You are on page 1of 163

VÕ TÁ TRI - VŨ VĂN HÙNG (Đồng chủ biên)

GIÁO TRÌNH
XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ


HÀ NỘI, 2015

1
2
MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU 5

CHƯƠNG I. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC 7
I. Khái lược lịch sử và đối tượng nghiên cứu môn xã hội học 7
II. Phương pháp nghiên cứu môn xã hội học 20
III. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học 29

CHƯƠNG 2. HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI, TƯƠNG TÁC XÃ HỘI


VÀ QUAN HỆ XÃ HỘI 33
I. Hành động xã hội 33
II. Tương tác xã hội 52
III. Quan hệ xã hội 61

CHƯƠNG 3. CƠ CẤU XÃ HỘI, DI ĐỘNG XÃ HỘI VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI 67


I. Xã hội và cơ cấu xã hội 67
II. Bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội 77
III. Di động xã hội 85
IV. Thiết chế xã hội 89

CHƯƠNG 4. XÃ HỘI HÓA 95


I. Khái niệm và vai trò của xã hội hóa 95
II. Phân đoạn xã hội hóa 102
III. Môi trường xã hội hóa 107

CHƯƠNG 5. BIẾN ĐỔI XÃ HỘI 113


I. Khái quát chung về biến đổi xã hội 113
II. Các quan điểm về biến đổi xã hội 119

3
III. Những nhân tố và điều kiện của sự biến đổi xã hội 123
IV. Một số vấn đề biến đổi xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay 125

CHƯƠNG 6. MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC


CHUYÊN BIỆT 133
I. Xã hội học giáo dục 133
II. Xã hội học nông thôn 140
III. Xã hội học đô thị 148
IV. Xã hội học quản lý 153

TÀI LIỆU THAM KHẢO 159

4
LỜI NÓI ĐẦU

Xã hội học đại cương là môn khoa học mới được đưa vào giảng dạy
trong chương trình đào tạo của các trường Đại học và Cao đẳng ở
Việt Nam đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Mặc dù là môn học còn khá
mới mẻ nhưng xã hội học đã khẳng định được ý nghĩa và tầm quan trọng
của nó trong việc nâng cao nhận thức và rèn luyện phương pháp nghiên
cứu những vấn đề xã hội cho người học.
Đặc biệt trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập sâu nền kinh tế thế giới tất yếu làm nảy sinh nhiều vấn đề
xã hội như tăng trưởng và công bằng, tiến bộ và bản sắc, dân chủ tự do
và kỷ cương xã hội, thống nhất và đa dạng, xung đột xã hội và ổn định...
hay những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực xã hội cụ thể như đô thị,
nông thôn, giáo dục, y tế, tội phạm... Đây là những vấn đề hết sức nhạy cảm
nhưng cũng rất bức xúc, đòi hỏi các khoa học trong đó có xã hội học phải
giải quyết.
Ở Trường Đại học Thương mại, môn xã hội học cũng chỉ mới được
triển khai trong những năm gần đây nên tài liệu phục vụ cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh còn nhiều hạn chế.
Để có thêm tài liệu chính thức, thống nhất, phù hợp với nội dung chương
trình đào tạo đặc thù của trường, chúng tôi biên soạn cuốn "Giáo trình
Xã hội học đại cương" nhằm giới thiệu những kiến thức và phương
pháp nghiên cứu xã hội học hết sức cơ bản phục vụ cho giảng dạy và học
tập môn học. Giáo trình xã hội học đại cương có kết cấu 6 chương do tập
thể giảng viên Trường Đại học Thương mại biên soạn, trong đó TS. Võ
Tá Tri và Ths. Lê Đình Tân biên soạn chương I, Ths. Phạm Bá Sanh
biên soạn chương II, Ths. Lê Thị Anh biên soạn chương III, Ths. Nguyễn
Ngọc Diệp biên soạn chương IV, Ths. Nguyễn Thị Lan Phương biên soạn
chương V và TS. Vũ Văn Hùng biên soạn chương VI.
Giáo trình được viết hoàn toàn dựa theo chương trình môn học thuộc
các ngành, chuyên ngành kinh tế - quản trị kinh doanh do Hiệu trưởng

5
Trường Đại học Thương mại phê duyệt ban hành kèm theo Quyết định số
141/QĐ-ĐHTM ngày 21 tháng 3 năm 2012.
Trong quá trình biên soạn giáo trình chúng tôi đã tham khảo, kế
thừa, vận dụng có chọn lọc nhiều kiến thức của các nhà nghiên cứu, các
giảng viên trong và ngoài nước qua các tài liệu về khoa học xã hội học
và các lĩnh vực khoa học có liên quan khác. Đồng thời chúng tôi cũng bổ
sung vào giáo trình nhiều nội dung cụ thể bằng việc cập nhật những kiến
thức hiện đại thể hiện qua việc trình bày cô đọng, logic những vấn đề cơ
bản của xã hội học đại cương. Nhiều nội dung, phương pháp nghiên cứu
của xã hội học được lồng ghép, sử dụng thích hợp với kiến thức chuyên
ngành đào tạo, nhiều ví dụ cụ thể được rút ra từ đời sống kinh tế, xã hội
hiện đại, nhờ đó vừa giúp sinh viên mở rộng kiến thức nghiên cứu, giải
quyết các vấn đề kinh tế dưới góc độ xã hội học, vừa phát huy được tác
dụng tích cực của môn học.
Có nhiều mức độ, phạm vi và phương pháp tiếp cận khác nhau về xã
hội học, song trong giáo trình này chúng tôi chủ yếu hướng vào những
nội dung cơ bản của xã hội học đại cương - "xã hội học lý thuyết". Bên
cạnh đó, giáo trình cũng gợi mở cho người học những phương pháp và
kỹ năng vận dụng hiểu biết của mình để phân tích, đánh giá bản thân và
xã hội, vận dụng kiến thức xã hội học vào thực tiễn cuộc sống.
Trong quá trình biên soạn giáo trình chúng tôi đã nhận được nhiều ý
kiến đóng góp của đồng nghiệp và độc giả. Nhân dịp này tập thể tác giả
bày tỏ lòng cảm ơn tới các đồng nghiệp, độc giả và đặc biệt tới sự quan
tâm giúp đỡ của Ban Giám hiệu Trường Đại học Thương mại, tới các
nhà khoa học trong và ngoài trường đã có những nhận xét, đánh giá và
góp ý quý báu giúp chúng tôi hoàn thành giáo trình đảm bảo chất lượng.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do xã hội học vốn là môn khoa học
phức tạp và có nhiều bất đồng của giới nghiên cứu nên lần biên soạn này
chắc khó tránh khỏi thiếu sót nhất định. Chúng tôi mong nhận được
nhiều ý kiến nhận xét, góp ý để giáo trình tiếp tục được bổ sung, sửa đổi
hoàn thiện hơn.
Tập thể tác giả

6
Chương 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC

I. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


MÔN XÃ HỘI HỌC
1. Khái niệm xã hội học
Xã hội là thuật ngữ đã được sử dụng một cách phổ biến để phản
ánh các hoạt động và các quan hệ của con người với nhau. Trên thực tế
chúng ta thấy không có xã hội nếu không có con người, ngược lại con
người cũng không thể tồn tại nếu tách rời xã hội nên không phải ngẫu
nhiên, lâu nay trên thế giới đã tồn tại hai nhóm quan niệm khá phân biệt
khi nghiên cứu xã hội học: Một là, chỉ thiên về nghiên cứu cá nhân con
người, hành vi mang tính cá biệt (chủ nghĩa thực dụng Mỹ), hai là, cách
tiếp cận thiên về xã hội tức là nghiên cứu cả cộng đồng (chủ nghĩa thực
chứng phương Tây).
Xã hội học (sociology) là thuật ngữ bắt nguồn từ gốc chữ Latin
(Societas - xã hội) và chữ Hy Lạp (Lógos - ngôn từ, học thuyết) được
A. Comte xây dựng và đưa vào sử dụng chính thức lần đầu tiên vào năm
1838. Từ đó xã hội học được xác định là một môn khoa học mới, độc lập,
có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu riêng, được nghiên
cứu và đưa vào giảng dạy một cách rộng rãi trên thế giới mà trước hết ở
các nước châu Âu và Mỹ.
Cho đến nay đã có rất nhiều lý thuyết khác nhau của xã hội học như
"Lý thuyết xã hội học thực chứng" (gắn với tên tuổi của các nhà xã hội
học: Auguste Comte, Emile Durkheim, Talcott Parsons); "Thuyết đồng
cảm xã hội" và "Thuyết cấu trúc chức năng" (Emile Durkheim); "Lý thuyết
trao đổi xã hội" (tiêu biểu là G.Homans); "Thuyết hành động xã hội" (Max
Weber); "Lý thuyết tương tác biểu trưng" (G.Mead); "Lý thuyết xung đột
xã hội" (K.Marx, Max Weber); "Lý thuyết tiến hóa xã hội" (A.Comte,

7
H.Spencer, E.Durkheim)… Mỗi lý thuyết đều có cách tiếp cận riêng về
phương hướng nghiên cứu, về phạm vi quan sát, thậm chí ở mức độ nhất
định còn khác nhau cả về đối tượng nghiên cứu.
Với tư cách là người đặt nền móng chính thức cho sự ra đời xã hội
học, A.Comte cho rằng "Xã hội học là khoa học về các quy luật của tổ
chức xã hội"1. Khá đồng nhất với Comte, H.Spencer cũng quan niệm "Xã
hội học là khoa học về các quy luật và nguyên lý tổ chức của xã hội"2.
Mặc dù còn có chỗ khác nhau nhưng nhìn chung cả hai ông đều quan tâm
nghiên cứu xã hội như là một tổng thể. Có phần trái ngược, Max Weber
lại giải thích "Xã hội học… là khoa học cố gắng giải nghĩa hành động xã
hội và... tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của
hành động xã hội"3.
Trải qua gần hai thế kỷ nhưng đến nay cũng chưa có được quan
điểm thống nhất về khái niệm xã hội học và đối tượng nghiên cứu xã hội
học. Tính không đồng nhất về quan niệm xã hội học bắt nguồn từ sự
phong phú, phức tạp của con người và xã hội. Theo Giddens, Anthony
"Xã hội học là ngành khoa học nghiên cứu cuộc sống con người, các
nhóm xã hội, và tất cả các xã hội"4. Hoặc với Basirico, Laurence A.,
Barbara G. Cashion, and J Ross. Eshleman "Xã hội học là ngành khoa
học nghiên cứu hành vi con người, các nhóm xã hội, và xã hội"5. Đây là
những quan điểm vẫn thiên về nghiên cứu hành vi con người và xã hội.
Còn John Joseph Macionis lại quan niệm "Xã hội học nghiên cứu một
cách có hệ thống xã hội loài người"6. Hay Fulcher, James and John Scott
khẳng định "Xã hội học giúp chúng ta hiểu thế giới xung quanh chúng ta,
hiểu chúng ta, và hiểu vị trí của chúng ta trong thế giới đó"7. Nhà xã hội
học G.V.Osipov quan niệm "Xã hội học là khoa học về các quy luật và
tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành của

1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.45
2
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.63
3
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.79
4
Giddens, Anthony. (2009). Sociology. Cambridge: Polity Press. Tr.6
5
Basirico, Laurence A., Barbara G. Cashion, and J Ross. Eshleman (2012), Introduction to
Sociology: BTV Publishing. Tr.6
6
Macionis, John (2008). Sociology. New Jersey: Prentice Hall. Tr.2
7
Fulcher, James and John Scott. (2011). Sociology. Oxford: Oxford University Press. Tr.4

8
các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác
động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của
các cá nhân, các nhóm xã hội các giai cấp và các dân tộc"1...
Ở Việt Nam nhìn chung các nhà nghiên cứu xã hội học cũng chưa có
được quan điểm thống nhất, đồng thuận về bản chất xã hội học và đặc
biệt là đối tượng nghiên cứu của môn khoa học này. Chẳng hạn "Xã hội
học là khoa học nghiên cứu về xã hội loài người, thông qua các hành vi,
các hoạt động của con người trong đời sống xã hội, trong điều kiện lịch
sử xã hội cụ thể"2. Với quan điểm này đối tượng nghiên cứu xã hội học
thiên về xã hội hơn là hành vi cá nhân. Hay "Xã hội học là khoa học
nghiên cứu quy luật của sự nảy sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ
giữa con người và xã hội"3. Điều đó có nghĩa xã hội học chú trọng
nghiên cứu những vấn đề mang tính bản chất, khách quan, phổ biến gắn
với sự phát sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã
hội, trọng tâm nghiên cứu là quan hệ xã hội.
Cái khó của nghiên cứu xã hội học là ở chỗ, đây là ngành khoa học
vừa đòi hỏi sự chặt chẽ, logic của triết học vừa chứa đựng nhiều yếu tố tự
phát, rời rạc, thầm kín của tâm lý con người. Và từ đó cũng đã gây nên
nhiều cuộc tranh luận chưa có hồi kết xuất phát từ tính phức tạp của đối
tượng nghiên cứu xã hội học. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song
về đại thể có thể thống nhất cho rằng "xã hội học là khoa học nghiên
cứu về các quy luật và xu hướng của sự phát sinh, phát triển và biến
đổi của các hành động xã hội, các quan hệ xã hội, tương tác giữa các
chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện của chúng".

2. Khái lược lịch sử xã hội học


a. Sự ra đời xã hội học
Mặc dù chưa hoàn toàn thống nhất nhưng phần nhiều các nhà xã hội
học đều cho rằng xã hội học có mầm mống tư tưởng từ rất sớm, từ thời
cổ đại. Họ cho rằng, ban đầu các ý niệm về xã hội, những lý giải về xã

1
G.V.Osipov, (1992),“Xã hội học và chủ nghĩa xã hội”, Xã hội học và thời đại, tập 3, số 23. Tr.8
2
Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, Vũ Minh Tâm, (2004), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội. Tr.7
3
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.11

9
hội đều gắn liền với triết học và xã hội học là thứ triết học về mặt xã hội.
Xã hội học cùng với các môn khoa học nghiên cứu về các vấn đề xã hội
đã chủ yếu đề cập đến những tiêu chuẩn tổ chức về mặt xã hội phục vụ
cho các giai cấp và các tầng lớp thống trị. Điều đó được thể hiện trong
quan điểm của các nhà tư tưởng, các triết gia cổ đại và cận đại cả phương
Đông lẫn phương Tây. Phương Đông có các nhà tư tưởng Trung Quốc
hay Ấn Độ, trong đó tiêu biểu là Quản Trọng, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân
Tử, Lão Tử... Ở phương Tây gắn với nền văn minh Hy Lạp cổ đại có các
nhà tư tưởng điển hình như Platon, Aristote...
Nhìn chung các nhà xã hội học phương Đông cổ đại với những cách
đặt vấn đề khác nhau trong việc xác định động lực hay cách thức vận
hành xã hội, nhưng đều thống nhất mục tiêu cuối cùng là để quản lý
xã hội tốt hơn. Tuy vậy, những nền tảng khoa học nói chung (triết học,
kinh tế học, xã hội học...) ở phương Đông chưa được hình thành một
cách vững chắc. Ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội cận
hiện đại đều thống nhất nhận định Platon và Aristote là những nhà tư
tưởng đầu tiên đặt nền tảng nghiên cứu các vấn đề xã hội học một cách
có hệ thống.
Có thể coi giai đoạn cổ đại đến thời phục hưng là giai đoạn đầu tiên
của xã hội học. Các nhà tư tưởng thời đó mới chỉ đưa ra những ý tưởng
và khi đó chỉ thuần tuý cho rằng xã hội học là một thứ triết học xã hội.
Mặc dù chưa có tính hệ thống và chưa khái quát hóa thành các lý thuyết
cụ thể nhưng đây cũng có thể coi là những tư tưởng khởi đầu, là mầm
mống cho sự phát triển xã hội học sau này.
Sau thời gian phát triển rực rỡ của nền văn minh cổ đại, nhân loại bị
chìm đắm trong thời kỳ dài của lịch sử, thời kỳ trung cổ với sự thống trị
của nhà thờ, tôn giáo và chém giết. Vì vậy khoa học nói chung cũng như
xã hội học nói riêng không phát triển được. Sang thời kỳ phục hưng, các
lĩnh vực khoa học tự nhiên (nhất là khoa học về địa lý, thiên văn) và
khoa học xã hội (trước hết là triết học và kinh tế học) phục hồi và phát
triển mạnh mẽ. Cùng với sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản là cơ sở
chính trị - xã hội vô cùng quan trọng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi bức
xúc về sự tiến bộ của các lĩnh vực khoa học. Đây là điều kiện, tiền đề hết
sức ý nghĩa giúp cho xã hội học phát triển mạnh mẽ hơn. Thời Phục Hưng

10
có các nhà xã hội học như Thoms Hobbes (1588-1679), Juhn Locke
(1632-1704)…
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các biến động to lớn từ trong đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội ở Châu Âu (nhiều nước đã trở thành
nước công nghiệp, kinh tế thị trường phát triển mạnh, mâu thuẫn xã hội
dần trở nên gay gắt…) đặt ra nhu cầu thực tiễn cần phải có nhận thức
mới về xã hội. Lúc này những tư tưởng về các vấn đề xã hội từng bước
được hệ thống hóa và từ đó xuất hiện các lý thuyết nghiên cứu sâu về xã
hội. Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ XIX, xã hội học mới được thừa nhận
là môn khoa học độc lập.
Người có công lớn trong việc khai thông và xác lập môn xã hội học
thành một môn khoa học thực sự là Auguste Comte (1798-1857). Ông là
nhà bác học người Pháp nghiên cứu nhiều lĩnh vực như toán học, vật lý,
triết học và xã hội học. Ông là trợ lý của Saint Simon, người đã sáng lập
học thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Tây Âu đầu thế kỷ XIX.
Ông là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ xã hội học.
Tiếp đến là nhà xã hội học người Pháp Emile Durkheim (1858-1917)
với tư tưởng "sự kiện xã hội" thay cho tâm sinh lý cá nhân. Ngoài ra còn
phải kể đến các nhà xã hội học khác như: Fredric Le Play (người Pháp,
1806-1882), Karl Marx (người Đức, 1818-1883), Max Weber (người Đức,
1864-1920)…
Sau những khởi xướng của Comte, Durkheim, xã hội học ở châu Âu
phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và chủ yếu tập trung nghiên cứu cấu
trúc xã hội như là một thực thể khoa học. Trong những năm 1920-1930,
xã hội học châu Âu đã hình thành trào lưu "xã hội học cấu trúc".
Tiếp đó, cũng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa
học kỹ thuật, của các quá trình công nghiệp hoá ở Mỹ, đồng thời sau hai
cuộc đại chiến thế giới, hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh, do vậy xã hội
học cũng xuất hiện ở Mỹ. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù bởi rất nhiều
vấn đề xã hội ở Mỹ có liên quan tới hành vi của cá nhân, nhóm xã hội
nên xã hội học ở Mỹ đã phát triển mạnh mẽ theo hướng tiếp cận từ hành
vi và hình thành trào lưu xã hội học hành vi.

11
Từ khi hình thành, môn xã hội học phát triển nhanh chóng chủ yếu ở
hai khu vực châu Âu và Mỹ theo hai cách tiếp cận khác nhau: cấu trúc xã
hội và hành vi xã hội. Tuy nhiên từ năm 1960 đến nay, trên thế giới xã
hội học đã phát triển theo hướng phổ biến là thâm nhập vào nhau giữa xã
hội học Mỹ và xã hội học châu Âu. Xã hội học đã được giảng dạy và
nghiên cứu trong các trường phổ thông và các trường đại học ở châu Âu
lúc đầu ở Pháp, Đức rồi đến Anh...
Ở Việt Nam, xã hội học được hình thành và phát triển chậm hơn,
phải đến những năm 70 của thế kỷ XX mới trở thành môn khoa học và
được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học chủ yếu của khối xã hội
nhân văn. Hiện nay xã hội học cũng đang được mở rộng giảng dạy ở một
số trường thuộc khối kỹ thuật và quản trị kinh doanh. Nhìn chung, thời
gian qua việc nghiên cứu và giảng dạy môn xã hội học ở Việt Nam cũng
thu được một số kết quả nhất định, nhưng so với thế giới và để đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước trong thời đại ngày nay xã hội học Việt
Nam cần được tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và mở rộng giảng dạy trong
các trường đại học và cao đẳng.

b. Điều kiện, tiền đề ra đời xã hội học


Cũng như các lĩnh vực khoa học khác, xã hội học xuất hiện không
phải ngẫu nhiên mà gắn với hoàn cảnh lịch sử, với các điều kiện tiền đề
nhất định. Nói cách khác, sự ra đời xã hội học là một tất yếu khách quan
do đòi hỏi của lịch sử.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ở châu Âu xuất hiện cuộc cách
mạng công nghiệp (hay cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất) nhờ đó nhiều
nước đã xây dựng được nền sản xuất lớn đại công nghiệp cơ khí, năng
suất lao động cao. Kinh tế thị trường phát triển mạnh, thương mại được
mở rộng. Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất khẳng định chắc
chắn sự tồn tại xã hội tư bản, đồng thời từng bước xóa bỏ tận gốc những
đặc tính xã hội cũ tồn tại hàng trăm năm trước. Cuộc cách mạng công
nghiệp cùng với sự phát triển nhanh chóng kinh tế thị trường làm thay
đổi căn bản xã hội đương đại trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội... Bên cạnh đó nó cũng làm chuyển biến mạnh mẽ hình
thái các hoạt động xã hội và quan hệ xã hội.

12
Về kinh tế: Công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đã tạo được
một nền kinh tế hùng mạnh với nền sản xuất lớn đại công nghiệp. Việc
sử dụng máy móc cơ khí vào sản xuất phổ biến loại bỏ những công cụ
thủ công, với phương pháp lao động thủ công năng suất thấp. Sản xuất
được tập trung chuyên môn hóa, quy mô lớn thay thế kiểu sản xuất nhỏ
lẻ, tự phát, phân tán. Thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp và kinh
tế thị trường sau đó được K. Marx và F. Engels đánh giá rất cao. Trong
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" (năm 1848) hai ông đã khẳng định
mặc dù chủ nghĩa tư bản ra đời chưa đầy 100 năm mà đã tạo ra đống của
cải vật chất, sức sản xuất khổng lồ lớn hơn tất cả những gì các thế hệ
trước đấy cộng lại. Nền sản xuất lớn đảm bảo cho xã hội tư bản có được
khối lượng sản phẩm hàng hóa đồ sộ. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản
về mặt kinh tế, K. Marx khẳng định chủ nghĩa tư bản biểu hiện ra là "một
đống khổng lồ hàng hóa chồng chất lại".
Phân công lao động mở rộng trên nhiều lĩnh vực, nhiều mức độ làm
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế. Công nghiệp, dịch vụ tăng
nhanh chóng cả về quy mô và tỷ trọng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng về quy mô nhưng giảm tỷ trọng đóng
góp vào sản phẩm quốc nội so với công nghiệp và dịch vụ.
Sự phát triển kinh tế thị trường tư bản tạo nền tảng vật chất thúc đẩy
tiến bộ xã hội nói chung. Nhưng cũng do kinh tế thị trường phát triển
trong xã hội mang tính tự phát đã làm xuất hiện nhiều nguy cơ về mâu
thuẫn và xung đột xã hội. Bởi sự phát triển kinh tế thị trường luôn tiềm
ẩn yếu tố bất ổn định như lạm phát, khủng hoảng kinh tế, cạnh tranh
không lành mạnh... Kinh tế thị trường phát triển đòi hỏi phải có thị
trường tiêu thụ sản phẩm và đầu tư tư bản đã dẫn đến các cuộc chiến
tranh cướp giật thuộc địa. Ngoài ra, kinh tế thị trường tư bản với mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên giai cấp những người sở hữu sẵn sàng làm
mọi thứ để thỏa mãn nhu cầu làm giàu của mình, kể cả gây chiến tranh
và tội phạm.
Về chính trị - tư tưởng: Sự xuất hiện xã hội tư bản đòi hỏi phải xóa
bỏ ngay lập tức kiểu quản lý xã hội và con người mang tính cưỡng chế
trực tiếp nô dịch. Tiền đề để có nền kinh tế thị trường tư bản và chủ
nghĩa tư bản là hàng hóa sức lao động. Điều đó có nghĩa người lao động

13
phải được tự do, tự do theo nghĩa được quyền làm chủ sức lao động của
mình và được bán sức lao động để tồn tại. Các cuộc cách mạng dân chủ
tư sản thể hiện đỉnh cao nhu cầu của giai cấp tư sản đấu tranh để giải
phóng mình, thủ tiêu rào cản đối với sự phát triển chủ nghĩa tư bản, đồng
thời qua đó cũng gián tiếp giải phóng giai cấp nông dân khỏi ách nô lệ
của địa chủ phong kiến, hình thành quan hệ mới: tư bản - công nhân.
Cuộc cách mạng tư sản đã làm thay đổi thể chế chính trị, đánh dấu
thời kì tan rã của chế độ phong kiến thay vào đó là sự thống trị của giai
cấp tư sản, hình thành nhà nước tư sản, quyền lực chính trị chuyển sang
tay giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân hình thành và có nhiều tiến bộ
nhờ những biến đổi về mặt nhận thức quyền con người, quyền bình đẳng,
quyền tự do… Con người được coi trọng hơn, được tự do hơn đó là sự
tiến bộ. Tuy nhiên thực chất đây chỉ là sự chuyển hóa về cách thức bóc
lột lao động trong khuôn khổ pháp quyền tư sản.
Sau thời gian tồn tại và phát triển khá êm đềm (tính từ thế kỷ XVII)
khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX những mâu thuẫn, xung đột ở
nhiều nước châu Âu trở nên trầm trọng. Cuộc cách mạng công nghiệp
trong chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển vượt bậc, giai cấp vô sản trưởng thành nhanh chóng.
Nhưng cùng với điều đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế, nạn thất
nghiệp, bần cùng hoá đời sống người lao động... tăng nhanh, đã dẫn đến
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước châu Âu. Sự
đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển dần từ đấu tranh kinh tế sang
đấu tranh chính trị, từ tự phát sang tự giác có tổ chức. Giai cấp công nhân
dần trở thành lực lượng chính trị độc lập nhận thức đầy đủ hơn về sứ
mệnh lịch sử của mình.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân xuất hiện sớm nhất ở
Anh vào năm 60 của thế kỷ XVIII (1760). Trong những cuộc đấu tranh
đầu tiên hiện tượng đập phá máy móc xuất hiện và tiếp tục cho đến đầu
những năm 20 của thế kỷ XIX. Phong trào đấu tranh của công nhân Anh
thể hiện tập trung nhất ở phong trào Hiến chương của giai cấp công nhân
Anh. Phong trào đấu tranh diễn ra với 3 cao trào từ năm 1839 đến năm
1848, với sự tham gia từ 1 đến 5 triệu công nhân. Ở Pháp, thợ tơ Lyon đã
tổ chức phong trào khởi nghĩa từ năm 1831 và 1834. Đây là cuộc khởi

14
nghĩa lớn của công nhân Pháp thời kỳ này. Công nhân ở Lyon đã đứng
lên biểu tình để phản đối việc chủ không chịu tăng lương. Các cuộc
khởi nghĩa này đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân Pháp
bởi lần đầu tiên họ bước lên vũ đài chính trị với tư thế là một lực lượng
chính trị độc lập. Đặc biệt phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
chuyển biến mạnh mẽ từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh
tế đến đấu tranh chính trị.
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản tiếp tục chuyển biến mạnh mẽ từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền hóa cao độ. Quan hệ bóc lột
mở rộng không chỉ trong phạm vi các nước tư bản mà trên phạm vi quốc
tế thông qua chính sách thôn tính thực dân. Mâu thuẫn xã hội do vậy gia
tăng nhanh chóng và trở nên hết sức căng thẳng, đa dạng. Sự tự do bóc
lột giai cấp công nhân của giai cấp tư sản và những bất đồng về chính trị
- xã hội làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu
thuẫn giữa các dân tộc ngày một gay gắt. Khi mâu thuẫn xã hội phát triển
tất yếu bùng nổ các cuộc cách mạng vô sản cũng như cách mạng giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Cách mạng vô sản Pháp (1871) và
tiếp đó Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) là minh chứng thực tế về
cách thức giải quyết mâu thuẫn xã hội không thể đảo ngược.
Về mặt tư tưởng, dưới sức ép của nền sản xuất lớn và sự bất ổn của
nền kinh tế thị trường tư bản, hàng loạt những người sản xuất nhỏ bị phá
sản nên đã xuất hiện tư tưởng chống đối chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản
từ phía những người sản xuất nhỏ, tiểu tư sản. Điển hình cho trào lưu này
là Sismondi (1773 - 1842) nhà kinh tế học, xã hội học Thụy Sĩ nhưng chủ
yếu sống và làm việc ở Pháp. Tiếp đến sự xuất hiện chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp phê phán chủ nghĩa tư bản dưới góc độ kinh tế, đấu
tranh chống lại áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đương thời. Tuy
nhiên, giai cấp công nhân lúc này chưa thực sự trở thành lực lượng chính
trị độc lập, phong trào công nhân chưa mang tính tự giác nên lý luận của
các học thuyết này chỉ biểu hiện ra dưới hình thức tư tưởng, ước mơ về
một xã hội tương lai tốt đẹp mà thôi. Ra đời trong điều kiện đó, học
thuyết của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng là biểu hiện sự bất bình
tự phát của giai cấp công nhân và quần chúng lao động đối với chủ nghĩa
tư bản và tìm đường xây dựng một xã hội công bằng và hạnh phúc. Tiêu

15
biểu là các nhà lý luận như Saint Simon (1760-1825), Charles Fourier
(1772-1837) ở Pháp và Robert Owen (1771-1858) ở Anh. Có thể nói chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp là mầm mống tư tưởng trực tiếp cho sự ra
đời của xã hội học.
Vấn đề văn hóa - xã hội: Trải qua những thăng trầm của lịch sử, cuối
thế kỷ XVIII, với sự bùng nổ của sản xuất công nghiệp gắn với nó là quá
trình đô thị hóa và những bất ổn trong đời sống xã hội gia tăng, khoa học
và kỹ thuật phát triển mạnh làm xuất hiện nhiều vấn đề xã hội mới, phức
tạp đòi hỏi phải nghiên cứu một cách khoa học, hệ thống. Cùng với sự
mở rộng nền dân chủ tư sản và thể chế tự do tư bản là môi trường tốt cho
việc nghiên cứu xã hội. Xã hội học do đó được phát triển mạnh và khẳng
định vai trò, vị trí của mình trong hệ thống các lĩnh vực nghiên cứu khoa
học xã hội.
Sản xuất công nghiệp phát triển, thương mại mở rộng, nhiều nhà
máy, xí nghiệp ra đời đã thu hút nhiều lao động, đặc biệt là lao động từ
nông thôn ra thành thị. Sự biến đổi kinh tế đã làm biến đổi sâu sắc đời
sống văn hóa - xã hội. Sự biến đổi kinh tế cũng làm cho hệ thống tổ chức
xã hội phong kiến bị xáo trộn mạnh mẽ. Cuộc sống đô thị thay thế dần
cách sống, kiểu sống nông thôn. Các phong tục, tập quán lối sống truyền
thống cũ được thay dần bằng nhịp sống hiện đại của cư dân đô thị. Văn
hóa thay đổi nhanh chóng bởi lối sống thực dụng của kinh tế thị trường.
Cấu trúc gia đình biến đổi do cá nhân dần rời bỏ cộng đồng có tính huyết
thống, truyền thống cũ, cùng với sự thay đổi vai trò của vợ chồng trong
quan hệ gia đình. Quyền lực trong tôn giáo bị giảm xuống bởi sự phát
triển, tiến bộ của khoa học công nghệ và sự suy vong của tầng lớp địa
chủ phong kiến.
Kết cấu giai cấp trong xã hội thay đổi mạnh mẽ với sự hiện diện của
hai giai cấp chính mâu thuẫn đối kháng là giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản. Bên cạnh vẫn tồn tại một bộ phận đáng kể các tầng lớp thuộc giai
cấp tiểu tư sản như những người tiểu sản xuất, tiểu thương, tri thức... Cấu
trúc xã hội mới thay thế xã hội truyền thống vốn đã tồn tại hàng nghìn
năm trước đó.
Trước những biến động mạnh mẽ và sâu sắc hầu hết mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội... làm

16
xuất hiện ngày càng nhiều "vấn đề xã hội" mà các khoa học khác như
triết học, chính trị học, kinh tế học... khó giải thích một cách thấu đáo đòi
hỏi có một lĩnh vực khoa học có khả năng nghiên cứu sâu, chi tiết hơn.
Tóm lại, sự xuất hiện của hệ thống tư bản đã phá vỡ trật tự xã hội cũ,
làm xáo trộn đời sống xã hội của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã
hội. Từ đó đặt ra nhu cầu giải quyết những vấn đề mới mẻ của xã hội
đang nảy sinh từ cuộc sống đầy biến động và phải lập lại trật tự xã hội
một cách ổn định trên thực tế. Xã hội học ra đời đáp ứng nhu cầu tất yếu
đó. Người đi đầu trong ngành khoa học này là nhà triết học người Pháp:
August Comte.

3. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học


Đã có đến hàng trăm quan niệm khác nhau về đối tượng của xã hội
học, nhưng suy cho cùng đều có thể quy về một trong ba cách tiếp cận
chính:
Một là, cách tiếp cận thiên về con người (xã hội học vi mô): Cách
tiếp cận này cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã
hội hay hành động xã hội của con người. Nói cách khác, đó là hành vi cá
nhân, các cơ chế hình thành các hành vi đó bao gồm các tương tác giữa
các cá nhân, sự hình thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm.
Đây chính là cách tiếp cận của trường phái xã hội học Mỹ - xã hội học vi
mô, khoa học về hành vi xã hội của cá nhân và nhóm. Trường phái này
chịu ảnh hưởng của thuyết hành vi và chủ nghĩa thực dụng theo hiện
tượng luận.
Hai là, cách tiếp cận thiên về xã hội (xã hội học vĩ mô): Với cách
tiếp cận này đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cả xã hội loài người,
đó là tính chỉnh thể của tổ chức xã hội, tính hệ thống của xã hội trong
mối quan hệ chi phối cá nhân. Các khái niệm mà cách tiếp cận này
thường xuyên đề cập đến là văn hoá, thiết chế xã hội, hệ thống và cấu
trúc xã hội... các quá trình xã hội rộng lớn. Đây chính là cách tiếp cận
của trường phái xã hội học châu Âu, xã hội học vĩ mô do ảnh hưởng
mạnh mẽ của triết học thực chứng và thuyết tiến hoá của Charles Darwin.
Ba là, cách tiếp cận "tổng hợp" cả con người và xã hội: Theo cách
này, xã hội học vừa nghiên cứu hành vi con người vừa nghiên cứu hệ

17
thống xã hội. Cách tiếp cận này tuy đã đề cập nghiên cứu cả con người
và xã hội song vẫn mang tính rời rạc, chưa có sự liên kết, chưa thể hiện
được tính "tổng hợp" trong đối tượng nghiên cứu. Cũng từ cách tiếp cận
này dễ gây nhầm lẫn rằng xã hội học có hai đối tượng nghiên cứu.
Rõ ràng mỗi cách tiếp cận đều có những mặt tích cực, nhấn mạnh
một khía cạnh không thể thiếu khi nghiên cứu xã hội học. Tuy nhiên cả
ba cách tiếp cận trên cũng bộc lộ những mặt hạn chế, thiếu sót nhất định.
Bởi con người và xã hội tồn tại không tách rời nhau và đều là những
khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học nên phải chăng xã hội học
không có đối tượng nghiên cứu rõ ràng?
Gần đây, nhiều nhà xã hội học hiện đại đưa ra và chấp nhận cách
tiếp cận "tích hợp" hay "hỗn hợp". Theo cách tiếp cận này, đối tượng
nghiên cứu của xã hội học không phải chỉ là con người hay xã hội hoặc
cả con người lẫn xã hội mà là nghiên cứu mối liên hệ hữu cơ, mối quan
hệ biện chứng, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau giữa một bên là
con người với tư cách là cá nhân, nhóm với một bên là xã hội với tư cách
là hệ thống là cơ cấu hay cấu trúc xã hội.
Vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người xã hội, nói
cách khác nghiên cứu mặt xã hội của con người, nghiên cứu yếu tố con
người thể hiện qua mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội.
Xã hội học nghiên cứu hành vi của con người vì mọi suy nghĩ, mọi hành
động của con người đều được thể hiện qua hành vi nhất định. Những
hành vi của con người có biểu hiện ngẫu nhiên nhưng hầu như không
hoàn toàn tùy tiện mà luôn bị chi phối bởi những khuôn mẫu xã hội nhất
định tùy thuộc vào vai trò, vị thế của cá nhân trong xã hội hay bối cảnh
xã hội nào đó.
Tuy vậy con người xã hội không tồn tại độc lập mà luôn bị tác động,
chi phối bởi nhóm xã hội thậm chí cả cộng đồng nên hành vi của con
người cũng tác động hay bị tác động, chi phối hay bị chi phối bởi cộng
đồng xã hội. Điều đó có nghĩa xã hội học nghiên cứu hành vi con người
trong mối quan hệ tương tác với cộng đồng xã hội.
Đồng thời xã hội học cũng nghiên cứu xã hội về mặt là cấu trúc,
thiết chế được tạo bởi con người và trở lại quy định hành vi của con người.

18
Nói cách khác xã hội học không nghiên cứu xã hội nói chung cũng không
đi nghiên cứu cụ thể các "vấn đề xã hội" như nghèo đói, tệ nạn xã hội...
mà nghiên cứu xã hội như là kết quả được tạo bởi hành động xã hội của
con người đồng thời chi phối, quy định hành động, hành vi của con người.
Nghiên cứu xã hội học đòi hỏi phải kết hợp việc nghiên cứu các cá
nhân với tư cách là chủ thể xã hội, đồng thời nghiên cứu mối liên hệ xã
hội của các cá nhân đó để làm rõ các phạm trù rất cơ bản của xã hội như:
chủ thể xã hội, hành động xã hội, hoạt động xã hội, cơ cấu xã hội, quan
hệ xã hội, thiết chế xã hội, tương tác xã hội… Không có chủ thể xã hội
(có thể là cá nhân hay nhóm xã hội) thì không có xã hội. Nhưng xã hội
không phải là phép cộng cơ học của các chủ thể đó mà là tổng hợp, tích
hợp của các chủ thể trong mối liên hệ tương tác với nhau. Nói cách khác,
xã hội học nghiên cứu con người nhưng không phải cô lập mà được đặt
trong mối liên hệ hữu cơ giữa những con người với nhau, đồng thời xã
hội học cũng nghiên cứu xã hội thông qua hành động, tương tác và quan
hệ của con người.
Nhưng phải chăng như vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội học vẫn
chưa rõ ràng hay có nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau? Vấn đề ở
đây không phải là hành vi cá nhân, hay là xã hội hoặc cả hai mà chính là
quan hệ giữa cá nhân với xã hội. Con người tạo ra xã hội, ngược lại xã
hội tạo ra con người. K. Marx lập luận "xã hội tạo ra con người, như con
người, hệt như con người tạo ra xã hội"1.
Mặc dù còn có nhiều cách hiểu chưa hoàn toàn thống nhất nhưng
nhìn chung các nhà xã hội học đều có một điểm khá đồng nhất về đối
tượng nghiên cứu xã hội học đó là các quy luật và tính quy luật hay xu
hướng của sự phát sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con
người và xã hội; nhấn mạnh quan hệ giữa con người và xã hội được biểu
hiện qua hành vi xã hội, hành động xã hội, tương tác xã hội của con
người và bị chế ước bởi các cấu trúc xã hội, thiết chế xã hội. Cái đích của
nghiên cứu xã hội học là tìm ra các quy luật và xu hướng của sự phát
sinh, phát triển và biến đổi của các quan hệ xã hội, tương tác giữa các
chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện của chúng. Các quy luật quan

1
Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tr.30

19
hệ xã hội của con người vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù
và có tính lịch sử.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN XÃ HỘI HỌC


1. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu môn xã hội học
Nhận thức xã hội học là một quá trình hết sức phức tạp, trong đó con
người, một trong những chủ thể cấu thành xã hội, đồng thời là lực lượng
tạo ra các mặt đời sống xã hội, là những thế giới thu nhỏ vô cùng phong
phú và sinh động. Vì vậy, nghiên cứu xã hội học cần chú ý các quan
điểm sau:
a. Quan điểm toàn diện
Lê Nin nói "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và "quan hệ giao tiếp"
của sự vật đó"1. Xuất phát từ tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ
cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có quan điểm toàn
diện. Khi nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó, phải đặt vấn đề đó vào
trong mối tương quan. Cơ sở của quan điểm này là mối liên hệ chằng
chịt, qua lại giữa các mặt của đời sống xã hội. Quan điểm toàn diện đòi
hỏi trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn cần phải xem xét sự
vật trong mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa
các mặt của sự vật, hiện tượng cũng như sự tác động qua lại giữa chúng
với nhau. Ví dụ, một sinh viên học giỏi chưa hẳn đã là người có nhân
cách tốt vì con người vốn là "tổng hòa" các quan hệ xã hội.
Việc nghiên cứu một vấn đề nào đó tách rời khỏi toàn bộ các vấn đề
khác thường dẫn đến các kết luận hời hợt, thiếu sót và dĩ nhiên có độ
chính xác thấp. Quan điểm toàn diện giúp chúng ta khắc phục được tính
hẹp hòi, phiến diện trong nghiên cứu xã hội học.

b. Quan điểm lịch sử - cụ thể


Quan điểm lịch sử - cụ thể bắt nguồn từ tính chất đa dạng, phong
phú của các mối liên hệ đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
cần có quan điểm lịch sử - cụ thể song song với quan điểm toàn diện.

1
Lê Nin (1980), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Tr.364

20
Lịch sử - cụ thể là việc nhận thức và xử lý các tình huống hoạt động thực
tiễn cần phải xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Căn cứ vào vị trí, vai trò
khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể để từ đó có những nhận định, giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Mọi
sự vật, hiện tượng, con người và xã hội luôn vận động biến đổi nên hành
vi, hành động của con người thay đổi, qua đó các giá trị chuẩn mực xã
hội cũng thay đổi theo. Ví dụ, trong xã hội phong kiến ở Việt Nam trước
đây con cái khi xây dựng gia đình đều do cha mẹ quyết định (cha mẹ đặt
đâu, con ngồi đó), nhưng ngày nay trong xã hội dân chủ, quan niệm đó
đã dần được thay đổi.
Quan điểm lịch sử cụ thể giúp người nghiên cứu có cách nhìn khách
quan, khoa học về các nội dung của xã hội học, từ đó có cách nhìn nhận
sự việc, hiện tượng, các mối quan hệ xã hội một cách hài hòa giữa "cổ
xưa", hiện tại và định hướng tương lai. Quan điểm này giúp cho các nhà
nghiên cứu và quản lý xã hội tránh được tình trạng máy móc, duy ý chí.

c. Quan điểm hệ thống


Các vấn đề xã hội là các mắt xích trong hệ thống phức tạp cả về
chiều dọc lẫn chiều ngang. Xét về chiều dọc, vấn đề nào đó thường là bộ
phận của một vấn đề lớn hơn. Xét về chiều ngang, vấn đề nghiên cứu
thường là kết quả của một số nguyên nhân, đồng thời nó lại là nguyên
nhân của một kết quả xã hội khác. Xã hội là một hệ thống trong đó các cá
nhân hay nhóm xã hội là một bộ phận có sứ mệnh, vai trò, vị trí riêng.
Nghiên cứu xã hội là nghiên cứu mối liên hệ gắn kết, chi phối lẫn nhau
giữa các cá nhân và nhóm xã hội. Ngược lại, nghiên cứu con người hay
nhóm xã hội là nghiên cứu bộ phận của hệ thống xã hội, chịu sự chi phối,
điều khiển của hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó
phải đặt nó trong một hệ thống mà nó đang tồn tại. Ví dụ, khi nghiên cứu
công tác quản lý đối với cá nhân, bộ phận nào đó trong công ty, doanh
nghiệp hay một đơn vị chúng ta thường quan tâm đến sơ đồ bộ máy tổ
chức của đơn vị đó. Từ đó, chúng ta sẽ có nhiều nội dung súc tích để xem
xét, khảo sát, lý giải và kết luận một cách đầy đủ, có hệ thống chặt chẽ.

21
d. Quan điểm thực tiễn
Xét cho cùng, phương pháp nghiên cứu xã hội học đều dựa trên cơ
sở thực nghiệm, tức là xuất phát từ nhu cầu thực tế, quan sát hiện tượng
hoặc quá trình thực tế tìm ra cách lý giải vấn đề dựa trên các luận chứng
thực tế. Khi kết luận vấn đề nào đó cũng có sự đối chiếu, so sánh với
thực tế bằng phương pháp kiểm định thực tế. Sở dĩ như vậy là vì hiện
tượng và quá trình xã hội thường trừu tượng, nếu không bám sát thực tế
sẽ có nhiều cách lý giải khác nhau tùy theo đối tượng nghiên cứu, góc độ
nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, thời gian nghiên cứu... Ví dụ, khi điều
tra các nghi can trong các vụ án người làm công tác điều tra thường yêu
cầu họ "diễn lại" hành vi của mình, nếu phù hợp cơ quan điều tra mới
đưa ra kết luận. Các kết quả nghiên cứu hay các mô hình không được
kiểm chứng bằng thực tiễn chỉ là lý thuyết suông hay mô hình lý thuyết
và không có giá trị thực tế. Chỉ có qua cọ xát, đối chiếu thực tế mới có
thể chứng minh hoặc lý giải được hợp lý nhất.
Nhiều chuyên gia xã hội học đã chỉ ra một số yếu tố đặc thù khi
nghiên cứu môn khoa học xã hội đặc thù này: Một là, nhìn "cái chung"
thông qua "cái riêng", tìm khuôn mẫu xã hội qua thao tác cá nhân cụ thể.
Hai là, nhìn "cái lạ" thông qua "cái quen", vì con người được hình thành
phần nhiều từ khuôn mẫu xã hội, hành động theo khuôn mẫu xã hội. Và
ba là, chủ động đặt mình trong hoàn cảnh cụ thể hoặc tách mình khỏi
hoàn cảnh để kiểm nghiệm. Chẳng hạn một người bị đặt ra bên lề xã hội
sẽ có cách nhìn và khả năng nhìn nhận xã hội sâu sắc hơn.

2. Phương pháp nghiên cứu môn xã hội học


Liên quan đến thuật ngữ xã hội học, có thể có hai cách tiếp cận
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp xã hội học khi nghiên cứu các
lĩnh vực xã hội và phương pháp nghiên cứu môn xã hội học. Về cơ bản
cả hai cách tiếp cận này đều là tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật và
cách thức nghiên cứu xã hội học nhằm làm sáng tỏ bản chất, những đặc
trưng, cơ cấu, xu hướng và tính quy luật của các hiện tượng và quá trình
xã hội. Tuy nhiên phạm vi ứng dụng, công cụ sử dụng (các phạm trù,
khái niệm, chỉ tiêu...) theo các cách tiếp cận có tính chất đặc thù tùy lĩnh
vực xã hội mà chúng ta nghiên cứu.

22
Trong nghiên cứu xã hội học, ngoài việc phải xác định được vấn đề
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, xây dựng các giả thiết khoa học, giới
hạn phạm vi nghiên cứu, các tình huống... chúng ta cần sử dụng tổng hợp
nhiều phương pháp và công cụ nghiên cứu. Về cơ bản có thể chia thành
ba nhóm, cụ thể:
a. Phương pháp phân tích tư liệu
Phân tích tư liệu là xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thông tin
lưu trữ và các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề cần thiết, không phải
làm các cuộc phỏng vấn điều tra. Đây là phương pháp giúp người nghiên
cứu có được những số liệu, tư liệu thứ cấp, thậm chí là những phân tích,
kết luận có sẵn phục vụ cho việc nghiên cứu có luận cứ rõ ràng và ít tốn
kém. Các nguồn tư liệu này được tập hợp từ các cá nhân hay cơ quan
nghiên cứu, các cơ quan quản lý (các báo cáo, số liệu thống kê...), các tổ
chức chính trị xã hội... hay các phương tiện thông tin đại chúng như sách,
báo, tạp chí, internet... Về đại thể có thể quan niệm đây là phương pháp
thu thập và phân tích các tư liệu thứ cấp trong nghiên cứu xã hội học.
Cốt lõi của phương pháp này là sưu tầm được đúng và đầy đủ các tư
liệu cần thiết cho nội dung nghiên cứu. Muốn vậy người nghiên cứu phải
xác định đúng những tư liệu cần, nguồn cung cấp tư liệu, cách khai thác
tư liệu... Ví dụ, để đánh giá được xu hướng và mức độ phân tầng xã hội ở
Việt Nam hiện nay (dưới góc độ thu nhập, mức sống) chúng ta cần tư
liệu nào? ở đâu?
Trước đây công việc này rất khó khăn và mất rất nhiều thời gian,
nhưng hiện nay công việc này dễ dàng hơn vì có nhiều nguồn thông tin.
Nhưng khó khăn là phải chọn lọc đúng được những tư liệu đang cần.
Phân tích tư liệu là phương pháp được dùng rất phổ biến vì không
tốn chi phí và công sức điều tra, và những vấn đề không có điều kiện
thuận lợi để điều tra. Nhưng phương pháp này cũng có hạn chế vì người
nghiên cứu dễ bị rối trước nguồn tư liệu quá nhiều hay độ tin cậy của
nguồn tư liệu thấp, nhất là khi số liệu thống kê, báo cáo không chuẩn xác.
b. Các phương pháp thu thập, xử lý thông tin
Đây là nhóm các phương pháp cụ thể nhằm thu thập, tập hợp và xử lý
thông tin ban đầu, tư liệu sơ cấp. Nhóm các phương pháp này thường gồm:

23
* Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp nghiên cứu những biểu hiện bên ngoài của
tâm lý con người (hành động, cử chỉ, ngôn ngữ…) diễn ra trong sinh hoạt
của con người, qua đó có thể suy ra những quá trình tâm lý bên trong.
Đây là phương pháp thu thập thông tin thực nghiệm từ khách thể nghiên
cứu thông qua các giác quan để nghe, nhìn, cảm xúc... là công cụ quan
trọng cho việc thu nhận thông tin từ thực tế. Ngoài việc sử dụng các giác
quan để thu thập tài liệu, người quan sát có thể dùng máy ảnh, máy ghi
âm, camera...
Tùy theo mức độ chuẩn bị, cách thức, tính chất quan sát... có thể
chia phương pháp quan sát làm nhiều cách.
- Về phạm vi quan sát có: Quan sát tổng hợp và quan sát chi tiết.
Quan sát tổng hợp là quan sát chung phục vụ mục tiêu nghiên cứu chung,
rộng, nhiều vấn đề. Quan sát chi tiết tập trung vào một hiện tượng, một
hành vi... cụ thể của đối tượng nghiên cứu.
- Dựa vào mức độ chuẩn bị của quan sát người ta chia ra thành:
Quan sát có chuẩn mực và quan sát không chuẩn mực. Quan sát có chuẩn
mực đi vào các yếu tố có ý nghĩa nhất của các đối tượng nghiên cứu để
tập trung chú ý. Thường dùng để kiểm tra kết quả nhận được của phương
pháp khác hoặc để nhận thức sâu về các đối tượng. Quan sát không
chuẩn mực chưa xác định các yếu tố có ý nghĩa. Phương pháp này được
dùng phổ biến cho lúc khởi đầu nghiên cứu. Quan sát không chuẩn mực
là loại quan sát mà người quan sát chưa xác định được trước các yếu tố
của đối tượng nghiên cứu.
- Theo mức độ tham gia của người quan sát phương pháp quan sát
cũng được chia làm hai loại: Quan sát có tham gia và quan sát không tham
gia. Quan sát có tham gia là khi người quan sát gia nhập vào hoạt động
của nhóm người bị quan sát. Ngược lại, quan sát không tham gia áp dụng
khi người quan sát không tham gia vào hoạt động của người bị quan sát.
Quan sát có tham gia có kết quả cao hơn nhưng nếu bị phát hiện thì
kém hiệu quả thậm chí phản tác dụng, gây nguy hiểm cho việc nghiên
cứu và người thực hiện quan sát. Quan sát không tham gia kết quả ít hơn
nhưng dễ giữ bí mật.

24
- Dựa vào mật độ thực hiện quan sát, có quan sát một lần và quan sát
nhiều lần. Quan sát nhiều lần độ chính xác cao hơn tuy nhiên phức tạp,
tốn kém hơn đối với người quan sát và dễ gây phức tạp, phiền nhiễu cho
người bị quan sát.
Ngoài ra còn có quan sát công khai và quan sát bí mật. Quan sát
công khai là người thực hiện quan sát công khai mọi yêu cầu (thời gian,
mức độ, nội dung...) cho người bị quan sát biết. Còn quan sát bí mật là
người quan sát giữ kín, không tiết lộ mọi thứ cho người bị quan sát biết.
Quan sát muốn đạt kết quả thường được tổ chức từ hai đến ba người
cùng làm, sau đó đối chiếu, tổng hợp. Ngoài ra, cũng nên quan sát bí mật,
vì nếu người ta biết mình đang bị quan sát sẽ không tự nhiên, các cử chỉ
sẽ trở nên gò bó không phản ánh đúng sự thực nữa.
Khi sử dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu xã hội học cần
lưu ý:
- Phải xác định rõ đối tượng, mục đích, không gian, thời gian... của
việc quan sát.
- Mỗi một cách quan sát đều có ưu điểm nhưng cũng có hạn chế
riêng. Bởi vậy khi thực hiện quan sát, người quan sát phải biết lựa chọn
cách thức, công cụ, phương tiện quan sát phù hợp. Quan sát có một
nhược điểm là số đối tượng được quan sát thường không được nhiều, do
phải tốn người, tốn công quan sát. Vì vậy, phương pháp quan sát chỉ
dùng nếu phạm vi nghiên cứu hẹp, số đối tượng hạn chế.

* Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn


Phương pháp đàm thoại: Phương pháp đàm thoại là nói chuyện giữa
người nghiên cứu và đối tượng. Đây là phương pháp hay được áp dụng vì
nó có hiệu quả. Nếu trò chuyện trong một không khí thân mật, chân
thành, tin cậy, thoải mái có thể khiến người ta bộc lộ tâm tình, từ đó có
thể hiểu được tâm trạng, cảm xúc, thái độ đối với vấn đề cần tìm hiểu.
Có thể đàm thoại trực tiếp vào nội dung cần tìm hiểu, nếu vấn đề dễ
bàn luận, nhưng cũng có thể phải đi vòng, nếu vấn đề tế nhị dễ đụng chạm.
Để đàm thoại đạt kết quả phải:
- Xác định rõ mục tiêu để lái câu chuyện sang hướng cần nghiên cứu.

25
- Trước khi đàm thoại phải tìm hiểu rõ đặc điểm tâm lý của đối tượng.
- Chủ động dẫn dắt câu chuyện vì dễ đi lan man
- Có thể tranh luận nếu cần, để hiểu rõ thực chất suy nghĩ của đối tượng.
Nếu đàm thoại tốt, có thể làm cho việc nghiên cứu đạt kết quả. Tuy
nhiên, đàm thoại cũng tốn người, tốn công nên chỉ thực hiện ở phạm vi hẹp.
Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp phỏng vấn là trao đổi giữa
người nghiên cứu và đối tượng, nhưng khác với đàm thoại ở chỗ người
nghiên cứu hỏi để đối tượng trả lời theo một loạt câu hỏi đã chuẩn bị sẵn.
Có nhiều phương pháp phỏng vấn:
- Phỏng vấn tự do ngoài bảng câu hỏi, có thể có thêm câu hỏi để việc
tìm hiểu sâu sắc hơn phỏng vấn theo bảng hỏi.
- Phỏng vấn trực tiếp, người nghiên cứu gặp và hỏi trực tiếp đối
tượng phỏng vấn, không trực tiếp qua điện thoại.
- Phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm (phỏng vấn nhiều người
một lúc. Nhóm có thể gồm nhiều người trong cùng gia đình, cùng làm
việc hoặc cùng quan tâm đến vấn đề cùng nghiên cứu).
Phương pháp phỏng vấn có nhiều ưu điểm:
- Hiệu quả thông tin cao, tránh đi lan man như khi đàm thoại vì có
bảng câu hỏi.
- Tiết kiệm thời gian, có thể làm việc với nhiều đối tượng.
- Nắm được hành vi, thái độ của đối tượng.
Tuy vậy, nó cũng có những hạn chế:
- Đối tượng có thể chọn cách trả lời chung chung, dung hoà, có thể
trả lời thiếu trung thực. Vì vậy, trước khi hỏi phải làm công tác tư tưởng
và trong bảng câu hỏi nên xen kẽ các câu hỏi kiểm tra.
- Hạn chế về mặt thời gian và không có tính đại diện nếu phỏng
vấn qua điện thoại.
Tuy có hạn chế như vậy, nhưng phỏng vấn là phương pháp được
dùng khá rộng rãi trong nghiên cứu xã hội học.

26
* Phương pháp khảo sát xã hội
Phương pháp khảo sát xã hội giúp người nghiên cứu tìm kiếm thông
tin từ xã hội làm dữ liệu phân tích bảo đảm sát thực với cuộc sống xã hội
và tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên gia về lĩnh vực
nghiên cứu. Phương pháp này gồm:
Trưng cầu ý kiến: Phương pháp trưng cầu ý kiến cũng là một dạng
tương tự như hai phương pháp trên, nhưng thường thiên về hỏi gián tiếp
qua phiếu thăm dò, qua đường gửi thư, hỏi qua ý kiến bạn đọc (báo viết),
ý kiến bạn xem (báo hình). Nội dung trưng cầu thường không quá phức
tạp, đối tượng không xác định được trước (báo viết, báo hình), hoặc có
thể xác định (đối tượng nhận phiếu, thư thăm dò).
Phương pháp này thường được tiến hành qua các bước chủ yếu như:
chuẩn bị nội dung trưng cầu, chọn nhóm người (đối tượng trưng cầu),
triển khai trưng cầu, dùng kỹ thuật thu thập thông tin…
Trưng cầu ý kiến có ưu điểm là có thể tiến hành với đông người (đủ
mọi tầng lớp, giới, lứa tuổi và phạm vi rộng). Nhưng cũng có những hạn
chế là số thông tin phản hồi không nhiều. Vì vậy, phải tăng số lượng,
phải trừ hao. Trưng cầu ý kiến thường dùng để thăm dò ý kiến xã hội.
Phương pháp chuyên gia: Đối với những hiện tượng xã hội không
dùng phương pháp thực nghiệm được thì phải áp dụng phương pháp
chuyên gia. Phương pháp này chủ yếu lấy ý kiến của các chuyên gia về
một vấn đề xã hội nào đó.
Chuyên gia là những người có chuyên môn giỏi và kinh nghiệm
phong phú về một lĩnh vực xã hội nào đó đang cần nghiên cứu. Vì vậy, ý
kiến của họ thường có hàm lượng chất xám cao và giàu tính thực tiễn.
Cũng vì thế nên có thể coi là vẫn đảm bảo tính thực tiễn của quá trình
nghiên cứu.
Khâu cơ bản của phương pháp này là phải lựa chọn đúng các chuyên
gia am hiểu thực sự vấn đề đang nghiên cứu và có trình độ cao. Người ta
thường chọn chuyên gia theo các cách:
- Xâu chuỗi: Chọn người đầu đàn về vấn đề nghiên cứu, sau đó nhờ
người đó giới thiệu cho người khác. Nếu cần thêm lại tiếp tục nhờ những
người sau này giới thiệu thêm người khác nữa.

27
- Dự kiến một số người rồi đề nghị từng người nhận xét (chỉ cho
người lập nhóm chuyên gia biết) về chuyên môn những người kia. Sau
đó lựa chọn những người được đa số nhận xét tốt.
- Dự kiến số người và qua ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu để
đánh giá trình độ của từng người.
Sau khi đã tập hợp được nhóm chuyên gia phải nêu các vấn đề cần
xem xét để các chuyên gia có thời gian chuẩn bị, sau đó mới lấy ý kiến.
Thông thường khi lấy ý kiến có thể họp toàn nhóm theo cách sau đây:
- So sánh (họp và có tranh luận giữa các chuyên gia).
- Tấn công não (khuyến khích tự do phát biểu, không tranh luận
đánh giá sai, đúng).
c. Phương pháp thực nghiệm, kiểm chứng thực tế
Thực nghiệm xã hội là đưa ra các vấn đề xã hội đã được xem xét,
nghiên cứu về lý thuyết ra thực tiễn để xác minh xem trong các giả
thuyết, lý thuyết cái nào đúng cái nào sai với thực tế xã hội. Ngoài ra,
thực nghiệm còn bổ sung thêm chi tiết, các xu hướng, các tình huống
chưa được dự kiến, từ đó có thể hoàn chỉnh các biện pháp chính sách xã
hội (thực nghiệm bổ sung). Thực nghiệm xã hội cũng dùng để xem xét
độ chuẩn xác của một kế hoạch, một dự án (thực nghiệm thí điểm). Để
thực nghiệm đạt kết quả cần chú ý đến một số vấn đề sau:
- Lập quy trình nghiên cứu cẩn thận.
- Xem xét kỹ các chuẩn bị lý thuyết, thực tế.
- Chuẩn bị tốt địa bàn có tính đại diện cao, có sự phối hợp tích cực
của các cơ quan, đoàn thể và nhân dân địa phương.
Khi xác định nội dung thực nghiệm phải chú ý gọn, tập trung, không
tham lam dàn trải ra quá nhiều nội dung khác nhau, đồng thời cũng chú ý
kết hợp các nội dung gần nhau để các kết quả hỗ trợ cho nhau nhằm giảm
chi phí. Khâu tổng hợp và phân tích kết quả cũng hết sức quan trọng, nó
quyết định sự thành bại của thực nghiệm, ở khâu này phải quán triệt
phương pháp luận nghiên cứu xã hội học.
Tóm lại, để nghiên cứu xã hội học người nghiên cứu có thể sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp nghiên cứu có đặc

28
điểm riêng, ưu điểm và hạn chế riêng. Bởi vậy, người nghiên cứu phải
biết căn cứ vào đối tượng, nội dung, thời gian, không gian nghiên cứu cụ
thể để lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, hiệu quả.

III. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC


1. Chức năng của xã hội học
Có nhiều quan niệm khác nhau về xã hội học (xã hội học đại cương,
xã hội học chuyên ngành; xã hội học trừu tượng - lý thuyết, xã hội học cụ
thể - thực nghiệm) nên chức năng của xã hội học khá đa dạng. Song về
cơ bản có:
a. Chức năng nhận thức
Là một môn khoa học xã hội, xã hội học trang bị cho người học
những tri thức khoa học cơ bản về sự phát triển của xã hội theo những
quy luật vốn có của nó, chỉ ra nguồn gốc, phương thức diễn biến và cơ
chế của các quá trình phát triển xã hội, của các mối quan hệ giữa con
người và xã hội. Qua đó, xã hội học xây dựng và phát triển hệ thống lý
luận, phương pháp luận nghiên cứu. Xã hội học không chỉ thuần túy
trang bị cho người nghiên cứu nó những tri thức hay hiểu biết có tính
chất khoa học, khách quan về các vấn đề xã hội, về quy luật hình thành,
phát triển và vận động xã hội mà còn bằng hệ thống phương pháp luận,
kỹ thuật và thao tác nghiên cứu khoa học để tìm ra quy luật, lý thuyết và
các vấn đề lý luận nhờ tư duy khoa học và qua việc kiểm chứng các sự
kiện đã quan sát được. Theo quan điểm xã hội học Macxit thì nhận thức
xã hội phải dựa vào lập trường tư tưởng và thế giới quan khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, phải giúp con người nhận thức được đúng - sai,
phải - trái và từ đó có hành động hữu ích, thích hợp.
b. Chức năng thực tiễn
Chức năng này thể hiện mục đích cao cả của từng con người hay
cộng đồng xã hội là cải thiện xã hội và cải thiện cuộc sống nhân loại.
Thực tiễn chính là cơ sở cho sự ra đời của lý luận, song lý luận phải trở
về phục vụ thực tiễn. Ở đây chức năng thực tiễn của xã hội học không chỉ
đơn thuần là vận dụng các quy luật xã hội học vào hiện thực mà còn phải
nắm bắt, giải quyết đúng đắn và kịp thời những vấn đề xã hội nảy sinh để

29
cải thiện tình hình xã hội. Thông qua miêu tả phân tích, đánh giá thực
trạng các hiện tượng và quá trình xã hội, xã hội học phải dự báo những
xu hướng vận động của các hiện tượng hay quá trình đó, phải dự báo
những gì sẽ xảy ra trong tương lai, đồng thời đề xuất các giải pháp để
kiểm soát, hay nói cách khác để có những quyết sách, quyết định quản lý
xã hội thích hợp. Đến lượt nó, khi chức năng thực tiễn được thực hiện,
thì những vấn đề lý luận cũng như phương pháp luận, phương pháp
nghiên cứu cũng được cọ xát, kiểm chứng và dần hoàn thiện.
c. Chức năng tư tưởng
Đây là chức năng nảy sinh từ bản chất và vai trò của hệ tư tưởng
trong hệ thống xã hội. Chức năng tư tưởng của xã hội học biểu hiện ở vai
trò cung cấp nội dung khoa học của hệ tư tưởng, là cơ sở cho nhân sinh
quan xã hội đúng đắn. Chức năng tư tưởng của xã hội học thể hiện trên
hai khía cạnh. Một là, xã hội học trang bị cho người nghiên cứu thế giới
quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng tinh thần yêu nước,
giáo dục ý thức về độc lập, tự do, về vai trò, trách nhiệm của công dân
trong sự nghiệp phát triển xã hội. Hai là, xã hội học giúp người nghiên
cứu hình thành và phát triển phương pháp tư duy nghiên cứu khoa học và
khả năng phê phán chống lại các quan điểm phi Macxit, lợi dụng xã hội
học để phủ định vai trò của học thuyết Mác - Lênin hay phủ định định
hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta, đồng thời chống lại những tư
tưởng sai lầm, bảo thủ, lạc hậu trong hoạt động thực tiễn.
Ngoài các chức năng cơ bản trên, xã hội học còn có các chức năng
cụ thể hơn, như chức năng quản lý, chức năng công cụ...

2. Nhiệm vụ của xã hội học


a. Nghiên cứu lý luận
Nhiệm vụ hàng đầu của xã hội học là xây dựng, phát triển và hoàn
thiện hệ thống lý luận xã hội học, bao gồm các khái niệm, phạm trù, lý
thuyết khoa học riêng đặc thù. Vì là khoa học non trẻ so với một số lĩnh
vực khoa học khác cho nên xã hội học có thể và cần phải vừa xây dựng,
vừa kế thừa sử dụng các khái niệm hay thuật ngữ của các ngành khoa học
khác để khẳng định nó và phân biệt nó với các môn khoa học khác. Các

30
khái niệm, phạm trù khoa học được sử dụng phổ biến trong xã hội học
(như: con người xã hội, hành vi xã hội, hành động xã hội…) các "vấn đề
xã hội" (như: bất bình đẳng xã hội, phân tầng xã hội, cơ cấu xã hội…)
hay việc phát triển nhân cách con người, xu hướng vận động và biến đổi
xã hội… phải được nghiên cứu một cách căn bản. Cần hướng tới hình
thành và phát triển hệ thống lý luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ
chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.

b. Nghiên cứu thực nghiệm


Đây là một nhiệm vụ quan trọng của xã hội học với tư cách là một
môn khoa học. Thông qua nghiên cứu thực nghiệm để một mặt kiểm
nghiệm, chứng minh các giả thiết khoa học; mặt khác để phát hiện những
vấn đề mới nảy sinh, làm cơ sở cho việc sửa đổi, phát triển và hoàn thiện
hệ thống khái niệm, đồng thời thúc đẩy tư duy xã hội học.
Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm trong xã hội học đòi hỏi tập trung
giải quyết các vấn đề: Kiểm chứng lý thuyết, phát hiện vấn đề mới từ thực
tiễn hay qua thực nghiệm, định hướng giải quyết vấn đề mâu thuẫn trong
đời sống xã hội. Trong nghiên cứu xã hội nói chung và xã hội học nói
riêng, nghiên cứu thực nghiệm có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì có nói gì
đi nữa thì đối tượng nghiên cứu và tác động của việc ứng dụng nghiên
cứu là con người trong khi lý luận chỉ là giả thuyết, lý thuyết. Một lý luận
sai và không được kiểm nghiệm một cách nghiêm túc, khoa học thì hậu
quả xã hội là khôn lường bởi nó thậm chí có thể hủy hoại cả một dân tộc.

c. Nghiên cứu ứng dụng


K. Marx viết "Các nhà triết học cho tới nay mới chỉ giải thích thế
giới. Vấn đề là biến đổi thế giới"1 để khẳng định vai trò của khoa học nói
chung không chỉ là nghiên cứu và giải thích thế giới mà phải cải tạo, biến
đổi thế giới. Do vậy, xã hội học không chỉ nghiên cứu để hiểu xã hội mà
có nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học vào đời sống.
Nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc đề ra các giải pháp vận dụng những

1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.52

31
phát hiện của nghiên cứu lí luận và nghiên cứu thực nghiệm trong hoạt
động thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu sự thực hành, vận hành và phát
triển của các cộng đồng xã hội, các tổ chức và quá trình xã hội, các quan
hệ xã hội cũng như các hành vi xã hội, bằng các phương pháp khoa học
chuyên ngành, xã hội học sẽ tìm ra được những kết luận chính xác về bản
chất của sự kiện, hiện tượng hay quá trình đó, từ đó có các giải pháp để
kiểm soát, hay nói cách khác để có những quyết sách hay quyết định
quản lí xã hội thích hợp.

NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Điều kiện, tiền đề và lịch sử ra đời xã hội học.


2. Bản chất xã hội học, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
xã hội học.
3. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học.

32
Chương 2
HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI, TƯƠNG TÁC XÃ HỘI
VÀ QUAN HỆ XÃ HỘI

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về đối tượng nghiên cứu của xã
hội học, nhưng về cơ bản tính thống nhất từ các cách tiếp cận đó là xã
hội học chú tâm nghiên cứu quan hệ giữa con người và xã hội. Cá nhân
tác động với nhau, với xã hội thông qua hành động xã hội. Bằng hành
động của mình, cá nhân không chỉ tác động đến xã hội, mà còn có giá trị
tác động hướng tâm - tạo ra chính mình. Từ hành động xã hội hình thành
nên sự tương tác lẫn nhau của các chủ thể hành động cũng như quan hệ
xã hội. Đây là lý do để các nhà xã hội học cho rằng hành động xã hội là
một chủ đề cơ bản của xã hội học, thậm chí Weber còn coi hành động xã
hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Do vậy, khi nghiên cứu xã
hội học đương nhiên phải nghiên cứu hành động xã hội, tương tác xã hội
và quan hệ xã hội.

I. HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI


1. Khái niệm hành động xã hội
Đã có nhiều những bàn luận xoay quanh khái niệm hành động xã
hội. Tuy nhiên, mọi tranh luận chủ yếu đều hướng vào vấn đề quan trọng
và gây nhiều tranh cãi là cơ sở nào để xác định hành động xã hội.
Trong lịch sử phát triển của khoa học tâm lý học, cũng như của xã
hội học, các nhà khoa học đã từng tranh luận về nhận thức hành động của
con người. Thuyết tâm lý học hành vi, tiêu biểu là John Broadus Watson
(người Mỹ, 1878-1958) cho rằng chúng ta không thể nhận biết được
động cơ bên trong của hành động, mà chỉ nhận biết được giá trị của hành
động qua tác động bên ngoài. Ông tuyên bố: "Chúng tôi cần bắt đầu làm
việc trong những lĩnh vực tâm lý học và đặt ra mục đích khách quan cho
cuộc đấu tranh của chúng tôi không phải là ý thức mà là hành vi".
Những người theo trường phái này lập luận rằng thật khó để xác
định ý nghĩa chủ quan của chủ thể hành động vì nó vô hình và nằm trong

33
tiềm thức của các chủ thể đó. Thậm chí có người còn lý giải rằng có
nhiều lúc không có sự ăn khớp giữa động cơ với hành động thực tế của
chủ thể hành động, nói một đường (hay nghĩ một đường) nhưng làm một
nẻo. Từ đó họ chủ trương dựa vào hành vi hay kết quả của hành động để
xác định.
Ngược lại, tư duy xã hội học lại thể hiện sự bao quát, toàn diện hơn
so với nhận thức về hành động của các nhà tâm lý hành vi mà Waton là
đại biểu. Nhiều nhà xã hội học như V. Parento, G. Mead, T. Parsons đã
cho rằng trong hành động của con người luôn hiện diện sự can thiệp của
ý thức. Nhiều nhà xã hội học ủng hộ quan điểm với Parsons khi nghiên
cứu hành động xã hội. Trong số các nhà xã hội học thừa nhận yếu tố
ý thức can thiệp vào hành động của chủ thể, phải kể đến Weber.
Max Weber trên cơ sở nghiên cứu hành động xã hội của chủ thể đã
xây dựng lý thuyết hành động xã hội. Lý thuyết của Weber chỉ ra con
người không chỉ nhận thức được các giá trị bên ngoài mà còn nhận biết
được cả động cơ bên trong của hành động. Ông coi hành động xã hội là
hạt nhân của mọi quan hệ giữa con người và xã hội, từ đó ông cho rằng
hành động xã hội là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Mặc dù chưa
hoàn toàn thỏa mãn nhưng phần nhiều các nhà xã hội học đều thấy rằng
nhận thức về hành động xã hội của Weber toàn diện, khoa học hơn so
nhận thức về hành động của lý thuyết hành vi.
Hành động xã hội là một thuật ngữ được dùng phổ biến trong học
tập và nghiên cứu xã hội học. Trong các ấn phẩm xã hội học ở nước ta
hiện nay, thuật ngữ hành động xã hội được diễn đạt rất đa dạng: thứ nhất:
"Hành động xã hội là một hành vi hướng đích gắn bó về nghĩa với hành
vi, với các kỳ vọng được cảm nhận hay được phỏng đoán của đối tác
tương tác và được định hướng theo chuẩn mực và giá trị xã hội"1; thứ
hai, "Hành động xã hội là hành động được con người gắn cho một ý
nghĩa nhất định và hướng vào người khác"2; thứ ba, "Hành động xã hội
là hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, có
tính đến hành vi của người khác, và vì vậy được định hướng tới người
1
G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, (Ngụy Hữu Tâm
và Nguyễn Hoài Bão dịch). Tr. 188
2
Lưu Hồng Minh (2010), Hỏi & đáp Xã hội học đại cương (xã hội học), Nxb Chính trị -
Hành chính. Tr. 79

34
khác, trong đường lối, quá trình của nó"1. Nhìn chung ở Việt Nam các
nhà xã hội học cũng cơ bản thống nhất với nhận thức của Weber về hành
động xã hội. "Định nghĩa của nhà xã hội học người Đức là Weber được
coi là hoàn chỉnh nhất về hành động xã hội. Ông cho rằng, hành động xã
hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định"2.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt về hành động xã hội, nhưng ở đây
cần thống nhất nhận thức về hành động xã hội theo lý thuyết hành động
của nhà xã hội học Weber như sau, hành động xã hội là hành vi mà chủ
thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định, hướng đến người khác,
có tính đến cách thức thực hiện hành động.
Ví dụ, sau khi tốt nghiệp đại học, sinh viên M làm đơn gửi công ty X
để xin được làm việc. Hành động nói trên của sinh viên M được gọi là
hành động xã hội vì sinh viên có động cơ, có đích đến rất rõ ràng là xin
làm việc ở một địa chỉ cơ quan cụ thể, để có thu nhập và phát triển bản
thân. Trong lĩnh vực kinh tế, một người sản xuất ra sản phẩm để bán thu
tiền hay mua sản phẩm của người này bán cho người khác thu lãi chẳng
hạn là hành động xã hội.
Hành động xã hội được hình thành từ các hành động, giao tiếp của
chủ thể, nhưng không phải tất cả các hành động và giao tiếp của chủ thể
trong một thời gian nhất định đều là hành động xã hội. Nói cách khác,
trong cuộc sống hàng ngày, mỗi chủ thể thường có vô số hành động, giao
tiếp nhưng không phải tất cả các hành động, giao tiếp đã xảy ra đều là
hành động xã hội.
Ví dụ, do mải mê tranh bóng, hai cầu thủ bóng đá va chạm vào nhau
rất mạnh, sự va chạm này không được coi là hành động xã hội. Nhưng
nếu có cầu thủ cố tình va chạm với cầu thủ khác vì một lý do nào đó thì
đó là hành động xã hội. Hay một người vì vội mà vô tình va chạm người
khác, đó không là hành động xã hội, nhưng với mục đích bắt chuyện, làm
quen hay gây gổ với họ mà va chạm thì đó lại là hành động xã hội.
Định nghĩa của Weber về hành động xã hội cho thấy hành động xã
hội là những hành động phải hướng về người khác, vì con người, do đó
những hành động chỉ hướng về sự vật mà không tính đến các hành vi của

1
Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, H. 2008. Tr.199.
2
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr. 130.

35
người khác thì không được coi là hành động xã hội. Ví dụ, hành động
khai thác rừng một cách tùy tiện chỉ vì lợi ích kinh tế cá nhân (hay nhóm)
trước mắt, bất chấp pháp luật và lợi ích cộng đồng thì không phải là hành
động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản
ứng từ những người khác thì không phải là hành động xã hội.
Định nghĩa hành động xã hội của Weber còn chỉ ra cơ cấu của hành
động. Weber đã chú trọng nghiên cứu yếu tố bên trong (động cơ) của
hành động, và xem yếu tố này là nguyên nhân của hành động xã hội. Ông
cho rằng, một hành động mà chủ thể không nghĩ về nó thì không thể là
một hành động xã hội, nếu hành động không phải là kết quả của quá trình
suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Ngoài ra định nghĩa về hành động xã hội của Weber cho thấy chúng
ta vừa nhận biết được tác động bên ngoài, vừa nhận biết được cả động cơ
(nguyên nhân) bên trong thúc đẩy hành động, nghĩa là nhận diện được cả
cơ cấu (các yếu tố cấu thành) của hành động. Do đó, nó giúp chúng ta
nhận thức bản chất của hành động chính xác hơn, đúng đắn hơn so với
nhận thức về hành động của lý thuyết hành vi (khác về chất so với thuyết
hành vi).
2. Phân biệt hành động xã hội với hành vi xã hội, hành động
vật lý - bản năng
a. Hành vi xã hội
Các thuật ngữ hành vi xã hội và hành động xã hội là những thuật
ngữ được dùng phổ biến trong nghiên cứu tâm lý xã hội và xã hội học, có
lúc được các nhà nghiên cứu xã hội học dùng thay thế cho nhau, nhưng
không phải vì thế mà chúng ta đồng nhất các thuật ngữ này. Do đó, việc
phân biệt để hiểu nội hàm và cách sử dụng các khái niệm trên trong
nghiên cứu xã hội học là hoàn toàn cần thiết.
Hành vi được nghiên cứu nhiều trong lý thuyết hành vi, được phát
triển ở Mỹ mà đại biểu là nhà tâm lý học J. Watson. Theo ông, hành vi là
một chuỗi các mối liên hệ giữa kích thích và phản ứng, là đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học. Ban đầu, lý thuyết này cho rằng con người
chỉ quan sát được những biểu hiện bên ngoài của hành động, không thể
nghiên cứu được những yếu tố bên trong (vì không quan sát được) của

36
hành vi. Hành vi là những phản ứng máy móc, không có sự tham gia từ ý
thức của chủ thể, nhưng có thể quan sát được sau các tác nhân.
Tóm lại, hành vi là những phản ứng, cách ứng xử có thể quan sát
được của một chủ thể trước một tác nhân. Ví dụ, một người bị chê bai thì
buồn chán, được thưởng thì vui cười, bị đánh thì bỏ chạy… Đó là những
phản ứng tự nhiên, bột phát mà chủ thể không hề lý giải được tại sao lại
như vậy.
Lý thuyết hành vi được tiếp tục phát triển bởi các nhà hành vi xã hội,
tiêu biểu là nhà xã hội học người Mỹ, George Herbert Mead (1863-1931).
Theo ông, khi nghiên cứu hành vi của con người cần chỉ ra mối liên hệ
giữa hành vi và tác nhân, đồng thời cần tìm ra cơ cấu của hành vi. Từ
đây, nội hàm khái niệm hành vi của lý thuyết hành vi ban đầu dần được
mở rộng, chứa đựng các yếu tố xã hội (tính xã hội của hành vi). Các nhà
hành vi xã hội cho rằng giữa tác nhân và phản ứng phải có yếu tố trung
gian như hệ thống nhu cầu, các giá trị… G. Mead cho rằng các cá nhân
phải suy nghĩ, cân nhắc trước khi phản ứng tác nhân, không phản ứng
một cách máy móc. Ví dụ, khi ta đi cắt tóc, người thợ cắt tóc mài dao
trước mặt chúng ta, chúng ta không bỏ chạy vì cho rằng đó là việc làm
bình thường của họ và không đe dọa đến mình.
Lý thuyết hành vi xã hội đã khắc phục hạn chế của lý thuyết hành vi,
đã chỉ ra cần phải tìm hiểu mối liên hệ giữa phản ứng và tác nhân cũng
như hệ thống của hành vi. Chúng ta có thể nói rằng hành vi xã hội là một
chỉnh thể thống nhất gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Nội dung này gần gũi với nội dung khái niệm hành
động xã hội của Weber. Hiện nay, trong các ấn phẩm xã hội học chúng ta
thường thấy các tác giả sử dụng hai khái niệm hành vi xã hội và hành
động xã hội là tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu, không thể đồng nhất hai
khái niệm này. Qua phân tích trên cho thấy, khi nghiên cứu hành động
hướng ra ngoài (hướng tới người khác) người ta thường dùng thuật ngữ
hành động xã hội, ngược lại nếu việc nghiên cứu thiên về tâm lý họ
thường dùng thuật ngữ hành vi xã hội.
b. Hành động vật lý - bản năng
Hành động vật lý - bản năng là những hành động hầu như không có
sự chi phối của ý thức, chủ thể hành động không suy nghĩ hay không kịp

37
suy tính. Chủ thể của hành động này bỏ qua các yếu tố môi trường xung
quanh và không nghĩ tới hậu quả sau hành động của mình. Ví dụ: 1) về
hành động bản năng như đói thì đòi ăn, khát thì đòi uống, khi chạm tay
vào nước nóng thì rụt tay lại; 2) về hành động vật lý như khi ta đang chạy
vấp phải vật cản nên ta bị ngã....
Sự khác biệt giữa hành động xã hội và hành động vật lý - bản năng
được nhà xã hội học Mỹ, Talcott Parsons (1902-1979) chỉ ra ở các nội
dung sau:
Thứ nhất: Hành động xã hội có cơ chế biểu tượng (ngôn ngữ, cử chỉ,
hình ảnh hay các giá trị) điều chỉnh, mọi người trong cộng đồng đều hiểu
và thực hành trong cuộc sống. Ví dụ, khi A và B trao đổi với nhau, thấy
B gật đầu (hay lắc đầu) thì A có thể hiểu là B đồng ý hay không đồng ý
với mình.
Ngược lại, hành động vật lý - bản năng xuất hiện không thông qua
những đặc trưng, biểu tượng. Ví dụ, hành động lắc đầu của một người
nào đó, xét từ góc độ vật lý - bản năng được hiểu đơn giản là do người đó
đau hay mỏi gây nên.
Tóm lại, nếu như hành động vật lý - bản năng sinh học được coi là
một phản ứng trực tiếp với tác nhân thì hành động xã hội là một phản
ứng gián tiếp thông qua các biểu tượng.
Thứ hai, hành động xã hội có tính chuẩn mực, còn hành động vật lý -
bản năng không có tính chuẩn mực. Điều này được hiểu là hành động xã
hội của các chủ thể phụ thuộc vào hệ thống các giá trị và chuẩn mực của
xã hội, ngược lại hành động vật lý - bản năng thì không có tính chuẩn
mực. Trước khi thực hiện hành động xã hội, chủ thể phải dành thời gian
nhất định để qui chiếu với hệ giá trị của cộng đồng như đúng - sai,
tốt - xấu, có sự ủng hộ hay phản đối của cộng đồng... Vì vậy, trước khi
mỗi chủ thể có phản ứng đều cần cân nhắc phản ứng như vậy có lợi hay
không có lợi, phản ứng vì cái gì, phản ứng như vậy có được không… Ví
dụ, sinh viên giơ tay xin phát biểu trong giờ học. Hành động này của sinh
viên phản ánh nhu cầu muốn được trình bày chính kiến, hành động giơ
tay được hiểu là qui ước (biểu tượng) được cộng đồng thừa nhận là hành
động xã hội. Còn hành động vật lý - bản năng thì không có tính chuẩn

38
mực. Ví dụ, trong lớp học, mọi người đang chăm chú nghe giáo viên
giảng bài, bất ngờ có tiếng trao đổi cá nhân gây ồn ào, mất trật tự do vài
học sinh tự phát gây ra, hành động này sẽ không được mọi người trong
phòng họp đồng tình. Đó chỉ là hành động vật lý - bản năng.
Thứ ba, tính duy lý của hành động xã hội. Hành động xã hội có tính
duy lý, còn hành động vật lý - bản năng thì không. Tính duy lý của hành
động xã hội thể hiện ở chỗ mọi người đều có tính độc lập nhất định khi
hành động. Cá nhân có thể đơn phương quyết định thực hiện hành động
một cách chủ quan dựa vào hệ giá trị, chuẩn mực chính thống của xã hội
và các cơ chế điều chỉnh khác mà họ xác định được. Cá nhân nhận định
tình huống, hoàn cảnh, tính toán phương án hành động và hậu quả của nó.
Điều này thể hiện bản lĩnh, tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm
cá nhân trước hành động của mình, nó có ý nghĩa rất quan trọng, quyết
định sự thành bại trong hoạt động của cá nhân hay xã hội, nhất là với
những người giữ vị trí lãnh đạo được ví như các "tư lệnh" của hành động.
Tuy nhiên, nhận định một tình huống, một hoàn cảnh, lựa chọn một
phương án đúng hay sai, tốt hay xấu thuộc về ý thức cá nhân. Bởi vậy,
nếu nhận định của chúng ta không đúng (không phù hợp với hoàn cảnh,
điều kiện, không có phương án hành động đúng...) thì hành động của
chúng ta sẽ không đạt kết quả mong muốn. Trong trường hợp này, chủ
thể gây hành động sẽ trở nên "vô duyên", hoặc gây tổn thương, tổn thất
cho chính mình. Ví dụ, trong lúc điểm danh, khi giảng viên đọc tên sinh
viên A, thì bất ngờ sinh viên B lại nói "Có" và đứng dậy. Sự phản ứng
vội vàng do không chú ý của sinh viên B khiến mọi người phản ứng, còn
sinh viên B thấy lúng túng, ngượng ngùng khi hiểu rõ nội dung. Hay bà
A đưa tiền cho chị T để cho ông X vay, vì nghe chị T nói ông X vay của
nhiều người và trả lãi/tháng cao lại sòng phẳng. Sự thật, bà A chỉ nhận
được tiền lãi trong mấy tháng đầu tiên từ chị T, sau đó bà A không còn
nhận được tiền lãi và cũng không biết tìm chị T và ông X ở đâu để đòi
tiền. Trong trường hợp này, bà A có thể bị mất tiền vì không nhận thức
rõ bản chất "vay tiền" của chị T và ông X, vì thực chất hoạt động của họ
chỉ là lừa đảo.
Ngoài ra, thông thường với hành động vật lý - bản năng, chủ thể
hành động ở trạng thái bị động, thụ động. Ngược lại, hành động xã hội

39
mọi chủ thể hành động đều chủ động vì trước và trong khi hành động chủ
thể đã có nhu cầu, động cơ và có sự tính toán.

3. Cấu trúc hành động xã hội (Các yếu tố cấu thành hành động
xã hội)
Như phần trên đã trình bày, định nghĩa của Weber về hành động
xã hội cho thấy hành động xã hội là một tập hợp các yếu tố, có yếu tố
trực tiếp quan sát được, có yếu tố không trực tiếp quan sát được. Cấu
trúc hành động xã hội thường bao gồm:
- Nhu cầu, động cơ: Là yếu tố nằm bên trong chủ thể, không lộ ra
ngoài như hành vi nhưng con người nhận thức được yếu tố này, là khởi
điểm của hành động xã hội, được Weber cho là động cơ thúc đẩy hành
động. Động cơ là thành tố đầu tiên trong cấu trúc của hành động xã hội
và là nguyên nhân của hành động xã hội. Nếu không có nhu cầu hay
động cơ thì sẽ không có hành động; nhu cầu càng lớn, động cơ càng
mạnh càng thôi thúc chủ thể xã hội hành động; động cơ thế nào hành
động sẽ được lái theo hướng đó. Ví dụ, sinh viên đi học để có bằng cấp
hay kiến thức? Nếu cần kiến thức họ sẽ học như thế nào, còn nếu chỉ vì
bằng cấp họ sẽ làm gì? Trong kinh tế thị trường nhu cầu sinh lợi thôi thúc
doanh nhân hành động kinh doanh, nhu cầu lợi nhuận càng lớn càng thúc
đẩy doanh nhân hành động mạnh, kể cả sự liều lĩnh.
- Chủ thể hành động: Được hiểu có thể là cá nhân, tổ chức, nhóm xã
hội, cộng đồng xã hội, toàn thể xã hội. Đây là chủ nhân của hành động xã
hội, yếu tố trung tâm, quyết định hành động xã hội. Chẳng hạn trong đời
sống kinh tế, để hoạt động sản xuất cần có đủ ba yếu tố cơ bản (đối tượng
lao động, tư liệu lao động, sức lao động), song sức lao động (con người)
luôn là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất.
- Hoàn cảnh (môi trường) của hành động: Được hiểu là những điều
kiện về thời gian, không gian vật chất và tinh thần, bối cảnh xã hội của
hành động. Môi trường tác động rất rõ đến hành động, khiến nhiều nhà
xã hội học gọi đó là sự kiềm chế thực tế. Ví dụ, khi ta đi dự một bữa tiệc,
mặc dù thức ăn đã được bày sẵn, đầy đủ và bản thân ta thì đói rồi, rất
muốn ăn (có nhu cầu ăn) nhưng vì trong mâm cơm chưa đủ người nên ta
phải tự kiềm chế, đợi mọi người đến đông đủ rồi cùng ăn. Trong lĩnh vực
kinh tế có thể hiểu đây là môi trường kinh doanh.

40
- Công cụ, phương tiện: Được hiểu như là những yếu tố vật chất hay
tinh thần mà chủ thể lựa chọn để thực hiện hành động của mình, là những
yếu tố chủ thể hành động sử dụng để thực hiện hành động. Một nhạc sỹ
cần có nhạc cụ, một người lao động nói chung cần có công cụ và phương
tiện lao động. Công cụ, phương tiện dù bị chi phối, quyết định bởi chủ
thể hành động song có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến kết quả hành
động, nhất là trong điều kiện bùng nổ khoa học công nghệ ngày nay và
theo quan điểm "kỹ trị".
- Mục đích đạt được: Là kết quả đạt được sau hành động, thỏa mãn
nhu cầu của hành động xã hội. Nhu cầu là "cái" đầu tiên, khởi nguồn cho
hành động còn mục đích là "cái" sau cùng, kết quả của hành động. Mục
đích thường gắn với nhu cầu nhưng không phải hoàn toàn thống nhất với
nhu cầu.
Tóm lại, hành động xã hội bao gồm nhiều thành tố, giữa các thành
tố trong cấu trúc hành động xã hội có mối liên quan hữu cơ với nhau.
Có thể biểu diễn mối quan hệ nói trên theo mô hình sau1:

Hoàn
cảnh

Công cụ,
Nhu cầu, Chủ Mục đích,
Phương
Động cơ thể Đạt được
tiện

4. Hậu quả không chủ định của hành động xã hội


Hành động xã hội thường mang lại kết quả thỏa mãn tính toán của
chủ thể, nhưng cũng có thể gây hậu quả (kết quả) không mong muốn vì
như đã đề cập ở trên, nhu cầu và mục đích hành động xã hội không phải
lúc nào cũng thống nhất với nhau. Điều này được hiểu là dù chủ thể đã

1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr. 135

41
nỗ lực tính toán trước khi thực hiện hành động, sau khi thực hiện, đa số
mang lại kết quả như dự định, nhưng cũng có những hành động đem lại
hậu quả không chủ định, không như mong muốn.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều các
trường hợp mà kết quả hành động không như tính toán ban đầu. Ví dụ,
mặc dù sinh viên X đã toan tính rất kỹ trước khi sử dụng tài liệu, phương
tiện, dụng cụ bị cấm trong khi thi, nhưng vẫn có thể bị phát hiện, bị trừ
điểm, thậm chí bị đình chỉ thi. Mong muốn có bài thi tốt, điểm thi cao
nhưng kết quả là bị kỷ luật, điểm không. Khi đầu tư kinh doanh, bất kỳ ai
cũng muốn thu lợi nhuận và hơn nữa lợi nhuận càng nhiều càng tốt (tối
đa hóa lợi nhuận), nhưng thực tế không phải ai, lúc nào cũng thu được
kết quả mong muốn, thậm chí còn thua lỗ, phá sản, kể cả những doanh
nhân tài ba.
Hậu quả không chủ định là hậu quả sinh ra từ hành động xã hội của
chủ thể, nhưng nằm ngoài sự tính toán, mong muốn của chủ thể tạo ra
hành động xã hội. Phần lớn hậu quả không chủ định dẫn đến những kết
quả không tốt cho chủ thể hành động và xã hội. Một sinh viên đi học
muộn nhưng muốn đến lớp đúng giờ nên cố tình chạy xe nhanh đã va
chạm với người khác và gây ra tai nạn.
Tuy nhiên, hậu quả không chủ định của hành động xã hội không
phải bao giờ cũng là xấu, tiêu cực, mà ngược lại có những hậu quả không
chủ định mang lại kết quả tích cực, có lợi cho xã hội. Ví dụ, anh A trồng
cây trong khuôn viên nhà ở của mình để tạo bóng mát, nhưng hậu quả
không chủ định tích cực lại là tạo cảnh quan, làm giàu cho môi trường,
làm đẹp cho các nhà xung quanh, cho xã hội. Năm 1776, trong tác phẩm
"Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các dân tộc",
nhà kinh tế học người Anh - A.Smith (1723-1790) đã đưa ra lý thuyết
"Bàn tay vô hình" để phản ánh kết quả to lớn do các cá nhân mang lại
cho xã hội mặc cho trước và trong khi hành động họ không hề tính tới.
Từ việc nghiên cứu "con người kinh tế" ông nhận thấy mục đích của bất
kỳ người sản xuất hàng hóa nào cũng là lợi nhuận, tối đa hóa lợi nhuận
cho mình. Để đạt được mục tiêu cá nhân này tất cả họ phải cố gắng sản
xuất thật nhiều hàng, làm ra hàng tốt và chi phí sản xuất thấp. Kết quả là
xã hội sẽ có nhiều hàng hóa, hàng hóa chất lượng tốt và giá cả giảm.

42
Nguyên nhân gây nên hậu quả không chủ định, phải kể đến là thế
giới vật chất và tinh thần luôn vận động là vô tận, chủ thể dù có thông
minh đến đâu chăng nữa cũng chưa thể nhận thức hết được. Muốn giảm
thiểu những hậu quả không chủ định của hành động xã hội, chủ thể hành
động cần tăng cường nâng cao nhận thức về khả năng (năng lực) của bản
thân mình, về môi trường, về các yếu tố chi phối đến quá trình thực hiện
hành động, trong đó vai trò của yếu tố chủ quan như năng lực nhận thức
và khả năng hành động của con người là nguyên nhân quyết định. Từ đó
chúng ta thấy được tầm quan trọng của việc học tập và rèn luyện kỹ năng
(kỹ năng cứng, kỹ năng mềm) của con người, sự kết hợp nhóm người
hành động như thế nào.

5. Những yếu tố quy định hành động xã hội


a. Yếu tố tự nhiên
Yếu tố tự nhiên ở đây không phải nói về yếu tố thiên nhiên hay địa
lý, mà là nói về đặc điểm tâm - sinh lý, sinh học của mỗi con người cụ
thể, nó có thể có liên quan đến hành vi nhất định nào đó của mỗi con
người. Yếu tố sinh học là toàn bộ đặc tính về giải phẫu và sinh lý cơ thể
con người xuất hiện ngay từ khi người ta mới sinh ra (bẩm sinh) hoặc do
thế hệ trước truyền lại (di truyền). Về mặt tự nhiên con người được sinh
ra và qua rèn luyện cơ bản không giống nhau.
Các nhà khoa học theo quan điểm này cho rằng yếu tố sinh học quy
định hành vi con người. Theo các nhà sinh lý học đặc điểm sinh lý, ghen
của mỗi con người cụ thể thường dễ ứng với mỗi hành vi cụ thể nào đó.
Sự khác biệt giữa người này với người khác có thể về hình dáng, thể lực,
trí lực hay nghị lực, ý chí... từ đó tạo cho con người có khả năng "trội"
hay "lặn" với một lĩnh vực hành động nhất định. Người có trí thông
minh, người có sức khỏe, người có quyết tâm (nghị lực) cao... sẽ thích
ứng tốt, phù hợp với loại hành động này hay không phù hợp với loại
hành động khác. Người có tư chất thông minh thì thông thường nắm bắt
và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống dễ dàng và thuận lợi hơn so với
những người kém tư chất thông minh.
Nhà sinh lý học, tội phạm học Cesare Lombroco (người Italia,
1835-1909), đã nghiên cứu và khẳng định có mối liên hệ giữa yếu tố sinh

43
học với hành vi, hành động xã hội. Ông quan niệm những người có 5 đặc
điểm bẩm sinh như miệng rộng và hàm răng khoẻ, trán dốc, ngắn; xương
gò má nhô cao, mũi bẹt; tai hình dáng quai xách; mũi diều hâu, môi to
dầy, mắt gian giảo, lông mày rậm; không nhạy cảm với đau đớn, cánh tay
dài thường là người phạm tội bẩm sinh hay dễ có thể có dạng hành vi
phạm tội. Còn nhà nhân chủng học Mỹ William Sheldom cũng cho rằng
mỗi kiểu loại cơ thể của cá nhân có mối liên quan với dạng hành vi nhất
định. Theo ông, có ba kiểu loại cơ thể: kiểu loại tròn béo, mềm thuộc loại
khoan dung, dễ bằng lòng, dễ thân thiện; kiểu loại cơ thể lực lưỡng cơ
bắp thuộc loại có xu hướng phạm tội cao nhất vì loại cơ thể này dễ kích
động, dễ nổi nóng, dễ rơi vào trạng thái thần kinh căng thẳng; kiểu loại
cơ thể mong manh, yếu ớt, gầy thì quá nhạy cảm, dễ nản chí. Một số nhà
khoa học khác cho rằng những yếu tố về gen di truyền quy định một số
dạng hành vi đặc biệt như tội phạm, tự tử…
Mặc dù có những liên hệ nào đó giữa yếu tố tự nhiên (đặc điểm tâm,
sinh lý của chủ thể) với những hành vi nào đó như đã nói trên đây, nhưng
cũng chưa đủ để giải thích về tính đa dạng của hành động xã hội. Trên
thực tế, khoa học xã hội học không quan tâm nhiều đến các yếu tố tự
nhiên nói trên bởi xét cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy vai trò
quyết định của việc học tập, rèn luyện của con người đối với hành động
của mình. Các nhà xã hội học Mỹ, tiêu biểu là R. Park đã chỉ rõ "không
phải con người được sinh ra đã là người, rằng cơ thể của đứa trẻ sơ sinh
và các tình cảm bẩm sinh của nó không quyết định cách ứng xử của cá
thể mà chỉ có sự tham gia vào các cộng đồng, và quá trình xã hội hóa đã
tạo nên tình cảm con người"1.
b. Quá trình xã hội hóa và cơ cấu xã hội
Quá trình xã hội hóa đối với con người lúc trẻ thơ, cũng như cả đời
có ảnh hưởng đến hành động xã hội của họ. Nhà xã hội học Kingslay
Davis (Mỹ, 1908-1997) chỉ ra rằng, quá trình xã hội hóa sớm của con
người có hệ quả lâu dài đối với sự phát triển nhân cách của họ. Qua quá
trình nghiên cứu ông nhận thấy những đứa trẻ bị cách ly xã hội với
những trẻ tham gia sớm vào quá trình xã hội hóa có xu hướng hành động

1
Thanh Lê (2004), Xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tr.195

44
khác nhau và sự hình thành nhân cách cũng rất khác nhau, đồng thời có
ảnh hưởng lâu dài đến việc phát triển nhân cách của người đó. Quan
điểm này sau đó được hai nhà xã hội học Mỹ (Peter Berger và Thomas
Luckmann) tiếp tục kế thừa và bổ sung. Hai ông cho rằng không chỉ xã
hội hóa lúc còn nhỏ, mà quá trình xã hội hóa của cả đời người cũng qui
định hành động xã hội của các cá nhân, cho dù mỗi giai đoạn của quá
trình có đặc điểm khác nhau và ảnh hưởng khác nhau đến hành động xã
hội của cá nhân đó.
Nội dung này được các nhà xã hội học giải thích rằng, xã hội hóa là
quá trình tương tác giữa con người với con người, giữa con người với các
yếu tố khách quan, trong những môi trường cụ thể, xác định và qua đó,
con người lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm để ứng xử phù hợp với vai trò
xã hội của mình. Ví dụ, một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình hoàn cảnh
khó khăn, sớm phải lao động giúp đỡ gia đình lo toan cuộc sống, thì khi
bước vào cuộc sống độc lập thường dễ dàng vượt qua những khó khăn để
hoàn thiện mình.
Cơ cấu xã hội quy định hành động xã hội: Cá nhân có xu hướng
hoàn thiện phù hợp vị thế của mình trong xã hội. Cơ cấu xã hội là một
tập hợp đa dạng các quan hệ xã hội, vị trí xã hội và tương ứng với chúng
là vị thế, vai trò của cá nhân hay nhóm người trong xã hội. Bởi con người
vốn là "tổng hòa các mối quan hệ xã hội" nên mỗi cá nhân có thể có một
hay nhiều vị trí, vai trò xã hội khác nhau. Cá nhân vừa có trách nhiệm,
vừa luôn có xu hướng hành động phù hợp với vị thế và vai trò của mình
trong từng mối quan hệ của cơ cấu xã hội gắn với môi trường, hoàn cảnh
cụ thể. Ví dụ, khi đến trường chúng ta là học sinh do vậy phải hành động
đúng tư cách là học sinh, nhưng lúc ở nhà lại là cháu, con, anh (chị),
em... trong gia đình chúng ta cũng hành động đúng tư cách là thành viên
của gia đình. Nếu cá nhân không xác định đúng vị thế, vai trò của mình
họ sẽ tự cảm thấy không yên ổn, lúng túng khi thậm chí không thực hiện
chuẩn xác hành động của mình.
Ngoài vai trò, vị thế, cá nhân còn bị chi phối bởi thiết chế, chuẩn
mực xã hội và cá nhân buộc phải hành động đúng với các thiết chế,
chuẩn mực xã hội đó. Ví dụ, là sinh viên phải thực hiện một số điều (đến
lớp, nghe giảng, ghi bài, đọc tài liệu...) mà không được phép làm những

45
việc khác (quấy rối, nói chuyện riêng, gây ồn ào mất trật tự trong phòng
học... ). Khi đi thi sinh viên cũng phải hành động tuân thủ quy chế phòng
thi, được đảm bảo điều kiện (theo quy chế) để làm bài tốt và không được
làm một số điều như mang tài liệu hay vật dụng không được phép vào
phòng thi, quay cóp, trao đổi bài với người khác... Là công dân chúng ta
phải sống và làm việc theo pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế, do nhận
thức không đầy đủ hay cố tình nên đôi khi cá nhân vẫn có những hành
động trái với chuẩn mực xã hội, làm những điều không được làm.
Rõ ràng, khác với quan điểm tự nhiên, những người theo quan niệm
xã hội hóa và cơ cấu xã hội nhấn mạnh sự tác động của yếu tố xã hội đến
hành động cá nhân. Đây là yếu tố quan trọng thể hiện bản chất xã hội của
con người và hành động của con người. Điều đó cũng giải thích rằng vì
sao khi thực hiện hành động, chúng ta có thể nhận thấy áp lực từ xã hội,
nhất là trong xã hội có cơ cấu xã hội phức tạp, chuẩn mực xã hội cứng
nhắc và kỹ năng hành động của cá nhân hạn chế.

c. Sự trao đổi xã hội


Hành động xã hội phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có sự trao đổi xã
hội. Trao đổi xã hội càng sống động thì hành động xã hội càng đa dạng
và phong phú. Các chủ thể luôn tìm cách đạt được lợi ích cao nhất với
chi phí nhỏ nhất khi hành động. Nếu như trong quá khứ hành động đó
được lợi, được thưởng thì họ sẽ hành động và ngược lại thì không.
Nói đến thuyết trao đổi xã hội là phải nói đến George Casper
Homans (1910-1989) và Peter Michael Blau (1918-2002), đều là người
Mỹ. Theo Peter Blau khi so sánh trao đổi xã hội với trao đổi kinh tế, ông
cho rằng trao đổi kinh tế hướng theo sự ngang giá, nhưng trong trao đổi
xã hội lại nhằm thực hiện 2 chức năng: 1) tạo sự thân thiện, nhất trí, đoàn
kết trong xã hội; 2) tạo ra mối quan hệ quyền lực giữa các bên tham gia.
Peter Blau còn chỉ ra những đặc trưng của trao đổi xã hội:
Thứ nhất, tạo ấn tượng tốt đẹp cho nhau. Các chủ thể khi trao đổi xã
hội thường mong muốn tạo ra dấu ấn tốt đẹp và vì nhau, tạo ra dấu ấn
mang lại phần thưởng nào, hoặc tạo ra dấu ấn thân thiện - dù chỉ xuất
hiện cũng làm cho đối tác thoải mái và dễ chịu.

46
Thứ hai, có nhiều mối quan hệ có tính tự thân, không phải tất cả vì
kinh tế. Nhiều mối quan hệ trao đổi cho thấy các chủ thể dễ dàng chấp
nhận cho và nhận (hầu như không vì yếu tố kinh tế), đặc biệt trong các
mối quan hệ trao đổi mà các chủ thể là người thân. Đặc trưng này cho
thấy sự khác nhau giữa trao đổi xã hội và trao đổi kinh tế.
Thứ ba, trao đổi xã hội ngang bằng vị thế là điều mong muốn của
chủ thể. Theo Blau, ngang bằng vị thế ở đây là sự tôn trọng lẫn nhau
trong trao đổi. Những quan hệ thật sự thoải mái, tự nhiên, tin tưởng, dễ
chịu là những quan hệ của những chủ thể ngang nhau về vị thế (nhấn
mạnh yếu tố tin tưởng trong trao đổi).
Thứ tư, giá trị trong trao đổi xã hội là sự tự đánh giá, mỗi chủ thể tự
ngầm hiểu. Nếu như trong trao đổi kinh tế thì việc hoạch định giá cả nói
chung được công khai, có định lượng rõ ràng. Đây cũng là nét khác biệt
giữa trao đổi xã hội và trao đổi kinh tế.
Những trao đổi nào trước đây mang lại lợi ích hoặc bị khước từ, phê
phán thì chủ thể có xu hướng tiếp tục hoặc không lặp lại. Rõ ràng, về cơ
bản chủ thể mong muốn tìm kiếm phần thưởng cân bằng với chi phí bỏ ra
trong trao đổi. Lợi ích, và sự thân thiện đạt được qua trao đổi xã hội sẽ
ảnh hưởng đến hành động trao đổi giữa các chủ thể.
d. Sự tuân theo
Lý thuyết xã hội học về sự tuân theo của Muzagen Sherif nói rằng
hành động của mỗi chủ thể chịu ảnh hưởng của số đông. Điều này được
hiểu là trong môi trường công việc cụ thể (cùng mục đích như khi thi cử),
chủ thể thấy việc làm của mình khác đám đông thì chủ thể sẽ suy tính để
thực hiện chỉnh sửa cách làm của mình phù hợp với đám đông. Việc làm
này của chủ thể xét về mặt tâm lý, chủ thể thấy yên tâm hơn. Cá nhân có
xu hướng theo đám đông là điều thường thấy trong thực tế. Hiện tượng
này thường được gọi là tâm lý đám đông hay hiệu ứng đám đông. Hiệu
ứng đám đông có thể được hiểu là những suy nghĩ hoặc hành vi của con
người thường xuyên chịu ảnh hưởng của những người khác, người ta
thường chạy theo những cái mà số đông cho là hay, đúng và sáng
suốt, nhưng bản thân lại không suy nghĩ về ý nghĩa của sự việc. Hiệu ứng
đám đông là một hiện tượng cũng thường gặp trong hoạt động thị trường

47
hay kinh doanh. Ví dụ, một nhóm bạn bè đi du lịch tới một điểm nào đó,
khi thấy một người trong số họ mua quà lưu niệm thì những người khác
cũng có xu hướng mua theo. Các nhà làm Marketing đã lợi dụng tâm lý
này để tác động đến khách hàng, tạo niềm tin đối với họ, cũng như rút
ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Hiệu ứng
đám đông còn giúp người kinh doanh tạo ra hiệu ứng dây chuyền trong
mua sắm để gia tăng số lượng khách hàng mới, mở rộng thị phần, tăng
trưởng doanh thu và lợi nhuận.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hiệu ứng đám đông cũng
được xem là một thách thức không nhỏ đối với xã hội đặc biệt là người
kinh doanh. Do không nắm bắt được đầy đủ và xử lý tốt thông tin, các
nhà đầu tư rất dễ chạy theo đám đông đua nhau đầu tư vào một lĩnh vực,
ngành hàng nào đó và hậu quả là làm biến dạng, mất cân đối thị trường.
Hiệu ứng đám đông qua dư luận xã hội có thể làm tổn hại uy tín thậm chí
tạo nên sức ép tẩy chay thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp.
Trong đời sống thực tế thường xảy ra hiện tượng thỏa hiệp. Một số
cá nhân hay tổ chức đôi khi nhượng bộ, hay phải nhượng bộ, thỏa hiệp
trước nhu cầu của đám đông (đình công, biểu tình…). Tuy vậy, đây là
một phản ứng xã hội, là trạng thái nhằm dung hòa các đặc tính của hành
động xã hội.
Mặc dù cá nhân có xu hướng tin và làm theo đám đông, tuy nhiên
cũng phải nhận thấy rằng (tuy là ít khi) đám đông không phải lúc nào
cũng đúng. Tóm lại, tuân theo đám đông là xu hướng, là nhân tố ảnh
hưởng đến hành động xã hội, nhưng đòi hỏi chủ thể phải sàng lọc, chủ
động khi tiếp thu tinh hoa của đám đông.
e. Phản ứng với xung quanh
Erving Goffman (1922-1982), nhà văn, nhà xã hội học Mỹ cho rằng
thái độ, phản ứng của người khác cũng tác động tới hành động của chúng
ta. Trong khi tiến hành hành động xã hội, chủ thể luôn muốn xã hội hóa
hành động của mình, tức là luôn muốn mọi người biết hành động của
mình. Nói chính xác hơn, một mặt khi hành động, chúng ta muốn thể
hiện hành động của chúng ta, chúng ta hành động để người khác nhìn
thấy, biết đến như là sự thể hiện mình. Ví dụ, trong giờ thảo luận ở lớp
các nhóm sinh viên thường cố gắng đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình.

48
Thêm vào đó, nhiều lúc khi hành động các cá nhân chủ động hài hòa
với mọi người. Vì thế, chủ thể luôn cân nhắc môi trường, hoàn cảnh để
hành động một cách phù hợp cho dù bản thân mình không muốn. Ví dụ,
khi một nhóm đồng nghiệp đến chơi thăm hay giúp đỡ nhà "sếp" vì có
công chuyện nào đó, mọi người đều tỏ ra nhiệt tình, vui vẻ trước mặt
nhau, trước mặt "sếp", nhưng rất có thể có người trong lòng đang rất bực
bội vì đã bị lỡ mất cuộc hẹn với bạn bè.
Tóm lại, có nhiều yếu tố qui định hành động xã hội theo những khía
cạnh, mức độ khác nhau. Khi xem xét các yếu tố trên, chúng ta nhận thấy
mỗi yếu tố đều có những nhân tố hợp lý, nhưng không toàn diện. Bởi vậy
để đúng, đầy đủ về hành động xã hội, chúng ta phải nhìn nhận tổng hợp
tất cả các yếu tố trên.

6. Phân loại hành động xã hội


Các nhà xã hội học khi nghiên cứu hành động xã hội thường có
những quan điểm độc lập trong việc phân loại hành động xã hội, do vậy
hiện còn nhiều cách phân loại hành động xã hội khác nhau.
a. Phân loại theo mức độ ý thức của hành động (theo Pareto)
Vilfredo Federico Damaso Pareto (1848-1923) là nhà kinh tế học, xã
hội học khi nghiên cứu dựa theo mức độ ý thức của hành động đã chia
hành động xã hội làm hai loại:
Thứ nhất, hành động logic: Là những hành động được thực hiện một
cách hợp logic cả về qui trình lẫn công cụ, phương tiện thực hiện để đạt
mục đích của chủ thể. Đó là những hành động được chủ thể tính toán
khoa học trên cơ sở hội tụ đầy đủ các yếu tố chủ quan và khách quan.
Thứ hai, hành động không logic: Là những hành động mang tính bản
năng, tự phát, không ý thức, không tuân theo trật tự logic. Theo ông, cơ
sở của loại hành động này là tập hợp các bản năng, ham muốn... cố hữu
của con người hình thành nền tảng tâm lý bền vững quy định hành động
của họ.
Pareto cho rằng với bất kỳ chủ thể hành động nào cũng có cả hành
động logic và hành động không logic. Thậm chí ông còn nhấn mạnh hơn
hành động không logic khi cho rằng hành động không logic là cốt lõi, là
cơ sở của mọi quá trình xã hội.

49
b. Phân loại theo động cơ (theo Weber)
Theo Weber, phân loại hành động xã hội theo động cơ sẽ có bốn loại:
Thứ nhất, hành động duy lý - công cụ: Là hành động mà chủ thể
phải suy nghĩ, tính toán, cân nhắc kỹ càng khi tiến hành hành động. Là
loại hành động có sự can thiệp bởi lý trí. Ví dụ, dân gian Việt Nam có
câu chuyện: "Thằng Bờm". Bờm có cái quạt mo, Bờm mặc cả, tính toán
với tập hợp của cải của các đối tác, để rồi cười hả hê, sung sướng khi
quyết định đổi quạt lấy nắm xôi.
Thứ hai, hành động duy lý giá trị: Là hành động được thực hiện vì
bản thân hành động (mục đích tự thân). Bản chất của loại hành động này
có thể nhằm vào những mục đích phi lý, nhưng lại được thực hiện bằng
những công cụ, phương tiện duy lý. Ví dụ, như một số hành vi tín
ngưỡng.
Thứ ba, hành động duy cảm (xúc cảm): Là hành động phát ra từ các
trạng thái cảm xúc, tình cảm bột phát. Những hành động này thường
thiếu hoặc không có sự cân nhắc, tính toán về quan hệ giữa công cụ,
phương tiện thực hiện và mục đích của hành động. Ví dụ, hành động quá
khích của một số cổ động viên trên sân đấu, khi họ vứt chai lọ xuống sân
cỏ hay sự quá khích của đám đông do tức giận không thể kiềm chế gây ra
để phản ứng lại, chống lại một cá nhân hay tổ chức nào đó mà họ cho là
làm tổn hại đến quyền lợi vật chất hay tinh thần của họ.
Thứ tư, hành động duy lý - truyền thống: Là loại hành động tuân thủ
những thói quen, nghi lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời
này sang đời khác. Ví dụ, hành động theo "người xưa", "các cụ nói", "cổ
nhân có câu",…
Trong bốn loại hành động nói trên, Weber cho rằng loại hành động
duy lý - công cụ là loại hành động quan trọng nhất.
c. Phân loại theo định hướng giá trị (theo Parsons)
Nhà xã hội học Mỹ T. Parsons khi nghiên cứu hành động xã hội đã
nêu năm dạng định hướng giá trị của nó:
Một là, toàn thể - bộ phận: Dạng hành động này thể hiện khi chủ thể
lựa chọn yếu tố môi trường cụ thể, đặc thù hay lựa chọn qui định chuẩn

50
mực. Ví dụ, một người nghiện thuốc lá có thể không hút thuốc vì trong
phòng có qui định không hút thuốc lá, nhưng khi có người hút thuốc là
anh ta có thể không hút vì theo qui định và cũng có thể hút theo người
xung quanh.
Hai là, đạt tới - có sẵn: Dạng hành động này biểu hiện ở chỗ các chủ
thể hành động có định hướng, tức là có tính đến đặc điểm môi trường
xung quanh hoặc bản thân mình. Ví dụ, một người bắt tay, chào hỏi một
người nào đó vì người đó là đối tác làm ăn với anh ta. Hoặc một sinh
viên khi giao tiếp với bạn bè khác với giáo viên vì bản thân anh ta nhận
thức được địa vị của mình là học sinh.
Ba là, cảm xúc - trung lập: Dạng hành động này thể hiện ở sự định
hướng để thỏa mãn nhu cầu trước mắt hoặc lâu dài nhưng quan trọng.
Đây là loại hành động mà chủ thể có thể bị tác động hay chi phối của yếu
tố bên ngoài hoặc theo lập trường của chủ thể. Ví dụ, một sinh viên đang
ngồi ôn bài chuẩn bị cho kỳ thi, có bạn đến rủ đi thăm bạn khác vừa bị
ốm, sinh viên đang ôn bài phải lựa chọn đi thăm bạn hay tiếp tục ôn bài.
Bốn là, đặc thù - phân tán: Dạng hành động theo cặp khả năng này
biểu hiện ở chỗ chủ thể có thể định hướng hành động của mình theo môi
trường xung quanh hay định hướng hành động phụ thuộc đặc điểm riêng
của cá nhân mình. Ví dụ, vào những ngày bình thường, một sinh viên có
thể mặc áo đồng phục giống mọi người trong lớp dù lớp không bắt buộc,
hoặc sinh viên đó có thể không mặc đồng phục vì sau buổi học người đó
có hẹn gặp bạn bè của mình.
Năm là, định hướng cá nhân - định hướng nhóm: Dạng hành động
này thể hiện ở chỗ chủ thể thực hiện hành động vì lợi ích cá nhân hay có
tính đến lợi ích của nhóm. Ví dụ, một sinh viên chủ động nỗ lực, tích cực
trong thảo luận học phần vì sẽ tốt cho bản thân mình, nhưng cũng có thể
bạn đó muốn đóng góp để làm cho tập thể nhóm, lớp tốt hơn. Hoặc một
doanh nhân cố gắng làm ra nhiều sản phẩm, sản phẩm tốt, chi phí thấp để
có nhiều lợi nhuận, nhưng cũng có thể anh ta muốn làm giàu thêm cho
đất nước, cho xã hội.

51
II. TƯƠNG TÁC XÃ HỘI
1. Khái niệm tương tác xã hội
Một trong những nhà lý thuyết tương tác xã hội tiêu biểu là Georg
Simmel (1858-1918), người Đức. Ông quan niệm xã hội được tạo bởi các
chủ thể đang thực hiện các hành động và tương tác xã hội, tạo sự hình
thành và gắn kết nhóm, cộng đồng và xã hội. Khoa học xã hội học phải
nghiên cứu các hình thái của tương tác xã hội.
Ngoài Simmel, còn phải kể đến nhà xã hội học người Pháp Émile
Durkheim. Durkheim đã chỉ ra phân công lao động là nguyên nhân dẫn
các chủ thể tương tác với nhau, phụ thuộc vào nhau. Phân công lao động
xã hội và tương tác xã hội có quan hệ tỷ lệ thuận. Trong tương tác xã hội,
các chủ thể đã tạo ra hệ giá trị, nguyên tắc tương tác và đây là nguyên tắc
củng cố, phát triển xã hội.
Từ các quan niệm nói trên, chúng ta xác định khái niệm về tương tác
xã hội như sau: Tương tác xã hội là quá trình hành động và hành động
đáp trả của chủ thể này với chủ thể khác. Hành động xã hội tạo nên
tương tác xã hội, không có hành động xã hội sẽ không có tương tác xã
hội. Bởi vậy có thể thấy hành động xã hội là cơ sở của tương tác xã hội.
Khái niệm trên cho thấy, để có tương tác xã hội phải có từ hai chủ
thể trở lên. Trong tương tác xã hội, mỗi chủ thể đều có mục đích xác
định, và thông thường các chủ thể sẽ đạt được kết quả hài hòa, hợp lý.
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, không phải trong mọi tương tác đều như
vậy, mà ngược lại có những tương tác khi được thực hiện sẽ dẫn đến kết
quả của chủ thể này sẽ loại trừ mục đích của chủ thể kia.
Ví dụ, những người tham gia giao thông đã phối hợp bắt kẻ cướp
giật trên đường phố, khiến tên trộm không thực hiện được ý định của
mình. Những người sản xuất hàng nhái, hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ
có thể mang lại lợi nhuận lớn cho mình nhưng chắc chắn sẽ làm tổn hại lợi
ích của người tiêu dùng và những người cùng sản xuất loại hàng hóa đó.
Các chủ thể tham gia tương tác vừa chịu tác động của chuẩn mực từ
xã hội vừa chịu ảnh hưởng của văn hóa vùng. Điều này cho thấy, để có
kết quả như mong muốn, các chủ thể phải nắm vững văn hóa, nguyên tắc

52
ứng xử khi quyết định thực hiện tương tác xã hội. Tương tác xã hội
thường dẫn đến những biến đổi. Thời gian, cường độ, tính ổn định của
tương tác xã hội sẽ góp phần tạo ra những mức độ biến đổi của các hệ giá
trị của các chủ thể tham gia tương tác. Mức độ biến đổi do tương tác xã
hội tạo ra không giống nhau, có thể theo các dạng:
- Hầu như không biến đổi: Các chủ thể hầu như không thích ứng
được với nhau, thậm chí xung đột. Ví dụ, do bất đồng quan điểm nên khi
mọi người tranh luận với nhau nhưng không đi đến thống nhất thậm chí
sinh ra cãi vã vì ai cũng bảo vệ ý kiến riêng của mình.
- Biến đổi ít: Các chủ thể có thể tìm thấy sự hợp tác, đồng tình tối
thiểu nào đó. Ví dụ, khi công nhân ở một nhà máy nào đó đình công đấu
tranh đòi ông chủ tăng lương buộc chủ nhà máy phải thỏa hiệp, có
nhượng bộ nhất định với họ.
- Biến đổi nhiều: Nếu cả hai có sự biến đổi nhiều thì có sự đồng tình,
còn nếu một trong hai biến đổi nhiều thì sẽ dẫn đến sự lệ thuộc, quy phục
của một chủ thể hành động. Ví dụ, phụ nữ Việt Nam trước đây khi đi lấy
chồng, về ở với nhà chồng thường phải thay đổi cách sống để sống phù
hợp với nếp sống của nhà chồng.
- Biến đổi gần như hoàn toàn: Chắc chắn sẽ có một chủ thể hành
động "đầu hàng" hoàn toàn và tự động điều chỉnh hệ giá trị và hành động
của bản thân cho phù hợp với chủ thể kia. Ví dụ, nhân dân Việt Nam đã
đấu tranh giành độc lập dân tộc, buộc các nước xâm lược phải thừa nhận,
tôn trọng độc lập chủ quyền của dân tộc ta.
Các nhà xã hội học nghiên cứu tương tác xã hội cả ở cấp vi mô
(nghiên cứu về những đơn vị tương tác nhỏ nhất) lẫn cấp vĩ mô (nghiên
cứu về sự tương tác của các cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội hay giữa các
thiết chế như gia đình, nhà trường, chính trị, tôn giáo…). Do tính chất đa
dạng, phức tạp về vai trò, vị trí của các chủ thể hành động trong xã hội
nên hầu hết mọi chủ thể đều thực hiện tương tác trên cả hai cấp độ vĩ mô
và vi mô. Ví dụ, một đội bóng đá của một nước nào đó khi giao đấu ở
một nước khác thì đội bóng này vừa thực hiện tương tác ở cấp độ vi mô
nhằm khẳng định khả năng, uy tín... của đội bóng, vừa ở cấp độ vĩ mô vì
danh dự của một quốc gia như người ta thường nói "màu cờ, sắc áo".

53
2. Các lý thuyết tương tác xã hội
a. Lý thuyết tương tác biểu trưng
Lý thuyết tương tác biểu trưng (tượng trưng, biểu tượng) do nhà xã
hội học Mỹ, George Herbert Mead xác lập. Mead cho rằng thế giới của
con người là tập hợp các biểu tượng: thực thể (sự vật và các thuộc tính
của chúng) và các hành động tác động lên các thực thể này. Trong tương
tác, chủ thể không phản ứng trực tiếp các hành động của người khác, mà
cố gắng "đọc" và lý giải chúng. Chúng ta luôn tìm những ý nghĩa, giá trị
được con người gắn cho mỗi hành động, cử chỉ đó,... tức là các biểu
tượng. Các sinh vật, vật thể, hình ảnh, hành động, cử chỉ xung quanh
chúng ta có thể được con người gắn cho ý nghĩa nào đó và trở thành biểu
tượng trong giao tiếp.
Ví dụ, cá thể chim bồ câu (một trong các loài chim) được con người
gắn cho biểu tượng của hòa bình; cá thể hoa hồng nhung (một trong các
loài hoa) được con người gắn cho biểu tượng của tình yêu; gật đầu - đồng
tình, lắc đầu - phản đối…
Các biểu tượng có đặc điểm chung là mang ý nghĩa cụ thể và tạo ra
sự phản ứng giống nhau ở các chủ thể, ý nghĩa của biểu tượng khác ý
nghĩa trực tiếp của cái thể hiện chúng. Chim bồ câu là một loài chim
(ý nghĩa trực tiếp) nhưng loài chim này được con người gắn cho ý nghĩa
hòa bình (ý nghĩa biểu trưng).
Con người tương tác với nhau thông qua hệ thống biểu tượng, trong
đó có hai biểu tượng quan trọng là "ngôn ngữ" cơ thể (hành động, cử chỉ)
và ngôn ngữ nói, viết.
Ngôn ngữ cơ thể có 2 loại:
Một là, loại không có hàm ý (ta chớp mắt tránh tai nạn).
Hai là, loại có hàm ý, ý nghĩa (chủ động nháy mắt với người thân để
tỏ ý thiện cảm, tán dương, đồng tình).
Ngôn ngữ nói và viết là những ý nghĩa được qui gán cho âm thanh
và các ký tự, được coi là hệ thống biểu tượng quan trọng nhất trong quá
trình tương tác giữa các cá nhân. Ngôn ngữ nói và chữ viết là phát minh
quan trọng, thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của con người, là công cụ nhanh
nhạy, chính xác của tương tác xã hội. Với người Việt Nam, khi ta ghép

54
các ký tự, âm sắc: C, A, I, cùng thanh sắc và N, H, A với thanh bằng để
được từ "CÁI NHÀ", mọi người Việt Nam đều hiểu đó là một vật dùng
che mưa, che nắng để người sống trong đó hoặc chứa đựng, bảo quản đồ
vật, nguyên do là vì chúng ta đã qui gán cho nó ý nghĩa đó. Nếu là người
nước ngoài lại chưa học tiếng Việt, thì đương nhiên không thể hiểu sự
qui gán nói trên.
Lý thuyết tương tác biểu trưng là một lý thuyết quan trọng trong
tương tác xã hội, có tác dụng thúc đẩy hội nhập nhưng đòi hỏi chủ thể
phải tăng cường khả năng thích ứng, như UNESCO đã khuyến nghị:
"Trong một xã hội phát triển, để có thể hành động đúng, con người cần
được học về cách tồn tại và cách chung sống với mọi dân tộc, mọi nền
văn hóa khác"1.
Tuy nhiên, lý thuyết tương tác biểu trưng cũng có những hạn chế:
Thứ nhất, lý thuyết tương tác biểu trưng qui gán tất cả tương tác về
tương tác cá nhân (vi mô), do đó đã coi nhẹ tương tác cấp vĩ mô.
Thứ hai, lý thuyết tương tác biểu trưng cũng chưa phân tích và giải
quyết trường hợp tương tác giữa hai chủ thể có nền văn hóa tương đối
khác biệt.

b. Lý thuyết trao đổi xã hội về tương tác xã hội


Lý thuyết trao đổi xã hội về tương tác xã hội gắn với một trong các
nhà xã hội học tiêu biểu là George Casper Homans và cộng sự của ông.
Lý thuyết chỉ ra các chủ thể thực hiện hành động theo nguyên tắc trao đổi
các giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự…
Lý thuyết của Hommans nêu lên 4 nguyên tắc tương tác giữa các chủ thể:
- Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu
hướng lặp lại.
- Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ
có xu hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh như vậy.
- Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra
nhiều "chi phí" vật chất và tinh thần để đạt được nó.

1
Nguyễn Sinh Huy (2008), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tr.53

55
- Mức độ hài lòng, thỏa mãn với những phần thưởng, mối lợi cá
nhân giành được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần.
Tương tác theo mô hình trao đổi xã hội là hiện hữu, phổ biến, nhưng
cũng có tính hai mặt. Để vận dụng lý thuyết này có hiệu quả cần hiểu nội
dung chi phí, lợi ích mặc dù nó có nội hàm rất rộng. Ví dụ, bố mẹ chơi
đùa với con không chỉ tiêu phí thời gian, sức lực mà còn có thể phải hủy
bỏ một cuộc hẹn làm ăn, nhưng bù lại lại được phần thưởng tinh thần là
vui vẻ, thư giãn và hướng dẫn con mình1.
c. Lý thuyết kịch
Lý thuyết kịch (còn được gọi là lý thuyết kiềm chế) do nhà xã hội
học Ervings Goffman, người Canada là đại diện. Theo lý thuyết này,
tương tác xã hội là một chuỗi gồm các bước: mang mặt nạ - tháo bỏ mặt
nạ - sự chân thành giả tạo - tháo bỏ mặt nạ,... theo đó, các chủ thể khi
xuất hiện trước mặt nhau luôn không thành thật với nhau, như có thể biểu
lộ niềm vui, buồn, thậm chí khóc với nhau, nhưng tất cả những biểu cảm
đó đều tạo ra có chủ ý để làm hài lòng người khác. Lý thuyết kịch bảo vệ
sự tương tác giữa các chủ thể trong tâm trạng "bằng mặt mà không bằng
lòng". Nội dung lý thuyết kịch biểu hiện một tư duy tiêu cực về tương tác
giữa con người với con người.
d. Phương pháp luận dân tộc học về tương tác xã hội
Harold Gafinkel (1917-2011) là nhà xã hội học tiêu biểu của phương
pháp luận dân tộc học. Đây là phương pháp nghiên cứu những quy tắc
hiển nhiên điều khiển mọi chủ thể trong tương tác xã hội. Phương pháp
này có nội dung gần với phương pháp tương tác biểu trưng nhưng gắn
với những quy tắc hiển nhiên mang đặc tính văn hóa chung của mọi
người trong tương tác xã hội.
Phương pháp luận dân tộc học đem lại thuận lợi đặc biệt cho những
chủ thể cùng nền văn hóa, thân quen. Những chủ thể có đặc điểm này
thường có xu hướng nói ngắn gọn mà vẫn hiểu nhau. Phương pháp luận
dân tộc học cũng là một hướng tiếp cận quan trọng khi nghiên cứu về
tương tác xã hội, đặc biệt là tương tác giữa các chủ thể dùng các quy tắc
ngôn ngữ nói, viết và ngôn ngữ cơ thể.
1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.151

56
Vận dụng lý thuyết (những qui tắc ngầm) trên sẽ nâng cao hiệu quả
trong tương tác xã hội như có thể tiết kiệm thời gian và sức lực cho chủ
thể. Tất nhiên, những người lạ, người không sống cùng một nền văn hóa
thì đôi khi không hiểu đối tác nói về cái gì.

3. Các loại hình tương tác xã hội


Hành động xã hội là cơ sở của tương tác xã hội, vốn rất phong phú và
vì vậy tương tác xã hội cũng đa dạng, phong phú trên nền hành động xã
hội, nghĩa là hành động xã hội đa dạng, phong phú như thế nào thì tương
tác xã hội cũng như vậy. Mặt khác, tính đa dạng của hình thức tương tác
xã hội còn phụ thuộc vào môi trường (thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa và
xã hội) diễn ra tương tác. Dựa vào các tiêu chí như chủ thể, mục đích…
của tương tác xã hội, các nhà nghiên cứu đã trình bày nhiều cách phân loại
tương tác xã hội. Dưới đây là một số phân loại chủ yếu:
a. Phân loại dựa vào mối liên hệ xã hội giữa các chủ thể
hành động (Lý thuyết của J. Sepanski)
Dựa vào mức độ phát triển từ thấp đến cao của hành động xã hội nên
hình thành các cấp độ khác nhau của tương tác xã hội giữa các chủ thể.
Từ đó J. Sepanski (người Ba Lan) phân chia tương tác xã hội thành các
cấp độ:
- Sự tiếp xúc không gian: Các cá nhân chỉ có vị trí không gian quan
sát gần nhau, mối liên hệ xã hội hầu như chưa có. Ví dụ, nhiều sinh viên
được xếp chung vào một lớp học, họ đi học và cùng nhau có mặt trong
một phòng học.
- Sự tiếp xúc tâm lý: Đã xuất hiện sự quan tâm, để ý lẫn nhau giữa
các cá nhân trong tương tác. Ví dụ, trong lớp học kể trên, một số sinh
viên qua tìm hiểu hay ngẫu nhiên biết được thông tin về nhau (quê
hương, sở thích, lý tưởng...) thấy đồng cảm nên có cảm tình và muốn
chia sẻ với nhau.
- Sự tiếp xúc xã hội: Đã hình thành sự hoạt động chung, ví dụ các sinh
viên trong lớp đã có sự liên hệ trao đổi công việc hay tình cảm với nhau.
- Sự tương tác: Đó là việc thực hiện hành động và hành động đáp trả
của các chủ thể. Các hành động này có mục đích tạo ra những phản ứng

57
tương tác từ phía đối tác. Ví dụ, một sinh viên trong số họ nêu gợi ý để
cả nhóm cùng thực hiện một hoạt động xã hội chung nào đó và mọi
người cùng có ý kiến trao đổi để thống nhất hoạt động.
- Quan hệ xã hội: Là những hệ thống phối hợp các hành động với
nhau một cách ổn định, thường xuyên. Sau khi thống nhất cả lớp đều đồng
tình phối hợp với nhau để thực hiện hành động một cách thường xuyên.
Chúng ta có thể hiểu những nội dung trên đây cũng là những hình
thức, mức độ khác nhau trong tương tác xã hội.

b. Phân loại theo các dạng hoạt động chung (Theo Umanski)
Theo nhà xã hội học Umanski (người Nga), có 3 dạng tương tác dựa
trên cơ sở hoạt động chung như sau:
Thứ nhất, hoạt động cá nhân - cùng nhau: dạng hoạt động này thể
hiện ở chỗ mỗi cá nhân cùng làm chung trong tập thể nhưng có tính độc
lập nhất định, sao cho công việc của người này không ảnh hưởng nhiều
đến tiến độ công việc của người khác. Ví dụ, nhiều người trong một đơn
vị cùng thực hiện công việc, nhưng công việc đó không có tính dây
chuyền. Những hoạt động này chủ yếu được thực hiện trong cùng không
gian, thời gian hay có đặc tính chuyên môn giống nhau.
Thứ hai, hoạt động tiếp nối - cùng nhau: Là loại hoạt động có tính
dây chuyền, hoạt động của người này có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
của người khác. Chẳng hạn trong một dây chuyền sản xuất công nghiệp,
sản phẩm được hoàn thành sau khi trải qua một chuỗi các công đoạn hay
các bước sản xuất khác nhau, do vậy mọi người đều có sự liên hệ nối tiếp
cùng nhau. Hoạt động này diễn ra khi có sự phân công nhất định nào đó
của nhiều người. Trong lĩnh vực kinh tế, dạng hoạt động này được gọi là
hợp tác có phân công, nhờ đó đã phát huy được lợi thế chuyên môn hóa.
Thứ ba, hoạt động tương hỗ - cùng nhau: Là dạng hoạt động của
nhiều cá nhân cùng tương tác với nhiều người để giành thắng lợi chung.
Ví dụ, trong trận đá bóng, các cầu thủ phải cùng tương tác với nhiều
người cùng một lúc, nhằm giành thắng lợi cho cả đội. Một nhóm sinh
viên chuẩn bị bài thảo luận đã phối hợp cùng nhau tìm kiếm nghiên cứu
tài liệu, viết bài để có bài thảo luận tốt.

58
Trong đời sống kinh tế chúng ta thấy phổ biến việc nhiều cá nhân
hay tập thể (doanh nghiệp, công ty...) hợp tác cùng nhau thực hiện một
công việc chung để có kết quả kinh doanh tốt. Ví dụ, nhiều nhà kinh
doanh cùng hùn vốn đầu tư vào một dự án chung để tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động tương hỗ - cùng nhau đã tạo nên, tăng thêm sức mạnh tập thể,
thậm chí còn giúp chúng ta thực hiện được các công việc mà từng cá
nhân không thể làm nổi.

c. Phân loại theo chủ thể hành động trong tương tác
Lý thuyết xã hội học xác định rằng để có tương tác xã hội phải có ít
nhất hai chủ thể (cá nhân, nhóm, cộng đồng ...). Từ đó, chúng ta có thể
đưa ra các dạng tương tác theo chủ thể hành động như sau:
- Tương tác liên cá nhân: Là tương tác giữa các cá nhân với nhau,
giữa cá nhân này với cá nhân khác. Chủ thể tương tác ở đây chỉ là cá nhân.
Ví dụ, tương tác giữa hai sinh viên hay giữa hai đối tác làm ăn với nhau.
- Tương tác cá nhân - xã hội: Là tương tác giữa cá nhân với xã hội.
Ví dụ, tổng thống một nước ban hành, thực hiện một quyết định nào đó
để quản lý đất nước hay một cá nhân nào đó chống lại xã hội.
- Tương tác nhóm - xã hội: Là tương tác giữa nhóm các cá nhân với
xã hội. Ví dụ, một tổ chức, đảng phái nào đó thực hiện điều hành xã hội
hay một nhóm tội phạm cưỡng lại xã hội.
- Tương tác nhóm - nhóm: Là tương tác giữa các nhóm với nhau.
Ví dụ, các doanh nghiệp kinh doanh cạnh tranh với nhau.
- Tương tác giữa những cá nhân đại diện các nhóm với nhau: Là
tương tác giữa hai hoặc nhiều cá nhân mà mỗi người trong số họ là người
đại diện cho một nhóm xã hội nào đó. Ví dụ, giám đốc (tổng giám đốc)
các doanh nghiệp ký hợp đồng kinh tế với nhau.
Ngoài sự phân loại hành động trong tương tác theo chủ thể nói trên,
còn có thể phân loại theo mức độ tham dự (trực tiếp hay gián tiếp) của
chủ thể tương tác có thể phân chia tương tác xã hội thành:
Tương tác trực tiếp: Là loại tương tác mà các chủ thể không phải sử
dụng bất kỳ một hình thức, công cụ trung gian nào (tương tác trực diện,
đối mặt). Ví dụ, hai nguyên thủ của hai quốc gia đàm đạo trực tiếp với

59
nhau mà không cần người phiên dịch và không sử dụng một phương tiện
truyền tin nào khác.
Tương tác gián tiếp: Là loại tương tác mà các chủ thể phải sử dụng
hình thức, phương tiện trung gian (phương tiện, công cụ vật chất/tinh
thần) để đảm bảo cho tương tác thành công. Ví dụ, ông A và ông B đàm
phán với nhau phải có người phiên dịch, môi giới hay phương tiện, công
cụ hỗ trợ khác như điện thoại, fax, internet ...
Sự phân loại tương tác trực tiếp và gián tiếp nói trên chỉ có tính
tương đối. Xét cho cùng thì mọi tương tác đều có tính gián tiếp, vì trong
tương tác các chủ thể vẫn phải sử dụng công cụ (hoặc phương tiện) trung
gian như ngôn ngữ, biểu tượng, truyền thống văn hóa, luật pháp...
d. Phân loại theo mục tiêu, ý nghĩa xã hội của tương tác
Trong tương tác giữa các chủ thể thường thể hiện một trong những
đặc trưng mang tính xã hội như đồng tình hay đối lập, thích ứng hay
xung đột, hòa nhập hay không hội nhập (ly tâm)... Những đặc trưng này
có thể qui tụ thành hai nhóm chính, gồm:
- Tương tác theo dạng hợp tác: Là những tương tác mang tính tích
cực, liên kết, qua đó các chủ thể tìm được tiếng nói chung trong tương
tác. Ví dụ, tương tác giữa cổ động viên, "fan" hâm mộ với các thần tượng
hay sự hợp tác giữa những người cùng làm việc trong một "ê kip".
- Tương tác cạnh tranh: Là những tương tác chứa đựng nội dung
không tích cực, đối kháng, thiếu tính liên kết, dẫn đến các chủ thể khó có
thể tìm được tiếng nói chung trong tương tác. Ví dụ, hai doanh nghiệp
cùng kinh doanh một mặt hàng, trên cùng một thị trường cạnh tranh với
nhau để mở rộng thị phần, chiếm lĩnh thị trường và có thể đi đến thủ tiêu,
loại bỏ nhau.
Thi đua là hình thức trung gian giữa hai dạng trên vì thực chất thi
đua cũng là một dạng cạnh tranh nhưng không vì mục đích loại bỏ, thanh
trừ nhau mà khuyến khích, kích thích, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong
thi đua các chủ thể hành động có mục tiêu riêng, cá nhân nhưng cũng
thống nhất với nhau ở mục tiêu xã hội chung do vậy các cá nhân hay
các nhóm thi đua vẫn có thể cùng hoạt động chung ở những chừng mực
nhất định.

60
Tóm lại, có nhiều cách phân loại tương tác xã hội khác nhau tùy theo
những góc nhìn khác nhau. Ngoài những cách phân loại trên còn có
nhiều cách phân loại khác nữa, như: thay đổi - bền vững, cá nhân - cộng
đồng, được thiết chế hóa - không được thiết chế hóa1; đồng thời - nối
tiếp, bình đẳng và bất bình đẳng...

III. QUAN HỆ XÃ HỘI


1. Khái niệm
Tương tác xã hội được hình thành trên cơ sở hành động xã hội, đến
lượt nó nó lại trở thành cơ sở thiết lập các quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội
là quan hệ bền vững, ổn định của các chủ thể hành động, các quan hệ
này được hình thành trên những tương tác xã hội ổn định, lặp lại2...
Khái niệm quan hệ xã hội nêu trên cho thấy, để có quan hệ xã hội
phải từ hai chủ thể trở lên. Trong sự vận động của xã hội có rất nhiều
quan hệ giữa các chủ thể, nhưng không phải quan hệ nào giữa các chủ
thể cũng được gọi là quan hệ xã hội. Trong ngày, mỗi cá nhân có thể
quan hệ với nhiều người qua các hoạt động mua, bán, nhìn thấy nhau,
chào nhau... nhưng không phải tất cả các quan hệ đó đều là quan hệ xã
hội. Quan hệ xã hội được hình thành từ tương tác xã hội, thông thường
những tương tác đó phải có mục đích, kế hoạch, có tính lặp lại, có xu
hướng tạo lập một mô hình tương tác mới.
Ví dụ, mấy năm về trước, C và D tình cờ gặp nhau, sau đó họ
thường quan tâm đến nhau, hiện nay họ trở thành đối tác trong làm ăn
kinh doanh với nhau. Quan hệ nói trên giữa C và D được gọi là quan hệ
xã hội. Ngược lại, tuy họ có gặp gỡ nhau lần đầu, nhưng sau đó không có
thông tin về nhau, lần sau gặp lại không nhận ra nhau, không có quan hệ
nối tiếp, thì sự gặp nhau lần đầu không được coi là quan hệ xã hội.
Hành động xã hội, tương tác xã hội và quan hệ xã hội có mối liên hệ
biện chứng với nhau, trước hết phải có hành động xã hội có mục đích cụ
thể của chủ thể đối với chủ thể khác, trên cơ sở đó hình thành tương tác

1
Trần Đức Châm - Hà Bắc Đẩu (2004), Một số nội dung cơ bản của xã hội học, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Tr.76
2
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.158

61
xã hội, và quan hệ xã hội. Không có hành động xã hội và tương tác xã
hội thì không có quan hệ xã hội.

Hành động Tương tác Quan hệ


xã hội xã hội xã hội

2. Chủ thể trong quan hệ xã hội


Quan hệ xã hội là quan hệ giữa các chủ thể hành động trong xã hội,
được xem xét dưới hai cấp độ chính (vĩ mô và vi mô), thể hiện trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ xã hội thể hiện ở bốn lĩnh
vực quan trọng của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trong đó, quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò đặc biệt
quan trọng.
Ở cấp vĩ mô là các nhóm, tập đoàn hay toàn bộ xã hội. Các nhóm,
tập đoàn lớn này ở những vị trí xã hội khác nhau, thu nhập khác nhau, lối
sống khác nhau tạo cơ sở cho sự tương tác, từ đó hình thành quan hệ xã
hội giữa chúng.
Ở cấp vi mô là các cá nhân xã hội. Quan hệ giữa các cá nhân xã hội
được các nhà xã hội học phương Tây đề cao, họ gần như đồng nhất nó
với quan hệ xã hội. Tuy vậy, trên thực tế, quan hệ xã hội giữa các cá
nhân chỉ là một bộ phận tạo nên toàn bộ quan hệ xã hội. Tất nhiên, các
quan hệ giữa các cá nhân được thực hiện nhờ những tương tác xã hội có
tính chuẩn mực, ổn định, cũng là quan hệ xã hội.
Điều cần chú ý là, quan hệ xã hội cấp vi mô và vĩ mô sẽ có những
khác biệt nhất định khi chúng ta xét theo nội dung, qui mô, ảnh hưởng,
tính xã hội của mỗi loại quan hệ. Ở một khía cạnh cụ thể nào đó, có thể
chỉ ra sự khác biệt là biểu hiện tính xã hội nhiều hay ít ở mỗi quan hệ xã
hội nhất định.

3. Một số đặc trưng cơ bản của quan hệ xã hội


a. Có tính ổn định, bền vững tương đối
Một khi tương tác xã hội đã chuyển hóa thành quan hệ xã hội thì
quan hệ xã hội sẽ có đặc trưng là ít thay đổi, tương đối bền vững mặc dù

62
thời gian và một số điều kiện khác có những đổi thay nhất định. Ví dụ,
trong phạm vi gia đình - cái nôi đầu đời của mỗi người - người con lớn
lên rồi đi làm việc, sinh sống ở một nơi khác, không sống cùng cha mẹ
như lúc còn nhỏ, nhưng trong họ vẫn có, vẫn hướng về cha mẹ khi có
điều kiện.

b. Có tính chuẩn mực, khuôn mẫu


Quan hệ xã hội hình thành từ tương tác xã hội chịu tác động của các
chuẩn mực, giá trị và được định hình thành khuôn mẫu. Tính khuôn mẫu
của quan hệ xã hội biểu hiện ở chỗ tương tác xã hội vận động theo những
nguyên tắc, giá trị nhất định. Ví dụ, trong môi trường dạy học, học sinh
từ tiểu học đến sinh viên cao đẳng, đại học và cả sau đại học đều gọi
người dạy mình là Cô, Thầy không phân biệt tuổi tác. Đặc trưng này của
quan hệ xã hội có tác dụng làm cho mỗi chủ thể trong quan hệ xứng đáng
với vị trí, vai trò của mình để thúc đẩy quan hệ có hiệu quả hơn.

c. Có tính duy lý và hợp lý nhất định


Nói đến quan hệ xã hội là nói đến quan hệ của con người xã hội.
Quan hệ xã hội có nguồn gốc từ nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống
xã hội (hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh...) nên phần
nào đó sẽ mang tính duy lý. Mặt khác, con người là một thực thể xã hội
có suy nghĩ, có lý trí nên phải luôn suy tính để thỏa mãn tính hợp lý trong
các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, tính hợp lý dường như chỉ ở mức tương
đối, vì trong quan hệ xã hội các chủ thể có hạn chế về thu thập thông tin,
mặt khác còn bị nhu cầu, tình cảm chi phối.

4. Quan hệ xã hội và quan hệ "tình cảm thuần túy"


Quan hệ "tình cảm thuần túy" là một dạng quan hệ giữa con người
với con người và xã hội. Quan hệ này bắt nguồn từ tình cảm của con
người và bị chi phối bởi những giá trị xã hội chuẩn mực tương đối ổn
định như quan hệ trong gia đình, họ hàng, tình cảm của những người
khác giới, thái độ đối với người khác... Các nhà xã hội học còn phân biệt
quan hệ "tình cảm thuần túy" (quan hệ sơ cấp) với quan hệ xã hội (quan
hệ thứ cấp) và dùng khái niệm quan hệ "tình cảm thuần túy" để đối lập
với quan hệ xã hội.

63
Tuy vậy, thực chất quan hệ "tình cảm thuần túy" cũng là một loại
quan hệ xã hội, vì nó cũng phải dựa trên sự tương tác ổn định, lâu dài của
các chủ thể hành động. Ví dụ, người con trai với người con gái khi đến
tuổi trưởng thành gặp nhau, có cảm tình với nhau và yêu thương nhau.
Họ kết hôn với nhau thành vợ chồng. Sau đó họ sinh ra những đứa con
và cùng nhau nuôi dạy, chăm sóc, thương yêu con cái hình thành một gia
đình. Trong gia đình đó luôn có tình yêu của vợ chồng với nhau, tình yêu
thương của bố mẹ với con cái, tình cảm anh em ruột thịt... Quan hệ này
rõ ràng không phải ngày một, ngày hai mà có, nó diễn ra trong thời gian
dài, ổn định.
Nhưng bên cạnh điểm chung cùng dựa trên sự tương tác lâu dài, ổn
định... quan hệ "tình cảm thuần túy" và quan hệ xã hội có sự khác nhau
trong cơ chế tương tác hình thành nên chúng. Những tương tác hướng
đến đặc điểm sinh học, tâm lý có sẵn (giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ
huyết thống, sở thích...) của họ và người khác sẽ tạo ra quan hệ "tình cảm
thuần túy". Trong khi những tương tác hướng đến đặc điểm xã hội cần
đạt được (nghề nghiệp, học vấn, tôn giáo, địa vị, quyền lực...) của chủ thể
thì tạo ra các quan hệ xã hội (tức mang ít tình cảm hơn).
Như vậy, quan hệ "tình cảm thuần túy" là quan hệ xã hội nhưng
mang ít tính xã hội hơn, vì tính xã hội của quan hệ xã hội được xác định
bởi những giá trị, chuẩn mực (pháp luật, quy định, quy chế...) của cộng
đồng. Quan hệ "tình cảm thuần túy" chủ yếu chịu sự chi phối của giá trị,
chuẩn mực không chính thức như tục lệ, quy định bất thành văn.
Quan hệ "tình cảm thuần túy" và quan hệ xã hội cũng có thể là tiền
đề chuyển hóa lẫn nhau, từ quan hệ "tình cảm thuần túy" phát triển thành
quan hệ xã hội và ngược lại từ quan hệ xã hội chuyển hóa thành quan hệ
"tình cảm thuần túy". Ví dụ, anh D và H lúc đầu chỉ là bạn bè (quan hệ
tình cảm thuần túy), khi có điều kiện đã trở thành đối tác kinh doanh lâu
dài của nhau (quan hệ xã hội). Hoặc ngược lại, chị X và P vốn có quan hệ
kinh doanh bền chặt từ lâu (quan hệ xã hội), sau đó họ đã kết nghĩa chị
em - cùng có trách nhiệm với bố mẹ, gia đình hai bên (quan hệ tình cảm
thuần túy).

64
5. Phân loại quan hệ xã hội
Các loại hình tương tác xã hội phong phú bao nhiêu thì các loại quan
hệ xã hội cũng phong phú bấy nhiêu, vì quan hệ xã hội được hình thành
từ tương tác xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa người và người ở tất cả
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, được hiện diện từ cấp vi mô đến vĩ mô.
Chính vì vậy, các nhà xã hội học cũng đã có nhiều cách phân loại quan
hệ xã hội. Thông thường có ba cách phân loại quan hệ xã hội chủ yếu.
Phân loại quan hệ xã hội dựa theo vị thế xã hội: Xuất phát từ địa vị
xã hội của chủ thể quan hệ, các nhà xã hội học chia quan hệ xã hội ra thành:
Quan hệ xã hội theo chiều ngang: Là những quan hệ giữa các chủ
thể có vị thế xã hội ngang bằng. Ví dụ, quan hệ giữa Ông hiệu trưởng
trường đại học này với Ông hiệu trưởng trường đại học khác.
Quan hệ xã hội theo chiều dọc: Là quan hệ giữa các chủ thể có vị trí
cao thấp khác nhau trong xã hội như quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới,
giữa Trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo (chủ thể quản lý) với
nhân viên (đối tượng quản lý)... Ví dụ, quan hệ giữa Ông trưởng khoa
của một khoa với Ông hiệu trưởng ở một trường đại học.
Phân loại quan hệ xã hội theo chủ thể: Từ các loại hình tương tác xã
hội dựa trên các chủ thể tương tác khác nhau, quan hệ xã hội thường bao
gồm: Quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn với nhau, quan hệ xã hội giữa
các nhóm xã hội nhỏ với các tập đoàn lớn, quan hệ xã hội giữa các nhóm
xã hội nhỏ với nhau, quan hệ xã hội giữa các cá nhân với các tập đoàn
lớn hay nhóm xã hội nhỏ, quan hệ xã hội giữa các cá nhân với nhau...
Phân loại quan hệ xã hội dựa vào lĩnh vực hoạt động xã hội có:
Quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hóa - xã hội...
Tóm lại, lý luận xã hội học về hành động xã hội, tương tác xã hội,
quan hệ xã hội và quan hệ biện chứng giữa chúng có vai trò, vị trí lớn lao
trong việc nhận thức, giải thích và phát triển xã hội. Khi nghiên cứu xã
hội, xã hội học bắt đầu bằng việc nghiên cứu hành động xã hội, tương tác
xã hội và quan hệ xã hội. Việc xem xét các khái niệm quan trọng trên đây
khi nghiên cứu xã hội học không thể phiến diện mà cần phải có cách nhìn
tổng hợp, chắt lọc để tiếp thu tinh hoa tri thức xã hội học.

65
NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Hành động xã hội và cấu trúc hành động xã hội.


2. Những yếu tố quy định hành động xã hội và phân loại hành động
xã hội.
3. Tương tác xã hội, các lý thuyết về tương tác xã hội và các loại
hình tương tác xã hội.
4. Quan hệ xã hội và phân loại quan hệ xã hội.

66
Chương 3
CƠ CẤU XÃ HỘI, DI ĐỘNG XÃ HỘI
VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI

Con người và xã hội là hai khái niệm có mối liên hệ gắn bó với
nhau. Không có con người thì không có xã hội, ngược lại con người
không thể tồn tại tách rời xã hội. Từ hành động xã hội con người tạo nên
xã hội qua sự tương tác và quan hệ của họ. Mặt khác xã hội là điều kiện,
môi trường, là không gian cho con người hành động. Bởi vậy, nghiên cứu
xã hội là hết sức cần thiết để hiểu hơn hành động của con người và đó
cũng là trách nhiệm của xã hội học. Đặc biệt theo quan điểm của các nhà
xã hội học phương Tây họ còn cho rằng đây chính là đối tượng nghiên
cứu chính của xã hội học.

I. XÃ HỘI VÀ CƠ CẤU XÃ HỘI


1. Khái quát chung về xã hội
a. Một số quan niệm về xã hội
Xã hội là thuật ngữ đã được sử dụng một cách phổ biến để phản ánh
các hoạt động và các quan hệ của con người. Về đại thể, xã hội là một
khái niệm dùng để chỉ một tập hợp người có những quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hoá chặt chẽ với nhau. Nhiều nhà khoa học đã thống nhất
cho rằng xã hội là "một hệ thống các hoạt động và quan hệ của con
người có đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá chung cùng cư trú trên một
lãnh thổ ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử". Nói đến xã
hội là nói đến con người, các hoạt động và những quan hệ xã hội.
Các hoạt động xã hội về cơ bản được thực hiện trên nhiều lĩnh vực
khác nhau như hoạt động lao động sản xuất kinh doanh, hoạt động chính
trị, hoạt động văn hoá - xã hội, hoạt động an ninh quân sự… Đến lượt nó,
các loại hoạt động trên có thể được phân chia thành các lĩnh vực chi tiết
hơn do nhu cầu xã hội, do kết quả phân công lao động xã hội hay sự khác
biệt về các điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội nơi con người sinh sống

67
cũng như sự khác biệt về năng khiếu hay sở trường của các cá nhân trong
cộng đồng. Trong rất nhiều các hoạt động xã hội khác nhau, hoạt động
lao động sản xuất kinh doanh (hoạt động kinh tế) là quan trọng và có ý
nghĩa quyết định nhất.
Quan hệ xã hội là quan hệ giữa người với người trong xã hội, được
thiết lập trong quá trình cùng nhau tham gia các hoạt động vật chất và
tinh thần, thể hiện sự liên kết thống nhất hay xung đột lợi ích giữa các cá
nhân hay các nhóm người trong quan hệ với cộng đồng. Quan hệ xã hội
cũng được thể hiện trên nhiều mặt như quan hệ kinh tế, quan hệ tình cảm,
quan hệ huyết thống gia đình… Trong các mặt quan hệ xã hội thì quan hệ
kinh tế là quan trọng nhất, đó là quan hệ giữa người với người được thể
hiện trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, gồm quan hệ
sở hữu, quan hệ địa vị xã hội (quản lý) và quan hệ phân phối hay phân
chia của cải xã hội. Bản chất của các quan hệ sản xuất là yếu tố cơ bản
quyết định bản chất của các chế độ xã hội.

b. Các cách phân loại xã hội


Khái niệm xã hội có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xã hội được xem xét về mặt không gian, người ta thường đồng nhất
xã hội với các quốc gia cụ thể. Lấy tiêu chí phân tầng xã hội về thu nhập,
mức sống, cách sống người ta chia xã hội thành các tầng lớp xã hội như
xã hội thượng lưu, xã hội trung lưu, xã hội bình dân. Quan điểm xét xã
hội về mặt thời gian, người ta chia xã hội qua các thời kỳ lịch sử tương
ứng như xã hội nguyên thuỷ, xã hội truyền thống, xã hội hiện đại. Dựa
vào sự tiến hoá của nhân loại, xã hội được phân thành xã hội hoang dã, xã
hội dã man, xã hội văn minh. Về phương diện pháp lý, người ta phân chia
xã hội thành xã hội chuyên chế, xã hội dân chủ. Còn dựa trên sự phát
triển của năng lực sản xuất (chủ yếu là sự phát triển của lực lượng sản
xuất và khoa học kỹ thuật) xã hội được phân thành xã hội nông nghiệp,
xã hội công nghiệp, xã hội hậu công nghiệp… Tuy vậy, gần đây các nhà
xã hội học thường thống nhất hướng vào việc lấy sự tiến bộ về văn hoá,
văn minh, kết hợp với quan điểm không gian để xem xét, đánh giá xã hội.
Đứng trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, xã hội được phân chia thành 5 giai đoạn,

68
tương ứng với năm hình thái kinh tế xã hội (chế độ xã hội), gồm Xã hội
Công xã nguyên thủy, Xã hội Chiếm hữu nô lệ, Xã hội Phong kiến, Chủ
nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Cộng sản (giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội).
Mỗi hình thái kinh tế xã hội là sự thống nhất hữu cơ giữa một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất và một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Nói cách khác, hình thái kinh
tế xã hội là sự gắn kết giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội,
trong đó yếu tố quyết định nhất sự phát triển xã hội là lực lượng sản xuất.

2. Cơ cấu xã hội
a. Khái niệm cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là vấn đề được nhiều môn khoa học quan tâm nghiên
cứu như Triết học, Kinh tế học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử...
Tuy nhiên, cơ cấu xã hội không được coi là phạm trù nghiên cứu cơ bản
trong nội dung của các môn khoa học đó. Với Chủ nghĩa duy vật lịch sử
hay Triết học xã hội, cơ cấu xã hội chỉ là phạm trù gián tiếp được đề cập
qua nội dung về hình thái kinh tế xã hội.
Trong xã hội học, cơ cấu xã hội (Social structure) là một phạm trù
cơ sở cho việc nghiên cứu sự vận động, phát triển của các quá trình, hiện
tượng xã hội của một hệ thống xã hội, và là một trong những đối tượng
nghiên cứu chủ yếu. Cho đến nay, quan điểm về cơ cấu xã hội của xã hội
học cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo Mayntz, "cơ cấu xã hội là mối liên quan do mạng lưới các
quan hệ giữa các yếu tố xã hội truyền lại và tác dụng của khối toàn bộ xã
hội". Schafers cho rằng "khái niệm cơ cấu xã hội hướng vào mối liên
quan và các sự kiện xã hội, các mối quan hệ và phụ thuộc xã hội tồn tại
giữa chúng". Còn T. Houll (Mỹ), cơ cấu xã hội biểu thị "a, các mối quan
hệ tương đối ổn định, tồn tại giữa các phương diện của đời sống xã hội;
và b, sự tổ chức tình thế đặc thù của cá nhân hay của nhóm mà mỗi một
trong số đó đều có một địa vị đặc biệt"1. Ở nước Đức, định nghĩa hay

1
G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, (Ngụy Hữu Tâm
và Nguyễn Hoài Bão dịch). Tr.107

69
được dùng nhất do Furstenberg đưa ra năm 1956 "Mối liên quan về tác
dụng mà ta nhận biết và thay đổi một cách dần dần của các lực lượng xã
hội trong xã hội là cơ cấu xã hội của xã hội đó".
Theo Jo Jep Fischer - nhà xã hội học người Mỹ, "cơ cấu xã hội là sự
sắp đặt các thành phần xã hội hoặc các đơn vị xã hội". Cũng ở Mỹ, nhà
xã hội học Robortsons định nghĩa "cơ cấu xã hội là mô hình của các mối
quan hệ của các thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội, những
thành phần này tạo ra bộ khung cho tất cả các xã hội. Những thành phần
quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm và thiết chế xã
hội". G.V. Osipov cho rằng, "cơ cấu xã hội là "mối liên hệ vững chắc
của các thành tố trong hệ thống xã hội, trong đó các cộng đồng xã hội
như dân tộc, giai cấp, nhóm nghề nghiệp... là những thành tố cơ bản. Về
phần mình, mỗi thành tố lại có cơ cấu riêng, phức tạp với những tầng
lớp bên trong và những mối liên hệ giữa chúng".
Trong quan điểm của một số nhà xã hội học Việt Nam, "cơ cấu xã
hội là kết cấu và tổ chức bên trong của hệ thống xã hội nhất định nào đó,
được biểu hiện như một sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân
tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất của hệ thống xã hội đó"1.
Cơ cấu xã hội là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ
thống xã hội. Các cộng đồng xã hội (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội,...) là
những thành tố cơ bản. Về phần mình, mỗi cộng đồng xã hội lại có cơ
cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong và những mối liên hệ giữa
chúng. Một số nhà lý thuyết xã hội còn đưa ra định nghĩa: "Cơ cấu xã hội
là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ bản trong một hệ
thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả các xã
hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các mối quan
hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần
quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò, nhóm và các thiết
chế,...".
Cơ cấu xã hội là một khái niệm rộng không chỉ liên quan tới hành vi
xã hội mà còn là mối tương tác giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống

1
Tạ Ngọc Tấn (2013), Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Tr. 16

70
xã hội. Cơ cấu xã hội cũng bao gồm cả các thiết chế gia đình, dòng họ,
tôn giáo, kinh tế, chính trị, văn hóa, hệ thống chuẩn mực giá trị, cũng như
hệ thống các vị trí, vai trò xã hội...
Xã hội là một tổ chức phức tạp, đa dạng của các mối liên hệ cá nhân,
tổ chức xã hội và xã hội. Cơ cấu xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ
với các quan hệ xã hội. Cơ cấu xã hội là nội dung có tính chất bản thể
luận của các quan hệ xã hội, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của các
quan hệ xã hội. Nó là tổng hoà những mối quan hệ tương đối ổn định
giữa các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội.
Mặc dù chưa có sự đồng nhất hoàn toàn trong quan điểm về cơ cấu
xã hội, tuy nhiên trong các quan điểm của cơ cấu xã hội nêu trên đều đề
cập đến "hình thức tổ chức bên trong", "các mối quan hệ ổn định", "có
trật tự". Từ đó có thể rút ra cách hiểu chung nhất về cơ cấu xã hội như
sau: Cơ cấu xã hội là tổng thể các thành phần cấu thành xã hội và phản
ánh mối liên hệ giữa các thành phần đó. Thành tố cơ bản nhất của cơ cấu
xã hội là nhóm với vai trò, vị thế của nó và thiết chế xã hội.
Định nghĩa trên chỉ ra các đặc trưng cơ bản của cơ cấu xã hội
như sau:
- Cơ cấu xã hội được hình thành từ nhiều bộ phận, đơn vị xã hội.
Đơn vị xã hội đầu tiên - đơn vị xã hội cơ bản đó là con người; gia đình -
tế bào của xã hội; đến cấu trúc nhóm. Nghiên cứu cơ cấu xã hội sẽ chỉ ra
được những bộ phận cấu thành của hệ thống xã hội cũng như vai trò và vị
trí của từng bộ phận trong hệ thống xã hội đó. Mỗi xã hội dù đơn giản
đến phức tạp cũng đều được cấu thành từ những bộ phận, những nhân tố
nhất định để tạo nên một bộ khung cho xã hội đó. Trong đó có những bộ
phận, những nhân tố có vị trí quan trọng đối với cơ cấu xã hội; nhưng
cũng có những bộ phận có vị trí ít quan trọng hơn.
- Cơ cấu xã hội còn là mối liên kết giữa các bộ phận cấu thành.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội còn đề cập đến mối liên hệ giữa các bộ phận
cấu thành trong hệ thống xã hội. Xem xét cơ cấu xã hội không phải chỉ
đơn giản là liệt kê những bộ phận cấu thành của nó mà cần chỉ ra kết cấu
của bộ khung do những bộ phận đó tạo thành như thế nào.

71
Cơ cấu xã hội của một xã hội không giống nhau giữa các thời kỳ lịch
sử với những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Và cơ cấu xã hội của
một xã hội này cũng không giống với cơ cấu xã hội của một xã hội khác
trong cùng thời kỳ lịch sử. Nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế
xã hội của từng xã hội trong từng giai đoạn, phụ thuộc vào yếu tố địa lý,
tôn giáo, văn hóa... Với những xã hội có trình độ phát triển kinh tế xã hội
thấp, cơ cấu xã hội đơn giản hơn nhiều so với những xã hội có trình độ
phát triển kinh tế xã hội cao.
Mức độ phức tạp hay đơn giản trong cơ cấu xã hội do tính chất của
các nhân tố cấu thành cũng như mối liên hệ, cấu trúc của các nhân tố đó
quy định. Trong xã hội phát triển về kinh tế, văn hóa - xã hội, tính chất
của mỗi nhân tố cấu thành và cấu trúc của những nhân tố đó cũng phức
tạp hơn rất nhiều.
Cơ cấu xã hội luôn luôn vận động và có sự thay đổi theo sự phát
triển của nhân loại. Nguyên nhân là các nhân tố cấu thành nên cơ cấu xã
hội không ngừng vận động và biến đổi về quy mô, tính chất, vị trí, vai
trò, thậm chí có những nhân tố cũ sẽ bị mất đi, có những nhân tố mới
hình thành qua thời gian.

b. Các yếu tố chủ yếu của cơ cấu xã hội


Từ quan niệm cơ cấu xã hội là tổng thể các thành phần cấu thành xã
hội và phản ánh mối liên hệ, kết nối giữa các thành phần đó nên trong cơ
cấu xã hội thường bao gồm các yếu tố chủ yếu:
- Nhóm xã hội
Nhiều nhà xã hội học quan niệm, "nhóm xã hội là một tập hợp của
những cá nhân được gắn kết với nhau bởi những mục đích nhất định.
Những cá nhân có những hoạt động chung với nhau trên cơ sở cùng chia
sẻ và giúp đỡ nhau nhằm đạt được những mục đích cho mọi thành viên"1.
Gurvitch (nhà xã hội học người Pháp) cho rằng nhóm là một đơn vị
tập thể hiện thực dựa trên những thái độ tập thể liên tục và tích cực và có
sự nghiệp chung để thực hiện. Như vậy, đặc trưng cơ bản của nhóm là sự

1
Đa-vư-đốp (1990), Từ điển xã hội học Phương tây hiện đại, bản Tiếng Nga.

72
thống nhất về tinh thần, tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động
của nhóm.
Theo nhà xã hội học Thanh Lê, nhóm xã hội có thể định nghĩa như
một tập hợp những cá nhân, trong đó có những mối liên hệ khá rõ ràng
giữa các thành viên hợp thành, trong mỗi thành viên có ý thức về nhóm
mình như vốn có và những biểu tượng của nó. Nói cách khác, nhóm phải
có riêng những giá trị của nó. Nó thường có một cơ cấu và tổ chức tối
thiểu và một yêu cầu tâm lý làm cơ sở.
Như vậy, nhóm là tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai
trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng nhất định.
- Vị thế (địa vị xã hội)
Theo quan điểm của Robertsons, vị thế là một vị trí xã hội. Mỗi vị
thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay nhóm xã hội trong kết cấu
xã hội cũng như quan hệ của cá nhân và nhóm xã hội đối với xã hội xung
quanh. H. Fischer lại quan niệm, vị thế là vị trí của một người nào đó
trong cơ cấu tổ chức xã hội theo sự thẩm định, đánh giá của xã hội. Vị thế
xã hội là vị trí hay địa vị hoặc thứ bậc mà những người đang sống chung
với một người nào đó dành cho họ một cách khách quan. Còn M. Weber,
vị thế xã hội được xác định một cách cụ thể tích cực hoặc tiêu cực bởi sự
đánh giá của xã hội về sự ưu đãi, kính trọng. Sự kính trọng này có thể
liên quan đến các phẩm chất được chia sẻ bởi số đông.
Với các nhà xã hội học Mỹ, vị thế được hiểu theo hai nghĩa:
- Một vị trí cụ thể nào đó trong xã hội.
- Là toàn bộ những đánh giá của xã hội đối với một cá nhân hay một
nhóm đánh giá về mặt uy tín, danh dự…
Mặc dù vị thế xã hội của các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và thậm
chí các cộng đồng xã hội không giống nhau nhưng nhìn chung đều có
một số đặc điểm chính:
- Một vị thế xã hội luôn luôn đứng trong mối quan hệ với các vị thế
khác trong xã hội. Vì các cá nhân không tồn tại độc lập mà giữa họ luôn
có mối quan hệ với nhau, mỗi người lại có một vị thế riêng nên các vị thế
đó chỉ đầy đủ khi đặt trong mối quan hệ với các vị thế khác.

73
- Mỗi vị thế gồm một số quyền lợi và nghĩa vụ mà mỗi cá nhân nắm
giữ phải thực hiện nó nếu không sẽ bị trừng phạt hoặc bị xóa bỏ.
- Mỗi người có thể có nhiều vị thế khác nhau trong xã hội.
- Tập hợp những vị thế rất phức tạp và có thể thay đổi.
Địa vị xã hội chỉ vị trí tương đối trong phạm vi một cấu trúc xã hội
hay cấu trúc nhóm.
- Vai trò xã hội
Trong Từ điển xã hội học của G.Endruweit và G.Trommsdorff, vai
trò là một tập hợp những kỳ vọng ở trong một xã hội gắn với hành vi của
những người mang các địa vị… Ở mức độ này thì mỗi vai trò riêng là
một tổ hợp hay nhóm các kỳ vọng hành vi1.
Vai trò xã hội của các cá nhân được xác định trên cơ sở vị thế xã hội
tương ứng của họ. Mỗi vị thế xã hội của con người sẽ quy định vai trò xã
hội tương ứng. Chẳng hạn, vai trò của người thầy giáo là dạy học, vai trò
của người học trò là học… Trong thực tế, mỗi cá nhân không chỉ có một
vị thế và một vai trò xã hội nhất định. Ví dụ, khi đến trường để học, cá
nhân có vị thế là người học và sẽ có vai trò của người học; khi tan trường
về nhà, cá nhân có vị thế là con trong gia đình. Do đó, có thể nói vai trò
xã hội của cá nhân là khái niệm xã hội học xác định những gì cá nhân đó
phải làm trong một không gian và một thời gian nhất định theo những
quy tắc và chuẩn mực xã hội đặt ra cho phù hợp với vị thế của mình.
Như vậy, có thể hiểu tổng quát: "Một vai trò là một tập hợp các
mong đợi, các quyền và nghĩa vụ được gắn cho một nhiệm vụ cụ thể.
Nhưng sự mong đợi này xác định các hành vi của con người được xem
như là phù hợp và không phù hợp đối với người chiếm giữ một địa vị"2.
Vai trò xã hội có đặc điểm:
- Ở mỗi hoàn cảnh không gian và thời gian khác nhau, con người sẽ
có những vai trò xã hội khác nhau.

1
G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, (Ngụy Hữu
Tâm và Nguyễn Hoài Bão dịch). Tr.536
2
Vũ Quang Hà, Nguyễn Thị Hồng Xoan (2002), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội. Tr.147

74
- Mỗi cá nhân có bao nhiêu mối quan hệ thì sẽ có chừng đó vai trò
xã hội.
- Vai trò xã hội phát sinh theo nhu cầu của cá nhân.

3. Các loại cơ cấu xã hội


Xã hội được xem xét từ nhiều góc độ hay nhiều lát cắt khác nhau,
nên cơ cấu xã hội cũng rất đa dạng. Tùy theo tính chất xã hội, quan điểm
của các nhà xã hội học và lĩnh vực mà họ quan tâm, cơ cấu xã hội được
phân chia thành:
Một là, cơ cấu xã hội - giai cấp. Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội và những mối quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội đó. Nghiên cứu cơ cấu xã hội giai cấp được xem xét
ở hai phương diện:
- Không chỉ nghiên cứu các giai cấp mà còn phải nghiên cứu và xem
xét tất cả các tầng lớp, các tập đoàn xã hội khác. Đây là cách tiếp cận cơ
cấu xã hội theo nghĩa rộng để làm rõ: Vị thế, vai trò và tương quan giữa
các giai cấp; Vị trí trung tâm của một giai cấp nhất định nào đó trong xã
hội; Sự liên minh của giai cấp trung tâm với các giai cấp, tầng lớp, tập
đoàn xã hội khác; Sự thay đổi trong cơ cấu lợi ích và xu hướng biến đổi về
vị thế, vai trò của các giai cấp, tập đoàn trong xã hội; Tỷ trọng cơ cấu giai
cấp, tầng lớp, tính cơ động xã hội của các giai cấp, tập đoàn trong xã hội.
- Nghiên cứu cơ cấu xã hội giai cấp còn hướng vào việc nghiên cứu
những giá trị chuẩn mực trong từng giai cấp, tập đoàn xã hội để chỉ ra:
Sự khác biệt với những ảnh hưởng qua lại về văn hóa, lối sống, khuôn
mẫu hành vi giữa các giai cấp; Sự chuyển dịch vị trí của một số thành
viên của giai cấp này sang giai cấp khác; Mức độ liên minh giữa các
giai cấp và quan hệ nội bộ của các giai cấp.
Hai là, cơ cấu xã hội - dân tộc. Cơ cấu xã hội - dân tộc là một phân
hệ của cơ cấu xã hội, được hình thành bởi sự phân định khác nhau về
những đặc trưng cơ bản của các dân tộc trong cộng đồng quốc gia dân tộc.
Nội dung nghiên cứu cơ cấu xã hội dân tộc tập trung vào những vấn đề:
- Quy mô, tỷ trọng phân bổ và sự biến đổi số lượng, chất lượng của
nhóm cư dân của mỗi dân tộc.

75
- Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội trong nội bộ mỗi dân tộc và
mối tương quan giữa chúng với cộng đồng, sự tương tác và ảnh hưởng
lẫn nhau trong sự biến đổi về cơ cấu giữa các dân tộc.
- Mối quan hệ tác động qua lại giữa cơ cấu xã hội dân tộc và các
phân hệ cơ cấu xã hội khác.
Ba là, cơ cấu xã hội - dân số. Cơ cấu xã hội - dân số là một phân hệ
cơ bản của cơ cấu xã hội nói lên quá trình phát sinh, phát triển, kết cấu và
biến động về dân số của một quốc gia, một dân tộc, một vùng lãnh thổ.
Trong đó nội dung và tham số chủ yếu để phân tích cơ cấu xã hội - dân
số qua các giai đoạn phát triển là: các kiểu tái sản xuất dân cư; mức sinh,
tử; mật độ dân số; di dân; tỷ lệ giới tính; cơ cấu xã hội - thế hệ.
Bốn là, cơ cấu xã hội - giới tính. Cơ cấu xã hội - giới tính là sự phân
chia tổng dân cư thành số nam và nữ, trong đó chú trọng đến 2 vấn đề,
thứ nhất là sự bất đồng tâm lý xã hội giữa các giới tính dẫn đến các mâu
thuẫn trong xã hội, thứ hai là sự mất cân bằng giới ảnh hưởng đến sự
phát triển chung của xã hội.
Năm là, cơ cấu xã hội - lãnh thổ. Cơ cấu xã hội - lãnh thổ được chia
thành cơ cấu xã hội - đô thị và xã hội - nông thôn hoặc chia theo vùng
miền... Cơ cấu xã hội - lãnh thổ xác định cấu trúc xã hội dựa trên sự phân
chí các vùng lãnh thổ mà cư dân cư trú. Nghiên cứu cơ cấu xã hội - lãnh
thổ để thấy được:
- Sự khác biệt giữa các vùng miền về trình độ phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.
- Sự khác biệt về lối sống, mức sống giữa các vùng miền.
Sáu là, cơ cấu xã hội - học vấn, nghề nghiệp. Cơ cấu xã hội - học
vấn, nghề nghiệp là sự phân chia xã hội thành các nhóm khác nhau về
học vấn hay nghề nghiệp, qua đó giúp thấy được sự khác biệt về trình độ
học vấn và tính chất nghề nghiệp của con người trong xã hội. Nghiên cứu
về cơ cấu xã hội theo tiêu chí này là một cách tiếp cận mới trong xã hội
học. Ở một góc độ nào đó, cơ cấu xã hội xét theo tiêu chí học vấn, nghề
nghiệp dường như phản ánh trình độ của xã hội đó. Trình độ học vấn
của xã hội phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của các
quốc gia.

76
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vấn đề chất lượng dân số đang là
vấn đề cần quan tâm. Trong đó có nghiên cứu đến vấn đề chất lượng giáo
dục, trình độ học vấn của nam và nữ trong xã hội, cơ hội nghề nghiệp
liên quan đến giới... Sự chênh lệch về trình độ học vấn đã và đang diễn ra
rất rõ nét ở thành thị và nông thôn, giữa nam và nữ. Trong xã hội đã xuất
hiện những thành phần có học thức, được đào tạo bài bản ở trong nước
hoặc nước ngoài và ngày càng có những cơ hội thăng tiến trong nghề
nghiệp... Ngược lại, có những bộ phận cư dân trong xã hội bị thiệt thòi
rơi vào tình cảnh của những bộ phận cư dân dễ bị tổn thương.
Trong khi đó, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp phụ thuộc vào sự phát
triển của nền sản xuất, trình độ học vấn của người lao động... Cơ cấu
nghề nghiệp, như đã nói, đã có những sự điều chỉnh lớn theo hướng đề
cao và sử dụng tốt hơn đối với những người được đào tạo và có thực tài.

II. BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI VÀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI


1. Bất bình đẳng xã hội
a. Khái niệm
Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề tồn tại trong nhiều chế độ xã hội.
Cho đến nay, cũng đang có những quan điểm chưa thống nhất về sự tồn tại
của bất bình đẳng xã hội. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng bất bình đẳng
xã hội tồn tại như một thực tế khách quan trong mọi chế độ xã hội; ngược
lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, bất bình đẳng xã hội sẽ
bị xóa bỏ khi xã hội đạt tới xã hội cộng sản.
Bất bình đẳng xã hội là sự không công bằng nhau về các cơ hội
hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc
nhiều nhóm trong xã hội.
Như vậy có thể thấy, bất bình đẳng xã hội không phải là hiện tượng
tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội; bất
bình đẳng xuất hiện khi một cá nhân, một nhóm (tạo ra) hay có đặc
quyền đối với các cá nhân hoặc nhóm còn lại; những xã hội khác nhau
tồn tại trong sự bất bình đẳng khác nhau.
Việc tiếp cận khái niệm và giải quyết vấn đề bất bình đẳng xã hội ở các
cá nhân, các nhóm và các cộng đồng quốc gia dân tộc khác nhau sẽ không
thể giống nhau.

77
b. Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội xuất hiện và tồn tại lâu dài trong suốt lịch sử
phát triển xã hội loài người. Là sự không công bằng nhau về các cơ hội
hoặc lợi ích giữa các cá nhân trong nhóm và nhiều nhóm, bất bình đẳng
xã hội bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân gắn với các yếu tố tự nhiên, địa vị
xã hội, điều kiện kinh tế - xã hội - văn hóa... về cơ bản gồm:
- Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên
Yếu tố tự nhiên (đất đai, thời tiết khí hậu, tài nguyên thiên nhiên...)
trước hết là môi trường sống và bảo đảm phần quan trọng cơ hội sống
cho con người. Con người sinh ra và tồn tại trong điều kiện, môi trường
tự nhiên khác nhau sẽ có những cơ hội và được "mang đến" những lợi ích
khác nhau. Những người sinh ra trong điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có
cơ hội tốt cho sự tiến bộ, ngược lại với điều kiện tự nhiên khó khăn, khắc
nghiệt sẽ ít có cơ hội hơn.
Yếu tố tự nhiên còn tạo nên đặc điểm tự nhiên của con người, của
các cá nhân như giới tính, thể lực, trí tuệ, tính cách... Đây là yếu tố tác
động, ảnh hưởng lớn và có tính lâu bền đến bất bình đẳng xã hội. Tuy
nhiên xã hội càng phát triển, tiến bộ những khác biệt và phân biệt về các
yếu tố tự nhiên càng được khắc phục dần.
- Sự khác nhau về điều kiện kinh tế
Sự khác biệt về điều kiện kinh tế cũng là một trong những yếu tố tạo
ra sự khác biệt về cơ hội mà mỗi cá nhân hay mỗi nhóm được tiếp cận.
Khi cá nhân (hay nhóm) có điều kiện kinh tế tốt hơn những cá nhân (hay
nhóm) khác trong xã hội, chủ thể đó sẽ có nhiều cơ hội tốt hơn. Ví dụ về
tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế... của các cá nhân trong xã hội.
- Sự khác nhau về địa vị xã hội
Địa vị xã hội là vị trí then chốt của một cá nhân gắn liền với quyền
hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm trong một cơ cấu được xác định. Địa vị xã hội
thường gắn với nghề nghiệp, chức vụ của mỗi con người. Ví dụ, trong
doanh nghiệp, người lao động trực tiếp (nhân viên) và người quản lý
(CEO) có địa vị xã hội khác nhau nên cơ hội và lợi ích không bằng nhau
tạo nên mức thu nhập, mức sống, vị thế xã hội khác nhau.

78
Những cá nhân ở địa vị xã hội khác nhau tạo ra sự khác biệt trong cơ
hội mà họ có thể có. Cá nhân ở địa vị cao trong xã hội có nhiều cơ hội và
lợi ích hơn so với cá nhân ở địa vị thấp.
Ngoài ra, địa vị xã hội còn tạo ra những bất bình đẳng cho những
người khác trong xã hội. Khi cá nhân có địa vị cao trong xã hội, anh ta có
thể lợi dụng quyền lực đó để tạo ra sự không công bằng cho những cá
nhân, những nhóm khác trong xã hội.
- Sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị
Chính trị có thể tạo ra những quyền lực đặc biệt cho những cá nhân,
các nhóm trong xã hội. Nếu cá nhân nắm giữ chức vụ nhất định trong hệ
thống chính trị sẽ có những cơ hội thuận lợi hơn người khác. Ví dụ,
người làm công tác lãnh đạo, "có chân" trong bộ máy chính quyền sẽ có
cơ hội hơn để thăng tiến và có thu nhập cao hơn so với người không nằm
trong bộ máy quản lý.
- Sự khác nhau về văn hóa
Những giá trị văn hóa cũng có thể góp phần tạo ra sự bất bình đẳng
trong xã hội giữa các cá nhân, các nhóm. Có những giá trị văn hóa làm
hạn chế khả năng tiếp cận những cơ hội tốt trong cuộc sống của con
người và ngược lại. Ví dụ, phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến
trước đây bị quan niệm là những người chỉ làm việc trong gia đình,
không được tiếp xúc xã hội nên không có điều kiện, cơ hội để tiến bộ, họ
luôn bị trói chặt vào gia đình, phụ thuộc gia đình. Ngày nay, phụ nữ đã
được giải phóng nên họ có cơ hội để phát triển, tiến bộ, đóng góp nhiều
cho xã hội và bình đẳng hơn với mọi người.

c. Phân loại bất bình đẳng


Bất bình đẳng đã từng tồn tại trong nhiều xã hội và hết sức đa dạng.
Tuy vậy thường có một số loại bất bình đẳng phổ biến trên các phương
diện, như:
- Bất bình đẳng giới: Là hình thức bất bình đẳng phổ biến và tồn tại
trong nhiều chế độ xã hội của nhân loại. Nam và nữ được định vị trong
xã hội không chỉ khác biệt nhau mà còn là bất bình đẳng. Cụ thể là phụ
nữ có ít tiềm năng vật chất, địa vị xã hội, quyền lực và cơ hội để tự thể

79
hiện tiềm năng của mình so với nam giới. Sự bất bình đẳng về giới không
chỉ do yếu tố tự nhiên mà còn do hệ tư tưởng, nhận thức của xã hội về vị
trí và vai trò của từng giới.
- Bất bình đẳng tuổi tác: Được thể hiện trong xã hội khi có sự khác
biệt trong vai trò, quyền lực giữa các cá nhân ở những độ tuổi khác nhau.
Yếu tố này tồn tại hoàn toàn tự nhiên trong đời sống nhưng lại trở thành
một dạng của bất bình đẳng xã hội. Trong nhiều chế độ xã hội, cá nhân
có tuổi cao hơn thường có tiếng nói quan trọng hơn đối với các quyết
định trong xã hội. Do đó tạo ra quyền lực đặc biệt dành cho những người
lớn tuổi.
- Bất bình đẳng về cơ cấu: Bất bình đẳng về cơ cấu được thể hiện
trong sự bất bình đẳng về cơ cấu tổ chức xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội -
nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội dân tộc, cơ cấu xã hội
lãnh thổ.
Trong xã hội luôn tồn tại một thực tế khách quan là sự khác biệt giữa
các cá nhân về mặt thể chất, trí tuệ. Những sự khác biệt này hoàn toàn
khách quan và không ai có thể tự lựa chọn cho bản thân. Tuy nhiên, cũng
chính sự khác biệt đó sẽ tạo ra cho con người những khả năng khác nhau
để chiếm giữ những vị trí cao thấp khác nhau trong xã hội.
- Bất bình đẳng về thu nhập: Là sự chênh lệch về thu nhập giữa các
cá nhân, các nhóm trong xã hội trong việc phân phối các tài sản, sự giàu
có hay thu nhập. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì đây là
loại bất bình đẳng quan trọng nhất trong mọi xã hội. Cơ sở bất bình đẳng
về thu nhập trước hết bắt nguồn từ sự phân biệt về quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất và các tài sản có thể sinh ra thu nhập. Bất bình đẳng
về thu nhập nói riêng hay về kinh tế nói chung là cội nguồn của sự phân
chia xã hội về giai cấp trong xã hội.

2. Phân tầng xã hội


a. Khái niệm
Phân tầng xã hội là một trong những nội dung cơ bản được nghiên
cứu của xã hội học và được nhiều nhà xã hội học quan tâm. Bởi vậy, đã
có rất nhiều định nghĩa và cách giải thích khác nhau về phân tầng xã hội.

80
Nhà xã hội học Anh, Tony Bilton, nhấn mạnh yếu tố cơ cấu trong
phân tầng xã hội khi cho rằng, "sự phân tầng xã hội là một cơ cấu bất
bình đẳng ổn định giữa các nhóm xã hội bền vững qua các thế hệ"1. Còn
Anthony Giddens và Ian Robertsons nhấn mạnh sự bất bình đẳng, sự
phân chia xã hội. Anthony Giddens định nghĩa,"phân tầng xã hội là sự
phân chia xã hội thành các tầng lớp, khi nói về sự phân tầng là nói tới
bất bình đẳng giữa các địa vị, vị trí của các cá nhân trong xã hội"2. Còn
với Ian Robertsons, "phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ
cấu của tất cả các xã hội loài người, là sự khác nhau về khả năng thăng
tiến xã hội bởi địa vị của họ trong bậc thang xã hội"3.
Nhà nghiên cứu xã hội học Nguyễn Đình Tấn, khi nghiên cứu lý
thuyết phân tầng xã hội của M. Weber nhận xét "... đã bao hàm trong
khái niệm phân tầng xã hội cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp.
Bên cạnh đó, ông không chỉ nhấn mạnh vào tiêu chí kinh tế, sở hữu mà
còn sử dụng đồng thời các tiêu chí về chính trị và tiêu chí văn hóa để
định nghĩa phân tầng xã hội"4.
Như vậy, có thể hiểu phân tầng xã hội là trạng thái phân chia và hình
thành cấu trúc xã hội thành các tầng xã hội khác nhau trong điều kiện
khác nhau về không gian và thời gian nhất định. Các tầng xã hội khác
nhau về địa vị kinh tế, chính trị, uy tín xã hội cũng như một số khác biệt
về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, giao
tiếp, ứng xử và thị hiếu...
Đặc trưng của phân tầng xã hội. Dù còn nhiều quan điểm khác
nhau, nhưng nhìn chung các nhà xã hội học đều thống nhất phân tầng xã
hội có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Phân tầng xã hội là sự phân hóa, sắp xếp các cá nhân thành những
tầng lớp, thang bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội, là sự phân chia xã hội
thành những lớp người.

1
Tony Bilton, Kevin Bonmett, Philip Jones, Michelle Stanworth, Ken Sheard và Andrew
Webster, Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, 1993, (Phạm Thủy Ba dịch). Tr. 49-50
2
Giddens Anthony (1997), Sociology, Polity Press, London Tr. 280
3
Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội. Tr.91
4
Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội. Tr.88

81
- Phân tầng xã hội luôn gắn với bất bình đẳng xã hội và phân công
lao động xã hội.
- Phân tầng xã hội thường được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, tuy nhiên nó không thể tồn tại mãi mãi mà có thể có sự thay đổi.
Đó là sự di chuyển từ tầng lớp này sang tầng lớp khác trong cơ cấu xã
hội, hoặc di chuyển trong cùng một tầng xã hội.
b. Các hệ thống phân tầng xã hội trong lịch sử
Thường có hai cách phân loại chủ yếu:
- Hệ thống phân tầng đóng - phân tầng xã hội trong xã hội có đẳng
cấp: đặc trưng là sự phân tầng này được mặc nhiên quy định từ khi con
người sinh ra và trọn đời không có sự thay đổi (thường là do các yếu tố
tôn giáo). Ví dụ, tộc trưởng trong một dòng họ.
- Hệ thống phân tầng xã hội mở - trong xã hội có giai cấp: Đặc trưng
là địa vị của các thành viên chủ yếu dựa vào địa vị kinh tế của họ. Địa vị
của các thành viên cũng như các giai cấp trong xã hội không cố định mà
có thể thay đổi. Người Việt Nam có câu "con vua thì lại làm vua, con sãi
ở chùa thì quét lá đa; bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét
chùa". Sự thay đổi địa vị xã hội của các giai cấp thường xảy ra gắn với
các cuộc cách mạng xã hội.
c. Quan hệ giữa phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội có mối quan hệ nhân - quả.
Theo đó, bất bình đẳng xã hội là nguyên nhân tạo nên sự phân chia xã
hội thành các tầng lớp xã hội khác nhau. Trong điều kiện tồn tại sự
không công bằng về những cơ hội và lợi ích giữa những chủ thể sẽ làm
hình thành những tầng khác nhau trong xã hội. Mỗi tầng sẽ bao gồm
những cá nhân, những nhóm có sự giống nhau tương đối, và như vậy sẽ
có sự phân tầng xã hội.
Đến lượt nó, phân tầng xã hội tác động đến mức độ bất bình đẳng xã
hội. Trong xã hội tồn tại sự phân tầng sẽ làm cho mức độ bất bình đẳng
xã hội càng lớn. Phân tầng xã hội xác định rõ vị trí, địa vị của mỗi cá
nhân, mỗi nhóm trong xã hội; qua đó tác động đến những cơ hội mà cá
nhân (hay nhóm) có thể có được.

82
3. Một số lý thuyết về bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội
Nghiên cứu về vấn đề này có 3 lý thuyết cơ bản: Lý thuyết chức năng
xã hội, cách tiếp cận của quan điểm Mác-xít và lý thuyết của Weber.
a. Theo các nhà lý thuyết chức năng
Phân tầng xã hội là hệ quả tất yếu của bất bình đẳng xã hội. Theo đó,
bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội có từ trước đến nay, hiện đang
tồn tại và tồn tại mãi mãi. Theo đó, trong một xã hội có những địa vị
khác nhau thực hiện các chức năng xã hội nhất định. Mức độ quan trọng
khác nhau tùy thuộc vào chức năng của địa vị quy định. Có những địa vị
quan trọng chỉ có thể dành cho một số người nhất định với các phẩm chất
và yếu tố đặc biệt trong xã hội (lãnh tụ, lãnh đạo) và tất nhiên đi kèm với
trách nhiệm đó thì phải có những quyền lợi tương ứng. Đó chính là điều
kiện khách quan quy định sự phân tầng xã hội... Cách lý giải này nhìn
chung có tính hợp lý song hạn chế lớn nhất là giản đơn gắn phân tầng xã
hội theo chức năng của địa vị cá nhân (nhóm) quy định mà thiếu tính
tổng thể.
b. Theo các nhà Mác - xít
Theo các nhà Mác - xít trong các xã hội có sự phân biệt về sở hữu tư
liệu sản xuất hay của cải nói chung đều tồn tại sự phân chia xã hội thành
các giai cấp khác nhau. Cơ sở phân chia giai cấp chủ yếu về mặt kinh tế
mà trực tiếp là quan hệ sở hữu trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội.
Căn cứ vào đối tượng sở hữu chính, quy mô sở hữu và tính chất sở hữu
để xác định bản chất chế độ xã hội.
Từ khi xã hội xuất hiện sự phân chia giai cấp trong hầu hết các xã
hội đều có một cơ cấu các giai cấp phức tạp. Thông thường ở đó luôn có
hai giai cấp chính và một hay một số giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Đặc
biệt trong những xã hội có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất sẽ tồn tại các
giai cấp đối kháng. Các giai cấp có quan hệ với nhau vừa thống nhất
nhưng cũng mâu thuẫn nhau. Chúng thống nhất với nhau để cùng tồn tại,
mâu thuẫn nhau vì đối lập hay ít nhất là va chạm về lợi ích. Ví dụ, trong
chủ nghĩa tư bản có hai giai cấp chính tồn tại trong mâu thuẫn đối kháng
là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản (tư bản). Không có tư bản sẽ không

83
có vô sản, ngược lại không có vô sản cũng sẽ không có tư bản. Nhưng
giữa họ luôn đối lập nhau về lợi ích kinh tế và phân biệt địa vị xã hội nên
họ mâu thuẫn nhau, đối kháng với nhau.
Mâu thuẫn và đấu tranh giải quyết mâu thuẫn là động lực cho sự
phát triển. Đấu tranh giai cấp là biện pháp để giải quyết mâu thuẫn giai
cấp và là động lực cho sự tiến bộ xã hội.
Sự phân chia giai cấp là nguyên nhân căn bản của tình trạng bất bình
đẳng và phân tầng xã hội. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình thực hiện
các công đoạn trong quan hệ sản xuất. Muốn giải quyết vấn đề đó chỉ có
thể thực hiện cách mạng xã hội và thiết lập chủ nghĩa cộng sản.

c. Theo lý thuyết của Weber


Weber khẳng định bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội tồn tại
khách quan. Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến việc phân tầng xã hội là địa vị xã
hội, quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Tuy vậy, quan niệm về giai
cấp, lý giải về ảnh hưởng của giai cấp và địa vị kinh tế đối với phân tầng
xã hội của ông có rất nhiều điểm không giống với Marx. Weber không
nhấn mạnh yếu tố sở hữu để xác định giai cấp. Theo ông giai cấp chỉ là
tập hợp những người có thể có cơ hội giống nhau trong việc tìm kiếm lợi
ích. Địa vị kinh tế cũng không có ý nghĩa quyết định bất bình đẳng và
phân tầng xã hội.
Như vậy, qua 3 lý thuyết về phân tầng xã hội ở các cách tiếp cận khác
nhau đều thấy tính hợp lý ở mức độ nhất định. Trong đó, Marx và Weber
được coi là hai người khổng lồ của lý thuyết phân tầng xã hội đã cho thấy
những vấn đề cơ bản. Nếu như Marx đã chỉ ra căn nguyên, biểu hiện và cách
giải quyết vấn đề phân tầng xã hội thì Weber đã chỉ rõ các tiêu chuẩn rất cụ
thể để chúng ta có thể kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Tuy nhiên, giữa Marx và Weber có sự đối lập về quan hệ sinh thành
giữa cơ sở kinh tế và tinh thần xã hội, chính trị. Nếu Marx cho rằng,
phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định các vấn đề về văn
hóa, chính trị thì Weber cho là ngược lại. Tuy vậy, cả hai đều cho rằng,
về bản chất phân tầng xã hội đều do cơ sở (địa vị) kinh tế tạo nên. Trong

84
khi Marx nhấn mạnh đến vấn đề tư hữu của tư liệu sản xuất thì Weber lại
nhấn mạnh đến vấn đề thị trường lao động. Thế nên, Marx đã cho chúng
ta thấy rõ ranh giới bất bình đẳng về giai cấp thì Weber cho ta thấy sự
khác nhau trong bản thân các giai cấp. Hoặc nếu Marx cho chúng ta thấy
việc giải quyết mâu thuẫn đó bằng việc thực hiện cách mạng xã hội thì
Weber lại cho rằng việc chuyển hóa đó chỉ có thể thực hiện được bởi
cạnh tranh thị trường và phân công lao động quốc tế sẽ dẫn tới sự thay
đổi địa vị và quyền lực chính trị, xã hội của các thành viên trong mỗi giai
cấp và thậm chí là toàn thể giai cấp.

III. DI ĐỘNG XÃ HỘI


1. Khái niệm di động xã hội
Trong xã hội học, nói tới tính di động tức là nói đến sự thay đổi của
một hay nhiều cá thể giữa các đơn vị được quy định của một hệ thống.
Bên cạnh tính di động của các cá thể mang ý nghĩa xã hội nhưng xa trọng
tâm của các khảo cứu là tính di động bắt nguồn từ các quyết định của các
cá nhân hay tập thể, của những đối tượng vật chất và không phải vật chất
như sự dịch chuyển của các xí nghiệp hay dòng đi, dòng đến của tiền vốn1.
Tony Bilton cho rằng, trong xã hội công nghiệp, các cá nhân có thể
di động từ địa vị này sang địa vị khác bằng nỗ lực cá nhân. Trong xã hội
đó, địa vị xã hội của cá nhân không nhất thiết có địa vị với gia đình.
Nguồn gốc cá nhân di động lên hay xuống là nhờ vào tài năng2.
Như vậy, di động xã hội là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự
chuyển động của các cá nhân, gia đình và nhóm xã hội trong cơ cấu xã
hội và hệ thống xã hội. Nó nói lên tính linh hoạt của các cá nhân và
nhóm xã hội trong kết cấu các tầng xã hội. Kết quả của di động xã hội là
sự chuyển đổi vị trí của các cá nhân, gia đình và nhóm diễn ra trong một
tầng lớp xã hội hay chuyển sang một tầng lớp xã hội khác.

1
G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, (Ngụy Hữu Tâm
và Nguyễn Hoài Bão dịch). Tr.115
2
Tony Bilton, Kevin Bonmett, Philip Jones, Michelle Stanworth, Ken Sheard và Andrew
Webster, Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, 1993, (Phạm Thủy Ba dịch).

85
2. Các hình thức di động xã hội
Di động xã hội hết sức phong phú, đa dạng tùy theo chủ thể xã hội,
phạm vi và quy mô nghiên cứu... Tuy vậy, về đại thể có thể chỉ ra bốn
hình thức di động xã hội phổ biến:
- Di động xã hội theo chiều dọc: Là di chuyển địa vị trong nấc thang địa
vị xã hội, di chuyển từ nấc thang địa vị xã hội này sang địa vị xã hội khác.
Hình thức di động này chỉ sự vận động của mỗi cá nhân trong xã hội
giữa các nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới vị trí, địa vị có giá trị cao hơn
hoặc thấp hơn. Biểu hiện của hình thức di động xã hội này là sự thăng
tiến, đề bạt, miễn nhiệm.
- Di động theo chiều ngang: Hình thức di động trong cùng một mặt
bằng, cùng một nấc thang xã hội.
Hình thức di động này chỉ sự dịch chuyển vị thế xã hội của một người
hay một nhóm người trong cùng một tầng lớp hay cùng một bậc thang
trong cơ cấu xã hội. Di động xã hội theo chiều ngang chủ yếu làm thay đổi
vai trò nhiệm vụ mà không thay đổi về vị trí cao - thấp vì đó là sự thay đổi
trên cùng một tầng lớp xã hội.
- Di động liên thế hệ: Là hình thức di động xã hội trong đó có sự
dịch chuyển vị trí giữa các thế hệ, sự thay đổi địa vị xã hội của thế hệ này
so với thế hệ khác. Di động liên thế hệ theo ba xu hướng: đi lên, đi xuống
hoặc ngang bằng.
- Di động nội thế hệ: Là di động vị thế trong cùng thế hệ.
Hình thức di động này so sánh về mức độ thực hiện sự dịch chuyển
vị trí của những cá nhân trong cùng thế hệ với nhau.
Những quá trình di động này, về cơ bản là xét trong xã hội có giai
cấp (xã hội hiện đại) và những sự di động đó nhìn chung là do sự nỗ lực
của các cá nhân, nhóm trong xã hội giành được chứ không gắn với việc
định sẵn vai trò mà có.
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến di động xã hội
a. Điều kiện kinh tế - xã hội
Mức độ di động xã hội của các cá nhân, các nhóm trong xã hội phụ
thuộc phần lớn vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của xã hội đó. Trong

86
xã hội với điều kiện kinh tế xã hội ở trình độ thấp là yếu tố chế định sự di
động xã hội của các giai tầng trong xã hội đó. Trong trạng thái xã hội
này, vị thế xã hội hầu hết được quy định sẵn và việc di động xã hội là vấn
đề ít có khả năng xảy ra. Ví dụ, trong xã hội chiếm hữu nô lệ, các cá
nhân và các nhóm gần như không có cơ hội để thực hiện sự di động xã
hội. Trong xã hội hiện đại, do trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mức
cao tạo ra cho các thành viên trong xã hội nhiều cơ hội để thay đổi địa vị
của mình. Vì vậy, các cá nhân và các nhóm có thể thực hiện được di
động xã hội.

b. Trình độ học vấn


Trình độ học vấn của con người không chỉ là yếu tố ảnh hưởng mà
còn là điều kiện quan trọng của di động xã hội. Trình độ học vấn bao
gồm trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cá nhân và sự hiểu biết của
họ về tự nhiên, xã hội, con người... Thông thường, trình độ học vấn càng
cao càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự thăng tiến của các cá nhân hay
nhóm người, do vậy thúc đẩy quá trình di động xã hội. Ngược lại, trình
độ học vấn càng thấp thì sự di động xã hội của người đó càng bị hạn chế
và khó khăn.

c. Nguồn gốc gia đình


Nguồn gốc gia đình là một nhân tố tác động đến mức độ di động xã
hội của mỗi cá nhân. Sinh ra và trưởng thành trong một gia đình thuộc
tầng lớp cao trong xã hội thì cá nhân sẽ có điều kiện để nắm giữ, giành
được và thay đổi địa vị theo hướng thăng tiến. Ngược lại, người có
nguồn gốc xuất thân thuộc tầng lớp thấp kém thường có ít cơ hội thăng
tiến. Tất nhiên, nguồn gốc gia đình không hoàn toàn quyết định địa vị xã
hội của con người nhất là trong xã hội hiện đại. Gia đình và điều kiện gia
đình chỉ là môi trường, điều kiện ban đầu cho cá nhân. Địa vị xã hội của
cá nhân phần lớn phụ thuộc vào sự cố gắng nỗ lực cá nhân hay nói cách
khác quá trình xã hội hóa cá nhân họ. Chúng ta cần nhận thức đúng vai
trò của gia đình đối với cá nhân để định hướng phấn đấu rèn luyện cho
bản thân một cách đúng đắn.

87
d. Giới tính
Yếu tố giới có ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ di động xã hội của
cá nhân. Về mặt giới tính, phụ nữ và nam giới có những khác biệt nhất
định do các yếu tố sinh học quy định. Sự khác biệt này bị khuyếch đại và
tạo ra sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội. Thực tiễn chỉ ra
rằng, nam giới có tính di động cao hơn phụ nữ. Sự khác nhau này có
nguồn gốc tự nhiên và cả nguồn gốc từ nhận thức xã hội. Nam giới
thường có điều kiện để học tập và được khuyến khích để phát triển
những năng lực và phẩm chất cần thiết cho sự năng động, mạnh mẽ,
quyết đoán. Trong khi đó phụ nữ ít có điều kiện học tập và bị khuyến
khích phát triển những đặc điểm như tính dịu dàng, nín nhịn, thậm chí là
an phận thủ thường.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, dần dần hình thành nên
những quan niệm về thiên chức của mỗi giới. Phụ nữ thường được gán
cho thiên chức như nội trợ, chăm sóc, nuôi dạy con cái... Trong khi đó
nam giới được gán cho thiên chức là người kiếm thu nhập nuôi gia đình.
Đàn ông phù hợp với những công việc ngoài xã hội, phụ nữ phù hợp với
những công việc trong gia đình. Nhiều nghiên cứu xã hội đã cho thấy,
gánh nặng gia đình phần lớn đè nặng lên đôi vai người phụ nữ nhất là
phụ nữ nông thôn, cột chặt người phụ nữ với gia đình. Với bổn phận làm
mẹ, làm vợ, làm dâu, người nội trợ đã cản trở phụ nữ học tập, thăng tiến
và kìm hãm tính linh hoạt, sự năng động và sự di động của phụ nữ.
e. Nơi cư trú
Khu vực mà con người sinh sống cũng có ảnh hưởng đến di động xã
hội. Những người sống ở đô thị có điều kiện để thăng tiến hơn những
người sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thông thường người sinh ra
ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa... ít có cơ hội, điều kiện để học tập,
đào tạo nên trình độ học vấn thường thấp hơn. Thêm vào đó điều kiện
kinh tế khó khăn nên đã trói buộc họ, hạn chế di động xã hội.
Tóm lại, có nhiều yếu tố ảnh hưởng di động xã hội, những yếu tố
này có sự đan xen và tác động lẫn nhau. Trong từng điều kiện không gian
và thời gian nhất định, các yếu tố này có thể hoán đổi tính quyết định cho
nhau trong việc tạo nên sự di động xã hội của một cá nhân hay một nhóm
trong xã hội.

88
IV. THIẾT CHẾ XÃ HỘI
1. Khái niệm và đặc trưng của thiết chế xã hội
a. Khái niệm thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội là khái niệm quan trọng được sử dụng phổ biến
trong xã hội học. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thiết chế
xã hội, thậm chí còn có nhiều sự nhầm lẫn như việc đồng nhất thiết chế
xã hội với các tổ chức, các nhóm xã hội hay các giá trị văn hóa.
Các nhà xã hội học Mỹ (J. Fichter, N. Smelser) khá thống nhất với
nhau khi cho rằng thiết chế xã hội là một tập hợp các vị thế và vai trò có
chủ định nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội quan trọng hay thiết chế xã hội
là một tập hợp các khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận nhằm
thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội. Các nhà xã hội học
phương Tây thường đồng nhất thiết chế với thể chế. Họ nhấn mạnh ý
nghĩa của "các ý tưởng chủ đạo" của "các mệnh lệnh" (xã hội học Đức)
hay những quan niệm theo thuyết chức năng (T. Parsons)1.
Từ điển Bách khoa Việt Nam - NXB Từ điển Bách khoa - Hà Nội
2005 có đưa ra định nghĩa về thiết chế xã hội như sau: "Thiết chế xã hội
là khái niệm chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và hệ thống giám sát mọi hoạt
động xã hội. Nhờ các thiết chế xã hội mà các quan hệ xã hội kết hợp lại
với nhau, đảm bảo cho các cộng đồng hoạt động nhịp nhàng"2. Một mặt,
thiết chế xã hội là hệ thống các cơ quan quyền lực, các đại diện cho cộng
đồng, đảm bảo những hoạt động đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
cộng đồng và cá nhân. Mặt khác, nó còn là những quy định, quy tắc, luật
lệ qua đó các hệ thống tổ chức thực hiện xã hội. Ngoài ra, thiết chế xã hội
còn có hệ thống giám sát không mang những hình thức có tổ chức như
phong tục, tập quán, dư luận... đánh giá và điều chỉnh hành vi của các
thành viên trong cộng đồng xã hội.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý3, thiết chế là những
quy định, luật lệ của một chế độ xã hội. Thiết chế là khuôn mẫu, kiểu tổ
chức xã hội nhằm đảm bảo đáp ứng các nhu cầu, yêu cầu, chức năng
1
Giddens Anthony (1997), Sociology, Polity Press, London. Tr.455
2
Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Nxb Từ điển Bách khoa - Hà Nội
3
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin

89
cơ bản của hệ thống xã hội, đồng thời kiểm soát các hoạt động của các cá
nhân và các nhóm trong xã hội.
Tuy còn có nhiều quan điểm, cách giải thích khác nhau về thiết chế xã
hội, song về cơ bản có thể thống nhất rằng, thiết chế xã hội là hình thức
cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá trình tiến hành
các hành động xã hội. Thiết chế xã hội chính là các ràng buộc được mọi
cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội chấp nhận và tuân thủ.
Thiết chế là một sản phẩm của đời sống, mọi thiết chế được hình
thành để thỏa mãn nhu cầu riêng của xã hội. Thiết chế ảnh hưởng đến
mức độ phát triển của một xã hội, tính chất và sự vận hành của xã hội,
chi phối mọi hành động và quan hệ xã hội.
b. Đặc trưng của thiết chế xã hội
Mỗi một thiết chế xã hội có một đối tượng riêng để hướng tới phục
vụ, nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan đến đối
tượng. Mỗi thiết chế xã hội có đặc trưng riêng, tuy vậy các thiết chế xã
hội đều có các đặc trưng chung, thống nhất. Cụ thể:
- Các thiết chế xã hội bao gồm các giá trị cơ bản mà các giá trị đó
được các thành viên thừa nhận. Ví dụ, luật pháp của nhà nước, quy chế
của trường học...
- Các quan hệ được thiết lập trong thiết chế xã hội tỏ ra khá bền
vững, các khuôn mẫu hành vi được hình thành trong thiết chế trở thành
một phần truyền thống văn hóa của cộng đồng xã hội.
- Mỗi một thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối của nó và có
tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của nó chiếm một vị trí trung
tâm trong xã hội. Mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao và
được tổ chức xung quanh hệ thống các giá trị chuẩn mực, quy tắc, các
khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận.
- Mục tiêu của một thiết chế được đại đa số các thành viên của xã
hội thừa nhận, cho dù thành viên đó có tham gia trực tiếp hay không vào
trong thiết chế.
- Mặc dù các thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối, nhưng giữa
chúng có những mối quan hệ tương tác với nhau rất chặt chẽ. Khi có sự

90
thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu hành vi của một thiết chế nào
đó, có thể kéo theo sự thay đổi của các thiết chế ở các lĩnh vực khác.

c. Các thành tố của một thiết chế xã hội


Các đặc trưng trên đây được biểu hiện một cách chi tiết, cụ thể ở
những đơn vị nhỏ nhất của thiết chế gọi là các thành tố của một thiết chế
xã hội. Các thành tố chung nhất của thiết chế xã hội nằm trong hai
phạm trù:
- Các biểu tượng văn hoá: Biểu tượng văn hoá là các dấu hiệu để
giúp ta gợi nhớ lại diện mạo của thiết chế. Các biểu tượng đó có thể là
vật chất hay phi vật chất. Ví dụ: Quốc kỳ, quốc ca, ngôi sao vàng, hình
thập ác, nhà thờ, chùa…
- Mã hoá hành vi: Là sự chỉ đạo tư cách đạo đức của các cá nhân
thích hợp với vai trò. Với sự tham gia của mã hoá hành vi, các cá nhân sẽ
ít bị chệch hướng khỏi thiết chế.

2. Chức năng của thiết chế xã hội


Tất cả các thiết chế xã hội đều có các chức năng cơ bản sau đây:
- Quy định hành vi. Các thiết chế cơ bản cho các cá nhân hoạt động
với các kiểu hành vi xã hội được chấp nhận trong nhiều trạng thái xã hội
khác nhau. Thông qua quá trình xã hội hoá, đồng thời với sự hoạt động
của các thiết chế xã hội, các cá nhân tiếp nhận các khuôn mẫu hành vi và
thực hiện theo các khuôn mẫu đó theo các tình huống cụ thể.
- Các thiết chế xác định phần lớn các vai trò của cá nhân mà xã hội
chấp thuận để cá nhân nhận biết trong quá trình xã hội hoá. Từ đó, các cá
nhân có thể lựa chọn vai trò nào đối với mình là phù hợp, có thể biết
được sự mong đợi của vai trò trước khi cá nhân đó thể hiện (xã hội hoá
đón trước).
- Đem lại sự ổn định và kiên định cho các thành viên của xã hội để
họ hướng nhận thức của mình tới các thiết chế xã hội như là một sự chấp
nhận các giá trị, chuẩn mực xã hội và khuôn mẫu hành vi, nhằm củng cố
nhận thức và thống nhất hành động của mọi thành viên trong xã hội.
- Điều chỉnh và kiểm soát hành vi của các cá nhân, các nhóm xã hội

91
để chúng phù hợp với mong đợi của xã hội.
Ngoài các chức năng cơ bản (chức năng chung) nêu trên, còn có
chức năng chuyên biệt cho các loại thiết chế riêng lẻ. Mặt khác, các nhà
xã hội học còn phân biệt hai loại chức năng của thiết chế (xét theo hình
thức biểu hiện): chức năng công khai của thiết chế (là những phần bộc lộ
ra ngoài để cho các thành viên trong nhóm hoặc xã hội nhận biết một
cách rõ ràng) và chức năng tiềm ẩn (là chức năng không bộc lộ ra một
cách rõ ràng, do đó các thành viên trong xã hội hoặc trong nhóm không
nhận thấy được).
Giữa các thiết chế đôi khi xảy ra sự di chuyển chức năng. Sự di
chuyển chức năng xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều
kiện: thiết chế không đáp ứng được nhu cầu hoặc các thiết chế đều có
khả năng đáp ứng được yêu cầu, nhưng một trong số đó nổi trội hơn, có
khả năng đáp ứng ở mức độ cao hơn so với các thiết chế khác hoặc cả hai.

3. Các loại thiết chế xã hội


Có nhiều cách phân loại thiết chế xã hội khác nhau, dựa trên các tiêu
chí khác nhau: tính cưỡng bức, phạm vi áp dụng, giá trị xã hội. Để dễ
dàng phân biệt, chúng ta có thể chia các thiết chế xã hội thành hai loại:
thiết chế chủ yếu và thiết chế phụ thuộc. Căn cứ để thực hiện sự phân
chia này là ba đặc điểm: tính phổ quát, sự cần thiết và tầm quan trọng của
các thiết chế. Những thiết chế chủ yếu là thiết chế có tính phổ quát cao
nhất, cần thiết nhất cho xã hội và được coi là quan trọng nhất cho lợi ích
của cá nhân và xã hội. Đó là những thiết chế gia đình, kinh tế, chính trị,
giáo dục, tôn giáo… Những thiết chế phụ thuộc là những thiết chế cụ thể,
chi tiết nằm trong thiết chế chủ yếu. Sau đây là những thiết chế chủ yếu
(bao gồm những thiết chế phụ thuộc kèm theo) và những chức năng
chuyên biệt của các thiết chế chủ yếu này.
- Thiết chế gia đình: Là hệ thống quy định ổn định và tiêu chuẩn hoá
quan hệ tính giao nam nữ để duy trì nòi giống của con người. Hình thức
phổ biến của thiết chế gia đình hiện nay là chế độ một vợ một chồng
sống với con cái trong gia đình.
Nằm trong thiết chế này là các thiết chế phụ thuộc như: hôn nhân,

92
nuôi dưỡng con cái, quan hệ họ hàng… Các chức năng chuyên biệt của
thiết chế gia đình gồm có: Điều chỉnh hành vi tình dục và giới; duy trì sự
tái sinh sản các thành viên trong gia đình từ thế hệ này sang thế hệ khác;
chăm sóc, bảo vệ trẻ em và người già; xã hội hoá trẻ em; gắn vai trò và
thiết lập vị thế đã được thừa kế từ gia đình; đảm bảo cung cấp kinh tế
gia đình...
- Thiết chế giáo dục: Là quá trình xã hội hoá phát triển một cách
không chính thức ngay trong gia đình và trong môi trường văn hoá chung
và một cách chính thức trong tổ chức giáo dục phức tạp của xã hội.
Các thiết chế phụ thuộc như thi tuyển, bằng cấp, học vị… Các chức
năng chuyên biệt của thiết chế giáo dục gồm: Chuẩn bị nghề nghiệp xã
hội cho cá nhân; truyền bá và chuyển giao di sản văn hoá qua các thế hệ;
giúp cá nhân làm quen dần với các giá trị xã hội; chuẩn bị cho các cá
nhân tiếp nhận các vai trò xã hội và đảm nhận các vai trò phù hợp với sự
mong đợi của xã hội; tham gia kiểm soát và điều chỉnh hành vi cá nhân
cũng như các quan hệ xã hội...
- Thiết chế kinh tế: Là thiết chế mà nhờ đó xã hội được cung cấp đầy
đủ về vật chất và dịch vụ. Nó bao gồm chủ yếu sự sản xuất, phân phối và
trao đổi sản phẩm.
Các thiết chế phụ thuộc theo nó như: Tín dụng, ngân hàng, quảng
cáo, hợp đồng kinh tế… Các chức năng chuyên biệt của thiết chế kinh tế
bao gồm: Sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ; phân phối hàng hoá và
dịch vụ; tiêu dùng sản phẩm và sử dụng dịch vụ...
- Thiết chế chính trị: Là thiết chế biểu hiện tập trung các lợi ích về
quan hệ chính trị tồn tại trong xã hội, quyết định bản chất giai cấp của hệ
thống chính trị - xã hội, quyết định mức độ dân chủ hoá các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Các thiết chế phụ thuộc theo nó là hệ thống pháp luật, hệ thống toà
án, cảnh sát, quân đội...
Chức năng của thiết chế chính trị liên quan chủ yếu đến việc phân
chia, củng cố và thi hành quyền lực chính trị. Thiết chế chính trị có chức
năng cơ bản là điều hòa các hoạt động về phân chia quyền lực chính trị

93
và kiểm soát việc củng cố thi hành quyền lực chính trị. Thể chế hóa hiến
pháp, các bộ luật hoặc các quy định dưới luật vào đời sống xã hội, thực
thi các điều luật đã được thông qua.
- Thiết chế tôn giáo: Là thiết chế xã hội gần như tự động phát sinh từ
đời sống tâm linh của các cá nhân và cộng đồng xã hội. Thiết chế tôn
giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của các thành viên trong xã hội,
thúc đẩy sự hòa đồng và cố kết xã hội, tạo thêm các yếu tố văn hóa dân
tộc. Các thiết chế phụ thuộc như tụng kinh niệm phật, cầu nguyện, các
nghi thức hành lễ...

NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Khái niệm cơ cấu xã hội và các loại cơ cấu xã hội.


2. Bất bình đẳng xã hội, một số lý thuyết về bất bình đẳng xã hội và
cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội.
3. Phân tầng xã hội, các hệ thống phân tầng xã hội.
4. Di động xã hội, các hình thức di động xã hội hội và những yếu tố
ảnh hưởng đến di động xã hội.
5. Thiết chế xã hội, các đặc trưng và các chức năng của thiết chế
xã hội.

94
Chương 4
XÃ HỘI HÓA

Xã hội càng phát triển vai trò con người càng lớn và được coi trọng.
Ngày nay con người được quan tâm theo cả hai góc độ: mục đích và
phương tiện. Ở nước ta con người được xác định là nhân tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Bởi vậy, đòi hỏi con người càng được
hoàn thiện trên cả hai phương diện: trí và đức. Điều này chỉ có thể đạt
được thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân con người giúp họ hoàn
thiện nhân cách.

I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI HÓA


1. Bản chất con người
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu xã hội học con người được xác định là đơn vị
nhỏ nhất và cơ bản nhất của hệ thống xã hội và cấu thành xã hội. Mặt
khác, con người là một sinh vật có tư duy, sống theo tổ chức cộng đồng.
Khi nghiên cứu con người, xã hội học không chỉ quan tâm đến từng con
người riêng biệt mà còn quan tâm đến con người tồn tại trong mối quan
hệ ràng buộc, tương tác với nhau. Bản chất xã hội của con người thể hiện
ở những góc độ khác nhau.
- Từ góc độ tự nhiên, con người là sinh vật bậc cao, có bản năng sinh
tồn duy trì nòi giống. Bản năng tự nhiên của con người được quy định
bởi quá trình tiến hóa lâu dài của loài người từ thế giới tự nhiên, nằm
trong vô thức. Bản năng tự nhiên con người thể hiện ở hai mặt chủ yếu:
bản năng sinh tồn dẫn đến sự tham lam, tư hữu, đấu tranh hoặc nương tựa
vào kẻ khác để bảo vệ mình và bản năng duy trì nòi giống (kích thích
sinh dục, tạo nên cảm xúc và nhu cầu gắn bó với người khác giới).
- Từ góc độ xã hội, con người là một thực thể xã hội và văn hóa. Con
người được xã hội truyền lại nền văn hóa xã hội và đã biến mình thành

95
con người xã hội. Đó là quá trình giao lưu ngôn ngữ, giao lưu tinh thần
giữa người này với người khác để lĩnh hội các "biểu tượng xã hội", các
tập tục, lề thói... Chính vì vậy, khi nói bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp
phần hình thành bản chất con người.
Sự thể hiện bản chất của con người không phải trực tiếp, mà thường
là gián tiếp, quanh co, phức tạp qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và
xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt
và lâu dài, giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức, giữa di truyền
tự nhiên và văn hoá xã hội, giữa yếu tố thực tại và yếu tố tâm linh hình
thành trong con người... Vì vậy, trong xã hội, con người chịu trách nhiệm
với hành vi xã hội của mình.
Từ hai cách hiểu như trên về bản chất con người, có thể nhận định
rằng: Khi là một sinh vật, con người mang bản năng sinh tồn và chịu sự
chi phối của quy luật cạnh tranh sinh tồn. Khi là con người xã hội, con
người chịu sự chi phối của quy luật cộng đồng. Do vậy, con người luôn
sống trong sự pha trộn của bản năng sinh tồn và quy luật cộng đồng để
phát ra hành vi. Trong cuộc sống thường ngày, con người luôn thực hiện
hai dạng hành vi của chính mình là hành vi bản năng và hành vi ý thức.
Hành vi bản năng (hành vi vô thức) là hành vi sơ đẳng, hành vi bẩm
sinh do bản năng sinh tồn của con người chi phối.
Hành vi ý thức (hành vi trí tuệ) là những hành vi có suy nghĩ, có
mục đích, do ý thức của con người chi phối.
Về vấn đề này, trước đây, Aristote (384-322 TCN) đã quan niệm con
người là "sinh vật xã hội" để diễn tả hai khía cạnh sinh học và xã hội của
con người. Trong cuộc sống tự nhiên, con người có các hoạt động sinh
học để tồn tại và duy trì nòi giống. Trong hoạt động xã hội con người là
động vật bậc cao có suy nghĩ, có tư duy và tình cảm... Theo K. Marx, bản
chất con người là "tổng hoà các quan hệ xã hội", là chủ thể của các hoạt
động xã hội đồng thời phản ánh, hấp thụ các quan hệ xã hội. Trong luận
đề 6 về Feuerbach, Marx viết: "Bản chất con người không phải là một
trừu tượng bên trong mỗi cá nhân. Trong tính hiện thực của nó, con

96
người là tổng hoà các quan hệ xã hội". H. Korte nói "Mỗi người là một
xã hội nhỏ, mỗi xã hội là một người tổng quát"1.
Vì vậy, nói đến con người là nói đến nhân cách mà mỗi cá nhân đã
tạo dựng được cho mình trong quá trình xã hội hóa. Xã hội hóa đã hoàn
thiện nhân cách con người, biến các cá thể (cá thể sinh học) thành cá
nhân (thực thể xã hội) và thành nhân cách (con người xã hội).

2. Khái niệm xã hội hóa


Hiện nay, khái niệm xã hội hóa được hiểu với nhiều nội dung
khác nhau.
Xã hội hóa dùng để chỉ sự tăng cường chú ý, quan tâm của xã hội về
vật chất và tinh thần đến những vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó của xã hội
mà trước đây chỉ có một bộ phận của xã hội có trách nhiệm quan tâm.
Những vấn đề cụ thể đó có ý nghĩa đối với xã hội nên từ chỗ chỉ một
nhóm hay một bộ phận của xã hội quan tâm sau đó là toàn xã hội quan
tâm. Thông thường đây là những hoạt động có tính phổ quát rộng, rất
nhiều người có nhu cầu, có điều kiện để nhân rộng và nhiều người đều có
thể tham gia thực hiện được. Xã hội hóa dưới góc độ này chính là sự kết
hợp mang tính chất tự nguyện có ý thức chủ quan của nhiều cá nhân hay
nhóm xã hội. Chẳng hạn chúng ta thường nói: xã hội hóa giáo dục, xã hội
hóa y tế, xã hội hóa thể thao, xã hội hóa các công tác xã hội...
Theo một nghĩa khác, xã hội hóa chỉ sự liên kết của nhiều hành
động, hoạt động cá biệt, riêng biệt thành hành động xã hội chung. Đây là
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin được sử dụng phổ biến trong
nghiên cứu sản xuất xã hội và lý giải cho sự biến đổi của các phương
thức sản xuất xã hội khác nhau. Về đại thể xã hội hóa là sự liên kết của
những hành động, hoạt động riêng biệt thành quá trình mang tính xã hội.
Sự liên kết này mang tính khách quan, tự nhiên tạo nên sự tùy thuộc lẫn
nhau của các cá nhân khi tham gia hành động hay tương tác xã hội. Ví
dụ, những người cùng làm việc trong một dây chuyền sản xuất bị trói
chặt vào nhau thành một "con người tập thể" theo cách diễn đạt của Marx.
Một cách hiểu khác, xã hội hóa là việc phổ cập, nhân rộng các giá trị
vật chất và tinh thần từ một cá nhân hay một nhóm ra xã hội. Ví dụ,

1
H. Korte, 1995. Tr.21

97
người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xúc tiến quảng cáo sản
phẩm của mình ra xã hội để nhiều người biết, mọi người biết hàng hóa
của họ và hướng tới. Xã hội hóa theo nghĩa này có thể do các cá nhân
chủ động thực hiện hoặc do cơ chế tự động (lây lan) của xã hội. Bởi vậy,
trong quá trình xã hội hóa cần đặc biệt coi trọng dư luận xã hội. Người
Việt Nam có câu "hữu xạ tự nhiên hương". "Xạ" ở đây có thể hiểu theo
cả hai nghĩa tốt hoặc xấu.
Tuy nhiên, xã hội học chỉ quan tâm nghiên cứu đến quá trình xã hội hóa
cá nhân.
Con người khi mới sinh ra không mang bản chất xã hội mà chỉ mang
bản chất tự nhiên vốn có của thế giới động vật. Trong quá trình học hỏi, tích
lũy những kinh nghiệm xã hội, con người có sự phát triển vượt bậc. Môi
trường xã hội đã tạo ra sự thay đổi, biến con người từ động vật bậc cao trở
thành con người xã hội sống đa dạng và phong phú. Nói cách khác khái
niệm xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ chỉnh thể sinh vật với
đầy đủ các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể đại diện của xã hội loài người.
Theo nhà xã hội học Mỹ, Neil Smelser, "Xã hội hóa là quá trình mà
cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình"1. Với
quan niệm này vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hóa chỉ giới hạn
trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực. Trong lịch sử
nhân loại có những nhân cách lớn tạo ra hàng loạt những chuẩn mực, giá
trị... được thừa nhận và họ trở thành những người nổi tiếng thế giới trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong định nghĩa mà Neil
Smelser đưa ra vai trò cá nhân chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh
nghiệm, giá trị, chuẩn mực mà chưa đề cập đến khả năng sáng tạo của cá
nhân để xã hội học theo.
Còn theo Fichter, "Xã hội hóa là một quá trình tương tác giữa người
này và người khác, kết quả là sự chấp nhận một khuôn mẫu hành động
và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó"2. Fichter đã quan tâm
đến vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hóa. Ông nhấn mạnh tác
động của cá nhân đến quá trình xã hội hóa. Tuy nhiên, định nghĩa chưa

1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.258
2
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.258

98
nói rõ được vấn đề cá nhân học hỏi, tích lũy kinh nghiệm và lĩnh hội
những kiến thức xã hội.
Nhà xã hội học người Nga G. Andreeva có định nghĩa "Xã hội hóa
là quá trình hai mặt: Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội
bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ
xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các
mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động
và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội"1. Theo định nghĩa trên, xã hội
hoá là quá trình hai mặt. Mặt thứ nhất, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã
hội bằng cách thâm nhập vào xã hội. Ngược lại, cá nhân tái sản xuất một
cách chủ động các mối quan hệ thông qua việc họ tham gia vào các hoạt
động và thâm nhập vào các quan hệ xã hội. Nói cách khác, cá nhân
không chỉ đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển hóa,
biến đổi, sáng tạo nó thành những giá trị, xu hướng của cá nhân để tham
gia tái tạo chúng trong xã hội.
Theo quan điểm của G. Andreeva, tính chủ động của cá nhân thể
hiện sự tác động của con người trở lại môi trường thông qua hoạt động
của mình. Tuy nhiên đây không phải là sự chủ động của cá nhân trong
quá trình thực hiện xã hội hóa của bản thân mình mà là hoạt động hình
thành môi trường và điều kiện cho quá trình xã hội hóa của các cá nhân
khác trong xã hội.
Như vậy, có nhiều quan niệm về xã hội hóa nhưng điểm chung của các
quan điểm này là đều có quá trình xã hội bắt đầu, diễn ra và kết thúc. Quá
trình đó diễn ra có tính hai chiều: Thứ nhất, cá nhân chủ động thâm nhập
vào xã hội để thu nhận kinh nghiệm và các giá trị chuẩn mực từ xã hội mà
không thụ động chờ đợi xã hội truyền thụ. Thứ hai, qua việc tiếp thu tri thức
và kinh nghiệm xã hội, cá nhân tự nghiên cứu, rèn luyện, hình thành những
giá trị mới, đa dạng hơn để chủ động bổ sung vào hệ thống tri thức và kinh
nghiệm cho xã hội. Từ quá trình hai chiều đó giúp con người không chỉ
hoàn thiện nhân cách mà còn phát triển nhân cách tốt hơn.
Từ đó, ta có thể thống nhất khái niệm: Xã hội hóa là quá trình mà
qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn

1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr.259

99
mẫu xã hội, quá trình mà nhờ nó cá nhân đạt được những đặc trưng xã
hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò
xã hội của mình, hòa nhập vào xã hội.
Khái niệm xã hội hóa trên nhấn mạnh hơn tính chủ động của cá nhân
trong quá trình thâm nhập vào xã hội để tự biến mình thành nhân tố xã
hội. Nhưng ẩn sau sự chủ động của cá nhân đồng thời là sự tác động,
phản chiếu, "đóng dấu"... của xã hội lên cá nhân đó.
Xã hội hóa là việc "biến" con người tự nhiên thành con người xã hội,
là quá trình "nhào nặn" và "tự nhào nặn" ra con người xã hội. Xã hội hóa
diễn ra với tất cả mọi người nhưng mức độ không giống nhau. Kết quả xã
hội hóa cá nhân tùy thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên, khách quan (môi
trường xã hội hóa) và chủ quan (năng lực tư duy, ý chí, nghị lực)... của
bản thân họ. Những người sinh ra và tồn tại trong môi trường, điều kiện
sống khác nhau có nhân cách khách nhau. Ngược lại, do nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan, nhiều người có cùng môi trường, điều kiện sống
giống nhau nhưng nhân cách cũng không giống nhau.

3. Cơ chế xã hội hóa


Quá trình xã hội truyền lại nền văn hóa cho mỗi cá nhân theo những
cách khác nhau, bằng những cách đó cá nhân học hỏi được nền văn hóa
xã hội. Những cách này được gọi là cơ chế xã hội hóa. Có hai cơ chế xã
hội hóa cơ bản.
Cơ chế định chế: Cơ chế định chế là cơ chế mà xã hội truyền lại
những giá trị chuẩn mực, khuôn mẫu bắt buộc cá nhân phải tuân theo. Cá
nhân phải trải qua quá trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, thực hành
những gì tiếp nhận được vào trong cuộc sống của mình. Nhờ đó mỗi cá
nhân học được các tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội, học được những
kỹ năng lao động nhất định mà xã hội đã đạt được, đồng thời các cá nhân
còn học được kinh nghiệm của những người đi trước để vận dụng vào
cuộc sống.
Cơ chế phi định chế: Cơ chế phi định chế là cơ chế trong đó mỗi cá
nhân học được ở xã hội những điều cần thiết một cách tự nhiên. Cơ chế
này được thực hiện thông qua hai cách chủ yếu, đó là:

100
- Bắt chước: Là sự tái tạo, lặp lại, sao chép các hành động, cách thức
suy nghĩ và ứng xử của một người, hay một nhóm người trong xã hội. Cá
nhân sẽ lựa chọn những giá trị mình cho là đúng đắn để bắt chước làm
theo. Bắt chước là biện pháp cá nhân tiếp thu các kinh nghiệm xã hội và
làm theo để tạo ra những giá trị cho bản thân mình.
- Lây lan: Là quá trình truyền các hành vi xã hội từ người này qua
người khác một cách tự nhiên. Các hành vi xã hội được lan truyền ngay
cả khi họ không có ý định bắt chước hay học tập. Trong lây lan, sự lan
truyền hành vi xã hội ở người này sang người khác trong những điều kiện
nhất định. Đây là phương thức mà nhiều người học được những kinh
nghiệm trong ứng xử xã hội và tạo ra những giá trị mới khi học hỏi và
truyền lại vào xã hội.
Trên thực tế có nhiều người nhận định vợ chồng thường có nét giống
nhau. Ở đây, sự giống nhau không chỉ nói đến hình thức mà còn cả
những cử chỉ, biểu hiện và hành động. Chính vì chung sống cùng nhau
nên dần dần họ có những thói quen, cử chỉ, hành động có những điểm
giống nhau. Đây có thể được xem là sự lây lan từ người này sang người
kia và ngược lại. Những đứa trẻ trong gia đình có những hành vi mà bố
mẹ không dạy và không bắt chước ai, những hành vi đó gần như giống
với bố mẹ chúng thời nhỏ. Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam mới có câu: "Con
nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh" để ám chỉ sự lan truyền từ
bố mẹ sang con cái.

4. Vai trò xã hội hóa


Xã hội hóa tạo ra nhân cách, hoàn thiện và phát triển nhân cách của
mỗi con người trong xã hội. Tức là qua quá trình xã hội hóa con người
được giáo dục, hoàn thiện và phát triển nhân cách.
Nhân cách là một trong những vấn đề quan trọng trong xã hội học
được các nhà xã hội học cũng như các tác giả ở các lĩnh vực khoa học
khác quan tâm nghiên cứu. Từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, con
người trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau. Ở mỗi giai đoạn,
con người đều để lại những dấu ấn mang tính đặc trưng, khác biệt so với
mọi người và được xã hội nhìn nhận, đánh giá một cách tổng thể.

101
Từ điển bách khoa Việt Nam (Nguyễn Văn Trương, Cù Huy Cận,
Đặng Vũ Khiêu) giải thích nhân cách là hệ thống những phẩm giá của
một người được đánh giá từ quan hệ qua lại của người đó với những
người khác, với tập thể, với xã hội và cả với thế giới tự nhiên xung quanh
trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách
là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian
con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện
những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
Mỗi cá nhân trải qua các giai đoạn nhất định của xã hội hóa mà đạt
được khả năng, năng lực hoạt động để thể hiện vai trò của chính mình
trong xã hội. Hoàn thiện nhân cách của con người là cả một quá trình dài
suốt cuộc đời của người ấy. Sự hoàn thiện nhân cách đó phụ thuộc vào
quá trình giáo dục xã hội.
Xã hội hóa tạo ra sự hoàn thiện, phát triển nhân cách ở mỗi người.
Cá nhân thể hiện vai trò của mình trong xã hội trong những điều kiện
khác nhau. Mỗi cá nhân sẽ chủ động tiếp nhận giá trị, học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm và sáng tạo tác động để xây dựng xã hội. Quá trình đó giúp
cá nhân nâng cao chất lượng hành vi xã hội của mình, tham gia góp phần
sáng tạo cho xã hội.
Như vậy, con người luôn chủ động tiếp nhận những kinh nghiệm xã
hội để tạo nên nhân cách. Mặt khác, con người sáng tạo ra những cái
mới, cái tiến bộ hơn để xây dựng xã hội ngày càng phát triển. Đây là quá
trình phát triển nhân cách cá nhân ngày càng hoàn thiện hơn. Sự hoàn
thiện nhân cách được diễn ra trong các điều kiện xã hội nhất định. Điều
này đòi hỏi phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh cho con người nhằm
tác động vào quá trình xã hội hóa theo hướng tích cực.

II. PHÂN ĐOẠN XÃ HỘI HÓA


1. Vấn đề phân đoạn xã hội hóa
Xã hội hóa cá nhân là một quá trình có bắt đầu và kết thúc. Đến nay
vẫn tồn tại một số quan niệm khác nhau về phân đoạn xã hội hóa. Về cơ
bản sự khác nhau giữa các cách phân đoạn xã hội hóa đều tập trung vào

102
vấn đề xã hội hóa bắt đầu từ đâu và kết thúc khi nào. Vậy quá trình xã
hội hóa bắt đầu và kết thúc khi nào?
Đa số các nhà khoa học đều cho rằng nó bắt đầu từ khi con người
được sinh ra. Số khác lại cho rằng bắt đầu từ khi thai nhi có thể phản ứng
với những tác động từ bên trong hoặc bên ngoài. Đã có những nghiên
cứu chứng minh được rằng, thai nhi từ 6 - 7 tháng tuổi bắt đầu có những
phản ứng với bên ngoài.
Về điểm kết thúc quan điểm phổ biến của các nhà khoa học cho rằng
đó là một quá trình kéo dài hết đời người. Số khác cho rằng nó kết thúc
khi cá nhân trưởng thành về mặt sinh lý. Cá biệt cho rằng xã hội hóa tiếp
tục khi cá nhân đó đã chết.
Tuy vậy hầu hết các nhà xã hội học đều thống nhất rằng đây là một
quá trình kéo dài từ khi con người sinh ra và kết thúc khi họ chết, nói
cách khác xã hội hóa đi suốt cuộc đời mỗi con người. Khi con người
chưa được sinh ra, chưa tiếp xúc xã hội do vậy chưa thể tiếp nhận kiến
thức, kinh nghiệm xã hội. Khi con người trưởng thành về mặt sinh lý,
được coi là "người lớn" nhưng nhân cách hầu như vẫn chưa đầy đủ, chưa
hoàn thiện. Còn khi một người đã mất quá trình xã hội hóa đối với họ đã
chấm dứt nhưng uy tín, ảnh hưởng... của họ tham gia cấu thành nên môi
trường xã hội hóa cho những người khác, thế hệ khác đang sống.

Xã hội hóa

Cuộc đời

Hình: Xã hội hóa và cuộc đời của một con người

103
Ngoài ra, một vấn đề khác cũng được nhiều nhà xã hội học quan tâm
là sự khác biệt trong quá trình xã hội hóa ở người lớn và trẻ em. Họ cho
rằng, trong quá trình xã hội hóa, người lớn thường thay đổi hành vi của
mình ở các quá trình xã hội hóa, trong khi trẻ em lại tạo lập và thu nhận
lấy các giá trị căn bản; người lớn có thể phán xét, đánh giá về các giá trị
chuẩn mực mà họ cần phải tuân theo còn trẻ em thì thông thường chỉ thụ
động tiếp nhận; quá trình xã hội hóa ở người lớn được thiết kế nhằm giúp
các cá nhân có thể có được những kỹ năng nhất định. Còn ở trẻ em liên
quan nhiều đến các động cơ hành động...

2. Các giai đoạn của quá trình xã hội hóa


Phân chia giai đoạn của quá trình xã hội hóa có rất nhiều cách khác
nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Hiện nay, phân đoạn xã hội hóa
chưa có sự thống nhất quan điểm với nhau, vì vậy tùy thuộc vào mục
đích nghiên cứu mà ta có các cách phân đoạn nhất định, sau đây là phân
đoạn của một số nhà xã hội học tiêu biểu.
a. Phân đoạn quá trình xã hội hóa của các nhà triết học cổ
phương Đông
Các nhà triết học cổ phương Đông dựa vào năng lực hành vi xã hội
chia quá trình xã hội hóa ra thành 3 giai đoạn.
- Giai đoạn vị thành niên: Là giai đoạn phân cách của đứa trẻ đang
hình thành, bắt đầu từ lúc sinh ra và đến dưới 18 tuổi. Cá nhân tiếp thu tri
thức, kinh nghiệm xã hội để tạo ra nhân cách riêng cho mình. Giai đoạn
này đứa trẻ chưa tự lập và chưa nhận thức được hết những gì diễn ra
trong cuộc sống, vì vậy, nó chưa chịu trách nhiệm đối với hành vi của
mình. Chính vì vậy quá trình dạy bảo đứa trẻ trong giai đoạn này rất quan
trọng bởi nó là bước đầu tiên trong hình thành nhân cách của một con
người và ảnh hưởng lâu dài đến sự hình thành nhân cách của họ. Lúc
này, vai trò của nhà trường và gia đình là rất quan trọng trong việc định
hình nhân cách cho đứa trẻ.
- Giai đoạn thành niên: Từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi. Trong giai đoạn
này, nhân cách của đứa trẻ tiếp tục được củng cố và phát triển. Cá nhân
tiếp tục học tập để tiếp thu tri thức và kinh nghiệm nâng cao sự hiểu biết

104
và năng lực hành vi cá nhân. Lúc này, cá nhân đã phải tự chịu trách
nhiệm đối với hành vi xã hội của mình.
- Giai đoạn tự lập trong cuộc sống: Bắt đầu từ 30 tuổi đến lúc qua
đời. Trong giai đoạn này con người có thể tự lập hoàn toàn trong suy
nghĩ và hành động. Cá nhân bộc lộ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo cao và
khả năng cống hiến nhiều cho xã hội. Trong giai đoạn này nhân cách
của con người vẫn được củng cố và phát triển. Những hành vi của cá
nhân đã hoàn thiện và thể hiện sự phát triển sâu trong nhận thức.
Phân đoạn quá trình xã hội hóa theo quan niệm này giúp cho ta thấy
rõ trách nhiệm và vai trò xã hội đối với cá nhân trong suốt cuộc đời của
họ. Trong nghiên cứu các vấn đề xã hội, đặc biệt là luật pháp thì giai
đoạn thành niên trở đi là giai đoạn con người có năng lực hành vi pháp
luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi xã hội của mình.
b. Phân đoạn của nhà xã hội học người Mỹ, G. Mead
Theo Mead, kết quả của quá trình xã hội hóa là một nhân cách gồm
hai thành phần của cái tôi. Cái tôi chủ động và cái tôi bị động. Quá trình
này trải qua 3 giai đoạn:
- Bắt chước: Đây là giai đoạn mà con người sao chép hành vi của
người khác theo cơ chế bắt chước một cách bị động hoặc chủ động. Đứa
trẻ thấy người lớn làm bất cứ việc gì nó cũng có thể bắt chước làm theo.
Sự bắt chước này có thể chủ động hoặc bị động, chưa mang tính nhận
thức. Chính vì vậy, người lớn trong quá trình chăm sóc đứa trẻ cần làm
gương cho nó học tập và bắt chước theo.
- Đóng vai: Đây là giai đoạn mà con người đã nhận thức được những
hành vi tương ứng với vai trò xã hội nhất định, đặc biệt là các vai trò
trong phạm vi quan sát được. Chẳng hạn khi trẻ con chơi với nhau chúng
rất hay nghĩ đến việc đóng vai. Chúng chơi trò bố mẹ và con cái. Đứa trẻ
đóng vai bố hoặc mẹ, nó nựng yêu hoặc mắng đứa trẻ bé hơn giống như
bố mẹ mắng mình. Hay có lúc những đứa trẻ đó lại thích đóng vai cô
giáo và học sinh... Việc chuyển vai này giúp cho những đứa trẻ hình
thành khả năng hiểu được những suy nghĩ và hành động của người khác
trong khi thực hiện các vai trò đó. Đây là một bước quan trọng của việc
hình thành nhân cách.

105
- Trò chơi: Ở giai đoạn này, đứa trẻ cần phải biết được sự đòi hỏi
không phải chỉ của một cá nhân nào đó mà của cả xã hội. Giai đoạn này
giúp cái tôi trong mỗi con người không chỉ bị động tiếp nhận mà rất chủ
động. Con người phân biệt rõ cái chung của xã hội và cái riêng của cá
nhân, phân biệt rõ mình, người khác và cộng đồng. Đó là cơ sở để con
người hòa chung vào cuộc sống cộng đồng.

c. Phân đoạn xã hội hóa của nhà xã hội học người Nga,
G. Andreeva
Với mục đích nghiên cứu về các hoạt động của con người trong xã
hội, Andreeva đã phân chia quá trình xã hội hóa thành 3 giai đoạn là:
- Giai đoạn trước lao động: Bao gồm toàn bộ thời kỳ từ lúc con
người được sinh ra cho đến khi họ bắt tay vào lao động. Giai đoạn này
được chia thành hai giai đoạn nhỏ.
Giai đoạn trẻ thơ: Là giai đoạn đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động,
máy móc các hành vi và là giai đoạn vui chơi ở nhà hoặc ở những nơi nó
được đưa đến. Giai đoạn này từ lúc trẻ sinh ra đến lúc đi học.
Giai đoạn học hành: Là giai đoạn đứa trẻ tiếp nhận tri thức và kỹ
năng lao động. Vì vậy, giai đoạn này đứa trẻ đã có sự tiếp nhận các hành
vi một cách có mục đích, có ý thức. Đứa trẻ càng lớn lên thì hành vi tiếp
nhận càng có tính chọn lọc để tự hình thành cho mình năng lực hành vi
riêng.
- Giai đoạn lao động: Đánh dấu bằng việc từ khi cá nhân bắt đầu
tham gia lao động và kết thúc khi không còn tham gia lao động nữa (về
hưu). Trong giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh nghiệm xã hội, vừa
tích lũy kinh nghiệm, vừa bộc lộ năng lực hành vi trong các hoạt động
hàng ngày. Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá
trình xã hội hóa bởi con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức,
kinh nghiệm xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân. Hơn nữa lao
động giúp con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng ta để sống hòa
đồng vào cộng đồng xã hội. Lao động giúp thể hiện vai trò của cá nhân
trong xã hội, thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho xã hội và tham
gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển.

106
- Giai đoạn sau lao động: Đó là khi cá nhân kết thúc quá trình lao
động của mình, về nghỉ hưu. Tuy nhiên, hiện nay đang có hai quan điểm
trái ngược nhau về giai đoạn sau lao động của G. Andreeva. Có quan
niệm cho rằng, khái niệm xã hội hóa hoàn toàn không có ở giai đoạn này
vì chức năng xã hội của nó bị thu hẹp lại. Tức là không có chuyện người
già tiếp thu kinh nghiệm xã hội, hay thậm chí sản xuất ra nó. Quan niệm
thứ hai cho rằng cần phải nhìn nhận một cách tích cực đối với quá trình
xã hội hóa ở giai đoạn này bởi vì xã hội hiện đại ngày nay đã kéo dài tuổi
thọ của con người và đồng thời cũng tạo ra các điều kiện phát huy tính
tích cực xã hội của người già. Nhiều người già đóng vai trò quan trọng
trong việc tái tạo các kinh nghiệm xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay khi mà khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, thông tin được phổ
biến rộng rãi có tính chất quốc tế, đòi hỏi xã hội phải tái tạo các kinh
nghiệm và truyền lại những kinh nghiệm, những giá trị cho thế hệ trẻ.

III. MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HÓA


Môi trường xã hội hóa là nơi các cá nhân thực hiện các tương tác xã
hội của mình nhằm mục đích thu nhận, tái tạo kinh nghiệm và những giá
trị chuẩn mực trong xã hội. Con người được đánh giá là động vật bậc
cao, phát triển hoàn thiện hơn các sinh vật khác nhưng con người không
thể trở thành một nhân cách hoàn thiện nếu không được đặt trong môi
trường xã hội. Bởi môi trường xã hội chính là nơi con người học hỏi, tích
lũy những giá trị kinh nghiệm sống xã hội. Môi trường xã hội đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành con người xã hội hoàn chỉnh về
nhân cách, năng lực và trí tuệ. Người ta thường ví, môi trường xã hội như
là "vườn ươm nhân cách". Các nhà xã hội học đều nhất trí cho rằng môi
trường xã hội hóa gồm các loại chủ yếu sau:

1. Gia đình
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên và quan trọng bậc nhất.
Khi mới sinh ra, con người hoàn toàn phụ thuộc vào người khác trong
việc đáp ứng các nhu cầu của mình. Gia đình dạy cho trẻ những kinh
nghiệm xã hội, các giá trị, tiêu chuẩn văn hóa và dần dần trẻ em kết hợp
được nó vào ý thức của cá nhân. Thông qua quá trình đó, gia đình không

107
chỉ đưa trẻ em đến với thế giới mà còn đặt chúng vào trong xã hội. Qua
đó, con người dần hình thành cái tôi cá nhân, hoàn thiện và phát triển nó
cho đến hết cuộc đời. Gia đình là môi trường đầu tiên truyền thụ trực tiếp
cho trẻ những đặc điểm xã hội nổi bật như truyền thống, tôn giáo, đạo
đức,... Trước khi đứa trẻ đủ lớn khôn để thực sự hiểu được vấn đề thì nó
đã có thể nắm bắt được vị trí của mình trong cấu trúc xã hội do gia đình
xác lập. Khi trưởng thành, cá nhân có thể thay đổi vị trí của mình trong
cấu trúc đó thông qua sự học hỏi, tiếp thu và tái tạo những giá trị xã hội.
Mặt khác, gia đình cũng là nơi đầu tiên truyền cho những thành viên mới
sinh ra của xã hội những ý niệm về giống phái, giới tính… Môi trường
gia đình truyền lại những giá trị cuộc sống cho đứa trẻ. Những yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội, những giá trị xã hội thừa nhận… dần dần đứa trẻ
được tiếp nhận thông qua môi trường xã hội hóa là gia đình.
Ví dụ, trong gia đình, trong hầu hết các nền văn hóa, trẻ nhỏ được
dạy rằng con trai cần phải mạnh mẽ, dũng cảm và con gái cần phải dịu
dàng. Quá trình xã hội hóa trong gia đình được xem xét ở ba khía cạnh.
- Thiết chế gia đình: Là những quy định trong hành vi và lối sống,
nhằm tạo ra sự thống nhất các hành động trong gia đình.
- Giáo dục gia đình: Là sự truyền lại những cái đúng, cái sai và tri
thức cho mỗi cá nhân nhằm tạo ra những tri thức cao và hành vi đúng
cho mỗi cá nhân.
- Hành vi của mỗi người lớn trong gia đình thể hiện nhân cách của
họ. Những hành vi này sẽ truyền lại cho các thế hệ sau bằng các con
đường bắt chước và lây lan. Chính vì vậy, những người lớn trong gia
đình phải là các tấm gương mẫu mực trong hành vi để con trẻ noi theo.
Những giá trị gia đình truyền thụ cho trẻ em đều có chủ ý, theo lối
mô phạm đơn thuần. Chính trong môi trường gia đình, trẻ em sẽ học
được từ người lớn những hành động trong cuộc sống hàng ngày mà đôi
khi bản thân người lớn không có chủ đích dạy bảo. Bởi vậy, người lớn
trong gia đình sẽ trở thành tấm gương soi và phản chiếu vào đứa trẻ trong
mỗi hành động, cử chỉ, suy nghĩ và lối sống. Qua đó, đứa trẻ dần nhận
thức về bản thân mình sâu sắc hơn. Nó biết những giá trị sức mạnh của
bản thân là mạnh mẽ, thông minh hay những yếu điểm tối dạ, nhút nhát...

108
Thậm chí, qua môi trường giáo dục gia đình, đứa trẻ biết mình được yêu
thương hay bị ghét bỏ... Thế giới bên ngoài có những gì hấp dẫn, tươi vui
và có những rủi ro, nguy hiểm gì thì môi trường gia đình là nơi chỉ ra cho
đứa trẻ đầu tiên.
Quá trình truyền thụ của gia đình cho mỗi cá nhân thông qua rất
nhiều yếu tố như thiết chế gia đình, giáo dục gia đình, hành vi của người
lớn, truyền thống gia đình, lối sống gia đình... tạo ra môi trường tiểu văn
hóa. Môi trường gia đình được xây dựng trên nền tảng của văn hóa chung
của xã hội nhưng lại mang những đặc thù riêng của từng gia đình. Các cá
nhân sẽ tiếp nhận các đặc điểm của tiểu văn hóa như những kinh nghiệm
sống, các giá trị, các quy tắc ứng xử từ các thành viên trong gia đình để
hoàn thiện và phát triển nhân cách bản thân.
Đến giai đoạn trưởng thành xây dựng gia đình, những tiểu văn hóa
mới lại được tiếp tục hình thành với những đặc trưng riêng của nó, đó là
sự pha trộn giữa văn hóa chung của xã hội, tiểu văn hóa gia đình cũ và
của chủ nhân gia đình mới (người kết nối và tạo dựng văn hóa mới). Quy
trình này là quá trình liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.

2. Trường học
Trường học là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng
xã hội, tương tác với những thành viên bên ngoài xã hội. Môi trường này
dạy dỗ cho con người nhiều điều khác so với nền tảng trong gia đình.
Nhà trường dạy cho trẻ em những kiến thức và kỹ năng, tri thức của nhân
loại từ đơn giản đến phức tạp. Nếu như ở môi trường gia đình trẻ được
truyền thụ những giá trị căn bản ban đầu thì ở môi trường nhà trường sự
truyền thụ đó có tính đa dạng hơn rất nhiều. Môi trường nhà trường tạo
cho cá nhân nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong cấu trúc xã
hội. Sự nhận biết các khía cạnh của cuộc sống của mỗi cá nhân được
nâng cao nhờ môi trường xã hội hóa từ nhà trường. Trường học cũng là
bộ máy hành chính đầu tiên mà hầu hết trẻ em được tiếp xúc, những thời
khóa biểu, nội quy... cho chúng có ý niệm về một nhóm, tổ chức lớn
cũng như vai trò là một bộ phận trong đó.
Nhà trường là môi trường xã hội hóa rất quan trọng vì đa phần trẻ
em trước khi trưởng thành, bước vào giai đoạn tự lập, lao động và hoạt

109
động xã hội đều phải trải qua môi trường xã hội hóa này. Nhà trường
giáo dục và đào tạo con người đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù
hợp với năng lực của mỗi cá nhân trong xã hội. Trong xã hội hiện đại với
sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, của tri thức nhân loại vừa
đòi hỏi vừa tạo điều kiện để cá nhân được học tập, đào tạo lâu dài, liên
tục. Xã hội hóa trong nhà trường thường hướng vào những vấn đề cơ bản:
- Giáo dục tri thức: Là trang bị cho người học các tri thức của nhân
loại về tự nhiên, xã hội, con người và những kỹ năng khác trong hoạt
động nhận thức, lao động của mỗi cá nhân. Con người sẽ dần hoàn thiện
về năng lực làm việc và nhận thức cao hơn.
- Giáo dục nhân cách: Các giá trị chuẩn mực, các khuôn mẫu xã hội
thừa nhận được nhà trường giảng dạy cho mỗi người học. Môi trường
nhà trường định hướng, dẫn dắt để cho người học chọn và thể hiện hành
vi của mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội nhất định. Giáo dục
nhân cách rất quan trọng đối với con người nhất là hiện nay khi các giá
trị chuẩn mực xã hội đang có nhiều biến đổi, tác động xấu từ môi trường
xã hội lan truyền nhanh, thâm nhập sâu vào cả các nhà trường.
Giáo dục tri thức và giáo dục nhân cách được nhà trường sử dụng
bằng các phương pháp, công cụ khác nhau để đạt được kết quả cao nhất.
Thông qua các hoạt động của nhà trường đáp ứng các yêu cầu giáo dục
của xã hội, phù hợp với quy định của xã hội. Hoạt động của nhà trường
mang tính giáo dục cao, giúp cho người học có trách nhiệm với bản thân,
gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, trong môi trường nhà trường, hành vi
của thầy cô giáo và các nhân viên khác được coi là chuẩn mực và gương
mẫu mà mỗi người học cần phải noi theo. Chính vì vậy, họ sẽ trở thành
tấm gương để người học nhìn vào và học tập, đặc biệt đối với những lứa
tuổi trẻ nhỏ vừa bước vào tuổi đi học.

3. Nhóm cùng vị thế


Cá nhân sống trong xã hội đều có khuynh hướng chọn cho mình vào
nhóm xã hội phù hợp. Quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hóa. Mỗi cá nhân đều
có nhu cầu sống, hoạt động và thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, giải trí...
Nhóm xã hội ra đời dựa trên những nhu cầu của con người trong quá
trình đó.

110
Có thể chia nhóm xã hội thành các nhóm cơ bản như sau:
- Quan hệ bạn bè: Gồm những người có quan hệ bình đẳng, cùng vị
thế xã hội nên các cá nhân thường chia sẻ thái độ, tâm tư và cảm xúc
với nhau.
- Quan hệ đồng nghiệp: Là quan hệ của những người cùng hoạt động
chung trong một nhóm lao động nào đó. Quan hệ này vừa mang tính chất
tổ chức, vừa mang tính chất chia sẻ nghề nghiệp. Quan hệ này cá nhân
chia sẻ tình cảm, kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động nghề
nghiệp.
- Quan hệ đồng sở thích: Là quan hệ của những người theo một sở
thích hoặc đồng suy nghĩ, quan điểm nào đó. Quan hệ này giúp cho mỗi
người tìm được sự hứng thú trong hoạt động và sự đồng cảm trong
cuộc sống.
Các nhóm xã hội tồn tại và tham gia vào các quá trình xã hội hóa
chủ yếu dựa trên các quy tắc, quy chế của nhóm; hành vi của thành viên;
các kinh nghiệm xã hội...

4. Thông tin đại chúng và dư luận xã hội


Thông tin đại chúng là những nguồn tư liệu chứa đựng các thông tin
(chữ viết, âm thanh, hình ảnh...) của xã hội truyền đến cá nhân thông qua
các phương tiện sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, internet...
Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học và công nghệ tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều trẻ em tiếp xúc với thông tin, truyền
hình trước khi được đi học. Phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp
cho các thành viên xã hội những thông tin đa dạng và có tác động lớn
đến hành vi của họ. Truyền thông mang lại cho con người những kinh
nghiệm xã hội, những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn
phổ biến. Tuy nhiên, truyền thông cũng có những mặt trái của nó. Bên
cạnh việc giáo dục nhân cách, chia sẻ thông tin tri thức… truyền thông
cũng đem lại những hậu quả không mong muốn của con người.
Chẳng hạn, khi đưa thông tin về một vụ án tội phạm trẻ vị thành niên
trên truyền hình, internet... nó sẽ trở thành bài học cảnh tỉnh cho các bậc phụ
huynh quan tâm, dạy bảo con em mình. Tuy nhiên, ngược lại đối với trẻ vị

111
thành niên thiếu nhận thức và hiểu biết xã hội, không được quan tâm giáo
dục, nó có thể học làm theo để gây án.
Rõ ràng, các thành viên của xã hội đều chịu ảnh hưởng ở mức độ
khác nhau do những gì mà các phương tiện truyền thông đem lại. Trong
lĩnh vực xã hội hóa, thông tin đại chúng có tính hai mặt. Một mặt, nó
tăng cường ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực văn hóa cũng như
các tri thức khoa học đa dạng và bổ ích thông qua các chương trình giáo
dục, qua các nội dung được truyền đi. Truyền thông phổ biến văn hóa,
giúp các thành viên trong một xã hội gắn kết với nhau. Mặt khác, các
phương tiện này có thể làm méo mó, lệch lạc việc tiếp nhận các giá trị
thông tin qua các chương trình không lành mạnh do tính thương mại
hóa hoặc thiếu thận trọng của nhà lập chương trình truyền tin, dẫn tới
trẻ em lầm tưởng những gì in ấn, truyền tải qua tivi, phim ảnh... đều là
những thứ được xã hội thừa nhận. Điều này cản trở với quá trình giáo
dục từ gia đình và nhà trường, cản trở việc xã hội hóa tích cực đối với
cá nhân. Chính vì vậy, sự kiểm duyệt có định hướng thông tin đại
chúng để loại bỏ những lệch lạc trong nhận thức xã hội là việc làm cần
kíp, cấp bách hiện nay.
Dư luận xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách con người.
Dư luận xã hội có thể bổ sung, củng cố nhân cách nhưng cũng có thể
hủy hoại nhân cách. Mọi người có thể sử dụng dư luận xã hội để "đánh
bóng", làm tăng uy tín cho bản thân hay cổ vũ cho những người mà họ
muốn. Ngược lại, người ta cũng có thể dùng dư luận xã hội bôi xấu, hạ
thấp uy tín của người khác... Đặc biệt, với những người có ảnh hưởng
lớn trong cộng đồng (người của công chúng) tác động của dư luận xã
hội đến nhân cách của họ hay thông qua họ càng mạnh hơn.

NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Xã hội hóa và một số quan niệm về xã hội hóa.


2. Cơ chế và vai trò của xã hội hóa.
3. Môi trường xã hội hóa.
4. Các giai đoạn của xã hội hóa.

112
Chương 5
BIẾN ĐỔI XÃ HỘI

Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội đều không ngừng vận động và
biến đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một thực trạng đứng yên trong sự
vận động liên tục. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn định bề ngoài, còn
thực tế nó không ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Mặt khác, trong
điều kiện bùng nổ về khoa học - công nghệ, đặc biệt là viễn thông,
internet... sự biến đổi xã hội còn chứa đựng những yếu tố khó lường.
Việc nghiên cứu vấn đề biến đổi xã hội trở nên cấp thiết và hữu ích trong
việc lý giải các hiện tượng xã hội đang diễn ra.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI


1. Khái niệm biến đổi xã hội và một số khái niệm liên quan
a. Khái niệm biến đổi xã hội
Xã hội cũng giống như thế giới tự nhiên luôn luôn vận động. Nếu
không vận động đó là xã hội "chết". Xã hội trong quá trình vận động sẽ
tạo ra sự thay đổi dù nhỏ hay lớn, dù ít hay nhiều. Có thể khẳng định sự
biến đổi của xã hội là điều đương nhiên, tất yếu.
Tìm hiểu nhiều công trình nghiên cứu, chúng ta thấy cụm từ "biến
đổi xã hội" có thể được dùng dưới nhiều tên gọi khác và không có sự
đồng nhất trong cách hiểu của các nhà khoa học về khái niệm này.
Trong Từ điển xã hội học, Nguyễn Khắc Viện dùng khái niệm "thay
đổi xã hội". Theo đó, "thay đổi xã hội chỉ trạng thái vận động xã hội
khác nhau: tiến bộ hoặc thoái bộ, tiến hóa hoặc cách mạng, bộ phận
hoặc toàn bộ..."1. Với cách tiếp cận này thay đổi xã hội diễn ra khi xã hội
có sự vận động trong tồn tại xã hội, ý thức xã hội hoặc kết hợp cả hai.
Thay đổi xã hội dùng để chỉ sự vận động xã hội từ một hình thái kinh tế -
xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác.

1
Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tr. 284

113
Một quan điểm khác cho rằng "Biến đổi xã hội là những sự thay đổi
diễn ra trong khuôn mẫu tổ chức xã hội, cấu trúc, thiết chế và đời sống
văn hóa xã hội"1. Quan điểm này hiểu biến đổi xã hội trên bình diện rộng
hơn. Có thể là biến chuyển các khuôn mẫu trong tổ chức hay trong các
thiết chế xã hội… và diễn ra trên quy mô xã hội tổng thể.
Từ điển xã hội học Oxford xem biến đổi xã hội không chỉ trên khía
cạnh cấu trúc chính trị và cơ cấu xã hội vĩ mô mà còn thể hiện trong
chuẩn mực, giá trị, khuôn mẫu hành vi, các mối quan hệ. Đó có thể là
những biến đổi từ cấp độ gia đình đến cấp độ toàn cầu, từ những biến đổi
ngắn hạn đến những biến đổi dài hạn, những biến đổi quy mô nhỏ đến
quy mô lớn.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa "Biến đổi xã hội là sự thay đổi có
tính cơ cấu trong những tổ chức, trong những lối suy nghĩ qua thời
gian"2. Như vậy, biến đổi xã hội diễn ra không chỉ trong cấu trúc của xã
hội tổng thể mà còn diễn ra trong những nhận thức và suy nghĩ.
Từ những quan điểm trên có thể khái quát thành hai cách hiểu cơ
bản về biến đổi xã hội.
- Hiểu theo nghĩa hẹp: Biến đổi xã hội là biến đổi về cấu trúc của xã
hội (hay tổ chức xã hội), có ảnh hưởng sâu sắc tới phần lớn thành viên
của xã hội đó. Các nhà xã hội học theo quan niệm này chỉ quan tâm đến
những biến đổi nào diễn ra ở tầm vĩ mô, có tác động lớn đến đa số thành
viên của xã hội.
Ví dụ, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới ách cai trị của thực dân
Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến trở thành một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến. Tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
của Việt Nam đều bị tác động và biến chuyển sâu sắc.
- Hiểu theo nghĩa rộng: Biến đổi xã hội là sự thay đổi tình trạng xã
hội hoặc nếp sống có trước. Quan niệm này cho rằng chỉ cần tạo ra sự
khác biệt dù nhỏ thì đó chính là biến đổi xã hội.

1
Nguyễn Minh Hòa (1999), Xã hội học: Những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tr.192
2
Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), Xã hội học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Tr. 200

114
Ví dụ: Phụ nữ Việt Nam trước kia có tục nhuộm răng đen. Nhưng
phụ nữ Việt Nam bây giờ không duy trì tục lệ này nữa.
Cách hiểu theo nghĩa hẹp chỉ chú trọng đến những biến đổi ở tầm vĩ
mô. Nhưng rõ ràng xã hội tồn tại, phát triển thông qua chính những thứ
nhỏ nhất diễn ra trong cuộc sống của con người. Hàng ngày con người
tiến hành nhiều hành động xã hội, thực hiện tương tác xã hội, quan hệ xã
hội... Tức là nói đến biến đổi xã hội phải tính cả biến đổi lớn và biến đổi
nhỏ, cả tác động lớn đến tác động nhỏ.
Tất nhiên cần hiểu rằng dù theo nghĩa rộng hay hẹp, các nhà xã hội
học rất ít quan tâm đến những biến đổi chỉ tác động đến một vài cá nhân
riêng lẻ.
Rõ ràng có rất nhiều quan niệm khác nhau về biến đổi xã hội, tuy
vậy theo quan niệm của GS. Phạm Tất Dong và TS. Lê Ngọc Hùng thì,
"biến đổi xã hội là một quá trình, qua đó những khuôn mẫu của các hành
vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân
tầng xã hội được thay đổi theo thời gian"1.
b. Một số khái niệm liên quan
Có nhiều cách hiểu khác nhau về biến đổi xã hội mà nguyên nhân
chính liên quan đến cách nhìn nhận, góc độ tiếp cận của các tác giả.
Ngoài ra, bản thân khái niệm biến đổi xã hội có nhiều điểm tương đồng
với một vài khái niệm khác. Để hiểu kỹ hơn về biến đổi xã hội chúng ta
cần làm rõ một số khái niệm liên quan.
- Biến cố xã hội. Biến đổi xã hội là sự kiện xảy ra và chắc chắn đem
lại sự thay đổi nào đó. Trong khi đó, biến cố xã hội là những sự kiện xã
hội xảy ra có thể đem lại hoặc không đem lại sự thay đổi nào trong đời
sống xã hội. Ví dụ, một cuộc bầu cử, một cuộc biểu tình, một cuộc
đình công...
- Tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội giống như biến đổi xã hội đều là quá
trình vận động, dẫn đến một sự thay đổi nào đó. Những biến đổi xã hội
có thể tạo ra sự thay đổi tích cực và cũng có thể là tiêu cực của xã hội.
Trong khi đó, tiến bộ xã hội lại tạo ra sự biến đổi có ý thức theo chiều
1
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới. Tr. 279

115
hướng tích cực và được mong đợi của xã hội. Sự tiến bộ xã hội thường
trên cơ sở nhu cầu của xã hội hướng vào các giá trị có ưu thế và đòi hỏi
có sự định hướng từ trước. Ví dụ, theo quan điểm của K.Marx, loài người
trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Hình thái sau phát
triển cao hơn hình thái trước. Đó chính là sự tiến bộ xã hội.
- Tiến hóa xã hội. Tiến hóa xã hội là khái niệm chịu ảnh hưởng
nhiều từ thuyết tiến hóa trong lĩnh vực sinh học, tự nhiên của Charles
Darwin (1809-1882). Tiến hóa xã hội cũng giống như tiến hóa cơ thể. Nó
phải tuân theo một quy luật nhất định, chuyển từ cái thuần nhất, đơn giản
sang cái không thuần nhất, phức tạp thông qua phân hóa để đạt tới sự
thống nhất. Những biến đổi bên trong ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng kéo
theo sự tiến hóa và sự tiến hóa này diễn ra đôi khi nhanh chóng ở phương
diện vật chất và chậm hơn ở phương diện tinh thần. Nhà xã hội học
Spencer đã xếp xã hội học vào loại tiến hóa siêu hữu cơ, là cơ thể đặc
biệt của xã hội.
- Phát triển xã hội. Gần đây, bên cạnh sự tiến hóa xã hội người ta đề
cập nhiều đến sự phát triển xã hội. Có nhiều định nghĩa khác nhau về
phát triển xã hội, nhưng có thể thống nhất theo quan điểm của Liên Hiệp
quốc đưa ra như sau: phát triển xã hội là một quá trình trong đó toàn thể
loài người áp dụng những công cụ hiện đại của khoa học và công nghệ
vào những mục tiêu của mình, qua những thời kỳ khác nhau và có tính
không thể đảo ngược được của quá trình đó. Sự phát triển xã hội đặc biệt
trong thời đại ngày nay liên quan rất nhiều đến quá trình tương tác giữa
cách mạng khoa học - công nghệ với cách mạng xã hội.

2. Phân loại biến đổi xã hội


Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của biến đổi xã hội, người ta chia
thành hai cấp độ.
- Biến đổi xã hội tầm vĩ mô: Là những biến đổi diễn ra trên phạm vi
lớn, trong khoảng thời gian dài và rất chậm chạp. Biểu hiện rõ ràng nhất
chính là sự biến đổi các hệ thống cấu trúc xã hội. Ví dụ, sự biến đổi từ xã
hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp ở rất nhiều quốc gia trên thế giới.

116
- Biến đổi xã hội tầm vi mô: Là những biến đổi nhỏ, nhanh được tạo
ra bởi những quyết định, hành vi trong quan hệ tương tác của con người
hàng ngày. Biểu hiện rõ nhất của biến đổi xã hội tầm vi mô là sự thay đổi
trong nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân và nhóm nhỏ. Ví dụ,
nhận thức của các cá nhân về tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ
trong xã hội Việt Nam hiện nay đang thay đổi theo chiều hướng ngày
càng coi trọng, đề cao môn học này. Bên cạnh những môn học được coi
là chính theo quan niệm truyền thống như Toán, Văn thì rất nhiều bậc
cha mẹ, đặc biệt ở khu vực thành thị, đã đầu tư cho con em mình tham
gia học ngoại ngữ ngay từ khi còn nhỏ.

3. Đặc điểm của biến đổi xã hội


Biến đổi xã hội có 3 đặc điểm cơ bản:
- Biến đổi xã hội có tính phổ biến nhưng lại không giống nhau giữa
các yếu tố trong từng xã hội và giữa các xã hội với nhau
Mọi xã hội đều biến đổi. Không có xã hội đứng im, bất biến. Ngay
cả một xã hội vẫn được gọi là ổn định, thì sự ổn định đó chỉ là bề ngoài.
Bên trong nó không ngừng vận động, thay đổi. Sự biến đổi nằm trong
bản chất của đời sống xã hội. Biến đổi diễn ra ở bất kỳ xã hội nào, bất cứ
yếu tố nào trong xã hội.
Tuy nhiên tốc độ biến đổi nhanh chậm của các yếu tố trong xã hội
không giống nhau. William F.Ogbum cho rằng văn hóa vật chất thường
thay đổi nhanh hơn văn hóa tinh thần. Theo quan điểm triết học duy vật
biện chứng, vật chất quyết định ý thức, vật chất là yếu tố thay đổi trước,
đến một giới hạn nhất định nào đó dẫn đến thay đổi về tinh thần.
Ví dụ, quá trình đô thị hóa nông thôn Việt Nam hiện nay. Bộ mặt
nông thôn thay đổi nhanh chóng bằng việc xuất hiện những ngôi nhà,
đường xá, khu dịch vụ, vui chơi giải trí… mang hơi hướng thành thị.
Nhưng những tập tục, nếp sống, thói quen đặc trưng của từng vùng quê
thay đổi chậm hơn, thậm chí nếu để biến đổi nó đòi hỏi quá trình dài.
Mức độ, phạm vi của sự biến đổi không giống nhau từ xã hội này
đến xã hội khác. Tốc độ của sự biến đổi xã hội phụ thuộc vào sự phát
triển khoa học kỹ thuật. Xã hội có nền khoa học kỹ thuật càng phát triển

117
thì sự biến đổi xã hội diễn ra càng nhanh. Các xã hội săn bắn hái lượm
vẫn có sự từ bỏ cái cũ, chấp nhận lối sống mới nhưng quá trình đó diễn ra
rất chậm chạp, trải qua hàng trăm, hàng nghìn, thậm chí hàng triệu năm.
Đối với xã hội công nghiệp thì sự thay đổi đó đôi khi chỉ mất vài thập kỷ
hoặc chỉ là một vài năm.
- Biến đổi xã hội có khác biệt về thời gian và hậu quả của chúng đối
với đời sống xã hội
Có những biến đổi diễn ra trong thời gian ngắn và không có ảnh
hưởng lâu dài. Nhưng cũng có những biến đổi diễn ra trong thời kỳ dài,
ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết mọi thành viên sống trong xã hội.
Người ta vẫn thấy hàng năm, xu hướng thời trang trên thế giới có sự
thay đổi. Việc ưa chuộng màu sắc gì, kiểu quần áo nào đôi khi chỉ xuất
hiện trong năm đó, tạo ra sự thay đổi bên ngoài của con người, không có
ảnh hưởng lớn với đời sống xã hội. Nhưng có thay đổi diễn ra có mức độ
ảnh hưởng quá lớn tới hầu hết các thành viên trong xã hội. Chẳng hạn
như việc xuất hiện internet, du nhập internet vào trong từng quốc gia, ảnh
hưởng của nó đến tất cả thành viên già, trẻ, nam, nữ trong xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của biến đổi xã hội phụ thuộc vào tính chất,
phạm vi của biến đổi xã hội. Cũng có biến đổi xã hội tạo ra những ảnh
hưởng tích cực, cũng có biến đổi xã hội dẫn đến những ảnh hưởng tiêu
cực. Thậm chí có biến đổi xã hội có tác động theo cả hai hướng tích cực
lẫn tiêu cực tới đời sống xã hội.
Người ta vẫn nói tính hai mặt của xu hướng toàn cầu hóa. Nó tạo ra
cơ hội, đồng thời cũng dẫn đến thách thức, khó khăn cho các quốc gia
tham gia. Các quốc gia sẽ biến đổi nhanh chóng khi chấp nhận xu hướng
toàn cầu hóa, đứng vào trong cuộc chơi đó.
- Biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch vừa có tính phi kế hoạch
Phần nhiều các biến đổi xã hội đều do con người tạo ra dù trực tiếp
hay gián tiếp, tự giác hay tự phát. Tuy vậy, có nhiều biến đổi xã hội xuất
phát từ kế hoạch, chủ tâm của con người, do con người tự giác, chủ động
tạo ra nên có thể kiểm soát được. Nhưng cũng có những biến đổi xã hội
khó kiểm soát nếu biến đổi đó không nằm trong chủ tâm của con người,
biến đổi mang tính tự phát, bị động.

118
Không phải lúc nào biến đổi xã hội do con người tạo ra, con người
cũng kiểm soát được. Những biến đổi này nằm ngoài nhận thức và khả
năng kiểm soát của con người tương tự hành động xã hội và hậu quả
không chủ định đã phân tích. Con người dù tài giỏi đến đâu cũng không
bao giờ nhận diện hết hoàn cảnh, môi trường xung quanh, lường hết mọi
tình huống, khả năng có thể xảy ra. Đó chính là nguyên nhân của những
biến đổi xã hội mang tính phi kế hoạch.
Những biến đổi xã hội do tự nhiên gây ra (động đất, sóng thần, trái
đất nóng lên...) lại càng khó kiểm soát bởi tính phi kế hoạch của thiên
nhiên. Hiện nay, khoa học đã phát triển, nhưng những gì thuộc về tự
nhiên vẫn là bí ẩn đối với con người, đa số nằm ngoài tầm kiểm soát của
con người. Ước muốn chinh phục tự nhiên luôn tồn tại trong các thế hệ
từ ngàn đời nay. Vì khó nắm bắt nên những biến đổi xã hội do tự nhiên
gây ra lại càng nằm ngoài dự tính của con người.

II. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI


1. Quan điểm của các nhà xã hội học theo chủ nghĩa xã hội
không tưởng
Tiêu biểu là H.Saint Simon (1760-1825), C.Furie (1772-1837) và
R.Owen (1771-1858). Họ cho rằng xã hội biến đổi trải qua các giai đoạn
khác nhau và tuân theo những quy luật nhất định. Những biến động xã
hội, thay thế xã hội cũ lạc hậu bằng xã hội mới văn minh hơn - một xã
hội lý tưởng - là tất yếu, mà nguyên nhân do tiến bộ của tri thức khoa
học, của tôn giáo và đạo đức (Saint Simon) hoặc do xung đột xã hội và
giải quyết xung đột đó (C.Furie).
Cần thiết phải thực hiện cải cách xã hội từ bên trên theo những thiết
chế mà họ nghĩ ra để thực hiện sự bình đẳng và công bằng xã hội. Thực
tế chưa thể xây dựng được xã hội như vậy vì những điều kiện tiền đề cho
chúng chưa sẵn sàng. Sự tính toán của các nhà xã hội học thuộc chủ
nghĩa xã hội không tưởng nhằm cải tạo trạng thái xã hội hiện thực thiếu
thực tế và không kiểm soát được.

119
2. Quan điểm của thuyết tiến hoá về xã hội
Thuyết tiến hoá xã hội dựa trên cơ sở thuyết tiến hoá của Darwin.
Các nhà xã hội vận dụng nó để giải thích sự biến đổi xã hội và hình thành
nên thuyết tiến hoá xã hội. Nó xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX do một số
nhà xã hội học Tây Âu đưa ra, tiêu biểu là A.Comte, H.Spencer và
E.Durkheim. Nhìn chung thuyết tiến hóa xã hội giải thích sự biến đổi xã
hội theo con đường tự nhiên, tuần tự, chậm chạp mà không cần thực hiện
cách mạng xã hội. Thuyết tiến hóa xã hội nhằm chống lại chủ trương đấu
tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo Comte, xã hội loài người biến đổi qua ba giai đoạn kế tiếp
nhau: giai đoạn thần học (giai đoạn định hình xã hội - con người bất lực
trước giới tự nhiên), giai đoạn siêu hình (giai đoạn hình thành của tôn
giáo với niềm tin vào chúa và đấng cứu thế toàn năng) và giai đoạn thực
chứng (giai đoạn khoa học - trí tuệ và tri thức khoa học là động lực với
sức mạnh duy trì và phát triển xã hội). Theo thuyết này, sự biến đổi và
phát triển của xã hội theo phương thức tiến hoá dần dần, không phải bằng
đấu tranh xã hội với các bước nhảy vọt mà bằng khoa học, trí tuệ.
Cách giải thích của Spencer về tiến hóa xã hội có điểm khác hơn với
Comte, tuy vậy đều tuân thủ một nguyên tắc biến đổi xã hội, tiến bộ xã
hội bằng con đường tiến hóa tuần tự. Ông xây dựng một lý thuyết thống
nhất về sự tiến hoá theo công thức chuyển từ cái thuần nhất, đơn giản
sang cái không thuần nhất, phức tạp thông qua phân hoá để đến thống
nhất. Tiến hoá xã hội, cũng như tiến hoá của cơ thể, cũng chia làm ba
loại: tiến hoá vô cơ, tiến hoá hữu cơ, tiến hoá siêu hữu cơ và ông xếp
biến đổi xã hội vào tiến hoá siêu hữu cơ.

3. Quan điểm của học thuyết Mác - Lênin


Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những
người sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin giải thích sự biến đổi, phát triển xã
hội loài người như một quá trình tự nhiên, phổ biến, trải qua các giai
đoạn khác nhau, phát triển theo một quy luật từ thấp đến cao và trải qua
năm giai đoạn, năm hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong đó, lực
lượng sản xuất là yếu tố đóng vai trò quyết định. Khi lực lượng sản xuất
phát triển tới một trình độ (phạm vi, quy mô, tính chất) nhất định thì mâu

120
thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời,
lạc hậu, là lực cản đối với lực lượng sản xuất. Để lực lượng sản xuất phát
triển, sản xuất xã hội phát triển cần xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ lạc hậu,
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện
trên phương diện xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai cấp
thống trị. Đó là mâu thuẫn đối kháng của hai giai cấp cơ bản, đối lập tồn
tại trong một phương thức sản xuất, không thể dung hòa nhau về mặt lợi
ích kinh tế. Đấu tranh giai cấp là điều tất yếu trong xã hội có giai cấp.
Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cuộc cách mạng xã hội nổ ra. Kết
quả là quan hệ sản xuất cũ bị thay thế bởi quan hệ sản xuất mới. Phương
thức sản xuất mới ra đời mở đường cho sản xuất xã hội phát triển, thúc đẩy
toàn bộ đời sống xã hội phát triển. Một cuộc cách mạng còn lật đổ chính
quyền cũ, thay vào đó chính quyền mới, xóa bỏ những cái lạc hậu, cải tạo
cái cũ theo những giá trị mới, tiến bộ hơn. Như vậy, cách mạng xã hội là
đòn bẩy thúc đẩy sự thay đổi từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Nói
cách khác theo học thuyết Mác - Lênin đấu tranh giai cấp là một trong
những động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển từ trình độ thấp lên
trình độ cao.

4. Các quan điểm hiện đại


a. Quan điểm tổng hợp
Hầu hết các quan điểm hiện đại đều nhấn mạnh yếu tố giai cấp, các
hình thức xung đột trong mỗi xã hội và giữa các xã hội. Tương tác phức
tạp giữa nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài đã tạo ra sự biến đổi
xã hội. Những yếu tố có thể ảnh hưởng tới biến đổi xã hội là:
- Môi trường vật chất: Bao gồm những biến động lớn và biểu hiện
bất lợi của môi trường sinh thái do những nguyên nhân từ phía con
người, là động lực tiềm ẩn thay đổi môi trường vật chất trong tương lai,
là động lực của sự biến đổi xã hội.
- Công nghệ: Là tổng thể chung các phương pháp gia công, chế tạo,
làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình dáng nguyên liệu hay bán thành
phẩm trong quá trình sản xuất để tạo sản phẩm hoàn chỉnh. Đó chính là

121
sự áp dụng các kiến thức trong thực tiễn, là tri thức ứng dụng. Nó có sức
mạnh đối với sự biến đổi xã hội. Công nghệ mới như: tin học, công nghệ
gen, công nghệ nano... đã tạo ra sức mạnh to lớn cho sự biến đổi xã hội,
đồng thời cũng giúp cho các nhà lãnh đạo giám sát và quản lý xã hội.
- Dân số và lao động: Là vấn đề quan trọng đối với sự biến đổi xã
hội. Sự gia tăng dân số và lao động, sự thay đổi về quy mô, mật độ dân
số và lãnh thổ ở từng vùng, từng ngành đã chứng tỏ điều đó.
- Giao lưu văn hóa: Trong thời đại hiện nay, thời đại quốc tế hoá,
giao lưu văn hoá đã trở thành yếu tố hết sức quan trọng trong quá trình
biến đổi xã hội. Các lĩnh vực du lịch, thương mại quốc tế, công nghệ viễn
thông toàn cầu... là những yếu tố có tác động mạnh mẽ và sự giao lưu đã
diễn ra trên phạm vi rộng, đa phương, đa chiều ảnh hưởng lớn đến sự
biến đổi xã hội.
- Xung đột xã hội: Là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ biến
đổi xã hội. Xung đột xã hội thường diễn ra do những mâu thuẫn về lợi
ích và vì lợi ích, vì tranh giành sự kiểm soát các nguồn lực. Chính điều
này đã góp phần tạo ra sự biến đổi xã hội.
b. Quan điểm toàn cầu
Các nhà xã hội học hiện đại cho rằng để hiểu sự biến đổi xã hội hiện
đại phải xem mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá dựa trên hai lý thuyết sau:
- Lý thuyết hiện đại hoá: Theo thuyết này sự biến đổi và phát triển
của nhân loại là một quá trình tiến bộ và phát triển lâu dài, trong đó yếu
tố khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định tạo ra sự hiện đại hoá.
Hiện đại hoá là quá trình tất yếu, mang lại nhiều lợi ích cho con người,
cho xã hội.
- Lý thuyết hệ thống thế giới: Cho rằng tất cả các dân tộc trên thế
giới đều là bộ phận của sự phân công lao động rộng lớn và không bình
đẳng về quan hệ chính trị mà lợi ích của các nước đang phát triển phải
chi phí cho các nước kém phát triển.
Ngoài các lý thuyết trên còn có lý thuyết phụ thuộc. Lý thuyết này
khẳng định các quốc gia đã công nghiệp hoá và các quốc gia thuộc thế giới
thứ ba có những quan hệ phụ thuộc trên các lĩnh vực như: thương mại, công
nghiệp và đầu tư...

122
III. NHỮNG NHÂN TỐ VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ BIẾN ĐỔI
XÃ HỘI
1. Những nhân tố của sự biến đổi xã hội
Có nhiều nhân tố liên quan đến sự biến đổi xã hội, cụ thể như sau:
- Nhóm các nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên
Nhóm này bao gồm toàn bộ các yếu tố của điều kiện tự nhiên như: vị
trí địa lý, đất đai, sông núi, tài nguyên, khí hậu, hệ động, thực vật… Tiềm
năng và sự phân bố các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lối
sống, hành vi và sự hoạt động ứng xử của con người.
Thông thường sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên, sự giàu có về tài
nguyên tạo ra nguồn lực dồi dào, động lực cho sự biến đổi và phát triển.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nó diễn ra theo chiều hướng ngược lại, các
nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi thường sử dụng lãng phí, không hiệu
quả các nguồn lực đó, còn các nước có điều kiện tự nhiên khó khăn thì biết
sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực này để đạt được sự phát triển.
Sự thay đổi về môi trường sinh thái, đặc biệt là sự ô nhiễm môi
trường và mất cân bằng sinh thái cũng là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến
biến đổi xã hội.
- Nhóm các nhân tố khoa học kỹ thuật và công nghệ
Khoa học công nghệ là một yếu tố cơ bản của sự biến đổi xã hội.
Quan điểm của thuyết kỹ trị cho rằng khoa học kỹ thuật và công nghệ là
nhân tố quyết định sự biến đổi xã hội. Xã hội loài người biến đổi và phát
triển trải qua ba nền văn minh: nông nghiệp, công nghiệp và hậu công
nghiệp, trong đó khoa học kỹ thuật và công nghệ gắn liền với các nền
văn minh này.
Nhờ có việc sử dụng rộng rãi công nghệ trong sản xuất đã thúc đẩy
quá trình phân công lao động mới, quá trình đô thị hoá. Khoa học công
nghệ làm thay đổi nhận thức và quan điểm của các cá nhân theo chiều
hướng tích cực, phát triển đời sống kinh tế - xã hội một cách rộng rãi…
nhưng nó cũng gây ra tác hại cho con người như làm mất cân bằng môi
trường sinh thái, phá vỡ giá trị truyền thống…

123
- Nhóm nhân tố chủ thể xã hội
Chủ thể xã hội là các thực thể xã hội tạo ra các hoạt động xã hội, bao
gồm cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, thiết chế hay thể chế xã hội cùng
quan hệ giữa chúng. Nói đến chủ thể xã hội là nói đến quần chúng nhân
dân, vừa là chủ thể đồng thời cũng vừa là đối tượng và tác nhân của sự
biến đổi xã hội. Ta biết cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, mà với sức mạnh tổng hợp của mình đã trở thành động lực cho sự
biến đổi xã hội. Bên cạnh đó vai trò cá nhân lãnh đạo cũng hết sức quan
trọng, bởi vì những cá nhân này đã tập hợp được quần chúng nhân dân để
tạo ra những biến đổi xã hội mạnh mẽ, sâu sắc.
- Nhóm các nhân tố văn hoá - xã hội
Văn hoá: Việc hình thành nền văn hóa mới (với những niềm tin và
giá trị mới) cũng có thể tạo nên sự biến đổi xã hội. Hơn nữa nhiều nhà xã
hội học cho rằng sự thay đổi nhanh của khoa học kỹ thuật cũng tạo ra tư
tưởng tiến bộ. Sự tiến bộ của tư duy không chỉ là khả năng mà còn là một
tất yếu mà nhờ nó có sự biến đổi xã hội.
Cấu trúc xã hội mới: Thông qua cấu trúc xã hội mới, kỹ thuật công
nghệ được áp dụng vào thực tế tạo ra những ngành nghề mới, phân công
lao động mới và cơ cấu xã hội mới, tổ chức xã hội mới.
Những xung đột: Theo Marx, những mâu thuẫn, xung đột giữa các
giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, các thế hệ, các giới... xuất phát từ bất bình
đẳng (bất bình đẳng giới, bất bình đẳng giai cấp...). Quá trình giải quyết
những mâu thuẫn này đem đến sự biến đổi xã hội.
Tăng trưởng dân số: Dân số tăng nhanh là một trong những động
lực chính gây ra biến đổi xã hội. Những thay đổi về quy mô, cơ cấu dân
số theo những góc độ khác nhau: như lãnh thổ, giới tính, lứa tuổi... có thể
gây ra những biến đổi sâu sắc về văn hoá, xã hội, đồng thời kéo theo sự
biến đổi về cấu trúc và tổ chức xã hội.
Tư tưởng: Tư tưởng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
hoặc kìm hãm biến đổi xã hội. Học thuyết Mác - Lê nin thừa nhận vai trò
của tư tưởng và lý luận trong sự biến chuyển của xã hội. Thông thường
sức ì của xã hội gắn liền với sự bảo thủ của tư tưởng, văn hoá truyền
thống của những nhóm xã hội và ngược lại.

124
2. Điều kiện biến đổi xã hội
Những điều kiện cần cho sự biến đổi xã hội, gồm:
Thời gian: Bất kỳ sự biến đổi nào cũng cần có thời gian. Mặc dù
thời gian không tạo ra sự biến đổi, nhưng thời gian lại là điều kiện quan
trọng để có thể diễn ra sự biến đổi, thay thế cái đã lạc hậu bằng cái tiến
bộ. Điều này, được thể hiện rất rõ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Hoàn cảnh: Biến đổi xã hội rất cần có môi trường, hoàn cảnh để
triển khai các yếu tố đem lại sự biến đổi. Con người vừa chịu sự chi phối
của hoàn cảnh nhưng đồng thời cũng có thể tác động tích cực trở lại làm
thay đổi hoàn cảnh.
Nhu cầu xã hội: Mỗi xã hội đều có những nhu cầu của mình về văn
hoá, xã hội. Đây chính là điều kiện quan trọng nhất để có được sự biến
đổi trong xã hội.
Con người luôn tìm tòi khám phá, phát hiện ra cái mới, do vậy nhu
cầu xã hội là động lực thúc đẩy mạnh mẽ tư duy sáng tạo. Sự đáp ứng
nhu cầu xã hội thường đi đến sự biến đổi theo chiều hướng tạo ra cái
mới, cái tiến bộ. Mỗi cá nhân khác nhau sẽ có cách đáp ứng các nhu cầu
xã hội khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Điều này xuất phát từ lợi ích
của cá nhân hoặc nhóm xã hội trước một sự biến đổi xã hội.

IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI


VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Một số biến đổi xã hội lớn trên thế giới
- Sự phức tạp, đa dạng hơn trong quan hệ quốc tế
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu
sụp đổ, bức tranh chính trị trên toàn cầu có nhiều thay đổi. Từ một thế
giới tồn tại hai cực đối lập đứng đầu là Mỹ và Liên Xô chuyển sang thế
giới đơn cực, nhất siêu và đa cường. Các nước tập trung cho việc phát
triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc
tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước. Chính điều này dẫn đến xu
hướng trên thế giới chuyển từ đối đầu chiến tranh sang đối thoại hòa
bình. Hòa bình ổn định và hợp tác phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi
bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới.

125
Tuy nhiên, trên thế giới vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất ổn, vấn đề
tranh chấp, xung đột… giữa các quốc gia diễn ra với biểu hiện ngày càng
phức tạp. Thế giới xuất hiện những "điểm nóng" trở thành nơi tranh chấp
của nhiều quốc gia như việc tranh chấp quần đảo Curin giữa Nhật Bản và
Liên Xô, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông, hay căng
thẳng ở eo biển Đài Loan…
Vấn đề khủng bố diễn ra phức tạp. Sau thảm họa 11/9/2001 ở Mỹ,
khủng bố quốc tế đang trở thành vấn đề toàn cầu đòi hỏi mỗi quốc gia
dân tộc phải có những quan tâm đúng mức đến vấn đề này. Khủng bố là
một trong những hành vi đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người và đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, trật tự của các
quốc gia và cả cộng đồng quốc tế. Trong những năm gần đây, hoạt động
khủng bố có xu hướng gia tăng với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi và
tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Khủng bố có tổ chức xuyên
quốc gia đang trở thành thách thức lớn đối với hòa bình, an ninh quốc tế.
Một trong những biện pháp hữu hiệu mà cộng đồng quốc tế quan tâm đó
là hợp tác đấu tranh chống khủng bố, xác lập cơ sở pháp lý quốc tế cho
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố.
Trên thế giới còn xuất hiện hiện tượng một số nước phương Tây âm
thầm can thiệp vào tình hình chính trị nội bộ của một nước đối thủ. Chiến
lược chính trị này của các nước tư bản chủ nghĩa vốn được sử dụng để
chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và được các nước xã hội chủ nghĩa
gọi là diễn biến hòa bình. Tuy nhiên, ngày nay việc can thiệp đó diễn ra ở
nhiều nước khác nhau dù đó không phải là nước xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn xã hội trên thế giới có xu hướng chuyển từ mâu thuẫn
giai cấp là chủ yếu sang mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc... Xung đột tôn giáo,
sắc tộc là vấn đề nóng tạo ra sự rối ren của nhiều quốc gia trên thế giới.
Thế giới từng chứng kiến xung đột giữa Ấn Độ giáo, Ki Tô giáo và Phật
Giáo với Hồi Giáo tại Ấn Độ; xung đột giữa chính quyền với Phật giáo
Tây Tạng, giữa Hồi giáo Tân Cương với chính quyền địa phương và
trung ương… Hiện nay, chúng ta vẫn tiếp tục trong trạng thái đầy lo ngại
trước tình hình xung đột diễn ra căng thẳng tại nhiều khu vực: Đông
Nam Á, Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi… Cuộc chiến giữa các nhóm tôn
giáo, giáo phái khác nhau trong cùng một tôn giáo (Đạo Hồi) diễn ra

126
thường xuyên. Có nhiều vụ xung đột tôn giáo, sắc tộc mang lẫn màu sắc
chính trị trong đó. Nhiều thế lực phản động lợi dụng những mâu thuẫn
trước đó để kích động, tạo tiền đề cho sự chia rẽ, li khai gây mất ổn định
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xung đột sắc tộc, tôn giáo ảnh
hưởng mạnh mẽ, thậm chí phá hoại sự thống nhất và ổn định phát triển
của đất nước.
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định của sự
phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Nhiều
nhà nghiên cứu cho thấy ít nhất một nửa mức tăng trưởng kinh tế toàn
cầu là nhờ những tiến bộ khoa học công nghệ đem lại thông qua việc
chúng góp phần tăng thêm hiệu quả đầu tư của nguồn vốn và năng suất
lao động xã hội cũng như tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới thỏa mãn nhu
cầu ngày càng cao của xã hội.
Khoa học công nghệ phát triển, chi phối đến mọi mặt của tất cả các
quốc gia trên thế giới, chi phối đến quan điểm, lối sống… của từng cá
nhân trong xã hội. Sự bùng nổ của khoa học công nghệ với tốc độ nhanh
chóng và trên nhiều lĩnh vực (nguyên liệu mới, năng lượng mới, tự động
hóa, điện tử tin học, sinh học, vũ trụ...) đã làm thay đổi về chất nền sản
xuất và đời sống xã hội. Nền văn minh nhân loại chuyển sang giai đoạn
mới, văn minh hậu công nghiệp với sự xuất hiện phổ biến các nền kinh tế
tri thức thay cho kinh tế tài nguyên truyền thống. Các quốc gia buộc phải
tích cực tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa trước sức ép do
sự phát triển của khoa học công nghệ tạo ra. Những mâu thuẫn trong
lòng các nước tư bản phát triển trở nên sâu sắc hơn trước sự phát triển
của khoa học công nghệ. Cuộc sống của con người được nâng cao hơn về
chất lượng. Tuy nhiên nảy sinh những vấn đề bất cập không dễ giải
quyết. Sự phát triển khoa học công nghệ tạo ra sự thay đổi hai chiều cho
tất cả các nước trên thế giới hiện nay.
- Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
Quốc tế hóa, toàn cầu hóa là một xu thế ngày càng rõ nét. Cả thế
giới là một thị trường, phân công lao động, hợp tác quốc tế rất phát triển.
Mỗi nước trở thành một bộ phận của thế giới mở. Xu hướng này đã xóa

127
đi tư tưởng biệt lập, khép kín của một số nước trước kia. Các quốc gia
phải tự nhận ra rằng muốn phát triển, không bị cô lập, bị bỏ rơi chỉ có
con đường tìm cách hòa nhập với thế giới, tham gia tích cực chủ động
vào "cuộc chơi" toàn cầu hóa, hội nhập thế giới.
Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa bị chủ nghĩa tư bản lợi dụng để áp
đặt giá trị phương Tây đối với toàn thế giới. Các nước đang phát triển,
kém phát triển đứng trước nguy cơ lớn bị "đồng hóa". Để tránh được
nguy cơ này, trong quá trình phát triển, các nước không ngừng tự khẳng
định mình theo hướng độc lập tự chủ về chính trị và kinh tế, giữ gìn và
phát huy bản sắc riêng của dân tộc.

2. Một số vấn đề biến đổi xã hội Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay
Việt Nam đã trải qua gần 30 năm theo con đường đổi mới toàn diện
đất nước do Đảng đề ra. Đất nước đang có sự thay đổi nhiều trên tất cả
các lĩnh vực:
- Kinh tế
Trước đổi mới Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng
về mặt kinh tế - xã hội. Đây là hậu quả của sự duy trì quá lâu cơ chế quản
lý kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp - một cơ chế được các nước
XHCN thời kỳ đó sử dụng. Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra đường lối đổi mới đất nước, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm. Việt Nam quyết định xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ, chọn lựa mô
hình cùng cơ chế quản lý kinh tế mới. Mô hình kinh tế tổng quát của Việt
Nam được xác định tại Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế mới với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp và nhiều
hình thức kinh doanh đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển. Nền kinh
tế này vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có sự thay đổi tích cực hơn
nhiều so với thời kỳ "bao cấp" trước đây. Chúng ta biết khai thác sức
mạnh nội lực của toàn Đảng, toàn dân, khai thác sức mạnh ngoại lực từ

128
bên ngoài, đặc biệt nắm bắt được xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế để tạo thành sức mạnh tổng lực của dân tộc. Đời sống vật chất và
tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể. Vị thế và uy tín của Việt
Nam được cải thiện bắt đầu từ sự phát triển kinh tế.
- Chính trị
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã xác định con đường
đi cho cách mạng Việt Nam là bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu toàn dân tộc Việt Nam hiện nay
vẫn kiên trì theo đuổi. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành, tư duy chính
trị về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng có
những điều chỉnh, bổ sung phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trong nước,
quốc tế và ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Đặc trưng về chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam xây dựng dần dần được
xác định. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã có sự nghiên cứu kết hợp
giữa lý luận, gắn liền với thực tiễn trong nước và những diễn biến phức tạp
của hoàn cảnh thế giới, tránh được khuynh hướng giáo điều, máy móc,
nóng vội thời kỳ trước đây.
Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam
được đổi mới. Đã có sự thay đổi trong phương thức hoạt động, lãnh đạo
của Đảng, đến quyết định đề ra đường lối xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay cho nhà nước chuyên chính vô sản trước
đó. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức được giao cho vai trò mới là
thực hiện giám sát và phản biện xã hội. Kết quả bước đầu chúng ta đã đạt
được một số thành tựu trong việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước và tạo cho người dân một môi
trường thực hiện đúng vai trò làm chủ đất nước.
Xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay nhằm đạt được mục
tiêu thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đang lựa chọn. Trong thời gian qua, nền chính trị
của Việt Nam đã duy trì được sự ổn định, tạo ra môi trường tốt cho công
cuộc phát triển nền kinh tế, xây dựng lực lượng sản xuất, đưa Việt Nam

129
từng bước trở thành một nước dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Văn hóa
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa những hệ giá trị văn hóa của Việt Nam truyền thống đang có sự
thay đổi theo hai chiều hướng phức tạp, đan xen nhau. Giá trị văn hóa
Việt Nam hiện nay đang có bước chuyển biến căn bản.
Theo chiều hướng tích cực
Các hệ giá trị cân bằng nhằm hướng tới trạng thái "yên bình" xã hội
một thời từng là lý tưởng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam được
thay thế dần bằng những quan niệm, những ý thức, hành vi khuyến khích
và phấn đấu cho nhịp sống sôi động bởi nó đang được coi là phù hợp với
xu hướng phát triển xã hội.
Vị thế và vai trò của con người trong xã hội thay đổi căn bản. Từ
chỗ lệ thuộc vào cơ chế cũ giờ đây con người trở thành chủ thể thực sự
trong các quan hệ kinh tế và mọi quá trình vận hành xã hội. Từ chỗ luôn
đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân bây giờ con người đã quan
tâm nhiều đến bản thân hơn, dung hòa lợi ích cá nhân và tập thể.
Chuẩn mực văn hóa thời phong kiến, thời bao cấp vốn xem nhẹ yếu
tố vật chất, đề cao yếu tố tinh thần đã dần được thay thế bằng việc ưu
tiên cho hoạt động vật chất và xem trọng yếu tố vật chất hơn. Khát khao
làm giàu cho cá nhân, cho gia đình, cho quê hương, đất nước được
khuyến khích, nâng cao. Chủ nghĩa bình quân thời bao cấp được thay thế
bằng sự khuyến khích cho tính vượt trội, khuyến khích sự phấn đấu thăng
tiến của mỗi cá nhân.
Các chuẩn mực văn hóa đạo đức đậm đà tình cảm nhân nghĩa cộng
đồng nay được bổ sung các yếu tố lý trí, tính chính xác và giá trị pháp lý.
Theo chiều hướng tiêu cực
Cùng với sự biến đổi, hình thành nhanh chóng những tư tưởng, ý
thức, hành vi theo chuẩn mực mới, tạo nhiều giá trị văn hóa tích cực thì
mặt trái của kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều quan niệm,

130
tư tưởng, hành vi, lối sống theo tiêu chí phi văn hóa, phản văn hóa. Nhiều
giá trị văn hóa truyền thống bị méo mó, bị vi phạm nghiêm trọng.
Đề cao quá yếu tố vật chất, coi nặng đồng tiền, lấy vật chất làm tiêu
chí, thước đo giá trị con người. Chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ phát triển. Cạnh
tranh gay gắt để tồn tại và phát triển dẫn đến con người trở nên lạnh lùng
trong các quan hệ xã hội.
Quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay luôn phải gắn liền, quan tâm đúng
mực việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nền
văn hóa chúng ta xây dựng phải tác động tích cực vào sự phát triển kinh
tế xã hội, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ lợi ích của dân tộc đồng
thời đảm bảo đích hướng tới là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Đối ngoại
Quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới có sự
biến chuyển mạnh mẽ. Trước đổi mới, do hoàn cảnh đặc biệt trong nước
và quốc tế, Việt Nam chỉ thiết lập quan hệ bang giao trong phạm vi hẹp
với các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, do hoàn cảnh thay
đổi, do nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ quốc
tế, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị xã hội, hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng
có lợi.
Việt Nam hợp tác đa phương, song phương với nhiều quốc gia, tổ
chức trên thế giới. Thời kỳ đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
ngoại giao rực rỡ. Uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao. Việt Nam tham gia vào nhiều tổ chức, được giao cho tổ
chức hội nghị quan trọng trong khu vực và trên thế giới, tổ chức nhiều sự
kiện quan trọng mang tầm cỡ quốc tế. Từ chỗ "muốn làm bạn" Việt Nam
giờ đây "sẵn sàng làm bạn" với các nước, trở thành đối tác tin cậy của
nhiều nước trên thế giới. Thành tựu trên mặt trận đối ngoại trở thành một
yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa Việt Nam phát triển
theo đúng nguyện vọng, mong muốn của toàn Đảng, toàn dân.

131
NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của sự biến đổi xã hội.


2. Những quan điểm về biến đổi xã hội.
3. Những nhân tố và điều kiện của sự biến đổi xã hội.
4. Một số vấn đề biến đổi xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.

132
Chương 6
MỘT SỐ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
CỦA XÃ HỘI HỌC CHUYÊN BIỆT

Xã hội càng phát triển, các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học càng
được mở rộng nhằm gắn lý luận của xã hội học đại cương vào việc
nghiên cứu, lý giải các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội như: xã hội
học gia đình, xã hội học nông thôn, xã hội học đô thị, xã hội học giáo
dục, xã hội học tội phạm, xã hội học quản lý, xã hội học về chính sách xã
hội... Phạm vi nghiên cứu của xã hội học rất rộng lớn gắn với mọi lĩnh
vực trong đời sống xã hội. Trong chương này chúng ta tập trung vào một
số nội dung nghiên cứu có quan hệ gần, có ý nghĩa lớn với trường đào
tạo sinh viên chuyên ngành kinh tế, gồm: xã hội học giáo dục, xã hội học
nông thôn, xã hội học đô thị và xã hội học quản lý.

I. XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC


1. Khái niệm xã hội học giáo dục
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích
khơi gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người
dạy và người học theo hướng tích cực. Theo khái niệm trên, giáo dục góp
phần hoàn thiện nhân cách cả thầy và trò bằng những tác động có ý thức
từ bên ngoài, đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài
người hiện nay. Thể hiện ở những điểm sau:
Bản chất của giáo dục thể hiện trước hết là quá trình người thầy khơi
gợi giúp người học phát hiện, đánh thức các tiềm năng sẵn có trong mỗi
con người, sau đó mới đến quá trình làm thay đổi (hoặc biến đổi) các
phẩm chất đó. Giáo dục, tự thân nó, có tác động đến cả hai đối tượng:
người dạy và người học. Chính trong quá trình lao động nghiêm túc,
người thầy còn "học hỏi" được rất nhiều điều từ người học.

133
Theo G. Endruweit và G.Trommsdoff1 xã hội học giáo dục được
dùng song song với các khái niệm như đào tạo, xã hội học sư phạm hay
nghiên cứu xã hội học và hướng vào sự hình thành các mục tiêu giáo dục
xã hội và sự truyền bá nó thông qua gia đình, nhà trường, bạn bè hay các
nhóm xã hội, nơi làm việc hay các phương tiện thông tin và các nhân tố
xã hội hóa khác. Một ngành xã hội học giáo dục được hiểu như vậy sẽ
bao gồm cả sự thay đổi lịch sử của các giá trị, chuẩn mực và lý tưởng xã
hội. Theo nghĩa rộng hơn, xã hội học giáo dục chú ý tới cả những ảnh
hưởng của quá trình xã hội hóa lên bất bình đẳng xã hội.
Theo quan niệm của xã hội học, xã hội học giáo dục là một chuyên
ngành trong xã hội học, có mục đích tìm hiểu ảnh hưởng và những mối
quan hệ qua lại mang tính quy luật giữa hoạt động giáo dục với những
lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị,
văn hoá, khoa học... Tuy nhiên, với đặc thù riêng của mình, xã hội học
giáo dục hướng nhiệm vụ trọng tâm vào việc nghiên cứu mối quan hệ
qua lại giữa con người với con người trong phạm vi hoạt động giáo dục,
theo nghĩa là quá trình truyền đạt và lĩnh hội giá trị xã hội đã được tích tụ
trong tiến trình lịch sử chứa đựng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
thể hiện trong các giá trị văn hoá của loài người với các dạng thức (loại
hình) và bộ phận khác nhau của nền văn hoá đó.
Giáo dục với tư cách là một hoạt động xã hội đặc thù với ba chức
năng thống nhất: chức năng lý luận, chức năng xây dựng - cải tạo, chức
năng dự báo, trong đó, chức năng xây dựng - cải tạo được thể hiện như
một chức năng chính yếu của hoạt động giáo dục, còn các chức năng
khác là những chức năng kèm theo và là sự chuyển hoá từ hoạt động thực
tiễn của giáo dục sang hoạt động tư duy lý luận.
Hoạt động giáo dục thực hiện chức năng xây dựng - cải tạo thông
qua cơ chế xã hội đặc biệt, đó là quá trình xã hội hình thành và phát triển
cá nhân con người (quá trình xã hội hoá cá nhân). Quá trình này diễn ra
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như cơ sở vật chất - kỹ thuật

1
G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, (Ngụy Hữu Tâm
và Nguyễn Hoài Bão dịch)

134
- công nghệ, các mối quan hệ xã hội, sự tác động của hoàn cảnh môi
trường tự nhiên. Để "tái sản xuất" những phẩm chất và năng lực của con
người nhằm tạo nên các nguồn lực đáp ứng sự phát triển ngày càng cao
của tiến bộ xã hội không một giai đoạn nào của sự phát triển lịch sử xã
hội mà không dựa vào giáo dục, không thực hiện chức năng xây dựng -
cải tạo của mình nhờ hoạt động giáo dục.
Theo UNESCO trong xã hội hiện đại, những vấn đề trọng yếu mà
giáo dục phải tham gia giải quyết, đó là:
- Phải thực hiện ba chức năng then chốt phù hợp với đặc thù của
hoạt động giáo dục: chức năng kinh tế - sản xuất; chức năng chính trị - xã
hội; chức năng tư tưởng và văn hoá. Những chức năng này, ngay từ
những năm giữa thế kỷ XX, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III
(9/1960) đã ghi rõ: "Giáo dục là công cụ của chuyên chính vô sản là một
bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhà trường là
pháo đài của chủ nghĩa xã hội...";
- Hoạt động giáo dục được sản sinh từ những điều kiện sản xuất xã
hội, có sự phù hợp ở mức độ đòi hỏi của xã hội đó. Giáo dục phải ngày
càng có khả năng thích ứng với những chiều hướng mới của sự phát triển
xã hội;
- Giáo dục phải được phát triển cân đối và đa dạng;
- Giáo dục phải truyền bá các giá trị tạo nên sự hội nhập, sự chung
sống, sự hiểu biết lẫn nhau giữa con người và con người. Hoạt động giáo
dục chỉ là một bộ phận hợp thành của quá trình xã hội, song nó được coi
là bộ phận quan trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc tạo nên con người
xã hội, bởi đặc trưng tự giác có tổ chức, kế hoạch và mục đích trong quá
trình vận động của hoạt động giáo dục;
- Hệ thống giáo dục là một chỉnh thể thống nhất của những tiểu hệ
thống bao gồm từ giáo dục mầm non; giáo dục phổ thông; giáo dục
chuyên nghiệp - đại học; giáo dục sau đại học; giáo dục chính quy, giáo
dục vừa làm vừa học; giáo dục bán công và dân lập; giáo dục từ xa; giáo
dục liên thông...
Cơ cấu của hệ thống giáo dục trong sự tồn tại của mình là sự liên kết
hữu cơ, có hệ thống và đồng bộ các cấp học, bậc học, từ thấp đến cao để

135
hình thành những nhân cách ở các cấp độ. Quá trình đào tạo bao gồm
nhiều giai đoạn có mục tiêu và kế hoạch cụ thể ứng với một trình độ nhất
định về kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành, những phẩm chất và hiểu
biết nghề nghiệp. Mỗi giai đoạn đào tạo, giáo dục vừa chuẩn bị cho các
cá nhân có đủ điều kiện thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội, vừa giúp
họ bằng sự chủ động sáng tạo của chính họ có thể cải biến thực tại phát
triển hơn những gì mà thế hệ trước đã truyền đạt lại cho họ. Để làm được
điều đó, bản thân hoạt động giáo dục không thể thoát ly khỏi những tiền
đề của mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, những khả năng cụ thể của đất
nước, những quan điểm và mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - văn
hoá - xã hội và những đòi hỏi được thường xuyên nâng cao dân trí của
toàn dân. Chỉ dựa trên những cơ sở phát triển của các thiết chế khác nhau
trong cấu trúc xã hội, giáo dục mới xác định được cho mình phương thức
thực hiện các quy luật khách quan tồn tại trong bản thân hoạt động giáo
dục giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, quản lý giáo dục...

2. Các hướng nghiên cứu chính của xã hội học giáo dục
Xã hội học giáo dục nghiên cứu các vấn đề giáo dục trên bình diện tổng
thể của các mối quan hệ xã hội, ở cấp độ toàn xã hội, có liên quan tới các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Còn
việc nghiên cứu sự vận động bên trong của bản thân hoạt động giáo dục là
phần việc riêng của giáo dục học. Nghiên cứu xã hội học giáo dục thông
thường được triển khai theo các hướng chính:
a. Nghiên cứu xã hội học giáo dục với tư cách là một thiết chế
xã hội
Thiết chế giáo dục ra đời, tồn tại và phát triển nhằm thực hiện chức
năng truyền đạt những hệ thống tri thức, kinh nghiệm, những hệ thống
giá trị đã được tích lũy trong quá trình phát triển của lịch sử loài người
giúp cá nhân chuẩn bị các yếu tố thể chất, tinh thần cần thiết cho hoạt
động nghề nghiệp và làm quen với các chuẩn mực giá trị xã hội mà mình
đang sống. Đồng thời, cùng với các thiết chế xã hội khác, xã hội học giáo
dục còn tham gia vào quá trình kiểm soát và điều chỉnh hành vi cá nhân
cũng như các quan hệ xã hội. Như vậy, thiết chế giáo dục có quan hệ chặt
chẽ với các thiết chế xã hội khác như gia đình, kinh tế, chính trị, văn hóa,

136
luật pháp... Mặt khác, thiết chế giáo dục cũng có tính độc lập tương đối.
Vì vậy, trong nghiên cứu xã hội học giáo dục, người ta xét nó trong mối
quan hệ chung, riêng giữa nó với các thiết chế khác1.
b. Nghiên cứu cơ chế tự phát và tự giác trong hoạt động giáo dục
Cơ chế tự phát trong hoạt động giáo dục: Kinh nghiệm được truyền
đạt và lĩnh hội một cách ngẫu nhiên (người cần truyền đạt và người cần
lĩnh hội). Hoạt động giáo dục theo dạng này thường xuất hiện một cách
tự nhiên mà không tuân thủ theo một dự kiến đã được hoạch định. Nó
giải quyết những nhu cầu trước mắt của mỗi cá nhân và có thể cho cả
cộng đồng. Người cổ xưa đi săn thú kèm theo trẻ em, việc truyền thụ
kinh nghiệm của người lớn cho trẻ em với mục đích giúp trẻ có được các
tri thức và những kỹ năng, thao tác cần thiết để săn bắt được con thú và
tránh được những nguy hiểm. Những đứa trẻ tiếp thu những kinh nghiệm
săn bắt do người lớn dạy bảo để tồn tại, góp phần tạo ra của cải cho cộng
đồng và qua đó mà tích lũy và dần hình thành những kinh nghiệm sống
cho bản thân.
Hoạt động giáo dục theo cơ chế tự phát có một số đặc trưng:
- Mục đích hoạt động mang tính thực dụng, hướng tới một kết quả
cụ thể cho một công việc, một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ.
- Cách thức hoạt động chủ yếu thông qua việc truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm trực tiếp, đơn lẻ, thiếu tính kế hoạch và hệ thống.
- Kết quả do hoạt động giáo dục theo cơ chế tự phát mang lại hạn
chế cả về số lượng và chất lượng, để đạt được kết quả đó, con người phải
tiêu tốn một lượng thời gian khá lớn.
- Đối tượng giáo dục khi lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ
xảo chủ yếu đi theo con đường bắt chước, học thuộc, điều đó tạo ra
những con người thụ động, bảo thủ, kém tính sáng tạo.
- Hoạt động giáo dục thực hiện theo con đường tự phát bắt nguồn từ
phương thức sản xuất lạc hậu của những xã hội trước đây (xã hội cộng
sản nguyên thuỷ, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến). Một nền

1
Phan Trọng Ngọ (1997), “Xã hội học đại cương”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tr.125

137
sản xuất chủ yếu dựa trên sức lực của cơ bắp, lực lượng sản xuất giản
đơn, sản phẩm tạo ra theo con đường đơn chiếc, khối lượng tri thức khoa
học của nhân loại gia tăng thêm chưa nhiều, hàm lượng tri thức chứa
đựng trong mỗi sản phẩm là không đáng kể. Mỗi cá nhân, cộng đồng tồn
tại thông qua lao động bằng con đường trực tiếp thâm nhập vào đối
tượng, dưới sự chỉ dẫn của thế hệ đi trước và những cá nhân khác có kinh
nghiệm hơn.
Cơ chế tự giác trong hoạt động giáo dục: Ngày nay với sự hiện diện
của nền kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ đã tạo
ra hệ thống sản xuất xã hội có kỹ thuật và kỹ năng rất phức tạp, đa dạng
đã làm nảy sinh nhu cầu chuẩn bị cho toàn bộ thế hệ trẻ khả năng tham
gia vào sự phát triển đó của sản xuất cũng như giúp họ thích ứng nhanh
chóng với sự biến đổi không ngừng của đời sống xã hội. Để làm được
việc này, hoạt động giáo dục chỉ có thể đi theo con đường tự giác, thông
qua việc thiết lập một hệ thống giáo dục, đa cấp, đa ngành với những
mục đích, nội dung, phương pháp và hệ thống tổ chức đào tạo thích hợp
với từng loại đối tượng, từng khối lượng thời gian. Giáo dục thực thi
chức năng này trong xã hội hiện đại được thừa nhận là tổ chức chủ yếu
của quá trình xã hội hoá cá nhân. Giáo dục không chỉ cung cấp cho thế
hệ trẻ hệ thống tri thức, kỹ năng cần thiết của các loại hình hoạt động
hiện có trong xã hội với tư cách là bộ máy trọng yếu nhất trong đào tạo
nguồn nhân lực, giáo dục còn giúp cho thế hệ trẻ có được một nhân cách
hoàn chỉnh về tình cảm, đạo đức về sự hiểu biết các chuẩn mực, giá trị xã
hội để họ có thể sống hoà nhập với cộng đồng.
c. Khả năng đáp ứng của giáo dục đối với xã hội
Tuyển chọn, phân loại và tiếp nhận trẻ em vào các loại hình đào tạo và
cùng với nó là xác định mục đích, nội dung, phương pháp và quá trình xã
hội hóa tương ứng.
Chuyển giao nguồn lực cho xã hội (phân luồng học sinh từ phổ
thông và đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề).
Đáp ứng hai đòi hỏi trên của xã hội, giáo dục đã thực hiện chức năng
công khai của xã hội học (bao hàm trong nó các vấn đề như: ai được đi học?

138
học cái gì? học như thế nào? sự phù hợp giữa giáo dục của nhà trường
với đáp ứng nhu cầu của xã hội...).
Giáo dục thực thi quyền lực của các tầng lớp thống trị xã hội thông
qua các chức năng công khai (bao hàm trong nó các vấn đề như: giáo dục
phục vụ quyền lợi của ai? giáo dục góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội như thế nào?).
Quá trình tìm kiếm các câu trả lời trên đã sản sinh ra các lý thuyết
khác nhau (lý thuyết chức năng và lý thuyết xung đột xã hội trong giáo dục).

d. Nghiên cứu giáo dục và sự phát triển con người xã hội


Ở cấp độ tổng quát, xã hội học giáo dục hướng vào việc nghiên cứu,
phát hiện các yêu cầu giáo dục nhằm hình thành bộ mặt văn hoá - đạo
đức của con người, chuẩn bị cho con người đủ kiến thức - thái độ - kỹ
năng để hội nhập nền văn hoá của nước mình và hoà nhập với đời sống
cộng đồng, đời sống quốc tế.
Liên quan đến sự phát triển con người xã hội, xã hội học quan tâm
đến các vấn đề như: Sự hình thành vị thế xã hội của con người trong xã
hội; sự di chuyển, di động trong đời sống xã hội; vai trò, tác dụng của giáo
dục trong việc phân tầng, phân lớp xã hội; vai trò của trí thức - một tầng lớp
xã hội đặc biệt; hình thành và phát triển nhân cách (bao gồm trong đó
những phẩm chất như trình độ văn hoá - đạo đức, kỹ thuật, khả năng
thích ứng và hoà nhập). Ngoài ra, xã hội học giáo dục còn nghiên cứu
mối quan hệ giữa giáo dục với các định chế xã hội; những cơ hội phổ cập
giáo dục và sự hội nhập giữa các nền văn hoá - sự thích nghi văn hoá qua
đào tạo, giáo dục.

e. Nghiên cứu bất bình đẳng trong giáo dục


Bất bình đẳng giáo dục được thể hiện trong bất bình đẳng giai cấp;
đẳng cấp kinh tế và xã hội; thành thị và nông thôn; dân tộc, chủng tộc,
sắc tộc, giới tính; nghề nghiệp và đãi ngộ; truyền thống văn hoá gia đình
và cộng đồng... Trong đó, bất bình đẳng giai cấp là cốt lõi chi phối các
bất bình đẳng khác nhau. Khi nghiên cứu bất bình đẳng giáo dục, xã hội
học không chỉ đưa ra các hiện tượng xã hội này, tác động của giáo dục
trong việc lưu truyền và củng cố chúng mà cần thiết phải đề xuất được

139
các giải pháp hạn chế và khắc phục chúng, góp phần vào việc hoạch định
các chính sách xã hội về giáo dục cho nhà nước.
f. Nghiên cứu các chính sách xã hội về giáo dục và tác động của
các chính sách đó trong thực tiễn
Về bản chất, chính sách giáo dục thuộc phạm trù chính sách xã hội.
Trong quản lý xã hội, không thể không quán triệt các tư tưởng chiến lược
về giáo dục trong đường lối chung, làm cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách kinh tế - xã hội, trong đó có giáo dục.
Trong xã hội học giáo dục luôn có các vấn đề so sánh, lựa chọn các
chính sách giáo dục ở các nước thuộc hệ thống xã hội khác nhau. Nhìn
chung, các nước phát triển đều xem việc đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ
bản và lâu dài (có tính chiến lược) để tạo nên sức bật cho sự phát triển
của xã hội (tạo nguồn lực khoa học, kỹ thuật). Ở các nước này, giáo dục
đều được xếp ở hàng quốc sách, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự
phát triển tạo ra tiền đề và động lực của mọi sự phát triển - kinh tế, chính
trị, văn hoá và tiến bộ xã hội. Đầu tư cho giáo dục vừa là đầu tư cho phát
triển (kinh tế - xã hội) vừa là đầu tư dạng đặc biệt, nhưng về căn bản vẫn
là đầu tư để sản xuất mở rộng (cho khoa học, công nghệ, cho chất xám).
Trong sự phát triển chung, giáo dục với vai trò đặc biệt của nó
luôn phải đi trước một bước, phải đón đầu các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội nhằm chuẩn bị sẵn nhân lực - cán bộ khoa học công
nghệ, cán bộ quản lý và người lao động... Giáo dục trong xã hội hiện
nay, phải đào tạo được nguồn lao động đủ về số lượng, đảm bảo về chất
lượng, có vai trò hết sức quan trọng vì con người được xác định là nhân
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Trong xu thế hội nhập của đời sống quốc tế, xã hội học giáo dục phải
tiếp cận với các xu thế, các huynh hướng vĩ mô của thế giới về giáo dục.

II. XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN


1. Khái niệm xã hội học nông thôn
Nói đến nông thôn, chúng ta không chỉ nói đến sản xuất nông nghiệp
với những điều kiện tự nhiên của nó mà còn nói đến dân cư, đến các
quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội hợp thành bộ mặt xã hội của nó,

140
khiến cho nó khác với những điểm cư dân không phải nông thôn. Nói
đến nông thôn, còn nói đến điều kiện sinh hoạt riêng biệt, những phong
tục tập quán của nó và nói rộng ra cả tâm lý xã hội nông thôn nữa. Như
vậy, nông thôn có đầy đủ đặc trưng của một khái niệm xã hội học, dùng
để chỉ một nội dung xã hội học nhất định đó là đời sống xã hội của một
tập hợp cư dân nhất định với những cơ sở sinh thái tự nhiên, kinh tế và
văn hóa riêng.
Xét theo cơ cấu xã hội - lãnh thổ, cộng đồng xã hội về cơ bản được
chia thành cộng đồng xã hội đô thị và cộng đồng xã hội nông thôn. Giữa
hai cộng đồng xã hội này có sự khác biệt về điều kiện sống, trình độ sản
xuất, mật độ dân cư, các đặc trưng văn hóa và lối sống, thói quen sinh
hoạt và giao tiếp... Cộng đồng xã hội đô thị được nghiên cứu bởi xã hội
học đô thị còn cộng đồng xã hội nông thôn được nghiên cứu bởi xã hội
học nông thôn.
Khách thể nghiên cứu của xã hội học nông thôn là toàn bộ xã hội
nông thôn. Tuy nhiên, xã hội nông thôn cũng là khách thể nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Xã hội học nông thôn
không nghiên cứu nông thôn nói chung mà chỉ nghiên cứu nguồn gốc,
những đặc trưng cơ bản làm nên bản chất của xã hội học nông thôn;
nghiên cứu các quy luật chung của sự hoạt động và phát triển của xã hội
học nông thôn. Bên cạnh đó, xã hội học nông thôn cũng nghiên cứu các
sự kiện, hiện tượng xã hội nông thôn, các vấn đề xã hội và các quá trình
xã hội đang diễn ra trong xã hội nông thôn.
Nông thôn là một hình thức cư trú mang tính không gian - lãnh thổ -
xã hội của con người, nơi sinh sống của những người chủ yếu làm nghề
nông và những nghề khác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Mật độ dân cư ở nông thôn thường thấp và
kết cấu cơ sở hạ tầng kém phát triển. Xã hội nông thôn gắn với sản xuất
nông nghiệp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên (thời tiết, khí hậu,
thổ nhưỡng, môi trường...) nên đời sống kinh tế khó ổn định, vì vậy cũng
là cho xã hội nông thôn có nhiều biến động, nhất là nông thôn ngày nay.
Tất nhiên, những đặc điểm trên còn chịu sự chi phối bởi các điều kiện
lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi khu vực và mỗi quốc gia.

141
Xã hội nông thôn là một cộng đồng xã hội có tổ chức gồm những người
cùng sống với nhau ở nông thôn, hợp tác với nhau thành những đơn vị xã
hội (gia đình, dòng họ, làng xóm,...) để thỏa mãn các nhu cầu xã hội cơ bản,
cùng chia sẻ một nền văn hóa chung và hoạt động như một đơn vị xã hội có
tính độc lập tương đối.
Từ một số khái niệm có liên quan trên, ta có khái niệm: xã hội học
nông thôn là một lĩnh vực chuyên ngành xã hội học, nghiên cứu nguồn
gốc, bản chất, các quy luật chung của sự tồn tại, hoạt động và phát triển
của xã hội nông thôn, các vấn đề xã hội, các hiện tượng xã hội và các
quá trình xã hội diễn ra trong xã hội nông thôn với tư cách là một hệ
thống mang tính chỉnh thể.

2. Một số nội dung nghiên cứu cơ bản của xã hội học nông thôn
a. Cơ cấu xã hội nông thôn
- Cơ cấu xã hội giai cấp: Trong xã hội nông thôn, sự phân hóa giai
cấp gắn liền với quyền sở hữu và quy mô sở hữu đất đai với cách thức sử
dụng quyền sở hữu đó. Tương ứng với từng hình thái kinh tế - xã hội và
từng hình thức sở hữu ruộng đất mà trong xã hội nông thôn có những giai
cấp xã hội khác nhau. Phổ biến là giai cấp chiếm nhiều ruộng đất như địa
chủ, quý tộc và giai cấp có ít hoặc không có ruộng đất như nông nô và
nông dân. Giai cấp địa chủ, quý tộc trong chế độ chiếm hữu nô lệ và thời
kỳ đầu chế độ phong kiến còn có vai trò tích cực, tiến bộ trong việc thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, giai cấp này
dần mất vị trí và vai trò của nó. Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo
nhất ở nông thôn nên họ là lực lượng cơ bản tạo dựng đời sống vật chất
và tinh thần ở nông thôn. Ở nông thôn có thể có sự xuất hiện, phát triển
hoặc mất đi của một giai cấp nào đó, nhưng riêng giai cấp nông dân thì
không thể mất được.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp ở nông thôn đòi hỏi phải đề
cập đến các thành phần, tầng lớp xã hội khác đang tồn tại khách quan
trong xã hội nông thôn và ít nhiều ảnh hưởng đến giai cấp nông dân, nhất
là trong điều kiện nông thôn phát triển như hiện nay. Đó là đội ngũ thợ
thủ công, trí thức, doanh nhân,…

142
- Phân tầng xã hội ở nông thôn: Phân tầng là một hiện tượng kinh
tế - xã hội mang tính khách quan. Sự phân tầng xã hội ở nông thôn về
thực chất là phân tầng về thu nhập và mức sống mà biểu hiện trực tiếp
của nó là sự phân hóa giàu nghèo. Đây vừa là một hiện tượng kinh tế,
vừa là một vấn đề xã hội lớn và nan giải. Số lượng nghèo đói, khoảng
cách thu nhập giữa những người giàu và người nghèo, sự chênh lệch về
mức sống và sinh hoạt là những chỉ báo nói lên sự phát triển, tiến bộ của
một xã hội, nói lên sự quan tâm đến con người như thế nào của các quốc
gia. Đối với hầu hết các nước trên thế giới, sản xuất nông nghiệp còn
chiếm tỷ trọng lớn và phải đương đầu với nạn nghèo đói - biểu hiện của
phân tầng xã hội ở nông thôn.
- Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp ở nông thôn: Đa số cư dân nông thôn
tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp nhưng trong xã hội nông
thôn không phải chỉ có lao động nông nghiệp, mà còn có các lực lượng
lao động khác, thường xuyên chiếm tỷ lệ nhất định để phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống người dân nông thôn. Tương quan
giữa hai lực lượng lao động này phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã
hội khác nhau. Trong các xã hội chưa phát triển, nông nghiệp với trồng
trọt và chăn nuôi là ngành kinh tế chính, các ngành nghề khác chỉ được
coi là ngành nghề phụ nhằm phục vụ cho nghề nông, lực lượng lao động
làm các nghề phụ cũng chỉ là lao động phụ, không được coi trọng bằng
nghề nông. Trong các xã hội có nền kinh tế phát triển, lao động nông
nghiệp vẫn được coi trọng, nhưng vị trí của các ngành nghề khác mang
tính phi nông nghiệp cũng được đề cao, được coi trọng và có xu hướng
chiếm tỷ lệ ngày càng cao hơn. Bởi vì, chỉ bằng lao động nông nghiệp và
sản xuất nông nghiệp thì đời sống nông thôn khó có thể phát triển hài
hòa, không thể thỏa mãn được nhu cầu đa dạng của người dân.
Cơ cấu lao động - nghề nghiệp ở nông thôn không cố định mà
thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - lao động nghề
nghiệp ở nông thôn thường diễn ra theo hai xu hướng: một là, sức ép từ
việc di chuyển lao động ồ ạt từ nông thôn ra thành thị; hai là, sự phát
triển quá mạnh của công nghiệp dẫn tới xuất hiện nguy cơ thiếu lao động
ở khu vực nông nghiệp và vấn đề đặt ra là phải thu hút lao động ở lại làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp.

143
b. Các thiết chế chính trị - xã hội ở nông thôn
Ở khu vực nông thôn Việt Nam, tùy theo từng vùng miền mà các
phân cấp hành chính được chia theo các cách khác nhau, từ đó thiết chế
chính trị - xã hội được chia theo các cách thức khác nhau. Nếu miền núi,
đơn vị nhỏ nhất là bản, miền Nam là ấp, đồng bằng Bắc Bộ là làng. Mặc
dù đặc thù mỗi vùng, miền có những điểm khác nhau nhưng nói đến thiết
chế chính trị - xã hội ở nông thôn Việt Nam, không thể thiếu đó là làng.
- Làng: Nói đến nông thôn Việt Nam là nói đến làng - một hình thức
cộng đồng cư trú cơ bản của người Việt, có nguồn gốc từ xa xưa trong
lịch sử dựng nước và giữ nước. Làng vừa là một cộng đồng kinh tế, vừa
là một cộng đồng văn hóa (trước 1945 là một đơn vị hành chính cơ sở).
Người dân của làng thường là những người có họ hàng với nhau (một
hoặc nhiều họ), mỗi họ thường có những tổ tiên đầu tiên đến cư trú, khai
khẩn, góp công xây dựng làng. Sau đó có những người dân từ nơi khác
đến cư trú và trở thành hoặc dân chính thức, hoặc dân ngụ cư. Tùy theo
địa bàn lớn hay nhỏ, số dân nhiều hay ít mà các làng có quy mô khác
nhau, có làng chỉ khoảng vài chục hộ, có làng tới hàng trăm hộ. Là một
đơn vị dân cư hoàn chỉnh, có các chức năng phong phú xoay quanh nhu
cầu đa dạng của người dân hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu,
nên các làng nông thôn có nhiều điểm tương đồng về cơ cấu tổ chức, về
các hoạt động kinh tế - xã hội, về cách thức giao tiếp xã hội, về phong
tục tập quán, lễ hội hoặc lệ làng. Làng Việt Nam là chỗ dựa vững chắc về
đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân và những người cư trú
ở nông thôn. Những ai được sinh ra và lớn lên ở làng, dù có đi đâu hay
lập nghiệp ở xa vẫn thường nhớ về làng quê, điều đó gần như ăn sâu vào
tiềm thức của mỗi người. Làng là nơi thừa nhận địa vị, danh vọng và
thành công của mỗi người, là một ý niệm sâu sắc, thiêng liêng, là tượng
trưng của quê cha đất tổ.
Từ lâu, làng đã là nơi lưu truyền ngôn ngữ và văn hóa dân gian - nền
tảng của ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Một số làng là trung tâm văn hóa của
cả một vùng, nhất là các làng có di tích lịch sử quan trọng, có lễ hội lớn, có
đình chùa tiêu biểu.
Ngày nay, việc phục hồi và phát triển các làng nghề thủ công truyền
thống, giáo dục cội nguồn lịch sử dân tộc, đề cao giá trị tình làng nghĩa xóm,

144
xây dựng làng văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đang là
những vấn đề rất quan trọng cần được quan tâm nhiều hơn nữa của Đảng
và Nhà nước.
- Gia đình và dòng họ ở nông thôn: Gia đình và dòng họ đóng vai trò
quan trọng trong cuộc sống của con người ở nông thôn. Khi còn nhỏ, mỗi
người được gia đình, họ hàng chăm sóc, nuôi dạy cho đến lúc trưởng
thành; khi đã trưởng thành lại tạo cho họ những điều kiện nhất định để tự
lập, xây dựng cuộc sống riêng. Là thành viên của gia đình và dòng họ, mỗi
người đều phải tuân theo các quy ước, quy định vừa có tính khách quan,
vừa có tính chủ quan của thiết chế xã hội này. Đó là những quy định về
thứ bậc trong dòng họ, cách xưng hô theo huyết thống, những quy ước về
sinh hoạt dòng họ như lễ tế họ, nhà thờ họ, giỗ chạp... Những quy ước, quy
định đó vừa là những khuôn mẫu hành vi, vừa là những giá trị truyền
thống để định hướng cho con người tồn tại và phát triển.
- Thiết chế chính trị: Thiết chế chính trị ở nông thôn có vị trí quan
trọng và bao trùm đối với toàn bộ đời sống xã hội nông thôn là thiết chế
nhà nước, thông qua bộ máy chính quyền cơ sở được điều hành bằng
pháp luật. Sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật là nhằm khắc phục
tính thiển cận, cục bộ trong quá trình phát triển sản xuất, xây dựng làng
xã trên nhiều lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Trong quá trình quản lý
xã hội nông thôn, nói chung, người ta đều ghi nhận làng không phải là do
pháp luật của Nhà nước hay tổ chức quy định. Ngược lại trong quá trình
phát triển, pháp luật còn thừa nhận làng có lệ riêng của mình, miễn là lệ
làng không trái với nguyên tắc, quy định của pháp luật. Chính vì thế, sự
quản lý của Nhà nước bằng pháp luật và lệ làng là những yếu tố cơ bản
tác động trực tiếp tới nông thôn và đời sống của người dân nông thôn.
Vấn đề là ở chỗ nhìn nhận như thế nào cho đúng vị trí, vai trò và sự tác
động của mỗi yếu tố. Có quan điểm đề cao tính tự quản, tính tổ chức chặt
chẽ nhiều khi tới mức khép kín của làng, coi sức mạnh của tính tự quản
làng xã còn mạnh hơn cả sự quản lý, điều hành bằng pháp luật của Nhà
nước (phép vua thua lệ làng) là quan điểm sai lệch. Vì thế, cần kết hợp
hài hòa cả hai hình thức quản lý này trong công cuộc xây dựng xã hội
nông thôn mới và hiện đại.

145
Ngoài thiết chế nhà nước, thiết chế làng xã, còn có các thiết chế như:
gia đình, dòng họ, phường hội, thôn xóm... cũng có vai trò đáng kể đối
với xã hội và con người nông thôn.

c. Văn hóa nông thôn


Xã hội học nông thôn nghiên cứu văn hóa nông thôn như một hiện
tượng lịch sử xã hội đặc biệt, văn hóa của một khu vực lãnh thổ, được
nảy sinh trên cơ sở cùng chung một lãnh thổ, định hướng chính trị, pháp
luật, cơ sở kinh tế và tâm lý xã hội trải qua những giai đoạn biến đổi và
phát triển khác nhau. Những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong đời
sống văn hóa nông thôn là các đặc điểm nghề nghiệp, đặc điểm về hình
thức cư trú, các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người dân nông
thôn. Do vậy, văn hóa nông thôn mang tính ổn định tương đối và chi phối
hành vi ứng xử của con người. Văn hóa nông thôn thường được xem xét
dưới hai khía cạnh: cấu trúc vật chất và khía cạnh tinh thần.
- Cấu trúc vật chất của văn hóa nông thôn: Hầu như các làng ở nông
thôn Việt Nam đều có đình, chùa, miếu... là những giá trị văn hóa vật
chất giúp con người nông thôn thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tinh thần của
mình. Ở đó, họ thờ cúng tổ tiên là những vị anh hùng có công với dân với
nước, là người có công sáng lập ra làng; được sinh hoạt trong những
phạm vi xã hội nhất định như đình dùng để họp dân, chùa để lễ bái, miếu
để thờ cúng thổ thần... Bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu tinh thần, một số
cấu trúc vật chất còn định hướng cho phép giao tiếp, lối ứng xử của con
người, nhắc nhở họ nhớ về quá khứ, cội nguồn, tổ tiên. Cây đa, giếng
nước, mái đình... là những hình ảnh quen thuộc, gắn bó mật thiết với làng
quê Việt Nam, tạo nên môi trường sinh thái hài hòa, phù hợp với điều
kiện sản xuất và trình độ văn minh nông thôn.
- Các giá trị tinh thần của văn hóa nông thôn: Các giá trị tinh thần
của văn hóa nông thôn thể hiện trong văn hóa dân gian truyền thống,
mang tính chất truyền miệng và thường được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Các công việc nhà nông tưởng chừng như đơn giản chỉ
là cày cấy, gieo trồng, tát nước đêm trăng, thu hoạch mùa màng, làm
nghề thủ công... nhưng chúng lại chính là nguồn gốc, là cảm hứng để

146
nhân dân sáng tạo nên những câu tục ngữ, những bài ca dao, làn điệu dân
ca, chèo, câu hò, bài vè, hát đối đáp... có sức quyến rũ, truyền cảm sâu
lắng dễ nhớ, dễ thuộc và dễ đi vào lòng người. Mỗi câu tục ngữ, bài ca
dao, làn điệu dân ca... đều chứa đựng một cách sâu sắc những bài học về
kinh nghiệm sản xuất, canh tác, bài học về truyền thống đạo lý, về phép
đối nhân xử thế của con người, về những điều hay lẽ phải, việc nên làm,
điều nên tránh... từ đó đúc kết thành những giá trị văn hóa tinh thần.

d. Lối sống nông thôn


- Các yếu tố tác động đến lối sống nông thôn
Về lao động nghề nông: Hầu hết người dân nông thôn đều cần cù,
chăm chỉ, chịu khó trong lao động, thể hiện sự thích nghi cao với các
điều kiện lao động và sinh hoạt. Nghề nông vốn vất vả, mang tính thủ
công, phương tiện lao động thô sơ và phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Đặc
thù của sản xuất nông nghiệp là phải chống chọi với thiên tai nên đòi hỏi
sự hợp tác rộng lớn hơn ngoài phạm vi gia đình, dòng họ vì thế lối ứng
xử vẫn coi trọng tính tập thể lên trên cá nhân.
Về điều kiện cư trú: Điều kiện cư trú ảnh hưởng đến mật độ dân số,
lối sống và cách sinh hoạt. Chẳng hạn, đồng bằng khác miền núi, đồng
bằng nhưng lại gần đô thị khác với đồng bằng cách xa đô thị...
Về việc sử dụng thời gian nhàn rỗi: Do có thời gian nhàn rỗi (thời
gian chờ thu hoạch) nên người dân nông thôn lại dành cho hội hè, vui
chơi. Hiện nay, thời gian này cũng khiến cho bộ phận không nhỏ ra thành
phố tìm việc làm nhằm gia tăng thêm thu nhập nhưng cũng vì thế lối
sống của người dân bị ảnh hưởng bởi khu vực đô thị.
- Đặc trưng của lối sống nông thôn
Mang tính cộng đồng xã hội rất cao (lá lành đùm lá rách, hàng xóm
tối lửa tắt đèn có nhau, bán anh em xa mua láng giềng gần...); phong
cách giao tiếp, ứng xử mang tính chân tình, cởi mở, chan hòa; lối sống
được hình thành trên cơ sở những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định,
phương thức sản xuất như thế nào thì phương thức sống thể hiện như thế.

147
III. XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ
1. Khái niệm xã hội học đô thị
Dưới khía cạnh xã hội học, đô thị và nông thôn là hai khái niệm về
mặt nội dung có hàng loạt đặc điểm có tính đối lập nhau. Các nhà xã hội
học đã đưa ra rất nhiều cơ sở khác nhau để phân biệt đô thị và nông thôn.
Sự phân chia đó có thể dựa trên cơ sở các lĩnh vực hoạt động sống của xã
hội (công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao
thông vận tải, dịch vụ...) hoặc dựa trên các thiết chế chủ yếu của xã hội
(kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, gia đình...) hoặc theo các nhóm,
các giai cấp, tầng lớp xã hội, hay theo bình diện lãnh thổ.
Cũng có một số nhà lý luận xã hội học lại cho rằng, để phân biệt
giữa đô thị và nông thôn theo sự khác biệt giữa chúng về các mặt kinh tế,
xã hội và môi trường như sự khác biệt về lao động, nghề nghiệp, mức độ
và cách thu nhập về dịch vụ... sự khác biệt trong lối sống, giao tiếp, văn
hóa, gia đình, mật độ dân số, nhà ở... sự khác biệt về môi trường tự
nhiên, mức độ ô nhiễm,...
Xét từ góc độ xã hội học, cả đô thị và nông thôn đều được coi là
những hệ thống xã hội, những cộng đồng xã hội có những đặc trưng
riêng biệt như những xã hội nhỏ và trong đó có đầy đủ các yếu tố, các
vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội. Về đại thể, để xác định đô thị và
nông thôn, cách phổ biến là coi đô thị và nông thôn như các hệ thống
xã hội được phân biệt theo ba đặc trưng cơ bản:
Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội thì ở đô thị đặc trưng chủ yếu
là giai cấp công nhân, ngoài ra còn có các tầng lớp giai cấp khác như tư
sản, thợ thủ công, viên chức, trí thức... Còn đối với nông thôn thì đặc
trưng chủ yếu ở đây là nông dân, ngoài ra ở từng xã hội còn có các giai
cấp, tầng lớp như địa chủ, phú nông, nhóm thợ thủ công nghiệp, buôn
bán nhỏ, doanh nhân...
Về lĩnh vực sản xuất chủ yếu ở đô thị có đặc trưng là sản xuất công
nghiệp; ngoài ra, còn có các lĩnh vực khác như các loại hình dịch vụ,
thương nghiệp... Còn đối với nông thôn thì đặc trưng rõ nét nhất là sản
xuất nông nghiệp, ngoài ra, còn phải kể đến cấu trúc phi nông nghiệp

148
bao gồm: dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò rất lớn
đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Về lối sống, văn hóa của từng loại cộng đồng, thì đối với nông thôn
thường rất đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng xã mà
được phân biệt rất rõ ràng với lối sống thị dân đặc trưng cho khu vực đô
thị. Đặc trưng này có rất nhiều khía cạnh để chỉ ra sự khác biệt giữa đô
thị và nông thôn: từ hệ thống dịch vụ, sự giao tiếp, đời sống tinh thần,
phong tục, tập quán, hệ giá trị, chuẩn mực cho hành vi... đến cách sống,
phương tiện sống, quan niệm về con cái, gia đình... Đặc trưng này đã tạo
ra bản sắc riêng, diện mạo riêng cho hai hệ thống xã hội đô thị và nông
thôn là đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội học khi phân tích sự khác
biệt giữa đô thị và nông thôn.
Từ sự phân biệt trên có thể khái quát: đô thị là một hình thức tồn tại
của xã hội loài người trong phạm vi không gian - xã hội mang tính cụ thể về
mặt lịch sử, là hình thức tổ chức cư trú của con người.
Đô thị được thể hiện qua các yếu tố: Số lượng dân cư tập trung trên
một phạm vi lãnh thổ hạn chế (mật độ dân số cao); đại bộ phận dân cư
làm các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp; là môi trường sống trực
tiếp, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển xã hội và cá nhân;
giữ vai trò chủ đạo đối với các vùng nông thôn xung quanh và với toàn
xã hội nói chung.
Đô thị là khách thể nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau,
trong đó có xã hội học đô thị. Xã hội học đô thị chủ yếu quan tâm nghiên
cứu các khía cạnh xã hội của đô thị như lịch sử, các quy luật hình thành
và phát triển của đô thị, cộng đồng dân cư với các đặc điểm kinh tế - xã
hội của nó; sự thích ứng hay hòa nhập của cộng đồng xã hội đô thị với
môi trường vật chất; thực trạng, bản chất của các hiện tượng xã hội, các
quá trình xã hội diễn ra ở đô thị. Điều đó nói lên tính chất đặc thù của các
hoạt động nghiên cứu xã hội học đô thị so với các ngành khoa học khác.
Từ những phân tích trên ta có khái niệm xã hội học đô thị: Xã hội học đô
thị là một ngành khoa học xã hội học chuyên biệt xét theo cơ cấu xã hội -
lãnh thổ, nghiên cứu lịch sử hình thành, các quy luật hoạt động và phát
triển của xã hội đô thị với tư cách là một chỉnh thể, bản chất và các biểu

149
hiện của các sự kiện, hiện tượng xã hội và các quá trình xã hội diễn ra
trong đời sống xã hội đô thị.

2. Các hướng nghiên cứu chính của xã hội học đô thị


a. Quá trình đô thị hóa
Đô thị hóa là khái niệm dùng để chỉ quá trình diễn ra những thay đổi
về mặt lịch sử, kinh tế - xã hội của xã hội, thể hiện trong sự phát triển và
lớn mạnh của các đô thị, dân cư đô thị và sự phổ biến lối sống đô thị tới
toàn xã hội.
Các dấu hiệu của quá trình đô thị hóa: Tỷ lệ dân cư đô thị thường
xuyên tăng lên; số lượng các thành phố, thị xã thuộc các cấp khác nhau
trong mạng lưới đô thị của một quốc gia tăng lên đáng kể cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược đầu tư phát triển đô thị của chính
phủ quốc gia đó; sự vượt trội trong các lĩnh vực giao thông công cộng,
thị trường, dịch vụ, phúc lợi công cộng... so với các khu vực dân cư khác;
sự đa dạng, phong phú của các loại hình hoạt động lao động và vui chơi
giải trí, nghỉ ngơi của cư dân đô thị; sự phổ biến, lan truyền và phổ cập
những nét đặc thù của lối sống đô thị, các quan hệ giao tiếp đô thị tới các
vùng xung quanh và trên phạm vi toàn xã hội.

b. Cơ cấu xã hội đô thị


Cơ cấu xã hội đô thị là tổng thể các giai cấp, tầng lớp xã hội, các
nhóm xã hội hợp thành cộng đồng dân cư của một đô thị xét trong các
mối liên hệ và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Cơ cấu xã hội đô thị bao gồm:
- Cơ cấu xã hội - nhân khẩu: Là toàn bộ các nhóm xã hội trong dân
cư đô thị được phân chia trên cơ sở các dấu hiệu sinh học - xã hội cùng
những mối quan hệ qua lại tương ứng trong quá trình tái sản xuất chúng,
bao gồm: cơ cấu giới tính, cơ cấu lứa tuổi, cơ cấu về tình trạng hôn nhân
- gia đình, vấn đề người già ở đô thị...
- Cơ cấu xã hội - lãnh thổ: Ở đô thị cơ cấu xã hội - lãnh thổ biểu hiện
ra ở sự phân chia tự phát hay có tổ chức lãnh thổ trong đô thị thành các
khu vực khác như:

150
+ Theo chức năng gồm: khu công nghiệp, khu thương mại, khu hành
chính, khu vui chơi giải trí, khu nhà ở, khu sinh hoạt văn hóa...
+ Theo các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cư trú ở đó, chẳng
hạn: khu nhập cư, khu da trắng, khu da đen...
- Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp: Là tập hợp tương đối ổn định những
người làm công việc lao động cụ thể xác định hoặc biến thể của các dạng
lao động đó do trình độ phát triển lực lượng sản xuất cùng những đặc
điểm chức năng của các cơ quan, xí nghiệp thuộc các ngành kinh tế quốc
dân ở đô thị tạo ra. Sự khác biệt về chất trong cơ cấu nghề nghiệp ở đô
thị so với cơ cấu nghề nghiệp ở nông thôn là ở đô thị hầu như không có
các ngành nghề nông - lâm nghiệp, trình độ phát triển sản xuất cao hơn,
là nơi tập trung của nền công nghiệp, các cơ quan nghiên cứu khoa học
kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, mạng lưới dịch vụ công cộng phát triển, cơ
cấu ngành nghề đa dạng. Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp ở đô thị có những
đặc điểm khác nhau giữa các thành phố tùy thuộc vào quy mô của thành
phố và chức năng của thành phố đó.
- Cơ cấu xã hội - giai cấp: Cơ cấu xã hội - giai cấp ở đô thị hình
thành, biến đổi và phát triển trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội của
đô thị. Cũng như trên phạm vi toàn xã hội, nền kinh tế phát triển đã tạo ra
nhiều giai cấp, tầng lớp phức tạp như:
+ Công nhân, viên chức và trí thức là ba bộ phận quan trọng nhất
của cơ cấu xã hội - giai cấp ở đô thị. Tỷ lệ của họ trong thành phần dân
cư tùy thuộc vào các chức năng của các thành phố cụ thể. Nếu là thành
phố công nghiệp thì công nhân thường chiếm tỷ lệ cao, còn với thành
phố thủ đô hoặc trung tâm hành chính tỉnh lỵ thì viên chức và trí thức
chiếm thành phần đông hơn...
+ Đội ngũ thợ thủ công, thương nhân, những người làm dịch vụ và
buôn bán nhỏ là một bộ phận quan trọng khác ở các thành phố.
+ Một bộ phận không thể thiếu trong dân cư đô thị thường được gọi
dưới cái tên "những phần tử ngoài lề xã hội", bao gồm trẻ lang thang, bụi
đời, người tàn tật, vô gia cư, các đối tượng thuộc tệ nạn xã hội...
Về phương diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều loại tệ nạn
xã hội nhiều khi ở mức báo động.

151
c. Lối sống đô thị
Lối sống đô thị là tổng thể các nét cơ bản, đặc trưng cho phương
thức hoạt động sống có ý nghĩa xã hội đặc thù của các cá nhân và các
nhóm xã hội, các giai cấp, tầng lớp xã hội tại các đô thị; điểm độc đáo
của nó là được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống xã hội
đô thị với tư cách là một môi trường không gian xã hội đặc biệt, phân
biệt rõ nét với môi trường xã hội nông thôn.
Những đặc trưng cơ bản của lối sống đô thị:
Tính cơ động nghề nghiệp - xã hội, không gian - xã hội ở đô thị
tương đối cao. Đặc trưng này được quy định bởi sự đa dạng và phong
phú trong cơ cấu nghề nghiệp ở đô thị. Chính sự đa dạng và phong phú
đó đã tạo cho các cá nhân và các nhóm xã hội có thể có nhiều cơ hội để
lựa chọn, chuyển đổi nghề nghiệp cho phù hợp với sở thích, năng lực và
điều kiện của mình. Nhà ở tại đô thị cũng dễ dàng thay đổi (mua, bán,
chuyển nhượng) theo nguyện vọng, mong muốn của các hộ gia đình đô
thị, theo hướng sự thay đổi đó tạo thuận lợi cho công việc lao động và
sinh hoạt của họ. Trong khi đó, ở nông thôn điều này khó được thực hiện
vì nhà ở thường gắn liền với đất đai của cha ông để lại, liên quan đến
việc thờ cúng tổ tiên, chịu sự chi phối của dòng họ.
Các hoạt động sống và sinh hoạt, nhất là hoạt động sinh hoạt gia
đình phụ thuộc nhiều vào hệ thống dịch vụ công cộng và thị trường.
Tại các thành phố, với đặc điểm cơ bản là mật độ dân số cao và chủ
yếu hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, nên thị trường các nhu yếu
phẩm như lương thực, thực phẩm, rau xanh, hàng tiêu dùng... phục vụ
đời sống sinh hoạt của người dân phát triển rất đa dạng, thuận tiện cho
nhu cầu của người dân đô thị. Do không trực tiếp sản xuất ra các mặt
hàng nhu yếu phẩm nên người dân đô thị phải dựa vào hệ thống dịch
vụ và thị trường.
Hoạt động giao tiếp xã hội, với tư cách là một mặt cơ bản của lối
sống đô thị, cũng có nhiều điểm khác biệt với giao tiếp xã hội nông
thôn. Tại các thành phố, phạm vi giao tiếp xã hội về cơ bản tương đối
rộng, cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Ở đô
thị, các hoạt động giao tiếp chủ yếu nhằm vào những nội dung, mục đích

152
cụ thể, được xây dựng hoặc thiết lập giữa những người có cùng sở thích
(các câu lạc bộ). Chính vì vậy mà ở các thành phố có sự suy giảm các
giao tiếp truyền thống, tăng cường giao tiếp theo nhóm sở thích hoặc
nhóm vai trò.
Ở đô thị, nhu cầu văn hóa - giáo dục tương đối cao, việc sử dụng
thời gian nhàn rỗi diễn ra đa dạng dưới nhiều hình thức. Điều này được
quy định chủ yếu bởi sự vượt trội về cơ sở hạ tầng và các công trình văn
hóa, phúc lợi công cộng ở đô thị so với nông thôn. Trên phương diện
này, một trong những yếu tố khác biệt giữa đô thị và nông thôn mà chúng
ta dễ nhận thấy nhất là cuộc sống và sinh hoạt về đêm.
Tính tích cực chính trị - xã hội ở đô thị cũng tương đối cao. Cư dân
đô thị có điều kiện nhạy bén với các thông tin chính trị - xã hội và tích
cực tham gia vào các hoạt động xã hội phần nhiều được tổ chức tại các
đô thị. Các phong trào có sức huy động quần chúng ở các đô thị nhanh
hơn nông thôn.

IV. XÃ HỘI HỌC QUẢN LÝ


1. Khái niệm xã hội học quản lý
Quản lý được hiểu là sự tác động liên tục có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể vào đối tượng theo một quy trình nhất định nhằm đạt được
hiệu quả tối ưu so với yêu cầu đặt ra. Quản lý xã hội là những hoạt động
có ý thức của con người vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì những phẩm
chất đặc thù của xã hội để đáp ứng sự tồn tại và phát triển xã hội trong tất
cả các lĩnh vực hoạt động của nó. Đối tượng của quản lý xã hội là các
nhóm, các tổ chức, các cộng đồng, các thiết chế xã hội.
Quản lý là một trong các hoạt động cơ bản của xã hội loài người bên
cạnh các hoạt động sản xuất vật chất, tái sản xuất xã hội. Không có hoạt
động quản lý thì xã hội không thể tồn tại và phát triển tốt được.
Quản lý xã hội là hoạt động khó khăn và phức tạp, nó không chỉ là
một môn khoa học có đối tượng và phương pháp riêng mà nó còn là một
nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự xử lý linh hoạt, khéo léo và có hiệu quả việc
quản lý trong các điều kiện cụ thể của đời sống xã hội. Do tính chất quan
trọng của quản lý nên đã có nhiều ngành khoa học nghiên cứu về nó,

153
với những cách tiếp cận khác nhau. Xã hội học nghiên cứu về quản lý sẽ
tạo một cái nhìn vừa khái quát vừa cụ thể, thực chứng đối với hoạt động
quản lý. Những tri thức xã hội học quản lý giúp nhà quản lý ứng dụng để
quản lý xã hội một cách có hiệu quả.
- Đặc điểm của quản lý xã hội:
Quản lý xã hội rất khó khăn và phức tạp vì đối tượng quản lý có số
lượng lớn, không thuần nhất về nhu cầu, mục tiêu, trình độ, hoàn cảnh vì
luôn có sự tác động của các nhóm, tổ chức xã hội khác.
Quản lý xã hội là hoạt động có tính liên tục, kế thừa. Thể hiện ở chỗ
các nhà cầm quyền của mọi quốc gia ngoài việc theo đuổi mục tiêu đã
định và duy trì những đặc trưng của chế độ xã hội mà họ mong muốn,
của giai cấp, dân tộc mình thì thường họ có sự bắt chước, học hỏi kinh
nghiệm của nhau.
Quản lý xã hội luôn liên quan đến vấn đề động lực và phản động lực
của sự phát triển xã hội. Động lực của xã hội chính là động lực của các
thành viên, là tính đồng thuận và sự kết hợp tốt từng động lực riêng lẻ
thông qua các thiết chế tổ chức xã hội hợp lý, ngoài ra, nó còn phải tính
đến sự kết hợp có hiệu quả của các xã hội bên ngoài.
Quản lý xã hội là sự nghiệp của toàn thể công dân xã hội, nó đòi hỏi
sự đóng góp công sức của mọi người.
Xã hội học quản lý là một chuyên ngành xã hội học nghiên cứu cách
thức phối hợp hoạt động của các thành viên trong một tổ chức xã hội cụ thể.
Theo khái niệm trên, ta có thể xác định các khía cạnh nghiên cứu cụ
thể của xã hội học quản lý là: Hoạt động của các nhà quản lý (các chủ thể
quản lý); Hoạt động của các thành viên trong một tổ chức xã hội; Mối
quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý (giữa chủ thể và đối
tượng quản lý).

2. Những đặc trưng của xã hội học quản lý


a. Yếu tố tự phát và quản lý có mục đích
- Yếu tố tự phát
Những tác động có tính quản lý hay trật tự hoá đối với một hệ thống
xã hội bất kỳ là kết quả có tính trung bình của những tương tác đa chiều

154
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố. Các yếu tố này nhiều khi chúng mâu
thuẫn, xung đột lẫn nhau, tồn tại hàng loạt các tác động riêng lẻ ngẫu
nhiên, chúng tác động lẫn nhau một cách tự động, tự phát. Trong bất kỳ
giai đoạn phát triển nào của xã hội chúng ta cũng có thể quan sát và phân
tích được những yếu tố tự phát, không có kế hoạch hay nói cách khác nó
nằm ngoài dự kiến của nhà quản lý. Nguyên nhân cơ bản của tính tự phát
do trong xã hội, cá nhân hay các nhóm luôn hành động với động cơ, cách
thức, phương tiện riêng của mình, họ có động cơ theo đuổi những nhu
cầu nhiều lúc đối lập nhau.
Tuy vậy, từ tính tự phát trong tương tác đa chiều giữa các yếu tố
trong quản lý vẫn có thể tạo ra một quy luật chung chi phối sự phát triển
xã hội không cần có sự can thiệp của con người. Ví dụ, trong nền kinh tế
thị trường những người sản xuất kinh doanh sản xuất và trao đổi hàng
hóa một cách tự phát, hậu quả là có người trở nên giàu có còn người khác
bị phá sản. Quá trình đó diễn ra một cách thường xuyên và nhờ tác động
của quy luật cạnh tranh nó đào thải yếu tố hạn chế, yếu kém; ngược lại
bình tuyển, tôi luyện yếu tố tích cực, tiến bộ, nhờ vậy tạo nên động lực
tiến bộ xã hội.
- Các yếu tố quản lý có ý thức
Gắn với lợi ích cụ thể từ phía chủ thể quản lý đến chủ thể xã hội có
xu hướng tham gia vào quản lý xã hội. Quản lý xã hội là khoa học, nghệ
thuật về việc vận dụng các quy luật khách quan để điều hành xã hội. Trên
thực tế, nếu quản lý có ý thức mà phù hợp với quy luật khách quan nó sẽ
phát huy tác dụng. Thậm chí, chủ thể quản lý có thể tác động thông qua
quy luật nhằm phục vụ cho mục đích của mình. Vấn đề đặt ra là quản lý
có ý thức đại diện cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp nào, nhằm duy trì cho
một chế độ xã hội nào.
Mối quan hệ giữa cơ chế quản lý có ý thức và quản lý tự phát (hoặc
vô thức): Hoạt động quản lý đòi hỏi người quản lý luôn chủ động, có ý
thức, nắm bắt được đối tượng, nội dung, điều kiện, môi trường thực hiện
quản lý. Vậy nhưng không phải khi nào ý chí của chúng ta cũng phù hợp
với những quy luật tự nhiên, khách quan của các quá trình tương tác xã
hội, do đó trong quản lý xã hội thường có cả tính tự giác và tự phát.

155
b. Nhu cầu xã hội về tổ chức lao động hợp tác
- Con người có nhu cầu khách quan về việc hợp tác với những người
khác nhau trong xã hội, do đó nó đòi hỏi một cách thức tổ chức nhằm
thực hiện những mục tiêu cụ thể.
- Chỉ có trong lao động cùng nhau con người mới phát huy được sức
mạnh của chính mình; đồng thời nhờ có hợp tác lao động với những
người khác họ có được sức mạnh mới mà ở họ không có nếu không có sự
liên kết. Kết quả là họ nhận được lợi ích từ chính sự hợp tác đó.
- Trong quá trình lao động hợp tác đòi hỏi phải có quản lý nếu không
con người không thể liên kết được trong một hoạt động chung bởi các
nhạc công có thể chơi tốt nhạc cụ của mình nhưng cần phải có mối liên
hệ với các nhạc công khác trong cùng một dàn nhạc và điều đó đòi hỏi
cần có một nhạc trưởng.

c. Quản lý là quá trình có tính tổ chức và thiết chế


Trong hoạt động chung của con người cần phải có một cơ quan quản
lý điều hành một nhóm xã hội hay một tập thể cần phải đảm bảo những
nguyên tắc có tính tổ chức và tính thiết chế.
Tổ chức là việc sắp xếp một trật tự các vị trí xã hội theo chức năng
nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra. Thiết chế là phức hợp các chuẩn mực và
vai trò xã hội nhằm vào việc thoả mãn những nhu cầu xã hội quan trọng.
Trong xã hội học quản lý thiết chế được hiểu như là cơ chế đảm bảo
việc duy trì các mối quan hệ xã hội, quá trình thực hiện vai trò xã hội của
một tổ chức nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức đó. Thiết chế hoá là
quá trình chuẩn hoá các chuẩn mực, các quy tắc của tập thể, của một tổ
chức xã hội nào đó cũng như quá trình chính thức hoá các vai trò cụ thể
trong tổ chức.
Vai trò của quá trình thiết chế hoá: Làm cho các thành viên ý thức
được bổn phận cũng như trách nhiệm của mình trong tổ chức, trong hoạt
động tập thể; Cho phép nhà quản lý nhìn thấy khả năng thực hiện mục
tiêu của tổ chức thông qua quá trình đảm nhận các vai trò của các đơn vị
bộ phận cũng như của cá nhân.

156
Quá trình thiết chế hoá diễn ra cho đến khi nào tập thể hoặc một tổ
chức thực hiện và duy trì đúng mức những đòi hỏi về mặt chuẩn mực
cũng như vai trò trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của tổ chức nói
riêng cũng như xã hội nói chung.
Khi đó ta nói tới việc thể chế hoá tổ chức. Cụ thể là các vị trí xã hội
đã được xã hội trao một quyền hạn xác định và nhận được sự thừa nhận
nào đó của các thành viên trong tổ chức đó.
d. Tương quan giữa chủ thể quản lý và đối tượng của nó
- Quản lý xã hội như là một dạng hoạt động đặc biệt vì đối tượng của
nó chính là con người. Xã hội học chỉ xem xét những vai trò xã hội mà
con người đó thực hiện tương ứng với vị trí xã hội của anh ta trong một
cấu trúc xã hội xác định. Các vai trò và vị trí của cá nhân có ở hầu hết
trong các nhóm, các tổ chức, các thiết chế mà anh ta là thành viên.
- Một loạt vấn đề cần phải đặt ra đối với nhà quản lý: Vai trò xã hội
của từng cá nhân trong tổ chức tương quan với vai trò của các nhóm các
đơn vị trong tổ chức đó như thế nào; Đối tượng quản lý có những đặc
điểm nhân khẩu xã hội như thế nào (giới tính, lứa tuổi, trình độ học
vấn...); Địa vị kinh tế, chính trị của đối tượng quản lý; Ý thức hệ hay
chuẩn mực đạo đức nào chi phối chủ yếu hành vi của đối tượng quản lý...
- Nhà quản lý bao giờ cũng cần thiết phải tính tới tương quan xã hội
giữa người quản lý và bị quản lý trong hoạt động quản lý của mình, trên
cơ sở đó mới có thể có những dự báo về khả năng thực hiện nhiệm vụ
của từng cá nhân cấp dưới.

3. Nội dung nghiên cứu của xã hội học quản lý


Xã hội học quản lý cần nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau: Phân
loại các vấn đề xã hội dựa vào các hoạt động của đời sống xã hội; Thiết
lập các hệ thống tiêu chuẩn, các hệ thống chỉ báo xã hội về các hoạt động
xã hội mà nhà quản lý cần phải quản lý; Những phương pháp hữu hiệu để
giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình quản lý; Lập kế hoạch việc
thực hiện các quan hệ xã hội và các quá trình xã hội trên cơ sở cân nhắc
mục tiêu đặt ra với điều kiện khách quan và chủ quan để tiến tới hoàn
thành mục tiêu đó; Dựa vào những thông tin thu nhận được trong quá

157
trình quản lý, xã hội học quản lý có thể dự báo xu hướng phát triển của
các hình thức tổ chức xã hội cũng như mô hình xã hội tương lai.
Ví dụ, trong hoạt động kinh tế, nhà quản lý cần phải hoạch định, lập
bản kế hoạch về quá trình sản xuất, quá trình tổ chức sản xuất, lãnh đạo
điều khiển con người (người lao động) trong quá trình sản xuất... trên cơ
sở kiểm tra các hoạt động đó đối chiếu với các mục tiêu đã đặt ra.

NỘI DUNG ÔN TẬP

1. Xã hội học giáo dục và các hướng nghiên cứu chính của xã hội
học giáo dục.
2. Xã hội học nông thôn và một số nội dung nghiên cứu cơ bản của
xã hội học nông thôn.
3. Xã hội học đô thị và các hướng nghiên cứu chính của xã hội học
đô thị.
4. Quản lý, xã hội học quản lý và các lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu
của xã hội học quản lý.

158
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đức Châm - Hà Bắc Đẩu (2004), Một số nội dung cơ bản
của xã hội học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008) Xã hội học, Nxb Thế giới
3. Bùi Quang Dũng (2007) - Gia đình trong các xã hội nông nghiệp -
Tạp chí xã hội học số 3.
4. Vũ Quang Hà (2003), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
5. Vũ Quang Hà, Nguyễn Thị Hồng Xoan (2002), Xã hội học đại
cương, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Minh Hòa (1999), Xã hội học: Những vấn đề cơ bản,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Lê Ngọc Hùng (2007), Nhu cầu học tập, vận dụng và phát triển
các quy tắc của phương pháp xã hội học - Tạp chí xã hội học số 4.
8. Lê Ngọc Hùng (2008), Lịch sử & lý thuyết xã hội học. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Sinh Huy (1999), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê, Vũ Minh Tâm, (2004), Xã hội
học đại cương, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
11. Nguyễn Sinh Huy (2008), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Hữu Khiển (2004), Giáo trình Xã hội học đại cương,
Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
13. Đỗ Thiên Kính (2007), Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp
vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam - Tạp chí xã hội học
số 3.

159
14. Thanh Lê (2004), Xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Lưu Hồng Minh (2010), Hỏi & đáp Xã hội học đại cương (xã hội học),
Nxb Chính trị - Hành chính.
16. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), Xã hội học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Phan Trọng Ngọ (1997), Xã hội học đại cương, Nxb chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
18. Lê Nin (1980), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
19. Nguyễn Thế Phán (2002), Giáo trình xã hội học, Nxb Lao động -
xã hội, Hà Nội.
20. Hoàng Phê (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm
từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
21. Lê Thanh Sang (2007), Sự chuyên môn hóa các chức năng của đô thị
Việt Nam - Tạp chí xã hội học số 2.
22. Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
23. Tạ Ngọc Tấn (2013), Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đặng Bích Thủy (2007), Một số vấn đề xã hội của nhóm vị thành
niên đô thị trong quá trình đô thị hóa hiện nay, Tạp chí xã hội học
số 2.
25. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
26. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
27. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin.
28. Basirico, Laurence A., Barbara G. Cashion, and J Ross. Eshleman
(2012), Introduction to Sociology, BTV Publishing.

160
29. Đa-vư-đốp (1990), Từ điển xã hội học Phương tây hiện đại,
bản Tiếng Nga.
30. Fulcher, James and John Scott, (2011), Sociology. Oxford: Oxford
University Press.
31. G.Endruweit và G.Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học,
Nxb Thế giới, (Ngụy Hữu Tâm và Nguyễn Hoài Bão dịch).
32. G.V.Osipov, (1992), Xã hội học và chủ nghĩa xã hội, Xã hội học
và thời đại, tập 3, số 23.
33. Giddens Anthony (1997), Sociology, Polity Press, London.
34. Giddens, Anthony. (2009), Sociology, Cambridge: Polity Press.
35. H. Korte, 1995.
36. Macionis, John (2008), Sociology, New Jersey: Prentice Hall.
37. Jean - Claude Passeron (2002), Lý luận xã hội học, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
38. Tony Bilton, Kevin Bonmett, Philip Jones, Michelle Stanworth, Ken
Sheard và Andrew Webster, Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học
xã hội, 1993, (Phạm Thủy Ba dịch).

161
162
gi¸o tr×nh
x· héi häc ®¹i c−¬ng

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc - Tổng Biên tập
ThS. ĐỖ VĂN CHIẾN

Biên tập:
NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG - NGỌC LAN

Trình bày:
TRẦN KIÊN - MAI ANH - DŨNG THẮNG

In 1.000 cuốn khổ 16 × 24 cm tại NXB Thống kê - Cty In và Thương mại Đông Bắc.
Địa chỉ: Số 15, Ngõ 14, Phố Pháo đài Láng, Phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội.
Số xác nhận ĐKXB: 2880-2015/CXBIPH/03-32/TK
do Cục Xuất bản, In và Phát hành cấp ngày 06/10/2015
QĐXB số 132/QĐ-XBTK ngày 26/10/2015 của Giám đốc - Tổng Biên tập NXB Thống kê
In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2015.

163

You might also like