You are on page 1of 245

10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 1/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

TS. LÊ THỊ KIM LAN - TH.S NGUYỄN DUY HỚI (Đồng chủ biên)

GIÁO TRÌNH
XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
(Dành cho hệ đào tạo Từ xa - Đại học Huế)

HUẾ, 2008

about:blank 2/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

LỜI NÓI ĐẦU

about:blank 3/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Xã hội học là một ngành khoa học còn non trẻ nhưng đầy
triển vọng. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đặt ra
những nhiệm vụ to lớn cho xã hội học và các ngành khoa học khác
trong việc nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay.
Để đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của học viên
đang theo học các chương trình đào tạo đại học từ xa và những
người quan tâm đến lĩnh vực xã hội học, chúng tôi đã biên soạn
cuốn Giáo trình xã hội học đại cương làm tài liệu nghiên cứu và
học tập cho học viên.
Cuốn giáo trình này được hoàn thành bởi TS. Lê Thị Kim
Lan và Th.s. Nguyễn Duy Hới dựa trên cơ sở tiếp cận với các quan
điểm xã hội học hiện đại kết hợp với kinh nghiệm trong công tác
giảng dạy, nghiên cứu xã hội học của chúng tôi trong nhiều năm
qua. Trong khuôn khổ giáo trình dùng cho sinh viên đại học từ xa,
chúng tôi chỉ tập trung vào một số vấn đề cơ bản, mang tính cô
đọng, súc tích, tiện cho việc học tập và nghiên cứu của học viên.
Cuốn giáo trình này bao gồm 5 chương:
Chương I: Đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của xã hội học.
Chương II: Lịch sử ra đời và phát triển của xã hội học.
Chương III: Một số vấn đề cơ bản của xã hội học.
Chương IV: Một số lĩnh vực xã hội học chuyên biệt.
Chương V: Phương pháp nghiên cứu xã hội học.
Sau mỗi chương và mỗi phần, chúng tôi đều có những định
hướng cho người học bằng những câu hỏi ôn tập.
Mặc dầu các tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên
soạn nhưng chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu
sót. Chúng tôi xin chân thành cám ơn và mong nhận được những
góp ý, bổ khuyết của các đồng nghiệp và bạn đọc để giáo trình được
hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.

Tập thể tác giả

about:blank 4/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 5/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chương I
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG
VÀ NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC

1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC


1.1. Nguồn gốc của thuật ngữ "xã hội học"
Để hiểu đối tượng nghiên cứu của xã hội học, trước hết cần
phải hiểu nguồn gốc của thuật ngữ mà về sau nó trở thành tên gọi của
một ngành khoa học giàu sức sống này.
Trong cuốn sách nhan đề Giáo trình triết học thực chứng xuất
bản năm 1838, nhà xã hội học người Pháp là Auguste Comte đã đưa ra
thuật ngữ Sociology (nghĩa là xã hội học). Từ đó thuật ngữ này được
biết đến như một khái niệm khoa học dùng để chỉ một lĩnh vực khoa
học xã hội mới hình thành từ các tư tưởng xã hội vốn có trước đó.
Theo các tác giả Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng và những
người khác, thuật ngữ "sociology" được ghép từ chữ La tinh là
"Socius" hay "Societas" (nghĩa là xã hội) với chữ Hy Lạp là "Ology"
hay "Logos" (nghĩa là học thuyết). Như vậy xã hội học được hiểu là
học thuyết về xã hội, nghiên cứu về xã hội.
Như vậy, có thể hiểu rằng thuật ngữ "xã hội học" không chỉ
đơn thuần nảy sinh từ quá trình phát triển và giao thoa về mặt ngôn
ngữ mà quan trọng hơn chúng là kết quả của các nhu cầu và đòi hỏi
của thực tiễn xã hội đối với sự phát triển của khoa học.
1.2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
Trong lịch sử hình thành và phát triển của khoa học, việc xác
định một bộ phận hay một chuyên ngành nghiên cứu nào đó có phải là
một ngành khoa học độc lập hay không người ta thường dựa vào các
tiêu chí cơ bản như: đối tượng nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu;
khả năng và phạm vi đáp ứng các nhu cầu thực tiễn xã hội của chúng;
đội ngũ cán bộ nghiên cứu và áp dụng các thành quả của nó.v.v...
Như vậy, đối tượng nghiên cứu trở thành tiêu chí hết sức quan
trọng. Điều đó cũng có nghĩa là: khi chúng ta thừa nhận xã hội học là
một ngành khoa học độc lập thì bản thân nó phải có một đối tượng
nghiên cứu riêng không lẫn lộn với các khoa học khác như triết học,
tâm lý học, nhân chủng học.v.v...

about:blank 6/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Document continues below

Discover more from:


chủ nghĩa xã hội
149 documents

Go to course

Giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ

210 chủ nghĩa xã hội 100% (8)

SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU GIỮA NHÀ NƯỚC


PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM…
10
chủ nghĩa xã hội 89% (19)

Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại


Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim Lan 244 Trang
244
chủ nghĩa xã hội 89% (19)

Tiểu luận Cnxhkh - Grade: B+

14 chủ nghĩa xã hội 100% (6)

about:blank 7/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN


VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG…
Trong
13 thực tế, do tri thức của xã hội có tính bao quát rộng lớn,
xác định
cho nên việc chủ nghĩacáixã là đối tượng nghiên cứu của xã hội h100%
gì hội ọc (4)
thực sự không dễ dàng trong các cuộc tranh luận của các nhà chuyên
môn.
Có thể nhìn thấy sự đa dạng và phong phú về cách xác định đối
tượng nghiên cứu của xã hội học thông qua các quan điểm sau đây:
Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất tại
Theo A.Comte, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quy
luật tổ chức xãVNhội hiện
của mọinayloại-hình
TRIẾT
xã hội. Đối với Emile Durkheim,
xã hội là 6khoa học nghiên cứu về cái "sự kiện xã hội". Chính vì vậy,
việc khám pháchủ nghĩa
về quy luậtxã
xã hội 100% (4)
hội, đời sống xã hội được ông diễn giải,
quan sát thông qua các sự kiện xã hội này.
Riêng nhà xã hội học người Đức - Max Weber đã quan niệm
rằng: xã hội học là khoa học nghiên cứu về hành động xã hội.
Các nhà xã hội học Canada - R.T.Schaefer và E.Smith định
nghĩa: "xã hội học là sự nghiên cứu có tính hệ thống về hành vi xã hội
(Social behaviour) và các nhóm người. Chúng tập trung trước hết vào
ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội lên hành vi và thái độ của
người và lên sự thiết lập và thay đổi xã hội" (R.T.Schaefer và E.
Smith, 2004).
Nhà xã hội học Hà Lan - Alberto Arce trong cuốn bài giảng Xã
hội học nông thôn đã cho rằng xã hội học là khoa học nghiên cứu về
con người và xã hội cũng như mối quan hệ giữa con người và xã hội
(Alberto, 1997).
Một cách định nghĩa khác cũng cho thấy cách thức tiếp cận
phong phú về đối tượng nghiên cứu của xã hội học: xã hội học là khoa
học nghiên cứu về các quy luật vận động xã hội, các quá trình xã hội,
trạng thái xã hội, hiện tượng xã hội, sự kiện xã hội của xã hội hiện tồn.
Như vậy, mỗi nhà xã hội học xuất phát từ một khung cảnh xã
hội khác nhau và dựa trên cách nhìn nhận xã hội khác nhau để định
nghĩa về đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Tuy nhiên trong sự đa
dạng và phong phú ấy, các nhà xã hội học đã quy chúng về 3 cách tiếp
cận cơ bản khi xem xét về đối tượng nghiên cứu của xã hội (Phạm Tất
Dong - Lê Ngọc Hùng, 2001).
- Cách tiếp cận vi mô: các nhà xã hội học theo cách tiếp cận vi
mô thường lấy hành động xã hội của con người làm đối tượng nghiên
cứu và để lý giải về đời sống xã hội (đại diện là M. Weber...).

about:blank 8/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Cách tiếp cận vĩ mô: cách tiếp cận vĩ mô thường lấy hệ thống
xã hội và cơ cấu xã hội làm đối tượng nghiên cứu của xã hội học (đại
diện là A.Comte...).
- Cách tiếp cận tổng hợp: đây là một nỗ lực của các nhà xã hội
học trong việc phát huy thế mạnh của cách tiếp cận vi mô và vĩ mô
đồng thời khắc phục những nhược điểm của hai khuynh hướng nói
trên.
Cách tiếp cận tổng hợp thường xem xét cả hệ thống, cấu trúc
xã hội lẫn hành động xã hội của các cá nhân và nhóm xã hội. Đại diện
cho trường phái này phải kể đến nhà xã hội học Bungaria -
G.V.Oxipov. Ông cho rằng: xã hội học là khoa học về các quy luật và
tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành
của các hệ thống xã hội, xác định về mặt lịch sử, là khoa học về cơ
chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt
động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.
2. CƠ CẤU CỦA XÃ HỘI HỌC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ
HỘI HỌC VỚI CÁC NGÀNH KHOA HỌC KHÁC
2.1. Cơ cấu của xã hội học
Một cách nhìn nhận mang tính kinh điển về cơ cấu của xã hội
học thể hiện trong quan điểm của A.Comte. Ông tách xã hội học ra làm
2 bộ phận: Tĩnh học xã hội và động xã hội. Trong đó tĩnh học xã hội
nghiên cứu các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội, động học xã hội xem
xét quá trình vận động và biến đổi của xã hội loài người nói chung.
Cách phân chia cấu trúc xã hội học như vậy đã được tái hiện lại trong
quan điểm của nhà xã hội học H.Spencer tuy có những thay đổi nhất
định.
Quan điểm phân loại cơ cấu xã hội của F. Tonnies dựa vào mức
độ trừu tượng, khái quát của tri thức để chia cơ cấu xã hội học thành 3
cấp độ:
- Xã hội học thuần túy (mang tính trừu tượng - lý thuyết): Là
một bộ phận của tri thức xã hội học chuyên nghiên cứu và phát triển
về các khái niệm, phạm trù, các lý thuyết dựa trên kết quả nghiên cứu
thực nghiệm xã hội.
- Xã hội học thực nghiệm - cụ thể: Là một bộ phận của tri thức
xã hội học gắn liền với các hoạt động thực nghiệm, quan sát, đo lường
các hiện tượng và quá trình xã hội dựa trên hệ thống tri thức của xã
hội học thuần túy.

about:blank 9/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Xã hội học triển khai - ứng dụng: Đây là một bộ phận trong
hệ thống tri thức xã hội học hướng tới việc giải quyết các yêu cầu và
nhiệm vụ cụ thể của đời sống xã hội nhằm kết nối tri thức lý luận của
xã hội học với thực tiễn xã hội. Bộ phận này về thực chất là sự k ế tục
và hoàn chỉnh quá trình thực tiễn hóa kiến thức xã hội học từ lý thuyết
- thực nghiệm - thực tiễn.
Theo quan điểm nói trên, xã hội học được nhìn nhận tách bạch
làm ba bộ phận, tuy nhiên giữa chúng luôn luôn tồn tại mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Về phần mình, xã hội học thuần túy được xem là
"lăng kính" cho nghiên cứu thực nghiệm và triển khai ứng dụng. Xã
hội học cụ thể - thực nghiệm cung cấp bằng chứng, số liệu cho quá
trình khái quát hóa tri thức xã hội học và là các luận cứ cho việc đưa
ra các phương án triển khai trong hoạt động thực tiễn. "Xã hội học
thực nghiệm đóng vai trò là cầu nối giữa xã hội học "thuần túy" lý
thuyết với xã hội học ứng dụng" (Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng,
2001). Còn xã hội học triển khai ứng dụng được coi là phương thức để
chuyển giao tri thức xã hội học ở dạng lý thuyết và các kết quả đã
được kiểm nghiệm vào đời sống xã hội.
Cách phân loại thứ ba và tương đối phổ biến khi nhìn nhận về
cơ cấu của xã hội học là việc phân chia thành xã hội học đại cương và
xã hội học chuyên biệt chuyên ngành.
Tiêu chí cơ bản của cách phân loại này là dựa vào cấp độ của
tri thức (chung - riêng; bộ phận - chỉnh thể) và lĩnh vực nghiên cứu
chuyên sâu của xã hội học. Trong đó, xã hội học đại cương chuyên
nghiên cứu về các quy luật, các đặc điểm, thuộc tính của các sự kiện
biểu đạt tính quy luật để hình thành nên hệ thống tri thức mang tính
khái quát cao như các khái niệm, các phạm trù, các nguyên lý, các quy
tắc và các lý thuyết xã hội học. Xã hội học chuyên biệt sử dụng hệ
thống tri thức của xã hội học đại cương để nghiên cứu các lĩnh vực cụ
thể trong đời sống xã hội như giới, gia đình, dân số, sức khỏe cộng
đồng, v.v... Kết quả nghiên cứu của xã hội học chuyên biệt không chỉ
là sự vận dụng lý thuyết xã hội học đại cương vào một vấn đề khá cụ
thể mà là một quá trình hình thành nên các khái niệm, lý thuyết và tri
thức thực nghiệm của xã hội học chuyên ngành. (Ví dụ trong xã hội
học gia đình vừa có lý thuyết xã hội học đại cương vừa có các khái
niệm, lý thuyết của xã hội học gia đình gắn với các nghiên cứu thực
nghiệm về cấu trúc, chức năng của gia đình và sự biến đổi của nó).

about:blank 10/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Ở nước ta trong những năm qua hàng chục chuyên ngành xã


hội học đã ra đời dựa trên nhu cầu thực tiễn của xã hội. Có thể kể đến
một số chuyên ngành có tốc độ phát triển mạnh như: Xã hội học nông
thôn, xã hội học về giới, xã hội học gia đình, xã hội học kinh tế, xã hội
học văn hóa, v.v...
Tuy nhiên, giữa xã hội học đại cương và xã hội học chuyên
ngành tồn tại mối quan hệ không thể tách rời. Xã hội học đại cương
cung cấp những tri thức chung, khái quát làm nền tảng cho xã hội học
chuyên ngành. Ngược lại, xã hội học chuyên ngành với các góc độ
nghiên cứu khác nhau đã cung cấp thông tin và tri thức về các khía
cạnh đời sống xã hội cho việc hình thành và phát triển xã hội học đại
cương. Cách phân loại thứ tư cũng chia xã hội học thành hai bộ phận:
Xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô.
Ở cấp độ vi mô, xã hội học tập trung nghiên cứu những hiện
tượng và quá trình xã hội liên quan đến cấu trúc chỉnh thể của xã hội,
phát hiện ra những thành tố cơ bản và mối quan hệ giữa các thành tố
cơ bản ấy.
Ở cấp độ vi mô, xã hội học nghiên cứu về các hiện tượng và
quá trình xã hội liên quan đến các thành tố bên trong, các cá nhân và
nhóm nhỏ xã hội cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Trên thực tế xã hội vĩ mô cung cấp cho chúng ta hệ thống tri
thức xã hội học ở cấp độ vĩ mô, xã hội học vi mô cung cấp tri thức xã
hội học ở cấp độ vi mô.
2.2. Mối quan hệ giữa xã hội học với các ngành khoa học khác
2.2.1. Mối quan hệ giữa xã hội học và triết học
Trước hết về mặt nhận thức cần phân biệt sự khác nhau giữa xã
hội học và triết học. Theo triết học Mác - Lênin, triết học là khoa học
"nghiên cứu các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư tưởng"
(Giáo trình Triết học Mác - Lênin, 1999). Như vậy, triết học là hệ
thống tri thức chung và là thế giới quan cho các ngành khoa học.
Trong khi đó xã hội học là một khoa học cụ thể. Tác giả Nguyễn Đình Tấn
trong cuốn Xã hội học đã chỉ ra sự khác nhau giữa chúng mà chúng ta
có thể dẫn ch ứng thêm như triết học nghiên cứ u các ph ạm trù
cơ bản như vật chất và ý thức; tồn tại xã hội, ý thức xã hội. Còn xã hội
học nghiên cứu về cấu trúc xã hội, hệ thống xã hội, vai trò xã hội.
Triết học nghiên cứu các quá trình xã hội ở cấp độ trừu tượng hóa cao

about:blank 11/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

nhất xã hội học gắn xã hội với các cuộc khảo sát, thực nghiệm cụ
thể.v.v...
Với tư cách là thế giới quan khoa học, triết học đã cung cấp cho
xã hội học một nhãn quan đúng đắn để nhìn nhận và phân tích các sự
kiện và quá trình xã hội. Trên cơ sở đó, các hoạt động nghiên cứu về
lý thuyết, thực nghiệm và triển khai ứng dụng của xã hội học trở nên
đúng hướng và có hiệu quả.
Đối với triết học - xã hội học với tư cách là một khoa học cụ
thể đã cung cấp thêm các thông tin, dữ liệu quý giá cho triết học trong
quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa thành quy luật ngày càng
chính xác hơn.
Vì vậy, các xu hướng coi xã hội học là một bộ phận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử hoặc coi xã hội học hoàn toàn tách biệt với triết
học đều là sai lầm kể cả trong tư duy khoa học lẫn thực tiễn.
2.2.2. Mối quan hệ giữa xã hội học với tâm lý học
Trong lịch sử phát triển của xã hội học đã từng diễn ra cuộc đấu
tranh để phân định ranh giới hay phạm vi nghiên cứu của xã hội học
và tâm lý học do tính gần gũi và sự đan xen giữa chúng. Điều này thể
hiện ở quan điểm của E.Durkheim và M.Weber.
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý,
quá trình tâm lý và quy luật tâm lý của con người. Trong các công
trình nghiên cứu xã hội học các khái niệm và kết quả nghiên cứu về
tâm lý cá nhân, về các hành vi tâm lý luôn luôn được sử dụng để giải
thích về đời sống xã hội của con người với tư cách là tập đoàn và
nhóm xã hội.
Trong khi đó tâm lý học cũng đang sử dụng các khái niệm, lý
thuyết xã hội học, kể cả một số phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
để nghiên cứu về hiện tượng tâm lý. Trong thực tế, giữa xã hội học và
tâm lý học có những lĩnh vực cả hai cùng quan tâm, tạo ra mảng giao
thoa giữa xã hội học và tâm lý học gọi là tâm lý học xã hội.
2.2.3. Xã hội học và nhân chủng học
Nhân chủng học (Anthropology) ra đời trước xã hội học. Theo
Greenwood và Stini (1977): "Nhân học có thể được định nghĩa là một
ngành học về bản chất con người, xã hội con người và quá khứ con
người. Đây là một ngành học có mục đích miêu tả thế nào là con
người theo một nghĩa rộng nhất có thể có được (Dẫn theo Emily A.

10

about:blank 12/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Schultz Robert H. Lavenda, 2001). Các học giả G.Endruweit và


G.Trommsdortt (2001) cho rằng "nhân học" là khoa học liên hệ với
nhiều ngành về nguồn gốc, tiềm lực và tính đa dạng văn hóa của con
người". Đối tượng khám phá của nhân học là các xã hội tiền sử, cổ
xưa và kể cả xã hội hiện đại.
Trong nhiều quốc gia (ví dụ như Canada, Australia...) người ta
xếp xã hội học và nhân chủng học trong cùng một nhóm ngành. Lý do
cơ bản là chúng có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Cho đến
nay các khái niệm, thuật ngữ và phương pháp nghiên cứu của nhân
chủng học đã được sử dụng rộng rãi trong xã hội học (ví dụ: khái niệm
"văn hóa" của E. Tylor, "nhân học văn hóa", "sinh học xã hội", các
phương pháp như điền dã - quan sát, phỏng vấn cá nhân, v.v...). Dựa
trên lý thuyết và kết quả nghiên cứu của nhân chủng học, các nhà xã
hội học có thể hiểu rõ hơn về các cộng đồng người, các tộc người cụ
thể. Sự ra đời của bộ môn xã hội học tộc người là sự minh chứng cho
mối quan hệ ấy.
Trái lại, xã hội học có ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhân chủng học.
Trong nhiều công trình nghiên cứu dân tộc học các khái niệm như
thiết chế xã hội, cơ cấu xã hội, vai trò xã hội... và các kết quả đo lường
về mặt xã hội đã được các nhà nhân chủng học vận dụng để giải thích
về sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng người có đặc trưng khác
nhau.
2.2.4. Mối quan hệ giữa xã hội học với kinh tế học
Kinh tế học là khoa học nghiên cứu về các hoạt động sản xuất,
tổ chức và quản lý sản xuất cũng như quá trình phân phối sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ của một hệ thống sản xuất xã hội nhất định.
Chính vì vậy, xã hội học và kinh tế học có mối quan hệ rất chặt chẽ
với nhau. Cả kinh tế học và xã hội học đều quan tâm đến các khía
cạnh xã hội của lĩnh vực kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh tế liên quan
đến con người với tư cách là bộ phận cơ bản của lực lượng sản xuất,
cách tổ chức con người trong một hệ thống sản xuất, quan hệ con
người với con người trong sản xuất, vấn đề công bằng giữa lao động
và hưởng lợi, vấn đề điều tiết và kiểm soát người lao động và các tổ
chức sử dụng lao động, v.v... Vì vậy, những thành tựu nghiên cứu của
xã hội học (đặc biệt là xã hội học kinh tế, xã hội học lao động, xã hội
học quản lý, xã hội học nông thôn...) đã trở thành một bộ phận trong
tổng thể tri thức của các nhà kinh tế. Ngày nay, nhiều cuộc điều tra,

11

about:blank 13/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

nghiên cứu của kinh tế học đã sử dụng phương pháp của xã hội học
như phương pháp phỏng vấn cấu trúc, thảo luận nhóm tập trung...
Ngược lại, để giải thích các sự kiện xã hội xuất phát từ giác độ kinh tế,
các nhà xã hội học cần sử dụng các khái niệm và lý thuyết của kinh tế
học để trang bị thêm cho lăng kính của mình (khái niệm lao động,
nguồn vốn, thị trường, ... lý thuyết về sự cân bằng giữa chi phí và lợi
ích...). Việc hình thành nhiều ngành học mang tính giao thoa như xã
hội học kinh tế, xã hội học lao động như đã nói ở trên phần nào chứng
minh cho mối quan hệ của hai lĩnh vực khoa học này.
2.2.5. Mối quan hệ giữa xã hội học và toán học
Sẽ trở nên thiếu sót nếu không đề cập đến mối quan hệ giữa xã
hội học và toán học. Chỉ cần dẫn ra rằng: toán học là công cụ không
thể thiếu của xã hội học trong việc lượng hóa các sự kiện xã hội, xem
xét mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng bằng tương quan giữa các
biến số thì cũng đã thấy sự xâm nhập của toán học vào xã hội học
mạnh mẽ đến mức độ nào.
Ngoài ra, xã hội học còn có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh
vực khoa học khác như luật học, văn hóa học, môi trường, v.v...
3. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC
3.1. Chức năng của xã hội học
Khoa học luận mác – xít đã chỉ ra các chức năng cơ bản của khoa
học bao gồm:
- Chức năng nhận thức.
- Chức năng thực tiễn (chức năng cải tạo thế giới).
- Chức năng giáo dục (chức năng tư tưởng).
Xã hội học là một khoa học, vì vậy bản thân nó cũng đảm
nhiệm 3 chức năng cơ bản nói trên.
* Chức năng nhận thức:
"Con người" và "xã hội" là một trong những vấn đề trung tâm
của quá trình nhận thức. Cùng với các ngành khoa học, xã hội học đã
cung cấp một hệ thống tri thức khoa học về các sự kiện, các hiện
tượng có liên quan đến con người, xã hội, mối quan hệ giữa con người
với xã hội và con người với giới tự nhiên. Qua đó, chúng ta có thể
hiểu rõ hơn, hoàn chỉnh hơn về bức tranh xã hội và con người với các
quan hệ xã hội, cấu trúc xã hội, vị thế và vai trò của các cá nhân trong
hệ thống tổ chức xã hội ấy. Những cách thức tổ chức quản lý xã hội

12

about:blank 14/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

cùng với các giai cấp, tập đoàn xã hội và xu hướng phát triển của các
kiểu, các loại hình xã hội luôn luôn là vấn đề trung tâm của bức tranh
xã hội dưới cách nhìn của xã hội học. Điểm độc đáo là xã hội học dẫn
dắt quá trình nhận thức của chúng ta theo cách riêng của nó. Quá trình
nhận thức ấy đi từ các cuộc khảo sát, thực nghiệm với sự hỗ trợ của hệ
thống khái niệm, lý thuyết và phương pháp thực nghiệm vừa mang
tính định lượng vừa mang tính định tính. Vì vậy, tri thức mà xã hội
học mang lại cho con người vừa mang tính khách quan vừa mang tính
khái quát và tính chính xác cao. Tri thức ấy không phải là kết quả của
lối suy diễn hay võ đoán dựa trên một số hiện tượng tồn tại trước đó.
Chính vì vậy, việc nhận thức về con người và xã hội trong xã hội học
là nhận thức đã được trải nghiệm, đã được chứng minh. Từ hệ thống
tri thức đã được nhận thức theo con đường ấy, con người có thể hiểu
về quy luật xã hội chính xác hơn và rõ ràng hơn.
* Chức năng thực tiễn:
K.Marx cho rằng các nhà khoa học cố gắng để giải thích thế giới,
nhưng vấn đề quan trọng là cải tạo thế giới. Rõ ràng khoa học nảy sinh từ
yêu cầu thực tiễn xã hội và chúng phải quay trở lại phục vụ thực tiễn xã
hội. Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của khoa học nói
chung, khoa học xã hội học nói riêng.
Chức năng thực tiễn của xã hội học được thể hiện trên các phương
diện sau đây:
- Chức năng cầu nối giữa khoa học với thực tiễn xã hội: Xã hội
học vừa vận dụng tri thức khoa học, quy luật xã hội vào việc giải các
vấn đề thực tiễn của xã hội đặt ra, vừa làm cho thực tiễn trở nên hữu
ích khi chúng đóng vai trò là nơi kiểm chứng các tri thức khoa học.
Thông qua kết quả của các công trình nghiên cứu xã hội học, các nhà
quản lý xã hội có thể sử dụng chúng như những cứ liệu tin cậy để đề
ra các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ việc kế hoạch hóa sản
xuất của một cơ sở có tính chất vi mô cho đến toàn bộ nền kinh tế có
tính vĩ mô. Xã hội học còn góp phần tạo ra một phong cách quản lý
kinh tế - xã hội dựa trên thành quả nghiên cứu khoa học, đồng thời
khắc phục tình trạng chủ quan, duy ý chí. Có thể nói không có lĩnh
vực khoa học xã hội nào làm tốt chức năng cầu nối thực tiễn - khoa
học tốt hơn xã hội học. Không những thế xã hội học còn làm tốt các
chức năng cầu nối giữa các nhà khoa học, các nhà quản lý kinh tế - xã

13

about:blank 15/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hội, các nhà xây dựng chính sách với quần chúng nhân dân và các tổ
chức xã hội (Nguyễn Đình Tấn, 2005).
* Chức năng đánh giá - dự báo xã hội: Chức năng này được
thực hiện thông qua các nghiên cứu lý luận và thực nghiệm xã hội
học: Các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội, thực trạng phát triển của
các cộng đồng, của các quốc gia, dân tộc đều được phản ánh trong các
nghiên cứu của xã hội học. Sự đánh giá này vừa có khả năng bao quát
ở trên cấp độ vĩ mô vừa có thể đi vào cấp độ vi mô, vừa bao quát được
trong quá khứ vừa chỉ ra thực trạng hiện tại. Dựa trên cơ sở quy luật,
tính quy luật của sự vận động và phát triển xã hội, kết hợp với các
thông tin, dữ liệu thu thập được tại địa bàn nghiên cứu, qua các khâu
xử lý và phân tích, xã hội học có khả năng dự báo về xu thế vận động
và phát triển của các sự kiện và quá trình xã hội trong tương lai. Vì
vậy, xã hội học được xếp trong số ít các ngành khoa học có khả năng
dự báo xã hội.
Cũng như một số lĩnh vực khoa học khác, trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xã
hội học đã góp phần tích cực vào quá trình hiện thực hóa đường lối,
chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, đưa
chúng đến với quần chúng nhân dân.
Từ các kết quả nghiên cứu về thực trạng và các dự báo xã hội, xã
hội học đã tham gia trực tiếp vào công tác quản lý xã hội bằng việc đưa
ra các khuyến nghị, đề xuất các giải pháp liên quan đến việc xây dựng và
cải thiện thể chế, chính sách và phương thức quản lý kinh tế - xã hội
ngày càng khoa học và có hiệu quả hơn.
* Chức năng giáo dục (chức năng tư tưởng):
Xã hội học thông qua việc cung cấp tri thức khoa học cho con
người đã giúp cho quần chúng hình thành thế giới quan khoa học
trong phân tích và nhìn nhận về các sự kiện xã hội, tránh rơi vào quan
điểm duy tâm hoặc cực đoan khi nhìn nhận xã hội.
Mặt khác, xã hội học tham gia tích cực vào hoạt động nghiên
cứu, nắm bắt tư tưởng, tâm trạng xã hội của các tầng lớp nhân dân. Vì
vậy, nó không chỉ giúp cho Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội quản
lý tốt công tác tư tưởng và dư luận xã hội mà còn có tác dụng định
hướng cho công tác tư tưởng và định hướng cho việc hình thành dư
luận xã hội, góp phần điều chỉnh suy nghĩ và hành vi cho quần chúng
nhân dân theo xu hướng tích cực và đấu tranh với những biểu hiện sai

14

about:blank 16/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

trái, đi ngược lại lợi ích và mục tiêu của cộng đồng, dân tộc và của
nhân loại.
3.2. Nhiệm vụ của xã hội học Việt Nam
Xã hội học Việt Nam vừa mới hình thành còn hết sức non trẻ.
Vì vậy, nhiệm vụ trước mắt và những thập kỷ tới cần tập trung giải
quyết các vấn đề cơ bản sau đây:
- Xây dựng và phát triển hệ thống lý luận xã hội học: Để làm
được nhiệm vụ này trước hết phải cập nhật tri thức xã hội học ở cấp
độ lý thuyết. Ngày nay, lý luận xã hội học của thế giới đã phát triển
vượt bậc so với thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Bản thân các trường
phái xã hội học như trường phái hành vi, trường phái cơ cấu - chức
năng, v.v... cũng đã có sự bổ sung và phát triển so với trước. Nhiều tư
tưởng xã hội học mới đã ra đời dựa trên thực tế phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia, các khu vực và các vùng văn hóa khác nhau. Vì vậy,
cần phải cập nhật hệ thống lý luận xã hội hiện đại của thế giới để tránh
rơi vào tình trạng bị lạc hậu về mặt lý luận.
Bên cạnh đó phải kết hợp việc cập nhật lý luận xã hội học hiện
đại với việc phát hiện ra đặc trưng của các cộng đồng, khu vực khác nhau
để xây dựng lý luận xã hội học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc.
- Cần triển khai các nghiên cứu xã hội học mang tính chất thực
nghiệm nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội của đất nước
đang đặt ra.
Trong thời gian qua lĩnh vực này có chiều hướng tập trung vào
nghiên cứu về dân số học, giới, gia đình... Trong khi đó một số lĩnh
vực khác hầu như chưa được chú ý đúng mức như thiết chế xã hội,
pháp luật và tội phạm, tôn giáo, dân tộc, sắc tộc, môi trường, quản lý
kinh tế - xã hội, v.v...
- Để thực hiện được chức năng cầu nối giữa khoa học và thực
tiễn, ngoài nhiệm vụ triển khai các nghiên cứu thực nghiệm cần đẩy
mạnh các hoạt động triển khai ứng dụng, đưa các kết quả nghiên cứu
về mặt lý thuyết và thực nghiệm vào áp dụng trong thực tiễn đời sống
xã hội. Có như vậy mới làm tăng sức sống của lý luận xã hội học,
đồng thời khắc phục tình trạng xa rời giữa lý luận với thực tiễn. Điều
này chỉ có thể thực hiện được khi các nghiên cứu xã hội học mang tính
chất thiết thực và có khả năng ứng dụng cao.

15

about:blank 17/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Đẩy nhanh quá trình tiếp cận với các phương pháp nghiên cứu
xã hội học hiện đại đã được thể nghiệm và đúc kết ở nhiều nước, đặc biệt
là các phương pháp và kỹ thuật thu thập thông tin, các phần mềm xử lý
thông tin định tính và định lượng.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP


1. Phân tích tính đa dạng trong cách nhìn nhận về đối tượng nghiên cứu của
xã hội học?
2. Cơ cấu của xã hội học? Mối quan hệ giữa xã hội học với các lĩnh vực
khoa học khác?
3. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học? Liên hệ với xã hội học Việt Nam
hiện nay?

16

about:blank 18/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chương II
LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC
1. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA XÃ HỘI HỌC
Các nhà xã hội học đã khẳng định rằng: xã hội học thế giới
chính thức ra đời "vào nửa sau của thế kỷ XIX" và lúc đầu chủ yếu là
ở các nước Tây Âu (Tony Bilton và nhóm tác giả, 1993). Sự ra đời
của xã hội học là sản phẩm trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội -
khoa học và tư tưởng của một số xã hội nhất định. Dĩ nhiên, chúng
đồng thời là sản phẩm của một quá trình chắt lọc và kế thừa các thành
tựu được tạo ra từ các thế kỷ trước đó. Vào thế kỷ XIX, sự phát triển
về kinh tế - xã hội, văn hóa và khoa học đã tạo thành các điều kiện và
tiền đề tất yếu cho sự ra đời của xã hội học.
1.1. Tiền đề kinh tế
Ở thế kỷ XVIII, loài người đã chứng kiến một sự kiện có ý
nghĩa to lớn đối với bước phát triển của các nước Tây Âu đó là cuộc
Cách mạng công nghiệp. Sau cuộc cách mạng tư sản giữa thế kỷ
XVII, nước Anh bước vào một cuộc cách mạng mới - cuộc Cách
mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử. Bản chất
cuộc cách mạng công nghiệp là sự nhảy vọt từ lao động thủ công sang
lao động máy móc bằng sự kiện tiêu biểu như Giêm Hacgrivơ phát
minh ra máy kéo sợi bằng tay (máy Giên ny), Etmôn Accraitơ phát
minh ra máy dệt... Giêm Oát phát minh ra máy hơi nước, Abraham
Đacbi phát minh ra phương pháp nấu than cốc từ than đá để luyện
gang (Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, 2004). Cuộc cách mạng
công nghiệp đã trở thành sự kiện quan trọng trong lịch sử của xã hội
loài người. Xã hội nông nghiệp đã nhường chỗ cho xã hội công nghiệp
ở nhiều nước châu Âu. Xã hội công nghiệp đã chính thức ra đời trong
sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Trong xã hội ấy, sức mạnh của con
người được nhân lên nhờ sự hỗ trợ của khoa học - kỹ thuật, của máy
móc. Điều quan trọng là cuộc Cách mạng công nghiệp đã làm tăng
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, hình thành cơ cấu kinh tế
mới, mở rộng và thống nhất thị trường, v.v... Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đặt ra yêu cầu phải thay đổi phương thức quản lý kiểu
cũ (phương thức quản lý trang trại và công trường thủ công) bằng
phương thức quản lý kinh tế mới phù hợp hơn, khoa học hơn.

17

about:blank 19/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chính cuộc Cách mạng công nghiệp cũng đã tác động mạnh mẽ
lên đời sống xã hội của nước Anh và các nước chịu ảnh hưởng của
cuộc Cách mạng này. Giai cấp thụ hưởng thành quả nhiều nhất từ
cuộc Cách mạng công nghiệp không ai khác là giai cấp tư sản. Khối
lượng của cải làm ra càng nhiều thì càng tăng thêm sự giàu có của các
nhà tư sản. Nhưng ngược lại, giai cấp công nhân lao động trong các xí
nghiệp của họ ngày càng bị bóc lột nặng nề. Không những thế, nhiều
vấn đề xã hội đã nảy sinh như nạn thất nghiệp (do sự thay thế lao động
thủ công bằng lao động máy móc cần phải sắp xếp lại lực lượng lao
động); sự di dân từ nông thôn vào đô thị kiếm việc làm tạo ra sự tập
trung quá mức số đông dân cư trên các đô thị chật hẹp tạo ra các "đô
thị quá tải", sự bành trướng của các tệ nạn xã hội và ô nhiễm môi
trường,v.v...
Có thể nói, sự thay đổi diễn ra trong lĩnh vực kinh tế đã tạo cơ
sở vật chất cho sự ra đời của xã hội học. Để củng cố và phát triển nền
kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh, giai cấp tư sản
đang lên đã chủ trương dựa vào các thành tựu của khoa học. Trong bối
cảnh chung ấy một số ngành khoa học mới đã ra đời trong đó có xã
hội học để góp phần giải quyết nhu cầu thực tiễn ổn định và phát triển
xã hội đang được đặt ra.
1.2. Tiền đề chính trị - xã hội
Thế kỷ XVII và XVIII là thế kỷ của các cuộc cách mạng tư sản.
Cuộc cách mạng tư sản Anh ở thế kỷ XVII được coi là cuộc cách
mạng đầu tiên có ý nghĩa lớn đối với quá trình hình thành chủ nghĩa tư
bản trên phạm vi toàn châu Âu và thế giới (Vũ Dương Ninh - Nguyễn
Văn Hồng, 2004). Tiếp đó là cuộc cách mạng tư sản Mỹ 1776, cách
mạng tư sản Pháp 1789.v.v... Thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản
đã lật đổ thể chế phong kiến xác lập thể chế tư bản chủ nghĩa. Giai cấp
phong kiến bị tước bỏ quyền lực thay vào đó là quyền lực của giai cấp
tư sản. Đây là một biến đổi lớn về mặt chính trị ở các nước này. Sự
thay đổi về giai cấp thống trị đã kéo theo sự thay đổi cách thức tổ chức
xã hội. Trong xã hội phong kiến phương Tây trước đây, tổ chức xã hội
của nhà nước lúc bấy giờ dựa trên sự kết hợp vào vương quyền với
thần quyền. Trong đó quý tộc và tăng lữ có vị trí quan trọng nhất. Sau
cách mạng tư sản, nhà thờ bị tách ra khỏi tổ chức của nhà nước, thay
vào đó là chế độ Nghị viện mang tính chất dân chủ.

18

about:blank 20/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Mặt khác, chế độ tư bản ra đời không phải là sự đoạn tuyệt với
xã hội phân chia giai cấp và chế độ người bóc lột người. Khi giai cấp
tư sản lên cầm quyền cũng là khi trận tuyến đấu tranh giai cấp cũng
bắt đầu sục sôi trở lại. Các chính sách bóc lột của giai cấp tư sản ngay
từ buổi đầu đã gây ra sự phản ứng đối với giai cấp công nhân. Điều
này được Marx và Engel vạch rõ trong bộ "Tư bản" và các tác phẩm
khác. Không những thế, sự phân hóa giai cấp đã gắn liền với sự phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Mâu thuẫn xã hội mà trung tâm là
mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản trở nên hết sức quyết liệt và sâu sắc
dẫn đến sự ra đời và phát triển của phong trào công nhân và công xã
Pari năm 1871.
Không những thế, cơ cấu xã hội cũng trải qua những biến động
to lớn. Sự hình thành các giai cấp tầng lớp xã hội mới (tư sản, công
nhân, công chức, tiểu tư sản thành thị, đặc biệt là sự hình thành giai
cấp vô sản công nghiệp) đã kéo theo sự phân hóa về lối sống, đặc
trưng văn hóa của các giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau dựa trên
địa vị kinh tế - xã hội và khu vực cư trú của họ.
Đứng trước những biến động ấy, một vấn đề được đặt ra là: Làm
thế nào để nhanh chóng thiết lập lại trật tự xã hội và duy trì trật tự xã
hội để tạo điều kiện cho xã hội phát triển? Ngay bản thân những người
tân tiến trong giai cấp tư sản lúc bấy giờ, kể cả E. Durkheim cũng muốn
tìm câu trả lời trong kho tàng tri thức khoa học, sử dụng thành tựu của
khoa học để xây dựng phương thức quản lý xã hội mới.
Mặt khác, trong các cuộc cách mạng tư sản, đại diện là cách
mạng tư sản Pháp các giá trị xã hội như "tự do, bình đẳng, bác ái" đã
được đề cao. Chính yếu tố này đã đạt nền móng cho các tư tưởng tiến
bộ, bình đẳng xã hội. Không những thế, chúng còn khơi dậy tính tự
do, sáng tạo của con người nhằm chiến thắng các khuôn mẫu trói buộc
của các thế lực nhà thờ trước đây. Trong xu hướng chung ấy nhiều nhà
khoa học đã có điều kiện đam mê sáng tạo, mong đem tri thức khoa
học phục vụ cho con người, trong đó có các nhà xã hội học.
1.3. Tiền đề khoa học - lý luận và tư tưởng
Vào thế kỷ XIV phong trào văn hóa Phục hưng xuất hiện ở
Italia, sau đó lan sang các nước khác ở châu Âu. Thế kỷ XVI được coi
là thế kỷ toàn thịnh của nó (Nguyễn Gia và nhóm tác giả, 2003). Đây
là cuộc đấu tranh trên nhiều mặt: văn học, nghệ thuật, khoa học và
triết học, giáo dục, tôn giáo... Thời kỳ Phục hưng trở thành chiếc đòn

19

about:blank 21/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

bẩy cho sự phát triển của khoa học, lý luận, tư tưởng ở các thế kỷ
XVII, XVIII và XIX sau này.
Ngay từ trong thời kỳ Phục hưng, các thành tựu nghiên cứu về
toán học, thiên văn học của Cô-péc-ních (1473 - 1543), của Bru-nô
(1548 - 1600). Ga-li-lê (1564 - 1642), v.v. đã thực sự tuyên chiến với
thế lực nhà thờ và đưa khoa học tự nhiên bước sang một thời kỳ mới.
Ở thế kỷ XVIII và XIX khoa học tự nhiên đạt được nhiều thành
tựu rực rỡ. Tiêu biểu là Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton; Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lô-mô-nô-xốp, Thuyết
tiến hóa của Đác-uyn, v.v... Các thành tựu của khoa học tự nhiên đã
xóa bỏ ảnh hưởng của tôn giáo trong việc giải thích về sự tồn tại của
thế giới, vạch ra quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên. Điều đó đã
có ảnh hưởng lớn đối với khoa học xã hội. Các thành tựu ấy đã khiến
các nhà khoa học xã hội đã đặt vấn đề rằng: phải chăng có thể sử dụng
các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên thì
cũng có thể giải thích được về đời sống xã hội và tìm ra quy luật vận
động và phát triển xã hội? Chính vì vậy, ý tưởng hình thành một
ngành khoa học dựa trên phương pháp của khoa học tự nhiên đã nảy
sinh trong tư duy khoa học của A. Comte; H. Spencer.v.v.
Trước thời kỳ Phục hưng, nền triết học kinh viện đã thống trị tư
duy con người. Triết học kinh viện cho rằng: "đối với các hiện tượng
tự nhiên người ta không cần phải quan sát, thí nghiệm mà chỉ cần
dùng phương pháp tư duy trừu tượng cũng có thể đạt đến chân lý" (Vũ
Dương Ninh, 2004).
Từ văn hóa phục hưng, dòng triết học duy vật đã phê phán
mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và triết học kinh viện. Từ đó, triết học
bước vào thời kỳ phát triển mới với các trào lưu mới như triết học
thực chứng (cái đối lập với triết học kinh viện và tư duy ngụy biện) và
dòng triết học duy vật. Hai trào lưu triết học này có ảnh hưởng rất lớn
đối với sự ra đời và phát triển của xã hội học bởi chúng đã cung cấp
về thế giới quan và phương pháp luận cho xã hội học trong quá trình
nhìn nhận và phân tích các sự kiện và quá trình xã hội.
Thế kỷ XVII, XVIII và XIX cũng là những thế kỷ chứng kiến
sự ra đời và phát triển của các học thuyết xã hội và các hệ tư tưởng
tiến bộ. Trước hết là học thuyết về quyền tự do cá nhân. Quyền tự do
cá nhân, quyền con người không chỉ xuất hiện trong cách mạng tư sản
Pháp mà còn xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, trong

20

about:blank 22/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hệ tư tưởng của Jonh Stuart Mill. Trong cuốn Luận về tự do, ông đã
nêu lên nguyên tắc là cá nhân có thể làm bất cứ điều gì không hại đến
người khác, không vi phạm quyền tự do của người khác (Vũ Dương
Ninh, 2004). Alixis De Tocqueville cũng ca ngợi tinh thần dân chủ và
coi trào lưu dân chủ là không thể dập tắt.
Các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XVIII như Saint
Simon (1760 - 1825); Charles Fourrier (1772 - 1837); Robert Owen
(1771 - 1858), v.v... đã đề cao vấn đề giải phóng con người, xây dựng
xã hội bình đẳng dựa trên việc kêu gọi lòng nhân ái của con người,
kêu gọi sự thương yêu đoàn kết lẫn nhau. Tuy con đường đi đến chủ
nghĩa xã hội của họ là không tưởng nhưng việc đề cao giá trị tự do,
dân chủ đã khuyến khích sự sáng tạo của con người trong việc khám
phá tri thức mới, chân lý mới. Không những thế một số nhà khoa học
cho rằng, tư tưởng xã hội của họ còn chứa đựng các vấn đề của xã hội
học. Đối với Saint Simon (1760 - 1825), ông đã đề cập tới lĩnh vực
khoa học về sự tổ chức xã hội mà ông gọi là "sinh lý học xã hội"
(Social physiology). Ông đã phân tích một cách sâu sắc nhiều vấn đề
về khía cạnh giai cấp xã hội, phân kỳ xã hội và mối quan hệ giữa hệ tư
tưởng và cách thức xã hội. Ông coi xã hội như một loại cơ thể sinh
học vận động và biến đổi theo quy luật tự nhiên (Nguyễn Đình Tấn,
2005). Chính Anguste Comte cũng chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ tư
tưởng xã hội cũng như phương pháp luận khoa học của Saint Simon
và các nhà tư tưởng xã hội khác.
Người ta còn có thể tìm thấy những nền tảng tư tưởng xã hội
học trong các nhà khoa học ở thế kỷ Ánh sáng (thế kỷ XVIII).
Montesquieu (1689 - 1755) được Durkheim coi là "người đi
tiên phong trong việc xác định đối tượng và phương pháp xã hội học".
Ông cho rằng "khoa học xã hội có nhiệm vụ miêu tả, phân loại các sự
kiện thực mà nó nghiên cứu"; "do vậy, cần phải sử dụng phương pháp
quan sát trong việc tìm hiểu hiện thực xã hội" (Nguyễn Đình Tấn,
2005, tr. 20). Ông cũng là người đã đề cập đến các vấn đề như cấu
trúc xã hội, các thành tố của cấu trúc xã hội, thiết chế xã hội. Các nhà
kinh tế học người Anh như Adam Smith (1723 - 1790), David Ricardo
(1772 - 1823) đã đề cập đến quan hệ xã hội của con người trong nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa đồng thời quan tâm đến vấn đề tự do cá
nhân; các cá nhân phải được tự do thoát ra khỏi những ràng buộc và
hạn chế bên ngoài để tự do cạnh tranh. Có như vậy, các cá nhân mới
tạo ra được một xã hội tốt đẹp hơn (Lê Ngọc Hùng, 2002).

21

about:blank 23/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Tóm lại, sự phát triển của khoa học - lý luận và tư tưởng trong
nhiều thế kỷ trước đó đã tạo nền tảng vững chắc cho sự ra đời của xã
hội học. Đặc biệt là việc hình thành phương pháp luận khoa học, các
phương pháp nghiên cứu khoa học mang tính chính xác cao và việc
tạo ra những luồng tư tưởng xã hội mới, đề cao các giá trị nhân bản
của con người là những yếu tố cần thiết cho xã hội học nảy sinh và
phát triển.

2. SỰ PHÁT TRIỂN TRI THỨC XÃ HỘI HỌC


Lịch sử hình thành và phát triển của tri thức xã hội học cũng
chính là sự hình thành và phát triển của lý luận và phương pháp xã hội
học. Trong buổi đầu, sự hình thành và phát triển lý luận và phương
pháp xã hội học gắn liền với đóng góp của các nhà xã hội học như
Auguste Comte, Karl Marx ; Emile Durkheim, Herbert Spencer và
Max Weber,v.v...
2.1. Auguste Comte (1798 - 1857)
Auguste Comte là nhà toán học, nhà vật lý và nhà thiên văn học
người Pháp. Hơn hết, ông được biết đến với tư cách là một nhà triết
học thực chứng và là ông tổ của nền xã hội học thế giới.
Sinh ra trong một gia đình Gia Tô giáo mang tính thủ cựu nhưng
trưởng thành trong thời kỳ cách mạng Pháp. Vì vậy, ông đã sớm chịu
ảnh hưởng của tư tưởng tiến bộ từ cuộc đại cách mạng này. Năm 1814
ông vào học ở trường đại học bách khoa. Ở đây ông đã dành phần lớn
thời gian để quan sát và phản ánh kịch tính của con người đang diễn ra
quanh mình (J.Macionis). Năm 1817 ông làm thư ký cho Saint Simon.
Sau đó ông trở thành giảng viên trong một trường đại học ở Pháp.
Trong sự nghiệp nghiên cứu xã hội học của mình, A. Comte đã
để lại cho thế giới những tác phẩm có giá trị như :
- Giáo trình triết học thực chứng(1830-1842)
- Hệ thống chính trị thực chứng (1851-1854)
Các tác phẩm này đã thể hiện rõ sự đóng góp trên phương diện
lý luận xã hội học của ông đối với nền xã hội học thế giới và xã hội
học của nước Pháp.
Trước hết, với tư cách là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ xã hội
học (Sociology) và là người sáng lập ra ngành Vật lý học xã hội. A.
Comte đã nỗ lực xác định về đối tượng nghiên cứu của xã hội học.

22

about:blank 24/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Ông cho rằng xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quy luật tổ
chức xã hội. Theo ông "các quy luật biểu thị đặc điểm xã hội cũng như
tự nhiên đều do các định luật vật lý chi phối" (J. Macionis, 2004).
J.Macionis bình luận: "Ngày nay ít người tán thành sự so sánh hoạt
động xã hội theo quy luật tự nhiên, nhưng hầu hết họ đều thừa nhận
rằng nghiên cứu xã hội nên quan tâm đến tính ổn định xã hội lẫn thay
đổi xã hội. Hầu hết các nhà xã hội học cũng nhất trí xã hội nên dựa
trên các phương pháp khoa học càng tốt”.
Sống trong bối cảnh nước Pháp đang trải qua nhiều biến cố lớn,
ông cho rằng khoa học xã hội phải có nhiệm vụ "góp phần tổ chức lại
xã hội và lập lại trật tự xã hội dựa vào các quy luật tổ chức và biến đổi
xã hội do xã hội nghiên cứu phát hiện được" (Theo Lê Ngọc Hùng,
2001). Ông kêu gọi kết nối khoa học với thực tiễn. Các nhà học thuyết
Pháp không nên đơn giản đưa cho xã hội học một cái tên, ông cho
rằng cần phải đi xa hơn nữa bằng một khát vọng thay đổi thế giới (R.T
Schaefer, E.Smith, 2004).
Về cơ cấu của xã hội, ông cho rằng chúng được tạo thành từ 2
bộ phận cơ bản: tĩnh học xã hội và động học xã hội.
Theo ông, tĩnh học xã hội nghiên cứu xã hội ở trạng thái tĩnh
hay xã hội ở trạng thái ổn định. Tĩnh học xã hội sẽ xem xét về cơ cấu
xã hội, trật tự xã hội.
Động học xã hội nghiên cứu về sự biến đổi của xã hội, các yếu
tố tạo ra sự biến đổi xã hội để tìm ra quy luật vận động của xã hội.
Có thể nói lý thuyết xã hội của ông về xã hội đã được thể hiện
trong quan niệm về động học xã hội và tĩnh học xã hội nói trên.
Trước hết là cách nhìn của ông về cơ cấu xã hội. Ông cho rằng:
Cá nhân gia đình các thiết chế xã hội và tổ chức xã hội, gia đình là các
thành phần cơ bản nhất tạo thành xã hội. Trong thời kỳ đầu ông đã có
cách nhìn đúng đắn về cá nhân, ông coi cá nhân yếu tố cơ bản của cấu
trúc xã hội. Cá nhân là một tập hợp, một hệ thống gồm: Các năng lực
và các nhu cầu đã có sẵn; các năng lực và nhu cầu tiếp thu được từ bên
ngoài. Sau đó ông đã loại bỏ quan điểm này và cho rằng nghiên cứu
về cá nhân không phải là nhiệm vụ của khoa học xã hội mà là của sinh
vật học. Khi nghiên cứu về con người ông cho rằng bản chất con
người thể hiện qua các yếu tố như: hành động, lý trí và tình yêu
thương con người. Tình yêu thương là nền tảng chi phối hành động, lý
trí là sự kiểm soát hành động.

23

about:blank 25/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Mặt khác, ông cho rằng trong cơ cấu xã hội có sự tồn tại của
các thiết chế xã hội mà gia đình là một hình thức cụ thể của thiết chế,
một đơn vị cơ bản có mặt trong mọi loại hình xã hội. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng: Các nghiên cứu của A. Comte về gia đình tuy
còn giản đơn như ông đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản của gia đình
như "thành phần và cấu trúc của gia đình, sự phân lao động nam nữ
trong gia đình và quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt
là quan hệ giữa cha mẹ và con cái" (Theo Lê Ngọc Hùng, 2002).
Các nhà xã hội học đánh giá cao học thuyết của A.Comte về xã
hội khi ông nhìn nhận sự tồn tại của xã hội như một hệ thống có cấu
trúc. Mỗi một xã hội đều có một cấu trúc tổng thể được tạo thành từ
các cấu trúc nhỏ và đơn giản hơn. Vì vậy, để hiểu được hệ thống cấu
trúc xã hội lớn cần phải hiểu được cấu tạo, đặc điểm, thuộc tính và
mối liên hệ của các tiểu cấu trúc. Sự vận động và biến đổi của xã hội
sẽ diễn ra thông qua sự tiến hóa của các cấu trúc từ đơn giản đến phức
tạp, từ thấp đến cao và gắn liền với sự phân hóa, đi đến chuyên môn
hóa và sự liên kết giữa các tiểu cấu trúc.
Như đã đề cập đến ở phần trước, tình hình chính trị - xã hội của
nước Pháp ở thế kỷ XVIII luôn luôn thúc đẩy Comte tìm kiếm giải
pháp để ổn định và duy trì trật tự xã hội. Đây là khát vọng và mong
muốn của ông với tư cách là một nhà khoa học, một công dân của
nước Pháp. Ông cho rằng xã hội cũng như con người, chúng cũng có
nguy cơ bệnh tật vì vậy muốn chữa bệnh cho xã hội thì cũng phải tìm
căn nguyên của nó bằng việc chẩn trị bệnh lý xã hội và hiểu về sinh lý
bệnh xã hội. Ông cho rằng cần phải sử dụng các thiết chế xã hội, coi
thiết chế xã hội là công cụ và phương tiện để thiết lập và duy trì trật tự
xã hội. Bên cạnh đó các yếu tố tinh thần xã hội, sự phân công lao động
xã hội cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tạo ra và duy trì
trật tự xã hội. Quan điểm này được khẳng định rõ khi ông cho rằng
thiết chế nhà nước sẽ tập trung quyền lực vào tay chính phủ. Chính
phủ sẽ điều tiết và liên kết các tiểu cấu trúc trong hệ thống xã hội.
Ngoài ra các yếu tố như trí tuệ, đạo đức, thiện chí và sự giao cảm giữa
các thành viên trong xã hội sẽ đóng vai trò duy trì sự liên kết và ổn
định xã hội.
Nếu K.Marx nhấn mạnh hơn đến mặt trái của tôn giáo thì A.
Comte lại khai thác những điểm mạnh của tôn giáo. Ông cho rằng:
"Tôn giáo tạo ra niềm tin giúp con người vượt qua những cảm giác cô
đơn, sợ hãi để cùng nhau đạt mục tiêu chung" (Theo Lê Ngọc Hùng,

24

about:blank 26/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

2002). Tuy nhiên trong quy luật 3 giai đoạn, việc nhận định về trình
độ phát triển của xã hội ở ba giai đoạn khác nhau của xã hội loài
người gắn với vai trò lãnh đạo của các thầy tu ở giai đoạn tư duy thần
học và các nhà khoa học trong giai đoạn tư duy thực chứng đã cho
thấy ông không tuyệt đối hóa vai trò cả tôn giáo, ngược lại ông nhìn
thấy những mặt trái của tôn giáo khi đặt nó trong mối quan hệ với phát
triển xã hội.
Một trong những quan điểm tiến bộ của Comte khi nghiên cứu
về xã hội là ông nhìn thấy sự vận động và biến đổi của xã hội và ông
gắn sự vận động và biến đổi ấy với quan điểm lịch sử. Ông cho rằng
sự phát triển của xã hội gắn với sự phát triển của tư duy hay trí tuệ của
con người. Ông phân chia sự phát triển của tư duy ra làm 3 giai đoạn:
giai đoạn tư duy thần học, giai đoạn tư duy siêu hình và giai đoạn tư
duy thực chứng. Tương ứng với ba giai đoạn của tư duy là ba thời kỳ
lịch sử khác nhau của xã hội loài người.
- Giai đoạn tư duy thần học. J.Macionis phân tích ý tưởng của
Comte rằng: Đây là giai đoạn sơ khai, hệ thống tri thức của con người
được hình thành dựa trên sự phản ánh của tác động siêu nhiên chẳng
hạn như ước muốn của Chúa. Niềm tin vào một kế hoạch thần thánh
đối với xã hội. Theo Comte: "Giai đoạn tư duy thần học, con người
nhận thức dựa trên cơ sở qui những sự kiện với những tâm linh của
những tác nhân có tính siêu nhiên" (Vũ Hào Quang, 2002). Tương ứng
với giai đoạn tư duy này là một xã hội phát triển ở trình độ thấp. Con
người chưa được giải phóng ra khỏi sự tưởng tượng huyền bí do sự
hạn chế trong việc khám phá tự nhiên và xã hội cũng như hoạt động
cải tạo tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của con người. J.Macionis
cho rằng Comte coi giai đoạn này tương đương với thời kỳ cổ đại và
một phần thời kỳ phong kiến trong lịch sử châu Âu. Thời kỳ này thầy
tu là người lãnh đạo xã hội.
- Giai đoạn tư duy siêu hình: Là giai đoạn kế tiếp thời kỳ thần
học. Tư duy con người vẫn chưa thoát khỏi sự tưởng tượng nhưng
chúng có vẻ hiện thực hơn, có tính kiểm chứng hơn. Giai đoạn này
tương đương với những thế kỷ sau cùng của thời đại phong kiến ở
châu Âu. Tiếp cận siêu hình được minh họa bằng các tác phẩm của
triết gia Anh - Thomas Hobbes (1588 - 1679), ông cho rằng xã hội là
sự phản ánh bản chất con người mang tính ích kỷ cố hữu . Mặt khác,
trong giai đoạn này tuy các cuộc chiến tranh vẫn tiếp tục xảy ra, các
nhà thông thái, các nhà triết học thống trị xã hội nhưng các tổ chức xã

25

about:blank 27/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hội được tổ chức mềm dẻo và linh hoạt hơn để hướng tới các mục tiêu
phát triển kinh tế hơn là mục tiêu quân sự.
- Giai đoạn tư duy thực chứng tương ứng với giai đoạn này là
thời kỳ xã hội công nghiệp - hay giai đoạn khoa học. Thời kỳ này xã
hội do các nhà khoa học và các nhà thực chứng lãnh đạo. Đây là thời
kỳ phát triển xã hội loài người và thời kỳ các hiện tượng trong đời
sống xã hội cũng như quy luật xã hội được khám phá bởi tư duy thực
chứng thông qua quan sát và đo lường xã hội.
Ba giai đoạn này phát triển kế tiếp nhau, giai đoạn trước tạo
tiền đề cho giai đoạn sau, mặc dù mỗi giai đoạn có những đặc trưng
riêng.
Việc phân chia sự phát triển tư duy con người và sự phát triển
của xã hội theo 3 giai đoạn nói trên người ta gọi là quy luật ba giai
đoạn của Comte. Trong quy luật này ông đã nhấn mạnh đến vai trò
của tư duy, của tư tưởng mà con người - chủ thể xã hội đã tạo ra qua
các giai đoạn lịch sử. Nhưng điều đáng tiếc là ông đã không cho thấy
vai trò tác động của điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự phát triển của
tư duy và của hệ tư tưởng. Trong thực tế, sự tiến bộ của kinh tế - xã
hội sẽ trở thành nền tảng của sự tiến bộ về tư duy và hệ tư tưởng của
các thời đại.
Theo quy luật ba giai đoạn này, nhìn chung các xã hội đầu phải
lần lượt trải qua các giai đoạn, nhưng tốc độ và thời gian tiến triển xã
hội có thể khác nhau tùy thuộc vào quy mô và mật độ dân số, mức
sinh, mức chết (mức tử) của dân số và các điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa và học vấn của xã hội đó (Theo Lê Ngọc Hùng, 2002).
Trong lý thuyết xã hội của Comte còn chứa đựng quan điểm
phân loại xã hội dựa trên tính chất và trình độ phát triển của các xã hội
khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau. Ông chia xã hội thành
3 loại: Xã hội quân sự, xã hội pháp quyền và xã hội công nghiệp.
- Xã hội quân sự: Xã hội này tương ứng với giai đoạn tư duy
thần học và gắn với các cuộc chiến tranh giữa các tộc người, giữa các
quốc gia. Đây là xã hội do các thầy tu và các nhà quân sự lãnh đạo.
Trong đó thế lực của nhà nước cầm quyền gắn liền với thế lực của tôn
giáo. Nhà nước không có tôn giáo không thể tồn tại được. Ngược lại
tôn giáo là một yếu tố tinh thần phải được biểu hiện thông qua yếu tố
vật chất đó là nhà nước (Vũ Hào Quang, 2002).

26

about:blank 28/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Trong xã hội quân sự, các tổ chức xã hội và thậm chí đời sống
cá nhân cũng được tổ chức theo một khuôn mẫu cứng nhắc và mang
tính quân sự.
- Xã hội pháp quyền: Xã hội này tương ứng với giai đoạn tư
duy siêu hình. Trong xã hội này, các nhà hiền triết và các nhà thông
thái nắm vai trò quản lý xã hội. Vai trò của các tổ chức tôn giáo và tổ
chức quân sự suy yếu dần. Xã hội dân sự hình thành dựa trên cơ sở
pháp quyền. Các tổ chức xã hội hoạt động mềm dẻo và linh hoạt hơn.
- Xã hội công nghiệp: Đây là loại hình xã hội dựa trên tri thức
khoa học. Các nhà khoa học và tư tưởng khoa học trở thành lực lượng
chủ đạo trong xã hội công nghiệp. Xã hội công nghiệp có trình độ phát
triển cao hơn hẳn xã hội quân sự và xã hội pháp quyền.
A. Comte không chỉ được biết đến là người sáng lập ra nền xã
hội học thế giới trên phương diện lý luận xã hội học mà còn bởi những
đóng góp về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu xã hội học
của ông.
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của triết học thực chứng, các quan
điểm của Saint Simon và của quan điểm sinh học, ông là một trong
những nhà xã hội học đầu tiên chủ trương ứng dụng phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên để nghiên cứu xã
hội. Việc ông sáng lập ra một ngành khoa học mới và đặt tên là "Vật
lý học xã hội" đã thể hiện ý tưởng đó. Ông cho rằng: tiếp cận khoa học
dựa trên sự khẳng định rằng xã hội giống như thế giới vật lý hoạt động
theo các lực và mẫu bên trong. Ông cũng lập luận rằng: "Tại sao
không ứng dụng cùng các phương pháp khoa học để hiểu biết xã hội,
con người?". Ông tin rằng phương pháp luận thực chứng sẽ giúp con
người hiểu về xã hội và quy luật vận động của xã hội cũng như các
nhà khoa học tự nhiên đã tìm ra bản chất và quy luật vận động của
giới tự nhiên.
Trong phát triển các phương pháp xã hội học, ông đưa ra 4
phương pháp chủ yếu: Quan sát, thực nghiệm so sánh và phân tích lịch
sử.
- Phương pháp quan sát: A. Comte không tán thành việc nghiên
cứu mà không có quan sát. Theo ông, nghiên cứu xã hội cũng như
nghiên cứu các hiện tượng vật lý, hóa học cần phải quan sát và thu
thập bằng cứ về các sự kiện xã hội. Quan điểm của ông khác với triết
học tư biện, suy diễn hay võ đoán.

27

about:blank 29/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Durkheim đã coi phương pháp xã hội học và phương pháp so


sánh đồng nghĩa với nhau (C. P. Jean, 2002). Để quan sát có hiệu quả
ông đưa ra các quy tắc của sự quan sát như sau:
+ Quan sát phải có mục đích: Nhằm định hướng cho hoạt động
quan sát và nâng cao hiệu quả của hoạt động quan sát (thu thập thông
tin có mục đích).
+ Quan sát phải gắn liền với lý thuyết trên cơ sở nắm bắt quy
luật của các hiện tượng trong đời sống xã hội.
+ Quan sát không giáo điều, không triết lý suông.
- Phương pháp thực nghiệm: Trong quan niệm của Comte, xã
hội học có thể và phải là khoa học thực nghiệm về các hiện tượng xã
hội. Quan điểm này thể hiện rõ trong cuốn Sự phân công lao động xã
hội của ông. Ông phân biệt hai loại thực nghiệm: Thực nghiệm thuần
túy" và "thực nghiệm gián tiếp hay phương pháp so sánh. Trong thực
nghiệm thuần túy các hiện tượng có thể được tạo ra theo phương pháp
nhân tạo tùy theo ý tưởng của nhân dân quan sát. Tuy nhiên đây là
phương pháp khó thực hiện. Thực nghiệm gián tiếp được thực hiện
bằng so sánh lịch sử hay xã hội học mà tư duy lý luận xuất phát từ
thực tiễn của sự so sánh. Ông cho rằng thực nghiệm xã hội về cơ bản
gần giống thực nghiệm trong tự nhiên. Tuy nhiên theo Comte thực
nghiệm xã hội khó thành công hơn thực nghiệm của khoa học tự
nhiên. Thậm chí có thể không tiến hành được trong phòng thí nghiệm
do tính chất vĩ mô của hệ thống xã hội. Nhà xã hội học có thể tạo ra
những điều kiện nhân tạo gần giống như thật ở bên ngoài phòng thí
nghiệm để tác động vào các hiện tượng xã hội đang diễn ra nhằm nắm
bắt bản chất và thuộc tính của chúng.
- Phương pháp so sánh: Đối với Comte, so sánh là một phương
pháp quan trọng để nghiên cứu xã hội. So sánh là cơ sở giúp cho nhà
nghiên cứu nhận thấy sự giống và khác nhau của các hiện tượng xã
hội, và hiểu chính xác hơn về bản chất của một xã hội nào đó. Trong
phép so sánh có thể so sánh quá khứ với hiện tại hoặc so sánh các hiện
tượng trong cùng một điểm. Mỗi phép so sánh đều cho một giá trị
khoa học nhất định.
Có thể nói, với vai trò là người khai phá một miền đất mới cho
sự phát triển của khoa học, A. Comte xứng đáng được ghi tên tuổi
trong hàng ngũ những nhà xã hội học lỗi lạc nhất của thế giới thế kỷ
XIX.

28

about:blank 30/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

2.2. Karl Marx (1818 - 1883)


Karl Marx sinh ra tại Trier, Rhinelan thuộc nước Đức. Ông tốt
nghiệp ngành luật tại trường Đại học Tổng hợp Bonn năm 1835 và
tiếp tục tu nghiệp tại trường tổng hợp Berlin. Sau khi nhận bằng tiến
sỹ ông làm biên tập viên cho một tờ báo ở Rhei - Nische Zeitung. K.
Marx là nhà triết học duy vật lỗi lạc của thế kỷ XIX, đồng thời là một
nhà kinh tế chính trị học, nhà xã hội học và là lãnh tụ kiệt xuất của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Các tác phẩm chính có liên
quan đến xã hội học bao gồm:
- Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848)
- Sự khốn cùng của triết học (1847).
- Góp phần phê phán kinh tế chính trị học (1859).
- Tư bản (1863 - 1867)...
Các nhà xã hội học hiện đại người Anh đã xếp lý thuyết xã hội
học của Marx là loại hình "lý thuyết lịch sử và cấu trúc". Một mặt,
một số nhà nghiên cứu phê phán lý thuyết của Marx trên một số
phương diện như "thuyết quyết định luận kinh tế quá đơn giản"..., thì
mặt khác họ rất trân trọng trước những đóng góp của Marx đối với sự
hình thành tri thức xã hội học thế giới ở thế kỷ XIX.
Trước hết, Marx là người có đóng góp lớn trong việc khám phá
quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người. Đặt trong bối
cảnh sự phát triển của thực tiễn lịch sử - xã hội thế kỷ XVII, XVIII và
XIX, vấn đề trăn trở của các nhà khoa học lúc bấy giờ là làm thế nào
để tìm ra quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người? Làm
thế nào để thoát ra khỏi sự giải thích sai lệch về sự tồn tại và phát triển
của xã hội và con người của tôn giáo? Trong bối cảnh ấy. Cách lý giải
của Marx như một nỗ lực để giải quyết vấn đề nói trên.
Qui luật vận động và phát triển của xã hội loài người được ông
trình bày trong "Lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội" thuộc chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Theo Marx, "hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển
lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy (Giáo trình Triết học Mác - Lê Nin, 2006). Theo Marx,

29

about:blank 31/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

xã hội loài người từ cổ xưa cho đến thời kỳ hiện đại trải qua 5 hình
thái kinh tế - xã hội cơ bản: Xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội
chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản và sẽ tiến tới xã hội
cộng sản. Điều đó chứng tỏ xã hội loài người luôn luôn vận động và
phát triển. Tuy nhiên vấn đề cơ bản là sự thay thế giữa các hình thái
kinh tế - xã hội đó diễn ra như thế nào? Hay nói cách khác làm thế nào
để xã hội chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh
tế - xã hội khác cao hơn?
Marx đã đi từ hoạt động sản xuất vật chất của con người để giải
thích về sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ông cho rằng con người
cần có các nhu cầu về ăn, ở, mặc trước khi nói đến làm nghệ thuật,
chính trị, đạo đức.v.v... Vì vậy sản xuất vật chất là nhu cầu khách
quan của đời sống xã hội. Để sản xuất vật chất, con người phải tạo ra
những phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách
thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan
hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất được hiểu là yếu tố biểu đạt mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, chúng là sự kết hợp giữa người lao động
với tư liệu sản xuất. Trong quá trình ấy, con người với tư cách là chủ
thể có ý thức đã sử dụng công cụ lao động mà họ chế tạo, phát minh
được kết hợp với tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng của mình để tạo ra
sản phẩm cho chính bản thân anh ta và cho xã hội.
Quá trình lao động sản xuất cũng đã làm nảy sinh mối quan hệ
giữa người với người mà ông gọi là "quan hệ sản xuất". Quan hệ sản xuất
là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Chúng bao
gồm: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức
và quản lý sản xuất và quan hệ trong phân phối sản phẩm. Trong đó vấn
đề sở hữu tư liệu sản xuất trở thành vấn đề trung tâm của quan hệ sản
xuất.
Marx cho rằng: Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, là yếu tố năng
động và thường xuyên biến đổi. Còn quan hệ sản xuất là hình thức - là
yếu tố tương đối ổn định. Như vậy chính lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất cùng với mối quan hệ giữa chúng đã tạo thành phương
thức sản xuất (phương thức sản xuất được coi là cách thức con người

30

about:blank 32/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

sử dụng để tạo ra sản phẩm cho xã hội). Trong điều kiện phát triển
bình thường của phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất phát triển
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng do
lực lượng sản xuất là yếu tố năng động, luôn luôn biến đổi cho nên sự
biến đổi của lực lượng sản xuất đã làm cho quan hệ sản xuất trước đó
vốn phù hợp nay không còn phù hợp nữa, sự mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất đã xuất hiện đến một chừng mực nào
đó sẽ trở thành mâu thuẫn đối kháng và đòi hỏi sự thay thế phương
thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới phù hợp hơn. Sự
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới sẽ dẫn
đến sự thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất
mới. Sự thay đổi của các quan hệ kinh tế đã làm biến đổi cơ sở hạ
tầng. Và đến lượt nó cơ sở hạ tầng buộc kiến trúc thượng tầng sẽ biến
đổi theo. Kết quả của quá trình phát triển nội tại ấy đã dẫn đến sự thay
thế hình thái kinh tế -xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế - xã hội
mới, mà theo quy luật chung là hình thái kinh tế - xã hội ra đời sau sẽ
phát triển cao hơn hình thái kinh tế - xã hội trước đó. Marx viết: "Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên" (K. Marx và Engel, 1993).
Có thể coi đây là một trong những phát hiện vĩ đại của Marx.
Trên góc độ xã hội học, việc Marx phát hiện ra quy luật vận động và
phát triển của xã hội loài người đã góp phần bác bỏ quan niệm và sự
giải thích sai lệch của tôn giáo về sự tồn tại và phát triển của xã hội là
do sức mạnh của các đấng siêu nhiên. Không những thế, ông còn mở
ra một cách nhìn mới về sự phát triển xã hội và nguyên nhân của sự
phát triển ấy.
Lý thuyết xã hội của Marx còn là sự giải thích về con người,
bản chất của con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Vấn đề "con người" luôn luôn trở thành vấn đề trung tâm của
các lý thuyết xã hội. Nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng đã tìm cách lý
giải về con người và đưa ra những khuynh hướng tiếp cận khác nhau.
Marx cho rằng "con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã
hội". Nhưng chỉ có thể hiểu được về con người khi đặt con người
trong quá trình lao động sản xuất. Chỉ có thành quả hoạt động lao
động sản xuất thì con người mới bộc lộ năng lực sáng tạo của mình,
hay nói theo cách của Engels "lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên
của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một

31

about:blank 33/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người" (K. Marx và Engel, 1994).
Mặt khác lao động sản xuất không chỉ tạo ra của cải vật chất cho
xã hội mà còn bộc lộ mối quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất và cách thức mà con người sáng tạo như thế nào. Cách
nhìn của Marx gợi mở cho xã hội học khi xem xét về con người cần tìm
hiểu các yếu tố cản trở sự phát triển và tiến bộ của họ như chế độ chiếm
hữu tư nhân, sự bóc lột, sự tha hóa lao động, điều kiện lao động của con
người. Trong đó, các nhà xã hội học Anh rất quan tâm đến vấn đề tha
hóa lao động trong mối quan hệ với trí tuệ và năng lực sáng tạo của con
người, nhất là trong xã hội tư bản. Họ làm rõ tư tưởng của Marx rằng: "Ở
đây người công nhân bị buộc vào cổ máy để làm công việc vô nghĩa...
Họ bị buộc phải bán khả năng làm việc (sức lao động của họ) cho người
chủ như một sản phẩm mua bán được sáng tạo của con người trở thành
đối tượng được mua với giá rẻ nhất". Việc xóa bỏ rào cản của sự sáng tạo
lao động, xóa bỏ hiện tượng tha hóa chỉ có thể là "các quan hệ kinh tế cơ
bản sinh ra nó phải bị thủ tiêu - bằng phương tiện cách mạng. Toàn bộ
cấu trúc xã hội phải được thay đổi" (Tony Bilton và nhóm tác giả, 1993).
Khi nhìn nhận về xã hội, Marx nhìn xã hội với tư cách là hệ
thống. Hệ thống ấy tồn tại dựa trên các hình thái kinh tế - xã hội với
cấu trúc bên trong bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
phương thức sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng. Trong
quan điểm của Marx, khi xem xét về cơ cấu xã hội, đặc biệt nhấn
mạnh đến các giai cấp xã hội và mối quan hệ giữa chúng. Bởi vì cơ
cấu giai cấp là sự biểu hiện ra bên ngoài của cơ cấu kinh tế trong một
hệ thống xã hội. "Khái niệm phương thức sản xuất cung cấp một nền
tảng để phân tích những kiểu cấu trúc xã hội" (Tony Bilton, 1993).
Với quan điểm lịch sử - cấu trúc, ông coi nhà nước là bộ phận quan
trọng của xã hội. Ông nghiên cứu lịch sử ra đời và phát triển của nhà
nước qua các thời kỳ lịch sử khác nhau với chức năng gần như luôn
luôn để ủng hộ vị trí cao hơn của giai cấp hoặc nhóm thống trị đối với
giai cấp hoặc nhóm phía dưới (J.Veugelers, 2001).
Lý thuyết cơ cấu giai cấp xã hội của Marx gắn liền với quan
điểm phân tầng và bất bình đẳng xã hội của ông. Ông cho rằng trong
xã hội có giai cấp tất yếu có sự áp bức, bóc lột giai cấp. Việc phân
chia xã hội thành giai cấp, thành kẻ giàu người nghèo, kẻ có quyền và
người vô quyền bắt nguồn từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Ông đặc biệt phân tích sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản

32

about:blank 34/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

và mâu thuẫn gay gắt giữa các ông chủ sở hữu tư liệu sản xuất với giai
cấp vô sản phải bán sức lao động để kiếm sống. Chính quyền sở hữu
tư liệu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất tạo nên địa vị kinh tế - xã hội
của cá nhân và giai cấp trong hệ thống xã hội. Mặt khác, Marx cũng
cho rằng giai cấp làm chủ phương tiện sản xuất vật chất, đồng thời
kiểm soát phương tiện sản xuất tinh thần. Như vậy, theo Marx, mỗi
giai đoạn lịch sử đều có những tư tưởng thống trị. Vậy tư tưởng ấy
chính là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, giai cấp làm chủ tư liệu sản
xuất. Bởi vì: "Tư tưởng thống trị không gì khác hơn là biểu thức lý
tưởng của các mối quan hệ vật chất thống trị" (Theo Warren Kidd,
2005). Tuy nhiên ông cũng cho rằng sự bất bình đẳng do sự phân chia
giai cấp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ mất
đi nếu chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bị xóa bỏ. Như
vậy việc phân chia xã hội thành giai cấp và sự bất bình đẳng xã hội chỉ
là một phạm trù lịch sử mà thôi. Phân tích giai cấp xã hội của Marx có
ảnh hưởng rất lớn đến tư duy xã hội học trong những thập niên gần
đây, nhưng ông vẫn bị chỉ trích là không thấy được sự khác biệt về
phần thưởng sẽ thúc đẩy con người thực hiện vai trò xã hội (J.
Macionis, 2004).
Tôn giáo là một sự kiện được nhiều nhà xã hội quan tâm, trong
đó phải kể đến E.Durkheim; M.Weber và K. Marx.
Đối với Marx vấn đề tôn giáo đã tiêu tốn không ít thời gian và
sức lực nghiên cứu của ông. Ông cho rằng tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội. Chúng bắt nguồn từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã
hội. Nguồn gốc tự nhiên của tôn giáo bắt đầu từ những hạn chế trong
hiểu biết tự nhiên của con người và sự bất lực trước sức mạnh ghê
gớm của tự nhiên. Từ đó con người đã giải thích các hiện tượng tự
nhiên bằng sự suy diễn hoang tưởng. Họ tưởng tượng ra những đấng
siêu nhiên có kỳ phép có thể gây ra sấm chớp, sóng thần, núi lửa, dịch
bệnh, v.v... Mặt khác trong cuộc đấu tranh để duy trì sự sống, con
người không chỉ đương đầu với tự nhiên mà họ còn phải đương đầu
với những hiện tượng bất công trong xã hội. Sự cướp đoạt giữa các tộc
người, các cuộc chiến tranh đẫm máu xảy ra liên miên, sự áp bức bóc
lột giai cấp v.v… đã đẩy con người hay ít nhất là một bộ phận lớn
trong số họ đứng trước cảnh nghèo túng, khốn khổ. Theo Marx, sự bế
tắc trong việc giải thích thân phận khốn khổ của mình cũng như việc
tìm ra lối thoát cho thân phận khốn khổ đó đã đưa con người tìm đến
với tôn giáo như một lẽ tự nhiên.

33

about:blank 35/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Marx vạch ra bản chất của tôn giáo là sự phản ánh hoang
đường và hư ảo thế giới hiện thực. Từ đó ông nhìn nhận về vai trò của
tôn giáo đối với con người và xã hội ở hai khía cạnh:
Thứ nhất là trong một chừng mực nào đó, tôn giáo góp phần
"xoa dịu nỗi đau của quần chúng nhân dân".
Thứ hai là tôn giáo ru ngủ quần chúng nhân dân. Trong cuốn
Góp phần phê phán triết học Hê- ghen ông cho rằng: "tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim, cũng như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có
tính thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Ông đặc biệt nhấn
mạnh khía cạnh thứ hai khi xem xét về vai trò của tôn giáo. Đặt tôn
giáo trong mối quan hệ với sự thay đổi cấu trúc xã hội, ông nhìn thấy
tác động tiêu cực của nó khi tôn giáo không chỉ ra một khả năng hiện
thực để giải phóng con người và thay đổi xã hội.
Macionis bình luận rằng quan điểm của Marx đã phê phán
mạnh mẽ tôn giáo đã che đậy sự thật, rằng tôn giáo bảo vệ cho những
người có quyền thế trong xã hội. Vì vậy, tôn giáo đã không chỉ ra con
đường để quần chúng xây dựng một xã hội nhân văn hơn ở thế giới
hiện thực mà hứa hẹn một thế giới không có thực ở kiếp sau. Các nhà
xã hội học hiện đại phân tích rằng: theo Marx tôn giáo là yếu tố chính
của hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa, tôn giáo bào chữa cho sự bóc lột và
bất công, tạo hy vọng được sống tự do ở kiếp sau (Warren Kidd,
2006).
Từ các luận điểm cơ bản nói trên, Marx cho rằng tôn giáo chỉ là
một phạm trù lịch sử. Tôn giáo sẽ mất đi khi tư duy của con người
cùng với khoa học kỹ thuật phát triển và sự bất bình đẳng xã hội
không còn nữa. Ông cho rằng tôn giáo chỉ mất đi khi xã hội không còn
"biến con người thành một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch, bị bỏ rơi,
bị khinh rẻ" (Marx - Engel, 1980).
Trên phương diện phương pháp, K.Marx là người đầu tiên sử
dụng "bảng tự khai" (phiếu điều tra xã hội học) để nghiên cứu về các
hiện tượng xã hội. Ông đặc biệt thành công trong phương pháp phân
tích lịch sử và so sánh lịch sử. Đặc biệt là phân tích về hệ thống xã
hội, cấu trúc xã hội và mỗi giai cấp trong các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau.

34

about:blank 36/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

2.3. Herbert Spencer (1820 - 1903)


H. Spencer sinh ra tại nước Anh. Ông thiên về nghiên cứu khoa
học tự nhiên, đặc biệt là sinh vật học. Là người chịu ảnh hưởng to lớn
của S. Darwin về học thuyết tiến hóa, Spencer đã trở thành nhà xã hội
học mang quan điểm cơ cấu - chức năng và tiến hóa xã hội điển hình
của thế kỷ XIX.
Các tác phẩm chủ yếu của H.Spencer trong nghiên cứu xã hội
học bao gồm:
- Tĩnh học xã hội (1850)
- Nghiên cứu xã hội học (1873)
- Xã hội học mô tả (1873)
- Các nguyên lý của xã hội học (1876).
Có thể tìm thấy một số luận điểm về xã hội của Spencer giống
với A.Comte, E.Durkheim và các nhà xã hội học khác, nhưng lý
thuyết xã hội của ông đã thể hiện sự độc đáo trong cách giải thích về
xã hội mà các quan điểm này về sau ít nhiều có ảnh hưởng đến Talcot
Parsons và Robert K.Merton. Ông được xếp vào nhóm lý thuyết
Darwin xã hội cùng với tên tuổi của Sumner, Giddings, Glumplowicz,
Ratzenhofer...
Theo Spencer, xã hội được nhìn nhận như một cơ thể sống.
Ông gọi xã hội là "cơ thể siêu hữu cơ". Có thể hiểu "Cơ thể siêu hữu
cơ" là một thực thể có kích thước lớn với các kết cấu đặc biệt và phức
tạp. Cơ thể siêu hữu cơ được tạo thành từ các bộ phận với các chức
năng khác nhau. Sự tồn tại và phát triển của cơ thể siêu hữu cơ phụ
thuộc vào khả năng đảm nhận chức năng của các bộ phận này.
Quan điểm này có nguồn gốc từ hệ tư tưởng xã hội của
A.Comte. Nhưng trên nền tảng kiến thức về sinh học, Spencer đã phát
triển nó ở trình độ cao hơn. Ông liên tưởng đến các bộ phận trong cơ
thể con người như đầu, chân tay, tim, phổi... với chức năng duy trì sự
sống của cơ thể để tìm hiểu về xã hội. Trong trường hợp xã hội con
người, tất cả những thành phần xã hội, nhất là thể chế xã hội đều là
những bộ phận cấu trúc tùy thuộc cùng đảm nhận chức năng để duy trì
hoạt động xã hội (J.Macionis, 2004).
Cơ thể siêu hữu cơ có những điểm giống và khác với cơ thể
hữu cơ. Điểm giống nhau giữa chúng là chúng đều có khả năng tồn tại
và phát triển, chúng tồn tại như một hệ thống có cấu trúc. Khi kích cỡ

35

about:blank 37/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

cơ thể thăng lên làm tăng tính chất và trình độ chuyên môn hóa các
chức năng. Sự phát triển tất yếu kéo theo sự thay đổi của bộ phận này
đối với bộ phận khác. Chúng đều trải qua các giai đoạn: tăng trưởng,
phân hóa, liên kết, phân rã kế tiếp nhau và tuân thủ qui luật đấu tranh
sinh tồn.
Tuy nhiên chúng lại có những điểm khác nhau cơ bản. Sự khác
nhau ấy thể hiện ở chỗ mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ thể siêu
hữu cơ hay sự tác động lẫn nhau giữa chúng không thực hiện trực tiếp
theo cơ chế sinh học mà được thực hiện thông qua các yếu tố như
ngôn ngữ, biểu tượng, ký hiệu.
Xã hội hay cơ thể siêu hữu cơ đã phát triển như thế nào qua các
thời kỳ khác nhau? Spencer giải thích sự phát triển của cơ thể siêu hữu
cơ bằng con đường tiến hóa. Có thể khẳng định tiến hóa xã hội là luận
điểm cơ bản trong quan niệm phát triển xã hội của ông.
Ông chia tiến hóa ra làm ba loại: Tiến hóa vô cơ (tiến hóa của
trái đất); tiến hóa hữu cơ (tiến hóa của các loài sinh vật) và tiến hóa
siêu hữu cơ (tiến hóa xã hội). Trong đó tiến hóa cơ thể và tiến hóa xã
hội đều tuân thủ một qui luật, nhưng xã hội là một thực thể phức tạp
hơn nên sự tiến hóa của nó cũng không hoàn toàn giống như các thực
thể sinh vật.
Ông cho rằng: Cơ thể sống tiến hóa qua thời gian sẽ tồn tại tốt
hơn trong môi trường. Điều đó có nghĩa rằng sự tiến hóa của cơ thể
siêu hữu cơ cũng tương tự như sự tiến hóa của muôn loài trong học
thuyết của Darwin: cái gì thích nghi sẽ tồn tại. Tương tự, Spencer nghĩ
rằng xã hội sẽ phát triển theo nguyên tắc "Sự tồn tại của cái thích hợp
nhất" (Macionis, 2004). Rõ ràng quan điểm chọn lọc tự nhiên của
Darwin với nguyên lý cái gì thích nghi thì sẽ tồn tại đã được ông vận
dụng triệt để trong nghiên cứu xã hội. Các nhà xã hội học cho rằng do
quan niệm như vậy cho nên quan điểm của Spencer thiếu tính nhân
văn do ông phản đối kịch liệt những nổ lực như cứu tế và giúp đỡ
người nghèo vì những việc làm ấy sẽ dẫn đến thiên vị cho những
thành viên yếu kém trong xã hội và khiến cho xã hội trong tư cách một
tổng thể bị giảm giá trị (theo Macionis, 2004). Cần phải từ chối tất cả
các dạng phòng ngừa và can thiệp về xã hội vì chúng có khả năng dẫn
đến cản trở sự tiến hóa xã hội.
Nếu K. Marx nhìn nhận xã hội trong trạng thái vận động và
phát triển không ngừng và quá trình ấy gắn liền với sự biến đổi xã hội

36

about:blank 38/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

và cách mạng xã hội thì Spencer nhìn quá trình ấy trong sự tiến hóa.
Ông cho rằng xã hội sẽ phát triển theo con đường tiến hóa từ cơ cấu
nhỏ, đơn giản, thiếu ổn định, dễ phân rã đến những cơ cấu lớn hơn,
phức tạp, ổn định và bền vững. "Chúng ta đã thấy rằng sự tiến hóa xã
hội bắt đầu bằng những tổ hợp đơn giản bé nhỏ, rằng nó tiến triển do
sự kết hợp của một số tổ hợp đó thành những tổ hợp lớn hơn, và sau
khi đã được củng cố, các nhóm đó lại kết hợp với các nhóm khác
giống với chúng để tạo ra các tổ hợp càng lớn hơn nữa" (Dẫn theo
Durkheim, 1993). Như vậy, tiến hóa xã hội thực chất là quá trình tiến
hóa của các tiểu cấu trúc.
Ông đã chỉ rõ các nhóm yếu tố tác động đến sự tiến hóa xã hội.
Trước hết là sự tác động của các yếu tố bên ngoài (yếu tố đất đai, khí
hậu), thứ hai là sự tác động của các yếu tố bên trong (trí tuệ, thể lực,
đạo đức, tập quán,...), thứ ba là tác động của nhóm yếu tố tự sinh (qui
mô dân số - mật độ dân số...). Như vậy sự tiến hóa xã hội có liên quan
đến nhiều yếu tố. Chính các yếu tố này sẽ quy định sự tiến hóa xã hội
diễn ra nhanh hay chậm.
Về phân loại xã hội, H. Spencer chia xã hội làm hai loại: Xã
hội quân sự và xã hội công nghiệp. Sự phân biệt về hai loại hình xã
hội đó là tư tưởng chủ đạo trong xã hội học của ông. Ông đề cập đến
sự hợp tác như là nhân tố quyết định sự tồn tại của xã hội. Trên cơ sở
tính chất của sự hợp tác được coi là "bản chất đời sống xã hội" ấy để
ông phân biệt các loại xã hội nói trên. Durkheim dẫn ý kiến của
Spencer cho rằng: "Có một sự hợp tác tự phát được thực hiện không
có chủ ý trong khi theo đuổi các mục đích có một tính chất tư nhân".
Với tính chất hợp tác như vậy chỉ tồn tại trong xã hội công nghiệp.
Một xã hội được tổ chức ít mang tính tập trung và ít độc đoán. Với cơ
cấu tổ chức và cơ chế kiểm soát mang tính mềm dẻo và linh hoạt hơn
(Lê Ngọc Hùng, 2002).
Kiểu hợp tác thứ hai là một sự hợp tác được thiết lập một cách
có ý thức giả định các mục đích có lợi ích công cộng được công nhận
rõ ràng. Ông cho rằng chúng tương ứng với loại hình xã hội quân sự -
một xã hội mà Nhà nước dùng quyền lực tối cao của mình để điều
hành và kiểm soát chặt chẽ các cá nhân và các tổ chức xã hội với cơ
chế tập trung, độc đoán cao độ để phục vụ các mục tiêu quốc phòng và
chiến tranh. Có thể nói đó là các xã hội mà mọi hoạt động đều tuân
thủ sự áp đặt từ trên xuống dưới (Top - down).

37

about:blank 39/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Theo Spencer, xã hội công nghiệp hay xã hội quân sự không


phải là hai giai đoạn phát triển tách biệt rõ ràng mà nó có thể thay thế
lẫn nhau ở bất kỳ một giai đoạn nào. Về bản chất là quá trình tiến hóa
và suy thoái của cơ thể siêu hữu cơ hay là sự tiến hóa của các loại hình
xã hội.
Xem xét về quá trình tiến hóa xã hội ông không chỉ đề cập về
xã hội quân sự và xã hội công nghiệp, mà ông còn đưa ra quan điểm
về sự tiến hóa xã hội theo các mô hình: xã hội đơn giản (xã hội săn
bắn, hái lượm), xã hội hỗn hợp bậc một (xã hội chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, săn bắn hái lượm như là dấu ấn của xã hội đơn giản); xã
hội hỗn hợp bậc hai (là xã hội công nghiệp phân công lao động phức
tạp hơn) và xã hội công nghiệp (xã hội hiện đại, có sự phân công lao
động phức tạp).
H.Spencer đã dành một phần công sức của mình để nghiên cứu
về các thiết chế xã hội với tư cách là những bộ phận của cơ thể siêu
hữu cơ. Ông gắn thiết chế xã hội với quá trình tiến hóa xã hội. Vì vậy
sự tồn tại và phát triển của các thiết chế cũng giống như sự chọn lọc tự
nhiên. Thiết chế nào thích nghi thì tồn tại, thiết chế nào kém thích
nghi sẽ bị đào thải. Các thiết chế ngoài việc thích nghi để tồn tại
chúng còn đảm nhận các chức năng xã hội nhất định và thực chất việc
đảm nhiệm các chức năng của chúng cũng là quá trình tiến hóa và
thích nghi.
Trước hết là thiết chế chính trị. Spencer cho rằng, thiết chế này
đảm nhận chức năng giải quyết các xung đột xảy ra nhằm tạo sự ổn
định cho xã hội.
Thiết chế kinh tế có chức năng cơ bản là cung cấp sản phẩm và
dịch vụ cho con người, duy trì đời sống vật chất cho xã hội. "Sự tiến
hóa của các thiết chế kinh tế thể hiện ở việc nâng cao trình độ công
nghệ và tri thức, mở rộng sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ,
ở mức độ tích lũy tư bản... và những thay đổi về tổ chức lao động"
(Theo Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2001).
Thiết chế gia đình và dòng họ đảm nhận chức năng tái sản xuất
ra con người, nuôi dưỡng trẻ em, kiểm soát quan hệ giới.
Thiết chế tôn giáo có chức năng góp phần tạo ra sự ổn định xã
hội, duy trì trật tự xã hội do chúng có khả năng liên kết các cá nhân trong
cùng một hệ thống chuẩn mực, niềm tin được biểu hiện thông qua các
giáo lý tôn giáo và nghi lễ tôn giáo.

38

about:blank 40/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Những quan điểm cơ bản trong xã hội học của Spencer đã được
các nhà xã hội học sau này kế thừa và phát triển. Mặc dù trong hệ
thống lý thuyết xã hội học hiện đại ngày nay tên tuổi của ông ít được
nhắc đến nhưng người ta không thể phủ nhận đóng góp của ông trong
việc hình thành trường phái xã hội học cơ cấu - chức năng. "Xã hội là
cơ thể siêu hữu cơ" - Câu nói ấy vẫn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp
của Herbert Spencer cho đến ngày nay.
2.4. Emile Durkheim (1858 - 1917)
E. Durkheim sinh ra tại nước Pháp trong một gia đình Do Thái.
Lĩnh vực được đào tạo chính của ông là triết học. Ông là giảng viên
của trường Đại học Tổng hợp Bordeaux và trường Đại học tổng hợp
Sorbone. Ông là người đã chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục: nền
giáo dục của Pháp và nền giáo dục của Đức. Durkheim cũng được biết
đến "như một trong những giáo sư xã hội học đầu tiên ở Pháp" (R.T.
Schaefer và A.Smith, 2004).
Các tác phẩm chính bao gồm:
- Phân công lao động trong xã hội (1893).
- Tự tử: Một nghiên cứu trong xã hội học (1897).
- Những hình thức sơ khai của đời sống tôn giáo (1912)
Cũng như A. Comte, Durkheim sinh ra và trưởng thành trong
điều kiện nước Pháp trải qua nhiều biến cố về kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hội. Đặc biệt là mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp tư sản cầm
quyền với giai cấp công nhân Pháp đã dẫn đến công xã Pari (1871)
cũng như sự thay đổi về giá trị, chuẩn mực xã hội trong lối sống của
các nhóm xã hội ở Pháp lúc bấy giờ đã đưa đến những suy nghĩ, tìm
tòi và phát hiện mới của Durkheim. Nhà xã hội học Tương Lai đã
khẳng định: "là học trò của Auguste Comte, nhưng vai trò của Emile
Durkheim trong xã hội học có một bước phát triển mới với ý nghĩa
rộng lớn. Các tác phẩm của ông giữ một vị trí đặc biệt đối với sự phát
triển của xã hội học. E. Durkheim đã có sự cống hiến lớn cho việc xác
định đối tượng, chủ đề và nhiệm vụ của xã hội học hiện đại" (Tương
Lai, lời giới thiệu cho bản dịch cuốn Các qui tắc của phương pháp xã
hội học, 1993).
Trước hết, E.Durkheim đề cập đến nhiệm vụ của xã hội học đối
với xã hội. Sự chứng kiến trực tiếp những biến cố của nước Pháp là cơ
sở để ông khẳng định rằng nhiệm vụ của xã hội học là "tìm ra các quy

39

about:blank 41/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

luật xã hội để từ đó tạo ra trật tự xã hội trong xã hội hiện đại" (Theo
Lê Ngọc Hùng, 2002).
Khác với A.Comte, Durkheim cho rằng: Xã hội học là khoa
học nghiên cứu về các sự kiện xã hội. Vậy thế nào là một sự kiện xã
hội? Trong tác phẩm Các qui tắc của phương pháp xã hội học, ông
đưa ra cách hiểu có tính chất xác định về sự kiện xã hội như sau: Đây
là một loại những sự kiện có những tính chất rất đặc biệt. Chúng thể
hiện ở những cách thức hành động, tư duy và cảm giác, những cách
thức đó ở bên ngoài cá nhân và có sẵn một khả năng cưỡng bức, nhờ
đó mà chúng được áp đặt cho cá nhân. Sau đó chúng không thể lẫn lộn
với các hiện tượng hữu cơ, vì chúng thể hiện ở những biểu tượng và ở
những hành động, chúng cũng không thể lẫn lộn với các hiện tượng
tâm lý vì các hiện tượng tâm lý chỉ có sự tồn tại trong ý thức cá nhân
và do ý thức cá nhân thôi. Hay nói cách khác: "Sự kiện xã hội là mọi
cách làm, cố định hay không cố định, có khả năng tác động lên cá
nhân một sự cưỡng bức bên ngoài, hay là mọi cách làm có tính chất
chung trong phạm vi rộng lớn của một xã hội nhất định trong khi vẫn
có một sự tồn tại riêng, độc lập với các biểu hiện cá biệt của nó"
(E.Durkheim, 1993).
Tóm lại, có thể hiểu khái niệm "Sự kiện xã hội" với các đặc
trưng sau đây: 1) Sự kiện xã hội là những sự kiện tồn tại khách quan
bên ngoài cá nhân, có trước cá nhân (pháp luật, chuẩn mực, đạo đức,
các tổ chức xã hội). 2) Sự kiện xã hội hàm chứa một sức mạnh có khả
năng kiểm soát cá nhân, buộc cá nhân phải tuân thủ. 3) Sự kiện xã hội
có thể tồn tại ở hai dạng: dạng vật chất rất dễ tiếp cận và quan sát như
các tổ chức xã hội, các phong trào xã hội...., dạng tinh thần như đạo
đức, giá trị, chuẩn mực xã hội...
Durkheim còn là người phát triển lý luận xã hội học trên
phương diện khái niệm và quan điểm nhìn nhận về xã hội.
Về phương diện khái niệm xã hội học, ông đã đưa ra nhiều khái
niệm mới như: Sự kiện xã hội, đoàn kết xã hội, đoàn kết cơ giới, đoàn
kết hữu cơ, ý thức tập thể, biến đổi xã hội, chức năng xã hội, bệnh lý
học xã hội...
Gắn liền với sự xuất hiện của các khái niệm ấy là hệ thống lý
thuyết xã hội của Durkheim và cách nhìn nhận về xã hội của ông.
Trong đó liên hệ xã hội là vấn đề trung tâm.

40

about:blank 42/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Durkheim hết sức quan tâm đến mối liên hệ giữa các cá nhân và
xã hội. Trong cách nhìn của ông sự tồn tại của xã hội được đặt trong
mối quan hệ giữa các cá nhân và xã hội. Các mối quan hệ này được ông
gọi là "đoàn kết xã hội" hay hội nhập xã hội, khác với cách hiểu thông
thường về đoàn kết là quan hệ gắn bó không có mâu thuẫn và xung đột.
Durkheim cũng có quan niệm gần giống K.Marx khi ông cho rằng mối
liên hệ xã hội là phương thức tồn tại của các cá nhân và các tổ chức xã
hội.
Ông chia đoàn kết xã hội ra làm 2 loại tương ứng với hai loại
hình xã hội: đoàn kết cơ giới và đoàn kết hữu cơ.
Đoàn kết cơ giới là những mối liên hệ xã hội tồn tại trong các
xã hội truyền thống hoặc xã hội chậm phát triển. Trong đó sự phân
công lao động ở trình độ thấp dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau của con
người không lớn, sự khác biệt giữa các cá nhân là không rõ ràng.
Trong xã hội ấy cá nhân chịu tác động mạnh mẽ của xã hội và họ gắn
bó với nhau một cách cơ học do các yếu tố giá trị, phong tục, tập
quán, ý thức cộng đồng dưới hình thức các cá nhân bắt chước lẫn
nhau.
Đoàn kết hữu cơ là các mối liên hệ xã hội được hình thành dựa
trên sự phân công lao động và trình độ chuyên môn hóa cao, hình
thành một cơ chế hợp tác lao động và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
cá nhân và tổ chức xã hội. Trong xã hội ấy sự khác biệt giữa các cá
nhân rất lớn, tính chủ động, độc lập của cá nhân được phát huy loại
đoàn kết xã hội này tồn tại trong các loại hình xã hội hiện đại. Ý thức
tập thể được giải thích là toàn bộ những tín ngưỡng về tình cảm chung
của tính trung bình những thành viên của xã hội. Đây chính là cơ sở
để thống nhất tinh thần, ý thức của các cá nhân vốn khác biệt rất lớn
trong các xã hội này.
Tuy nhiên, các quan điểm của Durkheim nói trên chú trọng
nhiều hơn đến sự liên kết xã hội trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động sản
xuất và tính hợp lý của nó trong lĩnh vực này. Còn các lĩnh vực phi
sản xuất như đời sống tinh thần, quan hệ tình cảm của con người trong
các cộng đồng thì gần như ngược lại. Ở các xã hội truyền thống mối
quan hệ gắn bó về tình cảm, tinh thần của con người chặt chẽ hơn, bền
vững hơn trong xã hội hiện đại. Tự tử là một hiện tượng như vậy.
Nghiên cứu về hiện tượng tự tử của Durkheim đã cho thấy liên hệ xã
hội hay vai trò xã hội chi phối rất lớn đối với đời sống cá nhân. Ông

41

about:blank 43/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hoàn toàn bác bỏ các lý do tâm lý dẫn đến hiện tượng tự tử. Ông cho
rằng: tự tử có liên quan đến liên hệ xã hội. Ở nơi nào đoàn kết xã hội
(liên hệ xã hội) chặt chẽ thì hiện tượng tự tử thấp và ngược lại tỷ lệ tự
tử sẽ cao đối với những xã hội có liên hệ rời rạc, lỏng lẻo. Ông chia tự
tử ra làm 3 loại:
- Tự tử vị tha: Những người chết vì người khác, hy sinh cho
người khác (trường hợp các binh lính Nhật Hoàng tự tử trước sự thất
bại của nước Nhật trong chiến tranh thế giới thứ II năm 1945).
- Tự tử vị kỷ: Chết vì mình, chỉ nghĩ đến bản thân mình khi gặp
bế tắc không tìm được lối thoát cho bản thân hoặc để chối bỏ trách
nhiệm đối với người khác, đối với xã hội.
- Tự tử vô tổ chức: Hiện tượng này thường xảy ra khi cá nhân
phải trải qua một biến cố tự nhiên hay xã hội nào đó và thường mang
dấu ấn tập thể.
Phân công lao động xã hội là một trong những vấn đề rất cơ
bản trong lý thuyết xã hội của Durkheim. Ông xem xét vấn đề phân
công lao động với tư cách là một hoạt động cơ bản trong cách thức tổ
chức đời sống xã hội vừa xem xét nó trong mối quan hệ với đoàn kết
xã hội.
Khác với các nhà kinh tế học, Durkheim không chỉ coi phân
công lao động là cách thức để xã hội sử dụng nguồn nhân lực nhằm
tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà theo ông ngoài chức năng ấy
"phân công lao động thực hiện chức năng vô cùng to lớn và quan
trọng đối với cuộc sống con người. Đó là tạo ra sự đoàn kết xã hội, sự
hội nhập xã hội" (Lê Ngọc Hùng, 2002). Theo ông phân công lao
động là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội, nó gắn liền với việc
phân công nhiệm vụ lao động và chuyên môn hóa lao động của con
người. Trình độ phân công lao động càng cao thì vai trò và nhiệm vụ
lao động ngày càng được chuyên môn hóa sâu. Phân công lao động
diễn ra càng sâu sắc bao nhiêu thì khả năng hợp tác lao động cũng như
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa họ càng tăng lên. Sự hợp tác và phụ thuộc
lẫn nhau ấy trong lao động đã thắt chặt thêm mối quan hệ xã hội giữa
họ. Chính vì vậy mà đoàn kết xã hội được tăng cường sự ổn định xã
hội và trật tự xã hội cũng được đảm bảo theo ông khi phân công lao
động xã hội không thực hiện được điều đó thì xã hội sẽ rối loạn và mất
ổn định khi đó chúng ở trạng thái bất bình thường và xuất hiện ba hình

42

about:blank 44/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

thức của phân công lao động bất bình thường (theo Lê Ngọc Hùng,
2002).
- Hình thức phi chuẩn mực: là sự phân công lao động tự phát,
tùy tiện không dựa trên các khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội.
- Hình thức cưỡng bức - bất bình đẳng: là sự phân công lao
động không dựa trên năng lực, nguyện vọng của người lao động mà
chủ yếu là dùng thiết chế buộc con người phải làm các công việc
ngoài mong muốn của họ.
- Hình thức thiếu đồng bộ: là sự rối loạn, thiếu thống nhất trong
phân công lao động do phân công lao động và tốc độ chuyên môn hóa
lao động không tương thích với nhau.
Nói đến lý thuyết xã hội của Durkheim không thể không nói đến
quan niệm của ông về tôn giáo. Điều này được J.Macionis đánh giá là
"đáng giá nhất trong nhiều đóng góp đa dạng của ông trong ngành xã
hội học". Giống như quan điểm của Marx về tôn giáo trong khi phân
tích nguồn gốc của nó, Durkheim cho rằng tôn giáo ra đời có nguồn gốc
từ xã hội. Ông nhấn mạnh xã hội có đời sống và quyền lực của riêng
mình vượt quá đời sống của các thành viên cá nhân trong xã hội cùng
chung sức hình thành. Vì vậy, xã hội là cái tồn tại ngoài cá nhân, có
trước cá nhân với một sức mạnh ghê gớm mà Durkheim coi xã hội
"giống như thần". Cá nhân có thể chết, nhưng xã hội thì không, "quyền
lực của xã hội định dạng đời sống của bất kỳ ai trong chúng ta gợi ra
cảm giác cung kính, sự hãi" (J.Macionis, 2004). Durkheim cho rằng: Sự
trải nghiệm tôn giáo về bản chất là sự nhận thức xã hội, nhận thức về
thánh thần thể hiện quyền lực của xã hội. Chính vì thế khi ông nghiên
cứu các xã hội thô sơ, "quyền lực xã hội được miêu tả bằng các vật tổ -
một vật thường là yếu tố của thế giới tự nhiên thấm nhuần đặc điểm
thần thánh". Về bản chất, cách giải thích này của Durkheim có nhiều
điểm giống với K.Marx.
Điều khác Marx là quan điểm về chức năng tôn giáo của
Durkheim. Theo ông, tôn giáo tồn tại dựa trên các niềm tin, giáo lý,
nghi lễ và tổ chức tôn giáo thông qua hệ thống niềm tin tôn giáo (trong
đó có chứa đựng hệ thống chuẩn mực theo quan niệm của tôn giáo)
con người càng hướng tới một mục tiêu, hành động theo một khuôn
mẫu. Lấy ví dụ từ kinh Phật chẳng hạn, trong đó người ta hướng tín đồ
phật tử trong các hành vi như cấm tà dâm, uống rượu, sát sinh, nói
dối... Hơn nữa, các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra mang tính chất tập thể

43

about:blank 45/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

và thường xuyên như đi lễ nhà thờ đã tạo nên ý thức tập thể. Vì vậy
theo ông tôn giáo thúc đẩy tính cố kết xã hội thông qua các giá trị và
chuẩn mực chung. Ông viết: "Các biểu tượng tôn giáo luôn mang một
ý nghĩa. Điều này dường như là điều tiền định vì xã hội nào cũng có
những nhu cầu duy trì và tái xác nhận, vào những dịp thường xuyên,
tình cảm chung và những ý kiến tập thể để làm thành một khối thống
nhất" (Theo Warren Kidd và nhóm tác giả, 2005).
Chính vì vậy các học giả nói trên đã bình luận rằng cả Marx và
Durkheim đều thừa nhận tôn giáo là nguồn kiểm soát xã hội. Nhưng
không giống như Marx, Durkheim cho rằng sự kiểm soát này (kiểm
soát xã hội) rất quan trọng trong việc liên tục củng cố xã hội. Như vậy,
theo Durkheim tôn giáo không chỉ phản ánh nhận thức xã hội của con
người bởi vì sự nhận thức về thánh thần thể hiện quyền lực xã hội. J.
Macionis nhận xét rằng: "Vì thế Durkheim kết luận không chỉ nguồn
gốc của niềm tin tôn giáo mang tính xã hội mà thực ra còn tán dương
quyền lực xã hội". Không những thế, Durkheim còn được coi là người
phát triển hệ thống lý thuyết cơ cấu chức năng của xã hội học. Ông kế
thừa quan điểm của A. Comte về cấu trúc xã hội. "Ông xem xã hội
như một hệ thống phức tạp gồm nhiều bộ phận tương thuộc (tương
quan và phụ thuộc lẫn nhau) vẫn còn ổn định tương đối qua thời gian
dài" (J.Macionis, 2004).
Ông đề cập đến "Deviance" (sự lệch lạc xã hội) và coi đây như
một cách thức mổ xẻ về xã hội.
Tuy nhiên E.Durkheim không chỉ nhìn sự lệch lạc xã hội ở một
khía cạnh tiêu cực mà còn nhìn nhận chúng ở khía cạnh tích cực. Ông
đã phân tích các chức năng của Deviance đối với xã hội. Ông cho rằng
Deviance hỗ trợ để xem xét xã hội theo bốn cách:
- Deviance xác định các giá trị và chuẩn mực văn hóa.
- Đảm đương nhiệm vụ làm rõ ranh giới đạo đức, cái đúng hay
không đúng.
- Đảm đương nhiệm vụ gia tăng sự thống nhất, hòa hợp trong xã
hội.
- Deviance khuyến khích sự thay đổi xã hội (J.Macionis, Linda.
M. Gerber, 1999).
Nói đến đóng góp của Durkheim cho nền xã hội học không thể
không nói đến cống hiến của ông trên lĩnh vực phương pháp và phương
pháp luận. Nhiều nhà nghiên cứu trong nước và ở nước ngoài đã có sự

44

about:blank 46/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

tập trung đáng kể trong việc phân tích đóng góp trong lĩnh vực này của
ông.
Theo Durkheim trong nghiên cứu xã hội học cần phải gạt bỏ ra
ngoài những suy đoán, suy luận mang tính chủ quan. Kể cả các
phương pháp cụ thể như quan sát đời sống xã hội. Điều này thể hiện
rõ trong tác phẩm "Các quy tắc của phương pháp xã hội học". Ông
cho rằng khi quan sát các sự kiện xã hội thì "qui tắc đầu tiên và căn
bản nhất là coi các sự kiện xã hội như các sự vật". Durkheim dẫn lời
của A.Comte cho rằng. "Đúng là Comte đã tuyên bố các hiện tượng xã
hội là các sự kiện tự nhiên, phục tùng các định luật tự nhiên. Do đó,
ông đã mặc nhiên công nhận tính chất của chúng là những sự vật, vì
trong tự nhiên chỉ có các sự vật mà thôi". Mà đã là "như sự vật" thì sự
kiện xã hội tồn tại khách quan, bên ngoài cá nhân con người. Vì vậy,
con đường đi đến nhận thức về chúng không thể là "sự bằng lòng với
các ý kiến" phán xét chủ quan hay "một sự phân tích tư tưởng thôi".
Trái lại theo ông cần phải "quan sát các sự vật, miêu tả chúng, so sánh
chúng với nhau". Hay "trên thực tế, sự vật là tất cả cái gì đã được đem
lại, tất cả cái gì hiện ra, hay đúng hơn là cần thiết bắt buộc cho sự
quan sát xử lý các hiện tượng như là các sự vật, tức là xử lý chúng với
tư cách là do ta (số liệu)" (E.Durkheim, 1993).
Nhóm quy tắc thứ hai đòi hỏi phải phân biệt giữa cái "bình
thường" với cái "khác thường" hay cái "sai lệch", "cái bệnh lý". Điều
này có thể liên tưởng đến sự khác nhau giữa một cơ thể khỏe mạnh
bình thường với một cơ thể ốm đau, bệnh tật. Nhìn chung, trong xã
hội "các sự kiện bình thường là các sự kiện thể hiện các hình thức
chung nhất, còn các sự kiện khác, chúng tôi cho chúng cái tên gọi là
các hiện tượng bệnh hoạn hay bệnh lý" (E.Durkheim, 1993). Từ đó
ông nêu ra 3 quy tắc cụ thể khi quan sát sự kiện xã hội.
1. Một sự kiện xã hội là bình thường với một kiểu loại xã hội
nhất định, được xem xét ở một giai đoạn nhất định trong sự phát triển
của nó, khi nó xảy ra trong một xã hội trung bình của các xã hội thuộc
loại đó, được xét ở giai đoạn tương ứng của sự tiến hóa của chúng.
2. Người ta có thể kiểm nghiệm các kết quả của phương pháp
trên bằng cách làm cho thấy tính chất chung của hiện tượng là xuất phát
từ các điều kiện chung của đời sống tập thể trong kiểu loại xã hội được
xem xét.

45

about:blank 47/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

3. Sự kiểm nghiệm ấy là cần thiết, khi sự kiện đó có liên quan


với một loại xã hội vẫn chưa hoàn thành sự tiến hóa đầy đủ của nó.
Nguyên tắc thứ ba là cần phải phân loại xã hội trên cơ sở cấu
trúc của chúng. Quy tắc này được E.Durkheim chỉ ra rằng người ta bắt
đầu bằng phân loại các xã hội theo các mức độ cấu tạo mà chúng thể
hiện, bằng cách lấy làm cơ sở, một xã hội hoàn toàn đơn giản hoặc là
có một phân đoạn duy nhất, bên trong các lớp đó, người ta phân biệt
các biến thể khác nhau tùy theo có xảy ra hay không xảy ra một sự kết
tục các phân đoạn ban đầu. Nếu áp dụng nhóm quy tắc này các nhà xã
hội học sẽ có cách nhìn đúng đắn về sự phát triển của xã hội, trình độ
phát triển của nó trong các môi trường xã hội cụ thể.
Nhóm nguyên tắc thứ tư là sự giải thích các sự kiện xã hội, cấu
trúc xã hội trong mối tương quan với chức năng của nó. Ông cho rằng
nguyên nhân quyết định một sự kiện xã hội phải được tìm hiểu trong
các sự kiện xã hội trước chứ không phải trong trạng thái của ý thức cá
nhân. Các sự kiện xã hội đảm đương một chức năng xã hội nhất định.
Chức năng ấy đồng nghĩa với việc sản sinh ra những hiệu quả có ích
về mặt xã hội. Ông còn cho rằng: "Chức năng của một sự kiện xã hội
phải luôn luôn được tìm kiếm trong mối quan hệ mà nó duy trì với
một mục đích xã hội nào đó" (E.Durkheim, 1993).
Các quy tắc chứng minh được sử dụng để kiểm chứng mối
tương quan giữa các hiện tượng. Ông cho khẳng định "Chúng tôi chỉ
có một phương tiện quy tắc cao để chứng minh rằng một hiện tượng là
nguyên nhân của một hiện tượng khác... chứng minh rằng hiện tượng
này phụ thuộc vào hiện tượng kia không" (E. Durkheim, 1993). Theo
ông cần phải sử dụng phương pháp so sánh để có sức mạnh chứng
minh, phương pháp kết lắng, phương pháp các biến đổi cùng nhau có
thể gọi là sự cùng biến thiên. Đây cũng chính là phương pháp phân
tích tương quan hồi qui và tương quan hồi qui đa biến trong xã hội.
Cho đến ngày nay, những quy tắc trong nghiên cứu xã hội học
của Durkheim vẫn được coi là hữu ích và có giá trị về phương pháp
nghiên cứu của nền xã hội học hiện đại. Nhiều nhà xã hội học đã đưa
kinh nghiệm của ông áp dụng trong thực tiễn như những nguyên tắc
sống còn của xã hội học.
2.5. Max Weber (1864 - 1920)
M.Weber sinh tại Erturt, Thuringia thuộc nước Đức. Ông sinh
ra trong một gia đình dòng dõi và có thế lực về kinh tế và chính trị.

46

about:blank 48/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Ông đã từng được đào tạo ở trường tổng hợp Heidelberg, trường tổng
hợp Berlin, trường đại học Fribourg. Nghề nghiệp của ông là dạy luật
(1892), giáo sư về kinh tế chính trị và kinh tế... (Tony Bilton và nhóm
tác giả, 1993). Ông được đào tạo cơ bản về ngành luật nhưng nghiên
cứu khá nhiều lĩnh vực. Trong đó xã hội học là một trong những lĩnh
vực ông đã đóng góp nhiều công sức của mình. Giới bình luận phương
Tây coi ông là ngôi sao Bắc Đẩu trong xã hội học (Hàn Lâm Hợp,
2004). Các tác phẩm chính về xã hội học của ông bao gồm:
- Những tiểu luận phương pháp luận (1902).
- Đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1902 -
1904)
- Kinh tế và xã hội (1910 - 1914).
- Xã hội học tôn giáo (1916).
- Tôn giáo ở Trung Quốc.
Trong các tác phẩm này đã chứa đựng nhiều tư tưởng xã hội có
giá trị không chỉ vào thời kỳ lịch sử của ông mà còn có giá trị cho đến
ngày nay.
Trước hết, cần phải đề cập đến quan điểm của Weber về đối
tượng nghiên cứu của xã hội học. Nếu Comte và Spencer đi từ cách
tiếp cận vĩ mô với một hệ thống xã hội có cấu trúc thì Weber lại chủ
trương khám phá đời sống xã hội từ hành động của cá nhân con người.
Vì vậy ông khẳng định rằng: xã hội học là khoa học nghiên cứu về
hành động xã hội. Theo ông: hành động xã hội là những hành động
được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó. Là hành động
có liên quan đến người khác và được định hướng đến người khác
trong quá trình và đường lối của nó. Như vậy, một hành động được coi
là hành động xã hội khi nó liên quan đến người khác. Nhưng Weber
đặc biệt quan tâm đến động cơ thúc đẩy có trong ký ức của chủ thể là
nguyên nhân của hành động. Chính yếu tố động cơ đã giúp cho chúng
ta giải thích được tại sao con người hành động như vậy. Ông chia 4
loại hành động xã hội.
- Hành động cảm xúc (động cơ ở đây là phục tùng yếu tố xúc
cảm).
- Hành động truyền thống: phục tùng truyền thống theo thói
quen.

47

about:blank 49/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Hành động thuần túy giá trị: Yếu tố giá trị là yếu tố chi phối
động cơ hành động của chủ thể.
- Hành động thuần túy mục đích: Mục đích là động cơ bất di
bất dịch của hành động mà chủ thể thực hiện.
Một hình ảnh mà Weber sử dụng để phân tích về hành động xã
hội và được diễn đạt một cách đơn giản, dễ hiểu là hành động của
người bán củi. Ông cho rằng trong hành động này động cơ của người
bán củi thể hiện ở chỗ anh ta muốn bán được nhiều củi. Vì vậy anh ta
phải nghĩ đến cách thức làm, thế nào để người mua chấp nhận hàng
hóa của anh ta. Lúc này hành động của người bán củi định hướng vào
đối tượng là những người sử dụng củi. Họ cần những bó củi tiện cho
việc nấu thay vì những cây to, dài khó khăn cho việc thao tác bếp núc.
Như vậy hành động chẻ củi là hành động có liên quan đến người khác,
có định hướng vào người khác trong suy nghĩ của chủ thể.
Với những quan điểm như vậy, Weber đã đặt nền móng cho
việc hình thành lý thuyết hành động xã hội.
Nói đến lý thuyết xã hội của Weber không thể không nói đến
quan điểm của ông về bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
Cũng như K.Marx, Weber nhận thức rõ về sự phân tầng và sự
bất bình đẳng xã hội đang tồn tại và đã tồn tại trong lịch sử. Điều đó
được ông chứng kiến thông qua xã hội Đức và các nước tư bản lúc bấy
giờ. Ông cũng đồng ý với Marx rằng: "Giai cấp là một hiện tượng
kinh tế - xã hội - tình hình giai cấp xoay quanh quyền chủ sở hữu và
không làm chủ sở hữu về tư bản" (Dẫn theo Warren Kidd, 2005). Nói
cách khác ông tán thành nguồn gốc của sự phân chia xã hội thành giai
cấp và tầng lớp có địa vị và quyền lực khác nhau là ở vấn đề kinh tế,
vấn đề sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Weber không chỉ tập trung vào các yếu tố kinh tế mà còn khai
thác các yếu tố phi kinh tế trong việc giải thích nguồn gốc của bất
bình đẳng và phân tầng xã hội. Ông cho rằng các yếu tố như giới tính,
sắc đẹp, dòng dõi, uy tín (danh dự) hoặc cơ may, khả năng tiếp cận thị
trường là các yếu tố góp phần tạo ra sự bất bình đẳng và phân tầng xã
hội. Những cái mà ông gọi là sự thay đổi bên trong và giữa các phạm
trù theo tình huống thị trường và khả năng tiếp thị trong nền kinh tế
thị trường. Sự bất bình đẳng và phân tầng xã hội là vấn đề mà các
quốc gia, các dân tộc đang hết sức quan tâm hiện nay. Chính quan
điểm của Weber đã cùng với các quan điểm của Marx về giai cấp đấu

48

about:blank 50/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

tranh giai cấp đã hình thành nên lý thuyết xung đột trong nền xã hội
học thế giới.
Trong cuốn Những luận thuyết về xã hội của Weber được H.H.
Gerth và C.Wright Mills dịch ông đã chỉ ra sự đa dạng thứ bậc của
giai cấp và hoạt động giai cấp xuất phát từ quyền lợi kinh tế qua các
mối quan hệ trung gian giữa giai cấp, địa vị và đảng phái.
Ông quan niệm giai cấp không phải là cộng đồng mà chỉ là nền
tảng thường xuyên cho hoạt động cộng đồng" mà nền tảng này chính
là đặc trưng về cơ hội tạo dựng cuộc sống trong nền kinh tế thị trường.
Ông cho rằng: chúng ta có thể nói đến một giai cấp khi một số người
nói chung là thành tố cơ bản tạo dựng cuộc sống, và cho đến nay
thành tố này vẫn tiêu biểu độc nhất về quyền lợi kinh tế trong việc sở
hữu hàng hóa và tận dụng cơ hội thu nhập. Ông đưa ra quan niệm:
"Tình huống giai cấp" với nghĩa là "cơ hội đặc trưng để cung cấp hàng
hóa, điều kiện sống bên ngoài và kinh nghiệm sống của cá nhân, tới
chừng mực mà cơ hội này được xác định nhờ khối lượng và loại
quyền lợi hoặc không có quyền hay giải quyết vấn đề hàng hóa hoặc
có kỹ năng tạo ra thu nhập theo trật tự kinh tế quy định (Warren Kidd
và nhóm tác giả, 2005).
Những người có cùng tình huống trên thì thuộc về cùng một
giai cấp. Trên một khía cạnh nào đó, Weber quan niệm rằng: giai cấp
là những người có cùng một cơ hội trong nền kinh tế thị trường.
Ông phân biệt tình huống giai cấp bằng yếu tố tài sản. Theo đó
sẽ có một nhóm người có tài sản cho thuê hoặc tái đầu tư như quyền sở
hữu đất đai, cửa hàng, các cơ sở sinh lợi khác. Họ sẽ là những người
chủ doanh nghiệp, người cho thuê mướn lao động. Còn một nhóm
người khác không có tài sản như "người bán sức lao động thô sơ",
"người bán sức lao động có trình độ chuyên môn...người bán sức lao
động có chuyên môn và khả năng làm dịch vụ" (Theo Lê Ngọc Hùng,
2002).
Weber nhấn mạnh yếu tố tạo nên giai cấp là quyền lợi rõ rệt về
kinh tế và chỉ có quyền lợi này mới kéo theo sự hiện hữu của thị
trường. Tuy nhiên ông cũng cho rằng khái niệm "quyền lợi giai cấp"
là "mơ hồ" là "khái niệm thực nghiệm" mà thôi.
Sự phân tầng xã hội và phân chia địa vị xã hội gắn liền với
danh dự, tài sản, lối sống. Ông khẳng định rằng giai cấp được xác định
đơn thuần về mặt kinh tế, nhưng địa vị xã hội được xác định qua sự

49

about:blank 51/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

ước lượng về danh dự xã hội, dù là tốt hay xấu. Nhưng danh dự có


liên quan đến bất kỳ phẩm chất nào của số đông người trong cộng
đồng và có thể liên quan đến vấn đề giai cấp. Ông cũng khẳng định:
sự phân biệt giai cấp có liên quan với sự phân biệt địa vị trong các lĩnh
vực khác nhau. Yếu tố tài sản có ảnh hưởng đến địa vị xã hội của các
cá nhân: Trong nền kinh tế tồn tại lâu dài của một khu vực có tổ chức
thì người giàu có nhất thường là vị thủ lĩnh.
Tuy nhiên, nếu Marx cho rằng bất bình đẳng và phân tầng xã
hội là một phạm trù lịch sử. Chúng sẽ biến mất khi chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất không còn nữa thì Weber lại quan niệm rằng thật là khó
khăn để loại trừ sự bất bình đẳng xã hội. Bởi vì bất bình đẳng không
chỉ có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân mà chúng cần xuất phát
từ sự khác biệt giữa các cá nhân về khả năng môi trường sống, v.v...
Về nguyên nhân của sự bất bình đẳng, ông cho rằng "bất bình đẳng
trong xã hội có thể không dựa trên cơ sở những mối quan hệ kinh tế",
mà có thể dựa trên uy tín và quyền lực chính trị. Cũng tương tự như
vậy, địa vị xã hội hay uy tín có thể xuất phát từ quyền lực kinh tế hoặc
các yếu tố khác. "Với ông nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng
trong chủ nghĩa tư bản là khả năng thị trường - đây là những kỹ năng
mà người làm thuê may ra thị trường lao động" (Tony Bilton, 1993).
Sự bất bình đẳng về địa vị xã hội là một trong những loại hình bất
bình đẳng có liên quan trực tiếp đến yếu tố quyền lực xã hội. Theo
ông, địa vị xã hội trong những khung cảnh cụ thể chúng có tác động
đến quan hệ xã hội, lối sống... của các cá nhân đang chiếm giữ địa vị
xã hội đó.
Weber đề cập đến quyền lực và thể chế xã hội như một phần của
thực thể xã hội mà trong đó con người gắn chặt với nó. Ông nhận thức
rằng quyền lực là sức mạnh mà một cá nhân hay một nhóm người sử
dụng để áp đặt cho người khác. Bản thân quyền lực và việc sử dụng
quyền lực đã biểu hiện sự bất bình đẳng trong xã hội bởi vì quyền lực
chỉ thuộc về một cá nhân và một nhóm người nhất định, số còn lại
(thường là số đông) lại là những người vô quyền, phải chấp nhận sức
mạnh của người khác. Khi bàn về thể chế xã hội, ông cho rằng bộ máy
quan liêu xuất hiện như kết quả của sự hợp lý hóa xã hội gắn bó mật
thiết với chủ nghĩa tư bản công nghiệp. Bộ máy quan liêu như một mô
hình tổ chức thiết kế hợp lý để thực hiện nhưng nhiệm vụ phức tạp có
hiệu quả của tổ chức. Chúng bao gồm các đặc điểm như: tính chuyên
môn hóa, thứ bậc của các chức vụ chính thức, quy luật và quy định,

50

about:blank 52/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

năng lực kỹ thuật, tính phi cá nhân và truyền đạt chính thức bằng văn
bản.
Vấn đề tôn giáo và mối quan hệ giữa tôn giáo với kinh tế, xã hội
là một trong những điểm sáng của lý thuyết xã hội của Weber. Ông
không tán thành quan điểm của Marx cho rằng quan hệ kinh tế là yếu tố
cơ bản để giải thích về cấu trúc xã hội và là động lực đầu tiên cho sự
thay đổi xã hội. "Ông tin rằng những tư tưởng tôn giáo có một ảnh
hưởng độc lập về mặt lịch sử và rõ ràng lĩnh vực chính trị thường là lực
lượng kiểm soát cốt yếu trong những thay đổi xã hội" (Tony Bilton,
1993). Trong quá trình nghiên cứu về sự ra đời và phát triển của chủ
nghĩa tư bản, ông đặc biệt quan tâm đến các yếu tố có liên quan đến tiến
trình nói trên. Trong đó tôn giáo được tìm thấy như một yếu tố quan
trọng bằng việc "phân tích tập hợp tài liệu xã hội học tôn giáo" qua các
tôn giáo lớn và phổ biến. Trong đó, tác giả cố gắng làm cho quan hệ
giữa “Tin Lành" và "tư bản chủ nghĩa" có thể thấy được rõ ràng và
thuyết phục trong lịch sử văn hóa phương Tây (C.P. Jean, 2002).
Bằng sự kiểm chứng thực tế, ông nhận thấy rằng phần lớn các
nhà tư bản kinh doanh thành đạt trong ngành sản xuất và dịch vụ đều
là tín đồ của Tin Lành thanh giáo. Giải thích cho điều này ông đã
nghiên cứu về các quy tắc, chuẩn mực mang tính nguyên tắc sống và
kinh doanh của chủ nghĩa tư bản và nội dung giáo lý của đạo Tin
Lành. Ông đã tìm thấy sự phù hợp giữa giáo lý Tin Lành và tinh thần
(hay việc các nhà tư sản mại bản đưa giáo lý Tin Lành vào cuộc sống
của họ). Chính giáo lý Tin Lành đã tạo ra sự biến đổi trong hành vi
kinh tế. Tony Bilton (1993) đã viết: "Weber đã cho là điều này xảy ra
là bởi thanh giáo đòi hỏi hành động trần tục đúng mực - làm nhiệm vụ
của một người khi được gọi đến". Nếu điều này sinh ra sự giàu có thì
nó tượng trưng cho đặc ân của chúa trời và đã chứng tỏ việc làm
thiện". Trong giáo lý Thanh giáo có khuyên răn các tín đồ rằng: "Thời
gian là vàng bạc... tiền bạc biết sinh sôi nảy nở... hãy tiết kiệm... hãy
thận trọng và trung thực". Thanh giáo gắn liền với chủ nghĩa khổ
hạnh, vì vậy, họ kêu gọi con người từ bỏ mọi khoái lạc trần gian,
không xài phí của cải vật chất mà Chúa đã ban cho. Ngược lại cần
phải tái đầu tư sản xuất để làm giàu thêm mảnh đất của Chúa. Weber
coi sự kết hợp của chủ nghĩa khổ hạnh với việc làm mang tính trần tục
"được xem như là một sự phát triển văn hóa duy nhất, và sự phát triển
mà đã thích hợp hoàn hảo với tích lũy tư bản: Tài sản được cóp nhặt
lại nhưng nó luôn luôn được tái đầu tư để gom góp của cải hơn nữa".

51

about:blank 53/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Ông cũng khẳng định rằng không một đạo đức tôn giáo nào đòi hỏi sự
kết hợp ấy. Vì vậy "Weber đã lập luận, các nguồn gốc của chủ nghĩa
tư bản duy lý hiện đại phải được nhìn thấy trong nền văn hóa phương
Tây và trên hết là ở đạo Tin Lành thanh giáo". Weber viết: "... có thể
nhấn mạnh rằng tôi coi ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế dựa trên số
phận của các quan niệm tôn giáo là điều rất quan trọng" (Tony Bilton,
1993). Có hai vấn đề quan trọng được rút ra từ quan điểm này của
Weber: Thứ nhất là ông coi tôn giáo là một bộ phận trong văn hóa của
phương Tây và với vị trí đó tôn giáo (rộng hơn là văn hóa) có quan hệ
chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai là đạo đức của
Thanh giáo góp phần thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
phương Tây. Tuy nhiên trong công trình nghiên cứu về tôn giáo ở
Trung Quốc, ông coi Nho giáo cũng là một loại hình tôn giáo và nó
trở thành yếu tố cản trở sự hình thành một hệ thống pháp luật lý tính
hóa. Như vậy, một cách nào đó, trong tư tưởng của ông đã thể hiện
qua điểm cho rằng không phải bất cứ tôn giáo nào cũng hỗ trợ cho sự
phát triển mà Nho giáo là một ví dụ như vậy.
Weber viết: "Tinh thần của chủ nghĩa tư bản hiện đại, và yếu tố
căn bản của toàn bộ văn hóa hiện đại là hành vi hợp lý dựa trên cơ sở
tư tưởng thiên chức và bắt nguồn từ chủ nghĩa cấm dục của Cơ Đốc
Giáo" (Hàn Lâm Hợp, 2004). Mặc dù ngay sau khi cuốn sách ra đời và
được Tacolt Parsons dịch ra tiếng Anh năm 1930, nhiều học giả đã
phê phán quan điểm này của ông và cho rằng chính cơ sở kinh tế đã
ảnh hưởng đến giáo lý mang tính cách tân của Tin Lành nhưng điều
này không hẳn đã chiến thắng lý thuyết xã hội về tôn giáo của ông.
Nhiều nhà khoa học đã lật lại sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản ở các
thời kỳ khác nhau và tác động của giáo lý Tin Lành đến sự biến đổi
nguyên tắc sống và kinh doanh của chủ nghĩa tư bản trong các thời kỳ
ấy để minh chứng cho sự đúng đắn trong các phân tích của M.Weber.
Tuy nhiên ông đã rất ít đề cập đến những tác động ngược lại
của tôn giáo đối với đời sống kinh tế - xã hội như K.Marx đã làm.
Trên phương diện phương pháp, Weber đặc biệt nhấn mạnh
tính khách quan trong nghiên cứu xã hội.
Để đi đến quan điểm này, ông đã phân biệt giữa khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Ông cho rằng đối tượng của khoa học tự
nhiên là cái sự vật trong giới tự nhiên, đối tượng của khoa học xã hội
là hoạt động xã hội của con người. Mặt khác tri thức khoa học tự

52

about:blank 54/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

nhiên "là sự hiểu biết về giới tự nhiên, tức là thế giới bên ngoài cá
nhân có thể giải thích các hiện tượng tự nhiên bằng các quy luật khách
quan chính xác". Còn tri thức khoa học xã hội là sự hiểu biết về xã
hội) "là thế giới "chủ quan" do con người tạo ra và gắn cho sự vật
khách quan" (Theo Lê Ngọc Hùng, 2002). Vì vậy để hiểu về đời sống
xã hội, trước hết cần phải hiểu các hành động chủ quan của con người
tạo ra.
Từ đó ông cho rằng nghiên cứu khoa học xã hội cần phải đảm
bảo tính khách quan và cần phải vượt ra ngoài phạm vi quan sát để đi
sâu lý giải động cơ, quan niệm và thái độ của các cá nhân, đặc biệt
giải thích xem các chuẩn mực văn hóa, hệ giá trị và những hiểu biết
của cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến hành động của họ.
Trong nghiên cứu xã hội học ông đặc biệt thành công trong
việc sử dụng phương pháp phân tích, giải thích và giải nghĩa các hành
động xã hội. Theo ông, để hiểu được hành động xã hội không chỉ sử
dụng quan sát mà phải lý giải được hành động xã hội. Trong đó việc lý
giải động cơ của hành động trở nên đặc biệt quan trọng khi muốn cắt
nghĩa về đời sống xã hội qua hành động của con người. Theo Weber,
có hai cách lý giải hành động xã hội.
- Lý giải trực tiếp: Lý giải trực tiếp thể hiện trong quá trình
nắm bắt nghĩa của hành động qua quan sát trực tiếp những đặc điểm,
những biểu hiện của nó theo kiểu "mắt thấy, tai nghe"...
- Lý giải gián tiếp: "Là giải thích, giảng giải động cơ, ý nghĩa
sâu xa của hành động qua việc hình dung ra tình huống, bối cảnh của
hành động" (theo Phạm Tất Dong- Lê Ngọc Hùng, 2001).
Ông còn sử dụng phương pháp so sánh lịch sử trong nghiên
cứu xã hội. Phương pháp này ông đã sử dụng để làm nổi bật quan hệ
giữa tôn giáo và sự phát triển kinh tế - xã hội khi ông đem so sánh tôn
giáo ở Trung Quốc và các nước khác với tôn giáo ở nền văn hóa
phương Tây. Nhờ đó ông đã phát hiện ra sự khác biệt về điều kiện xã
hội giữa phương Tây và các nước khác trong mối quan hệ với sự ra
đời và phát triển.

53

about:blank 55/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

3. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC VÀ


MỘT SỐ LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC CƠ BẢN
3.1. Các giai đoạn phát triển của xã hội học
Xã hội học thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác
nhau và gắn với các giai đoạn ấy là sự hình thành của các lý thuyết xã
hội học đại diện cho các trường phái tiêu biểu.
Có nhiều cách nhìn nhận và phân chia về các giai đoạn phát
triển của xã hội học. Sau đây là một trong những cách phân chia mang
tính tương đối về các giai đoạn phát triển của xã hội học.
- Giai đoạn thứ nhất
Giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển của xã hội bắt đầu từ
những năm 30 cho đến những năm cuối thế kỷ XIX. Đây là buổi sơ kỳ
của ngành xã hội học nhưng nó đã chứng minh sự tồn tại và phát triển
tất yếu của mình bằng nhiều sự kiện có ý nghĩa như A. Comte đưa ra
thuật ngữ Sociology và sáng lập ra ngành Vật lý học xã hội; G.
Simmel đưa môn xã hội học vào giảng dạy ở bậc đại học tại nước Đức
(1885); A. Small đề nghị thành lập khoa xã hội học ở trường Đại học
Tổng hợp Chicago ở Mỹ (1892); E. Durkheim chính thức đưa xã hội
học vào giảng dạy ở trường đại học Pháp (1892); vào năm 1896 E.
Durkheim xuất bản tạp chí Năm xã hội học (theo L.N.H, tr. 51, 2002).
Gắn liền với thời kỳ này là sự ra đời của thuyết lịch sử - cấu trúc (đại
diện là K. Marx); thuyết chức năng (đại diện là E. Durkheim và H.
Spencer)... Mặc dù các học thuyết này vừa mới ra đời với những tư
tưởng ban đầu còn sơ khai, nhưng chúng đã đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển các trường phái và các lý thuyết ở các thời kỳ tiếp
theo.
- Giai đoạn thứ hai
Giai đoạn này bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XX và kết thúc
vào những năm 90 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ xã hội học phát triển
mạnh kể cả lý thuyết, phương pháp và đội ngũ những người nghiên
cứu, truyền bá tư tưởng xã hội học. Kế tục những học giả tiền bối, các
nhà xã hội học của thế kỷ XX đã làm được nhiều điều kỳ diệu: họ đã
phát triển các lý thuyết xã hội học lên tầm cao hơn, mang tính thực
tiễn và hiện đại hơn. Trong đó phải kể đến sự phát triển của lý thuyết
cơ cấu - chức năng với tên tuổi của T.Parson; Malinowsky; Brown, G.
Sumner; thuyết lịch sử cấu trúc với sự đóng góp của các nhà xã hội
học Liên Xô cũ, Ba Lan, Bun - ga - ri; thuyết tương tác với đóng góp

54

about:blank 56/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

của G. Mead (1863 - 1931). Bên cạnh đó, một số lý thuyết mới đã
hình thành dựa trên các tiền đề tư tưởng đã manh nha từ trước như lý
thuyết hệ thống của T. Parsons, Niklas Luhmann, thuyết hành động xã
hội của M. Weber và A. Tourain; lý thuyết xã hội học phê phán của
Alvin Gouldner, R.W.Friedrichs, C.W.Wills ... Trong xu hướng ấy các
trường phái xã hội học và các trung tâm xã hội học lớn trên thế giới
với các sắc thái khác nhau đã ra đời (như trường phái xã hội học mác -
xít; trường phái xã hội học Chicago, trường phái xã hội học Pa - ri,
v.v...
- Giai đoạn thứ ba
Hiện nay, xã hội học đang bước vào giai đoạn thứ ba. Giai đoạn
này bắt đầu từ sau sự kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp
đổ và thế giới bước vào thiên niên kỷ XXI. Đây là giai đoạn nền xã
hội học thế giới đứng trước những cơ hội và thách thức mới được mở
ra từ thiên niên kỷ mới. Sự hòa nhập của trường phái xã hội học mác -
xít vào trào lưu chung của xã hội học thế giới là một trong những đặc
điểm đáng chú ý của thời kỳ này. Nhưng điều quan trọng hơn là xã hội
học thế giới đang đảm nhận những nhiệm vụ to lớn để xây dựng một
thế giới ổn định, phát triển trong thế kỷ mới.
Xã hội học thế giới đang tham gia tích cực vào các hoạt động
nhằm củng cố an ninh thế giới, giảm khoảng cách giàu - nghèo, bảo vệ
môi trường sinh thái, ngăn ngừa các căn bệnh hiểm nghèo, tham gia
vào tiến trình phát triển cộng đồng, xây dựng sự công bằng và bình
đẳng xã hội trong đó có bình đẳng giới, v.v...
3.2. Một số khuynh hướng và lý thuyết xã hội học
Dựa trên cách nhìn về xã hội, các chủ đề và nội dung nghiên
cứu, các nhà xã hội học thế giới đã hình thành nên các khuynh hướng
và lý thuyết sau đây:
- Khuynh hướng tiếp cận cơ cấu - chức năng: Lối tiếp cận cơ
cấu - chức năng do các nhà xã hội học Mỹ đề xướng. Họ chủ trương
nghiên cứu xã hội vận hành như thế nào để thực hiện các chức năng
cơ bản trong đời sống xã hội.
Lý thuyết cơ cấu chức năng quan niệm xã hội là một hệ thống có
nhiều bộ phận khác nhau, chúng liên kết với nhau nhằm đưa đến một
sự ổn định. Lối tiếp cận này dựa trên hai tiền đề:
Thứ nhất, xã hội bao gồm những cơ cấu xã hội, thường được
định nghĩa như là những khuôn mẫu tác phong khá ổn định. Những cơ

55

about:blank 57/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

cấu xã hội quan trọng nhất là những bộ phận chính yếu của xã hội như
gia đình, hệ thống chính trị, hệ thống kinh tế và những định chế văn
hoá (giải trí, nghệ thuật, tôn giáo...).
Thứ hai, mỗi yếu tố của cơ cấu xã hội phải được hiểu dưới góc độ
chức năng xã hội, xét như là các kết quả của sự vận hành xã hội với
tính cách là một toàn thể. Như vậy, mỗi bộ phận xã hội có một hay
nhiều chức năng để xã hội tồn tại.
Talcott Parsons (1902 - 1979) tiếp tục tư tưởng của các nhà lý
thuyết này. Học trò của Parsons là R.S. Merton bổ túc thêm rằng bất
cứ một bộ phận nào của xã hội cũng có hơn một chức năng và có
những chức năng dễ được nhận ra hơn những chức năng khác. Vì vậy
ông phân biệt thành hai loại chức năng: chức năng công khai và chức
năng tiềm ẩn. Chức năng công khai là chức năng mà mọi thành viên
trong xã hội nhận biết được. Chức năng tiềm ẩn là những kết quả
không được nhận biết, không ý thức được.
Lối tiếp cận cơ cấu - chức năng là một cách tiếp cận quan trọng
trong xã hội học, nhưng trong những thập kỷ vừa qua nó bị phê phán
gay gắt. Lối tiếp cận này phản ánh một ý thức hệ bảo thủ, biện minh
cho hiện trạng xã hội khi quan niệm rằng mọi kết cấu xã hội đều hữu
ích. Lý thuyết cơ cấu - chức năng còn quá đề cao sự thống nhất xã hội,
giảm thiểu những khác biệt do các yếu tố bất bình đẳng như giai cấp,
chủng tộc, giới tính... đồng thời, vì quá nhấn mạnh sự ổn định xã hội
nên đã không giải thích được những xung đột xã hội hoặc chuyển biến
xã hội.
- Khuynh hướng tiếp cận mâu thuẫn xã hội:
Lý thuyết mâu thuẫn xã hội nhấn mạnh đến vai trò của xung đột
và quyền lực trong việc giải thích không chỉ chuyển biến xã hội mà cả
tính liên kết của xã hội.
Lý thuyết này quan niệm rằng xã hội là một hệ thống có những
bất bình đẳng xã hội và xung đột, chúng tạo nên những chuyển biến xã
hội. Theo lý thuyết này, xã hội là một thực thể bị phân chia bởi những
bất bình đẳng xã hội liên quan đến giai cấp, chủng tộc, giới tính, tuổi
tác... Những khuôn mẫu của bất bình đẳng là hệ luận của sự phân chia
không đồng đều trong xã hội như tiền tài, quyền lực, giáo dục, uy tín
xã hội ... cho các tầng lớp dân cư khác nhau.
Trong khi lối tiếp cận cơ cấu - chức năng thừa nhận có những
yếu tố phản chức năng cho toàn xã hội, thì lý thuyết mâu thuẫn nhấn

56

about:blank 58/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

mạnh rằng có những yếu tố hữu ích cho một số người thì lại phản
chức năng đối với một số người khác. Do đó, trước bất kỳ vấn đề gì,
lối tiếp cận mâu thuẫn thường đặt câu hỏi như: thành phần xã hội nào
được hưởng lợi, thành phần nào bị thiệt hại trước biện pháp đó. Lý
thuyết mâu thuẫn xã hội xem xã hội như một đấu trường tranh giành
quyền lợi giữa các thành phần xã hội khác nhau, vạch ra các thành
phần thống trị - ví như người giàu, nam giới, dân tộc chủ thể - thường
cố gắng bảo vệ quyền lợi của họ bằng cách duy trì nguyên trạng.
Một số nhà xã hội học đã vận dụng lý thuyết mâu thuẫn xã hội
không chỉ nhằm giải thích các hiện tượng xã hội mà còn nhằm biến đổi
xã hội cho công bằng hơn.
- Khuynh hướng tiếp cận tương tác biểu tượng:
Lý thuyết tương tác biểu tượng là một quan điểm xã hội học của
trường phái Chicago (Mỹ). Lý thuyết này nghiên cứu xem cơ cấu xã hội
hiện nay được hình thành như thế nào trong quá trình tác động tương
hỗ của con người. Hai tác giả điển hình của lối tiếp cận này là
G.H.Mead (1863-1951) và E.Goffman. Mead chú trọng mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, ông cho rằng cái tôi (self) là sản phẩm tương tác
của xã hội. Và chính thông qua những tương tác này mà các hình thức
xã hội lớn hơn được hình thành. Goffman áp dụng lối tiếp cận này trong
việc nghiên cứu sự tương tác trong đời sống hằng ngày, như việc chào
hỏi, nghiên cứu đời sống trong các viện cứu tế, các lối ứng xử trên
đường phố, tại những nơi công cộng.
- Khuynh hướng tiếp cận hệ thống:
Khuynh hướng tiếp cận hệ thống xem xã hội là một chỉnh thể
thống nhất bao gồm nhiều yếu tố tác động qua lại với nhau. Do đó khi
xem xét một yếu tố nào đó phải đặt chúng trong mối liên hệ, tác động
với nhiều yếu tố khác.
Nguyên lý tính chỉnh thể là nguyên lý xuất phát, đồng thời là
nguyên lý trung tâm của lý thuyết hệ thống tổng quát. Hệ thống là một
chỉnh thể thống nhất. Song hệ thống không quy giản về tính thống
nhất chỉnh thể, chỉnh hợp. Tính hệ thống còn là tính thống nhất đa
dạng. Lý thuyết hệ thống gọi đây là nguyên lý tính phức thể. Vì thế hệ
thống là một thể phức tạp, trước hết là phức tạp về các loại quan hệ.
Do hệ thống với liên kết và tương tác giữa nhiều yếu tố hợp thành, cho
nên nó có nhiều quan hệ khác nhau: quan hệ bên trong khác với quan
hệ bên ngoài, quan hệ vĩ mô khác với quan hệ vi mô, quan hệ đồng đại

57

about:blank 59/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

khác với quan hệ lịch đại. Các quan hệ ổn định tạo nên cái mà người
ta gọi là cấu trúc hay là cơ cấu (Structure). Hệ thống có tính đa cấu
trúc (Multi - Structure), đồng thời hệ thống cũng có tính đa chức năng
(Multi-function), từ đây người ta thường hay đồng nhất hệ thống
(System) với cấu trúc (Structure). Vì thế dẫn đến đồng nhất đối tượng
xã hội học với cơ cấu xã hội (Social Structure).
Quan hệ giữa con người và xã hội hay quan hệ giữa xã hội và
con người thực chất là một biểu hiện của hệ thống xã hội (hay hệ
thống con người xã hội). Ngoài ra còn có quan hệ giữa con người và
con người, giữa xã hội và xã hội. Mối quan hệ này làm nên tính tổng
thể (tính phức thể) của hệ thống, mặt khác cũng hợp thành tính thống
nhất (chỉnh thể) của hệ thống.
Đồng thời, lý thuyết tiếp cận hệ thống còn quan tâm đến mối
quan hệ giữa con người và môi trường. Môi trường ở đây bao gồm cả
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Với lối tiếp cận như vậy, lý thuyết hệ thống đủ sức bao quát toàn
bộ phạm vi, đối tượng của xã hội học.
Tóm lại, xã hội học hiện đại có rất nhiều trường phái và quan
điểm khác nhau. Tuy nhiên, không một lối tiếp cận nào độc lập với các
lối tiếp cận khác. Sự kết hợp các cách tiếp cận khác nhau sẽ gia tăng
khả năng thông hiểu và giải thích các khía cạnh đa dạng của đời sống
xã hội con người, nhất là trong thời kỳ hiện đại.
4. XÃ HỘI HỌC VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Có thể nói không có một lĩnh vực nào của đời sống xã hội lại
không liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến xã hội học. Xã hội học
ngày càng xâm nhập sâu rộng vào các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.
Ở các nước phương Tây, ngành xã hội học đã có lịch sử phát
triển gần 200 năm thì trong khi đó ở Việt Nam chúng ta, ngành xã hội
học còn quá non trẻ.
Trước năm 1975, xã hội học được giảng dạy và nghiên cứu ở
một số trường đại học ở miền Nam. Vào những năm 80 của thế kỷ
trước, xã hội học được từng bước đưa vào giảng dạy và nghiên cứu ở
các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu trong cả nước như
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, trường Đại học

58

about:blank 60/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Viện Xã hội
học,v.v...
Trong bối cảnh hiện nay, hàng loạt vấn đề xã hội mới nảy sinh
trong thời kỳ đổi mới và chuyển đổi từ nền kinh tế quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường đã gây ra nhiều tác động tiêu cực và ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội trên nhiều phương diện. Đứng
trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã kịp thời đề ra những chủ
trương, chính sách tích cực nhằm giải quyết triệt để các vấn đề xã hội.
Xã hội học ngày càng chú trọng và đã được đưa vào giảng dạy không
những trong các trường khoa học xã hội và nhân văn mà còn trong cả
các trường khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Nhiều chương trình nghiên
cứu xã hội học cấp bộ, cấp Nhà nước được chính phủ phê duyệt, cấp
kinh phí và triển khai thực hiện có kết quả. Nhiều dự án quy hoạch,
xây dựng lớn đều có tham gia tích cực của xã hội học. Nhiều nhà xã
hội học đã không ngại khó khăn, gian khổ bám sát, theo dõi từng hơi
thở, nhịp đập của xã hội, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng
đất nước, phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
Trải qua hơn 10 năm đổi mới, bộ mặt xã hội nước ta có những
thay đổi sâu sắc. Những quan niệm cũ, hệ giá trị cũ dần dần được thay
thế bằng những quan niệm mới, hệ giá trị mới. Trong khi thành thị ở
nước ta ngày càng Âu hoá mạnh mẽ thì ngược lại ở thôn quê, bên cạnh
những đổi thay trên nhiều lĩnh vực, là việc khôi phục lại các lễ hội,
các tập tục cũ. Xã hội vẫn còn đó những bất công, những ngang trái,
những tiêu cực. Một bộ phận không nhỏ những người lao động ở
thành thị, nông thôn ngày càng rơi vào cảnh cùng quẩn, túng thiếu.
Trong khi đó những kẻ đầu cơ tích trữ, tham nhũng, hối lộ giàu lên
nhanh chóng, sống một cuộc sống sa đọa, thiếu nhân tính.
Vì một nước Việt Nam giàu mạnh và ổn định, toàn Đảng, toàn
dân ta kiên quyết bài trừ những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, ra
sức xây dựng một xã hội mới tiến bộ, công bằng.
Vậy thì để những chủ trương trên trở thành hiện thực và đem lại
hiệu quả tốt. Đảng và Nhà nước trước mắt nên làm những gì?
Theo chúng tôi, để cho xã hội bớt dần những hiện tượng tiêu cực,
phát triển ổn định và kích thích hơn nữa tính năng động của xã hội thì
Đảng và Nhà nước nên ban hành chính sách xã hội và hướng dẫn, chỉ
đạo thực hiện một cách cụ thể. Đây không phải là vấn đề mới mẻ gì.
Ngay từ Đại hội VI (12/1986), vấn đề chính sách xã hội đã được xem xét

59

about:blank 61/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

một cách thấu đáo, không còn hoà lẫn vào trong khái niệm chính sách
kinh tế - xã hội. Đương nhiên, thật khó tách bạch chính sách xã hội ra
khỏi chính sách kinh tế bởi vì chúng có quan hệ máu thịt với nhau. Tuy
nhiên, việc xem nhẹ mặt xã hội của chiến lược phát triển là vô cùng nguy
hiểm và tất yếu sẽ dẫn đến việc thủ tiêu hoặc làm thất thoát nguồn động
lực của sự phát triển.
Xã hội học xem xét chính sách xã hội dưới hai góc độ: hạn chế
những hiện tượng xã hội tiêu cực và kích thích tính năng động của xã
hội. Đối tượng của chính sách xã hội không ai xa lạ ngoài con người,
là đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người ở trong mọi
tầng lớp cư dân, là mối quan hệ giữa người và người trong mọi hoạt
động.
Mục tiêu của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người,
nhân tố quyết định sự phát triển. Nằm trong chiến lược vĩ mô của từng
giai đoạn phát triển của đất nước, chính sách xã hội bổ sung, bù đắp
những thiếu hụt mà chính sách kinh tế đôi khi không thể bao quát hết
được. Do đó, để ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh
tế, phải hoạch định những chính sách xã hội đúng đắn phù hợp với
tình hình mới. Một mặt phải trợ giúp những người gặp khó khăn, thực
hiện tốt chính sách xoá đói giảm nghèo, giúp đỡ các gia đình thương
binh liệt sĩ, những người trong hoàn cảnh neo đơn, già cả, người về
hưu, người tàn tật... Mặt khác phải tạo điều kiện động viên thúc đẩy
những người đang đi đầu trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. Có
như vậy mới thúc đẩy nhanh chuyển biến tư duy, nhịp điệu sống phù
hợp với cơ chế mới cần được xem xét như là một trong những mục
tiêu quan trọng nhất của chính sách xã hội. Chúng tôi nghĩ rằng xã hội
Việt Nam hiện nay đang trên đường thực hiện mục tiêu ấy.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
1. Tại sao xã hội học đã ra đời ở các nước tư bản Tây Âu vào thế kỷ
XIX?
2. Những đóng góp về lý thuyết và phương pháp của các nhà xã hội
học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX?
3. Hãy so sánh lý thuyết xã hội của K. Marx và M. Weber trên các
khía cạnh: cách tiếp cận xã hội, quan điểm về phân tầng và bất
bình đẳng xã hội, quan điểm tôn giáo?
4. Các giai đoạn phát triển của xã hội học thế giới? Xã hội học Việt
Nam và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề xã hội?

60

about:blank 62/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chương III
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC
1. CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI
1.1. Con người và con người xã hội
1.1.1. Con người
Xã hội học nghiên cứu xã hội tức là nghiên cứu con người
trong những cộng đồng và tổ chức xã hội xác định. Vậy con người là
gì? Những thuộc tính của nó ra sao, những khả năng, đặc điểm, tính
chất xã hội của con người như thế nào? Những vấn đề đó cần phải làm
sáng tỏ dù ở mức độ tương đối và khái quát nhất.
Đã có rất nhiều định nghĩa về con người, nhưng định nghĩa
được mọi người dễ chấp nhận nhất là định nghĩa con người trong sự
so sánh với động vật: con người có khả năng tư duy trừu tượng, có
khả năng quyết định và lựa chọn. Con người là sinh vật tự điều khiển
lấy mình, có thể làm dự án, kế hoạch và tính toán cho tương lai, suy
nghĩ về chính hành động và cách ứng xử của mình, chịu trách nhiệm
về suy nghĩ và hành vi của mình và có khả năng phát triển ý thức trách
nhiệm đối với người khác.
Về mặt xã hội, người ta nhấn mạnh đến yếu tố, khả năng là con
người có thể tách ra khỏi mình để đánh giá về mình (hoặc tách ra khỏi
"cái ta", nhìn nhận đánh giá "cái ta" đó).
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học. Mỗi
khoa học nghiên cứu con người ở từng góc cạnh, phương diện khác
nhau. Bởi vậy, con người được nghiên cứu không phải chỉ trên một
quan điểm duy nhất. Con người là một thực tế khác biệt, nhưng lại
hàm chứa trong nó nhiều vấn đề, phương diện và hết sức phức tạp.
Con người với tư cách là một đơn vị sinh lý, được các nhà sinh
vật học, cơ thể học, giải phẫu học, bệnh lý học, sinh hoá học nghiên
cứu.
Con người với tư cách là một đơn vị tâm lý, là đối tượng nghiên
cứu của các nhà tâm lý học, phân tâm học, thần kinh học, giáo dục học
v.v...
Con người với tư cách là một đơn vị tinh thần được các nhà đạo
đức học, luân lý học, giáo dục học nghiên cứu.

61

about:blank 63/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Nói như vậy không có nghĩa có nhiều loại người khác nhau trong
một con người và cũng không có nghĩa có thể đem phân chia rạch ròi
từng phương diện đó của con người khác nhau, sắc thái khác nhau.
Xã hội học nghiên cứu con người không những dưới các góc độ
trên mà còn với tư cách đó là một đơn vị xã hội - con người xã hội.
1.1.2. Con người xã hội
Khi xã hội học nói rằng những con người có xã hội tính, thì
không có nghĩa đó là những con người mẫu mực, có đạo đức hay lịch
thiệp, tế nhị. Con người được gọi là con người xã hội theo nghĩa một
con người vừa có khuynh hướng kết hợp với những người khác vừa có
nhu cầu tương quan với những người khác. Khả năng có xã hội tính
của con người là bẩm sinh. Đôi khi có người gọi đó là bản năng xã hội
của con người.
Cái gì làm cho con người hành động theo cách thức mà họ đang
làm? Tại sao lại có những người tự sát? Tại sao có những người quá
nghèo, trong khi một số khác lại quá giàu? Tại sao lại có những người
giỏi dang thông minh, trong khi có những người khác lại kém giỏi
dang và kém thông minh hơn?... Nếu chỉ có dựa vào những lý do nào
đó để giải thích thì rất dễ đi đến sai lầm.
Bản tính tự nhiên của con người
Con người sinh ra, tồn tại và phát triển trong môi trường xã hội.
Vậy bản tính tự nhiên của con người ở đâu, chúng là cái gì? Đó là những
vấn đề được đặt ra từ lâu và không kém phần gay gắt khi bàn luận về nó
giữa những người theo các trường phái khác nhau, có quan điểm khác
nhau.
Việc đánh giá xã hội về bản tính tự nhiên của con người làm nẩy
sinh các xu hướng khác nhau trong xã hội:
- Những người cấp tiến chủ trương quan điểm hãy trao quyền
cho con người.
- Những người bảo thủ, ngược lại cho rằng cần phải giữ chặt con
người trong trật tự xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người là bản tính thường trực có cơ sở
sinh học, là cái không thuộc về xã hội và không chịu ảnh hưởng của
môi trường xã hội. Xã hội có xu hướng lấn át cái bản chất tự nhiên của
con người, cho nên rất khó tìm thấy bản tính tự nhiên của con người.

62

about:blank 64/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Nhìn chung, có mấy khuynh hướng nhận thức sau đây về bản
tính tự nhiên của con người.
a. Khó nói đến bản tính tự nhiên của con người là gì, mặc dù
người ta không thể bác bỏ được nó, vì trong quá trình chung sống xã
hội con người dễ học hỏi lẫn nhau, nên cái xã hội lấn át cái tự nhiên
của con người... Cái gì trời cho, và cái gì người cho (xã hội cho) bị lẫn
lộn, không thể phân biệt một cách rõ ràng. Tôi thông minh là do thiên
bẩm hay vì tôi được học thầy giỏi?
Mặt khác, bản tính tự nhiên của con người không phải là cái phổ
quát chung cho tất cả con người của các quốc gia, vì bản tính tự nhiên
của con người ở mỗi nước, mỗi vùng khác nhau đều có sự khác nhau.
Người Căm-pu-chia khác người Nga, người Nhật khác người Mêhicô,
người Nam Bộ khác người miền Trung.
b. Một quan điểm khác thì lại có xu hướng quay về điểm xuất
phát, do việc tranh luận quá nhiều nhưng chúng đi đến kết cục. Cho
nên câu kết luận có vẻ dễ dàng được chấp nhận nhất đó là: Bản tính nó
vốn như vậy, thường được dùng trong cư xử đời thường.
c. Quan điểm thứ ba là có khuynh hướng đem gắn cái bản tính
tự nhiên của con người trong mối liên hệ mật thiết với hình thái người.
Theo quan điểm của xu hướng này thì:
- Người giàu thường thuộc da trắng và là nam giới.
- Người thông minh là người Do Thái.
- Người ở phương Nam (xứ nóng) thì thường bảo thủ hơn người
ở phương Bắc (xứ lạnh) ...
Quan điểm thứ 3 này bị nhiều người phản đối, vì nó là cơ sở cho chủ
nghĩa kỳ thị chủng tộc, phân biệt đối xử, bất bình đẳng giữa các dân
tộc. Vậy xã hội học nhìn bản tính tự nhiên của con người như thế nào
? Và lý giải nó ra sao?
+ Xã hội học nhìn nhận bản tính tự nhiên của con người: Xã hội
học không bác bỏ một cách cực đoan bản tính tự nhiên của con người.
Xã hội học đề cao bản chất xã hội của con người và xem đó là cái cơ
bản nhất để đánh giá con người. Những phẩm chất người chỉ hình
thành và phát triển trong xã hội người.
Con người lúc mới sinh ra chưa có khả năng tự tin, mà phải có
người nuôi nấng, chăm sóc một thời gian. Không có một đứa trẻ sơ
sinh nào có thể sống được nếu không có sự chăm sóc, nuôi nấng của

63

about:blank 65/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

cha mẹ. Do vậy, để tồn tại được, con người cần cái xã hội. Ngay bản
chất tự nhiên, cái mà khi đẻ ra đã có cũng được cái xã hội làm thay đổi
đi. Cái xã hội uốn nắn cái tự nhiên, và cái tự nhiên còn lại trong con
người cũng do cái xã hội quyết định.
Về mặt xã hội, con người dựa rất ít vào di truyền sinh vật. Thiên
nhiên có thể vạch cho sinh vật một chương trình có sẵn và ta gọi đó là
bản năng sinh vật. Bản năng đó khi gặp hoàn cảnh thì nó bộc lộ, nó
không phải học và cũng không phải qua suy nghĩ, không lựa chọn. Đối
với con người, thiên nhiên không làm được điều đó, vì con người đã
vạch chương trình cho mình và nó không lặp lại. Có người cho rằng
con người còn có bản năng, nhưng nhiều người khác thì phủ nhận điều
đó. Họ cho rằng, quan niệm con người có bản năng là sự trốn tránh
trách nhiệm xã hội.
Bản chất xã hội của con người
Quan điểm hiện nay gần như được mọi người nhất trí là cho
rằng con người và xã hội là hai mặt của một vấn đề. Con người tồn tại
không thể thiếu xã hội và xã hội có được là vì có con người.
Xã hội là một bao gồm nhiều người quan hệ, tương tác với
nhau trong quá trình hoạt động để thoả mãn những mục đích, nhu cầu
cơ bản của đời sống xã hội và chia sẻ với nhau một nền văn hoá
chung. Các hoạt động của con người trong một xã hội đều tuân thủ
theo một hệ thống các giá trị, các chuẩn mực và chịu một áp lực chung
của xã hội thông qua các định chế, quy tắc nhất định.
Xã hội mang lại cho mỗi người chúng ta những điều sau đây:
a. Ta tồn tại được nhờ người khác: điều này chỉ có ở con người.
Con người không có khả năng tự sống khi mới sinh ra, mà phải có
người đùm bọc, nuôi nấng, chăm sóc. Ta tồn tại được nhờ ở người khác
thể hiện ở hai khía cạnh: vật chất và tinh thần. Các nhà khoa học đã làm
thí nghiệm chứng minh rằng trẻ em sống thiếu tình cảm của người mẹ
là hết sức tai hại. Tình cảm của người mẹ là điều quyết định sự tồn tại
và phát triển của đứa trẻ ngay trong năm đầu, mặc dù điều kiện vật chất
giống điều kiện nuôi nấng của những đứa trẻ bị cách ly mẹ. Cho nên
điều kiện tình cảm là một trong hai yếu tố quyết định sự tồn tại của con
người. Thiếu nó, con người sẽ sống mất thăng bằng, đần độn và yếu ớt
về cơ thể. Người ta cũng đã thí nghiệm trên khỉ và cũng đã nhận xét
rằng khỉ con rất thích chạm vào mẹ nó, nếu tách khỏi mẹ nó thì nó sẽ
ốm yếu, buồn chán, mặc dù nó vẫn được ăn uống đầy đủ.

64

about:blank 66/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Trong suốt cả cuộc đời, con người rất cần giao tiếp tình cảm với
người khác. Nếu tách khỏi cộng đồng thì con người không phải là con
người nguyên vẹn nữa.
Xã hội quan trọng đối với sự tồn tại của con người ở trên 4 khía
cạnh:
- Người khác thoả mãn nhu cầu của ta khi còn nhỏ.
- Người khác thoả mãn nhu cầu cho ta suốt đời (nông dân sản
xuất gạo cho ta ăn, công nhân dệt vải áo cho ta mặc...).
- Người khác dạy ta làm thế nào để sống.
- Ta phụ thuộc vào sự hợp tác của người khác.
b. Xã hội mang lại cho ta tính người.
Để minh họa cho điều này, có thể dẫn ra nhiều câu chuyện về
những đứa trẻ lạc trong rừng ở với bầy sói. Câu chuyện về cậu bé
A-vê-ron ở Pháp trước đây là một điển hình về việc con người đã tách
biệt ra khỏi xã hội, sống cô độc trong tuổi ấu thơ nên tính người đã
chết mất khả năng bắt chước và học tập. Điều đó càng khẳng định
quan điểm của con người tồn tại được là nhờ có xã hội, và đánh đổ
luôn quan niệm cho rằng xã hội làm hỏng con người. Và mọi người
phải được học tập vào tuổi ấu thơ, vì không có ngôn ngữ thì không có
tư duy, ngôn ngữ là công cụ biểu đạt tư duy. Những phẩm chất người
chỉ hình thành trong xã hội người. Không có xã hội thì không có tính
người ở con người. Như vậy, tính người là học được ở xã hội, dù xã
hội ấy có tồi tệ đến đâu đi chăng nữa.
Khi có tiếng nói, ngôn ngữ và tư duy, tức là đã có tri thức, lúc đó
tri thức mới truyền trong không gian và nó không mất đi khi các cá thể
người mất đi.
Con người có "cái tôi" (self), tức là con người có khả năng
bước ra khỏi cái tôi để quan sát bản thân mình với tư cách là một đối
tượng trong những tình huống khác nhau. Chính nhờ phẩm chất ấy mà
con người quan hệ với người xung quanh để tự đánh giá mình.
Con người là sự kết hợp cái tôi (mình) với cái xã hội. Đó là hai
mặt của một vấn đề.
Con người dựa vào xã hội không phải chỉ để sống, mà còn vì
những lý do tình cảm, văn hoá và những lý do khác. Vì có khả năng
bước ra khỏi bản thân để tự đánh giá về mình, cho nên con người phức
tạp hơn rất nhiều so với các loài động vật khác.

65

about:blank 67/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

c. Xã hội tạo ra tính cách cá nhân của mỗi người.


Hết thảy mọi người đều sinh ra trong một xã hội nhất định và
phải trải qua quá trình xã hội hoá mà kết quả là các cá nhân sẽ được
thừa hưởng, được tiếp nhận những gì cần thiết mà xã hội truyền cho
để hội nhập một cách thông suốt với đời sống xã hội.
Xã hội hóa không phải làm mất tính cá nhân, ngược lại giúp cho
việc tạo ra tính cá nhân. Phản ứng của xã hội trước suy nghĩ, hành vi
của cá nhân đã tạo điều kiện để con người hình thành nên tính cách
của mình.
Cái chung và cái riêng có ở mỗi người là kết quả của quá trình
xã hội hoá. Vì vậy, xã hội bắt đầu tạo ra tính cách cá nhân từ khi con
người mới được sinh ra. Đứa trẻ mới ra đời đã chịu tác động của ông
bà, cha mẹ và những người thân khác. Dần dần thể hiện rõ khuynh
hướng chặn đứng hay là mở ra cho nó con đường phát triển theo tính
cách nào, theo ý muốn nào. Con người nào cũng trở nên bản thân
mình bằng con đường riêng của mình. Và xã hội quy định con đường
phát triển của mỗi người.
Song cần lưu ý rằng con người ta không phải bao giờ cũng trở
thành cái mà xã hội muốn. Tính cách của cá nhân mạnh hay yếu là
phụ thuộc vào việc chống lại ý muốn của xã hội mạnh hay yếu. Cá
nhân là cái riêng, cái không trùng lặp ở người khác, mà chỉ có ở người
ấy.
Tìm hiểu xã hội phải từ việc tìm hiểu xã hội hóa, mà vấn đề
trung tâm là con người có bản chất xã hội.
1.2. XÃ HỘI
1.2.1. Khái niệm
Theo cách hiểu rộng nhất của từ này, xã hội không chỉ dành
riêng cho con người mà ám chỉ mọi tổ chức của sinh vật có tương
quan lệ thuộc lẫn nhau. Nói một cách cụ thể, xã hội là tập hợp những
sinh vật có tổ chức, có phân công lao động tồn tại qua thời gian, sống
trên một lãnh thổ hay một cộng đồng nhất định, cùng nhau chia xẻ
những mục đích và lợi ích chung, cùng nhau thực hiện những nhu cầu
chủ yếu của đời sống (nhu cầu tái sản xuất, sản xuất của cải vật chất,
nhu cầu tinh thần, như cầu đảm bảo an ninh...).
Đối với triết học, xã hội là một tập đoàn người rộng lớn có mối
quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá hết sức chặt chẽ với nhau.

66

about:blank 68/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm xã hội và
khái niệm dân cư. Khái niệm dân cư không hàm ý một tổ chức xã hội,
trong khi khái niệm xã hội nhấn mạnh những mối quan hệ hỗ tương
giữa các thành viên trong xã hội. Đồng thời xã hội cũng không đồng
nghĩa với quốc gia, mặc dù trong xã hội hiện đại, khái niệm xã hội
thường ám chỉ một quốc gia, một nhà nước. Thông thường một thành
viên của xã hội nghĩ rằng họ là thành viên của một quốc gia nhất định
nhưng điều đó không phải luôn luôn như vậy và trong nhiều trường
hợp không có sự đồng nhất giữa xã hội và nhà nước. Đó là nguyên
nhân của nhiều cuộc nội chiến, xung đột xã hội như trường hợp của
người Palestine ở vùng Trung Cận Đông, của những thổ dân của Mỹ
hay bộ lạc Ibo ở Nigeria.
Xã hội con người cũng khác hẳn xã hội loài vật. Bởi lẽ con
người là động vật có tư duy, có văn hóa và biết tổ chức xã hội. Con
người có khả năng thay đổi hình thức và chức năng xã hội để thích
ứng với hoàn cảnh, hay nói cách khác con người có khả năng xây
dựng cho mình một nền văn hóa cho phép những cá nhân sống trong
một xã hội chia xẻ những giá trị, những tín niệm chung. Đồng thời văn
hóa cho phép con người, thuộc những nền văn hóa khác nhau, có
những loại hình quan hệ xã hội, những kiểu tương tác khác nhau. Do
đó một khi đã được sản sinh, văn hoá và xã hội phát triển cùng nhau
một cách khá phức tạp.
1.2.2. Tổ chức xã hội
Theo nghĩa rộng, tổ chức xã hội (Social Organization) chỉ bất kỳ
tổ chức nào hiện tồn tại trong xã hội. Còn theo nghĩa hẹp, tổ chức xã
hội chính là một tiểu hệ thống (Small System) xã hội trong một tổ
chức xã hội nào đó.
Tổ chức xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến. Nó là một
trong những loại hình cộng đồng cơ bản, cùng với những loại hình
cộng đồng khác, tạo ra sự cơ cấu xã hội. Một xã hội, nhất là đối với
các xã hội hiện đại, không thể không có các tổ chức.
Sự hình thành tổ chức có thể là kết quả tự nhiên của một quá
trình, cũng có thể là kết quả của một hành vi chốc lát, nhưng bao giờ
cũng gắn liền với yếu tố khách quan (những đòi hỏi của xã hội, của
cộng đồng) và chủ quan (tính năng động xã hội của các cá nhân).
Trong xã hội học tổ chức của xã hội được xem là một thành tố cơ
cấu của xã hội. Một tổ chức xã hội phải là tập hợp những cá nhân có

67

about:blank 69/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

quan hệ với nhau. Nếu như giữa tập thể cá nhân không quan hệ xã hội
thì họ chưa thể coi là thành viên của một tổ chức xã hội nào đó. Những
quan hệ này sẽ gắn kết các cá nhân vào một nhóm để họ cùng thực hiện
một hoạt động chung nào đó nhằm đạt được những lợi ích nhất định.
Hơn thế nữa, tổ chức xã hội còn có đặc trưng như: đó là một nhóm xã
hội mà các thành viên của nhóm có một ý thức chung nhằm thực hiện
những mục tiêu đã định. Quan hệ trong tổ chức xã hội phải là quan hệ
quyền lực, tức là có kẻ lãnh đạo, ra lệnh và có kẻ phục tùng, tuân theo.
Tổ chức xã hội phải là một tập hợp các vị thế và vai trò, tức là một
thành viên của tổ chức bao giờ cũng được trao cho những trách nhiệm
và quyền hạn nhất định. Vai trò của thành viên trong tổ chức được thực
hiện theo sự mong đợi của tổ chức. Ngoài ra, các mục đích và các mối
quan hệ trong tổ chức phải được công khai hoá cho mọi thành viên của
tổ chức.
Tóm lại, các tổ chức xã hội rất đa dạng, chúng thường thay đổi
cùng với những thay đổi khách quan của hoàn cảnh xã hội và những
thay đổi chủ quan của con người. Song mọi tổ chức xã hội đều có tác
dụng tích cực đối với xã hội nếu như chúng tồn tại và hoạt động phù
hợp với sự mong đợi của xã hội.
* Các cấp độ tổ chức xã hội
Nhóm xã hội
"Nhóm" là một hình thức tổ chức xã hội đặc biệt. Các ngành
khoa học như tâm lý học, coi nhóm là một đối tượng nghiên cứu. Họ
ứng dụng kỹ thuật thí nghiệm vào khảo cứu nhóm và nghiên cứu về
tâm lý nhóm. Công tác xã hội đã đưa nhóm vào quá trình tác động
theo liệu pháp và thay đổi hành vi. Nhóm học văn hóa nghiên cứu sự
phân chia giữa nhóm trong và nhóm ngoài như là cơ sở của thuyết vị
chủng (ethnocentesm). Đối với xã hội học, "nhóm như là một hoặc
hơn hai người cùng chia sẻ một tình cảm, ý nghĩ thống nhất và là
người giới hạn trong những mẫu hình tương đối bền vững của những
tương tác xã hội" (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2001).
Jean GolFin đưa khái niệm nhóm thành một trong 50 khái niệm
then chốt xã hội học. Ông định nghĩa: "Nhóm, xuất hiện trước sự quan
sát như là một số rất biến động những con người, thống nhất với nhau
một cách lâu dài hoặc tương đối lâu dài". Ông làm rõ thêm rằng "Sự
thống nhất ít nhiều mạnh mẽ này là sự hòa nhập" của cá nhân đối với
nhóm.

68

about:blank 70/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Như vậy, nhóm xã hội là khái niệm cơ bản của cơ cấu xã hội
theo cách nhìn của xã hội học. Nhóm chỉ tập trung với những người có
hành vi tương tác với nhau hình thành nên các tổ chức cá nhân trong
nhóm luôn luôn thiết lập những liên hệ xã hội của mình với cá nhân
khác và với tập thể. Còn Gurviteh thì đưa ra định nghĩa về nhóm là:
"Nhóm là một đơn vị tập thể hiện thực dựa trên những thái độ tập thể
liên tục và tích cực, có một sự nghiệp chung để thực hiện."
Trong xa xưa cũng như bây giờ con người luôn luôn sống thành
nhóm và luôn có ý thức về nhóm của mình. Con người không thể và
không có khả năng tồn tại một cách cô độc. Nhưng ở con người, khác
với động vật, nhóm không chỉ có tính sinh học tự nhiên (do những nhu
cầu sinh học qui định như: kiếm ăn, tự vệ, tính dục) mà còn mang tính
xã hội, tạo thành hiệu ứng nhóm có thể thực hiện và quan sát bằng xã
hội học.
Mặt khác, nhóm xã hội là một khái niệm rất rộng đi từ gia đình
đến giai cấp, giới tính, lứa tuổi... tức là nhóm từ hai người đến hàng
ngàn người. Nhưng dù có số lượng bao nhiêu, đã gọi là nhóm thì đều
có cơ cấu xã hội riêng và bao gồm một số vị trí, vai trò nhằm thực
hiện những mục tiêu cụ thể. Một trong những phân biệt quan trọng
trong nghiên cứu nhóm là sự phân biệt nhóm sơ cấp (Primary group)
và nhóm thứ cấp (Secondary group). Nhóm sơ cấp có đặc tính là quy
mô nhỏ, có quan hệ trực tiếp với nhau, có cộng tác chung và có tính
thân mật với nhau, theo đó, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp tại nơi làm
việc đều có thể liệt kê vào nhóm sơ cấp. Ngược lại nhóm thứ cấp có
thể bao gồm nhiều người hơn, quan hệ trong nhóm ít liên quan đến
nhân cách, cá tính của các thành viên thường có mục đích hạn chế, các
mối quan hệ kéo dài trong một thời gian nhất định, tương quan trong
nhóm thường dựa trên một thoả ước chung có tính cách thành văn.
Các tổ chức, các hiệp hội là những nhóm thứ cấp.
Về mặt tổ chức xã hội, cấp độ trung gian giữa nhóm sơ cấp và
các thiết chế lớn hơn ở tầm mức quốc gia là cộng đồng (Community).
Cộng đồng có hai loại: cộng đồng có tính cách lãnh thổ và cộng đồng
không có tính cách lãnh thổ. Cả hai cộng đồng này đều là tập hợp các
nhóm sơ cấp và thứ cấp. Những cộng đồng có tính cách lãnh thổ bị
quy định bởi ranh giới địa lý được hình thành trên tính lân cận, tính
láng giềng. Ngược lại cộng đồng không có tính cách lãnh thổ là hệ
thống, là mạng lưới những hiệp hội được hình thành nhằm thực hiện
một số mục đích chung, như mạng lưới các hiệp hội theo nghề nghiệp.

69

about:blank 71/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Mỗi cá nhân có ý thức về sự gắn bó của họ với nhóm thể hiện


qua việc tiếp nhận những đặc trưng như lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực,
giá trị... Họ ý thức được những điểm chung nhất định với những thành
viên khác của nhóm, hoà nhập vào nhóm để tạo ra một cộng đồng tâm
lý. Sự tham dự chung của các thành viên của nhóm vào trong một hoạt
động chung phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của nhóm. Ngược lại, cơ
cấu xã hội, tiểu văn hoá của nhóm cũng ảnh hưởng tới các hoạt động
của các thành viên.
Nghiên cứu xã hội học không thể bỏ qua việc nghiên cứu nhóm.
Ở một chừng mực nhất định, nhóm là cấp độ trung gian giữa cá nhân
và xã hội, khi nghiên cứu nhóm tất yếu phải phân loại chúng. Việc
phân loại nhóm rất phức tạp bởi vì nhóm có nhiều đặc trưng khác
nhau. Do đó, các nhà xã hội học đã dùng một tổ hợp các đặc trưng
xem như là tiêu chí để phân loại nhóm. Theo đó, chúng ta kể ra đây
một số nhóm tiêu biểu như: nhóm sơ cấp - nhóm thứ cấp; nhóm có tổ
chức - nhóm không có tổ chức; nhóm quy ước-nhóm thực.
Tổ chức xã hội
Tổ chức xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến. Nó là một
trong những loại hình cộng đồng cơ bản, cùng với những loại hình
cộng đồng khác, tạo ra sự cơ cấu xã hội. Một xã hội, nhất là đối với
các xã hội hiện đại, không thể không có các tổ chức. Thông qua các tổ
chức xã hội này mà các cá nhân liên kết với nhau và cùng tồn tại, mục
tiêu của họ được thực hiện. Trong một xã hội thường tồn tại nhiều loại
hình tổ chức xã hội với các chức năng khác nhau. Điều này có thể
nhìn thấy qua lý thuyết cấu trúc - chức năng và lý thuyết tổ chức xã
hội.
2. CƠ CẤU XÃ HỘI
2.1. Định nghĩa cơ cấu xã hội
Theo lý thuyết cơ cấu - chức năng, xã hội là một hệ thống với
cấu trúc phức tạp. Khái niệm "Cơ cấu xã hội" gần như phổ biến và
đóng vai trò trung tâm để giải thích về xã hội.
Từ điển xã hội của G. Endruweit và G. Trommsdorff đã giải thích
nguồn gốc từ "cơ cấu" trong tiếng la tinh là "Struere", nghĩa là xây dựng,
sắp xếp. Danh từ "Structure" được hiểu là hệ, phân chia nội bộ, hình
mẫu.
Từ cơ sở nói trên, chúng ta có thể hiểu cơ cấu xã hội có nghĩa
là:

70

about:blank 72/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

a. Các mối quan hệ tương đối bền chặt thường tồn tại dưới các
phương thức của một hệ thống xã hội; b. Một sự sắp xếp các vị trí cá
nhân hay đặc trưng cho nhóm được biểu thị bởi các vị thế khác nhau
(Hoult, dẫn theo từ điển xã hội học của G. Endruweit và
G.Trommsdorff, 2001). Tuy nhiên cách định nghĩa sau đây của
Osipov cho ta thấy rõ hơn về khái niệm cơ cấu xã hội: Cơ cấu xã hội
là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ bản trong một
hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả
các xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các
mối quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác.
Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò,
nhóm và các thiết chế.
Như vậy, nói đến cơ cấu xã hội là nói đến các yếu tố tạo nên một
chỉnh thể xã hội và những mối quan hệ đa dạng, phức tạp giữa các cá
nhân và các tổ chức xã hội.
Theo cách định nghĩa nói trên, cơ cấu xã hội sẽ bao gồm các
yếu tố: vị thế và địa vị xã hội, vai trò, nhóm và các thiết chế xã hội.
2.2. Các thành tố của cơ cấu xã hội
2.2.1. Vị thế xã hội
Lintơn đưa ra định nghĩa vị thế xã hội là vị trí tương đối của
một cá nhân trong bối cảnh xã hội giới hạn nhất định, mà từ đó có
những kỳ vọng về vai trò. Trong cách định nghĩa này vị thế chính là vị
trí của cá nhân trong hệ thống xã hội và gắn liền với vai trò xã hội.
I.Robertsons cho rằng: "Vị thế là một vị trí xã hội. Mỗi vị thế
quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay một nhóm xã hội..." (Theo
Nguyễn Đình Tấn, 2005). Nhà xã hội học J.H. Fischer quan niệm: Vị
thế là vị trí của một người trong cơ cấu tổ chức xã hội theo sự thẩm
định, đánh giá của xã hội.
Tuy nhiên cũng có thể quan niệm: Vị thế xã hội là vị trí xã hội
của các cá nhân cùng với những trách nhiệm và quyền lợi được gắn
kèm theo vị trí đó. Nếu định nghĩa như vậy thì khái niệm vị thế xã hội
được hiểu như khái niệm địa vị xã hội. Vì địa vị xã hội là một chỉ số
tổng quát xác định trách nhiệm và quyền lợi của một cá nhân hoặc
nhóm xã hội trong một hệ thống xã hội nhất định.
Fischer cho rằng: vị thế xã hội được tạo thành từ nhiều yếu tố
khác nhau. Các cá nhân và nhóm xã hội xác lập chỗ đứng của mình
dưới tác động của các yếu tố này. Chúng bao gồm các đặc điểm sinh

71

about:blank 73/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

học, trình độ học vấn, nghề nghiệp, uy tín, tài sản, dòng dõi, phẩm
chất v.v... Có thể nhìn nhận về các yếu tố này như sau:
- Các yếu tố sinh học: Trong bất kỳ xã hội nào, yếu tố giới tính
là cơ sở sinh học để phân biệt nam và nữ. Cơ sở sinh học ấy được con
người ấn định cho nó những quan niệm và giá trị xã hội khác nhau -
khi đó chúng trở thành cơ sở xã hội để hình thành vị thế xã hội. Chính
vì vậy, trong xã hội mẫu hệ phụ nữ là người nắm mọi quyền hành.
Ngược lại, trong xã hội phụ quyền, quyền lực do đàn ông nắm giữ
(thậm chí cho đến ngày nay). Như vậy, con người mang giới tính khác
nhau tất yếu sẽ có vị thế xã hội khác nhau. Không những thế tuổi tác,
chủng tộc, màu da ... cũng là những yếu tố tham gia vào quá trình
hình thành và khẳng định vị thế xã hội của các cá nhân. Trong các xã
hội mà yếu tố tuổi tác là yếu tố khẳng định giá trị của các cá nhân thì
những người tuổi cao thường gắn với các vị thế xã hội cao trong hệ
thống xã hội ấy. Vị thế của các thành viên trong Hội đồng già làng ở
một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay là một ví dụ như
thế.
- Trình độ học vấn: Sự phát triển và tiến bộ xã hội luôn luôn gắn
liền với tri thức, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Trong thời đại
ngày nay, khi nền kinh tế tri thức (Knowlege Economic) ngày càng
đóng vai trò chủ đạo thì việc cá nhân tham gia vào các hoạt động xã hội
với những vị thế nhất định luôn luôn gắn với trình độ học vấn. Trình độ
học vấn là cơ sở của việc xác lập và thăng tiến vị thế.
- Nghề nghiệp: Sự phân công lao động và trình độ chuyên môn
hóa lao động tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành các nghề nghiệp khác
nhau. Bản thân các nghề nghiệp lại mang các giá trị khác nhau do
thang giá trị nghề nghiệp ấn định (mà thực chất là sự đánh giá của xã
hội đối với các nghề nghiệp). Ví dụ: nghề y và nghề giáo được coi là
những nghề cao quý nhất. Vì vậy, con người gắn với nghề nghiệp nào
thì sẽ mang vị thế của nghề nghiệp ấy.
- Tài sản: Tài sản ở các dạng như đất đai, nhà máy, công
xưởng. Các tư liệu sản xuất khác đều có giá trị trong việc xác định vị
thế xã hội. Fischer xác định đây cũng là một tiêu chuẩn phổ quát của
vị thế xã hội. Vị thế của các cá nhân trong Hội đồng quản trị doanh
nghiệp chẳng hạn, người ở vị thế Chủ tịch Hội đồng quản trị thường là
những người có cổ phần lớn trong doanh nghiệp.

72

about:blank 74/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Dòng dõi: Nguồn gốc gia đình trong các xã hội có đẳng cấp là
yếu tố cực kỳ quan trọng quy định vị thế xã hội của các cá nhân: "Con
vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa". Sự thế tục vị thế xã
hội từ nguồn gốc gia đình "sang" hay "hèn" giúp cho con người đạt
được vị thế dựa trên giá trị của dòng dõi mà họ đã sinh ra.
Ngoài ra, các yếu tố khác như cấp bậc, chức sắc trong tôn giáo,
vị trí của dân tộc, v.v... cũng có tác động đến sự tạo lập vị thế xã hội.
Vậy cách thức xác lập vị thế xã hội cho cá nhân diễn ra như thế
nào?
Có thể khẳng định: xã hội có ý nghĩa quyết định đối với một cá
nhân trong việc xếp đặt cho cá nhân một vị thế, duy trì nó và cả thay
đổi sang một vị thế xã hội khác, nhưng không phải cá nhân hoàn toàn
thụ động tùy thuộc vào ý thích, có nhiều khi bất thường của xã hội. Có
hai đường hướng cơ bản để có được một địa vị xã hội với mỗi cá nhân
trong một tổ chức xã hội nào đó:
+ Xã hội áp dụng một số tiêu chuẩn khách quan để đánh giá về cá
nhân rồi chỉ định cho anh ta một vị thế xã hội mà không cần đến ý kiến
của cá nhân. Ví dụ: các tiêu chuẩn về quốc gia, dân tộc, chủng tộc, tôn
giáo. Tức là những tiêu chuẩn vượt quá khả năng kiểm soát, điều chỉnh
của cá nhân. Ví dụ, lớp học mới tập trung vào, sinh viên chưa hiểu biết
về nhau, nhưng cần thiết phải có tổ chức lớp để thực hiện một số công
việc, lúc đó người ta xem xét bản trích ngang của lớp và quyết định ai
là lớp trưởng, lớp phó, bí thư chi đoàn... bên một số chỉ tiêu: Đảng viên,
lớn tuổi, điểm thi khá, đã từng tham gia các hoạt động tương tự, như là
đã làm công tác đoàn... Những quyết định đó không có sự tham dự của
chính các sinh viên đó.
+ Do sự cố gắng, năng lực hoạt động và những phẩm chất đã được
bộc lộ ở cá nhân, đặc biệt qua hiệu quả công việc mà người đó đã làm,
xã hội thẩm định, đánh giá, thừa nhận cá nhân đó và uy tín xã hội của
anh ta nâng lên đồng thời anh ta được nâng lên một vị thế khác cao hơn.
Ở đường hướng này có dấu ấn rất rõ của cá nhân trong việc nâng lên
hay hạ xuống một địa vị. Nhưng những cố gắng, năng lực và sự hoàn
thành nhiệm vụ của cá nhân phải được xã hội thừa nhận, đánh giá đã.
Hai thể thức này thường xen lẫn nhau, kết hợp với nhau để phản
ánh thực tế là con người ta không hoàn toàn, nhất nhất chấp nhận toàn
bộ phán xét của xã hội, của người khác, cũng như hoàn toàn không phải
tự mình tạo ra cho mình một địa vị xã hội. Nhưng suy cho cùng yếu tố

73

about:blank 75/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

xã hội vẫn là yếu tố chi phối việc xác lập một vị thế xã hội ở các cá
nhân. Việc một cá nhân nào đó bằng năng lực thực sự của mình, bằng
kết quả hoạt động của mình, bằng những phẩm chất ưu việt của mình
để vươn đến một vị thế cao thì không phải chỉ có thế là được, mà những
cố gắng đó phải được xã hội đánh giá đã, thừa nhận đã. Điều đó thật sự
có ý nghĩa.
Các loại vị thế xã hội:
Có thể có nhiều cách xem xét về vị thế xã hội. Tùy theo mức
độ cố gắng mang tính chủ quan của con người để phân chia thành: Vị
thế gán cho, vị thế đạt được và vị thế vừa gán cho vừa đạt được.
Vị thế gán cho là vị thế không gắn với nỗ lực cá nhân. Loại vị
thế này thường gắn với "cái tự nhiên" của con người như vị thế của
người da đen hay vị thế của người da trắng, hoặc là vị thế của một phụ
nữ hoặc nam giới. Vị thế đạt được là loại vị thế do các cá nhân nỗ lực
mà có. Ví dụ: một người công nhân vừa làm việc vừa học tập, tìm tòi
sáng tạo. Sự nâng cao kiến thức, tay nghề trong chuyên môn kết hợp
với phẩm chất đạo đức tốt đã đưa đến cho anh ta một vị thế xã hội mới
là một quản đốc. Vị thế quản đốc là vị thế mà người công nhân đạt
được nhờ nỗ lực của cá nhân và sự thẩm định, đánh giá và thừa nhận
của xã hội.
Vị thế vừa gán cho vừa đạt được là sự kết hợp giữa cái "tự
nhiên" với sự nỗ lực của cá nhân. Vị thế của một hoa hậu thế giới
dành cho phái nữ chẳng hạn. Để trở thành hoa hậu thế giới phải là một
phụ nữ đẹp về hình thức, đẹp về tâm hồn và trí tuệ. Vẻ đẹp tâm hồn và
trí tuệ không phải bẩm sinh mà có, mà là kết quả của một quá trình
học hỏi, rèn luyện đầy tính sáng tạo và tính nhân văn của người được
nhận vương miện Hoa hậu thế giới.
Một cách phân loại khác là người ta chia vị thế thành vị thế
then chốt và vị thế không then chốt. Theo Fischer, vị thế then chốt là
một khái niệm xã hội học quan trọng trong sự phân tích nhân cách xã
hội toàn diện. Vị thế then chốt chính là cửa số lớn nhất mà con người
mở ra cho bên ngoài tìm hiểu về mình. Vị thế được coi là then chốt
đối với một cá nhân nào đó khi họ phải chi phí phần lớn thời gian, sức
lực, trí lực, thậm chí của cải cho việc duy trì vị thế ấy. Là vị thế mạnh
lại nhiều lợi ích và chi phối các vị thế khác.

74

about:blank 76/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

2.2.2. Vai trò xã hội


Nói đến "vai trò xã hội" người ta liên tưởng tới "vai diễn" trên
sân khấu hay điện ảnh. Quả thực vai trò xã hội được hình dung từ khái
niệm "vai diễn" trong nghệ thuật mà ra. Một người đảm nhận một vai
trò xã hội nào đó cũng giống như một diễn viên đóng vai trên sân
khấu. Tuy nhiên không thể đồng nhất chúng với nhau bởi vì người
diễn viên đảm nhận một vai diễn nào đó họ không phải là người viết
kịch bản, không phải là người đạo diễn, họ chỉ là một người sắm vai
cho cuộc đời của một người khác trong một thời điểm nhất định. Còn
con người đóng vai trò dù là vai trò cá nhân hay vai trò xã hội thì họ
thường vừa là nhà biên kịch, vừa là nhà đạo diễn và vừa là một diễn
viên tái hiện chính cuộc sống của mình trong suốt cuộc đời chứ không
phải là của người khác. Trên một ý nghĩa nào đó, con người đóng vai
trò xã hội khó hơn người diễn viên rất nhiều.
Đây là khái niệm cơ bản của kiến thức xã hội học. Mặt khác
theo quan điểm của các nhà xã hội học thì chỉ có ít khái niệm xã hội
học được chấp nhận (và vận dụng...) rộng rãi như khái niệm vai trò.
Trong xã hội học hiện nay, có rất nhiều cách định nghĩa về vai
trò. Theo Dalrendort: vai trò xã hội là một "tập hợp những kỳ vọng ở
trong một xã hội gắn với hành vi của những người mang các địa vị... ở
mức độ này thì mỗi vai trò riêng là một tổ hợp hay nhóm các kỳ vọng
hành vi" (G.Endruweit và G. Trommsdorff; 2002). I. Robentsons cho
rằng: vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và
quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. Một cách định nghĩa khác coi
vai trò là một tập hợp những mong đợi, các quyền và những nghĩa vụ
được gán cho một địa vị cụ thể. Hay vai trò xã hội là chức năng xã
hội, là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan bởi vị thế
của các cá nhân trong hệ thống quan hệ xã hội hoặc quan hệ giữa các
cá nhân với các cá nhân.
Tuy nhiên có thể tìm thấy nhiều điểm hợp lý trong cách định
nghĩa của J.H. Fischer khi ông cho rằng sự phối hợp và tương tác qua
lại của các khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội gọi
là vai trò. Hay nói cách khác, vai trò là những hành động, hành vi ứng
xử, những khuôn mẫu tác phong mà xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một
người hay một nhóm xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế của
họ.

75

about:blank 77/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Vai trò xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:


- Vai trò xã hội là sự kết hợp của khuôn mẫu tác phong bên
ngoài (cử chỉ, hành động...) với tác phong tinh thần ở bên trong (tư
duy, kiến thức,...) của chủ thể thực hiện vai trò. Vai trò xã hội không
phải là những cơ chế tác phong độc đoán, cứng nhắc, thụ động mà
ngược lại chúng hết sức mềm dẻo, linh hoạt tùy thuộc vào hoàn cảnh.
Vai trò xã hội chịu sự tác động từ phía chủ thể vai trò, từ cách thức
thực hiện vai trò, mức độ nhận thức và tính tích cực của chủ thể về vai
trò đó.
- Vai trò xã hội mô tả các tác phong đồng nhất được xã hội
chấp nhận. Tác phong đồng nhất chính là khuôn mẫu của các hành
động mà các chủ thể cần phải thực hiện khi họ đảm nhận những vị thế
xã hội giống nhau. Vai trò xã hội xuất hiện từ những mối quan hệ xã
hội của các chủ thể cùng hoạt động. Vai trò xã hội bao hàm các quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan tới một nhiệm vụ nào đó.
- Cá nhân thực hiện vai trò vừa chịu sự tác động của xã hội vừa
chịu sự điều tiết, kiểm soát của bản thân. Vì vậy, vai trò xã hội được
thực hiện trong sự phù hợp với các chuẩn mực xã hội nói chung và sự
mong đợi của những người xung quanh.
- Các cá nhân có thể chủ động hoặc chấp nhận vai trò tùy thuộc
vào mức độ phù hợp của chúng với nhu cầu và lợi ích cá nhân trong
sự tồn tại và phát triển của mình. Khi nó không còn phù hợp nữa sẽ bị
loại bỏ (chúng có thể bị từ chối bởi cá nhân hoặc xã hội).
- Mỗi cá nhân có thể cùng một lúc đảm nhận nhiều vai trò do
họ có nhiều vị thế xã hội và đồng thời tham gia vào nhiều hoạt động
xã hội khác nhau. Các vai trò này tạo thành một tập hợp vai trò hay
tình trạng cá nhân có quá nhiều vai trò. Trong các trường hợp như vậy
họ thường gặp tình trạng căng thẳng hay xung đột vai trò bởi vì cùng
một lúc họ phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau, với các khuôn
mẫu hành vi khác nhau. Cách giải quyết thường gặp cho tình huống
này là chủ thể sẽ ưu tiên cho các vai trò quan trọng, vai trò then chốt.
Người ta thường phân loại vai trò thành:
- Vai trò chính - vai trò phụ
- Vai trò then chốt và vai trò không then chốt
- Vai trò chỉ định - vai trò lựa chọn

76

about:blank 78/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Quan hệ giữa vị thế xã hội và vai trò xã hội là một vấn đề rất
được quan tâm kể cả phương diện lý luận lẫn hoạt động thực tiễn.
Giữa vị thế và vai trò xã hội tồn tại một mối quan hệ đồng
thuận. Có thể nói quan hệ này được biểu hiện qua tác động qua lại
chặt chẽ giữa chúng.
Đối với vai trò xã hội, vai trò xã hội nảy sinh trên cơ sở vị thế
đã được xác định. Hay nói cách khác, vị thế xã hội là chỗ đứng của vai
trò, vị thế quyết định vai trò... Vị thế như thế nào thì vai trò như thế ấy
(đa vị thế dẫn đến đa vai trò, vị thế càng cao thì vai trò cách quan
trọng, vị thế thay đổi thì vai trò xã hội cũng thay đổi theo).
Đối với vị thế xã hội, việc thực hiện tốt hay không tốt vai trò
của các cá nhân có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vị thế của họ theo các xu
hướng sau đây:
- Thăng tiến vị thế
- Giữ nguyên vị thế
- Suy giảm vị thế
- Triệt tiêu hoàn toàn vị thế
2.2.3. Nhóm xã hội
Trong khi nghiên cứu về con người và xã hội, chúng ta đã đề
cập đến nhóm với tư cách là một bộ phận cấu thành xã hội. Trong
phần này, chúng ta sẽ nhấn mạnh chúng trong một cấu trúc xã hội chặt
chẽ hơn.
Như đã khẳng định ở phần trước, nhóm không phải là sự tập
hợp cơ học của các thành viên. Để tồn tại với tư cách là một nhóm xã
hội, thành viên trong nhóm phải có những nét tương đồng với nhau
như tương đồng về nghề nghiệp, khu vực cư trú, đặc trưng văn hóa,
ngôn ngữ.v.v... không những thế họ còn có một ý thức chung và một
sự kết cấu nào đấy với nhau trong hành động dựa trên những giá trị và
những mục tiêu chung mà họ thống nhất với nhau. Đây chính là yếu tố
cơ bản để hình thành và duy trì hoạt động của nhóm cũng như tạo ra
sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong nhóm. Trong xã hội
thường có nhiều nhóm cùng tồn tại có quan hệ với nhau hoặc độc lập
với nhau. Ở các nhóm được tạo thành từ nhóm lớn phía trên theo hình
chóp nón thường có quan hệ chặt chẽ do quá trình phân nhóm mà ra.

77

about:blank 79/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Trong xã hội học, nhóm được xem xét ở các dạng khác nhau:
nhóm nhỏ, nhóm sơ đẳng, nhóm ban đầu, nhóm hạn chế, nhóm đồng
sở thích, nhóm hành động, v.v...
Xét về quy mô, nhiều nhà xã hội học cho rằng hai người trong
một cặp quan hệ cũng tạo thành một nhóm xã hội. Ví dụ: vợ - chồng,
trưởng đơn vị - trợ lý; thầy giáo - sinh viên. Lúc đó sơ đồ quan hệ nhóm
thể hiện rất rõ qua ví dụ sau đây:
A (thầy giáo) Å--------------Æ B (sinh viên)
Nhóm hai người
Các nhóm có số thành viên nhiều hơn hai thường hình thành
một mạng lưới quan hệ xã hội chằng chịt và phức tạp hơn và để duy
trì mạng lưới ấy con người cần phải dựa trên một trật tự nhất định,
thậm chí chỉ là những qui ước ngầm định.
B

A E

C D
Nhóm nhiều người
Quan hệ xã hội giữa các thành viên trong nhóm thực chất là
quan hệ giữa các vị thế và vai trò trong một tổ chức xã hội đó là
nhóm. Nghiên cứu về nhóm với tư cách là một hình thức tổ chức xã
hội và vai trò của nó đối với xã hội phải kể đến tên tuổi của Elton
Mayo, Moreno và LeWin.
Elton Mayo là một nhà tâm lý, ông đã giúp cho nhà máy
Western Electric tăng năng suất bằng cách thành lập nhóm hoạt động.
Ông thành lập nhóm gồm 6 nữ công nhân làm việc với nhau trên cơ sở
phối hợp ăn ý và hiểu biết lẫn nhau. Qua thí nghiệm trên ông đã chỉ ra
vai trò của nhóm trong hoạt động sản xuất và điều kiện để nhóm phát
huy tác dụng là sự thống nhất về ý chí và mục tiêu, sự phấn khởi, thoải
mái về tinh thần.

78

about:blank 80/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Moreno cũng là một nhà tâm lý học, các công trình nghiên cứu
tập trung vào mô tả và phân tích những phản ứng của các nhóm nhỏ,
từ đó ông xây dựng nên những xã hội đồ (Socigranomes), để biểu thị
các quan hệ và phản ứng của các thành viên trong nhóm nhỏ. Ông đã
có công trong việc xây dựng môn trắc lượng xã hội. "Xã hội đó" của
ông cho phép chúng ta ứng dụng để mô tả và xem xét quan hệ của một
nhóm cụ thể nào đó như ai được nhiều người quan tâm? Ai bị cô lập?
Nhóm xã hội nào có kết cấu bền vững, nhóm xã hội nào có nguy cơ bị
chia rẽ, phân tán.
Lewin cũng nghiên cứu về nhóm xã hội nhưng ông đặc biệt quan
tâm đến hoạt động bên trong của nhóm. Ông thực sự nổi tiếng với việc
xây dựng môn học Động lực học về các nhóm (Dynamique des
Groupes). Bằng các thí nghiệm trên các nhóm, ông rút ra các kết luận
sau đây:
- Nếu cần thuyết phục một nhóm người về một vấn đề gì đó thì
có thể có hai phương pháp: tập hợp họ lại để giải thích hoặc gợi cho
họ đặt câu hỏi và họ tự trả lời. Cách làm thứ hai có hiệu quả hơn vì khi
các thành viên tự đặt câu hỏi và tự trả lời thì vai trò của họ được phát
huy và trách nhiệm của thành viên đối với nhóm càng rõ ràng hơn.
- Nếu thuyết phục từng người một thì không có kết quả bằng
thuyết phục cả nhóm. Để cho nhóm chủ động góp phần giải quyết vấn
đề thì khâu thuyết phục dễ dàng và chắc chắn hơn (theo Thanh Lê,
2004).
2.2.4. Thiết chế xã hội (định chế xã hội)
* Định nghĩa
Có nhiều cách định nghĩa về thiết chế xã hội (định chế xã hội).
Có thể hiểu thiết chế xã hội là một cơ cấu tổ chức tương đối có tính
cách vĩnh cửu, của những khuôn mẫu xã hội, vai trò và tương quan
con người thực hiện theo một số lề lối đã được chế tài và thống nhất
với mục đích thỏa mãn những nhu cầu xã hội căn bản.
Nhà xã hội học Mỹ N.Smelser cho rằng: thiết chế là một tập hợp
các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội quan
trọng.
Như vậy, dù định nghĩa như thế nào thì khi đề cập đến thiết chế
xã hội người ta nói đến một thực thể tổ chức xã hội mà thực thể ấy có
sức mạnh mang tính kiểm soát xã hội.

79

about:blank 81/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Thiết chế xã hội có những đặc điểm sau đây:


Thứ nhất là, thiết chế xã hội này sinh trên cơ sở điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định. Cơ sở kinh tế - xã hội như thế nào thì thiết chế xã
hội như thế ấy. Điều kiện kinh tế - xã hội biến đổi thì thiết chế xã hội
biến đổi theo.
Thứ hai là, thiết chế xã hội không chỉ phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế - xã hội theo kiểu một chiều, mà bản thân thiết chế xã hội có
tính độc lập tương đối. Chúng biểu hiện ở chỗ, sau khi thiết chế xã hội
hình thành chúng có tác động trở lại đối với điều kiện kinh tế - xã hội
theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm (sự ra đời của Luật đầu tư nước
ngoài tháng 12/1987 ở Việt Nam, từ đó đến nay việc thực thi bộ luật
này đã góp phần tháo gỡ về sự thiếu hụt người vốn, công nghệ, hình
thành các trung tâm công nghiệp mới, giải quyết công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động... Bên cạnh đó cơ chế đầu tư nước
ngoài cũng có những tác động tiêu cực như khai thác quá mức nguồn
tài nguyên, ô nhiễm môi trường gia tăng do không quản lý tốt vấn đề
sản xuất và môi trường.v.v...).
Thứ ba, thiết chế xã hội phản ánh tính giai cấp rất rõ rệt. Trong
xã hội có giai cấp, thiết chế xã hội mang tính giai cấp. Bởi vì trong xã
hội có giai cấp, hệ tư tưởng của xã hội chính là hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị và bản thân hệ thống các chuẩn mực, quy tắc, quy định về các
vai trò xã hội đều dựa trên hệ tư tưởng ấy. Các giai cấp thống trị xã hội
thường sử dụng hệ tư tưởng của mình làm nền tảng cho sự hình thành
thiết chế xã hội. Vì vậy, thiết chế xã hội không chỉ phản ảnh hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị mà còn phản ánh quyền lợi của chính giai
cấp ấy.
Thứ tư là, trong một xã hội thường tồn tại nhiều loại hình thiết
chế khác nhau, các thiết chế này có khuynh hướng phụ thuộc vào
nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Điều này có thể thấy rõ thông qua mối quan hệ
giữa thiết chế kinh tế và thiết chế giáo dục ở nước ta. Trước thời kỳ
đổi mới, do thiết chế kinh tế không phát huy được chức năng của mình
trong việc cung cấp nguồn kinh phí và các điều kiện cho hoạt động
của xã hội, cho nên thiết chế giáo dục đã gặp rất nhiều khó khăn trong
việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện dạy học và nâng cao trình độ
cho giáo viên. Trong những năm gần đây, sự phát triển của kinh tế đã
cho phép chính phủ tăng nguồn ngân sách ưu tiên cho giáo dục thể
hiện qua việc tăng lương cho cán bộ ngành giáo dục, nâng cấp các cơ

80

about:blank 82/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

sở giáo dục - đào tạo trong cả nước, xây dựng các trường trọng
điểm,v.v... Mặc dầu thiết chế giáo dục của nước ta hiện nay đang còn
nhiều vấn đề phải làm nhưng sự không thể phủ nhận vai trò của nó
trong việc cung cấp nguồn lao động đã được đào tạo cho đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Từ đó giáo dục đã tác
động trở lại trong việc góp phần tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo. Chính mối quan hệ ngày
càng chặt chẽ giữa cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp với các trường
đại học, cao đẳng và dạy nghề hiện nay đã làm rõ thêm mối quan hệ
giữa hai thiết chế này. Trong xu thế chung để xây dựng nền kinh tế tri
thức kể cả phạm vi toàn cầu và phạm vi quốc gia, sự phối hợp thiết
chế kinh tế và thiết chế giáo dục như một tất yếu khách quan.
Thứ năm là, thiết chế xã hội càng hoàn thiện thì xã hội càng
phát triển, chúng xác định vị trí, chức năng của các cá nhân và tổ chức
xã hội càng rõ ràng. Trong điều kiện phát triển bình thường thiết chế
xã hội tỏ ra ổn định và vững chắc, những khi chúng không còn có khả
năng vận hành và đáp ứng các nhu cầu xã hội nữa chúng sẽ bị cá nhân
hoặc xã hội loại bỏ. Ở nước ta, khi chuyển từ nền kinh tế tập trung,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa,
một số bộ phận trong thiết chế kinh tế thời bao cấp như hệ thống hợp
tác xã mua bán, mậu dịch quốc doanh với cơ chế trao đổi hàng hóa
qua tem phiếu... không còn thích hợp nữa. Chúng đã bị thay thế bởi
một hệ thống dịch vụ mở năng động và mang tính tự do thương mại
hơn.
* Chức năng của các thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại. Các
nhà dân tộc học đã chứng minh sự xuất hiện và biến đổi của các thiết
chế xã hội ngay trong thời kỳ đầu tiên của xã hội loài người - thời kỳ
nguyên thủy. Chính Morgan với các nghiên cứu về gia đình thời kỳ
nguyên thủy mà sau này Engel đã tiếp nối sự phân tích của ông trong
cuốn Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước
cũng đã khẳng định điều này. Trong đó gia đình nổi lên với tư cách là
một thiết chế xã hội điều tiết và kiểm soát hành vi tình dục và quyền lực
của phụ nữ và nam giới dựa trên hệ thống chuẩn mực, qui tắc của các
gia đình quần hôn hay gia đình đối ngẫu. Trong gia đình một vợ một
chồng buổi đầu của thời đại văn minh chẳng hạn. Trong đó quan hệ vợ
chồng được qui định chặt chẽ hơn: hai bên không còn tùy ý có thể ly dị
nhau được nữa, con cái đẻ ra mang họ người cha và được truyền lại của

81

about:blank 83/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

cải, tài sản. Điều đó chứng tỏ rằng thiết chế xã hội là một phần quan
trọng trong đời sống con người. Vậy tại sao thiết chế xã hội lại quan
trọng đến như vậy? Hay tại sao con người lại cần đến thiết chế xã hội từ
khi xã hội mới sơ khai?
Xã hội là một tập đoàn người rộng lớn, là sự kết hợp của nhiều
cá nhân con người với nhau. Bản thân con người là sự kết hợp của một
phần tự nhiên và một phần xã hội. Dù quá trình xã hội hóa diễn ra với
nội dung, cấp độ và cơ chế ra sao thì bản thân mỗi cá nhân con người
cũng không thể xóa bỏ hoàn toàn phần tự nhiên vốn có. Đây chính là
nguồn gốc và là cơ sở sinh học của những hành động mang tính bản
năng hay các phản xạ không có điều kiện. Thậm chí trong các hành
động xã hội mà Pareto gọi chúng là những hành động phi lô gíc thì
ảnh hưởng của cái sinh học đến hành động là rất lớn. Chính vì vậy,
không phải lúc nào con người cũng có thể hành động theo đúng chuẩn
mực và qui tắc xã hội. Sự lệch chuẩn trong hành động luôn luôn có
khả năng xảy ra làm ảnh hưởng đến sự tồn tại mang tính ổn định của
xã hội. Đó là lúc con người không chiến thắng được cái bản năng khi
họ đứng trước những ham muốn về lợi ích và những khát vọng cá
nhân khác. Những hành động dẫn đến tội ác đã xuất hiện trong hoàn
cảnh như vậy. Chính vì thế xã hội chứ không phải ai khác phải đặt ra
các chế tài nhằm kiểm soát các hành động có tính bản năng hoặc cố ý
lệch chuẩn của con người. Mặt khác, theo quan điểm của xã hội học
mác - xít, con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Xã hội là
tập hợp của nhiều cá nhân, trong đó mỗi cá nhân có vị thế xã hội nhất
định, lợi ích nhất định và họ xác lập mạng lưới quan hệ xã hội dựa
trên vị thế và lợi ích của quan hệ đó và họ tồn tại trong một cơ cấu xã
hội. Quan hệ xã hội mà các cá nhân và các tổ chức xã hội tạo lập ra đã
tạo thành một màng lưới quan hệ chằng chịt và phức tạp. Về thực chất
chúng là nội dung bên trong của các cơ cấu xã hội. Vì vậy để duy trì
trật tự xã hội cần phải điều tiết các mối quan hệ xã hội phức tạp ấy sao
cho chúng ở trạng thái cân bằng và không dẫn đến sự phá vỡ cấu trúc
xã hội. Amartya Sen đã nhấn mạnh vai trò của các thiết chế xã hội như
sau: Các cá nhân sống và hoạt động trong một thế giới các thể chế.
Các cơ hội và triển vọng của chúng ta tùy thuộc rất nhiều vào những
thể chế nào đang tồn tại và hoạt động như thế nào (Amartya Sen,
2002).
Từ đó, các nhà xã hội học cho rằng thiết chế xã hội có những
chức năng hết sức quan trọng, đó là chức năng điều hòa các mối quan

82

about:blank 84/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hệ xã hội và kiểm soát xã hội. Để thực hiện hai chức năng này, các
thiết chế xã hội đã thực thi các nhiệm vụ sau đây.
- Các thiết chế đã tạo ra các khuôn mẫu hành vi (khuôn mẫu tác
phong) có sẵn và mang tính định chế cho các cá nhân xã hội hóa và gia
nhập vào đời sống xã hội.
- Thiết chế xã hội đã đưa ra các khuôn mẫu vai trò xã hội hay
các chuẩn mực của các vai trò cho các cá nhân giúp họ thực hiện các
vai trò theo yêu cầu của xã hội hay những đội của những người xung
quanh cũng như họ có thể phát huy khả năng và tính sáng tạo của
mình.
- Thiết chế xã hội kiểm soát hành vi và việc thực hiện vai trò xã
hội của cá nhân. Sự kiểm soát ấy dựa trên hệ thống các giá trị và
chuẩn mực xã hội có sẵn. Kiểm soát của thiết chế xã hội diễn ra dưới
hai hình thức: kiểm soát chính thức (thông qua hệ thống luật pháp,
quy định, quy tắc...) và kiểm soát phi chính thức (phần lớn được thực
hiện thông qua dư luận xã hội). Trong một số nền văn hóa, sự kiểm
soát chính thức có khi không mạnh mẽ bằng sự kiểm soát phi chính
thức. Đó là trường hợp của các nền văn hóa cổ xưa hoặc văn hóa của
các cộng đồng dân tộc thiểu số - nơi các tập tục còn ngự trị như một
"bàn tay điều khiển từ quá khứ".
Các nhà xã hội học còn quan tâm đến mặt trái của việc thực
hiện các chức năng của thiết chế xã hội. Cụ thể: do thiết chế duy trì
bảo vệ các khuôn mẫu hành vi nhằm ổn định xã hội cho nên chúng ít
nhiều cản trở đến tốc độ biến chuyển của xã hội. Mặt khác chính các
khuổn mẫu mang tính chế tài do thiết chế bảo trì đã hạn chế sự "đột
phá" tính sáng tạo của cá nhân và đôi khi họ thiếu trách nhiệm trong
việc thay đổi hoặc xóa bỏ các định chế đã lỗi thời hoặc cứng nhắc.
* Các loại hình thiết chế xã hội căn bản
Thiết chế gia đình:
Gia đình được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: Gia
đình là một tổ chức xã hội, gia đình là một thành tố trong môi trường
xã hội hóa và gia đình là một thiết chế xã hội cơ bản có mặt trong mọi
loại hình xã hội.
Có rất nhiều định nghĩa về gia đình. Theo G. Murdork, gia đình
là một nhóm xã hội cùng hợp tác sản xuất. Chúng có ít nhất là người
lớn của hai giới, hai trong số họ có quan hệ tình dục được mọi người
chấp nhận, họ có một hoặc nhiều con do họ sinh ra hoặc họ sinh ra

83

about:blank 85/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hoặc họ nhận nuôi. Hoặc gia đình là tế bào của xã hội, là yếu tố cấu
thành nhóm và cấu thành xã hội. Tuy nhiên một số quan điểm khác lại
cho rằng gia đình gắn với những nhân tố văn hóa xã hội nhất định... và
không có định nghĩa phổ biên, có thể áp dụng và được chấp nhận phổ
biến (Mai Huy Bích, 2003).
Khi xem xét về thiết chế gia đình người ta coi thiết chế gia đình
"là một hệ thống quy định ổn định và tiêu chuẩn hóa tính giao và sự
truyền chủng của con người" (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, tr. 202).
Cũng có thể coi thiết chế gia đình là tập hợp của các vai trò liên quan
đến hôn nhân hoặc huyết thống cùng với những chuẩn mực và quy tắc
gia đình.
Chức năng xã hội của thiết chế gia đình là vấn đề cơ bản nhất
của mọi xã hội. Theo G. Murdock, kết qủa phân tích ở 250 xã hội đều
cho thấy gia đình thực hiện bốn chức năng cơ bản: Chức năng tình
dục, chức năng tái sản xuất ra con người, chức năng kinh tế và chức
năng giáo dục. Đối với Talcot Parsons sự thay đổi của cơ cấu gia đình
trong xã hội công nghiệp sẽ làm cho chức năng của gia đình biến đổi,
một số chức năng được chuyển giao có xã hội đảm nhận nhưng có hai
chức năng cơ bản là xã hội hóa sơ cấp đối với trẻ em và ổn định nhân
cách người lớn là các chức năng cơ bản không thể quy giản (Mai Huy
Bích, 2003).
Có thể nhìn nhận chức năng của thiết chế gia đình một cách
khái quát cho mọi xã hội trên các khía cạnh sau đây:
- Chức năng tái sản xuất ra con người (chức năng sinh sản)
- Chức năng xã hội hóa trẻ em
- Chức năng hoạt động kinh tế (gia đình là một đơn vị sản xuất,
đơn vị tiêu dùng và đơn vị tích lũy).
- Chức năng thỏa mãn đời sống tinh thần và tình dục hợp pháp.
- Chức năng duy trì các vị thế xã hội được xác lập trong gia
đình.
- Chức năng kiểm soát hành vi và quan hệ của các thành viên
trong gia đình thông qua hệ thống các giá trị và chuẩn mực xã hội và
nền tảng chuẩn mực gia đình (gia đình như một tiểu văn hóa), khi xã
hội biến đổi chức năng của thiết chế gia đình cũng biến đổi.

84

about:blank 86/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Thiết chế giáo dục


Giáo dục là một quá trình thế hệ đi trước truyền thụ, chia sẻ
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho các thế hệ đi sau. Theo Lê Ngọc
Hùng, thiết chế giáo dục là hệ thống các cách thức, các quy tắc, các
chuẩn mực chính thức và phi chính thức quy định và điều chỉnh hành
vi, hoạt động của các cá nhân và các tổ chức trong quá trình lĩnh hội
kinh nghiệm lịch sử xã hội.
Thiết chế giáo dục là một loại hình phổ biến của thiết chế xã
hội, và chúng đặc biệt đóng vai trò quan trọng trong xã hội hiện đại.
Thiết chế gia đình có các chức năng cơ bản sau đây:
- Chức năng truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm cho
con người. Chức năng này tồn tại trong bất kỳ xã hội nào và ở bất kỳ
thời kỳ nào. Tuy nhiên nội dung, cấp độ và phạm vi giáo dục ở mỗi
loại hình xã hội là khác nhau.
- Chức năng chuyển giao các giá trị xã hội, các chuẩn mực và
khuôn mẫu vai trò cho cá nhân (truyền thụ văn hóa giữa các thế hệ).
Đây cũng là bước chuẩn bị cho các cá nhân đảm nhiệm các vị thế và
vai trò xã hội mới.
Thực chất của hai chức năng nói trên là việc đảm nhận vai trò xã
hội hóa con người, là quá trình hình thành con người xã hội và đưa họ
vào hoạt động trong hệ thống xã hội nói chung. Đây cũng là vai trò đào
tạo nguồn nhân lực trên hai phương diện: tri thức và nhân cách để giúp
cho họ tham gia vào các hoạt động xã hội.
- Chức năng điều tiết và kiểm soát hành vi với mối quan hệ giữa
con người với con người trong môi trường giáo dục dựa trên chuẩn mực
xã hội và hệ thống chuẩn mực của giáo dục (ví dụ: Luật giáo dục, quy
chế thi, tuyển sinh...). Nhờ đó mà xã hội không bị đảo lộn bởi những
hành vi đi ngược với giá trị chung mà xã hội chia sẻ. Điều này đã được
E. Durkheim chỉ ra khi ông bàn về chức năng đoàn kết xã hội của giáo
dục.
- Thiết chế chính trị (thiết chế nhà nước)
Thiết chế này phát triển mạnh và phát huy hiệu lực của nó
trong xã hội có nhà nước. Thiết chế chính trị và thiết chế nhà nước
bao gồm hệ thống tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị và hệ thống
hiến pháp, luật pháp.v.v..

85

about:blank 87/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Thiết chế chính trị có liên quan đến hệ thống nhà nước. Trong
nhiều xã hội, nhà nước chính trị được coi là chính phủ chính thức sử
dụng quyền kiểm soát đối với xã hội và khẳng định sự sử dụng ép
buộc hợp pháp để hỗ trợ việc cai trị của mình (J. Macionis, 2004).
Thiết chế chính trị gắn chặt với quyền lực chính trị. Nếu xét ở góc độ
toàn cầu thì Ủy Ban Liên Hiệp Quốc là một loại hình thiết chế có
quyền lực chính trị bao trùm lên nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì
vậy các quyết định của Liên Hiệp Quốc thực chất là việc thực thi
quyền lực của họ đối với các quốc gia. Tuy nhiên không thể không
thừa nhận quyền lực chính trị của Liên Hiệp Quốc có thể bị chi phối
bởi quyền lực của một số nước lớn trên thế giới.
Trong thể chế chính trị của thế giới có 4 hình thức cơ bản gắn
liền với 4 loại hình nhà nước: chế độ quân chủ, chế độ dân chủ, chế độ
độc tài và chế độ chuyên chế.
Chế độ quân chủ là một loại hình hệ thống chính trị trong đó
quyền lực được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một dòng
họ riêng lẻ. Gắn liền với thể chế chính trị này là nhà nước quân chủ.
Chế độ dân chủ là một hệ thống chính trị trong đó quyền lực
được nhân dân sử dụng nói chung (ví dụ: chế độ dân chủ nhân dân ở
nước ta được xây dựng từ sau cách mạng tháng Tám). Gắn liền với thể
chế này là nhà nước dân chủ.
Chế độ độc tài ám chỉ sự loại trừ đa số ra khỏi sự tham gia
chính trị, mặc dầu chính phủ ít can thiệp vào đời sống người dân. Gắn
liền với thể chế này là nhà nước độc tài.
Chế độ chuyên chế loại trừ đa số ra khỏi sự tham gia chính trị
tự do đi kèm với sự can thiệp bao quát của chính phủ vào đời sống con
người. Gắn liền với loại hình này là nhà nước chuyên chế.
Mỗi hệ thống chính trị có một hệ thống hiến pháp, luật pháp,
các quy định phản ánh đặc điểm, cơ chế điều hành của thiết chế chính
trị ấy đối với xã hội.
Mặc dầu các thể chế chính trị mang các đặc điểm khác nhau
nhưng chúng đều có chức năng duy trì và đảm bảo sự ổn định về mặt
chính trị cho quốc gia, cộng đồng. Đồng thời các thiết chế này đảm
bảo về sự phân chia quyền lực, phân chia lợi ích chính trị và các
nhóm, tổ chức xã hội khác nhau. Thiết chế chính trị là loại thiết chế
phản ánh rõ nét nhất tính giai cấp của thiết chế. Bởi chúng gắn liền với
hệ tư tưởng và quyền lực chính trị của các giai cấp trong xã hội.

86

about:blank 88/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Thiết chế kinh tế


Thiết chế kinh tế liên quan hoạt động sản xuất vật chất của con
người. Thiết chế kinh tế theo Fischer là hình thức những khuôn mẫu
được tiêu chuẩn hóa nhờ đó mà xã hội được cung cấp đầy đủ những
tài sản vật chất và dịch vụ. Nó bao gồm chủ yếu sự sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu thụ sản phẩm. Hay chúng là thể chế xã hội tổ
chức sản xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ.
Thiết chế kinh tế là một loại hình thiết chế cơ bản và quan
trọng đối với tất cả các xã hội. Có thể nhìn thấy chức năng của thiết
chế kinh tế qua một khía cạnh chủ yếu sau đây.
Trước hết, thiết chế kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất ra các sản
phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội, thực hiện các hoạt động
phân phối sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Theo quan điểm của J.
Macionis, hàng hóa và dịch vụ bao gồm bất kỳ vật chất hay hoạt động
con người có giá trị. Hàng hóa là yếu tố văn hóa vật chất từ hàng hóa cơ
bản cho đến các mặt hàng tương đối xa xỉ. Dịch vụ là yếu tố phi vật chất
dưới hình thức hoạt động có lợi cho người khác. Với cách nhìn ấy, thiết
chế kinh tế không chỉ đảm bảo sản xuất mà còn đảm bảo các sản phẩm
ấy đến được với người tiêu dùng. Thực hiện chức năng này có liên quan
đến khả năng tổ chức và quản lý sản xuất của thiết chế kinh tế với các cơ
chế quản lý vừa mang tính vĩ mô vừa mang tính vi mô, với các luật chơi
trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo duy trì khả năng hợp
tác sản xuất và nguyên tắc phân phối sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
nhằm đảm bảo lợi ích của các bên liên quan.
Thiết chế kinh tế còn thực hiện chức năng kiểm soát và điều
hòa các mối quan hệ kinh tế giữa các cá nhân và tổ chức kinh tế dựa
trên các bộ luật kinh tế, các chính sách, quy định, các hợp đồng kinh
tế nhằm thiết lập trật tự trong lĩnh vực hoạt động kinh tế. Trong nền
kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các tập đoàn kinh tế, các tổ chức
sản xuất - kinh doanh diễn ra ngày càng mạnh mẽ và khốc liệt. Mặt
khác ở nước ta hiện nay, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đòi
hỏi chức năng này của thiết chế kinh tế cần phải được tăng cường
nhằm duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh trong trạng thái cạnh
tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật. Hơn nữa, trong điều
kiện ở nước ta, một nước đi lên từ nền nông nghiệp lạc hậu lại chịu
hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiết chế kinh tế không chỉ hướng tới
quá trình hiện đại hóa nền kinh tế mà bản thân nó còn phải vận hành

87

about:blank 89/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong phạm vi cả nước. Thiết chế kinh
tế ở nước ta hiện nay vừa thực hiện nguyên tắc phân phối theo hiệu
quả lao động vừa thực hiện các hình thức phân phối khác nhằm đảm
bảo lợi ích cho các đối tượng chính sách và tạo ra sự bình đẳng xã hội.
Không những thế thiết chế kinh tế còn có khả năng tạo ra các
kiểu phân công lao động và sự hợp tác lao động giữa các cá nhân và
các tổ chức xã hội. Mỗi loại hình xã hội có một kiểu phân công lao
động xã hội khác nhau và trên cơ sở đó hình thành một sự hợp tác
giữa những người lao động. Trong xã hội săn bắn, hái lượm thời
nguyên thủy, thiết chế kinh tế qui định một cách tự nhiên: người đàn
ông săn bắn, đàn bà làm nhiệm vụ hái lượm và chăm sóc con cái.
Trong xã hội nông nghiệp sơ khai khi con người biết đến trồng trọt và
chăn nuôi, sự phân công lao động theo giới tính vẫn là một trong
những qui tắc chủ yếu của thiết chế kinh tế lúc bấy giờ. Lúc đó nam
giới đảm nhận các khâu như khai phá đất đai, chăn dắt đàn gia súc,
phụ nữ đảm nhận phần lớn khâu trồng trọt và thu hoạch. Trong xã hội
công nghiệp hiện đại, phân công và hợp tác lao động chủ yếu dựa trên
trình độ chuyên môn, kỹ năng của người lao động, chuyên môn hóa
theo ngành nghề. Thiết chế kinh tế đã xã hội hóa người lao động trên
những chuẩn mực ấy. Sự chuyên môn hóa ngày càng cao, trình độ của
lực lượng sản xuất càng phát triển thì sự chi phối của các yếu tố tự
nhiên như tuổi tác và giới tính càng bị lu mờ.
Thiết chế kinh tế đảm bảo sự vận hành của cả nền kinh tế.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, sau khi nước ta chính
thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2006, vai
trò của thiết chế kinh tế hết sức quan trọng trong việc đưa nền kinh tế
nước ta bước vào quá trình ấy. Đặc biệt là trong quá trình thay đổi
mạnh mẽ cấu trúc nền kinh tế, việc tổ chức lại sản xuất dưới hình thức
cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của nền kinh tế, nội
dung và cơ chế vận hành của thiết chế kinh tế cần có sự biến chuyển
mạnh mẽ để đáp ứng tiến trình hội nhập ấy.
- Thiết chế tôn giáo
Theo quan điểm của nhà xã hội học người Canada - J.Macionis,
tôn giáo có thể định nghĩa cơ bản như một hệ thống niềm tin và hành
lễ xây dựng trên sự công nhận thánh thần.
Khi nói đến tôn giáo như một thiết chế xã hội, chúng ta có thể
coi thiết chế tôn giáo là hệ thống những giáo lý, niềm tin và nghi lễ

88

about:blank 90/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

của một loại hình tổ chức xã hội liên quan đến việc thỏa mãn đời sống
tâm linh của con người và kiểm soát hành vi của họ dựa trên chuẩn
mực, đạo đức và kỳ vọng tôn giáo.
Các nhà xã hội học tiền bối như Durkheim đã phân tích rất rõ
về chức năng của tôn giáo. Trong phần lý thuyết xã hội của ông đã ít
nhiều đề cập đến vấn đề này. Theo Durkheim, tôn giáo có các chức
năng cơ bản như đoàn kết xã hội và kiểm soát xã hội.
Trong một chừng mực nào đó, quan điểm của Durkheim có cơ
sở để đứng vững. Bởi vì, tôn giáo có hệ thống giá trị và chuẩn mực
riêng nhưng chúng trở thành các giá trị và chuẩn mực chung cho các
tín đồ của họ. Tất cả các tín đồ đều làm theo giá trị và chuẩn mực ấy
nếu họ không muốn trở thành những người phỉ báng lại vị thần thánh
của lòng mình. Đây là cơ sở để họ cố kết lại với nhau trong một cộng
đồng tôn giáo.Tuy nhiên, tôn giáo trong nhiều trường hợp lại trở thành
nguyên nhân của sự rạn nứt và mâu thuẫn xã hội. Trong các trường
hợp mâu thuẫn ấy đã dẫn đến sự xung đột ở một số quốc gia và khu
vực như xung đột giữa người Hồi giáo với người Cơ Đốc giáo hay
giữa người Thiên chúa giáo với người Do Thái trong lịch sử, v.v...
Mặt khác, theo quan điểm của xã hội học mác - xít, tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội, là một hoạt động sinh hoạt tâm linh của
con người. Nhưng sự tồn tại và phát triển của tôn giáo dựa trên hệ
thống giáo lý tôn giáo, niềm tin tôn giáo và nghi lễ tôn giáo. Thông
qua các yếu tố này để tôn giáo thực hiện chức năng khuyên răn con
người làm điều thiện, tránh điều ác theo một hệ thống chuẩn mực và
khuôn mẫu của giáo lý tôn giáo. Các điều răn của Phật giáo là một ví
dụ như vậy. Trong các điều cấm kỵ, Phật giáo cấm phật tử không
được nói dối, không được tà dâm, không sát sinh.v, v... Trong đạo Tin
Lành, người ta khuyên con người phải trung thực, tiết kiệm,... Chính
vì vậy, tôn giáo đã góp phần vào việc duy trì trật tự xã hội và tạo ra sự
ổn định xã hội.
Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa chức năng của thiết chế tôn giáo
thì sẽ dẫn đến những sai lầm to lớn. Chúng ta luôn luôn nhớ lời cảnh
tỉnh đầy tính khoa học và khách quan của K. Marx khi ông cho rằng
tôn giáo là sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc của
con người và là liều thuốc phiện của quần chúng nhân dân. Thậm chí
giáo lý của một số tôn giáo còn bảo vệ cho chế độ gia trưởng, trọng
nam, khinh nữ vốn đang bị xã hội phê phán.

89

about:blank 91/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Một ví dụ đầy tính thuyết phục là ngay trong giáo lý tôn giáo
cũng chứa đựng một số yếu tố tiêu cực như đề cao chế độ gia trưởng,
coi thường phụ nữ. J. Macionis đã viện dẫn những điều răn của kinh
Koran rằng: "Nam giới trông nom nữ giới... Vì lý do đó, phụ nữ ngoan
hiền phải biết vâng lời... Cũng như đối với những ai mà tính bất trị của
họ khiến ngươi phải sợ, hãy khuyên nhủ họ, cấm họ ngủ chung và
trừng phạt họ". Bản thân đạo Cơ Đốc giáo cũng khuyên rằng: "Hỡi kẻ
làm vợ, hãy thuần phục chồng mình như là đối với Chúa. Vì chồng là
đầu vợ, cũng như đấng Christ là đầu Hội thánh...Vậy nên, như Hội
thánh thuần phục Đấng Christ thì vợ cũng phải thuần phục chồng
mình trong mọi sự" (J. Macionis, 2004).
Thái độ khách quan, khoa học khi nhìn nhận về các sự kiện xã
hội là một yếu tố cần thiết đối với khoa học nói chung và xã hội học
nói riêng. Với quan điểm ấy, cần phát huy tính tích cực của tôn giáo
để chúng làm tốt vai trò của thiết chế xã hội trong khuôn khổ nhất
định. Nhưng đồng thời biết hạn chế sự kiểm soát mang tính áp đặt, bó
buộc của tôn giáo đối với tự do của con người vì mục đích giải phóng
con người.
2.3. Các loại cơ cấu xã hội căn bản
Theo lý thuyết cơ cấu - chức năng và lý thuyết lịch sử - cấu
trúc, xã hội là một hệ thống gồm nhiều bộ phận khác nhau. Hay nói
cách khác xã hội tồn tại như một chỉnh thể bao gồm các cấu trúc nhỏ
hợp thành. Các tiểu cơ cấu ấy vừa mang các đặc trưng chung vừa
mang nét đặc thù riêng. Dưới đây là một số cơ cấu xã hội căn bản
thường thấy trong mọi loại hình xã hội.
2.3.1. Cơ cấu xã hội - giai cấp
Đây là cách nhìn nhận cơ bản của xã hội học mác - xít về cơ
cấu xã hội, với ảnh hưởng quan điểm giai cấp của Marx và Engels.
Cũng có thể tìm thấy quan điểm tương tự ở một số trường phái khác
nhưng chúng không thực sự điển hình.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là tổng thể các giai cấp và mối quan hệ
giữa các giai cấp trong xã hội. Một số quan điểm khác muốn mở rộng
quan niệm cơ cấu giai cấp không chỉ các giai cấp mà còn là tất cả các
tầng lớp, các tập đoàn xã hội khác (Nguyễn Đình Tấn, 2005).
Khi xem xét về cơ cấu xã hội - giai cấp người ta thường xem
xét xem hiện có những giai cấp, tầng lớp xã hội nào đang hiện diện.
Vị thế xã hội của họ trong cơ cấu và mối quan hệ giữa các giai cấp,

90

about:blank 92/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

tầng lớp xã hội là một trong những vấn đề quan trọng của cơ cấu xã
hội - giai cấp. Theo xã hội học mác - xít, vị thế và mối quan hệ giữa
các giai cấp hình thành dựa trên cơ sở của quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, sẽ tồn tại quan hệ
thống trị - hoặc bị trị giữa các giai cấp mà giai cấp chiếm hữu tư liệu
sản xuất sẽ là giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo.
Cơ cấu xã hội - giai cấp hình thành dựa trên cơ cấu kinh tế, khi cơ
cấu kinh tế biến đổi thì cơ cấu giai cấp - xã hội cũng biến đổi theo. Sự
biến đổi này được xem xét không chỉ về số lượng các giai cấp, vị thế giai
cấp mà kể cả quan hệ giai cấp.

2.3.2. Cơ cấu xã hội dân số


Xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội - dân số với tư cách là
một bộ phận của cơ cấu xã hội phản ánh các đặc điểm nhân khẩu - xã
hội của các nhóm người. Có thể hiện cơ cấu xã hội - dân số là việc
phân chia các tập đoàn người theo các đặc trưng về tuổi và giới tính.
Trên cơ sở đặc trưng của giới tính người ta xem xét xã hội theo
các nhóm nam, nữ và mối quan hệ kinh tế xã hội giữa 2 nhóm người
này. Trong cơ cấu dân số dựa trên yếu tố giới tính thì tỷ lệ giới tính,
sự biến đổi của tỷ lệ giới tính và ảnh hưởng của nó đối với xã hội là
vấn đề cơ bản. Về nguyên tắc, tỷ lệ giới tính hình thành một cách tự
nhiên. Trong các thập kỷ gần đây người ta thường nói đến sự biến đổi
tỷ lệ giới tính dưới tác động của con người. Một số nước như Trung
Quốc (thậm chí ở Việt Nam), việc sinh con theo ý muốn đã làm cho tỷ
lệ giới tính thay đổi trái với quy luật tự nhiên của nó (ở Trung Quốc tỷ
lệ nam cao hơn nữ rất nhiều, một bộ phận lớn nam giới đến tuổi
trưởng thành khó có khả năng tìm kiếm bạn đời của mình).
Tỷ lệ giới tính có ảnh hưởng đến vấn đề kinh tế - xã hội của
cộng đồng và của quốc gia. Trên cơ sở đặc điểm giới tính của dân số,
các vấn đề kinh tế xã hội phải phản ánh được nhu cầu và lợi ích của họ
(mối quan hệ giới trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa).
Mặt khác nếu sự mất cân đối lớn về tỷ lệ giới tính trở thành hiện thực
xã hội, thì con người phải đương đầu với rất nhiều vấn đề như chính
sách lao động, hôn nhân, giáo dục, quyền lực, tệ nạn buôn bán phụ nữ
và trẻ em gái, v.v...

91

about:blank 93/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

2.3.3. Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp


Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là việc phân chia xã hội thành các
nhóm người có trình độ chuyên môn hóa theo lao động và mối quan
hệ giữa họ. Durkheim cho rằng: nghề nghiệp hay hoạt động nghề
nghiệp được hiểu là hoạt động phục vụ cho cơ sở tồn tại và hướng vào
việc kiếm sống, việc này phải làm miệt mài.
Cơ cấu xã hội nghề nghiệp hình thành dựa trên quá trình phân
công lao động xã hội và chuyên môn hóa lao động. Sự phân công lao
động càng cao thì trình độ chuyên môn hóa càng sâu và cơ cấu ngành
nghề càng đa dạng, phức tạp. Gắn liền với cơ cấu nghề nghiệp là trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn, tay nghề, các kỹ năng, kỹ xảo của
người lao động trong các ngành nghề đó. Không những thế, mỗi một
loại hình xã hội có một cơ cấu xã hội - nghề nghiệp khác nhau và có
một thang giá trị nghề nghiệp khác nhau dựa trên sự đánh giá hay sự
lượng hóa về giá trị của nó. Trong xã hội phong kiến, thang giá trị nghề
nghiệp được thừa nhận là: "nhất sĩ, nhì nông, tam công, tứ thương". Cơ
cấu xã hội nghề nghiệp luôn luôn biến đổi. Đặc biệt khi khoa học kỹ
thuật phát triển mạnh mẽ và ngày càng xâm nhập vào đời sống xã hội
làm cho sự chuyên môn hóa gia tăng thì khả năng biến đổi của cơ cấu
xã hội - nghề nghiệp càng lớn. Không những thế, trong mỗi cơ cấu nghề
nghiệp đều có sự phân định về vị thế của các nghề nghiệp và chức năng
của nó. Điều đó dẫn đến xu hướng hợp tác, ảnh hưởng qua lại giữa các
nghề nghiệp trong cơ cấu nghề nghiệp xã hội. Ở nước ta hiện nay, trong
thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới, sự
ra đời của các chính sách kinh tế - xã hội theo xu hướng đổi mới, sự
phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng chuyên môn hóa ngày
càng sâu đang tạo ra sự biến đổi nhanh chóng về cơ cấu xã hội nghề
nghiệp và giá trị của các nghề nghiệp trong cơ cấu ấy.
2.3.4. Cơ cấu xã hội dân tộc
Theo luận giải của J. Macionis, dân tộc được định nghĩa như
một di sản văn hóa được một nhóm người chia sẻ. Thành viên trong
một nhóm dân tộc thường so chung trong một vị trí trong nguồn gốc tổ
tiên, ngôn ngữ và tôn giáo, vốn là cơ sở để nhận biết chung một nhóm
dân tộc. Dân tộc khác với chủng tộc - một khái niệm dùng để chỉ một
nhóm người có cùng đặc điểm sinh học truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Trong khái niệm dân tộc, người ta thường nhắc đến dân tộc
thiểu số - một bộ phận của cơ cấu xã hội dân tộc. Nhà xã hội học này

92

about:blank 94/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

đưa ra cách hiểu về dân tộc thiểu số từ khái niệm nhóm thiểu số. Theo
đó, nhóm thiểu số là một nhóm người được xác định bằng đặc điểm
hình thể hay văn hóa và là đối tượng chịu thiệt trong xã hội. Nhóm
thiểu số có nhiều loại nhưng chủng tộc, dân tộc là cơ sở thông thường
nhất của các nhóm thiểu số. Chính vì vậy, dân tộc thiểu số thường
được xem là một trong những mối quan tâm của vấn đề dân tộc và tiến
trình phát triển xã hội (J. Macionis, 2004).
Một khái niệm thường xuất hiện cùng với khái niệm dân tộc là
khái niệm chủng tộc. Chủng tộc thường phân biệt trên cơ sở màu da,
kết cấu tóc, hình dạng, khuôn mặt và thể tạng. Mặc dầu vậy, hai khái
niệm này có quan hệ mật thiết với nhau và trong thực tế đời sống xã
hội chúng thường song hành với nhau.
Cơ cấu xã hội dân tộc là việc phân chia xã hội thành các tập
đoàn người dựa trên các đặc điểm kinh tế, văn hóa, địa bàn cư trú của
các tập đoàn người ấy. Như vậy cơ cấu xã hội dân tộc là một bộ phận
của cơ cấu xã hội được nhìn nhận từ các đặc trưng của các tiểu văn
hóa trong một tổng thể văn hóa nào đó. Hay có thể hiểu cơ cấu xã hội
dân tộc là sự mổ xẻ cấu trúc xã hội theo các giá trị khác nhau. Ở nước
ta hiện nay, cơ cấu xã hội dân tộc bao gồm 54 cộng đồng dân tộc và
mối quan hệ qua lại giữa các dân tộc trong cơ cấu ấy.
Như đã nói ở trên, trong cơ cấu xã hội dân tộc, yếu tố quan
trọng nhất để phân biệt giữa các dân tộc vẫn là nền tảng văn hóa hay
bản sắc văn hóa của các cộng đồng dân tộc này.
Cơ cấu xã hội dân tộc thường bao gồm nhiều dân tộc hoặc sắc
tộc có vị trí khác nhau cùng tồn tại. Nhưng bao giờ cũng có một dân
tộc đóng vai trò trung tâm của cơ cấu đó. Họ trở thành lực lượng đại
diện trong mối quan hệ với cơ cấu xã hội dân tộc khác. Địa vị của các
dân tộc, sắc tộc phụ thuộc vào trình độ phát triển và ảnh hưởng kinh tế
- văn hóa của họ đối với các dân tộc, sắc tộc còn lại.
Quan hệ giữa các dân tộc, sắc tộc có nhiều sắc thái khác nhau
tùy vào lợi ích của họ. Chúng thường diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị và văn hóa. Quan hệ này có thể là sự liên minh hoặc là sự
xung đột. Hiện nay, thế giới đang chứng kiến các cuộc xung đột giữa
các dân tộc, sắc tộc trong cùng một quốc gia như xung đột giữa các
nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, xung đột sắc tộc ở Pa-le-xtin,v.v...

93

about:blank 95/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

3. HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI, TƯƠNG TÁC XÃ HỘI VÀ QUAN HỆ


XÃ HỘI
3.1. Hành động xã hội
Hành động xã hội là vấn đề trung tâm trong lý thuyết xã hội
của M. Weber. Khi nghiên cứu về tư tưởng xã hội học của ông, người
ta đã tìm thấy nét mới mẻ trong cách tiếp cận với con người và xã hội
cũng như cách thức để lý giải chúng. Cho đến nay, cách hiểu về hành
động xã hội mà Weber đưa ra vẫn được các nhà xã hội học thế giới coi
là cách định nghĩa mang tính kinh điển. Trong đó có hai yếu tố cơ bản
cần được quan tâm là sự tham gia của ý thức chủ thể (hay lý trí) và sự
liên quan đến người khác khi chủ thể thực hiện hành động.
Trong một số tài liệu xã hội học biên dịch ở nước ta hiện nay,
khái niệm hành động xã hội và hành vi đôi khi bị sử dụng với nghĩa
như nhau. Ngay trong cuốn Từ điển xã hội học của G. Endruweit và
G. Trommsdorff, khái niệm hành động xã hội được hiểu là một hành
vi hướng đích gắn bó về nghĩa với hành vi, với các kỳ vọng được cảm
nhận hay được phỏng đoán của đối tác tương tác và được định hướng
theo chuẩn mực và giá trị xã hội. Trong cuốn Từ điển xã hội học của
Nguyễn Khắc Viện, hành động xã hội cũng được biểu đạt thành hành
vi xã hội. Ông viết: “Theo M.Weber, hành vi xã hội là điểm xuất phát
của mọi quá trình xã hội. Parson cũng xuất phát từ hành vi xã hội để
xây dựng lý luận xã hội học của ông”(Nguyễn Khắc Viện, 1994).
Trong thực tế, người ta cố gắng để phân biệt hành động xã hội
với hành vi và các nhóm hành động khác không thuộc hành động mà
chúng ta nói tới.
Khái niệm hành vi được nhắc đến trong thuyết hành vi mà đại
diện là Homanns, Opp và J. Watson. Họ cho rằng: hành vi con người
chỉ là những phản ứng máy móc quan sát được sau các tác nhân. Điều
đó gây ra khó khăn trong việc giải thích nếu không có tác nhân thì con
người có hành vi hay không? Từ đó các nhà xã hội học đã tìm cách thúc
đẩy lý thuyết này vượt qua rào cản ấy bằng cách gắn hành vi được quan
sát với sự hiểu và phản ứng trở lại của con người khi có tác nhân tác
động vào họ. Như vậy với việc mở rộng cách hiểu này, hành vi không
đơn giản chỉ là những phản xạ có điều kiện mà chúng có chứa đựng
phần nào sự phân tích của con người. Khi sự phân tích để hiểu và phản
ứng trở lại mang ý thức xã hội cao thì chúng được gọi là hành động xã

94

about:blank 96/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 97/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 98/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 99/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 100/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 101/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 102/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 103/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 104/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 105/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 106/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 107/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Mỗi cộng đồng có một hệ thống qui ước riêng mà những cá


nhân ở cộng đồng khác không thể hiểu được. Do đó, để thực hiện
tương tác xã hội thuận lợi ở cộng đồng mới, cá nhân ấy phải bỏ một
thời gian lâu dài để thâm nhập và học hỏi.
Trong cuộc sống hàng ngày, nhờ những qui tắc ngắn và hiển
nhiên nói trên mà những cá nhân trong cộng đồng tiết kiệm được
nhiều thời gian trong khi tương tác với nhau. Đó là điều hiển nhiên mà
không có một xã hội, một cộng đồng nào không có.
3. 3. Quan hệ xã hội
3.3.1. Khái niệm quan hệ xã hội
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường nghe nói: anh A có
quan hệ xã hội rộng rãi, anh B ít có quan hệ xã hội, hoặc đại khái như
anh ấy ít xã giao, ít tiếp xúc với xã hội... Vậy quan hệ xã hội là gì?
Theo triết học, mọi sự vật và hiện tượng trong xã hội đều có
mối liên hệ với nhau và tồn tại trong mối liên hệ ấy. Quan hệ xã hội là
quan hệ giữa người với người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhưng trong xã hội học không phải mọi mối liên hệ nào cũng được
xem là quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội chỉ được tạo thành từ tương tác
xã hội, những tương tác này phải có mục đích, có kế hoạch, ổn định và
hình thành một mô hình tương tác. Vậy tương tác xã hội là cơ sở để
hình thành quan hệ xã hội. Không phải mọi tương tác xã hội đều hình
thành nên quan hệ xã hội, mà chỉ những tương tác nào có mục đích, có
định hướng và trở nên ổn định, lặp lại thì mới tạo thành các quan hệ
xã hội. Tóm lại, quan hệ xã hội (Social relation) là quan hệ bền vững,
ổn định của các chủ thể hành động được hình thành trên những tương
tác xã hội.
Chủ thể quan hệ xã hội là các cá nhân, các nhóm, các tập đoàn
hay toàn bộ xã hội. Các nhà nghiên cứu thường chia chủ thể quan hệ
xã hội ra làm hai cấp độ.
Ở cấp độ vĩ mô, chủ thể quan hệ xã hội là các nhóm, các tập
đoàn hay toàn bộ xã hội. Trong thực tế, các nhóm tập đoàn lớn này
thường chiếm giữ những vị trí khác nhau trong xã hội. Vì vậy, họ có
mức thu nhập khác nhau và như thế họ cũng khác nhau trong lối sống,
nếp sống và các hình thức sinh hoạt khác. Những sự khác nhau này lại
là tiền tố tạo thành các tương tác xã hội giữa các nhóm. Trên cơ sở đó
hình thành những quan hệ xã hội giữa chúng.

106

about:blank 108/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Cũng ở cấp độ vĩ mô, quan hệ xã hội còn được thể hiện dưới
dạng quan hệ giữa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, cũng là
các yếu tố cấu thành nên xã hội. Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau
nhưng chúng ta có thể qui thành bốn lĩnh vực chính là: kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội. Bốn lĩnh vực này luôn luôn có quan hệ hỗ tương
với nhau, tác động và qui định lẫn nhau. Đặc điểm, tính chất của nền
kinh tế trong xã hội có ý nghĩa quyết định đến chính trị, văn hoá, xã
hội. Mặc dù vậy, chúng ta không thể quá coi trọng lĩnh vực kinh tế mà
xem nhẹ các lĩnh vực khác. Đôi khi, các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã
hội cũng tác động ngược trở lại lĩnh vực kinh tế.
Trong bất cứ xã hội nào, ở bất kỳ hoàn cảnh nào, sự ổn định hay
khủng hoảng của một trong bốn lĩnh vực chính trên đều gây ra những
ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực còn lại.
Ở cấp độ vi mô, chủ thể quan hệ xã hội là các cá nhân. Trong
thực tế, quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội cũng diễn ra rất đa dạng
và chiếm một phần quan trọng của quan hệ xã hội. Cũng vì thế mà các
nhà xã hội học phương Tây gần như đồng nhất quan hệ xã hội với
quan hệ giữa các cá nhân.
Tuy nhiên, khi xem xét quan hệ giữa cá nhân, chúng ta nhận
thấy không phải mọi quan hệ giữa các cá nhân đều là quan hệ xã hội,
mà chỉ có một bộ phận nhất định trong số đó mới là quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội giữa các cá nhân cũng được thiết lập trên cơ sở
những tương tác xã hội mang tính chuẩn mực và ổn định. Tuy nhiên,
chúng lại rất khác biệt nhau trong nội dung hoặc tính xã hội của từng
loại ảnh hưởng.
Tính xã hội của một quan hệ được xác định căn cứ vào sự chi
phối của những giá trị, chuẩn mực chính thức được thể hiện dưới các
văn bản chính thức như luật pháp, các văn bản luật và dưới luật, các
qui chế, qui định... của các nhóm, các tổ chức xã hội hay của toàn xã
hội. Hoặc dựa vào những sự chi phối của giá trị, chuẩn mực không
chính thức như "luật", "lệ", những qui định bất thành văn. Trên cơ sở
tính xã hội của quan hệ mà chúng ta thấy có những quan hệ mang
nhiều tính xã hội, trong khi đó cũng có những quan hệ ít mang tính xã
hội. Những quan hệ ít mang tính xã hội gọi là những quan hệ "tình
cảm" thuần túy.
Quan hệ tình cảm thuần túy còn gọi là quan hệ sơ cấp, quan hệ
xã hội gọi là quan hệ thứ cấp.

107

about:blank 109/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Quan hệ tình cảm là những loại quan hệ gia đình, dòng họ... Xét
ở khía cạnh nào đó, quan hệ tình cảm cũng là quan hệ xã hội. Nó cũng
có cơ chế hình thành giống như các loại quan hệ xã hội khác. Quan hệ
tình cảm cũng dựa trên sự tương tác lâu dài, ổn định của các chủ thể.
Tuy nhiên, có những điểm khác nhau trong cơ chế tương tác để
hình thành quan hệ tình cảm và quan hệ xã hội. Những tương tác xã
hội nào định hướng đến đặc điểm sinh hoạt, tâm lý có sẵn của chủ thể
và người khác sẽ tạo ra quan hệ tình cảm thuần túy. Ngược lại, những
tương tác nào định hướng đến đặc điểm xã hội cần đạt được của chủ
thể thì tạo ra các quan hệ xã hội.
Những đặc điểm sinh hoạt, tâm lý có sẵn ở các chủ thể là: giới
tính, sắc đẹp, tuổi tác, quan hệ huyết thống, sở thích... Những đặc
điểm xã hội đạt được của chủ thể là nghề nghiệp, học vấn, tôn giáo,
địa vị, quyền lực v. v...
Tóm lại, quan hệ tình cảm (Sentimental relation) là những quan
hệ ít mang tính xã hội dựa trên những đặc điểm sinh hoạt tâm lý có
sẵn trong mỗi chủ thể. Quan hệ tình cảm được hình thành trên sự
tương tác xã hội có điều kiện, chúng cũng có thể chuyển hoá cho
nhau. Tức là xuất phát từ một quan hệ tình cảm tốt đẹp có thể hình
thành những quan hệ kinh doanh thuận lợi. Ngược lại từ quan hệ kinh
doanh cũng có thể tạo ra những quan hệ tình cảm tốt đẹp.
3.3.2. Các loại quan hệ xã hội
Cách phân loại quan hệ xã hội thành quan hệ sơ cấp và quan
hệ thứ cấp như trên có vẻ hơi cực đoan nhưng lại phản ánh rất rõ đặc
điểm của các xã hội công nghiệp, các đô thị hiện đại, những nơi mà
theo các nhà xã hội học quan hệ giữa con người chỉ là những quan hệ
thứ cấp, quan hệ xã hội.
Hiện tượng ngày càng "nghèo" đi các quan hệ tình cảm và sự
"giàu lên" các loại quan hệ xã hội một thời là nỗi lo ngại của các xã
hội công nghiệp hiện đại phương Tây. Ngược lại, khuynh hướng kết
hợp hài hoà giữa quan hệ tình cảm và quan hệ xã hội ngày càng trở lên
phổ biến ở các xã hội phương Đông.
Ngoài cách phân loại như trên, còn nhiều kiểu phân loại xã hội
khác. Nếu ta xét theo vị thế mà cá nhân hoặc nhóm chiếm giữ trong cơ
cấu xã hội, thì có thể chia quan hệ xã hội thành những quan hệ xã hội
theo chiều ngang và quan hệ xã hội theo chiều dọc:

108

about:blank 110/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Quan hệ xã hội theo chiều ngang tức là quan hệ của những cá


nhân, những nhóm có những vị thế xã hội khá ngang bằng nhau.
- Quan hệ xã hội theo chiều dọc là quan hệ giữa các cá nhân,
nhóm xã hội chiếm giữ những vị thế cao thấp khác nhau trong xã
hội như quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Trung ương và địa
phương.
Trong thực tế, một cá nhân hay một nhóm xã hội vừa thực hiện
quan hệ theo chiều ngang, vừa thực hiện quan hệ theo chiều dọc.
Quan hệ xã hội còn có thể được phân loại theo chủ thể. Theo
cách này, giữa các nhóm xã hội nhỏ, giữa các lĩnh vực của đời sống xã
hội hay ở cấp độ nhỏ, nhất là giữa các cá nhân.
Tóm lại, quan hệ xã hội, tương tác xã hội và hành động xã hội
là những thành tố quan trọng cấu thành nên đời sống xã hội. Phân tích
hành động xã hội và tương tác xã hội là để hiểu quan hệ xã hội và
ngược lại. Đây cũng là những khái niệm quan trọng của xã hội.

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP


1. Hãy trình bày quan niệm về cơ cấu xã hội và hãy phân tích để thấy
rõ ý nghĩa của cơ cấu xã hội.
2. Các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội? Vị trí và chức năng của các
thành tố đó?
3. Trình bày các loại cơ cấu xã hội. Tại sao nói khi một tổ chức xã hội
nào đó phát triển lên thì cơ cấu của nó biểu hiện 3 vấn đề: Hình thức
lên, phức tạp lên và quan liêu lên?
4. Hành động xã hội là gì? Cấu trúc của hành động xã hội ra sao và
những yếu tố nào qui định hành động xã hội của con người?
5. Thế nào là tương tác xã hội? Hãy trình bày một cách tóm tắt tư
tưởng cơ bản của các lý thuyết về tương tác xã hội.
6. Theo xã hội học, quan hệ xã hội được hiểu như thế nào? Tính xã hội
của các quan hệ được xác định trên cơ sở nào? Hãy trình bày các loại
quan hệ xã hội.

109

about:blank 111/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

4. VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA


4.1. Văn hóa
4.1.1. Khái niệm văn hóa
Cho đến nay, theo thống kê đã có tới hàng trăm định nghĩa về
văn hoá. Có thể nói, có bao nhiêu nhà nghiên cứu thì có bấy nhiêu
định nghĩa văn hóa. Hơn một thế kỷ trước, học giả người Anh
Edward B. Tylor đã định nghĩa: Văn hóa là "Tập hợp bao gồm cả khoa
học, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những
thói quen, những kỹ năng khác do con người thu nhận với tư cách là
thành viên của xã hội". Theo các nhà triết học "Văn hoá là toàn bộ
những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực
tiễn lịch sử xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển
của lịch sử xã hội". Một số nhà nghiên cứu khác thì định nghĩa đơn giản
rằng: "Văn hoá là sản phẩm của sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và với môi trường xã hội". Dưới góc độ xã hội học,
"Văn hoá là những chân lý, những giá trị, những chuẩn mực, những
mục đích mà con người chia sẻ với nhau trong tương tác trải qua thời
gian". Đồng thời, văn hoá phải được xem xét và nhìn nhận ở hai điểm:
văn hoá là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội; văn hoá là
một tập hợp rộng lớn bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống. Do đó,
phải xem xét văn hoá với tư cách hệ thống.
Văn hoá là đặc trưng khu biệt của sự khác nhau giữa cộng đồng
người này, giữa xã hội này với xã hội khác, đem lại diện mạo, bản sắc
riêng cho cộng đồng ấy, xã hội ấy. Đó là tính đặc thù của văn hoá.
Bên cạnh tính đặc thù, văn hoá còn mang tính phổ quát cho toàn nhân
loại. Khi xem văn hoá được hình thành do tương tác xã hội thì hoàn
cảnh tương tác khác nhau, điều kiện tương tác khác nhau, cấp độ
tương tác khác nhau thì văn hoá cũng khác nhau. Trong chiều hướng
đó, văn hoá ở nông thôn khác văn hoá ở thành thị, văn hoá của nhóm
khác với văn hoá xã hội, văn hoá của dân tộc này khác văn hoá của
dân tộc khác. Đây là tính đặc thù của văn hoá. Vì thế, không có một
dân tộc nào mà không có văn hoá, dù cho dân tộc ấy ở bất kỳ bậc
thang phát triển nào của xã hội: lạc hậu nhất hay hiện đại nhất. Mỗi
dân tộc đều có một nền văn hoá và mọi người nhìn vào nhau bằng văn
hoá của dân tộc mình. Đồng thời, con người nhìn ra thế giới cũng
bằng chính nền văn hoá của dân tộc mình. Điều này vừa giúp cho mỗi
cá nhân không đánh mất đi những giá trị văn hoá dân tộc có trong bản

110

about:blank 112/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

thân họ, vừa làm cho họ có tính kỳ thị, khinh miệt các nền văn hoá
khác. Văn hoá là phương thức hiểu biết và hành động, là chất keo gắn
kết các thành viên trong một cộng đồng, một xã hội thêm bền chặt
hơn. Vì thế, văn hoá là nền tảng của xã hội. Đối với văn hoá, bao giờ
ta cũng đi tìm cái giống nhau giữa những con người trong xã hội.
Các lý thuyết như thuyết khuếch tán, thuyết thiên di giải thích
rằng văn hoá chỉ phát sinh ở một trung tâm và sau đó lan truyền,
khuyếch tán, ban phát cho những nơi khác. Như vậy, theo các thuyết
này, chỉ có một nơi sáng tạo được văn hoá, còn các nơi khác không có
khả năng sáng tạo văn hoá, có chăng chỉ là sự vay mượn, bắt chước
theo.
Muốn hiểu được văn hoá của một cộng đồng, một quốc gia thì
chúng ta phải nắm được hệ thống biểu tượng và hệ thống ngôn ngữ.
Mỗi nền văn hoá đều có một hệ thống biểu tượng riêng, hay nói chính
xác hơn, văn hoá được xây dựng trên các biểu tượng (symbol). Biểu
tượng là bất cứ vật gì mang một ý nghĩa riêng biệt mà các thành viên
trong cùng một xã hội đều có khả năng nhận biết. Biểu tượng gắn liền
với cuộc sống hằng ngày của chúng ta, trở nên quen thuộc với chúng ta
nên chúng ta không nhận thấy được tầm quan trọng của chúng. Chỉ khi
chúng ta tiếp xúc với nền văn hoá khác, chúng ta mới nhận thấy được
tầm quan trọng đặc biệt và ý nghĩa của những biểu tượng. Đồng thời,
biểu tượng cũng thay đổi theo thời gian, chẳng hạn như cách đây 10
năm, chiếc ti vi là biểu tượng cho sự giàu có của các gia đình Việt Nam,
nhưng nay là phương tiện giải trí phổ thông ở mọi gia đình. Tóm lại,
biểu tượng là cách mà con người gán ý nghĩa cho cuộc sống. Không có
biểu tượng cuộc sống không có ý nghĩa và xã hội sẽ trở nên xơ cứng.
Ngôn ngữ (language) là một hệ thống các biểu tượng mà ý
nghĩa đã được chuẩn hoá, nhờ đó mọi thành viên trong một xã hội
nhất định có thể thông tin cho nhau, cùng nhau chia sẻ những tư
tưởng, tín niệm, cảm nghĩ. Ngôn ngữ cũng là công cụ để truyền đạt
văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ
nói và ngôn ngữ viết, trừ một số xã hội lạc hậu chưa có ngôn ngữ viết.
Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá đều có ngôn ngữ riêng. Đặc trưng để
phân biệt sự khác nhau của ngôn ngữ là hệ thống từ vựng, ngữ âm và
ngữ pháp. Khi chúng ta biết được ngôn ngữ của một dân tộc thì nó là
phương tiện giúp cho ta tìm hiểu nền văn hoá của dân tộc ấy.

111

about:blank 113/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Nền văn hoá của một dân tộc bao gồm hai bộ phận: văn hoá vật
thể (văn hoá vật chất) và văn hoá phi vật thể (văn hoá tinh thần). Văn
hoá vật thể là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nền văn hoá.
Chúng bao gồm những đồ dùng trong đời sống, nhà cửa, phương tiện
đi lại, công cụ lao động, những sản phẩm nghệ thuật... Văn hoá vật thể
thường gắn chặt với giá trị tinh thần, là biểu hiện của giá trị tinh thần.
Ngược lại văn hoá phi vật thể bao gồm những lĩnh vực văn hoá mà ta
không sờ mó được, như các khuôn mẫu hành vi, các quy tắc, giá trị,
thói quen, tập quán, phong tục... Văn hoá tinh thần được hình thành
trong một thời gian lâu dài và khi đã ổn định thì ít có sự thay đổi.
4.1.2. Tiểu văn hoá và phản văn hóa
- Tiểu văn hoá:
Tiểu văn hoá là văn hoá của các cộng đồng xã hội mà có những
sắc thái khác với nền văn hoá chung của toàn xã hội. Người ta thường
nhắc đến tiểu văn hoá của người lớn, tiểu văn hoá của trẻ em, tiểu văn
hoá của thanh niên, hay tiểu văn hoá của một dân tộc ít người nào đó.
Trong xã hội bao giờ cũng có các nhóm, các cộng đồng khác
nhau và sự tương tác trong các nhóm, các cộng đồng ấy cũng khác
nhau. Đây là căn nguyên hình thành nên các tiểu văn hoá. Có thể hiểu
nôm na rằng, văn hoá của toàn xã hội là tập hợp bao gồm các tiểu văn
hoá. Do đó, tiểu văn hoá là một bộ phận của nền văn hoá chung, góp
phần làm cho nền văn hoá chung thêm phong phú, sinh động. Sự hình
thành các tiểu văn hoá là biểu hiện một phần "tính tự vệ" của các
nhóm, các cộng đồng trước "áp lực" của nền văn hoá chung. Song các
tiểu văn hoá không mâu thuẫn, đối lập với nền văn hoá chung, mà vẫn
hướng tới bảo vệ những giá trị của nền văn hoá chung.
Vì vậy gắn với tiểu văn hóa là khái niệm văn hoá nhóm. Văn
hoá nhóm là một hệ thống các giá trị, các quan niệm, tập tục được
hình thành trong nhóm. Tất cả các nhóm đều có nền văn hoá của mình
nhưng đồng thời cũng là một bộ phận của nền văn hoá toàn xã hội.
Văn hoá nhóm được hình thành thông qua sự liên hệ và tương tác giữa
các thành viên trong nhóm. Văn hoá nhóm cho thấy trong nền văn hoá
chung còn có thể có những nét riêng biệt của các tập đoàn, các tổ chức
xã hội khác nhau.
- Phản văn hoá:
Phản văn hoá là các giá trị văn hoá riêng tồn tại song song với
nền văn hoá chung nhưng chúng mâu thuẫn đối lập với các giá trị của

112

about:blank 114/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

nền văn hoá chung. Đó là văn hoá của các nhóm, các tổ chức xã hội
nào đó muốn tách ra khỏi văn hoá chung, đi theo những giá trị khác.
Trong khi tiểu văn hoá muốn hướng tới bảo vệ những giá trị của nền
văn hoá chung thì phản văn hoá công khai bác bỏ những chuẩn mực,
những giá trị của nền văn hoá chung. Phản văn hoá biểu hiện sự xung
đột giữa các nhóm, các tổ chức đối lập với toàn xã hội. Ví dụ văn hoá
của nhóm Hipi, của nhóm Phát xít mới có thể xem là phản văn hoá.
Phản văn hoá có 2 mặt: tích cực và tiêu cực. Tiêu cực là không
kích thích cho xã hội phát triển, gây bất ổn xã hội. Tích cực nếu nó là
phản văn hoá của một nhóm người sáng tạo, nhạy bén, luôn luôn là
yếu tố kích thích cho sự biến đổi xã hội. Cho nên tất cả các nền văn
hoá của các dân tộc, thì ở đâu, bao giờ cũng có phản văn hoá và chính
nó là cái kích thích cho sự thay đổi văn hoá xã hội, biến đổi xã hội.
4.1.3. Cách nhìn của xã hội học về văn hoá
Như đã trình bày ở trên, xã hội học nhìn văn hoá là những chân
lý, những giá trị, những chuẩn mực, những mục tiêu mà con người
cùng chia sẻ với nhau trong tương tác trải qua thời gian. Xã hội học
nhìn văn hoá không như thơ ca, nhạc họa (tức là nhìn văn hoá với tư
cách của nghệ thuật, giáo dục, học vấn), cho nên trong xã hội học
không bao giờ nói đến "không có văn hoá" mà, ở đâu có con người, có
tương tác xã hội thì ở đó có văn hoá.
- Chân lý:
Văn hoá là một chân lý, không có chân lý của cá nhân, mà chỉ có
chân lý của một tập thể, nhóm, cộng đồng... Có rất nhiều quan niệm
khác nhau về chân lý, có người thì cho rằng "chân lý là tính chính xác,
rõ ràng của tư duy". Người khác thì cho rằng "chân lý là những
nguyên lý được nhiều người tán thành và thừa nhận". Dưới góc độ xã
hội học, chân lý "là những quan niệm về cái thật và cái đúng. Mỗi nền
văn hoá đều có quan niệm về cái thật, cái đúng khác nhau nên có
những cái mà nền văn hoá này gọi là chân lý nhưng nền văn hoá khác
cho không phải là chân lý.
Chân lý nảy sinh qua thời gian, vì qua thời gian mới biết được
cái nào đúng, cái nào sai. Chân lý luôn luôn cụ thể vì hiện thực khách
quan là nguồn gốc của nó. Do đó chân lý mang tính khách quan.
Những điều kiện khách quan thay đổi thì chân lý khách quan cũng
thay đổi theo. Đồng thời ở mỗi thời điểm lịch sử khác nhau thì cũng
có các chân lý khác nhau.

113

about:blank 115/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Giá trị:
Văn hoá là một bộ các giá trị. Giá trị là cái mà người ta cho là
đáng làm, là cái mà ta ưa hơn cái khác. Thông thường, con người hành
động một phần là do giá trị, hành động để đạt đến giá trị nào đó. Khi
xã hội bước sang một bước ngoặt mới thì những giá trị cũ thường bị
đảo lộn hoặc thay thế. Khi hệ giá trị cũ bị đảo lên thì kéo theo sự thay
đổi của hệ chân lý. Mọi giá trị đều chứa đựng một số yếu tố nhận thức.
Chúng có tính hướng dẫn và lựa chọn. Do đó giá trị ảnh hưởng đến
động cơ và hướng dẫn cho hành động của con người, vì thế có thể
nhìn người ta hành động mà đoán được giá trị người ta. Cho nên giá
trị chi phối quan niệm của con người (quan niệm về vũ trụ, quan niệm
về nhân sinh, quan niệm về cá nhân).
Khó có một xác định nào mô tả đầy đủ phạm vi và tính đa dạng
của những hiện tượng giá trị được thừa nhận. Có người coi giá trị như
những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa
chọn. Có người thì cho giá trị là những tiêu chuẩn, những tư tưởng đề
cao và biện minh cho các chuẩn mực, trên cơ sở đó, các thành viên
của một nền văn hoá xác định cái gì là tốt, là xấu, cái gì là cần thiết
hay không cần thiết. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau về giá trị, song
chúng ta đều nhận thấy là, giá trị có thực và tồn tại trong hiện thực.
Mỗi xã hội, mỗi nền văn hoá đều có các hệ giá trị khác nhau. Đồng
thời, trong một nền văn hoá nhất định, các giá trị văn hoá cũng không
thuần nhất, chúng thay đổi tuỳ thuộc quan niệm của các tầng lớp xã
hội. Tuy nhiên trong một nền văn hoá nhất định cũng có những giá trị
nào đó mà mọi người được thừa nhận, và chúng tồn tại qua thời gian.
Chúng ta được học các giá trị qua quá trình xã hội hoá trong gia đình,
nhà trường, tôn giáo và xã hội nói chung. Những giá trị căn bản của xã
hội được con người biết đến từ khi còn nhỏ thông qua môi trường gia
đình, nhà trường. Những giá trị này trở thành một phần của nhân cách
con người, ảnh hưởng đến quan niệm của con người trong suốt cuộc
đời.
Mỗi cá nhân đều có những giá trị, trong đó có những giá trị này
ưu tiên hơn giá trị kia. Đồng thời trong mỗi cá nhân luôn luôn có mâu
thuẫn giá trị. Khi các giá trị căn bản mâu thuẫn thì người ta thường
hành động theo những giá trị nào quan trọng nhất.

114

about:blank 116/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Chuẩn mực:
Chuẩn mực là các quy tắc ứng xử, chúng quy định hành vi của
con người là tốt hay xấu, là thích hợp hay không thích hợp. Chuẩn
mực xác định rõ cho mọi người những việc nào nên làm, những việc
nào không nên làm và cần phải xử sự như thế nào cho đúng trong các
tình huống khác nhau.
Mỗi nền văn hoá đều có một hệ thống các chuẩn mực riêng,
chúng tạo thành một hệ thống tham gia vào sự kiểm soát xã hội và
điều tiết các hành vi, các ứng xử của cá nhân và của đoàn thể trong
nền văn hoá. Đối với các thành viên trong một nền văn hoá chuẩn mực
được coi như là một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo một
cách phổ biến, nhờ đó mà xã hội được ổn định.
Chuẩn mực được hình thành chủ yếu dựa vào sự tác thành tự
nguyện của các cá nhân, đồng thời cũng dựa vào những trừng phạt đối
với cá nhân vi phạm. Ở một mức độ nào đó, chuẩn mực tạo nên những
giá trị đạo đức của một xã hội, tuy rằng chuẩn mực không đồng nhất
với đạo đức. Giữa chuẩn mực và giá trị cũng vậy, trong khi giá trị là
những quan niệm khá trừu tượng về cái quan trọng, cái đáng giá thì
chuẩn mực là các tiêu chuẩn, quy ước hướng dẫn và những mong đợi
của xã hội đối với hành vi thực tế của con người. Giá trị ít khi bị ảnh
hưởng bởi hoàn cảnh hơn, có tính khái quát hơn, còn chuẩn mực
thường liên kết các giá trị với các sự kiện thực tế.
Trong mọi nền văn hoá đều có những chuẩn mực mang tính phổ
quát như phải hiếu thảo với cha mẹ, phải kính trọng người già, phải
giúp người khi gặp hoạn nạn, không được trộm cắp, không được giết
người... Chuẩn mực quan trọng nhất đối với mọi xã hội là pháp luật,
pháp luật là những chuẩn mực có tính pháp chế. Pháp luật quy định cụ
thể hành vi nào không nên làm và có kèm theo hình phạt đối với
những ai vi phạm pháp luật.
Trong thực tế, chuẩn mực xã hội không bao giờ có tính cách tuyệt
đối, chúng thay đổi tuỳ nền văn hoá. ở nền văn hoá này quy định điều
này không nên làm, trong khi ở nền văn hoá khác thì người ta được
phép làm. Chuẩn mực còn thay đổi theo hoàn cảnh và thời gian.
Căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của sự trừng phạt nếu chúng bị
vi phạm, có thể chia chuẩn mực thành 2 loại: lề thói và phép tắc.
Lề thói: Lề thói là những cái nên làm mà không cần tuân lệnh ai
cả, sự vi phạm lề thói cũng bị chỉ trích nhẹ như lắc đầu, tặc lưỡi, cùng

115

about:blank 117/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

lắm là bị loại ra khỏi cộng đồng. Sự vi phạm lề thói cũng không gây ra
ảnh hưởng đến sự hoạt động của xã hội. Lề thói được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, hoặc được tiếp thu qua giao tiếp. Chúng ta
thường chấp nhận lề thói một cách dễ dàng.
Phép tắc: Phép tắc là những chuẩn mực quan trọng hơn lề thói, là
cái mà tổ chức xã hội coi đó là trung tâm làm cho tổ chức đó hoạt
động được. Một số phép tắc là luật (luật thành văn), nhưng phần nhiều
luật là do con người làm ra để thực thi phép tắc.
Phép tắc là những cấm kỵ, kiêng kỵ... Sự vi phạm phép tắc có
thể ảnh hưởng đến sự hoạt động của xã hội. Các cá nhân vi phạm phép
tắc có thể bị khai trừ ra khỏi cộng đồng như đi tù..., thậm chí bị xử tử
hình.
- Mục tiêu:
Mục tiêu là một bộ phận của văn hóa. Mục tiêu xem như là các
đích thực tế mà chúng ta cần phải hoàn thành và chúng ta tổ chức mọi
hành động của mình xoay quanh những cái đích thực tế đó. Mục tiêu
là bộ phận của văn hoá và phản ánh văn hoá của một dân tộc. Mục
tiêu là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và hành động có ý
thức của con người. Mọi con người đều hành động vì những mục tiêu
cụ thể nào đó. Không ai hành động mà không vì mục tiêu, mục đích
cụ thể. Trước khi hành động con người tự hỏi mình làm việc đó vì cái
gì? Giá trị cũng nhằm cái gì, nhưng nó có tính chất lớn và nặng về đạo
đức, còn mục tiêu là nhằm đến cái gì đó thật cụ thể. Tuy nhiên, giá trị
và mục tiêu cũng đều do tương tác mà có. Nhờ có giá trị và mục tiêu
mà tổ chức xã hội duy trì và tồn tại. Sự thống nhất giữa giá trị và mục
tiêu trên cơ sở hợp tác, và vì thế tổ chức xã hội được tồn tại. Đến một
lúc nào đó, tổ chức xã hội khuôn những hành động của con người vào
những giá trị và mục tiêu của tổ chức xã hội. Ở bất kỳ một nhóm, một
tổ chức nào, nếu không có sự thống nhất của mục tiêu và giá trị thì
nhóm xã hội đó, tổ chức xã hội đó sẽ không thể tồn tại được. Mục đích
của xã hội là làm thống nhất các giá trị và mục tiêu của các thành viên,
tức là làm cho con người chia sẻ những giá trị và mục tiêu chung của
xã hội, từ đó xã hội sẽ đoàn kết và vững mạnh. Song ở mỗi cá nhân
đều có những mục tiêu riêng cho mình, vì thế vấn đề đặt ra là làm thế
nào giữa mục tiêu của xã hội và mục tiêu cá nhân không mâu thuẫn
nhau, triệt tiêu nhau. Nếu mục tiêu của cá nhân không được bảo vệ và
tôn trọng thì sẽ không có mục tiêu của xã hội.

116

about:blank 118/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Mục tiêu và giá trị luôn luôn gắn chặt với nhau, trong đó mục
tiêu chịu sự ảnh hưởng của giá trị. Giá trị thế nào thì sinh ra mục tiêu
thế ấy, không có giá trị thì không thể có mục tiêu.
Tóm lại, chân lý, giá trị, chuẩn mực, mục tiêu là những thành tố
của văn hoá. Mọi nền văn hoá khác nhau thì các chân lý, giá trị, mục
tiêu, chuẩn mực cũng khác nhau, đồng thời chúng cũng thay đổi theo
thời gian, điều kiện lịch sử cụ thể. Sống trong một nền văn hoá nhất
định mọi cá nhân đều chia sẻ những chân lý, giá trị, chuẩn mực và
mục tiêu của nền văn hóa ấy.
4.1.4. Một số lý thuyết giải thích văn hoá tiêu biểu
- Lý thuyết sinh thái học văn hoá:
Là lý thuyết nghiên cứu những mối quan hệ giữa văn hoá của
con người với môi trường thiên nhiên, xem xét những điều kiện tự
nhiên ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển văn hoá của con người.
Lý thuyết sinh thái học văn hoá cho thấy nhiều khuôn mẫu văn
hoá của con người có liên quan đến những điều kiện môi trường hạn
chế mà con người gặp phải, nhấn mạnh mối tương quan giữa môi
trường thiên nhiên và văn hoá và cho rằng môi trường thiên nhiên qui
định các khuôn mẫu văn hoá. Ở một khía cạnh nào đó, lý thuyết này
cũng có cơ sở. Trong thực tế, thiên nhiên cũng ảnh hưởng rất mạnh
đến văn hoá của con người, nhưng ngược lại văn hoá cũng tác động
lên thiên nhiên.
- Lý thuyết sinh vật học xã hội:
Lý thuyết sinh vật học xã hội giải thích các hiện tượng xã hội
bởi những nguyên nhân sinh vật học có từ lâu. Ví dụ, họ giải thích sự
cấm kỵ loạn luân là vì sự giao phối thân thuộc đưa đến các bệnh tật ở
các thế hệ sau. Vì thế trải qua nhiều năm, con người đã có kinh
nghiệm về tình trạng đó và tạo cho mình một bản năng di truyền đặc
cơ sở trên gen là tránh loạn luân, một số nhà sinh vật học xã hội cũng
cho rằng các hành vi bạo lực, đồng tình luyến ái... cũng có tính di
truyền.
- Lý thuyết cơ cấu chức năng:
Lý thuyết cơ cấu chức năng cho rằng văn hoá là hệ thống tương
đối ổn định bao gồm các thành phần có tương quan, bao gồm các yếu tố
văn hoá đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội, nhờ đó xã hội ổn định và

117

about:blank 119/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

tồn tại. Đồng thời, lý thuyết còn cho rằng, mặc dù có những nét cá biệt,
song mọi nền văn hoá đều có các nét chung.
Lý thuyết cơ cấu chức năng quan tâm đến tổ chức nền văn hoá
như thế nào để cho xã hội được ổn định. Theo họ, mọi khuôn mẫu của
văn hoá đều có chức năng và chúng ta không nên thay đổi nó, giữ
nguyên trạng và không nên tác động vào các nền văn hoá, dù đó là nền
văn hoá của các dân tộc lạc hậu nhất. Do đó hạn chế của lý thuyết này
xem văn hoá như một hệ thống tương đối tĩnh và ít chú trọng giải
thích biến chuyển xã hội.
- Lý thuyết mâu thuẫn xã hội:
Lý thuyết mâu thuẫn xã hội xem lĩnh vực văn hoá là địa bàn
tranh chấp của những mâu thuẫn xã hội do sự bất bình đẳng trong các
tầng lớp xã hội gây ra. Theo đó, văn hoá là công cụ của giai cấp thống
trị nhằm thống trị và kiểm soát về mặt tư tưởng. Với giai cấp bị trị,
ngược lại, văn hoá cũng là vũ khí lợi hại của giai cấp bị trị trong cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp thống trị.
Lý thuyết mâu thuẫn xã hội cho thấy văn hoá trong một xã hội
đôi lúc chỉ phục vụ cho một giai tầng nhất định. Các nhà xã hội học
mácxít còn cho rằng các yếu tố của nền văn hoá mang tính chất của hệ
thống sản xuất đang thống trị xã hội.
Cốt lõi của lý thuyết mâu thuẫn xã hội là nó vạch ra rằng các hệ
thống văn hoá khó có thể đáp ứng một cách bình đẳng các nhu cầu của
mọi tầng lớp xã hội, nó cũng cho thấy những yếu tố văn hoá được sử
dụng để duy trì sự thống trị của một thiểu số lên những người khác.
Tóm lại, những lý thuyết trên phản ánh cách nhìn nhận khác nhau
về văn hoá xã hội. Mỗi lý thuyết đều có những ưu điểm và nhược điểm
của nó. Cho nên khi nghiên cứu văn hoá, chúng ta cần tổng hợp tất cả
các quan điểm khác nhau để có một cái nhìn khách quan hơn, chính xác
hơn.
4. 2. Xã hội hóa
4.2.1. Khái niệm xã hội hóa
Có nhiều cách hiểu về khái niệm xã hội hóa. Trong những năm
gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng người ta sử dụng
khái niệm xã hội hóa khá phổ biến và gắn với một nội dung nhất định
nào đó. Ví dụ: xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa y tế, xã hội hóa thể
thao... Trong trường hợp này, xã hội hóa được hiểu là sự quan tâm,

118

about:blank 120/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

chia sẻ trách nhiệm của xã hội đối với một lĩnh vực hoạt động nào đó
mà trước đây chúng được coi là nhiệm vụ của một tổ chức chuyên
trách.
Trong xã hội học, khái niệm xã hội hóa không được hiểu theo
nghĩa như trên. Các nhà xã hội học đưa ra nhiều cách định nghĩa về xã
hội hóa. Neil Smelser cho rằng: Xã hội hóa là quá trình mà trong đó cá
nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình. Các
nhà xã hội học bình luận rằng định nghĩa của N.Smelser làm cho con
người trở nên thụ động trong quá trình xã hội hóa nhưng trên thực tế
họ lại rất năng động trong việc tiếp nhận nền văn hóa và còn thúc đẩy
trở lại đối với xã hội.
Một cách định nghĩa khác cho rằng xã hội hóa là một quá trình
trong đó cá nhân con người tiếp nhận một hệ thống nhất định những
tri thức, giá trị, chuẩn mực cho phép cá nhân đó tồn tại với tư cách là
một thành viên của xã hội. Hay nói cách khác, xã hội hóa là quá trình
con người tiếp nhận nền văn hóa để gia nhập vào đời sống xã hội.
Cách định nghĩa này mang màu sắc tương tự như định nghĩa của
N.Smelser nhưng ý nghĩa rộng hơn và bao quát hơn.
Từ các định nghĩa nói trên, khi nói đến xã hội hóa cần phải chú
ý đến những điểm quan trọng sau đây:
- Xã hội hóa là một quá trình xã hội truyền văn hóa của mình cho
các cá nhân, bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, tư tưởng, cách thức
suy nghĩ, hành động, lề lối ứng xử v.v... để cá nhân hội nhập với đời
sống xã hội mà trong đó cá nhân được sinh ra. Đó là một quá trình mà
nhờ nó mỗi cá nhân đã đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân,
học được cách suy nghĩ và ứng xử được xem là thích hợp trong xã hội,
có được những tri thức và kinh nghiệm cần thiết. Khi cá nhân thông
qua xã hội hoá, chấp nhận những quy tắc và đòi hỏi tạo dựng nền văn
hoá xã hội mà họ đang sống, sử dụng chúng để quy định hành vi của
mình, thì lúc đó họ đã tiếp thu được các quy luật văn hoá của xã hội.
- Quá trình xã hội hoá phải được hiểu từ hai phương diện:
phương diện khách quan, theo đó xã hội truyền cho các cá nhân,
hướng đến cá nhân, ảnh hưởng đến cá nhân và về phương diện chủ
quan, cá nhân tiếp nhận và đáp ứng sự truyền văn hoá đó của xã hội.
- Xã hội hóa gắn liền với quá trình hình thành và phát triển
nhân cách. Theo Nguyễn Khắc Viện, nhân cách là tổng hòa tất cả
những gì hình thành một con người, một cá nhân với bản sắc và cá

119

about:blank 121/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

tình rõ rệt, đặc điểm, thể chất, tài năng, phong cách, ý chí, đạo đức vai
trò xã hội. Các nhà xã hội học và tâm lý học đã có những cách giải
thích khác nhau về sự phát triển nhân cách con người. Lý thuyết Soi
Gương của C.H Cooley cho rằng xã hội như tấm gương soi, con người
có thể nhìn vào tấm gương và quan sát hành vi của mình thông qua
tương tác với những người xung quanh. Con người có thể quan sát,
giải mã chúng để hiểu được cái tôi mà cái tôi ấy là cái tôi lăng kính
của bản thân mình. Cái tôi lăng kính lại là sự kết hợp của: sự tiếp nhận
của người khác đối với chúng ta, sự hưởng ứng của người khác trước
sự tiếp nhận đó và sự đáp lại và phản ứng của chúng ta trước phản ứng
của người khác. Học thuyết phân tâm học của S. Freud cũng cho ta
một cách nhìn về phát triển nhân cách thông qua quan niệm của ông
về cái bản năng (những yếu tố có sẵn khi con người sinh ra); bản ngã
tức là cái tôi (cái thể hiện cá tính của mỗi người thông qua tri giác,
ngôn ngữ và thao tác trí tuệ nhằm kiểm soát hành vi và cảm xúc của
con người); siêu bản ngã (là sự kết hợp của cái tôi - cái lý trí với tự
học hỏi của cá nhân về qui tắc, giá trị... của xã hội ). "Cái siêu tôi là
một cấp độ hoạt động vừa biết tôn trọng mọi thể chế xã hội nhưng nó
lại được xây dựng trên một lương tâm trong sáng" (Phạm Minh Lăng,
2004). Rõ ràng trong cách lý giải này nhân cách đã gắn liền với xã hội
hóa.
- Xã hội hoá là một quá trình tất yếu, khách quan đối với tất
thảy các xã hội và luôn luôn được thực hiện ngoài ý muốn chủ quan
của bất cứ cá nhân nào. Xã hội hoá là một quá trình lâu dài và tiếp
diễn liên tục, nó chỉ mất đi khi xã hội bị tiêu diệt. Xã hội hoá là một
quá trình diễn ra suốt đời một con người, kể từ khi được sinh ra cho
đến khi mất đi.
- Khi cá nhân thông qua xã hội hoá, chấp nhận các quy tắc, các
khuôn mẫu, tác phong xã hội của xã hội mà họ đang sống, sử dụng các
giá trị chuẩn mực xã hội đó để quy định hành vi, suy nghĩ cho mình,
thì khi đó có nghĩa là đã tiếp thu các quy luật văn hoá của xã hội.
- Xã hội hoá được hiểu như là diện mạo của tất cả các hoạt động
bên trong của các xã hội. Đó cũng là quá trình tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ cá nhân nào với nội
dung hết sức cơ bản: đó là quá trình xã hội truyền văn hoá đã tích luỹ
được cho các cá nhân của mình và các cá nhân tiếp thu nền văn hoá đó
để thích ứng, hội nhập đời sống xã hội.

120

about:blank 122/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

4.2.2. Các đặc điểm của quá trình xã hội hóa


- Xã hội hóa là một quá trình hai mặt: một mặt xã hội tác động
vào cá nhân, chuyển tải các giá trị, chuẩn mực, kinh nghiệm, tri thức
cho cá nhân. Mặt khác, các cá nhân với tính tích cực của mình đã tác
động trở lại đối với xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Quá trình
này diễn ra song song nhưng mức độ không giống nhau ở các giai
đoạn của quá trình xã hội hóa.
- Xã hội hóa chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội.
Nội dung, cấp độ và cơ chế cụ thể của xã hội hóa có liên quan đến các
yếu tố do xã hội tạo ra. Vì vậy con người sống trong các xã hội có
điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau thì nội dung, cấp độ xã hội hóa
không giống nhau. Ví dụ: những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở nông thôn
sẽ xã hội hóa khác với những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở môi trường
đô thị kể cả khuôn mẫu hành vi ứng xử và lĩnh vực tri thức cũng như
kinh nghiệm mà chúng học hỏi được ở người lớn.
- Trong quá trình xã hội hóa, cá nhân vừa là chủ thể, vừa là
khách thể của quá trình ấy. Cá nhân đóng vai trò là chủ thể của quá
trình xã hội hóa khi họ tác động đến xã hội. Khi cá nhân chịu sự tác
động của xã hội thì họ là khách thể của quá trình ấy.
- Xã hội hóa tuân thủ các khuôn mẫu khác nhau của các nhóm
xã hội. Bởi vì trong quá trình hoạt động, các cá nhân tham gia vào
nhiều tổ chức, nhóm xã hội khác nhau. Mỗi tổ chức và nhóm xã hội có
một nền văn hóa riêng hình thành các khuôn mẫu hành động mang
tính đặc trưng của nhóm.
- Xã hội hóa được thực hiện nhờ các thiết chế xã hội có sẵn như
thiết chế gia đình, thiết chế nhà trường, thiết chế kinh tế,v.v...
- Xã hội hóa diễn ra không đều đối với mỗi cá nhân bởi vì họ
có khả năng khác nhau, sống và làm việc trong các môi trường khác
nhau và yêu cầu của xã hội đối với các cá nhân cũng không giống
nhau.
- Xã hội hóa sẽ diễn ra nhanh hơn nếu có khoanh vùng sự lựa
chọn. Việc hình thành trường chuyên, lớp chọn là một trong những ví
dụ về việc định hướng trong xã hội hóa tri thức và khoanh vùng sự lựa
chọn lĩnh vực tri thức để các cá nhân đẩy nhanh tốc độ xã hội hóa về
một lĩnh vực nhất định.

121

about:blank 123/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

4.2.3. Môi trường và hình thức xã hội hoá


Khi một cá nhân nào đó được sinh ra trong một nền văn hoá nhất
định nào đó. Và ngay từ khi được sinh ra thì nó đã bắt đầu được xã hội
hoá và xã hội hoá cá nhân đó cho đến khi các cá nhân đó chấm dứt đời
sống xã hội. Những năm tháng đầu tiên của xã hội hoá một con người
có một ý nghĩa quyết định đến thái độ và hành vi của con người đó sau
này. Bởi vậy gia đình là môi trường xã hội vô cùng quan trọng.
Ảnh hưởng của gia đình trong buổi đầu của quá trình xã hội hoá
được thực hiện dưới hình thức không chính thức và là sản phẩm của
sự tương tác trong phạm vi quan hệ giữa những người gần gũi nhất về
tinh thần, về thể chất. Trong buổi đầu này của quá trình xã hội hoá,
con người được học nhiều thông qua quan sát, nhận biết và kinh
nghiệm. Bố mẹ hướng dẫn, dạy dỗ con cái và con cái học được ở bố
mẹ, ở những người thân cả những điều ngoài chủ định của họ. Bởi vì
những thái độ, hành động, cung cách, hành vi của người lớn đã đi vào
hiểu biết của trẻ con, trong đó có những điều tốt và cả những điều
không tốt, cả những điều có chủ đích và những điều không chủ đích.
Quá trình xã hội hóa ban đầu đối với đứa trẻ không chỉ giới hạn
trong môi trường gia đình mà còn mở rộng ra ngoài phạm vi đó. Có
nghĩa là môi trường xã hội hoá khác đã có ảnh hưởng đứa trẻ thông
qua bạn bè cùng lứa tuổi, bạn chơi cùng phố, cùng xóm. Môi trường
này có người gọi là nhóm tương đương. Nhóm tương đương là môi
trường có ảnh hưởng xã hội hoá quan trọng và là môi trường xã hội
hoá đầu tiên mà trẻ con tiếp xúc với những suy nghĩ, hành vi khác với
những điều đã học được trong gia đình.
Xã hội hóa trong môi trường gia đình và ở nhóm tương đương
mặc dù ở mức độ ít nhiều khác nhau nhưng đều là hình thức xã hội
hoá không chính thức. Gọi là không chính thức để phân biệt với quá
trình giáo dục hệ thống của xã hội - hệ thống giáo dục quốc gia.
Những tri thức, hiểu biết, kỹ năng... mà xã hội muốn truyền cho
cá nhân qua hình thức xã hội hoá không chính thức là hạn chế và hoàn
toàn chưa đủ. Xã hội phát triển, càng phức tạp, càng có được nhiều tri
thức, nhiều kỹ năng bao nhiêu thì càng cần thiết phải xác lập một hệ
thống giáo dục có chủ định từ giáo dục phổ thông cơ sở, trung học,
cao đẳng, đại học, sau đại học... để xã hội hoá chính thức thông qua
việc dạy dỗ truyền bá cho cá nhân các tri thức và kỹ năng cần thiết
theo chương trình, nội dung thống nhất.

122

about:blank 124/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Hệ thống các trường học là hệ thống các cơ quan xã hội hoá


chính yếu đối với mọi xã hội đã và đang phát triển. Trẻ em không
những học được ở nhà trường các tri thức hiểu biết về khoa học tự
nhiên, xã hội, mà còn học được nhiều hơn thế nữa. Ví dụ: học được lối
xã giao, học được cách quan hệ, lối ứng xử, cách gây chú ý của giáo
viên và học được các hành vi được chấp nhận trước tập thể, trước
người khác. Như vậy những gì mà học sinh có được là có được từ việc
tiếp thu hai chương trình: chương trình chính thức được giảng dạy và
chương trình không chính thức không qua giảng dạy trên lớp. Như học
thông qua con đường không chính thức mà các cá nhân có được rất
nhiều kỹ năng xã hội và có thêm những hiểu biết về thế giới.
Giai đoạn xã hội hoá trong môi trường gia đình, nhóm tương
đương và cơ sở giáo dục được thực hiện như là kết quả tương tác của
các thành viên trong nhóm xã hội.
Xã hội hoá qua môi trường hệ thống các cơ sở, các cấp giáo dục, kể
cả học nghề, có một vai trò hết sức to lớn để xã hội truyền văn hoá của
mình cho cá nhân, và cá nhân trực tiếp nhận văn hoá đó. Đó là hình thức
xã hội hoá chính thức chính yếu. Song có một điều không thể không thừa
nhận, bên cạnh hình thức xã hội hoá chính thức, song song tồn tại còn có
hình thức không chính thức, tức là những gì được biết thêm không thông
qua giảng dạy trường lớp mà qua học hỏi, tiếp thu lẫn nhau một cách tự
nhiên.
Khi cá nhân đã trưởng thành thì họ vẫn tiếp tục được xã hội hoá,
xã hội hoá một cách không chính thức thông qua những chuẩn mực,
những quy định của cơ quan, xí nghiệp, nhóm xã hội mà anh ta là
thành viên của nó. Thậm chí còn được xã hội hoá ngay trong gia đình
qua vai trò của con, cháu ...
Các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công ty ... nói chung là các tổ
chức xã hội được thiết lập ra một cách có ý thức với những mục đích
rõ ràng. Dù theo đuổi mục đích gì đi nữa, thì điều giống nhau của các
xã hội khác nhau là các nhóm xã hội này đều phát triển các khuôn
mẫu hành vi thích hợp với nhóm của mình. "Sức ép" của nhóm bắt
buộc các thành viên của nó phải tuân thủ theo các nguyên tắc, nội quy,
quy chế của nhóm. Đơn vị quân đội là một ví dụ điển hình về khuôn
mẫu hành vi của các thành viên trong việc tuân thủ kỷ luật và mệnh
lệnh chỉ huy. Cung cách, hành vi của các nhân viên bán hàng cũng
vậy.

123

about:blank 125/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Xã hội hoá trong môi trường xã hội hoá theo những nhóm xã hội
cụ thể, rõ ràng nó chỉ là một bộ phận của xã hội tổng thể. Xã hội hoá
chính là diện mạo của tất cả các quan hệ xã hội, nó không phụ thuộc
vào việc các nhóm xã hội trong những mối quan hệ đó có nhận thức ra
được điều đó hay không.
Xã hội hoá là một quá trình rộng lớn, khó khăn và phức tạp.
Phạm vi của nó vượt quá nhiều lần hình dung ban đầu của chúng ta.
Những gì mà con người hiểu biết được, trải nghiệm được, kể cả những
kỹ năng nhỏ nhất đều nhờ quá trình xã hội hoá mang lại. Quá trình đó
diễn ra suốt đời một con người, suốt đời một xã hội. Có nghĩa là
chừng nào xã hội mất đi thì xã hội hoá cũng chấm dứt.
Các công cụ, phương tiện của quá trình xã hội hoá được sử dụng
một cách thông dụng trên phạm vi toàn xã hội đó là các phương tiện
thông tin đại chúng: đài phát thanh, truyền hình, báo chí và các loại
sách báo, phim ảnh, nhà hát ... Các phương tiện này đã ngày càng tỏ ra
hữu hiệu trong việc truyền bá kiến thức, tri thức, phổ biến tư tưởng,
các giá trị, chuẩn mực xã hội, đặc biệt trong việc định hướng, xây
dựng lý tưởng và niềm tin cho con người.
Quá trình xã hội hoá diễn ra ở mọi nơi, mọi xã hội, nó đòi hỏi ở
các cá nhân một tiềm năng thích nghi và kết quả làm cho con người
trở thành một con người của một nền văn hoá nhất định ở trong một
thời gian và nơi chốn xác định. Con người Việt Nam với phẩm chất
văn hoá Việt Nam là một kết quả của quá trình xã hội hoá của xã hội
Việt Nam khác với một người Mỹ, một người Mê-hi-cô, một người
Kê-ni-a - kết quả của quá trình xã hội hoá ở các xã hội đó.
Như trên đã trình bày, quá trình xã hội hoá, được thực hiện từ hai
phía, từ hai phương diện: sự truyền của xã hội thông qua nhiều hình
thức và sự tiếp nhận của các cá nhân. Những gì gây khó khăn cho sự
truyền bá văn hoá của xã hội và sự tiếp nhận nơi mỗi cá nhân đều là
sự trở ngại cho sự xã hội hoá. Ví dụ: tình trạng đất nước chiến tranh
liên miên, nghèo khổ tất yếu sẽ ảnh hưởng đến xã hội hoá. Điều kiện
và chế độ giáo dục lạc hậu ảnh hưởng đến quá trình xã hội hoá. Hoặc
các khuyết tật về tinh thần và thể chất ở các trẻ em sẽ gây khó khăn
cho các em trong quá trình học hỏi. Như vậy sẽ không có một sự đồng
đều tuyệt đối trong xã hội hoá giữa các xã hội và các cá nhân khác
nhau trong cùng một xã hội.

124

about:blank 126/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Dù có những khung cảnh, điều kiện có khác nhau giữa các xã


hội, song xã hội hoá chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là phát triển những
kỹ năng và kiến thức mà cá nhân cần tới, truyền đạt cho họ những
kinh nghiệm, những chuẩn mực, những giá trị, những lý tưởng để họ
hội nhập vào nền văn hoá mà họ là thành viên.
Những phẩm chất người chỉ hình thành trong xã hội người do quá
trình học hỏi và tương tác xã hội. Xã hội hoá cần thiết cho mọi người để
phát triển thành một chủ thể xã hội, chủ thể cải biến tự nhiên vì mục đích
phục vụ đời sống con người.
Xã hội hoá là một quá trình rộng khắp có tính chất phổ quát đối
với mọi xã hội. Song có một vấn đề cần phải nhận thức khách quan là
do những điều kiện kinh tế, văn hoá, trình độ phát triển xã hội khác
nhau mà có sự khác nhau về tiến độ và mức độ xã hội ngay trong cùng
một quốc gia, một vùng, một tỉnh, một huyện, đặc biệt có sự không
đồng đều giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi,
thậm chí có sự cách biệt khá xa về hiệu quả xã hội hoá xét theo trình
độ chung của xã hội tổng thể.
Điều đó không phải đáng ngạc nhiên, và nó bị chi phối bởi quy
luật phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, giữa các khu vực và
địa phương trong một quốc gia, trong một khu vực.
Xã hội hóa có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
con người và xã hội.
Trước hết xã hội hóa đã biến con người tự nhiên (con người sinh
học) thành con người xã hội với sự phát triển của tư duy, kiến thức,
kinh nghiệm, kỹ năng, ngôn ngữ,v.v... Có thể nói xã hội hóa đã thực
hiện chức năng nạp năng lượng người cho một thực thể sinh vật bậc
cao để các thực thể này trở thành con người đúng nghĩa của nó. Với ý
nghĩa đó có thể nói không có xã hội hóa không có con người xã hội.
Thứ hai là, xã hội hóa đã làm nhiệm vụ truyền thụ, chia sẻ nền
văn hóa đảm bảo cho các giá trị văn hóa tồn tại qua nhiều thế hệ.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người sinh ra đều được xã hội
hóa. Những cá thể không bình thường về trí tuệ, về hệ thần kinh và
những người vì một lý do nào đó bị tách ra khỏi môi trường xã hội đều
không được xã hội hóa. Lúc đó họ chỉ thực hiện những phản ứng
mang tính bản năng mà thôi. Hậu quả của phi xã hội hóa là rất lớn đối
với sự phát triển của con người và xã hội.

125

about:blank 127/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

5. BẤT BÌNH ĐẲNG, PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI


5.1. Bất bình đẳng xã hội
Trong xã hội, chúng ta thường nghe nói nhiều về hiện tượng bất
bình đẳng và vấn đề đấu tranh giành quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, các nhóm xã hội. Vậy bất bình đẳng xã hội là gì?
Bất bình đẳng xã hội có thể là một hiện tượng xã hội phổ biến,
là khái niệm trung tâm của các lý thuyết xã hội học. Tuy nhiên, để
hiểu bất bình đẳng xã hội thì cần phải hiểu về bình đẳng xã hội.
Theo Từ điển tiếng Việt: bình đẳng là sự "ngang nhau về địa vị
và quyền lợi". Ví dụ như bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng nam
nữ...
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: "Bình đẳng (chính trị) là sự
được đối xử như nhau về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá... không
phân biệt thành phần và địa vị xã hội, trong đó trước tiên và cơ bản
nhất là bình đẳng trước pháp luật.
Theo Từ điển xã hội học, bình đẳng phải được hiểu trên hai
phương diện: phương diện tự nhiên và phương diện xã hội.
Trên phương diện tự nhiên, bình đẳng giữa mọi người được coi là
có tính chất tự nhiên, vì đó là những con người chứ không phải là những
động vật hay cây cối. Những con người ấy đều có năng lực hiểu được
những quyền và nghĩa vụ của mình, có năng lực như nhau về khoái cảm
và đau khổ. Những người theo chủ nghĩa Kant thì khẳng định mọi con
người đều có phẩm giá như nhau vì họ đều là những thực thể đạo đức, có
khả năng sử dụng lý trí của mình để đề ra và noi theo các chuẩn mực đạo
đức, và mọi người đều phải được coi như mục đích tự thân mà không
phải như phương tiện. Tóm lại bình đẳng là thuộc tính tự nhiên của con
người.
Trên phương diện xã hội, khái niệm bình đẳng bao hàm nhiều
lĩnh vực khác nhau: bình đẳng chính trị, bình đẳng kinh tế, bình đẳng
chủng tộc và dân tộc, bình đẳng giới tính v.v... Xã hội học xét bình
đẳng của con người trên phương diện xã hội và xem bình đẳng tự
nhiên tồn tại như một tiền đề để thực hiện sự bình đẳng xã hội.
Ngược lại, bất bình đẳng xã hội được hiểu là sự không ngang
bằng nhau về cơ hội và quyền lợi mà con người được hưởng trong mối
tương quan với những trách nhiệm, nghĩa vụ mà họ thực hiện. Ví dụ:

126

about:blank 128/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 129/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 130/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 131/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 132/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 133/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 134/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 135/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 136/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 137/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 138/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 139/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 140/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 141/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

luôn được ghép với những hình thức hiện có. Tuy nhiên chúng còn
phụ thuộc vào số lượng, vào bản chất của kiến thức mà người ta có.
Một nền văn hóa và một số kiến thức được tích luỹ một cách cứng rắn,
bảo thủ và độc đoán tất sẽ không đủ những điều kiện cho một sự biến
đổi thuận lợi. Ngược lại kiến thức càng dễ sử dụng bao nhiêu thì sự
biến đổi càng nhanh chóng bấy nhiêu.
- Mức độ phức tạp của cơ cấu xã hội và văn hóa: Đây là một điều
kiện của sự biến đổi. Một xã hội trong đó có nhiều vị thế và giai cấp
khác nhau, có một sự chuyên môn hoá và sự phân công trong các
nhiệm vụ ở mức độ rất cao, có một hệ thống giao thông vận tải dễ
dàng, tất sẽ có biến đổi xảy ra.
Ngoài bốn điều kiện trên, thời gian và hoàn cảnh cũng được
xem là những điều kiện quan trọng đưa lại sự biến đổi: mọi sự biến
đổi nào cũng phải có thời gian. Thời gian tự nó không tạo ra sự biến
đổi nhưng thời gian rất cần cho sự biến đổi. Đồng thời sự biến đổi ấy
phải đặt trong một hoàn cảnh cụ thể, trong một môi trường cụ thể. Đó
là một khung cảnh văn hóa và vật chất. Tóm lại, mọi sự biến đổi
không thể diễn ra bên ngoài thời gian và hoàn cảnh.
6.1.3. Những quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội
- Quan điểm tổng hợp: Các nhà xã hội học đưa ra quan điểm này
đồng ý rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố (cả yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài) tạo nên sự biến đổi. Mặc dù trong những
hoàn cảnh và lịch sử nhất định yếu tố này có thể nổi trội hơn yếu tố
kia. Các yếu tố chính được các nhà xã hội học nhắc đến là:
+ Môi trường vật chất: Bao gồm những biến động lớn như bão,
lụt, hạn hán, động đất... Đây là các yếu tố tự nhiên và thường xảy ra bất
ngờ.
+ Công nghệ: Đây là yếu tố hoàn toàn nhân tạo nhưng lại có
sức mạnh to lớn và đưa lại những biến đổi kỳ diệu. Đặc biệt là những
ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ gen đã và đang làm thay đổi bộ mặt của thế giới.
+ Sức ép dân số: Các quá trình dân số cũng là nguyên nhân gây
ra sự biến đổi xã hội. Đó là sự thay đổi trong qui mô và mật độ dân số,
di dân v.v... đặc biệt việc bùng nổ dân số đã trở thành nguy cơ của một
số quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu.
+ Giao lưu văn hóa: Giao lưu và tiếp xúc văn hóa sẽ làm cho
các quốc gia trên thế giới gần gũi với nhau hơn. Các giá trị tiến bộ của

140

about:blank 142/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

một quốc gia này sẽ được các quốc gia khác đón nhận nếu họ thấy phù
hợp. Sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá bao giờ cũng đi đôi với sự tiếp biến
văn hóa. Thông thường việc tiếp xúc và va chạm với một nền văn hoá
bao giờ cũng tạo ra những biến đổi xã hội ít nhiều.
Ngày nay, với sự tiến bộ của các phương tiện thông tin và
phương tiện chuyên chở thì việc giao lưu và tiếp xúc văn hoá trở nên
nhanh chóng và mạnh mẽ.
+ Xung đột xã hội: Nhân tố này ảnh hưởng cả nhịp độ và sự trực
tiếp của sự biến đổi xã hội.
- Những quan điểm toàn cầu: Theo lý thuyết này, những vấn đề
biến đổi và phát triển trong một quốc gia phải gắn liền với vấn đề toàn
cầu. Và giữa các quốc gia ấy bao giờ cũng có sự phụ thuộc vào nhau.
- Lý thuyết hiện đại hóa: Lý thuyết này chịu ảnh hưởng của thuyết
tiến hoá và thuyết chức năng. Thuyết hiện đại hóa công nhận sự phát
triển và tiến bộ toàn cầu là một quá trình tiến triển lâu dài. Trong đó khoa
học và công nghệ dẫn dắt các thiết chế xã hội truyền thống, tiền công
nghiệp đến các thiết chế xã hội phức tạp.
Các nhà xã hội học đã xác định 5 giả thuyết chủ đạo thành
những trường phái hiện đại sớm nhất như sau:
- Thứ nhất, hiện đại hóa là một quá trình châu Âu hoá (hoặc Mỹ
hóa). Vì các quốc gia Âu - Mỹ đã phát triển trước tiên và hầu hết kinh
tế và chính trị thuận lợi, ưu việt.
- Thứ hai, hiện đại hóa không thể đảo ngược. Đó là một qui
luật tất yếu.
- Thứ ba, hiện đại hóa là một quá trình hợp nhất mà thậm chí
những nguyên nhân của tất cả các xã hội gần giống nhau.
- Thứ tư, nó cũng là quá trình trong đó những lợi ích lâu dài của
hiện đại hóa quan trọng hơn những khó khăn, gian khổ như các dân
tộc đạt được các sản phẩm, giáo dục, và sức khỏe tốt hơn, chất lượng
sống của con người được tăng lên.
- Thứ năm, hiện đại hóa là cả một quá trình lâu dài, có thể một
vài thập kỷ hoặc thậm chí hàng thế kỷ đối với một số dân tộc.
+ Lý thuyết hệ thống thế giới và lý thuyết phụ thuộc: Lý thuyết
hệ thống thế giới khẳng định rằng tất cả các dân tộc là một bộ phận
của sự phân công lao động rộng lớn và không bình đẳng về quan hệ

141

about:blank 143/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

chính trị mà lợi ích của các nước đang phát triển phải chi phí cho các
nước kém phát triển.
Sự phát triển kinh tế toàn cầu bởi sự sát nhập các lãnh thổ mới
và đổi mới các kỹ thuật, công nghiệp hóa và thương mại hóa. Và
những quá trình này tiếp tục thay đổi quan hệ giữa các dân tộc. Tương
tự, sự chuyển đổi kinh tế, sự phát triển, và sự đình đốn tạo thành
những điều kiện cho sự biến đổi xã hội có thể cho phép các dân tộc
không trung tâm tiến lên trong hệ thống và là nguyên nhân khiến cho
các quốc gia trung tâm đi xuống. Các quốc gia trung tâm trong hệ
thống kinh tế toàn cầu là: Mỹ, Nhật Bản, Canađa..., các quốc gia
không trung tâm là các nước đang phát triển và kém phát triển ở châu
Á , châu Phi và Mỹ La Tinh.
+ Lý thuyết phụ thuộc cho rằng các quốc gia đã công nghiệp hoá
và giữa các nước ở thế giới thứ ba có những quan hệ phụ thuộc khác
nhau. Có 3 hình thức quan trọng hơn là:
- Phụ thuộc vào thương mại: Ví dụ các quốc gia phát triển mua
nguyên, nhiên liệu thô từ các nước thuộc địa, các nước kém phát triển
rồi tái chế biến để bán lại các quốc gia khác với giá cao hơn. Sự phụ
thuộc này cũng được duy trì bởi các hiệp ước với khả năng linh hoạt
trong thương mại của các quốc gia công nghiệp, nhưng không mở
rộng cho các quốc gia ở thế giới thứ ba.
- Phụ thuộc công nghiệp: Các nước công nghiệp phát triển có xu
hướng xây dựng các nhà máy, xí nghiệp ở các nước chậm phát triển để
tận dụng nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ mạt. Ngược lại các nước
chậm phát triển này nhờ đó có thể giải quyết việc chuyển giao công
nghệ có hiệu quả. Sự phụ thuộc này chứng tỏ đôi bên cùng có lợi.
- Phụ thuộc vào đầu tư: Các quốc gia nghèo và chậm phát triển
muốn công nghiệp hóa thì cần phải có vốn. Tuy nhiên, hầu hết các
quốc gia này đều thiếu vốn nên phải đi vay nợ nước ngoài. Những tổ
chức tài chính thế giới mà họ thường vay nợ là quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) và ngân hàng thế giới (WB). Nợ nước ngoài là một khó khăn
rất lớn đối với các quốc gia nghèo. Để trả nợ họ phải cắt giảm chi tiêu
trong nước. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhân
dân.
6.2. Phát triển xã hội
Có nhiều cách định nghĩa về phát triển xã hội. Theo cách hiểu
chung nhất, phát triển là sự thay đổi theo hướng tăng lên về số lượng

142

about:blank 144/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

và chất lượng so với thực trạng trước đó. Như vậy phát triển xã hội
luôn luôn gắn liền với tiến bộ xã hội.
Về mặt triết học, có thể chấp nhận rằng phát triển là một quá
trình tự vận động từ thấp (đơn giản) đến cao (phức tạp), nhưng thế nào
là thấp và cao thì ý kiến lại rất khác nhau. Trong xã hội học khái niệm
phát triển cũng gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi giữa nhiều trường
phái.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: để làm rõ khái niệm phát triển,
một số nhà nghiên cứu xuất phát từ trạng thái kém phát triển và tập
trung vào sự nghèo khổ như là đặc trưng của trạng thái đó. Quan điểm
này dựa vào lý thuyết về "cái vòng luẩn quẩn" của một nhà kinh tế học
người Mỹ. Vòng luẩn quẩn này thể hiện ở: năng suất thấp kéo theo thu
nhập thấp; thu nhập thấp nên tiết kiệm thấp; tiết kiệm thấp nên tích lũy
thấp; tích lũy thấp nên đầu tư thấp và dẫn tới năng suất thấp. Các quốc
gia nghèo và kém phát triển là những bằng chứng cụ thể và rõ ràng
nhất về cái vòng luẩn quẩn trên. Như vậy theo quan điểm này sự phát
triển xã hội suy cho cùng là sự phát triển kinh tế.
Quan điểm thứ hai coi sự hạn hẹp của thị trường là nhân tố chủ
yếu gây ra đình trệ. Thị trường là cái quan trọng nhất mà thiếu nó thì
hàng hóa không thể lưu thông, do đó sản xuất không phát triển.
Quan điểm thứ ba nhấn mạnh tới những cơ chế xấu xa do hiệu
ứng phô trương gây ra. Chẳng hạn như tích lũy sản xuất được ném vào
tiêu dùng hơn là để tiết kiệm và đầu tư tái sản xuất.
Quan điểm thứ tư cho rằng tăng trưởng dân số quá cao là
nguyên nhân của đình trệ: thu nhập tăng dẫn tới dân số tăng khiến cho
tiền "dư thừa" bị ngốn hết, không đủ tiền để tiết kiệm và đầu tư cho
sản xuất. Tuy nhiên trong thực tế chúng ta thấy thu nhập tăng chưa
hẳn dẫn tới dân số tăng mà sự gia tăng dân số còn do nhiều nguyên
nhân khác nữa như sự nghèo đói, sự kém hiểu biết về các biện pháp
tránh thai, ảnh hưởng của nền văn hóa...
Nói chung, những lý luận về phát triển và kém phát triển của
các quan điểm trên chủ yếu tập trung vào khả năng tích lũy và đầu tư
để tăng trưởng kinh tế, như vậy, đóng khung sự phát triển xã hội vào
sự tăng trưởng đó. Thế nhưng sự phát triển xã hội ngoài nhân tố kinh
tế, còn phải phụ thuộc rất nhiều vào nhân tố khác. Đành rằng nhân tố
kinh tế là vô cùng quan trọng và cần thiết cho sự phát triển.

143

about:blank 145/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Ngược lại, các nhà lý luận mác - xít quan niệm về sự phát triển
một cách rộng hơn, lấy những biến đổi về lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất làm cơ sở. Lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn
biến đổi và đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội. Nhưng để cho
lực lượng sản xuất phát triển thì phải thay đổi căn bản các quan hệ sản
xuất. Khi quan hệ sản xuất cũ được thay đổi bằng một quan hệ sản
xuất mới tiến bộ hơn thì nó mở đường cho lực lượng sản xuất cũng
như đưa lại sự phát triển cho toàn xã hội. Quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là quan hệ sản xuất tiến bộ nhất, ưu việt nhất, là con đường mà
các nhà mác xít vạch ra cho sự phát triển của toàn nhân loại. Tuy
nhiên sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội đã bị sụp đổ ở Liên Xô (cũ) và
Đông Âu thì nhiều người đã đòi hỏi cần phải xem xét lại khái niệm
mác - xít về sự phát triển.
Hiện có hai xu hướng xét lại chủ yếu. Xu hướng thứ nhất muốn
giải thích lại khái niệm về sự phát triển của quan điểm mác xít cho
phù hợp với tình hình mới trên cơ sở duy trì nền tảng của nó theo chủ
nghĩa duy vật lịch sử, nhất là chủ nghĩa xã hội khoa học, nghĩa là vẫn
lấy chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội
trong thời đại hiện nay. Xu hướng này rất được các nước xã hội chủ
nghĩa hiện nay cũng như một bộ phận những người cộng sản ở Nga
ủng hộ. Xu hướng thứ hai từ bỏ tự phát triển theo hướng chủ nghĩa xã
hội, lấy những chuẩn mực, những giá trị chung của văn minh loài
người (kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân, xã hội công dân, nhà nước
pháp quyền...), thậm chí có người còn nói tới sự phát triển theo chủ
nghĩa tư bản "nhân dân", "dân chủ"...
Hiện nay người ta tạm thời lấy một nội dung do Liên hiệp quốc
đưa ra làm căn cứ, theo đó phát triển là "một quá trình trong đó toàn thể
loài người áp dụng những công cụ hiện đại của khoa học và công nghệ
vào những mục tiêu của mình, qua những thời kỳ khác nhau và tới tính
hoàn toàn không đảo ngược của quá trình đó".
Sự phát triển xã hội bao giờ cũng đi đôi với sự tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên có những trường hợp có phát triển nhưng không có tiến bộ.
Marx xem sự tiến bộ của loài người trải qua những hình thái xã hội
khác nhau, phát triển tuần tự từ thấp đến cao. Xã hội sau bao giờ cũng
tiến bộ hơn xã hội trước. Còn A. Comte quan niệm rằng lịch sử loài
người như một lịch sử "ba trạng thái tinh thần": thần học, siêu hình
học và thực chứng học. Saint Siomon cũng phân biệt ba trạng thái xã
hội: xã hội thần học, xã hội quân sự và xã hội công nghiệp. Nếu Marx

144

about:blank 146/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

xem chủ nghĩa xã hội là đỉnh cao của sự tiến bộ xã hội thì Saint Simon
xem xã hội công nghiệp là nơi chứa đựng tất cả những sức mạnh của
xã hội".
Tuy nhiên dù có quan niệm như thế nào về sự tiến bộ của xã hội
đi nữa thì một xã hội được xem là một xã hội tiến bộ thì xã hội đó
trước tiên phải là một xã hội bình đẳng, coi trọng những giá trị nhân
bản, đề cao quyền con người, mưu cầu hạnh phúc cho con người và
không xem thường tự nhiên. Những giá trị này không phải của riêng
một quốc gia nào mà chúng có tính phổ quát cả nhân loại.

7. LỆCH LẠC XÃ HỘI VÀ KIỂM SOÁT XÃ HỘI


7.1. Lệch lạc xã hội
7.1.1. Khái niệm lệch lạc xã hội
Theo nghĩa rộng, lệch lạc (Deviance) là một lối ứng xử vi phạm
các qui tắc, các chuẩn mực của một xã hội nhất định. Những người
được coi là lệch lạc là những người vi phạm hay chống lại những
chuẩn mực của nền văn hóa thống trị, của tầng lớp thống trị.
Lệch lạc xã hội là một hiện tượng phổ biến của các xã hội từ
trước đến nay. Tuy nhiên, chưa có sự thống nhất trong cách giải thích
thế nào là lệch lạc. Bởi lẽ, lệch lạc hay không phải lệch lạc còn tùy
thuộc vào quan điểm và góc độ chúng ta đứng nhìn nhận vấn đề. Ví dụ
như trường hợp Nelson Mandela trước đây, dưới con mắt của nhóm
thiểu số da trắng thống trị ở Nam Phi thì ông là một người lệch lạc,
nhưng đối với đại đa số người dân da đen Nam Phi thì ông là một vị
anh hùng.
Hành vi lệch lạc hay không tùy thuộc vào mỗi nền văn hóa. Mỗi
nền văn hóa khác nhau đều có những chuẩn mực và luật tục khác
nhau. Vì thế một hành vi bị lên án và cấm kỵ, trừng phạt ở nền văn
hóa này thì trái lại nó hoàn toàn tự do và bình thường ở nền văn hóa
khác.
Cho đến nay, chưa có một phương thức đơn giản hay phổ quát
để phân loại các hành vi lệch lạc. Tuy nhiên có thể phân biệt sự lệch
lạc ở cấp độ cá nhân, sự lệch lạc ở một nhóm và sự lệch lạc ở tầm mức
định chế. Một số người được gán nhãn hiệu lệch lạc là do một vài nét
đặc trưng cá nhân, do một số ứng xử nào đó. Đôi khi, một cá nhân
trong quan hệ với xã hội được xem là lệch lạc, trái lại, trong quan hệ
với nhóm anh ta không lệch lạc mà chỉ làm theo những qui tắc, qui
định của nhóm.

145

about:blank 147/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Những giá trị, những chuẩn mực và những qui tắc của một nền
văn hóa thường thay đổi theo thời gian nên những khái niệm, những
hành vi nào là lệch lạc và chúng được chế tài như thế nào cũng thay
đổi. Chẳng hạn như trong xã hội Mỹ, cách đây khoảng 1 thế kỷ, đồng
tính luyến ái bị lên án gay gắt, nhưng ngày nay có những phong trào
đấu tranh cho quyền lợi của những người này.
Những nghiên cứu về lệch lạc xã hội là nhằm vào các đối tượng
tự ý vi phạm những chuẩn mực chung của xã hội đã được xã hội thừa
nhận, chứ không quan tâm đến những người có những đặc điểm khác
thường về mặt cơ thể. Đặc biệt nghiên cứu lệch lạc xã hội nhằm vào
những biểu hiện lệch lạc có tính chất tội phạm. Hành vi tội phạm là
những hành vi có thể áp dụng sự chế tài theo luật hình sự. Ở mọi xã
hội, đều có những hành vi mà mọi người đều đồng ý là có tính cách
tội phạm và cần phải trừng phạt, chẳng hạn hành vi có tính chất tội
phạm nhưng mức độ xử lý ở mỗi xã hội nặng nhẹ khác nhau. Ví dụ
như tội mại dâm, tội cờ bạc, nghiện hút ma túy. Tuy những loại tội
này không gây tổn hại vật chất cho kẻ khác nhưng chúng lại liên quan
đến những tổ chức tội phạm có tổ chức và ảnh hưởng xấu đến xã hội.
Tóm lại, việc nghiên cứu sự lệch lạc xã hội sẽ chấn chỉnh kịp
thời những hành vi lệch lạc của các cá nhân, tổ chức xã hội, giúp cho
xã hội ổn định và phát triển lành mạnh.
7.1.2. Những lý thuyết về sự lệch lạc xã hội
- Những giải thích sinh vật học về tội phạm: Quan điểm sinh vật
học tội phạm liên hệ vấn đề tội phạm với những đặc trưng của cơ thể,
các loại hình của cơ thể hay với sự bất bình thường của cấu tạo nhiễm
sắc thể. Nhà tội phạm học người ý Casare Lombroso (1911) chứng
minh rằng những tên tội phạm là sự lai giống của những loại hình
người sơ khai và hung tợn mà ta có thể nhận thấy qua những nét nổi
bật trên cơ thể như trán vồ, mắt xếch, tóc đỏ... Vào năm 1960, các nhà
nghiên cứu đã tìm thấy ở một vài người đàn ông có thừa một nhiễm
sắc thể Y (tức là XYY) có nguy cơ phạm tội nhiều hơn những người
bình thường.
Chúng ta nhận thấy rằng có những trường hợp có sự trùng hợp
giữa những người có đặc điểm khác thường về cấu tạo cơ thể với một
số hành vi tội phạm nào đó. Song về mặt khoa học, quan điểm này
chưa khách quan lắm.

146

about:blank 148/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Cách giải thích tâm lý học về sự lệch lạc xã hội: Thuyết phân
tâm học, đại diện là S. Freud đã giải thích những lệch lạc, những bất
bình thường trong nhân cách của cá nhân do sự không quân bình trong
bộ máy tâm thức. Bộ máy tâm thức của con người nếu để cho yếu tố
xung đột bản năng (id) hay siêu ngã (superego) chi phối quá mạnh thì
có thể đưa đến sự buông thả hay ngược lại có thể đưa đến những ức
chế tâm lý.
Một số tác giả khác thì cho rằng lứa tuổi thanh thiếu niên là thời
gian con người còn biểu hiện lệch lạc nhất. Tuy nhiên, đối với những
trẻ em được giáo dục tốt, có nhận thức tích cực thì có thể tránh được
những hành vi lệch lạc.
Lời giải thích theo quan điểm tâm lý học đã có những đóng góp
trong việc nghiên cứu và giải thích hiện tượng lệch lạc, nhưng khả
năng tiếp cận còn khá hạn hẹp. Chẳng hạn như quan điểm tâm lý học
chỉ tập trung vào những cá nhân mà không đi vào các nhóm xã hội. Ở
bình diện cá nhân, những hành vi lệch lạch không chỉ phụ thuộc vào
sự phát triển của tâm lý mà còn phụ thuộc vào môi trường xung
quanh. Ngoài ra quan điểm này không giải thích được tại sao cùng
cách ứng xử nhưng cá nhân này bị xem là lệch lạc, cá nhân khác lại
không, cũng như ở những người có uy tín xã hội cao thì thường bị
xem là ít có lệch lạc về mặt tâm lý.
- Lý thuyết chức năng và lệch lạc xã hội: Thông thường chúng
ta xem một hành vi lệch lạc không có ích gì cho sự tồn tại của xã hội,
nhưng lối giải thích của lý thuyết chức năng cho thấy rằng các hình
thức lệch lạc có thể có những đóng góp ít nhiều cho sự vận hành của
xã hội. Theo Durkheim, sự lệch lạc cũng có tác dụng khẳng định các
giá trị, các chuẩn mực của nền văn hóa. Chúng ta sẽ không có khái
niệm về cái tốt, nếu như chúng ta không có khái niệm về cái xấu
tương ứng. Sự lệch lạc càng củng cố tính cố kết của một nhóm hay
của xã hội nói chung cũng như có chức năng khuyến khích sự thay
đổi, đưa ra những giải pháp thay thế cho những giá trị, những chuẩn
mực, những ứng xử đang tồn tại mà trường hợp phát triển các mốt là
điển hình.
Chúng ta nhận thấy rằng, trong thực tế có những lý tưởng,
những hành vi, những phát minh bị nhà cầm quyền và người đời chế
diễu, ngược đãi hay bị xem là quá khích. Nhưng sau đó những tư
tưởng, phát minh ấy có tác dụng tích cực đối với xã hội. Người ta gọi

147

about:blank 149/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

đây là lệch chiều tích cực, những người có cung cách lệch chiều như
thế này thường là những nhân vật đặc biệt, khác thường, chẳng hạn
như những nhà tiên tri, những nhà hiền triết, những đại văn hào...
Những con người này thường có lý tưởng cao cả, hướng thượng. Cho
nên cần phải có thời gian mới nhận biết được ai là người lệch chiều
một cách tích cực và người quan sát khoa học cần phải có tinh thần
khoan dung và khách quan.
Trở lại với lý thuyết chức năng, Robert Merton cho rằng quá
trình xã hội hóa, con người đã học được đâu là những mục đích đã
được xã hội thừa nhận và đâu là những phương tiện đã được chấp
nhận để thực hiện các mục đích này.
Những ai không chấp nhận những mục đích đã được thừa nhận
hay các phương tiện chính đáng để hoàn thành các mục đích ấy đều có
thể xem như có những hành vi lệch lạc.
- Lý thuyết mâu thuẫn và lệch lạc xã hội: Hai loại hình chính
yếu trong các lý thuyết về mâu thuẫn là lý thuyết xung đột văn hóa và
lý thuyết mác - xít. Lý thuyết xung đột văn hóa đặt trọng tâm nghiên
cứu những phương thức hình thành nên các qui tắc xung đột trong các
hoàn cảnh khuyến khích những hoạt động tội phạm. Nhà xã hội học
Daniel Bell khi phân tích về xã hội học Mỹ, ông nhận thấy có một sự
mâu thuẫn giữa nền đạo đức chính thức của nền văn hoá quần chúng
và nền đạo đức Thanh Giáo. Ông cho rằng, sự áp đặt những giá trị văn
hóa của giai cấp thống trị lên giai cấp bị thống trị và các nhóm thiểu
số khác trong xã hội sẽ tất yếu đưa tới những hành vi lệch lạc. Biểu
hiện của hành vi lệch lạc là sự xung đột về văn hóa và những hành vi
có tính chất tội phạm.
Trái lại, lý thuyết mác- xít xem ảnh hưởng của quyền lực và
xung đột giai cấp là nguyên nhân dẫn đến những hành vi lệch lạc.
Theo họ, giai cấp thống trị, tức là những người nắm quyền lực, thường
gán những hành vi lệch lạc và áp dụng các hình thức trừng phạt cho
tầng lớp bị trị. Ngoài ra, những ai vi phạm đến quyền tư hữu cũng bị
xem là lệch lạc.
Suy cho cùng, lý thuyết mác - xít giải thích sự lệch là do sự bóc
lột kinh tế, bóc lột giá trị thặng dư, dẫn đến mâu thuẫn giai cấp và đưa
đến những hành vi phản kháng, đấu tranh cũng như những biểu hiện
tha hóa. Marx và Engels còn đề cập tới một bộ phận giai cấp vô sản do

148

about:blank 150/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

thất nghiệp, nghèo đói trở thành những tên tội phạm, thường gọi là
"vô sản lưu manh".
Tóm lại, lý thuyết mâu thuẫn tập trung phân tích xã hội tư bản
nhằm giải thích nguyên nhân của sự lệch lạc. Theo họ, xã hội tư bản là
xã hội bất công và thường dẫn đến hiện tượng lệch lạc.
- Lý thuyết tương tác và lệch lạc xã hội: Theo lý thuyết tương
tác, sự lệch lạc xã hội được sản sinh qua một quá trình được gọi là
"dán nhãn" (Labelling), có nghĩa là xã hội gọi một số hành vi nào đó
là lệch lạc. Việc dán nhãn này thường do những tác nhân chính thức
của các định chế có chức năng kiểm soát xã hội, như cảnh sát, tòa án,
các bệnh viện tâm thần hay trường học thực hiện. H. Beekee còn nhận
thấy những bước đầu đi vào con đường lệch lạc rất khác nhau giữa
những cá nhân, nhưng bước đi có tính quyết định nhất là khi cá nhân
đó bị bắt gặp trong hành vi lệch lạc và bị gán nhãn công khai là lệch
lạc. Điều này không thể tránh khỏi, bởi lẽ trong mỗi con người đều ít
nhiều có những biểu hiện lệch lạc, nhưng khi hành vi lệch lạc của ta bị
công khai hóa, tức bị xã hội "dán nhãn" thì chúng ta dễ có khuynh
hướng rơi vào những hành vi lệch lạc kế tiếp để "trả lời" những nhận
xét tiêu cực mà xã hội đã gán cho ta. Những nghiên cứu thực nghiệm
cho thấy, mặc dù những bệnh nhân tâm thần đã lành hẳn nhưng dư
luận xã hội vẫn không xóa đi cái nhãn "tâm thần" ở anh ta. Trái lại
mặc cảm bệnh tật vẫn ăn sâu vào tiềm thức của anh ta, cho dù anh ta ý
thức được điều đó hoàn toàn không hợp lý. Thế nhưng trong thực tế,
hành vi lệch lạc bị "dán nhãn" thì cá nhân ấy suốt đời không có những
biểu hiện lệch lạc nữa, hoặc có rất ít. Vì thế việc "dán nhãn" vừa có
tác dụng tích cực (thường xảy ra đối với những kẻ có địa vị cao), vừa
có tác dụng tiêu cực (thường xảy ra đối với những kẻ bình thường).
7. 2. Kiểm soát xã hội
7.2.1. Khái niệm kiểm soát xã hội và các hình thức kiểm soát xã hội
Kiểm soát xã hội (Social Control) là những đường lối, những chế
tài, những chuẩn mực đã được xã hội thiết lập nhằm khuôn những
hành vi của các cá nhân, các nhóm vào các khuôn mẫu được xã hội
thừa nhận là đúng.
Theo Janovitz, kiểm soát xã hội là khả năng của một nhóm xã hội,
hay của cả xã hội trong việc điều tiết chính mình.
Như vậy, kiểm soát xã hội thực chất là ngăn ngừa những hành vi
lệch lạc cũng như có những biện pháp để trừng phạt nhằm đảm bảo cho

149

about:blank 151/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

xã hội ổn định và phát triển lành mạnh. Mặt khác, quá trình xã hội hóa
cũng tham gia vào việc kiểm soát xã hội. Bởi lẽ, mỗi nền văn hóa đều
hình thành nên những giá trị, những chuẩn mực, những qui tắc ứng xử
nhằm củng cố các định chế xã hội và đồng thời thiết lập nên một hệ
thống kiểm soát xã hội. Thông qua quá trình xã hội hóa, các cá nhân
được hấp thụ cũng như được giáo dục bằng những giá trị và chuẩn mực
của nền văn hóa mình, qua đó anh ta có thể sống tự tin hơn, ít có biểu
hiện lệch lạc hơn.
Với hệ thống giá trị và chuẩn mực thu nhận được các cá nhân có
thể thực hiện sự tự kiểm soát, tức là đối chiếu hành vi của mình với
các giá trị và chuẩn mực đó để điều chỉnh. Bằng cách đó, các cá nhân
có thể thực hiện tốt những mong đợi với các vai trò. Do đó, kiểm soát
xã hội có mặt ở khắp mọi nơi trong đời sống văn hóa xã hội và luôn
luôn tác động đến sự lựa chọn hành vi của các cá nhân và các nhóm.
Vì vậy, dù bất cứ nơi đâu, cá nhân cũng khó có thể tìm thấy sự tự do
suy nghĩ và hành động theo ý muốn.
Với từng mức độ lệch lạc cụ thể, kiểm soát xã hội sẽ dùng các
công cụ khác nhau. Ba công cụ chính của kiểm soát xã hội là: cô lập
hoàn toàn từ sự hạn chế giao tiếp; quản chế sự cải tạo; phục hồi. Ngoài
ra người ta còn phân thành các loại kiểm soát xã hội tùy theo mục tiêu
và lợi ích của việc nghiên cứu xã hội, thường qui về ba kiểu kiểm soát
chính sau đây:
- Kiểm soát tích cực và tiêu cực.
- Kiểm soát chính thức và không chính thức.
- Kiểm soát tập thể và định chế.
Kiểm soát xã hội không chỉ duy trì sự ổn định và phát triển bền
vững của xã hội mà còn cần phải tạo ra những thay đổi mang tính chất
hợp lý và tích cực. Những thay đổi này tất yếu sẽ phải phù hợp với
những giá trị, chuẩn mực và sự mong đợi của xã hội. Do đó, kiểm soát
xã hội phải có tính linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển. Phải nhận biết
những sai lệch nào gây nguy hiểm và phá vỡ sự ổn định của xã hội,
những sai lệch nào mang tính tích cực tạo ra tiền đề, mầm mống của
sự tiến bộ và phát triển. Vì thế, chúng ta không nên nóng vội trong
việc kiểm soát, ngăn ngừa những hành vi lệch lạc, nhất là đối với
những hành vi mà chúng ta chưa nhận ra tác dụng của chúng.
Kiểm soát xã hội có thể được thực hiện bởi các thiết chế xã hội
như gia đình, tôn giáo, chính trị, kinh tế, giáo dục... Ngoài ra sự kiểm

150

about:blank 152/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

soát xã hội có thể còn được thực hiện ở mọi tổ chức xã hội bình
thường khác như các doanh nghiệp, các trường học... Sự kiểm soát
chính thức thường định hướng đến những văn bản hiến pháp, pháp
luật hoặc dưới pháp luật đã có hiệu lực. Đồng thời trong các cơ cấu
không chính thức, các nhóm sơ cấp, sự điều chỉnh hành vi vào khuôn
phép được thực hiện bởi sự kiểm soát chính thức. Đó là một phản ứng
xã hội không công khai và phổ biến trong các nhóm nhỏ.
Trong số các thiết chế xã hội, thiết chế gia đình có tác dụng hữu
hiệu đối với việc kiểm soát xã hội. Nghiên cứu cho thấy, những gia
đình nào hòa thuận, trẻ em được giáo dục tốt thì ít có những hành vi
lệch lạc xã hội. Do đó, gia đình có vai trò rất lớn trong vấn đề kiểm
soát xã hội. Ở Việt Nam chúng ta trước đây đã xem nhẹ vai trò của gia
đình nên đã gây ra nhiều hậu quả không tốt cho xã hội.
Các xã hội khác nhau trong lịch sử có những phương pháp kiểm
soát xã hội khác nhau. Đối với các xã hội cổ truyền, việc kiểm soát
các hành vi lệch lạc được giao cho gia đình và công xã. Ở Việt Nam ta
thời phong kiến, những hành vi lệch lạc được điều chỉnh trong phạm
vi gia đình, gia tộc, nếu không có kết quả thì mới đem ra làng xã.
Ngược lại, trong các xã hội hiện đại thường có xu hướng giảm thiểu
khả năng của các định chế được tiêu chuẩn hóa và ít nhiều có tính
cách cưỡng bức. Một trong những định chế nổi bật nhất của sự kiểm
soát xã hội trong các xã hội hiện đại là nhà tù. Chức năng cơ bản của
nhà tù là trừng phạt, ngăn cản và phục hồi. Mục đích cuối cùng của
kiểm soát xã hội cũng như nhà tù là phục thiện các cá nhân. Song có
lúc nhà tù cũng tỏ ra bất lực trong vấn đề đó. Để khắc phục tình trạng
này, ngày nay ở hầu hết các nhà tù đều có chương trình huấn nghiệp
và đem lại kinh nghiệm lao động cho các phạm nhân.
7.2.2. Chính sách xã hội và sự kiểm soát xã hội
Kiểm soát xã hội là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với
mọi xã hội. Không có xã hội nào không có những biểu hiện lệch lạc,
ngay trong bản thân mỗi cá nhân cũng vậy. Nhưng xét một cách tổng
quát, mọi người bình thường đều có ý thức rõ ràng về cái thiện, cái ác,
những gì công bằng và những gì là bất công cần phải khắc phục. Con
người cũng biết được những hành vi nào nên làm, những hành vi nào
nên tránh. Trong mỗi nền văn hóa đều có những chuẩn mực mang tính
phổ quát đối với mọi xã hội và những chuẩn mực này thường ít bị vi
phạm.

151

about:blank 153/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Về phương diện kiểm soát xã hội, chính sách xã hội là vấn đề


chính yếu của đời sống của các tổ chức xã hội, trong đó có mối tương
quan giữa các cá nhân và các đoàn thể trong các hoạt động. Thực tế
cho thấy có thể có sự kiểm soát xã hội riêng biệt nhưng không bao giờ
có chính sách xã hội mà lại không kèm theo các biện pháp kiểm soát
để thúc đẩy và hướng dẫn con người hoạt động tốt hơn, phù hợp với
mục tiêu chung theo sự mong đợi của xã hội.
Chính sách xã hội là một vấn đề khá phức tạp nhưng không có
nghĩa là có chính sách xã hội thì kiểm soát được xã hội. Nhiều khi
chính sách xã hội không những không kiểm soát được xã hội mà còn
làm gia tăng các hành vi lệch lạc. Đó là những chính sách không phù
hợp, không đáp ứng được sự mong đợi của xã hội. Do đó các nhà
hoạch định chính sách xã hội phải đòi hỏi thật sự sáng suốt, phải có tri
thức về pháp luật, đạo đức, quản lý xã hội. Đồng thời chính sách xã
hội phải đảm bảo kết hợp hài hòa lợi ích giữa các cá nhân trong xã
hội, lợi ích giữa nhóm xã hội này với nhóm xã hội khác, giữa giai tầng
này với giai tầng khác...
Không có một chính sách xã hội nào tỏ ra hoàn hảo và vĩnh cửu.
Xã hội luôn luôn vận động và phát triển, nhu cầu của con người ngày
càng cao thì các chính sách xã hội cũng tỏ ra không phù hợp và cần
phải thay đổi để đáp ứng những đòi hỏi của xã hội.
Tóm lại, chính sách xã hội liên quan trực tiếp đến kiểm soát xã
hội. Chính sách xã hội là vấn đề có tính hai mặt đòi hỏi chúng ta phải
thật sự sáng suốt và khách quan, nếu không, tất yếu sẽ ảnh hưởng tiêu
cực đến xã hội.

152

about:blank 154/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP


1. Biến đổi xã hội là gì? Nguyên nhân và xu hướng của sự biến đổi xã
hội?
2. Phát triển xã hội theo cách nhìn của xã hội học? Các yếu tố tác
động đến tiến trình phát triển? Hãy tóm tắt các quan điểm mới về phát
triển xã hội.
3. Lệch lạc xã hội là gì? Nguyên nhân dẫn đến sự lệch lạc xã hội? Liên
hệ với thực tiễn Việt Nam hiên nay.
4. Kiểm soát xã hội là gì? Tại sao phải có cơ chế kiểm sóat xã hội?
Các hình thức thực hiện kiểm soát xã hội?
5. Phân tích những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện kiểm soát
xã hội ở nước ta hiện nay trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và văn
hóa thông qua hoạt động của các thiết chế xã hội.

153

about:blank 155/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chương IV
MỘT SỐ LĨNH VỰC XÃ HỘI HỌC CHUYÊN BIỆT

Mặc dầu ra đời muộn hơn các ngành khoa học khác nhưng xã
hội học đã phát triển hết sức nhanh chóng. Cho đến nay, trên thế giới
đã có hàng chục chuyên ngành xã hội học khác nhau. Có thể kể đến
một số lĩnh vực chuyên ngành như : xã hội học nông thôn, xã hội học
đô thị, xã hội học văn hóa, xã hội học môi trường, xã hội học dân số,
xã hội học chính trị, xã hội học về thông tin đại chúng và dư luận xã
hội, xã hội học gia đình, xã hội học về giới, xã hội học phát triển, xã
hội học tôn giáo, xã hội học về pháp luật và tội phạm, xã hội học về y
tế và sức khỏe cộng đồng, xã hội học kinh tế, xã hội học quản lý, xã
hội học thanh niên, xã hội học lao động, xã hội học người cao tuổi,
v.v…
Sau đây là một số chuyên ngành xã hội học đang phát triển
mạnh ở Việt Nam trong những năm gần đây.

1. XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH


Vai trò của gia đình và mối quan hệ thân tộc có vai trò quan
trọng trong các xã hội và mỗi xã hội có hình thái gia đình riêng không
giống nhau. Tổ chức tốt gia đình, từng gia đình sẽ góp phần căn bản tổ
chức tốt xã hội.
1. 1. Định nghĩa về gia đình
Có rất nhiều định nghĩa, quan niệm về gia đình, đặc biệt là các
nhà hoạt động thực tiễn đưa ra nhiều định nghĩa rất khác nhau. Nhưng
điều cần thiết là phải đưa ra một số định nghĩa về gia đình, một định
nghĩa có thể chấp nhận được, để làm việc, để nghiên cứu. Nếu không
thống nhất trên căn bản một định nghĩa về gia đình thì rất khó làm
việc, gây trở ngại cho việc nghiên cứu. Vì đằng sau định nghĩa gia
đình là cả một loạt vấn đề kéo theo, thể hiện rõ nhất là chính sách xã
hội.
Ví dụ: Vợ, chồng + con cái = gia đình
Vợ, chồng + ông bà + con cái = gia đình
Mẹ + con = gia đình (vì có những người không có chồng mà lại có
con)

154

about:blank 156/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chúng ta có thể bắt đầu bằng quan niệm: Gia đình là đơn vị cơ
bản, tế bào tự nhiên của tổ chức xã hội. Quan niệm quá đơn giản, và
nó chưa nói lên được bản chất, đặc trưng của gia đình.
Một số nhà xã hội học khác lại quan niệm gia đình là một thể
chế, hoặc là một nhóm tâm lý - xã hội nhỏ.
Nhà xã hội học G. Murdock đã định nghĩa một cách tương đối
toàn diện về gia đình: "Gia đình là một nhóm xã hội có đặc trưng là
cùng cư trú, cùng hợp tác và tái sản xuất về mặt kinh tế. Nó gồm
người lớn của hai giới và ít nhất hai người trong số đó có quan hệ tình
dục với nhau mà được pháp luật tán thành và có một hoặc nhiều con
cái, hoặc do họ đẻ ra hoặc là con nuôi”. Dù định nghĩa, quan niệm về
gia đình theo cách này hay cách khác thì phải nêu lên được các nhân
tố tạo nên gia đình.
Trước hết, gia đình được tạo nên là do nhu cầu của xã hội về
việc tái sinh sản và xã hội hóa các thế hệ đang lớn. Mặt khác yếu tố
tạo nên gia đình là do nhu cầu cá nhân muốn được thừa nhận về mặt
xã hội và bảo trợ của xã hội đối với sự kết hôn của họ, nhu cầu làm
cha, làm mẹ của họ.
Nhu cầu xã hội đối với gia đình được đáp ứng bằng cách thể chế
hóa quan hệ hôn nhân - gia đình dưới hình thức chuẩn mực đạo đức,
luật pháp, tôn giáo v.v... và các phương tiện để thực hiện các chuẩn
mực đó.
Nhu cầu cá nhân về gia đình thể hiện qua tình yêu, tình dục.
Tình yêu cha mẹ, con cái cũng như trách nhiệm của cặp vợ chồng, cha
mẹ, con cái đối với nhau và được thỏa mãn trong quá trình chung
sống, giúp đỡ lẫn nhau. Nếu xem xét gia đình trong bối cảnh và nhu
cầu xã hội thì gia đình được coi như là một thể chế xã hội. Khi xem
xét gia đình theo nhu cầu của cá nhân thì coi đó là một nhóm tâm lý -
xã hội nhỏ.
Phân tích và nhìn nhận gia đình theo hai phương diện trên có thể
đưa ra một định nghĩa gia đình như sau: gia đình là một nhóm người
mà các thành viên gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, (hoặc quan hệ nhận con nuôi), vừa nhằm đáp ứng được
những nhu cầu riêng tư của họ, vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội về
tái sản xuất dân cư cả theo nghĩa thể xác lẫn tinh thần.
Định nghĩa này không tách gia đình ra khỏi xã hội, trong sự
quan hệ chặt chẽ giữa gia đình và xã hội.

155

about:blank 157/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Người ta phân loại gia đình theo tiêu chí khác nhau:
+ Gia đình gồm hai thế hệ (bố mẹ - con cái) được gọi là gia đình
hạt nhân.
+ Gia đình gồm 3 thế hệ (Ông bà - cha mẹ - con cái) được gọi
là gia đình mở rộng.
- Nếu dựa trên căn cứ gia đình có đủ cả bố mẹ và con cái thì gọi
đó là gia đình đầy đủ. Còn chỉ có cha (hoặc mẹ) và con cái thì gọi là
gia đình không đầy đủ.
- Nếu căn cứ trên thành phần xã hội (dân tộc, chủng tộc, nghề
nghiệp, giai cấp, tôn giáo...) thì có gia đình thuần nhất và gia đình
không thuần nhất.
- Theo Murdock thì có 2 loại gia đình.
+ Gia đình xuất thân.
+ Gia đình sinh đẻ.
Tóm lại, có rất nhiều tiêu chí để phân loại gia đình và tuỳ theo
mỗi loại tiêu chí khác nhau mà chúng ta có các kiểu loại gia đình
tương ứng.
1.2. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình
1.2.1. Chức năng tái sinh sản
Tức là sinh đẻ con cái, duy trì tính liên tục về mặt sinh học của
xã hội bằng cách sinh ra những thành viên mới và di truyền lại cho
con cái những đặc tính sinh học của mình. Chức năng này của gia đình
thích hợp nhất trong việc tái sinh sản của xã hội. Nhưng nhu cầu tái
sinh sản của xã hội thường chênh lệch với hiện thực sinh đẻ của các
gia đình. Các nước có trình độ phát triển cao thì có mức sinh đẻ thấp
biểu hiện ở tuổi già. Còn các quốc gia đang phát triển thì mức sinh đẻ
cao.
1.2.2. Chức năng điều tiết sinh hoạt tình dục
Chức năng này thường đi liền với chức năng trên. Bởi vì không
điều tiết được tình dục thì tái sinh sản sẽ bị ảnh hưởng.
1. 2.3. Chức năng xã hội hóa
Đối với xã hội học thì xã hội hoá có nghĩa hình thành nhân cách
con người. Khi con người mới sinh ra thì con người mới chỉ có những
tố chất người còn để trở thành con người xã hội thì phải qua một quá
trình giáo dục, tức là phải qua quá trình xã hội hóa.

156

about:blank 158/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Xã hội hóa trong xã hội là quá trình, mà cá thể học tập nền văn
hoá của cộng đồng mà nó là thành viên, hoặc đó là quá trình con
người học tập để biết những gì phải làm và những gì không phải làm.
Học ngôn ngữ, học chuẩn mực về giá trị xã hội, để thích ứng với
những giá trị của xã hội đó.
• Xã hội hóa có hai cấp độ
+ Xã hội hóa sơ cấp: Diễn ra khi cá thể đang còn thơ ấu (từ khi
sinh ra cho đến tuổi thiếu niên). Quá trình xã hội hoá sơ cấp chủ yếu
diễn ra trong gia đình.
+ Xã hội hóa thứ cấp: Là quá trình chịu tác động của xã hội
ngoài gia đình (kể từ khi đến trường học, tham gia đoàn thể, tham gia
hoạt động xã hội). Xã hội hóa gia đình có nhiều lợi thế đối với đứa bé,
vì nó được dựa trên cơ sở tình cảm, hiểu được đặc điểm tâm, sinh lý
của bố mẹ, anh chị nó.
Quá trình xã hội hóa là một quá trình hai chiều: Bố mẹ dạy con
cái, tức là bố mẹ xã hội hóa con cái và con cái xã hội hoá trở lại bố
mẹ, chứ không phải cứ nhất thiết diễn ra một chiều như trước đây có
người vẫn quan niệm bố mẹ xã hội hóa con cái.
1.2.4. Chức năng ổn định nhân cách người lớn
Khái niệm ổn định nhân cách người lớn được dùng đầu tiên với
nhà xã hội học Mỹ Parsons. Theo ông, gia đình có hai chức năng cơ
bản.
+ Xã hội hóa để hình thành nhân cách đạo đức.
+ Ổn định nhân cách người lớn.
Và ông nhấn mạnh đến những người vợ, người chồng trong gia
đình. Trong nhịp độ phát triển của xã hội, rất dễ gây ra hiện tượng
căng thẳng thần kinh (stress) và dẫn đến nổi loạn nhân cách. Gia đình
bằng những quan hệ thân thuộc, tình cảm mật thiết đóng vai trò quan
trọng trong việc ổn định nhân cách người lớn trong gia đình. Khi có
chuyện đau khổ, thì người ta tìm đến người thân trong gia đình mà
trước hết là vợ, chồng, con cái, giúp cho việc giải tỏa stress.
1.2.5. Chức năng ổn định địa vị xã hội
Đứa trẻ sinh ra trong một gia đình nào đó, thì gia đình đó đóng
vai trò quyết định sự ổn định của địa vị xã hội của đứa trẻ đó sau này.
Tức là gia đình quyết định vận đời cho đứa bé và nó góp phần quyết
định địa vị thành đạt về sau của đứa bé. Ví dụ: sinh ra trong một gia

157

about:blank 159/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

đình nghèo, gia đình dân tộc, ở thôn quê thì khác với đứa bé sinh ra
trong một gia đình giàu, có chức vụ trong xã hội, ở thủ đô... Những cái
đó quyết định địa vị xã hội của đứa bé, và quyết định điều kiện thuận
lợi cho địa vị thành đạt của đứa bé sau này khi bước vào xã hội.
1.2.6. Chức năng đảm bảo an ninh về vật chất và tình cảm cho
người già và trẻ em chưa đến tuổi lao động
Nếu là thành viên của gia đình thì những người già cả và trẻ em
được đảm bảo tốt hơn, đặc biệt là về mặt tình cảm. Gần đây nhiều xã
hội rất quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi cho những người già và trẻ
em, nhưng chỉ đảm bảo về điều kiện vật chất, còn về tình cảm thì
không thể tốt hơn như ở trong gia đình (thiếu quan hệ tình cảm gia
đình điều đó cũng gây cho người già và trẻ em những hậu quả không
tốt).
Chức năng kinh tế của gia đình biểu hiện ở ba khía cạnh sau đây:
Gia đình là đơn vị sản xuất.
Gia đình là đơn vị tiêu dùng.
Gia đình là đơn vị tích lũy.
Thực tiễn Việt Nam mấy năm qua đã chứng minh rằng gia đình
là một đơn vị sản xuất (kinh tế gia đình rất quan trọng, một đơn vị
kinh tế rất quan trọng trong điều kiện kinh tế hiện nay). Điều này được
khẳng định mạnh mẽ sau khi Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) ra
đời với việc công nhận hộ gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập, tự
chủ với quyền sử dụng đất lâu dài.
Họ là chủ tư liệu sản xuất của họ, chủ động được kế hoạch sản
xuất, có sự phân công lao động chặt chẽ và làm chủ được việc phân
phối sản phẩm làm ra. Và có điều kiện giáo dục con cái trong hoàn
cảnh thực tiễn lao động.
Trong một số nghề thủ công tinh xảo, thì gia đình là một trường
học và đó là điều kiện cho sự tiếp nối nghề nghiệp thích hợp (và đối
với xã hội thì không mất nghề). Gia đình khắc phục được nỗi lo sợ
trong huy động vốn. Song, gia đình với tư cách là một đơn vị sản xuất
kinh tế có được kéo dài mãi không. Gia đình ngoài việc nó là một đơn
vị sản xuất, nó còn là một đơn vị tiêu dùng.

158

about:blank 160/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

1.3. Khuynh hướng biến đổi chức năng của gia đình trong xã hội
hiện đại
Trong xã hội tiền công nghiệp thì các chức năng của gia đình là
rõ ràng và không có tổ chức nào thay thế được. Nhưng trong xã hội
hậu công nghiệp, khi mà xã hội tham gia và quan tâm đến các dịch vụ
nuôi trẻ, dạy dỗ, chăm sóc người già, trẻ em tốt hơn gia đình...và như
vậy gia đình không còn giữ chức năng như trước nữa, đã có sự biến
đổi mạnh mẽ về cấu trúc và chức năng của gia đình hiện nay. Dưới
đây là một số xu hướng thay đổi chủ yếu:
- Sự thay đổi qui mô, cấu trúc gia đình.
- Sự thay đổi chức năng gia đình.
1. 3.1. Giảm dần chức năng xã hội hóa
Trước đây, gia đình là đơn vị sản xuất, giáo dục gia đình đồng nhất
với giáo dục xã hội. Khi công nghiệp phát triển, việc sản xuất được
chuyển vào nhà máy, chức năng giáo dục được chuyển sang thiết chế
giáo dục. Các thiết chế giáo dục (trường học, các tổ chức xã hội, các
phương tiện thông tin...) càng hoàn thiện thì chức năng xã hội hoá trẻ em
của gia đình càng bị thu hẹp đặc biệt là trong việc chuẩn bị kỹ năng nghề
nghiệp ở mức cao đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất xã hội thì chỉ có các
trường học (đại học, cao đẳng, dạy nghề) mới đảm đương được. Vì vậy
trong công tác xã hội hóa trẻ em phải có sự phối hợp giữa giáo dục gia
đình và xã hội.
1.3.2. Chuyển từ đơn vị sản xuất thành đơn vị tiêu dùng là chủ yếu
- Gia đình trong nền kinh tế nông nghiệp vừa là đơn vị sản xuất
vừa là đơn vị tiêu dùng. Vì vậy, gia đình là một đơn vị kinh tế tự chủ,
chức năng làm kinh tế được coi là tự nhiên. Khi chuyển sang xã hội công
nghiệp.
- Đô thị, gia đình không còn là đơn vị sản xuất tự chủ, mà chỉ còn
chức năng duy nhất là đơn vị tiêu dùng quản lý và tổ chức đời sống vật
chất cho các thành viên.
1. 3.3. Giảm chức năng bảo vệ
Sự phát triển của xã hội công nghiệp - đô thị đi liền với sự tăng
cường các thiết chế xã hội, cũng như các chính sách xã hội của nhà
nước, hoạt động của các tổ chức xã hội nhân đạo v.v... đã san sẻ nhiều
trách nhiệm giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, người tàn tật và
người già, bảo vệ tính mạng và tài sản của các thành viên, mà các

159

about:blank 161/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

trách nhiệm này trước kia do gia đình đảm nhận. Người ta cho rằng
gia đình hiện đại chỉ còn lại chức năng sinh con và chăm sóc các thành
viên về mặt tình cảm, tâm lý.
1.3.4. Nhu cầu quan hệ tình cảm được tăng cường
- Trước đây, chức năng sinh đẻ không tách rời sự thỏa mãn tình
dục, lĩnh vực tình cảm và tình dục bị đẩy xuống thứ yếu so với việc
sinh đẻ. Trong gia đình hiện đại, việc sinh đẻ được điều chỉnh một
cách tự giác với sự trợ giúp của các kỹ thuật sinh sản. Do đó tách ra
khỏi các hoạt động thỏa mãn tình cảm, tình dục.
Mặt khác, trong đời sống công nghiệp - đô thị, do phân công lao
động chuyên sâu, cường độ lao động và tính chất lao động căng thẳng.
Các thành viên trong cộng đồng (nhà máy, cơ quan, xí nghiệp) không
có sự ràng buộc như ở nhóm sơ cấp. Do đó xuất hiện và tăng cường
nhu cầu bức thiết về tình cảm thương yêu, gần gũi, chia sẻ.
Ở nước ta hiện nay, chức năng của gia đình ở cả khu vực nông
thôn và đô thị đang có sự biến đổi do tác động của nền kinh tế thị
trường và công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Quá trình đô thị
hóa không chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế mà còn diễn ra trong lối
sống và cách thức tổ chức cuộc sống của từng gia đình. Một số chức
năng được tăng cường như chức năng kinh tế để thay thế cho vai trò
chủ đạo của hợp tác xã và xí nghiệp quốc doanh trong thời bao cấp.
Tuy nhiên, các chức năng khác như xã hội hóa trẻ em, chăm sóc người
già, người ốm đang được chuyển dần cho các tổ chức xã hội, đặc biệt
là gia đình ở đô thị.
2. XÃ HỘI HỌC KINH TẾ
Xã hội học kinh tế là một chuyên ngành tương đối mới ở Việt
Nam. Nhiều người đã nhận thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của xã hội
học kinh tế. Nghiên cứu xã hội học kinh tế có tác dụng giúp Đảng và
Chính phủ hoạch định những chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn và phù
hợp nhằm thúc đẩy đất nước phát triển ổn định.
2.1. Xã hội học kinh tế là gì?
- Định nghĩa:
Xã hội học kinh tế là bộ môn xã hội học nghiên cứu về các hiện
tượng kinh tế trong đời sống xã hội dựa trên sự nghiên cứu lý luận và
thực nghiệm để tìm ra những qui luật trong hoạt động kinh tế của con
người.

160

about:blank 162/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 163/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 164/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 165/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 166/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 167/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 168/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 169/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 170/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 171/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 172/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 173/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 174/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 175/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 176/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 177/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 178/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 179/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 180/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 181/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Việt Nam chúng ta đang ở trong làn sóng thứ nhất (nông nghiệp
hóa), muốn phát triển lên làn sóng tin học hóa thì phải qua làn sóng
công nghiệp hoá. Cho nên xu hướng phát triển của ta là phát triển theo
hướng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Đảng ta đã vạch ra hai vấn đề của
xu hướng đổi mới nền kinh tế là: sản xuất hàng hoá và dân chủ hoá xã
hội. Do đó yêu cầu cấp thiết là phải tạo ra tiền đề và điều kiện phát
triển cho hai vấn đề này. Muốn vậy phải giải quyết tốt hai vấn đề sau:
- Tư hữu hóa về tư liệu sản xuất.
- Phân công lao động xã hội phát triển.
Trên đây là hai điều kiện lịch sử, tự nhiên của sự phát triển sản
xuất hàng hoá. Ở nước ta, vấn đề tư hữu hoá tư liệu sản xuất đang diễn
ra và được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân lao động. Tuy chưa có
sự đồng đều trong vấn đề tư hữu hoá giữa các vùng, ngành, lĩnh vực
sản xuất, nhưng nó đã và đang tiếp tục diễn ra. Đối với xã hội nông
thôn, vấn đề tư hữu hoá ruộng đất được xem như là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
Vấn đề phân công lao động xã hội ở nông thôn đang diễn ra theo
hướng phi nông nghiệp hoá, tức là kết hợp nông nghiệp với các ngành
nghề khác. Và như vậy cũng tức là phát triển theo hướng gia tăng hộ
đa năng. Nhưng phát triển theo hướng hộ đa năng, đến một lúc nào đó
thì chính nó lại cản trở xu hướng chuyên sâu. Nên khôi phục sản xuất
hàng hoá nhỏ ở nông thôn bằng cách:
- Tư hữu hóa tư liệu sản xuất.
- Phân công lao động xã hội theo hướng phi nông nghiệp để tạo
thành hộ đa năng có tính chất linh hoạt hơn, cơ động hơn trong hoạt
động sản xuất.
Vấn đề dân chủ ở nông thôn nói riêng và khắp vùng ở nước ta
nói chung đang được nghiên cứu thực hiện. Kinh nghiệm xã hội học
nông thôn trên thế giới cho thấy xã hội nông thôn rất nặng về tự trị,
(tức là nông thôn ở đâu cũng mang nặng tính chất tự trị. Nếu đưa luật
lệ, đưa dân chủ vào nông thôn mà không tính đến tính chất tự trị của
các làng xã sẽ rất sai lầm, đặc biệt là ở Việt Nam. Trên thế giới người
ta thường dẫn ra nguyên tắc: thành thị tự do, nông thôn tự quản, chứ
không phải ở đâu cũng đòi tự do, dân chủ như nhau.
Mặt khác, ỷ lại là một tâm lý hằng xuyên lịch sử của nông dân
Việt Nam cho nên hoàn toàn không nên dựa vào ý kiến của nông dân.
Xu hướng phát triển đã quá rõ ràng, vậy khi hỏi ý kiến vẫn có đến

180

about:blank 182/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

30% nông dân vẫn muốn duy trì hợp tác xã. Cho nên chỉ có cách duy
nhất và hợp lý nhất là phải dựa vào một chủ thuyết khoa học có tính
khách quan.
Xu hướng chung của nông dân nước ta, muốn đổi mới mạnh hơn
nữa quá trình sản xuất hàng hoá và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần.
3.2. Phương pháp nghiên cứu xã hội học nông thôn
Xã hội học nông thôn là một bộ phận trong hệ thống tri thức của
ngành xã hội học. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của xã hội học
nông thôn khu trú ở các cộng đồng và nhóm dân cư sống ở vùng nông
thôn, cho nên ngoài các phương pháp nghiên cứu có tính chất chung
của xã hội học, xã hội học nông thôn còn có thể sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu khác mang tính đặc thù của nó. Với sự phát
triển về tư duy lý luận xã hội học nông thôn trên thế giới hiện nay,
quan niệm về phương pháp nghiên cứu xã hội học nông thôn có sự
phát triển và xuất hiện nhiều quan điểm mới. Trên thế giới hiện nay,
khuynh hướng dùng các phương pháp định tính và định lượng trong
nghiên cứu xã hội học nông thôn trở nên phổ biến với các phương
pháp cụ thể như:
- Phỏng vấn cấu trúc
- Phỏng vấn bán cấu trúc
- Phỏng vấn sâu
- Phỏng vấn nhóm
- Thảo luận nhóm tập trung
- Phân tích quỹ thời gian
- Câu chuyện lịch sử
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu xã hội học nông thôn còn có xu
hướng sử dụng các phương pháp liên ngành như sử dụng các phương
pháp và công cụ của nhân chủng học, các phương pháp của ngành
phát triển nông thôn.
Một số kinh nghiệm trong sử dụng các phương pháp nghiên cứu
xã hội học nông thôn Việt Nam:
- P. Gourou cho rằng nên dùng phương pháp thống kê xã hội.
Nhưng F. Houttart lại khuyên nên dùng anket. Còn theo thực tế nghiên
cứu những năm gần đây, các nhà xã hội học cho rằng điều quan trọng
trong nghiên cứu xã hội học nông thôn là chọn mẫu đại diện. Làm sao

181

about:blank 183/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

để mẫu nghiên cứu, đại diện và phản ánh được các cơ cấu: giới tính,
nghề nghiệp, trình độ học vấn, lãnh thổ, tôn giáo, dân tộc...
Vấn đề là làm thế nào để thu được thông tin có hiệu quả trong
quá trình phỏng vấn nông dân Việt Nam.
Nên nhớ rằng, đặc trưng của tư duy người nông dân nước ta là
tư duy nước đôi, không rõ ràng, khi thì thế này, khi thì thế kia, do tính
duy lý không chặt chẽ. Cho nên câu hỏi duy lý (câu hỏi đóng) rất khó
nhận được câu trả lời đúng chính xác. Từ lâu câu hỏi có sẵn phương
án trả lời không thích hợp với người nông dân Việt Nam. Còn nếu chỉ
hoàn toàn câu hỏi mở thì không thể khống chế được, do vậy tốt nhất là
dùng câu hỏi nửa mở nửa đóng và tùy lúc để hỏi câu hỏi mở hoặc câu
hỏi đóng. Giáo sư Tô Duy Hợp cho rằng: tư duy của người Việt Nam
là tư duy "nước đôi" (tức là cả hai) cho nên đường lối phát triển của
Việt Nam là đường trung đạo (đường giữa) và đường lối phát triển
nông thôn Việt Nam cũng là con đường trung đạo.
Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu mang tính truyền
thống của xã hội học là cần thiết nhưng trong xu hướng hiện nay,
nhiều nhà nghiên cứu đã kết hợp các phương pháp ấy với công cụ và
phương pháp của RRA, PRA, CBCRM để tiến trình nghiên cứu nông
thôn và nông dân dễ dàng và đạt hiệu quả hơn.
4. XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ
4.1. Khái niệm đô thị
Về mặt từ vựng danh từ đô thị có hai thành tố cấu thành là thành
phần "đô" và thành phần "thị".
"Đô" được hiểu như là nơi đặc trưng cơ quan hành chính, quân sự,
thành luỹ. ..
"Thị" được hiểu như là một trung tâm mua bán, trao đổi và được
nhiều người lui tới.
Như vậy, đô thị hay thành thị là một trung tâm hành chính, quân
sự, buôn bán, trao đổi và thường có rất đông dân cư ngụ.
Trong xã hội học, đô thị được hiểu như là một chỉnh thể không
gian xã hội biểu hiện sự thống nhất của một kiểu tổ chức xã hội dân
cư, của những điều kiện địa lý tự nhiên và môi trường nhân tạo.
Hiện nay, ở mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới đô thị mọc
lên rất nhanh. Thực tế cho thấy, quốc gia càng đông dân số thì qui mô đô
thị càng lớn, tốc độ phát triển đô thị càng nhanh. Vì vậy, trên thế giới

182

about:blank 184/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hiện nay người ta thường lấy số dân để làm tiêu chí phân loại đô thị.
Theo đó chúng ta có các loại đô thị như sau:
- Đô thị nhỏ: Từ 100 - 500 nghìn dân.
- Đô thị trung bình: Từ 100.000 - 1 triệu dân.
- Đô thị lớn: Từ 1 - 5 triệu dân
- Đô thị cực lớn: Từ 5 triệu dân trở lên.
Rõ ràng, dựa vào tiêu chí dân cư chúng ta sẽ thấy được qui mô và
tốc độ phát triển của đô thị. Dân cư đô thị không chỉ biểu hiện qua tỷ lệ
gia tăng tự nhiên mà còn biểu hiện qua tỷ lệ gia tăng cơ học. Chính sự
gia tăng dân số cơ học đã thúc đẩy qui mô phát triển của đô thị ngày càng
nhanh chóng. Hiện nay, trên thế giới đã có khá nhiều đô thị cực lớn. Tiêu
biểu là Tokyo (19,6 triệu), Seoul (11,8 triệu), Thượng Hải (12,3 triệu),
Bắc Kinh (9,4 triệu), Moscow (9 triệu), Băng Cốc (7 triệu). Rõ ràng, các
con số này không dừng lại ở mức đó mà vẫn tiếp tục gia tăng.
Ngoài tiêu chí số lượng dân cư, trong xã hội còn được dựa vào
tính chất, đặc trưng của đô thị để phân loại chúng, theo đó chúng ta có
các loại đô thị như đô thị công nghiệp hay còn gọi là thành phố công
nghiệp, đô thị thương mại hay thành phố thương mại, đô thị du lịch
hay thành phố du lịch...
Một điểm quần cư nào đó được xác định là một đô thị thì phải
hội đủ những điều kiện sau:
- Số lượng dân cư tập trung trên một khu vực hạn chế với một
mật độ cao.
- Đại bộ phận dân cư tham gia hoạt động trong các lĩnh vực phi
công nghiệp.
- Giữ vai trò chủ đạo về kinh tế - xã hội đối với một vùng nhất
định.
- Có những qui định chặt chẽ về mặt tổ chức, điều hành và quản
lý.
Ở Việt Nam, theo qui định của tổng cục thống kê, một điểm quần
cư được gọi là đô thị khi số dân từ 100.000 dân trở lên, trong đó có ít
nhất 60% dân cư tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực phi nông
nghiệp.

183

about:blank 185/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

4.2. Đặc điểm của đô thị


Đô thị có những đặc điểm riêng và hoàn toàn đối lập với nông
thôn. Khi tìm hiểu đô thị, chúng ta cần nắm rõ những đặc điểm sau:
- Đô thị bao giờ cũng là một trung tâm đầu não của một khu vực
về tất cả mọi mặt kinh tế, văn hoá, khoa học, chính trị, ngoại giao...
Đã là một trung tâm thì đô thị vừa mang yếu tố ảnh hưởng - lan toả,
vừa mang yếu tố thu hút - hấp dẫn.
- Đô thị là một môi trường nhân tạo rất cao. Đô thị càng hiện đại
thì mức độ nhân tạo càng lớn, càng rõ ràng. Tất cả được dự án, tính toán
kỹ lưỡng và khoa học.
- Đô thị là một nơi luôn luôn sôi động, náo nhiệt và tấp nập.
Nhịp sống đô thị diễn ra một cách hối hả và xô bồ.
- Đô thị là một môi trường phức tạp và bất ổn. Điều này mang
lại do tình trạng cư trú đông đúc, hỗn tạp, đa thành phần của cư dân đô
thị.
Ở các nước phương Tây, vấn đề đô thị và việc nghiên cứu xã
hội học đô thị đã được người ta quan tâm từ rất sớm và đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Đô thị là bộ mặt của một quốc gia. Thế
nhưng ở nước ta, ngành xã hội học nói chung, xã hội học đô thị nói
riêng phát triển còn chậm chạp.
4.3. Cơ cấu của đô thị
Trong nghiên cứu xã hội học đô thị thì phải chú ý đến cơ cấu
của đô thị, cơ cấu của đô thị gồm hai thành tố cấu thành.
- Cơ cấu không gian vật chất: gồm hai bộ phận.
+ Cơ cấu qui hoạch kiến trúc: cơ cấu này biểu hiện tính nhân tạo
của đô thị.
+ Cơ cấu sinh thái: cơ cấu này biểu hiện tính tự nhiên của đô thị.
Đặc điểm của cơ cấu qui hoạch, kiến trúc đô thị là việc thiết kế
đô thị thành những khu vực chức năng trong mối quan hệ tồn tại phải
có. Các khu vực chức năng đó phải được liên kết thành một chỉnh thể.
Cơ cấu qui hoạch, kiến trúc đô thị thể hiện tính hoàn chỉnh, khoa học
và hiện đại của một đô thị. Cơ cấu này hoàn toàn mang tính nhân tạo,
do con người sắp đặt theo ý đồ của họ.
Đặc điểm cơ cấu sinh thái của đô thị là chúng bao gồm các hệ
thống, các quá trình tự nhiên và xã hội xen kẽ nhau nhằm để tạo nên
sự hài hoà, cân đối và hợp lý. Giữa hai yếu tố tự nhiên và xã hội của

184

about:blank 186/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

đô thị bao giờ cũng có sự tác động và ảnh hưởng qua lại với nhau. Do
kết quả của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hoá và hiện đại hoá mà
thường diễn ra tình trạng yếu tố xã hội lấn át yếu tố tự nhiên dẫn đến
làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của con
người. Do đó, bất cứ sự phát triển nào ở đô thị đều phải đặt chúng
trong mối quan hệ trực tiếp với tự nhiên.
- Cơ cấu xã hội của đô thị: Cơ cấu xã hội của đô thị khá phức
tạp, bao gồm nhiều tiểu cơ cấu như sau:
+ Cơ cấu nhân khẩu xã hội của đô thị: Cơ cấu này bao gồm toàn
bộ các nhóm xã hội trong dân cư đô thị và mối quan hệ qua lại giữa
các nhóm đó. Ở phương Tây người ta dựa vào cơ cấu nhân khẩu của
đô thị để xây dựng, qui hoạch kiến trúc đô thị, (việc xây nhà ở, các
công trình công cộng...).
+ Cơ cấu kinh tế đô thị: Nhìn vào cơ cấu kinh tế của đô thị
chúng ta thấy đối lập hoàn toàn với cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Hình
thức sở hữu ở đô thị thường là sở hữu quốc doanh và nhà nước. Lực
lượng sản xuất ở đô thị phát triển và đa dạng hơn ở nông thôn, vì vậy
đô thị có năng suất lao động cao hơn. Do đó, đô thị giữ vai trò là "đầu
tàu" của nền kinh tế đất nước.
Ngoài ba yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu kinh tế của đô thị
là công nghiệp, xây dựng và giao thông vận tải thì gần đây yếu tố dịch
vụ đang phát triển mạnh, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và thu
hút một lực lượng lao động đông đảo. Đô thị càng hiện đại thì yếu tố
dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong kết cấu kinh tế của đô thị.
+ Cơ cấu giai cấp xã hội của đô thị: Ở các đô thị phương Tây, cơ
cấu giai cấp hết sức phức tạp. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây,
cơ cấu giai cấp của đô thị gồm có ba thành phần chính là: công nhân,
viên chức và trí thức. Song ở đây không có cơ sở để phân biệt rõ ràng.
Ở Việt Nam ta cũng vậy, do điều kiện tự nhiên và xã hội mà sự phân
hoá giai cấp ở nước ta vẫn diễn ra không thuần thục, ranh giới giữa
các giai cấp rất mờ nhạt, dễ lẫn lộn.
+ Cơ cấu nghề nghiệp của đô thị: Cơ cấu nghề nghiệp của đô thị
có tính chất ổn định và ít biến đổi. Cơ cấu nghề nghiệp của đô thị bao
gồm những người làm những công việc lao động khác nhau.
Cơ cấu nghề nghiệp phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế. Ở đô thị nghề
nghiệp rất phong phú, tính cơ động nghề nghiệp cũng rất cao. Vì thế,
cơ cấu nghề nghiệp ở đô thị cũng khá phức tạp.

185

about:blank 187/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

+ Cơ cấu dân tộc của đô thị: ở nước ta, cơ cấu dân tộc ở đô thị
khá thuần nhất, ngược lại ở một số nước liên bang, cơ cấu dân tộc ở
đô thị khá phức tạp.
Cơ cấu dân tộc của đô thị ít nhiều phụ thuộc vào thành phần dân
tộc, chính sách dân tộc và chính sách nhập cư của một quốc gia.
4.4. Các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học đô thị
Nghiên cứu xã hội học đô thị là việc làm rất phức tạp đòi hỏi
chúng ta không chỉ có tri thức mà còn phải biết chọn hướng nghiên
cứu, tiếp cận hợp lý. Theo một số nhà xã hội học thì chúng ta cần tập
trung vào một số lĩnh vực sau:
- Nghiên cứu cơ cấu xã hội, các vấn đề nảy sinh và sự chuyển
biến xã hội ở đô thị. Chúng ta có thể xem xét hàng loạt mối quan hệ
giữa các lĩnh vực hoạt động cơ bản của đời sống xã hội đô thị.
Nghiên cứu văn hoá lối sống và các vấn đề nảy sinh từ cuộc
sống cộng đồng đô thị. Văn hóa lối sống tức là cách thức ứng xử giữa
các cá nhân trong một môi trường, một hoàn cảnh cụ thể. Đời sống
văn hoá, tâm lý ứng xử của người dân đô thị ít nhiều khác biệt so với
cư dân nông thôn. Nghiên cứu các vấn đề xã hội nảy sinh từ quá trình
di dân, nhập cư ở đô thị cũng như các hình thức quản lý ở đô thị.
Hiện nay, vấn đề tội phạm, các tệ nạn xã hội, người ăn xin, sự
phân tầng xã hội, tình trạng thất nghiệp đang nổi cộm lên ở hầu hết
các đô thị Việt Nam cũng là vấn đề mà xã hội học hết sức quan tâm.
4.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu xã hội học đô thị
- Về mặt lý luận:
Nghiên cứu xã hội học đô thị là một bộ phận trong nghiên cứu
xã hội học tổng thể. Vì vậy những kinh nghiệm tri thức rút ra từ việc
nghiên cứu xã hội học đô thị thì sẽ có tác dụng rất tốt giúp cho chúng
ta nghiên cứu một số chuyên ngành khác. Đồng thời, qua nghiên cứu
xã hội học đô thị, tri thức xã hội học của chúng ta không ngừng được
hoàn thiện.
- Về mặt thực tiễn:
Đô thị là bộ mặt của một quốc gia. Do đó sự phát triển ổn định
hay không ổn định của đô thị sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quốc
gia. Vì vậy việc quan tâm đúng mức đến đô thị là trách nhiệm của
nhiều ngành khoa học, trong đó trước hết phải kể đến xã hội học.
Nghiên cứu xã hội học đô thị sẽ rút ra được những qui luật phát

186

about:blank 188/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

triển của đô thị, từ đó giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo hoạch định
ra những chính sách đúng đắn và hợp lý nhằm thúc đẩy đô thị phát
triển liên tục, ổn định và bền vững.
Nghiên cứu xã hội học đô thị, đặc biệt là những vấn đề như tệ
nạn xã hội, lối sống đô thị sẽ cập nhật được những thay đổi cùng
những thông tin mới lạ xuất hiện trong đời sống xã hội đô thị. Từ đó
giúp cho các nhà lãnh đạo có biện pháp sửa đổi, chấn chỉnh và đối phó
kịp thời.
Qua nghiên cứu xã hội học đô thị còn giúp cho chúng ta dự báo
được một hiện tượng nào đó có khả năng xảy ra hay không xảy ra. Từ
đó chúng ta mới có đủ thời gian và biện pháp kiểm soát hữu hiệu.
4.6. Lối sống đô thị và vấn đề đô thị hóa
- Lối sống đô thị:
Lối sống đô thị biểu hiện sự khác biệt rõ nét nhất, nổi bật nhất
giữa đô thị và nông thôn. Khi nghiên cứu xã hội học đô thị, các nhà xã
hội học rất chú ý đến việc nghiên cứu lối sống đô thị.
Lối sống đô thị được hình thành trên cơ sở điều kiện kinh tế,
điều kiện sống và làm việc, điều kiện hoạt động, nghề nghiệp, điều
kiện tiếp nhận những ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài... và các mối
quan hệ xã hội. Nhìn chung, lối sống đô thị có một số đặc điểm như
sau:
+ Tính cơ động nghề nghiệp - xã hội rất cao. Đây là đặc điểm
được tạo ra từ những điều kiện thuận lợi đô thị. Vì thế, một cá nhân
hay một nhóm xã hội ở đô thị có nhiều khả năng dịch chuyển nghề
nghiệp, nơi ở hơn ở nông thôn.
+ Sinh hoạt gia đình và cá nhân phụ thuộc vào các dịch vụ tiện
nghi công cộng và dịch vụ tư nhân. Bên cạnh đó, sự phụ thuộc và ràng
buộc lẫn nhau giữa các hoạt động trong đời sống đô thị rất cao.
+ Nhu cầu sáng tạo và thưởng thức văn hoá, nhu cầu giáo dục
và chăm sóc y tế ở đô thị khá cao. Người dân đô thị sử dụng thời gian
nhàn rỗi vào nhiều hoạt động phong phú. Vì vậy, cuộc sống vật chất
và tinh thần của cư dân đô thị có phần đa dạng hơn ở nông thôn.
+ Mức độ và khả năng giao tiếp của người dân đô thị rộng hơn,
đa chiều hơn so với người dân ở nông thôn. Hoạt động giao tiếp của
cư dân đô thị chủ yếu dựa trên nhóm sở thích.

187

about:blank 189/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

+ Con người đô thị có tính năng động cao, thích ứng với cơ chế
thị trường. Ít chịu ảnh hưởng, kiểm soát của các định chế trong quan
hệ sơ cấp với tính cộng đồng mạnh.
+ Đô thị là nơi sớm tiếp nhận những yếu tố mới lạ từ bên ngoài,
là nơi diễn ra sự giao thoa giữa các nền văn hoá. Cho nên môi trường
đô thị dễ bị nhiễm lối sống và văn hoá. Điều này vừa mang tính tích
cực vừa mang tính tiêu cực. Bên cạnh tiếp thu những tinh hoa văn hoá
ở bên ngoài để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc, môi trường đô thị
cũng là nơi thường hay diễn ra tình trạng lai căng, đánh mất bản sắc
văn hoá và đạo đức truyền thống dân tộc.
+ Người dân đô thị thường cởi mở, lạc quan và có tính thực
dụng hơn người dân nông thôn.
- Vấn đề đô thị hoá:
Đô thị hóa (Urbanization) là quá trình thay đổi hình thức cư trú
của con người với mục đích văn minh hoá các vùng nông thôn nghèo
nàn, lạc hậu nhằm thay đổi bộ mặt của chất lượng sống của các vùng
dân cư trong một miền, một khu vực hay trong một quốc gia. Đô thị
hoá thực chất là quá trình làm mới lại hoặc tổ chức lại môi trường cư
trú của con người theo hướng văn minh và hiện đại, là sự dịch chuyển
dân cư nông thôn vào thành thị. Nghiên cứu về hiện tượng và quá
trình đô thị hóa, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đô thị hóa còn gắn
liền với sự thay đổi các giá trị, chuẩn mực trong văn hóa của các cộng
đồng dân cư, hay nói cách khác là quá trình đô thị hóa văn hóa.
Tùy vào tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia mà quá trình đô thị hoá
diễn ra nhanh chậm khác nhau. Ở khía cạnh nào đó, đô thị hoá biểu
hiện sự tăng tiến trong kinh tế và sự văn minh trong cuộc sống của con
người. Nhìn chung đô thị hoá được biểu hiện qua các phương diện
sau:
+ Qui mô của một đô thị ngày càng mở rộng, phình to ra do sự gia
tăng dân số cơ học mà trực tiếp là cư dân nông thôn chuyển cư vào thành
thị.
+ Tỷ lệ dân cư sống ở đô thị so với cư dân sống trên địa bàn
nông thôn ngày càng tăng lên trong phạm vi một quốc gia, một khu
vực.
+ Số lượng các đô thị ngày càng nhiều, bên cạnh đó còn có cả
một hệ thống những điểm dân cư kiểu đô thị do kết quả của quá trình
công nghiệp hoá (Industrialization).

188

about:blank 190/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

+ Sự phát triển và lan truyền ảnh hưởng của đời sống xã hội đô
thị đến các vùng lân cận cũng là một biểu hiện của đô thị hóa. Các
điểm dân cư sống xung quanh đô thị thường bị ảnh hưởng bởi lối sống
đô thị, tâm lý đô thị, quan hệ kiểu đô thị, kiến trúc đô thị, văn hóa đô
thị... và như thế con người "nhà quê" cũng bị biến thành con người đô
thị.
Nhìn vào bức tranh đô thị hóa của mỗi khu vực, mỗi quốc gia
chúng ta có thể nhìn nhận được tình hình kinh tế - xã hội của khu vực,
quốc gia đó. Đồng thời, khi nghiên cứu quá trình đô thị hóa, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra hai mô hình đô thị hóa như sau:
+ Mô hình đô thị hóa theo chiều rộng: ở mô hình này, các đô thị
thường mở rộng qui mô và xây dựng thêm nhiều đô thị khác. Ở hầu hết
các nước đang phát triển, quá trình đô thị hóa thường diễn ra theo mô
hình này. Mô hình này giúp cho đô thị giải quyết được một số vấn đề khó
khăn, trong đó quan tâm nhất là vấn đề dân số.
+ Mô hình đô thị hóa theo chiều sâu: Đây là mô hình đô thị hoá
điển hình của các nước tư bản phát triển ở châu Âu. Bằng các phương
tiện kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến, các nhà qui hoạch và
thiết kế đô thị đã đem lại cho cư dân đô thị một cuộc sống vô cùng
tiện lợi và thoải mái. Bên cạnh đó, các dịch vụ công cộng không
ngừng được hoàn thiện, đời sống cư dân đô thị không ngừng được
nâng cao. Đồng thời các phương tiện giao thông vận tải và thông tin
liên lạc được phổ biến rộng rãi, nhanh chóng với một chi phí thấp
nhất.
Các nước như Thụy Điển, Thụy Sĩ, Na Uy... đô thị hoá theo mô
hình này nên đã biến quốc gia của họ thành các quốc gia thành thị.
Tóm lại, đô thị hóa là quá trình tất yếu trên con đường phát triển
của mỗi quốc gia. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tính toán kỹ
lưỡng và có đề án qui hoạch chặt chẽ, thận trọng nhằm tránh được những
vấn đề tất yếu xảy ra như việc phá vỡ kết cấu không gian đô thị, phá vỡ
môi trường sinh thái, xây dựng thiếu khoa học sẽ gây hậu quả xấu sau
này trên các phương tiện kinh tế, xã hội, văn hoá...
4.7. Vài nét về tình hình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hoá ở Việt Nam diễn
ra mạnh mẽ và được các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan
hữu quan đề cập rất nhiều. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra

189

about:blank 191/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

nhanh chóng do nhiều nguyên nhân đưa lại, nhưng theo chúng tôi là
do những nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong những năm gần đây
rất nhanh do kết quả của quá trình đổi mới kinh tế theo con đường thị
trường.
+ Đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nước ngoài thường tập
trung vào các vùng đô thị cho nên số lượng nhà máy, xí nghiệp, hệ
thống cơ sở hạ tầng ở đô thị không ngừng được mở rộng, cơi nới.
Cùng với quá trình đó là sự di dân từ vùng nông thôn lên thành thị với
mục đích tìm việc làm ngày càng đông.
+ Các đô thị Việt Nam thường có qui mô nhỏ, thiếu đồng bộ.
Cho nên để cho nền kinh tế đô thị phát triển thuận lợi, giải quyết vấn
đề gia tăng dân số đô thị thì buộc phải đô thị hoá nhanh chóng.
Vấn đề đô thị hóa ở Việt Nam đã và đang đem lại những mặt
tích cực trong việc phát triển kinh tế đất nước, cải thiện cuộc sống dân
cư đô thị, thu hút một lực lượng lao động nhàn rỗi từ nông thôn ra
thành thị làm việc. Thế nhưng bên cạnh đó, vấn đề đô thị hóa ở Việt
Nam cũng đang tồn tại nhiều mặt tiêu cực như việc phá vỡ cảnh quan
môi trường sinh thái, sử dụng đất canh tác của dân vào việc xây dựng
nhà cửa, công trình, việc qui hoạch còn thiếu đồng bộ, nhất là việc
thiết kế xây dựng các công trình phụ như cống thoát nước, đường dây
dẫn điện... dẫn đến lãng phí một số vốn rất lớn của nhà nước, gây
phiền nhiễu đến nhân dân cũng như ảnh hưởng lâu dài đến tình hình
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Rút kinh nghiệm một số nước trong vùng, hy vọng Việt Nam
chúng ta sẽ chọn cho mình một giải pháp đô thị hoá thích hợp, tránh
lặp lại con đường mà các nước khác đã vấp phải.
5. XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC
Ngày nay, giáo dục và đào tạo là mũi nhọn chiến lược của bất
kỳ một quốc gia, lãnh thổ nào. Giáo dục và đào tạo đã đóng góp một
phần rất lớn cho sự thành công kinh tế ở các nước như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore... Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kém phát
triển, song trong mấy năm gần đây, giáo dục và đào tạo ở Việt Nam
cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đi đôi với sự lớn mạnh của
ngành giáo dục, xã hội học giáo dục ở nước ta cũng được hình thành
và từng bước phát triển, cùng với giáo dục (khoa học chuyên nghiên
cứu về hoạt động giảng dạy của giáo viên và hiệu quả tiếp thu của học

190

about:blank 192/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

sinh) giúp cho nhà nước và chính phủ hoạch định các chính sách giáo
dục đúng đắn và hợp lý, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ổn định.
5.1. Khái niệm xã hội học giáo dục
Xã hội học giáo dục là một chuyên ngành xã hội học nghiên cứu
các quy luật của sự hình thành, vận động và biến đổi mối quan hệ giữa
giáo dục với con người và mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội (Lê Ngọc
Hùng, 2006). Hay xã hội học giáo dục là một ngành xã hội học chuyên
biệt nghiên cứu hệ thống giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội gắn
liền với các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội.
Như vậy, xã hội học giáo dục nghiên cứu giáo dục như một thiết
chế xã hội, quan tâm nhiều hơn đến mặt xã hội của giáo dục, với tư
cách là phương tiện, môi trường xã hội học cá nhân.
5. 2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học giáo dục
Xã hội học giáo dục nghiên cứu hệ thống giáo dục như một
chỉnh thể xã hội thống nhất, toàn vẹn, bao gồm hai khía cạnh: thứ
nhất, nghiên cứu hệ thống giáo dục như là một thiết chế xã hội; thứ
hai, nghiên cứu mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa giáo dục và
các lĩnh vực khác của xã hội.
- Nghiên cứu giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội:
Cũng giống như mọi thiết chế xã hội khác, thiết chế giáo dục ra
đời, tồn tại và phát triển là nhằm thực hiện những chức năng xã hội
của mình. Những chức năng cơ bản của thiết chế giáo dục là:
+ Truyền thụ và chuyển giao di sản văn hoá, những tri thức,
kinh nghiệm qua các thế hệ. Nhờ có giáo dục mà con người có thể tiếp
thu, học hỏi được những tri thức, văn hoá mà các thế hệ trước đã tích
luỹ. Đồng thời con người, bằng các hoạt động có ý thức của mình,
không ngừng sáng tạo và mở rộng các tri thức ấy. Nhờ đó, các thế hệ
đi sau có thể tiếp thu được những kiến thức tốt hơn, đầy đủ hơn. Chính
vì vậy, thông qua chức năng này, giáo dục đã đảm bảo tính phát triển
liên tục của xã hội, thúc đẩy lịch sử xã hội loài người vận động không
ngừng.
+ Giúp cho con người làm quen dần với các giá trị xã hội: các
giá trị và các chuẩn mực xã hội là những thành tố của văn hoá xã hội.
Thông qua giáo dục, con người có thể làm quen và học hỏi các tri
thức, chuẩn mực xã hội. Nhờ đó giúp cho con người có thể hội nhập
vào xã hội một cách dễ dàng hơn.

191

about:blank 193/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Các giá trị xã hội có tính thống nhất và thông qua giáo dục, các
cá nhân đều chịu sự tác động như nhau. Vì thế, các cá nhân trong xã
hội mau chóng hiểu nhau và dễ dàng đồng cảm với nhau.
+ Chuẩn bị cho các cá nhân tiếp nhận các vai trò xã hội:
Giáo dục có tác dụng chuẩn bị cho các cá nhân tiếp nhận các vai
trò xã hội. Đó là một thực tế mà không ai có thể phủ nhận được. Đồng
thời để đóng các vai trò xã hội được tốt, phù hợp với sự mong đợi của
xã hội thì các cá nhân phải được giáo dục tốt. Vì vậy, giáo dục phải
được xem là yếu tố tối cần thiết cho mọi cá nhân khi đóng các vai trò
xã hội.
+ Kiểm soát và điều chỉnh các hành vi cá nhân cũng như các
quan hệ xã hội:
Giáo dục (bao gồm cả giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường)
có tác dụng rất tốt trong việc kiểm soát và điều chỉnh hành vi của cá
nhân. Như chúng ta đều biết, trẻ em khi chưa đủ tuổi đến trường thì
chúng chịu sự giáo dục, dạy dỗ của gia đình. Khi các em được đi học
thì chịu sự quản lý và giáo dục của nhà trường. Song không phải vì thế
mà vai trò của gia đình mất đi. Thực tế cho thấy một cá nhân luôn
luôn chịu sự giáo dục thường xuyên của gia đình và xã hội nhà trường.
Thiếu một trong hai yếu tố trên là một hẫng hụt rất lớn trong quá trình
xã hội hoá cá nhân.
Một cá nhân được giáo dục tốt, đầy đủ bao giờ cũng ít có những
hành vi lệch chuẩn hơn các cá nhân không được giáo dục đầy đủ, chu
đáo. Vì thế, giáo dục đã tham gia vào quá trình kiểm soát và điều
chỉnh hành vi cá nhân, ngăn ngừa những biểu hiện lệch lạc và qua đó,
kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Nghiên cứu mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa giáo dục
và các lĩnh vực khác của xã hội:
Giáo dục có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo con người
cho xã hội. Do đó, thiết chế giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các
lĩnh vực khác của xã hội, với thực tiễn xã hội. Trong mối quan hệ giữa
giáo dục và xã hội, chúng ta cần thấy rằng: giáo dục không tạo ra xã
hội mà ngược lại, xã hội quyết định tính chất và nội dung của giáo
dục. Chính vì thế, giáo dục bao giờ cũng gắn liền và phục vụ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, luôn thể hiện tính lịch sử, tính giai cấp
trong tiến trình phát triển của nhân loại. Song, mối quan hệ giữa giáo
dục và xã hội không phải là mối quan hệ một chiều, không phải giáo

192

about:blank 194/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

dục bao giờ cũng chịu sự qui định, chi phối của xã hội mà giáo dục,
thông qua việc cung cấp tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm... cho mọi
người, cho các cộng đồng khác nhau, các tổ chức xã hội khác nhau,
qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của chúng. Nhờ đó, giáo dục
góp phần làm biến đổi, phát triển các cơ cấu xã hội. Do đó, giáo dục
tham gia tối đa vào việc kiểm soát xã hội, nhưng xã hội cũng kiểm
soát giáo dục. Không thể có một nền giáo dục tách rời xã hội, với các
quá trình kinh tế - xã hội.
Trong xã hội hiện đại, tính năng động xã hội của các cá nhân
ngày càng lớn. Điều này một phần là nhờ vào sự tác động tích cực và
mạnh mẽ của giáo dục. Do đó, sự phát triển của xã hội, sự thay đổi các
cơ cấu xã hội là kết quả của nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó
phải kể đến giáo dục.
5.3. Một số nội dung nghiên cứu cơ bản của xã hội học giáo dục
- Nghiên cứu vai trò, động lực của giáo dục đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội:
Như tất cả chúng ta đều biết, giáo dục có vai trò và động lực rất
lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Giáo dục cung cấp tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết giúp cho mỗi cá nhân dễ dàng hòa
nhập vào đời sống xã hội. Từ đó con người phát huy khả năng, trí tuệ của
mình trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Các chính sách xã hội có đi được vào lòng người hay không và
thực sự mang lại hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào trình độ vốn
có của khách thể (đối tượng của các chính sách xã hội). Ấy là chưa kể
đến việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, những dây
chuyền sản xuất tinh vi, phức tạp vào trong lĩnh vực sản xuất cũng
như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Thực tế chứng minh rằng,
việc chậm áp dụng và triển khai công nghệ tiên tiến vào nước ta cũng
như một số nước khác là vì ở các nước này không chỉ thiếu vốn mà
còn thiếu cả tri thức khoa học: tức là giáo dục và đào tạo còn lạc hậu
và chậm phát triển.
Chính vì vậy, giáo dục và đào tạo là chìa khoá của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Đương nhiên, giáo dục còn mang ý nghĩa rộng lớn
hơn nhiều so với việc giảng dạy và phổ biến kiến thức, mà phải từ trí
tuệ được phát triển mà đánh thức và phát huy tiềm năng sáng tạo của
con người (nhân tố của sự phát triển). Chính đó là cơ sở để con người
làm chủ được mình, có ý thức đầy đủ về cá nhân, gia đình, xã hội, để

193

about:blank 195/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

một mặt có chuẩn mực và hành vi văn minh, tiến bộ, và mặt khác trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của đất
nước.
Do đó, vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội là hết sức cần thiết. Và hệ quả cuối cùng là muốn thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển thì mục tiêu đầu tiên cần đặt ra là phải phát triển
giáo dục và đào tạo.
- Nghiên cứu các chính sách xã hội về giáo dục và tác động của
các chính sách đó trong thực tiễn:
Chính sách xã hội tác động đến mọi mặt của cuộc sống con
người, bao gồm điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá,
quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... Mọi chính sách
xã hội đều nhằm vào mục tiêu phát huy nhân tố con người, nhân tố
quyết định sự phát triển. Nhân tố con người là gì nếu không muốn nói
đến một thể chất tốt, có tri thức và đạo đức cần thiết. Vì thế, giáo dục
tham gia đắc lực vào việc phát huy nhân tố con người. Muốn vậy phải
tạo ra một chính sách giáo dục đúng đắn và hợp lý.
Ngày nay, hầu hết các nước đều nhận thấy tầm quan trọng của
giáo dục và đã ưu tiên nhiều cho chính sách giáo dục quốc gia.
Là một chính sách xã hội, chính sách giáo dục phải đáp ứng
được những đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn xã hội. Khi hoạch định
chính sách giáo dục, đòi hỏi chúng ta phải hết sức thận trọng, bám sát
những yêu cầu của xã hội, phải cân nhắc đến tiềm năng hiện có của
giáo dục để đáp ứng những nhu cầu đó. Đồng thời chính sách giáo dục
phải được đặt trong mối quan hệ với nền kinh tế đất nước cũng như
với các chính sách xã hội khác.
Giáo dục và kinh tế có mối quan hệ và tác động qua lại với
nhau, cái này quyết định, phụ thuộc vào cái kia và ngược lại. Ảnh
hưởng của giáo dục đến kinh tế là điều tất yếu. Song kinh tế cũng
quyết định sự thành công hay thất bại của chính sách giáo dục.
Không phải như đầu tư cho kinh tế, đầu tư cho giáo dục không
đem lại hiệu quả trước mắt. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương
lai, cho thế hệ sau. Vì thế chính sách giáo dục phải được xem xét cả
một quá trình. Mọi sự chủ quan và nóng vội trong vấn đề này sẽ gây ra
những tác dụng không tốt.
Chính sách giáo dục khi đi vào thực tiễn tất yếu sẽ mang lại mặt
tích cực lẫn mặt tiêu cực. Vấn đề là làm sao hạn chế được mặt tiêu

194

about:blank 196/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

cực, phát huy mặt tích cực. Công việc đó là do các nhà hoạch định
chính sách thực hiện. Bên cạnh đó, những kiến thức rút ra từ việc
nghiên cứu xã hội học giáo dục là cần thiết.
- Nghiên cứu bất bình đẳng trong giáo dục:
Bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng xuất hiện khá sớm và phổ
biến trong các lĩnh vực quan trọng trong xã hội loài người, trong đó có
giáo dục. Vì thế nghiên cứu bất bình đẳng trong giáo dục là công việc
quan trọng của nhà xã hội học.
Cho dù ở mức độ nào, bất bình đẳng trong giáo dục vẫn còn
xuất hiện phổ biến trong mọi xã hội. Dù nói gì thì nói, trong một hệ
thống giáo dục quốc gia, chúng ta vẫn nhận thấy rằng, con cái xuất
thân trong các gia đình giàu có, các gia đình có chức có quyền, các gia
đình ở thành thị vẫn có cơ may và gặp nhiều thuận lợi trong giáo dục
hơn con cái xuất thân từ các gia đình nghèo khó, các gia đình sống ở
nông thôn. Và nữa, trong một quốc gia đa dân tộc thì hệ thống giáo
dục quốc gia sẽ đáp ứng nhu cầu giáo dục cho dân tộc chủ thể tốt hơn
các dân tộc thiểu số, cũng như ở vùng đồng bằng bao giờ cũng tốt hơn
ở vùng núi. Một trong những bất bình đẳng về cơ hội trong giáo dục
xét theo quan điểm giới là sự bất bình đẳng nam - nữ trong việc tham
gia công tác quản lý giáo dục, bất bình đẳng trong cơ hội được đến
trường của trẻ em trai và trẻ em gái, bất bình đẳng trong cơ hội được
đào tạo nâng cao, tái bổ sung kiến thức và kỹ năng khi họ đã trở thành
người lao động. Hơn nữa, người phụ nữ thường mất thời gian cho việc
sinh đẻ và chăm sóc con cái cho nên họ thường rơi vào tình trạng lạc
hậu về kiến thức và kỹ năng và có nguy cơ bị mất việc làm.
Bất bình đẳng trong giáo dục là một hiện tượng phi lý mà cho
đến nay chưa thể xoá bỏ được. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân của hiện tượng "chảy máu chất xám", nhất là ở những quốc gia
mà hiện tượng bất bình đẳng trong giáo dục quá phổ biến.
Khi nghiên cứu bất bình đẳng trong giáo dục, chúng ta phải chỉ
ra được thực trạng của hiện tượng xã hội này. Từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục chúng nhằm thúc đẩy hơn nữa
quá trình xã hội hoá, dân chủ hoá trong giáo dục. Có như vậy thì mới
khơi dậy và huy động các tiềm năng của xã hội, thúc đẩy sự nghiệp
giáo dục đi lên.

195

about:blank 197/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Nghiên cứu giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội thực
hiện chức năng xã hội hóa cá nhân:
Hệ thống giáo dục bao gồm một mạng lưới trường lớp từ thấp
đến cao với các loại hình khác nhau đã thực hiện chức năng quan
trọng là xã hội hoá cá nhân. Ở hầu hết các quốc gia công nghiệp,
thanh thiếu niên đều được giáo dục khá chu đáo. Hành trang vào đời
của họ chủ yếu là vốn kiến thức gặt hái từ trường học.
Giáo dục không chỉ cung cấp cho con người kiến thức mà còn
cung cấp cho họ về lối sống, đạo đức, kỹ năng, tư tưởng, niềm tin...
giúp cho nhân cách của con người được phát triển toàn diện.
Không giống như các xã hội truyền thống, yêu cầu của xã hội hiện
đại lên hệ thống giáo dục rất lớn. Giáo dục phải đáp ứng kịp thời những
đòi hỏi của xã hội.
Một cá nhân muốn tham dự vào nền sản xuất trong các xã hội hiện
đại thì tất yếu cá nhân đó phải có một kiến thức, một kỹ năng cần thiết
nào đó. Những kiến thức, kỹ năng này không thể có được trong một sớm
một chiều mà phải được tích luỹ dần từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp thông qua giáo dục. Như vậy, giáo dục có vai trò rất lớn trong
công việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ khả năng hội nhập vào xã hội hiện đại.
Đây là vấn đề trực tiếp và tiên quyết của giáo dục ngày nay.
Để thực hiện được chức năng này, một mặt giáo dục phải cung
cấp cho thế hệ tương lai tri thức, kỹ năng cần thiết để họ có thể sẵn
sàng thích ứng được với môi trường lao động đó. Mặt khác không
ngừng bồi bổ tình cảm đạo đức cho mọi cá nhân, giúp họ dễ dàng
thích ứng với các chuẩn mực, giá trị xã hội vốn được sản sinh ra từ
nền sản xuất đó.
Như vậy, với tư cách là một thiết chế xã hội, chúng ta phải xem
xét khả năng đáp ứng của giáo dục đối với xã hội như thế nào?
Nhìn chung, chưa có một nền giáo dục nào thoả mãn được đầy
đủ yêu cầu của cá nhân và của xã hội. Song, giáo dục với chức năng
và khả năng của mình đã đáp ứng được phần nào yêu cầu của xã hội.
Thứ nhất, giáo dục cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động có tri
thức, có kỹ năng, có khả năng tham gia vào sự phân công lao động,
vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Thứ hai, giáo dục thực thi quyền
lực của tầng lớp thống trị. Dưới góc độ xã hội học, khi nghiên cứu về
giáo dục, ở chức năng thứ nhất, nhà xã hội học phải trả lời được các
câu hỏi như: Học cái gì? Học như thế nào? Sự phù hợp giữa giáo dục

196

about:blank 198/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

nhà trường với yêu cầu của xã hội? Ở chức năng thứ hai, nhà xã hội
học phải trả lời câu hỏi: rốt cuộc giáo dục phục vụ quyền lợi cho ai?
Nó góp phần thúc đẩy xã hội phát triển như thế nào?
5. 4. Vài nét về tình hình giáo dục ở Việt Nam
- Những thành tựu giáo dục của Việt Nam:
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống giáo dục lâu đời. Ông
cha ta rất coi trọng vấn đề giáo dục. Thời phong kiến, việc học hành,
thi cử khá nghiêm túc và được tổ chức khá đều đặn. Trong quá khứ, đã
có nhiều tấm gương sáng về học tập, người Việt Nam ta thường bảo
với nhau rằng: "Để đất để ruộng không bằng để lại cái chữ cho con".
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, mặc dầu tất
cả tài nguyên, vật lực đều tập trung cho chiến trường, song công tác
giáo dục và đầu tư cho giáo dục của chính phủ ta không bao giờ bị bỏ
ngỏ. Thực tế cho thấy, suốt thời gian kháng chiến, công tác xóa mù
chữ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài vẫn được đẩy mạnh từ Trung
ương cho đến các địa phương và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất (1975), mặc dầu
phải đối phó với muôn vàn khó khăn do hậu quả của chiến tranh để
lại, song công tác giáo dục và đào tạo của nước ta vẫn phát triển liên
tục. Đã hình thành mạng lưới giáo dục cấp cơ sở, hầu như làng nào, xã
nào cũng xây dựng trường học. Nhờ đó, tỷ lệ người mù chữ liên tục
giảm xuống, số người biết đọc, biết viết không ngừng được tăng lên.
Trình độ văn hóa của người dân không ngừng được cải thiện.
Bước vào những năm 80, ngành giáo dục và đào tạo của Việt
Nam đã gặp phải không ít những khó khăn, thách thức. Cuộc khủng
hoảng kinh tế, mà đặc biệt là sự thất bại trong việc cải cách giá lương
tiền của chính phủ làm cho ngành giáo dục và đào tạo thời kỳ này phải
lao đao. Đời sống của giáo viên gặp rất nhiều khó khăn do tiền lương
thấp, giá cả lại đắt đỏ. Vì thế, một bộ phận giáo viên buộc phải bỏ
nghề hoặc xoay xở bằng cách làm thêm nghề phụ. Do đó chất lượng
đào tạo cũng vì thế mà giảm sút. Đồng thời số học sinh cũng bỏ học
ngày càng nhiều.
Từ khi nước ta thực hiện công cuộc cải tổ, đổi mới, thực hiện
dân chủ hóa trong nước và đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế,
cũng như chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì nền giáo dục nước
nhà khởi sắc trở lại. Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề,

197

about:blank 199/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

giáo dục đại học và sau đại học phát triển với qui mô lớn, có đủ khả
năng đào tạo đội ngũ công nhân sản xuất, nhân viên hành chính, kỹ
sư... có trình độ khác nhau, trên hầu hết các lĩnh vực khoa học và công
nghệ mà thế giới hiện có. Một số viện nghiên cứu, trung tâm nghiên
cứu được hình thành.
Trong những năm gần đây, kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc
độ nhanh, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Do đó,
giáo dục ngày càng được chú trọng, ưu tiên và được coi là quốc sách
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và nhà
nước ta.
- Những mâu thuẫn trong nền giáo dục của nước ta hiện nay:
Công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cũng như
sự tác động khách quan của tình hình quốc tế đã đặt nền giáo dục
nước ta đang đứng trước những khó khăn, mâu thuẫn cần phải được
giải quyết.
- Như chúng ta đã biết, trong mấy năm qua, nền kinh tế nước ta
đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Nhưng nhìn chung, khách
quan mà nhận định rằng, nền kinh tế nước ta vẫn còn yếu kém, tích
luỹ nội bộ chưa lớn, đời sống nhân dân tuy có được cải thiện song vẫn
còn thấp, nhất là bộ phận nhân dân sống ở nông thôn và miền núi.
Chính vì vậy đã nảy sinh mâu thuẫn giữa chính sách đầu tư cho giáo
dục còn hạn chế (tuy có tăng) với nhu cầu phát triển của giáo dục,
giữa khả năng khách quan của nền kinh tế và mong muốn chủ quan
muốn phát triển giáo dục nhanh.
- Trong khi số lượng học sinh, sinh viên không ngừng được tăng
lên thì hệ thống trường lớp phát triển còn rất chậm chạp. Do đó, khả
năng đáp ứng của nhà trường còn rất hạn chế so với nhu cầu học tập
của học sinh. Chúng tôi cho rằng đây là thực trạng bi đát nhất của nền
giáo dục nước ta hiện nay. Đã vậy nhiều trường (nhất là các trường đại
học) không ngừng mở rộng qui mô và loại hình đào tạo, không ngừng
gia tăng số lượng sinh viên trong khi cơ sở vật chất của nhà trường
đầu tư còn hạn chế, ngay cả đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng chịu sự
"quá tải" này. Từ đây nảy sinh mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa chất
lượng đào tạo với sự đòi hỏi ngày càng cao về kiến thức của sinh viên.
- Hiện tượng vừa thiếu lại vừa thừa trong số sinh viên đã tốt
nghiệp cũng là một mâu thuẫn lớn của nền giáo dục nước ta hiện nay.
Mâu thuẫn này bắt nguồn từ cơ cấu kinh tế, lao động với cơ cấu giáo

198

about:blank 200/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

dục, giữa chúng không có sự phù hợp, tương ứng. Có mấy nguyên
nhân tạo ra mâu thuẫn này:
Thứ nhất, trong khi dây chuyền sản xuất và quản lý kinh tế ở
nước ta không ngừng được trang bị hiện đại thì việc đổi mới trong
việc giáo dục và đào tạo của nhà trường còn chậm chạp. Vì thế, sinh
viên ra trường không thể hoà nhập với nền sản xuất mới, dẫn đến thất
nghiệp.
Thứ hai, trong khi nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế chưa thật sự
cần thiết thì một số ngành đào tạo đã đào tạo sinh viên, hay gửi sinh
viên ra nước ngoài học tập. Số sinh viên này khi đã tốt nghiệp cũng
gặp không ít khó khăn trong vấn đề việc làm.
- Vấn đề bất bình đẳng trong giáo dục ở nước ta tuy đã giảm đi
ít nhiều so với trước đây, song vẫn còn. Hệ thống giáo dục, nhất là
giáo dục đại học vẫn chưa xoá bỏ và giải quyết triệt để vấn đề này. Số
lượng sinh viên xuất thân từ nông thôn mấy năm qua không ngừng
tăng lên, song điều kiện sống, sinh hoạt và học tập của bộ phận sinh
viên này còn rất khó khăn, dẫn đến chất lượng học tập bị ảnh hưởng.
Đồng thời, số sinh viên này rất khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm
sau khi ra trường. Nhà nước vẫn chưa có một giải pháp nào khả dĩ có
thể xoa dịu vấn đề này.
5.5. Một số hướng giải quyết
- Như đã nói ở phần đầu, cha ông ta có truyền thống hiếu học,
tôn sư trọng đạo, trọng người tài đức. Song tư tưởng tiểu nông vẫn còn
in đậm trong đầu óc của nhân dân ta, kể cả trong bộ phận những người
lãnh đạo. Đó là tâm lý coi trọng lợi ích trước mắt, xem thường lợi ích
lâu dài. Đã có một thời con em nông dân, nông thôn bỏ học. Họ bỏ
học không phải vì khó khăn trong kinh tế (tuy đây là nguyên nhân
hàng đầu), mà vì họ quá ham lợi trước mắt. Đã một thời nước ta bỏ
ngỏ giáo dục, xem thường giáo dục, đầu tư cho giáo dục rất thấp. Đầu
tư cho giáo dục thấp không phải vì không đủ kinh phí (tuy là nguyên
nhân quan trọng), mà cái cơ bản là do nhận thức sai lầm, ấu trĩ, coi
thường giáo dục, xem trọng kinh tế. Các hoạt động kinh tế - văn hóa
thu được kết quả quá thấp mà nguyên nhân suy cho cùng là do thiếu
giáo dục. Vì vậy cần phải thực sự coi giáo dục và quốc sách hàng đầu
để có sự quan tâm đầu tư thích đáng, nhất là trong xu hướng hội nhập.
- Tiến hành và đẩy mạnh công tác giáo dục phổ cập toàn dân.
Song song với việc phổ cập giáo dục, phải thường xuyên tổ chức các

199

about:blank 201/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

kỳ thi học sinh giỏi. Mục đích của các kỳ thi này là phát hiện, tuyển
chọn và đào tạo nhân tài cũng như khuyến khích được tinh thần học
tập, phong trào học tập của học sinh. Đối với những học sinh giỏi, cần
có một chế độ bồi dưỡng, đãi ngộ hợp lý nhằm khơi dậy, kích thích
tinh thần học tập của các em.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả trong giáo dục: Mục tiêu của
giáo dục không chỉ tạo ra những con người có tri thức mà còn biến
những con người có tri thức ấy phục vụ cho xã hội. Do đó, ngoài việc
cung cấp tri thức khoa học cho học sinh, giáo dục còn có chức năng
bồi dưỡng đạo đức, văn hoá cho học sinh. Từ đó mới có thể tạo ra
được một nguồn nhân lực có đầy đủ năng lực và phẩm chất phục vụ
cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, giáo dục phải tự trả lời câu
hỏi là làm được cái gì, đem lại cái gì cho xã hội.
- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo: bao gồm giáo dục chính
qui, không chính qui, giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường. áp
dụng nhiều hình thức trường lớp: quốc dân, dân lập, bán công, tư
thục... Song với loại hình nào, với hình thức nhà trường nào thì phải
thống nhất trong mục tiêu đào tạo. Đó là giáo dục tri thức và đạo đức
cho mọi người, bất kể họ xuất thân từ thành phần dân tộc, giai cấp
đảng phái, tôn giáo nào. Giáo dục phải phục vụ cho xã hội, giáo dục
phải chịu sự quản lý của nhà nước, phục vụ cho mục tiêu của đất
nước.
- Xã hội hoá và dân chủ hoá trong lĩnh vực giáo dục: Thực hiện
công tác xã hội hoá giáo dục là một việc làm có ý nghĩa trong thời
buổi hiện nay. Xã hội hoá giáo dục sẽ góp phần tạo sự chuyển biến
trong nhận thức của người dân, đưa giáo dục của nhà nước đi vào dân
chúng, thúc đẩy phong trào rèn luyện, tìm hiểu và học tập của nhân
dân dưới bất kỳ hình thức nào. Bên cạnh xã hội hoá giáo dục là việc
thực hiện dân chủ hoá giáo dục. Dân chủ hoá giáo dục phải đi liền với
việc thực hiện công bằng, bình đẳng trong giáo dục.

200

about:blank 202/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP


1. Trình bày và phân tích các chức năng xã hội cơ bản của gia đình.
Sự biến đổi chức năng của gia đình Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2. Trình bày và phân tích các ưu điểm, nhược điểm của các mô hình kinh
tế quốc gia.
3. Xã hội học nhận thức thế nào về thất nghiệp, cơ cấu thất nghiệp?
Để giải quyết vấn đề thất nghiệp, người ta đã đề ra các biện pháp gì?
4. Những nội dung căn bản của nghiên cứu xã hội học nông thôn ở Việt
Nam là gì?
5. Trình bày các khuynh hướng chính trong quá trình đô thị hoá trên
thế giới và ở nước ta.
6. Những hạn chế, mâu thuẫn trong nền giáo dục ở nước ta là gì? Hãy
thử đưa ra các giải pháp để giải quyết các mâu thuẫn ấy.

201

about:blank 203/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 204/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 205/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 206/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 207/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 208/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 209/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 210/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 211/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 212/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 213/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 214/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 215/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 216/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 217/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 218/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 219/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 220/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 221/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

about:blank 222/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

chéo thông tin thu được qua những phương pháp khác nhau, những
người nghiên cứu khác nhau và ở các góc độ chuyên môn khác nhau.
9. Phải quan tâm đến tính đa dạng, tính phong phú của thông
tin của nguồn thông tin.
* Ứng dụng của PRA
Các phương pháp của PRA đã được sử dụng trong đánh giá,
phân tích ở rất nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau. Thông
thường PRA có thể được áp dụng để:
- Thu thập thông tin cho chương trình nghiên cứu hoặc phát
triển.
- Phân tích tổng thể một chủ đề, vấn đề cụ thể hoặc các khó
khăn tồn tại.
- Hiểu mối tương tác giữa nguyên nhân và hậu quả của vấn đề.
- Đánh giá nhu cầu của cộng đồng.
- Xác định các vấn đề ưu tiên cần giải quyết.
- Nghiên cứu tính khả thi của một dự án.
- Điều hành và đánh giá dự án nghiên cứu và dự án phát triển.
- Có thể thúc đẩy người dân trong cộng đồng hiểu và tham gia
vào các hoạt động nghiên cứu.
* Các phương pháp và kỹ thuật của PRA
PRA là tổ hợp của nhiều phương pháp và công cụ. Nhưng
trong khuôn khổ cuốn sách này, chúng tôi chỉ giới thiệu một số
phương pháp trong nhiều phương pháp của nó như những ví dụ cho sự
khám phá về PRA mà thôi.
Phương pháp vẽ bản đồ có sự tham gia
Vẽ bản đồ có sự tham gia là phương pháp thu thập thông tin
Phương pháp vẽ bản đồ có sự tham gia lôi cuốn sự tham gia
của cộng đồng. Cộng đồng sẽ phát huy tính sáng tạo và tích cực trong
việc phân tích, nhìn nhận về hình ảnh của cộng đồng mình thông qua
việc xem xét các yếu tố địa lý, các nguồn lực tự nhiên và xã hội mà
cộng đồng hiện có. Phương pháp này sẽ giúp cho các nhà nghiên cứu
có thêm thông tin từ cộng đồng, tạo sức mạnh và niềm tin cho người
dân khi bàn bạc, thảo luận về chính cộng đồng mình.
Vẽ bản đồ có sự tham gia được sử dụng trong các trường
hợp sau đây:

221

about:blank 223/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Xác định giới hạn địa lý


- Các nguồn lực của cộng đồng (phân bố của các dạng tài
nguyên)
- Phân bố dân cư
- Xem xét về phân bố cơ cấu xã hội xã hội ( giàu nghèo, dân
tộc, tôn giáo)
- Hoạt động sinh kế
- Dịch bệnh và tình trạng sức khỏe
Trong kỹ năng vẽ bản đồ có sự tham gia của người dân cần
lưu ý rằng: các nghiên cứu viên cần đóng vai trò xúc tác để người dân
vẽ được những điểm chính về ranh giới địa lý, thực trạng và phân bố
đất đai, nguồn nước, tài nguyên động, thực vật, hệ thống sông suối.
Đồng thời cần thể hiện được những yếu tố xã hội cơ bản trên bản đồ
như vị trí của Ủy ban nhân dân, trường học, bệnh viện, trạm y tế, chợ,
đường sá, nhà thờ, chùa chiền, các cụm dân cư phân theo mức sống
hay dân tộc, tôn giáo, các nhà máy, xí nghiệp, các công trình phúc lợi,
v.v... Việc thể hiện các yếu tố này trên bản đồ nên sử dụng hệ thống
các biểu tượng tượng trưng cho cái mà mình muốn nói. Như vậy sẽ
vừa hợp lý vừa làm cho cộng đồng (đặc biệt là các cộng đồng có trình
độ học vấn thấp) dễ có điều kiện để tham gia.
Các bước tiến hành của phương pháp vẽ bản đồ có sự tham
gia được tiến hành như sau:
- Giới thiệu các thành viên tham gia và mục tiêu của vẽ bản
đồ có sự tham gia.
- Lựa chọn thành viên cộng động tham gia cùng nghiên cứu
viên. Nên lựa chọn những người có am hiểu về tình hình của cộng
đồng và đại diện cho các thành phần xã hội khác nhau trong cộng
đồng. Xác định mục tiêu và hướng dẫn cách vẽ bản đồ cho các thành
viên.
- Chọn địa điểm thích hợp (có thể là một khoảng đất rộng
hay trên sân đủ chỗ cho các thành viên, hoặc sử dụng một tờ giấy khổ
lớn...). Sử dụng gậy, bút, hòn đá, các loại hạt... làm công cụ để vẽ. Có
thể nói đây là bước khởi động rất quan trọng vì nó bị ảnh hưởng rất
nhiều bởi tâm lý của những người tham gia. Nếu như ở những cộng
đồng (có thể là miền núi...) người dân chưa bao giờ làm quen với giấy
bút thì có lẽ việc vẽ bản đồ trên đất sẽ hữu hiệu hơn nhiều.

222

about:blank 224/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Khuyến khích và giúp người dân tham gia vào việc vẽ bản
đồ, nhưng điều quan trọng là chính người dân sẽ tự vẽ.
- Theo dõi và ghi nhận các ý kiến của họ.
- Tạo điều kiện để những người dân tham gia đứng gần, nhìn
rõ và cho ý kiến lẫn nhau.
Tạo điều kiện để tất cả mọi người để mọi người có thể tham
gia một cách bình đẳng (bằng cách chuyền cây gậy, sút từ người này
sang người khác). Luôn luôn đặt câu hỏi “tại sao” để tăng cường sự
thảo luận và chia sẻ kiến thức của người dân.
- Sau khi hoàn thành nên sao chép lại và nhớ để lại bản đồ cho
cộng đồng.
Phương pháp lịch thời vụ
Xây dựng lịch thời vụ là một phương pháp hữu ích đối với
cộng đồng sống ở nông thôn, nơi mà mọi hoạt động sinh kế đều diễn
ra mang dấu ấn của thời vụ. Lịch thời vụ chỉ ra các hoạt động chính
của cộng đồng, các vấn đề thuận lợi khó khăn, các cơ hội cho việc tiến
hành các hoạt động nói chung và hoạt động can thiệp nói riêng trong
các chu kỳ thời gian khác nhau trong năm.
Mặt khác, lịch thời vụ còn có khả năng cung cấp thông tin về
quá trình biến đổi theo chu kỳ tháng, các biểu hiện, biến động khác
nhau có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của con người và hoạt động
cũng như đời sống của cộng đồng.
Phương pháp lịch thời vụ áp dụng trong các trường hợp nhà
nghiên cứu cần thu thập thông tin về các khía cạnh sau đây:
- Thời vụ của các hoạt động sinh kế (sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản, buôn bán, dịch vụ,
chế biến...).
- Lịch thời vụ của phụ nữ và nam giới trong các hoạt động
sản xuất, tái sản xuất và công việc cộng đồng.
- Các mùa dịch bệnh phổ biến đối với người và gia súc
- Lịch thời vụ áp dụng phân tích về an ninh lương thực
Đối với phương pháp lịch thời vụ, nhà nghiên cứu cần phải tiến
hành như sau:
- Xác định mục tiêu của việc sử dụng phương pháp lịch thời
vụ.

223

about:blank 225/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Chuẩn bị về người tham gia (nhóm nghiên cứu có khoảng 2


người: một người điều hành, một người thúc đẩy và trợ giúp cộng
đồng. Thành viên cộng đồng tham gia nên có ít nhất là 6 - 8 người
(nhưng không nên quá đông), họ là những người am hiểu về công việc
của địa phương và đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau trong cộng
đồng).
- Chuẩn bị địa điểm và vật tư (giấy Ao, bút xạ, giấy màu các
loại, kéo và các công cụ sẵn có ở địa phương).
- Thiết kế khung của lịch thời vụ bao gồm một cột thống kê
các hoạt động trong năm và 12 các cột thể hiện 12 tháng trong năm
trên một chiếc bảng hay một tờ giấy lớn.
- Tiến hành thảo luận về các thông tin: tình hình thời tiết các
tháng trong năm, các hoạt động cơ bản diễn ra trong năm, thời gian
bắt đầu và thời gian kết thúc, thời điểm nào các hoạt động diễn ra
mạnh nhất, ai tham gia vào các hoạt động ấy.
- Sử dụng các biểu tượng cắt bằng giấy màu dán lên lịch thời
vụ để ghi nhớ thông tin (ví dụ biểu tượng thời tiết nắng hay mưa).
- Sau khi hoàn thành lịch thời vụ cần phải ghi nhận những
điểm quan trọng như thời điểm diễn ra các hoạt động chủ yếu của
cộng đồng, thời nào cộng đồng bận rộn nhất trong năm, thời gian nào
cộng đồng gặp khó khăn do thiếu việc làm, thiếu thu nhập,v.v...
Phương pháp phân loại giàu nghèo
Phương pháp phân loại giàu nghèo rất cần thiết trong hoạt động
phát triển hoặc nghiên cứu hỗ trợ phát triển. Phương pháp này giúp nhà
nghiên cứu có thể thấy rõ cơ cấu xã hội và sự phân tầng xã hội trong một
cộng đồng. Điều đáng chú ý là người ngoài cộng đồng và trong cộng
đồng đều nhận thức khác nhau, có quan niệm khác nhau về giàu và
nghèo. Không ai hiểu rõ cộng đồng bằng chính người dân tại đó. Ngay
bản thân các nhóm người khác nhau trong cộng đồng (phụ nữ, nam giới,
tôn giáo...) cùng các cách nhìn và tiêu chuẩn đánh giá về giàu nghèo.
Mục tiêu của việc sử dụng phương pháp này là nắm được
thực trạng mức sống của cộng đồng và sự phân bố giàu nghèo trên địa
bàn cộng đồng đang làm ăn sinh sống. Chọn được (hoặc làm cơ sở cho
việc lựa chọn) các đối tượng phù hợp mà hoạt động nghiên cứu và
phát triển cần can thiệp. Đây có thể là điều bắt đầu cho các cuộc thảo
luận về chính các vấn đề tại cộng đồng, tìm các cơ hội, các giải pháp
thích hợp... cho chính cộng đồng đó.

224

about:blank 226/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Để tiến hành phân loại giàu nghèo, cần phải tuân thủ các
bước sau đây:
- Lập danh sách tất cả các hộ trong một cộng đồng và mỗi
tên chủ hộ được viết lên một mảnh giấy.
- Chọn một nhóm (khoảng 5-6 người) gồm phụ nữ, thanh niên,
người già và giáo viên... Những người hiểu và biết những người dân
khác trong cộng đồng.
- Giới thiệu người tham gia và mục tiêu của phân loại giàu
nghèo.
- Cùng bàn bạc để cộng đồng lựa chọn những tiêu chuẩn về
giàu nghèo (luôn đặt câu hỏi tại sao). Vì thực tế có nhiều khi trong
cộng đồng thường có các tiêu chuẩn do các nhà lãnh đạo cộng đồng
xác định chứ không phải do người dân xác định.
- Nhóm đại diện sẽ lần lượt bàn bạc và phân loại dựa theo
tên chủ hộ trên các mảnh giấy (kèm theo là các ý kiến về sự phân loại
đó).
- Ghi chú: Nếu thời gian cho phép, từng thành viên trong
nhóm đại diện sẽ tiến hành công việc hoàn toàn độc lập tránh xảy ra
trường hợp chỉ có một số người đưa ý kiến áp đặt trong nhóm.
- Sau khi đã có danh sách phân loại các hộ trong cộng đồng,
nhóm đại diện sẽ đưa lên bản đồ cộng đồng và tiếp tục thảo luận về
những mối liên quan (ví dụ giữa tình trạng giàu nghèo với sự phân bố
dân cư trong cộng đồng, nguyên nhân...).
- Tiến hành kiểm tra lại thông tin một cách chính thức (có
thể qua các cuộc nói chuyện với những người khác trong cộng đồng,
tại các địa điểm khác như ở chợ, trong làng... vào thời gian khác).
Việc phân loại giàu nghèo có thể dựa trên các tiêu chí phân
loại giàu nghèo của thế giới hay của quốc gia (do Bộ Lao động thương
binh và xã hội qui định và có điều chỉnh qua các thời kỳ). Thông
thường, phân loại giàu nghèo có sự tham gia của người dân để xác
định mức sống ở một cộng đồng cụ thể, tiêu chí giàu nghèo do người
dân trong cộng đồng đưa ra dựa trên đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể
của cộng đồng ở thời điểm hiện tại và do quan niệm của họ như thế
nào được gọi là giàu, khá, trung bình hay nghèo đói.

225

about:blank 227/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Thảo luận nhóm tập trung


Thảo luận nhóm tập trung là phương pháp thu thập thông tin
dựa trên quá trình mạn đàm, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong
một nhóm người có cùng một mối quan tâm chung. Hay thảo luận
nhóm tập trung là cách thảo luận theo một nhóm được lựa chọn với số
lượng từ 4 đến 8 thành viên của cộng đồng thông qua một bản hướng
dẫn chi tiết được soạn ra để thảo luận về một tập hợp các chủ đề cụ thể
(Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, 45, 2000). Đây là phương pháp được sử dụng hết sức rộng rãi
không chỉ trong đánh giá nhanh nông thôn của các chương trình phát
triển mà còn sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu xã hội học hiện nay.
Thảo luận nhóm khác với phỏng vấn nhóm ở chỗ thảo luận
nhóm không dựa trên cơ chế người hỏi và người trả lời. Thông tin thu
được trong thảo luận nhóm không phải là những câu trả lời dựa trên
câu hỏi cho trước và mang tính xác định mà là những ý kiến, quan
điểm của những người tham gia thảo luận đưa ra về vấn đề mà họ
quan tâm.
Mục đích của việc sử dụng phương pháp này là để thu thập
các thông tin định tính về các vấn đề mà các nhà nghiên cứu quan tâm.
Phương pháp này cho phép thu thập các thông tin đi sâu vào bản chất
của vấn đề và tạo ra sự thống nhất cao trong khi có các ý kiến khác
nhau về một nội dung nào đó.
Để tiến hành một cuộc thảo luận nhóm tập trung, nhà nghiên
cứu cần có kỹ năng lập kế hoạch thật tốt. Bản kế hoạch phải thể hiện
được các yếu tố sau đây:
- Xác định mục tiêu của cuộc thảo luận
- Các nội dung hoặc chủ đề cần thảo luận
- Chuẩn bị bản hướng dẫn thảo luận nhóm tập trung. Nếu
trong phỏng vấn cấu trúc với bảng hỏi được chuẩn bị kỹ càng thì công
cụ của thảo luận nhóm tập trung chính là bảng hướng dẫn thảo luận
nhóm. Thực chất bảng hướng dẫn thảo luận nhóm tập trung là những
định hướng tương đối cụ thể, chi tiết về các chủ đề cần thảo luận được
chuyển tải dưới dạng các câu hỏi hướng dẫn. Nhờ bản hướng dẫn này
mà nhà nghiên cứu luôn luôn đi đúng định hướng đã vạch ra.
- Hình thành nhóm nghiên cứu: Nhóm nghiên cứu nên tuyển
chọn các chuyên gia giàu kinh nghiệm về lĩnh vực cần thảo luận. Mỗi
cuộc thảo luận nên có từ 1 đến 3 cán bộ nghiên cứu (1 người chủ tọa

226

about:blank 228/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

điều hành cuộc thảo luận, 1 người thúc đẩy và 1 người ghi chép thông
tin và hỗ trợ máy móc, kỹ thuât).
- Chuẩn bị thành viên tham gia: Mỗi cuộc thảo luận nên có từ
6 đến 8 người. Họ là những người có am hiểu và mạnh dạn. Nếu số
lượng người tham gia quá ít thì xu hướng chung là cuộc thảo luận sẽ
trầm lắng, ít thông tin. Nhưng nếu quá nhiều thành viên tham gia thì
sẽ có khả năng làm cho các cuộc thảo luận rất khó khởi động, một số
người sẽ im lặng do họ e ngại hoặc nghe theo ý kiến của người khác.
Hoặc khi có quá nhiều ý kiến thì nhà nghiên cứu khó có thể bao quát
hết được. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình tư liệu hóa và phân
tích thông tin sau này.
- Địa điểm thảo luận, thời gian và thời lượng cho cuộc thảo
luận: Nên chọn ở các địa điểm ít người qua lại, yên tĩnh, đủ chỗ ngồi và
các điều kiện về ánh sáng và các điều kiện khác. Lựa chọn thời gian thích
hợp để người tham gia có thể tham dự đầy đủ. Thời lượng cho một cuộc
thảo luận nên khoảng từ 60 đến 90 phút.
- Vật tư cho cuộc thảo luận (Giấy Ao, giấy màu, kéo, băng
dính, bút xạ, máy ảnh, máy ghi âm, máy quay phim).
Lập kế hoạch cho cuộc thảo luận có ý nghĩa to lớn đối với
thành công hay thất bại của các cuộc thảo luận. Nhiều cuộc thảo luận
đã bị dang dở bởi việc lập kế hoạch không mang tính khoa học và
không chu đáo.
Tiến trình tổ chức thảo luận cũng là một trong những yêu cầu
cơ bản về kỹ năng của việc sử dụng phương pháp này. Đây là khâu
quan trọng quyết định chất lượng của thông tin thu được. Tiến trình ấy
bao gồm 3 bước:
- Khởi động: Để tạo ra không khí thoải mái, tự nhiên, gần gũi
ngay từ đầu, trong phần khởi động nên để thời gian cho các thành viên
tự giới thiệu về mình (bao hàm cả người thảo luận và nhà nghiên cứu).
Trong phút chốc những ngần ngại sẽ biến mất. Sau đó nhà nghiên cứu
nêu mục tiêu và xác định các chủ đề cần thảo luận. Nếu cần thiết, các
chủ đề thảo luận nên lưu lại trên một tờ giấy khổ lớn để mọi người
tiện theo dõi và không bị chệch hướng.
- Thúc đẩy: Thực chất đây là lúc cuộc thảo luận bước vào
giai đoạn chính thức. Nhà nghiên cứu sẽ khuyến khích các thành viên
tập trung vào chủ đề và đưa ra quan điểm, ý kiến của mình. Chất
lượng của các ý kiến và thông tin thu được phụ thuộc vào khả năng

227

about:blank 229/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

thúc đẩy thảo luận của nhà nghiên cứu. Kỹ năng thúc đẩy liên quan
đến kiến thức của nhà nghiên cứu về vấn đề đang được thảo luận và
kinh nghiệm của họ trong tổ chức thảo luận. Người có kỹ năng thúc
đẩy tốt thường là người có khả năng giao tiếp tốt với người tham gia,
nhạy cảm, biết cách động viên, khuyến khích các thành viên đưa ý
kiến và có nghệ thuật biến vấn đề đang thảo luận trở thành vấn đề thu
hút nhiều người quan tâm tham gia bàn bạc trao đổi. Một số kỹ năng
xử lý tình huống cần thiết của người thúc đẩy như: biết khuyến khích
những người rụt rè, ít nói đưa ý kiến, kiềm chế những người nói quá
nhiều và lúc nào cũng tỏ ra ý kiến của mình là đứng, dẫn dắt hoặc giải
thích vấn đề cho dễ hiểu, tạo ra sự tranh luận bình đẳng, nhắc lại chủ
đề và mục tiêu khi cuộc thảo luận đi chệch hướng, xử lý tình huống
xung đột quan điểm, thúc đẩy thảo luận khi không khí quá trầm hoặc
tiến độ diễn ra chậm hơn dự kiến,v.v... Trong quá trình thúc đẩy, sự
kiên trì, biết lắng nghe và không áp đặt ý kiến, quan điểm của mình
cho người tham gia thảo luận là những yêu cầu bắt buộc đối với nhà
nghiên cứu.
- Kết thúc cuộc thảo luận: Khi cuộc thảo luận đã thu được
nhiều ý kiến thống nhất và các mục tiêu đề ra đã đạt được, nhà nghiên
cứu cần khéo léo kết thúc cuộc thảo luận. Trong phần kết thúc, chủ tọa
điều hành cần tổng kết lại những vấn đề đã được thảo luận, những ý
kiến đã được thống nhất và các ý kiến chưa được thống nhất. Từ đó
đưa ra ý tưởng hoặc kế hoạch cho thời gian tới. Người điều hành nên
cám ơn các thành viên tham gia và sự hỗ trợ của địa phương.
Những thông tin của cuộc thảo luận nên ghi chép đầy đủ,
trung thực. Chú thích ở các từ ngữ địa phương và lưu giữ chúng cho
quá trình tư liệu hóa và phân tích thông tin về sau.
Phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ
Phân tích điểm mạnh điểm yếu cơ hội và nguy cơ hay còn
gọi là phương pháp SWOT (Strengthen, Weakness, Opportunity,
Threat). Đây là phương pháp dùng để xác định những điểm mạnh và
điểm yếu từ bên trong và những cơ hội và nguy cơ hay mối đe dọa từ
bên ngoài tác động đến cộng đồng hay xã hội nào đó. Chúng bao gồm
tất cả các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và kể cả các yếu tố
từ tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình phát triển và các hoạt động của
con người.

228

about:blank 230/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Phương pháp này không chỉ áp dụng cho hoạt động phát triển
mà chúng còn áp dụng cho các nghiên cứu có sự tham gia. Trong
nghiên cứu xã hội học ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cần áp
dụng phương pháp SWOT để thu thập các thông tin khi phân tích các
khía cạnh kinh tế - xã hội nào đó có liên quan đến hoạt động của các
nhóm xã hội khác nhau hoặc sự vận hành của các cơ cấu xã hội dưới tác
động của sự biến đổi xã hội, hay xem xét năng lực của họ trong tiến
trình phát triển.
Mục đích của SWOT là để làm rõ những điểm mạnh, điểm
yếu của một nhóm xã hội hay của cộng đồng, đồng thời chỉ ra những
thuận lợi do cơ hội bên ngoài mang lại hoặc những khó khăn do các
rủi ro hoặc mối đe dọa mang tính khách quan đối với họ. Từ đó có thể
khẳng định khả năng của các nhóm hoặc cộng đồng trong tiến trình
phát triển hoặc những điểm cần phải khắc phục nhằm tạo ra sự đồng
bộ cho tiến trình phát triển.
Để sử dụng phương pháp này, nhà nghiên cứu cần phải
chuẩn bị các công cụ sau đây:
- Xác định mục tiêu của việc phân tích SWOT (phân tích để thu
thập loại thông tin gì? Những thông tin phục vụ cho nội dung nghiên cứu
nào?).
- Xác định đối tượng cần phân tích (nhóm đối tượng nào? Cộng
đồng nào?)
- Xác định các khía cạnh cần phân tích.
- Chuẩn bị thành viên tham gia cùng phân tích với các nhà
nghiên cứu (nên mời từ 8 - 10 thành viên trong nhóm hay cộng đồng,
lựa chọn những người có hiểu biết trong cộng đồng).
- Dự kiến về thời gian và địa điểm thích hợp
- Vật tư cho quá trình phân tích: Vật tư này bao gồm bảng
lớn hoặc giấy Ao, giấy màu các loại, kéo, băng dính, bút xạ, các biểu
tượng được chuẩn bị theo nội dung xác định.
Các bước cụ thể để tiến hành bao gồm:
- Giới thiệu thành viên tham gia
- Giới thiệu mục đích của việc đánh giá
- Hướng dẫn cách phân tích: Xác định các thuật ngữ điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ, làm cho người tham gia thảo luận

229

about:blank 231/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

hiểu rõ để phân tích. Hỏi nguời tham gia để xác định những điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ.
- Ghi thông tin vào các cột tương ứng hoặc dùng giấy màu để
người tham gia xác định và tự gián vào các cột tương ứng.
- Cùng với người tham gia kiểm tra lại thông tin.
- Nếu là nghiên cứu để hỗ trợ phát triển, nhà nghiên cứu nên
hỏi người tham gia cách để phát huy và khắc phục những điểm thuận
lợi và khó khăn trong kế hoạch sắp tới.
- Ghi thông tin dưới dạng ma trận để tiện cho việc lưu giữ và
phân tích thông tin.
Ví dụ về ma trận phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
nguy cơ:

Điểm mạnh: Điểm yếu:

Cơ hội: Nguy cơ/mối đe dọa:

Phương pháp phân tích lịch công việc hàng ngày

Đây là phương pháp gắn liền với phương pháp quan sát.
Nhiều nhà xã hội học coi chúng là một bộ phận của phương pháp quan
sát. Trong PRA, nó được coi là một phương pháp độc lập với các công
cụ và cách thức tiến hành riêng biệt.
Phân tích lịch công việc hàng ngày là một phương pháp thu
thập thông tin về hoạt động của một nhóm xã hội trong thời gian 24
giờ của một ngày do nhóm xã hội ấy tự đánh giá.
Mục đích của phương pháp này là đánh giá được sự phân bố
hay sử dụng thời gian cho các hoạt động khác nhau của các thành viên
trong một nhóm xã hội nào đó. Từ đó, nhà nghiên cứu có thể đánh giá
được sự đóng góp lao động cũng như việc chi phí thời gian cho các
hoạt động khác của các thành viên của nhóm.
Phương pháp này có thể áp dụng trong nghiên cứu hộ, gia
đình hoặc nghiên cứu về vai trò giới trong gia đình hoặc cộng đồng.
Công tác chuẩn bị bao gồm:
- Xác định mục tiêu của việc phân lịch công việc hàng ngày

230

about:blank 232/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Xác định đối tượng cần phân tích (nam, nữ trong hộ, trong
gia đình hay lao động chính của hộ và gia đình)
- Chuẩn bị thành viên tham gia vào quá trình phân tích (nếu
ở cấp hộ/gia đình thì những đối tượng xác định ở trên sẽ tham gia.
Nếu ở cấp độ cộng đồng thì nên mời đại diện của cộng đồng từ 6 đến
8 người tham gia).
- Chọn địa điểm, thời gian thích hợp (nếu phân tích ở cấp
hộ/gia đình thì nên chọn địa điểm ngay tại hộ/gia đình ấy. Nhưng
tránh sự tham gia ý kiến của người không thuộc đối tượng được phân
tích).
- Xây dựng bảng phân tích theo mẫu sau (ví dụ cho việc phân
tích công việc hàng ngày của phụ nữ và nam giới trong hộ):
Thời gian Công việc hàng ngày

Phụ nữ Nam giới Ghi chú


5h30

7h00

11h00

1h30.....

Các thông tin thu được cũng có thể được ghi trong một biểu
đồ hình tròn có 24 ô trống biểu thị cho 24 giờ trong ngày để có thể
điền thông tin.
Các bước tiến hành bao gồm:
- Giới thiệu người tham gia và mục đích của hoạt động phân
tích
- Hướng dẫn cách làm cho các thành viên
- Đặt các câu hỏi, gợi cho các thành viên nhớ lại những việc
họ thường làm trong 24 giờ và xác định khoảng thời gian họ đã thực
hiện (nên bắt đầu từ khi họ thức dậy cho đến lúc họ đi ngủ).

231

about:blank 233/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Đề nghị các thành viên thảo luận và thống nhất về lịch công
việc hàng ngày của họ.
- Trình bày kết quả lên bảng hoặc biểu đồ. Yêu cầu các thành
viên thẩm định lần cuối cùng.
- Yêu cầu các thành viên đưa ra nhận xét (ví dụ: khi nghiên
cứu về công việc hàng ngày của phụ nữ và nam giới bằng phương
pháp này, người tham gia có thể nhận xét về thời gian lao động sản
xuất, thời gian làm công việc nội trợ và thời gian nghỉ ngơi của phụ nữ
và nam giới trong cộng đồng. Từ đó họ có thể có sự so sánh và rút ra
kết luận bổ ích cho nghiên cứu).
- Lưu giữ thông tin cho quá trình phân tích.

3. TỔ CHỨC, THỰC HIỆN ĐIỀU TRA, NGHIÊN CỨU THỰC TẾ


3.1. Các yêu cầu, nguyên tắc khi điều tra
Điều tra xã hội học là một công việc phức tạp đòi hỏi chúng ta
phải chuẩn bị thật chu đáo và đầy đủ. Có như vậy thì quá trình điều tra
mới diễn ra thuận lợi và đạt kết quả cao. Có những cuộc điều tra xã
hội học chuẩn bị hàng mấy tháng, thậm chí cả năm.
Khi điều tra, đòi hỏi điều tra viên phải nắm vững địa bàn điều
tra, nắm vững mục đích, yêu cầu của cuộc điều tra. Đồng thời, người
điều tra nên biết ít nhiều về sinh hoạt kinh tế và lối sống của đối tượng
mà mình tiếp xúc.
Khi điều tra, điều tra viên phải ghi rõ hoàn cảnh, địa điểm và
thời gian điều tra cụ thể, rõ ràng. Thông tin thu được phải ghi chép
thật đầy đủ, tránh sai sót, khi kết thúc buổi tiếp với đối tượng, cần
kiểm tra lại lần cuối bảng ghi chép, ghi âm trước khi chia tay đối
tượng.
Điều tra viên phải tỏ ra lịch sự và thông cảm với đối tượng khi
có điều gì thiếu sót thì phải xin lỗi đối tượng, không nên quá đề cao
mình mà hạ thấp đối tượng. Khi tiếp xúc với đối tượng, tốt nhất là nên
tiếp xúc 1/1 để cho đối tượng khỏi mất tự nhiên và tự do trong việc
trao đổi với điều tra viên.
3.2. Phương án và tổ chức điều tra
Phương án tổ chức điều tra là những công việc, kế hoạch được
sắp đặt trước khi cuộc điều tra diễn ra. Để cho cuộc điều tra được diễn
ra thuận lợi nhà nghiên cứu phải vạch ra phương án tổ chức điều tra.

232

about:blank 234/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Phương án tổ chức điều tra bao gồm công việc đào tạo điều tra
viên, chuẩn bị kinh phí, phương tiện đi lại, ăn ở, dụng cụ điều tra, hình
thức điều tra...
Có những cuộc điều tra tổ chức rất đơn giản nhưng cũng có
những cuộc điều tra tổ chức rất phức tạp, nhất là đối với những cuộc
điều tra có qui mô lớn, thời gian dài. Trong một đoàn điều tra bao giờ
cũng có một người đứng đầu có trách nhiệm chỉ đạo công việc chung.
Những thành viên khác chịu sự hướng dẫn của người đứng đầu.
Đối với những địa bàn rộng, mỗi điều tra viên hoặc có thể mỗi tổ
điều tra (gồm hai điều tra viên trở lên) đảm nhận công việc trong một
đơn vị nhỏ hơn thuộc địa bàn ấy. Như vậy trước khi điều tra, chúng ta
phải tiến hành phân vùng điều tra. Mỗi vùng điều tra là một đơn vị hành
chính cơ sở, ví dụ: làng, xã hay huyện.
Thời điểm tiến hành điều tra phải được chọn trước. Chúng ta
phải chọn thời gian nào cuộc điều tra diễn ra thuận lợi nhất. Đối với
địa bàn đô thị, chúng ta nên chọn vào đợt nghỉ lễ, nghỉ hè, đối với địa
bàn nông thôn, chúng ta chọn lúc nông nhàn, công việc mùa màng đã
xong.
3.3. Một số vấn đề về điều tra viên
- Điều tra viên là những người trực tiếp thực hiện công việc điều
tra. Họ có thể là những cán bộ xã hội học chuyên nghiệp hoặc những
người không chuyên. Đối với những người không chuyên, chúng ta
phải mở một khoá đào tạo ngắn hạn nhằm cung cấp cho họ một số
thao tác và kỹ thuật cần thiết trong khi điều tra cũng như phổ biến mục
đích, ý nghĩa của cuộc điều tra. Trong thời gian đào tạo, chúng ta tiến
hành thực hành thử, chọn ra những người thực sự có khả năng và loại
bỏ những người không có khả năng điều tra.
- Khi điều tra ở vùng nào thì nên chọn điều tra viên ở đó. Ví dụ:
đối với địa bàn nông thôn, thì nên chọn điều tra viên ở nông thôn, nếu
điều tra diễn ra ở thành thị thì chọn điều tra viên ở thành thị. Đồng
thời tuỳ theo chủ đề, đối tượng điều tra mà chọn điều tra viên cho
thích hợp. Ví dụ: đối với chủ đề về tình yêu thì nên chọn những người
trẻ tuổi, vui tính. Ngược lại, khi điều tra ở những cơ quan, công chức
thì nên chọn những điều tra viên lớn tuổi, đứng đắn.
- Điều tra viên phải là những người trung thực, có tinh thần
trách nhiệm, không ngại khó khăn, vất vả và điều quan trọng là phải
đảm bảo tính khoa học trong công việc. Một sai sót nhỏ của điều tra

233

about:blank 235/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

viên cũng có thể ảnh hưởng không tốt đến kết quả điều tra. Trong việc
đào tạo điều tra viên phải làm cho họ có ý thức về nhiệm vụ và công
việc. Để cho việc đào tạo đem lại kết quả tốt, nên tăng cường cho điều
tra viên nghe băng ghi âm các cuộc phỏng vấn và xêmina những cuộc
phỏng vấn. Đây là cách đào tạo thông thường, bên cạnh đó còn có
những cách đào tạo đặc biệt, có những nét đặc thù, mang tính chất địa
phương, cộng đồng, tôn giáo, giới chức...
- Khi tiếp xúc đối tượng, điều tra viên phải cố gắng trấn an đối
tượng, làm cho đối tượng hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra.
Đồng thời phải khuyến khích đối tượng nhiệt tình, thành thật trong khi
trả lời. Điều tra viên không được ghi thêm hoặc giảm bớt câu trả lời
của đối tượng.
- Có một số trường hợp, vì lý do quá mệt hay vì lý do nào đó,
điều tra viên tự ý ghi vào bảng hỏi mà không trực tiếp hỏi đối tượng.
Đây là thái độ thiếu nghiêm túc của điều tra viên và vô cùng nguy
hiểm đối với khoa học. Điều tra viên cần tránh những vấn đề này.
Trước khi chia tay đối tượng, điều tra viên phải kiểm tra lại
bảng hỏi, thông tin và hành lý. Nếu bảng hỏi còn thiếu thì phải tiếp tục
hỏi cho hết, tránh tình trạng bỏ sót một số câu hỏi.
4. XỬ LÝ THÔNG TIN - PHÂN TÍCH VÀ KHÁI QUÁT HÓA
THÔNG TIN
4.1. Kiểm tra thông tin khi đưa vào xử lý
Trước khi đưa vào xử lý, tất cả các thông tin thu được (trong
phiếu điều tra, bản ghi chép thông tin từ quan sát, phỏng vấn nhóm,
thảo luận nhóm, v.v...) phải được kiểm tra lại. Có mấy bước kiểm tra
thông tin trước khi xử lý như sau:
- Kiểm tra tính đầy đủ của thông tin: Chúng ta xem phiếu nào đã
được trả lời đủ, những phiếu nào chưa trả lời đủ (câu hỏi còn để
trống). Đối với những phiếu chưa trả lời đủ, xem lại lý do của nó tại
sao; quên, hay không trả lời, hay vì người trả lời không hỏi.
- Kiểm tra tính nhất quán của thông tin: Khi có hiện tượng
không nhất quán, thì người điều tra viên phải đánh dấu cho người
phân tích, lý giải. Nếu sự không nhất quán không nằm trong vấn đề
nghiên cứu thì bỏ qua, nếu sự nhất quán nằm trong vấn đề nghiên cứu
thì phải so sánh với cái nhất quán khác để xác định lại.

234

about:blank 236/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

- Kiểm tra tính đồng nhất: Khi nói về đơn vị đo lường thì phải
đồng nhất: bằng bát, bằng long hay bằng cân... Nói tóm lại, phải đồng
nhất đơn vị đo lường.
- Kiểm tra tính chính xác của thông tin hoặc độ lệch của thông
tin.
Sau khi kiểm tra xong, chúng ta bắt đầu phân loại thông tin thành
thông tin định tính và thông tin định lượng. Thông tin định lượng sẽ
dùng chương trình SPSS để xử lý, thông tin định tính sẽ được xử lý
bởi chương trình Ethno hoặc dùng phương pháp truyền thống nếu
lượng thông tin không nhiều.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên công việc
phân tích số liệu không những được chính xác hơn mà còn tiết kiệm
được rất nhiều thời gian, công sức. Tất cả số liệu được phân tích và xử
lý bằng máy vi tính, kết quả đem lại rất nhanh.
3. Viết báo cáo khoa học
Sau khi đã nắm được số liệu, kết quả thì công việc cuối cùng
của nhà nghiên cứu là viết báo cáo khoa học. Nội dung của bản báo
cáo khoa học gồm có ba phần:
- Phần mở đầu: Phần này ghi rõ mục đích, nội dung và phương
pháp nghiên cứu. Yêu cầu phần này phải ghi ngắn gọn, rõ ràng.
- Phần nội dung: Phần này ghi lại toàn bộ nội dung cuộc nghiên
cứu.
- Phần kết luận: Căn cứ vào kết quả thu được, có thể đưa ra một
số giải pháp, hướng giải quyết.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
1. Hãy trình bày các bước trong thiết kế nghiên cứu xã hội học.
2. Hãy trình bày các phương pháp chọn mẫu và cách thức xây dựng
bảng hỏi trong nghiên cứu điều tra xã hội học.
3. Hãy trình bày kỹ thuật quan sát và phương pháp phỏng vấn trong
điều tra nghiên cứu xã hội học.
4. PRA là gì? Các nguyên tắc của PRA và khả năng ứng dụng của nó
trong nghiên cứu xã hội học? Trình bày một số phương pháp và công
cụ của PRA?
5. Khi tiến hành điều tra xã hội học, người điều tra phải lưu ý đến những
vấn đề gì?

235

about:blank 237/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT


1. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn - chủ biên (1996). Nghiên cứu xã hội
học. Nxb Chính trị Quốc gia.
2. Mai Huy Bích (2003). Xã hội học gia đình. Nxb Khoa học xã hội, Hà
nội
3. Tony Bilton, Kenvin Bonett, Philip Jones, Ken Sheard, Michelle
Stanworth và Andrew Webster (Bản dịch 1993). Nhập môn xã hội
học. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4.Bộ giáo dục và Đào tạo (2006). Giáo trình triết học Mác - Lê Nin.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5.Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng - đồng chủ biên (2001). Xã hội học.
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Jonh Drapper (1993). Bài giảng về PRA cho Đơn vị nghiên cứu Sức
khỏe cộng đồng. Tài liệu cho khóa tập huấn về Giới và môi trường
trong phát triển, Hà Nội.
7.Vũ Cao Đàm (1996). Bài giảng phương pháp luận nghiên cứu khoa
học. Hà Nội
.8. Emilie Durkheim. (1993). Các quy tắc của phương pháp xã hội
học. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
.9. Claude Passeron, J. (2002). Lý luận xã hội học. Trịnh Xuân Tùng
tái biên và diễn dịch. Nxb Thế giới, Hà Nội.
10. G. Endruweit và G. Trommsdorff (2002). Từ điển xã hội học. Nxb
Thế giới, Hà Nội.
11. Nguyễn Gia, Nguyễn Văn Anh; Đỗ Đình Hãng - Trần Văn La
(2003). Lịch sử thế giới trung đại. NxB Giáo dục, Hà Nội.
12. Jean GolFin (2003). 50 từ then chốt của xã hội học, Nxb Thanh
niên, Bến Tre.
13. GolFin, J. (2003). 50 từ then chốt của xã hội học. Nxb Thanh niên,
Bến Tre.
14. Giáo trình triết học Mác - Lênin (1999), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
15. Nguyễn Minh Hoà (1993). Xã hội học đại cương. Nxb Tp. Hồ Chí
Minh.
16. Khuất Thu Hồng (1996). Gia đình truyền thống. Một số tư liệu
nghiên cứu xã hội học, Hà Nội.

236

about:blank 238/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

17. Lê Ngọc Hùng (2006). Xã hội học giáo dục. Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
18. Nguyễn Sinh Huy (1997). Xã hội học đại cương. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Warren Kidd, Mark Kirby, John Barter, Tanya Hope, Alison
Kirton, Nick Madry, Paul Manning, Karen Triggs và Francine Koubel
(2005). Những bài giảng về xã hội học. Nxb Thống kế, Hà Nội.
20. Tương Lai (1994). Những nghiên cứu xã hội học về cơ cấu xã hội
và chính sách xã hội. NxB Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Tương Lai (1995). Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội. Sách
tham khảo nội bộ. NxB Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Trịnh Duy Luân (chủ biên), (1996). Tìm hiểu môn xã hội học đô
thị. NxB Khoa học xã hội, Hà Nội
23. Phạm Minh Lăng (2004). Freud và phân tâm học. Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
24. Thanh Lê (2004). Xã hội học, Nxb Khoa học xã hội xã hội, Hà
Nội.
.25. Mác - Ăng ghen tuyển tập (1980). Tập I. NxB Sự thật, Hà Nội.
26. C. Mác và Ph.Ăngghen (1993). Toàn tập, tập 23. NxB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
27. C.Mác và Ph.Ăng ghen (1994). Toàn tập, tập 20, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. C.Mác - Ăng Ghen (1984). Tuyển tập, tập VI. Nxb Sự thật, Hà
Nội.
29. J. Macionis (2004). Xã hội học. Nxb Thống kê, Hà Nội
30. Joachim Matthes (1994). Một số vấn đề lý luận và phương pháp
nghiên cứu con người và xã hội. Chương trình KX 07, Hà Nội.
31. Một số vấn đề về xã hội học và nhân loại học (1995). Nxb Khoa học
xã hội Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Nghĩa (1994). Xã hội học: Khái niệm, khuynh
hướng, vấn đề. Tp. Hồ Chí Minh.
33. Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng (2004). Lịch sử thế giới cận
đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội
34. Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa, Nguyễn Thị Lan Anh (1996).
Xã hội học. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

237

about:blank 239/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

35. Những cơ sở nghiên cứu xã hội học. Viện nghiên cứu xã hội học.
Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (1988). Nxb Tiến bộ Mátcơva
36. Terri L. Orbuch, Bruce J. Cohen (1995). Xã hội học nhập môn
(dịch). NxB Giáo dục.
.37. Joseph H. Fichter (1973). Xã hội học. Trần Văn Đỉnh dịch. Hiện
đại thư xã, Sài Gòn.
38. Vũ Hào Quang (2002). Tư duy xã hội học của Auguste Comte,
Tạp chí Xã hội học số 1, Hà Nội.
39. Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (2001). Phương pháp
nghiên cứu xã hội học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Amartya Sen (2002). Phát triển là quyền tự do. Nxb Thống kê, Hà
Nội.
41. Bùi Đình Thanh (1993). Bài giảng chính sách xã hội - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội.
42. Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Đỗ Nhật Tân (chủ
biên)- (1996). Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn Việt Nam.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
43. Tài liệu xã hội học của Cộng hoà dân chủ Đức (1995). Bản đánh
máy.
.44. Nguyễn Đình Tấn (2005). Xã hội học. NxB Lý luận chính trị, Hà
Nội.
45. Hồ Bá Thâm (2003). Khoa học con người và phát triển nguồn
nhân lực. NxB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
46. Tập bài giảng xã hội học (1998). Hồ Hải Thụy và giáo sư Bùi Đình
Thanh, Hà Nội.
47. Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Quốc gia
Hà Nội dịch và giới thiệu (2000). Các phương pháp tham gia trong
quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng.. NxB Nông nghiệp,
Hà Nội.
48. Ulêđốp A.K. (1980). Những qui luật xã hội học. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
49. Veugelers, J.(2001). Lý thuyết xã hội học, tài liệu tham khảo khóa
đào tạo nhân học - xã hội học, TP. Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Khắc Viện (1994). Từ điển xã hội học. Nxb Thế giới, Hà
Nội.

238

about:blank 240/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

51. Viện xã hội học (1994). Người cao tuổi và an sinh xã hội. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Xã hội học nhập môn (1993). Khoa Đông Nam Á, VDTMR. Tp.
Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
53. Alberto Arce (1997). Sociology of Agricultural Development.
Department of Rural Development Sociology. MAKS and others
MSc. Wageningen University, The Netherlands
54. Alvin L. Bertrand. Basic Sociology. New York, 1967.
55. Comte, A. The positive phisology. 1836 - 1842. New York, 1974.
56. Durkheim, E. The division of labour in society. (1893). New York,
1964.
57. Furfey. H. D. The scope and method sociology. New York, 1965.
58. Introduction to the Participatory Rural Appraisal mothods for
argicultural development (1993). Hand book for students.
59. Joachim Theis and Heather Grady (1987). Training on PRA, SCF-
UK.
60. Macionis, J.J, and Gerber, M.L. (1999). Sociology. Third
Canadian Edittion, Printice Hall Allyn and Bacon Canada, Scarboroug
, Ontario.
61. Mead, G. H. Mind, Self and society (1934), Chicago, 1962.
62. Merton, R. K. Social theory and social structure. New York,
1968.
63. Nicolas S. Timasheff. Siciological theory. Its nature and growth. New
York, 1961.
64. Parsons, T. The structure of social action. New York, 1937.
65. PLA note (1995), Volume32. IDS.
66. Richard T. Schaefer and Edith Smith (2004). Sociology. First
Canadian Edidtion. McGraw -Hill Ryerson.
67. Robert Chamber (1993). Participatory Relaxed and Rapid Appraisal,
IDS.
68. RRA note (1992). Volume 15.IDS.
69. The revolt of the masses. (Authorized translation from the
Spanish), New York, 1967

239

about:blank 241/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

70. Weber, M. The protestant ethies and the spirit of capitalism. (1904
- 1905), New York 1958.
71. Weber, M. Economy and society (1925), Berkeley, 1978.
72.Wilson. L. and William L. Kolb. Siciological analysis. New York,
1949.
73. W.Lawrence Neuman (Copyright 2004). Basics of Social
Research Quanlitative and quantitative approaches, Pearson
Education, Inc. Printed in United States of America.

240

about:blank 242/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Mục lục

Lời nói đầu 3


Chương I. Đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của xã hội học 5
1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học 5
2. Cơ cấu của xã hội học và mối quan hệ giữa xã hội học với các
ngành khoa học khác 7
3. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học 12
Chương II. Lịch sử ra đời và phát triển của xã hội học 17
1. Bối cảnh ra đời của xã hội học 17
2. Sự phát triển tri thức xã hội học 22
3. Các giai đoạn phát triển của xã hội học và một số lý thuyết xã
hội học cơ bản 54
4. Xã hội học Việt Nam và chính sách của Đảng và Nhà nước ta
đối với những vấn đề xã hội 58
Chương III. Một số vấn đề cơ bản của xã hội học 61
1. Con người và xã hội 61
2. Cơ cấu xã hội 70
3. Hành động xã hội, tương tác xã hội và quan hệ xã hội 94
4. Văn hóa và xã hội hóa 110
5. Bất bình đẳng, phân tầng xã hội và di động xã hội 126
6. Biến đổi và phát triển xã hội 138
7. Lệch lạc xã hội và kiểm soát xã hội 145
Chương IV. Một số lĩnh vực xã hội học chuyên biệt 154
1. Xã hội học gia đình 154
2. Xã hội học kinh tế 160
3. Xã hội học nông thôn 174
4. Xã hội học đô thị 182
5. Xã hội học giáo dục 190

241

about:blank 243/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

Chương V. Phương pháp nghiên cứu xã hội học 202


1. Thiết kế nghiên cứu 202
2. Các phương pháp thu thập thông tin 210
3. Tổ chức, thực hiện điều tra, nghiên cứu thực tế 232
4. Xử lý thông tin – phân tích khái quát hóa thông tin 234
5. Viết báo cáo khoa học 235
* Tài liệu tham khảo tiếng Việt 236
* Tài liệu tiếng Anh 238

242

about:blank 244/245
10:40 05/10/2023 Giáo Trình Xã Hội Học Đại Cương (NXB Đại Học Huế 2008 ) - Lê Thị Kim …

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC HUẾ


07 Hà Nội, Huế - Điện thoại: 054.834486

Chịu trách nhiệm xuất bản


Giám đốc: Nguyễn Xuân Khoát
Tổng biên tập: Hoàng Đức Khoa

Biên tập nội dung


PGS.TS. Trần Vĩnh Tường
TS. Trần Xuân Bình

Biên tập kỹ - mỹ thuật


Bình Tuyên

Trình bày bìa


Thiện Đức

Chế bản vi tính


Trần Lâm

XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

In 2.000 bản, khổ 16x24, tại Công ty Cổ phần in Thuận Phát, 15 Bà Triệu –
Huế. Số đăng ký KHXB: 41 – 2008/CXB/47 – 26/ĐHH. Quyết định xuất
bản số: 116/QĐ – ĐHH – NXB, cấp ngày 22/01/2008. In xong và nộp lưu
chiểu tháng 2 năm 2008.

243

about:blank 245/245

You might also like