn dễ gây ra tai
nạn, đó là trường hợp một xy lanh con trong những bánh xe bị xì hay có một
đường ống của bánh xe sau hoặc trước bị vỡ, thì toàn bộ hệ thống phanh mất áp
suất, mất hết tác dụng.
Để cải tiến người ta thiết kê kiểu xy lanh cái piston kép. Hiện nay kiểu này
được trang bị rộng rãi cho hệ thống phanh ôtô đời mới (hình 210). Trong xy lanh
cái có hai piston và cuppen (4), (5) đặt nối tiếp nhau. Mỗi piston có một bình dầu
phanh riêng rẽ. Lò xo xoắn (7) luôn luôn ấn các piston về vị trí buông bàn đạp
phanh hoàn toàn. Bộ piston cuppen thứ nhất (5) bơm dầu phanh cho các xy lanh
con hai bánh xe trước. Bộ piston cuppen thứ hai (4) bơm dầu cho hai bánh xe sau.
Bên trong hai lỗ thoát đưa dầu phanh đến các bánh xe có bố trí van liên hợp.
Khi buông hoàn toàn bàn đạp phanh, cả hai bộ piston trở về vị trí nghỉ, phía trước
các piston đầy ắp dầu phanh, các lỗ bù được mở (hình 211A).Lúc ta ấn bàn đạp
phanh, piston thừ nhất tiến tới đóng kín lỗ bù của nó, tạo áp suất bơm dầu phanh
xuống hai bánh xe trước. Đồng thời nó tạo áp suất phía sau piston này tới bít lỗ bù
của nó và bơm dầu xuống hai bánh xe sau (hình 211B). Hình 211C giới thiệu
trường hợp ống dầu của các bánh xe trước bị vỡ, hai bánh xe này bị mất tác dụng
phanh. Khi piston thứ nhất chạm vào đuôi piston thứ hai sẽ đẩy piston này tiến tới
bơm dầu phanh xuống hai bánh xe sau để hãm xe như bình thường. Nếu đường
dầu của hai bánh xe sau bị vỡ như giới thiệu trên hình 211D thì hai bánh xe trước
vẫn được hãm tốt như bình thường.
4. Các loại van điều chỉnh trong hệ thống phanh:
a/- Van phân lượng:
Nhiều ôtô trang bị 2 bộ phanh đĩa phía trước và hai bộ phanh tambua phía
sau có thêm van phân lượng. Van này được bố trí trên đường ống dẫn dầu phanh
đến hai bánh xe trước như giới thiệu trên hình 229. Vì phanh đĩa tác động nhanh
hơn phanh tambua nên van phân lượng có công dụng điều chỉnh áp suất thủy lực
sao cho phanh đĩa tác động sau khi phanh tambua đã tác động. Việc này giúp cho
xe không bị chúi đầu và rê đít khi tác động nhẹ vào bàn đạp phanh.
Van cân bằng không gây ảnh hưởng đến áp suất thủy lực tác động phanh
bình thường. Tuy nhiên khi phanh mạnh đột xuất, áp suất dầu phanh đạt đến trị số
quy định, gọi là đạt đến điểm chia (split point) van sẽ tự động điều chỉnh giảm bớt
áp suất thủy lực tác động vào hai bánh xe sau. Nếu ôtô trang bị hệ thống âm thanh
phân chia áp suất thủy lực chéo góc thì phải có hai van phân lượng mỗi van cho
một bánh xe phía sau. Tùy theo cách chế tạo, van cần bằng có thể được bố trí ở lỗ
thoát của xy lanh cái hay phối hợp thành van cân bằng kép đặt bên ngoài xy lanh
cái (hình 230).
Một số ôtô tải nhẹ được trang bị van cảm biến tải hay cảm biến chiều cao
phía sau xe. Nếu xe chở nặng, phía sau xe bị sệ thấp xuống, van sẽ phân phối áp
suất thủy lực đến bánh xe phía sau nhiều hơn.
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 98
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
Hình: Bộ cảm biến ở bánh xe gồm vòng răng cảm biến và một cảm biến
namchâm vĩnh cửu. Việc ngắt từ trường nam châm cảm biến bởi các răng sẽ
tạo ra tín hiệu điện áp dao động.
b)- Cảm biến giảm tốc : (chỉ có ở một vài kiểu xe)
Việc sử dụng cảm biến giảm tốc cho phép ABS ECU đo trực tiếp sự giảm
tốc của xe trong quá trình phanh. Vì vậy, nó cho phép biết rõ hơn trạng thái của
mặt đường. Kết quả là mức độ chính xác khi phanh được cải thiện để tránh cho
các bánh xe không bị bó cứng. Cảm biến giảm tốc độ còn gọi là “cảm biến G”.
+ Cấu tạo :
Cảm biến giảm tốc độ bao gồm hai cập đèn LED (diod phát quang) và
phototransistor (transitor quang), một đĩa xẻ rãnh và một mạch biến đổi tín hệu.
Cảm biến giảm tốc độ nhận biết mức độ giảm tốc độ của bánh xe và gửi các tín
hiệu về ABS ECU. ECU dùng những tín hiệu này để xác định chính xác tình trạng
mặt đường và thực hiện các biện pháp điều khiển thích hợp.
+ Hoạt động :
Khi mức độ giảm tốc độ của bánh xe thay đổi, đĩa xẻ rãnh lắc theo chiều
dọc xe tương ứng với mức giảm tốc độ. Các rãnh trên đĩa cắt ánh sáng từ đèn LED
đến phototransistor, và làm cho phototransistor đóng, mở. Người ta sử dụng hai
cập đèn LED và phototransistor. Tổ hợp tạo bởi các phototransistor này tắt và bật,
chia mức độ giảm tốc thành bốn mức và gửi về ABS ECU dưới dạng tín hiệu.
c)- Bộ chấp hành ABS :
Bộ chấp hành ABS cấp hay ngắt áp suất dầu từ xilanh chính đến mỗi
xilanh theo tín hiệu từ ECU để điều khiển tốc độ bánh xe. Có nhiều kiểu bộ
chấp hành ABS.
* Kiểu điều khiển tất cả các bánh :
- Nguồn là bơm trợ lực lái van điện hai vị trí.
- Nguồn là một môtơ riêng van điện hai vị trí.
van điện ba vị trí.
+ Cấu tạo :
Có thể chia bộ chấp hành theo chức năng thành 2 cụm :
Cụm 1 :
- Van điện 3 vị trí (cụm điều khiển).
- Chức năng : Trong quá trình hoạt động của hệ thống ABS, ABS ECU
lựa chọn một trong 3 chế độ (tăng áp, giảm áp và giữ áp) tùy theo tín hiệu từ ABS
ECU.
Cụm 2 :
- Bình chứa và bơm (cụm giảm áp).
- Chức năng : Khi áp suất giảm, dầu phanh hồi về từ các xilanh bánh
xe và nó được đưa đến xilanh chính nhờ bơm và vào bình dầu bộ chấp hành. Đây
là bơm kiểu piston được dẫn động bằng môtơ.
+ Hoạt động của bộ chấp hành :
* Chế độ phanh bình thường: (ABS không hoạt động).
ABS không hoạt động trong quá trình phanh bình thường và ABS
ECU không gởi dòng đến cuộn dây của van điện. Do đó, van ba vị trí ấn xuống
bởi lò xo hồi vị và cửa “A” vẫn mở trong khi cửa “B” vẫn đóng, môtơ bơm không
hoạt động.
CHƯƠNG IV
HỆ THỐNG
CHUYỂN ĐỘNG
Câu hỏi ôn
tập:
- Câu 1: Nêu công dụng, phân loại của khung xe dùng trên ôtô?
- Câu 2: Hãy phân tích kết cấu của các kiểu khung xe dùng trên ôtô ?
- Hệ thống treo độc lập có ưu điểm chủ yếu là tăng được khá nhiều tính êm
dịu của ôtô khi chuyển động ở các điều kiện đường sá khác nhau, nhưng còn
nhược điểm là kết cấu phức tạp, vì thế nó được sử dụng nhiều ở ôtô chuyển động
tốc độ lớn.
- Hệ thống treo gồm 3 phần chính: Bộ phận hướng, bộ phận đàn hồi và bộ
phận giảm chấn.
1. Bộ phận hướng:
- Bộ phận hướng dùng để xác định động học và tính chất dịch chuyển của
các bánh xe tương đối với khung hay vỏ ôtô và dùng để truyền lực dọc (lực kéo
hoặc lực phanh), lực ngang cũng như các moment phản lực.
- Ở hệ thống treo phụ thuộc nhíp vừa làm nhiêïm vụ bộ phận đàn hồi vừa
làm nhiệm vụ bộ phận hướng.
- Ở hệ thống treo độc lập bộ phận hướng được làm riêng lẻ. Yêu cầu là phải
đảm bảo vị trí bánh xe khi ôtô chuyển động thì sự dịch chuyển của bánh xe sẽ
không làm thay đổi chiều rộng và chiều dài cơ sở ôtô.
- Ở hệ thống treo phụ thuộc, khi các bánh xe dẫn hướng được nối với nhau
bởi dầm cầu liền thì không thể đảm bảo đúng động học của các bánh xe. Cũng cần
chú ý rằng không phải tất cả hệ thống treo độc lập điều có động học đúng của các
bánh xe dẫn hướng.
Bộ phận hướng ở hệ thống treo độc lập có các dạng sau đây:
* Bộ phận hướng có 1 đòn.
* Bộ phận hướng hình bình hành có hai đòn ngang bằng nhau.
* Bộ phận hướng hình thang có hai đòn ngang không bằng nhau.
- Các ôtô du lịch hiện nay, chiều rộng cơ sử cho phép thay đổi từ 4 5mm
trên mỗi bánh xe để không làm trượt bánh xe trên mặt tựa ( b 4 5mm )
- Kết cấu của nhíp gồm nhiều lá nhíp ghép lại. Các lá nhíp này được ghép
lại với nhau bằng boulon trung tâm. Các lá nhíp có thể dịch chuyển tương đối với
nhau theo chiều dọc. Do đó khi nhíp biến dạng sẽ sinh ra sự ma sát làm giảm các
dao động khi ôtô chuyển động.
- Trong trường hợp tải trọng tác dụng lên cầu có thể thay đổi đột ngột như
ở cầu sau của ôtô tải người ta bố trí nhíp đôi, gồm nhíp chính và nhíp phụ. Khi
không chở hàng thì nhíp chính làm việc, còn khi có tải trọng thêm thì nhíp phụ
làm việc. Sử dụng nhíp đôi sẽ làm cho hệ thống treo có độ êm dịu tốt hơn.
- Nhíp phụ có thể đặt trên hoặc dưới nhíp chính tuỳ theo vị trí của cầu và
khung, kích thước của nhíp và biến dạng yêu cầu của nhíp.
- Khi bố trí nhíp dọc thì lá trên cùng của nhíp sẽ làm việc nặng hơn vì
ngoài nhiệm vụ đàn hồi còn truyền lực đẩy và phanh.
b). Lò xo:
- Lò xo trụ được dùng nhiều ở ôtô du lịch vơi hệ thống treo độc lập. Lò xo
trụ có ưu điểm là kết cấu đơn giản, kích thước gọn gàng nhất là khi bố trí giảm
chấn nằm lồng trong lò xo.
Chú ý: Các đường dầu rất nhỏ gây nên ma sát do đó tạo nên hiện tượng
giảm chấn.
Nguyên lý làm việc của bộ phận giảm chấn dựa trên nguyên tắc chuyển
dịch chất lỏng từ buồng này sang buồng khác qua các van tiết lưu nhỏ. Khi chất
lỏng đi qua các van tiết lưu đó sẽ sinh ra sức cản lớn của dòng chất lỏng. Do đó
dập tắt được chấn động của ôtô khi chuyển động.
III. HỆ THỐNG TREO ĐIỆN TỬ:
1. Giới thiệu về hệ thống treo điện tử(TEMS)
TEMS là viết tắt của cụm từ “Toyota Electronically Modulated Suspension” tức là
hệ thống treo điều khiển điện tử của Toyota”.
Với hệ thống này, người lái có thể dùng công tắc để lựa chọn một trong hai chế độ
lực giảm chấn của giảm chấn: bình thường hay thể thao, mà anh ta thích. Lực
giảm chấn sau đó được tự động điều chỉnh đến một trong ba chế độ (mềm, trung
bình, cứng) nhờ TEMS ECU (bộ điều khiển điện tử) dựa trên chế độ đã lựa chọn
Giáo Trình Cấu tạo Khung-Gầm Ôtô Trang 123
Trường CĐ GTVT Tp.HCM Khoa Kỹ Thuật Ô Tô
và điều kiện lái xe. Nó làm tăng tính êm dịu chuyển động và cải thiện tính ổn định
lái.
2. Đặc điểm của hệ thống treo điện tử
a). Thay đổi chế độ giảm chấn:
Người lái có thể lựa chọn chế độ bình thường hay thể thao bằng công tắc lựa chọn
chế độ. Khi xe chạy ở chế độ bình thường, do phải đảm bảo cho việc duy trì tính
êm dịu chuyển động, nên ECU đặt lực giảm chấn ở chế độ mềm. Ở chế độ thể
thao, lực giảm chấn được đặt ở chế độ trung bình.
b). Điều khiển chống chúi đuôi xe:
Nó hạn chế sự chúi đuôi của những xe có hộp số tự động khi khởi hành hoặc khi
tăng tốc đột ngột. Lúc này ECU đặt lực giảm chấn của giảm chấn ở chế độ cứng
làm ổn định chuyển động của xe.
c). Điều khiển chống nghiêng ngang
Nó giới hạn độ nghiêng ngang của thân xe khi quay vòng hay khi đi lên đường
ngoằn ngoèo. Lúc đó lực giảm chấn được đặt ở chế độ cứng. Vì vậy, cải thiện
được tính ổn định điều khiển.
d). Chống chúi mũi
Nó hạn chế mũi xe chúi xuống khi phanh. Lúc đó lực giảm chấn được đặt ở chế độ
cứng, làm ổn định chuyển động của xe.
Khi xe chuyển động ở tốc độ cao, lực giảm chấn được đặt ở chế độ trung bình, cải
thiện khả năng điều khiển.
f). Chống chúi đuôi khi chuyển số( Chỉ có ở xe hộp số tự động)
Nó hạn chế sự chúi đuôi của những xe có hộp số tự động khi khởi hành. Khi tay
số được chuyển đến vị trí khác từ N hay P, lực giảm chấn được đặt ở chế độ cứng.
Lưu ý rằng, chức năng điều khiển này không có ở các xe được sản xuất hiện nay.
- Lốp bám với mặt đường nên trên bề mặt có rãnh tạo thành hoa lốp. Dạng
hoa tuỳ thuộc vào điều kiện làm việc của ôtô. Đường tốt thì dùng hoa phổ thông,
còn hoa to dùng cho lốp chạy trên đường xấu và lầy lội.
- Theo cấu tạo lốp được chia thành lốp có ruột và lốp không có ruột
(Tubeless). Phần lớn ôtô dùng loại lốp có ruột gần đây có xu hướng sử dụng lốp
không ruột trên các xe con, xe tải. Lốp không ruột vì mép lốp có một lớp đệm kín
có gờ bằng cao su có tính đàn hồi cao, mặt trong của lốp không ruột được bịt kín
bằng một lớp cao su có tính kín cao (không lọt không khí) dày từ 1,5 ÷ 3mm.
Vành bánh xe của lốp không ruột phải kín, van lắp trực tiếp vào vành có tấm đệm
cao su, cạnh mép lốp phải bằng phẳng.
- Nếu lốp không ruột không có độ kín nữa thì có thể lắp ruột vào sử dụng như
loại lốp thông thường.
- Do nhiệt độ làm việc không cao và dùng loại sợi chằng tốt cho nên thời hạn
làm việc của lốp không ruột cao hơn 20% so với lốp thường.
- Ngày nay để tăng an toàn người ta sử dụng loại lốp có hai buồng, Lốp hai
buồng có ba phần: lớp cao su bên ngoài, lớp bịt kín và màng (màng được chế tạo
bằng hai hoặc ba lớp sợi tẩm cao su).
- Khi lốp bị đâm thủng và không khí lọt ra khỏi buồng A thì khả năng làm
việc của lốp giảm không đáng kể nhờ không khí còn ở buồng B.
- Buồng A điền đầy không khí bằng van (4).
- Buồng B điền đầy không khí bằng van (5).
- Ngoài ra lốp còn dùng bộ phận hạn chế biến dạng để an toàn khi chuyển
động. Bộ phận hạn chế biến dạng có hai loại: Loại cứng bằng kim loại và loại đàn
hồi bằng cao su xốp.
4 HỆ THỐNG LÁI
(Toyota Motor Corporation – 2001)