You are on page 1of 8

Nấm rơm là loại thực vật yêu cầu nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng nghiêm ngặt.

Nếu cung cấp đầy đủ yếu tố nó cần thì tơ nấm và quả thể nấm sinh trưởng
phát triển tốt. Nếu không thì ngược lại, thậm chí thất thu.Thời vụ trồng thích
hợp nhất đối với nấm rơm khu vực Miền Trung từ tháng 3 đến tháng 8. Miền
nam có thể trồng quanh năm. Cần nắm được các yêu cầu của nấm qua các
giai đoạn sinh trưởng phát triển. Các yếu tố ảnh hưởng để điều chỉnh cho phù
hợp nhằm nâng cao năng suất nấm. Trồng nấm rơm đơn giản và dễ đối với
mùa vụ thích hợp, với những đợt đầu. Tuy nhiên sau nhiều đợt trồng năng
suất giảm dần thậm chí thất thu. Trồng trái vụ cũng thất thu.
 
Muốn trồng nấm rơm trong nhà đạt hiệu quả cao cần phải hiểu và tạo điều
kiện nhà trồng nấm phù hợp với 15 yếu tố sau đây: Nhiệt độ; độ ẩm; PH; ánh
sáng; Không khí; nguồn nước; nguyên liệu; giống; Địa điểm trồng và điều kiện
nơi trồng; Nhà trồng nấm; Dụng cụ và vật tư trồng nấm; Kỹ thuật trồng; Phòng
trừ sâu bệnh; Thu hoạch; Vệ sinh nhà trồng nấm.
 

 
1. Nhiệt độ
 
Nhiệt độ tối thích cho phát triển của sợi nấm là 300C - 350C và cho sự hình
thành quả thể là 28 - 300C
Từ 10 - 200C Sợi nấm sinh trưởng phát triển yếu, ở 200C: Sau 12 giờ chết
toàn bộ quả thể hình đinh ghim và đình chỉ sinh trưởng quả thể hình cầu.
Nhiệt độ < 150C và > 450C không bao giờ xuất hiện quả thể.
 
2. Độ ẩm (A0)
 
+ Độ ẩm trong mô nấm (Độ ẩm nguyên liệu): Sợi nấm rơm có thể sinh trưởng
trong điều kiện nguyên liệu có độ ẩm từ 40 - 90%. Nhưng tốt nhất là 65 -
70%. Kiểm tra độ ẩm nguyên liệu bằng cách nắm nguyên liệu trong tay vắt
mạnh:
- Nước không chảy ra (độ ẩm quá thấp)
- Nước chảy ra thành dòng (độ ẩm quá cao)
- Nước chảy ra kẻ tay (độ ẩm đạt yêu cầu)
 
+ Độ ẩm tương đối của không khí:
Độ ẩm tương đối của không khí có tác dụng điều hoà sự bốc hơi nước từ mô
nấm và quả thể nấm ra không khí. Đo độ ẩm bằng ẩm kế.
Nếu trong không khí hơi nước bảo hoà (có độ ẩm 100%) thì sự bốc hơi cân
bằng với hơi nước ngưng tụ lại trên mô nấm làm cho mô nấm luôn luôn ẩm
ướt tạo điều kiện tốt cho nấm rơm sinh trưởng và phát triển. 
A0<=60 - 70% gây chết toàn bộ nấm giai đoạn đinh ghim, đình chỉ sự sinh
trưởng của nấm giai đoạn hình cầu. Nếu tiếp tục kéo dài thì gây ra hiện tượng
teo đầu của quả thể.
A0 = 80 - 85%: Gây chết một phần giai đoạn đầu đinh ghim, không ảnh
hưởng đến giai đoạn khác.
A0 = 90 - 100%: Rất tốt với giai đoạn đầu đinh ghim, nhưng có phần nào giảm
phẩm chất ở một số giai đoạn khác. Nếu kèm theo nhiệt độ cao thì nấm sinh
trưởng phát triển nhanh, hàm lượng nước trong nấm nhiều, nở nhanh và dễ
bị nứt trong khi vận chuyển, nấm giai đoạn hình dù dễ bị thối rữa.
 
3.PH: Sử dụng giấy quỳ để đo PH
PH là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thu nhận thức ăn và hoạt
động của các loại men. Sợi nấm rơm sinh trưởng ở PH = 4 - 11. Nhưng thích
hợp nhất đối với nấm rơm là PH = 7 -8
 
4. Ánh sáng
 
Nấm rơm không có diệp lục nên không cần ánh sáng để tổng hợp chất hữu
cơ như thực vật màu xanh. Do đó thời kỳ sinh trưởng của sợi nấm không cần
ánh sáng. Cường độ ánh sáng có thể đình chỉ các quá trình sinh trưởng và
gây chết sợi nấm. Ánh sáng như một yếu tố kích thích sự hình thành và phát
triển của quả thể.
 
Nấm rơm trồng trong tối sẽ không hình thành quả thể mặc dù có đầy đủ các
yếu tố khác. Thường ánh sáng khuyếch tán của mặt trời hoặc đèn điện Neon
(Mỗi ngày chiếu sáng 2 lần, mỗi lần 30 phút đến 1 giờ). Nên bố trí luống nấm
như thế nào để khi chiếu ánh sáng khuyếch tán sao cho ánh sáng đến khắp
mọi nơi của bề mặt mô nấm để nấm xuất hiện đều cùng một lúc.
 
Nếu cường độ ánh sáng quá mạnh (trực tiếp của mặt trời) cũng có thể gây
chết toàn bộ nấm ở giai đoạn đầu đinh ghim (sau 1 giờ), gây chết 10 - 30%
giai đoạn hình cầu. Ánh sáng thừa nếu không đủ gây chết cũng làm cho nấm
xấu đi vì quá đen, bao gốc rất dày, thịt nấm cứng làm giảm chất lượng của
nấm. Nấm có màu xám lông chuột là ánh sáng vừa đủ.
 
5.Không khí
Sự thông khí cần thiết cho quá trình sinh trưởng của sợi nấm và phát triển
của quả thể.Thiếu oxy xảy ra khi độ ẩm nguyên liệu quá cao (mô nấm),
nguyên liệu bị nén quá chặt.
Thiếu oxy (thông thoáng) thường biểu hiện như sau:
Quả thể giai đoạn đầu đinh ghim được hình thành dày đặc nhưng không tiếp
tục sinh trưởng, sau vài ngày toàn bộ quả thể chết và mềm nhũn.
Giai đoạn hình cầu không hình thành hoặc hình thành sắc tố đen rất chậm,
thời gian ở giai đoạn hình cầu rất lâu.
Quả thể nấm rơm bị thấm dịch từ môi trường làm cho bên trong quả thể biến
thành màu nâu (màu của dịch môi trường).
 
6.Nguồn nước
Dùng nước sạch, không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, không dùng nước thải
công nghiệp, nước bẩn ao tù để tưới cho nấm và xử lý nguyên liệu.
Vì rằng, nếu tưới bằng nườc phèn (kể cả rơm rạ ủ ướt bằng nước nhiễm
phèn trước khi đem xếp mô thì tơ nấm vừa nảy nở ít vừa phát triển chậm; có
thể ngừng tăng trưởng và tai nấm cũng bị dị hình, sẽ đem lại sự thất bại lớn.
Còn nếu tưới nước bị nhiễm mặn thì tơ nấm phát triển rất ít, vừa đổi màu vừa
dị hình và cuối cùng không phát triển thành nấm.
Nghệ thuật tưới nước cho mô nấm là dùng bình có vòi bông sen tạo ra những
tia nước nhỏ như mưa, như vậy nước tưới dễ thấm đều vào mô, đồng thời
không làm hại những nụ nấm mới hình thành.
 
7. Nguyên liệu
Rơm rạ, bã mía, lục bình, bẹ chuối khô, đay, bông gòn,... trong trường hợp
mùn cưa đã hoai mục cũng có thể làm nguyên liệu cho trồng nấm rơm. Năng
suất nấm rơm cao nhất hiện nay là trên bông thải (45%), nhưng tiện lợi hơn
dùng rơm rạ, năng suất (14,5%-21,6%).
Yêu cầu rơm, rạ thật khô dòn, sau khi gặt lúa xong phơi khô rơm ngay, đánh
đống bảo quản dùng dần. Nơi dự trữ không bị mưa dột, nếu để ngoài trời thì
nên đánh đống thành cây, hoặc kê cao lên khỏi mặt đất 0,5 – 1m.
Rơm không bị mốc, không nhiễm nấm lạ, không nhiễm phèn, măn. Rơm mới
sau khi phơi khô chất đống một tuần mới được dùng.
Xin lưu ý : Chất lượng rơm rạ không phải vùng nào cũng giống nhau, nhưng
nói chung, ta thấy:
Rơm rạ lúa nếp tốt hơn lúa tẻ.
Rơm rạ lúa ngắn ngày được xếp vào hạng thứ yếu (thiếu mới dùng)
Rơm rạ gặt hái tại ruộng màu mỡ phù sa tốt hơn rơm rạ của ruộng bón phân
hữu cơ. Còn rơm rạ của ruộng bón phân vô cơ lại thua rơm rạ của ruộng bón
phân hữu cơ (phân chuồng).
Rơm rạ ruộng nhiễm phèn tốt hơn rơm rạ ruộng bị nhiễm mặn.
Rơm rạ mục do bỏ ngoài mưa nắng dù sao cũng tốt hơn rơm rạ mục bởi nấm
mốc tấn công.
Rơm rạ mùa trước ( nếu được bảo quản tốt ) vẫn tốt hơn rơm rạ mới gặt.
 
8. Giống nấm (meo giống)
Giống nấm quyết định sự thành, bại trong sản xuất, giống tốt cho năng suất
cao và ngược lại.
Giống tốt: Giống không bị nhiễm bệnh, giống đúng tuổi, không quá già hoặc
quá non, có mùi thơm dễ chịu.
Giống không mốc xanh, mốc đen, giống không có mùi chua.
Túi giống có màu trắng đồng nhất, không loang lỗ, sợi nấm ăn kín đáy, có mùi
đặc trưng của giống nấm rơm. Túi giống phía trên có màu hồng nhạt.Tuổi
giống từ 12 – 16 ngày tuổi (giống ăn kín đáy túi 2 – 3 ngày.) 
Thường từ khi sản xuất đến khi trồng không quá 25 ngày.
 
9. Địa điểm trồng và điều kiện nơi trồng nấm rơm
Dù trồng ít hay nhiều mô nấm, nơi trồng nấm phải là nơi cao ráo, bằng phẳng
và sạch sẽ. Sạch sẽ ở đây có nghĩa là phải xa nơi ao tù nước đọng, nơi bãi
rác dơ bẩn, gần chuồng trại chăn nuôi heo, gà vịt, nơi để hóa chất,... vốn ô
nhiễm và chứa nhiều côn trùng và mầm bệnh, ảnh hưởng xấu đến nơi trồng
nấm sau này.
Trồng nấm rơm chuyên canh trong nhà phải làm 2 nhà để có thời gian xử lý
nguồn bệnh sau vài đợt trồng nấm. Nếu trồng nấm trong nhà liên tục cả năm
mà không xử lý nguồn bệnh thì sẽ bị nhiễm bệnh và năng suất thấp thậm chí
thất thu.
 
10. Nhà trồng nấm: Có 2 loại nhà: nhà ủ sợi và nhà trồng nấm.
 
+ Nhà ủ sợi: Rộng 2,6 m, dài 5 m và cao 2,4m trong nhà có 2 dãy kệ, kệ có
kích thước: 0,6 x 4 x 1,65 (m) có 3 tầng. Có 1 cửa ra vào và 4 cửa thông gió.
Thường 1 nhà ủ sợi dùng cho 5 - 7 nhà trồng nấm. 
+ Nhà trồng nấm: tốt nhất có kích thước 3,3 x 5 x 2,4 (m)
Chọn đất làm nhà phải cao ráo, không ngập lụt, đúng tiêu chuẩn ở mục 9
Tùy theo diện tích, quy mô mà làm nhà lớn hay nhỏ. Trước mắt làm 1 nhà,
sau đó làm thêm một nhà nữa để tiện cho việc xử lý nguồn bệnh và làm luân
phiên nhà này và nhà kia. Bố trí 1 cửa chính và 4 cửa thông gió ở 2 đầu. Tùy
theo điều kiện địa phương có thể xây nhà hoặc làm nhà tạm. Nguyên tắc phải
che kín toàn bộ để giữ ẩm và giữ nhiệt, có ánh sáng khuyếch tán chiếu vào.
Nhà phải có cửa thoát nhiệt ở hai đầu hồi. Chiều cao nhà phải 2 -2,4m.
Mái nhà lợp bằng tranh, lá mía, lá dừa nưóc, tôn,… đều được. Trên mái tùy
theo diện tích, kích thước nhà mà lợp 2 hoặc 4 tấm tôn nhựa để ánh sáng dọi
vào nhà (ánh sáng khuyếch tán). Xung quanh nhà và trần nhà bọc kín bằng
nylon trắng. Xung quanh nhà bên ngoài lớp nylon trắng bọc thêm một lớp bạt.
Trong nhà làm 3 - 4 dãy kệ tùy theo diện tích nhà. Khoảng cách giữa các kệ
50 cm để tiện đi lại chăm sóc thu hái.
 
11. Dụng cụ và vật tư trồng nấm
- Giống nấm (meo giống) Phải đúng tiêu chuẩn ở mục 8.
- Vôi xử lý rơm
- Bể ngâm ủ: Có kích thước: 0,8 x 0,75 x 2m tương đương 1m3
- Kệ ủ rơm
- Nylon ủ rơm.
- Nylon gói rơm. Kích thước tùy theo khuôn gỗ. 
- Bình bơm tưới nấm.
- Nhiệt kế: Đo nhiệt độ
- Ẩm kế: Đo ẩm độ
- Giấy quỳ: Đo PH nước
- Kệ trồng nấm: Tùy theo kích thước nhà trồng nấm.
- Khuôn nấm: 12 x 20 x 27cm
- Nhà trồng nấm có kích thước 3,3 x 5 x 2,4 m
- Rơm: Đúng tiêu chuẩn ở mục 7.
 
12. Kỹ thuật trồng
- Xử lý nguyên liêu (ủ) : Rơm rạ khô, không bị mốc, không còn mùi thuốc trừ
sâu được ngâm trong nước vôi loãng ( 4 kg vôi tôi/m3 nước) cho đủ ẩm, có
màu vàng.
 
Để rơm róc nước, rồi chất đống ủ có kệ lót cách mặt đất 20 cm, có cọc thông
khí ở giữa, xung quanh quây nilon, để hở phía trên, có mái che cao trên nóc
để tránh mưa. Sau 2 – 3 ngày, đống ủ có nhiệt độ 65 – 700 C. Kích thước
đống ủ : Dài 1,5m, rộng 1,5 m, cao 1,5 m. Một đống ủ đảm bảo tối thiểu từ
300 kg rơm rạ trở lên. Nếu lượng rơm nhiều hơn ta kéo dài đống ủ, chiều
cao, chiều rộng giữ nguyên. Xung quanh đống ủ được che nilon để hở chân
và nóc đống ủ.
 
- Đảo rơm: Sau khi ủ rơm 3 ngày, kiểm tra nhiệt độ đống ủ từ 65 – 700 C là
được Giũ tơi rơm, chỉnh độ ẩm, dùng tay vắt chặt rơm, nếu thấy chỉ có nước
chảy nhỏ giọt như huyết thanh là vừa. Nếu nước chảy thành dòng là rơm còn
ướt phải tãi rộng cho bay bớt hơi nước; nếu vắt rơm không có nước là khô,
phải dùng phun bổ sung nước. Ủ tiếp 3 – 4 ngày nữa . Theo dõi nhiệt độ
trong đống ủ lớn hơn 750 C là đạt yêu cầu. Ngày thứ 7 – 8 sau khi ủ đống,
kiểm tra thấy rơm hết mùi khai, mùi chua thì tiến hành đóng mô, cấy giống
 
Đảo xếp rơm vào đống ủ, đảo từ trên xuống dưới, trong ra ngoài cho đều.
Quây nilon như ban đầu.
 
- Đóng mô: Nếu khuôn lớn xếp từng nắm rơm vào khuôn theo kiểu nằm
ngang cao 8 -9cm rồi cấy một lượt giống chạy viền xung quanh mép khuôn từ
3 – 5 cm. Khi trồng xong nhấc khuôn và trồng tiếp mô khác, các mô cách
nhau 20 cm. Khuôn nhỏ thì sau khi nhấc khuôn ra, gói mô nấm trong nilon
trắng và cấy giống ở 2 đầu mô nấm.Tỷ lệ cấy giống 12 – 15 kg giống/1 tấn
nguyên liệu khô.
 
- Giống nấm: Chuẩn bị giống nấm trước khi ủ nguyên liệu, giống 12 – 16 ngày
tuổi.
Sợi giống ăn kín đáy túi, không bị mốc xanh, mốc đen, giống không có mùi
chua.
- Chăm sóc sau khi cấy giống: Sợi nấm rơm phát triển rất nhanh từ khi cấy
giống đến khi có nấm quả thể từ 9 – 13 ngày. Vì vậy, cần chú ý chăm sóc
từng ngày. Từ ngày 1 đến ngày thứ 3: sau khi cấy giống không cần tưới, nếu
trời lạnh dưới 250C phải phủ 1 lớp nilon trên mô nấm để giữ ẩm, giữ nhiệt. Từ
ngày thứ 4 đến ngày thứ 8: Kiểm tra nhiệt độ mô nấm, cắm nhiệt kế trong mô
nấm, nếu thấy có nhiệt độ 35 – 380C là tốt. Tưới ẩm nền xung quanh mô nấm
và sương mù trên cao. Nếu trời lạnh dưới 250C phải đậy nilon nhưng cách
mặt mô nấm tối thiểu là 20 cm để tránh bị hấp hơi. Từ ngày thứ 8 – 9: Khi
thấy màng sợi từ màu trắng đục chuyển sang màu trắng trong phải tưới đón
nấm. Tưới nhẹ trực tiếp vào các mặt mô nấm cho ẩm đều, đẫm hơn bình
thường. Từ ngày thứ 9 – 13 : Trên mô nấm xuất hiện đinh ghim như hạt gạo,
tưới giữ ẩm bình thường, tưới cao vòi tránh bị đứt sợi nấm.
 
13. Phòng trừ sâu bệnh
Biện pháp phòng trừ tổng hợp
- Xử lý nền đất kỹ: Phơi nắng, tưới nước, xới, rắc vôi. Định kỳ thay đổi nền
đất để cắt nguồn bệnh
- Xử lý nguyên liệu: Tránh sử dụng nguyên liệu mốc, hẩm,…Đảm bảo độ ẩm,
PH thích hợp.
- Xử lý dụng cụ trồng nấm: Giặt sạch, phơi khô trước khi sử dụmg trồng nấm
- Giữ ấm mô nấm: Luôn giữ mô ở nhiệt độ 32 – 35 0C; Trời lạnh che phủ
thêm áo mô, trời nắng lấy bớt; Trời quá lạnh sưởi ấm bằng than củi 
- Phòng bệnh: Theo dõi thường xuyên để phát hiện bệnh; Diệt ngay nguồn
bệnh để tránh lây lan; Dọn vệ sinh và chùi rửa kệ trồng sau mỗi lần trồng

Một số bệnh thường gặp trong quá trình trồng nấm rơm và cách phòng tránh:
Nấm dại:
- Nấm mực: nấm mực phát sinh do ủ nguyên liệu chưa tốt, độ ẩm nguyên liệu
quá cao. Loại nấm này không gây hại nhưng cạnh tranh dinh dưỡng mạnh
với nấm rơm, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất nấm. Để phòng tránh nấm
mực phát triển, cần chú ý chỉnh độ ẩm nguyên liệu phù hợp.
- Các loại nấm mốc (mốc xanh, mốc vàng, mốc đen….) là những bệnh hại
nguy hiểm. Nguyên nhân bệnh xuất hiện có thể do nguyên liệu bị nhiễm bệnh
từ trước, nhà trồng nấm vệ sinh không sạch sẽ, khu vực nuôi trồng nấm ẩm
thấp, trồng nấm nhiều đợt liên tục nhưng không vệ sinh định kỳ.
Động vật phá hoại, gây bệnh: Chuột, gián, kiến, mối… gặm nhấm sợi và cây
nấm. Chúng đào hang, làm xáo trộn mô nấm, ăn giống nấm vừa cấy xong…
Do vậy, phải dung thuốc bẫy chuột, kiến, gián… tại khu vực nuôi trồng nấm.
 
14. Thu hoạch
Nấm rơm phát triển nhanh, sau vài giờ nấm có thể nở xòe. Vì vậy, phải hái
nấm đúng tuổi, trước lúc nứt bao. 
Nên thu hái nấm lúc giai đoạn hình trứng vì giai đoạn này dinh dưỡng cao
nhất. Nấm ngon và có chất lượng cao nhất là khi quả nấm từ hình tròn
chuyển sang hình trứng chưa nứt bao.
Trường hợp nấm mọc tập trung thành cụm, ta có thể tách những cây nấm lớn
hái trước, nếu khó tách thì hái cả cụm. Nấm mọc rộ, ngày hái 2 – 3 lần.
Những ngày nóng, nhiệt độ không khí cao, nấm phát triển nhanh, vì vậy phải
quan sát kỹ. Khi nấm hơi nhọn đầu là hái ngay.
Sau khi hái nấm xong, tưới ẩm đều cho nấm mọc tiếp. Lứa 1 từ ngày 14 – 18
chiếm 80% năng suất. Hết lứa 1 chăm sóc tiếp để nấm ra tiếp lứa 2.
Sau khi thu hoạch xong đợt đầu, phải làm vệ sinh mô nấm, bằng cách nhặt bỏ
hết những gốc nấm còn sót lại trên mô nấm. Một mô nấm có kich thước như
khuôn (dài 27 cm, rộng 20 cm, cao 12 cm) đạt từ 50g - 100 gam nấm.
 
15.Vệ sinh nhà trồng nấm
Sau khi thu hoạch, loại bỏ các mô nấm ra khỏi nhà trồng. Chất đống cao 40
cm tưới nước vôi ủ thành phân. Đống ủ cách xa khu vực trồng nấm. Có thể
dùng các mô nấm này để ủ phân vi sinh. Dọn sạch sẽ nhà trồng, mở hết các
cửa thông gió và cho ánh sáng vào nhà trồng. Phơi nhà trồng 5 - 7 ngày
trước khi trồng lần tới. Chùi rửa và phơi kệ trồng, quét nước muối và vôi lên
kệ theo tỷ lệ: (Muối/ vôi = 1/1).

You might also like