You are on page 1of 14

CHUYÊN ĐỀ

BIỂU HIỆN VÙNG MIỆNG TRÊN BỆNH


NHÂN THIẾU MÁU HỒNG CẦU HÌNH
LIỀM
Sinh viên : Bùi Trung Hiếu, Cao Chánh Đức- Tổ 9- Lớp RHM2013

I) ĐỊNH NGHĨA
1.THIẾU MÁU:
Thiếu máu, được định nghĩa là tình trạng thiếu hụt khả năng vận chuyển oxy của máu, thường có liên
quan tới tình trạng giảm số lượng hồng cầu trong chu trình tưới máu cơ thể hoặc là 1 tình trạng bất thường
Hemoglobin( Hb) trong hồng cầu. Thiếu máu không phải bệnh mà đúng hơn là 1 triệu chứng phức tạp có
thể xuất phát từ 1 trong 3 nguyên nhân chính sau:

 Giảm sản xuất hồng cầu (thiếu máu thiếu sắt, thiếu máu ác tính, thiếu máu do thiếu folate)
 Mất máu
 Tăng tỉ lệ hủy lượng hồng cầu trong chu chuyển tim ( tăng hoạt lách,bệnh phá hủy tự miễn)
2.Thiếu máu hồng cầu hình liềm
Bệnh hồng cầu liềm(SCD) là 1 rối loạn tế bào máu do di truyền lặn nhiễm sắc thể dẫn đến khiếm
khuyết các tế bào hồng cầu .Những hồng cầu này có hình liềm, tuổi thọ bị rút ngắn gây ra tắc mạch máu
và thiếu máu cục bộ cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều cơ quan trên toàn cơ thể.
II) DỊCH TỄ
Khoảng 4% đàn ông và 8% phụ nữ ở Hoa Kì có thiếu máu, với mức Hb dưới 13g/dL với đàn ông và
dưới 12 g/dL với phụ nữ. Ở Hoa Kì, thiếu máu thiếu sắt là tình trạng thường gặp nhất. Trung bình 2000 ca
bệnh nhân có khoảng 12 đàn ông và 23 phụ nữ có thiếu máu. Ở hầu hết những bệnh nhân này thì tình
trạng này có thể không được chẩn đoán.

Các bệnh hemoglobin thường được tìm thấy ở các vùng dịch sốt rét và trong các quần thể di cư từ các
vùng này, vì gen đột biến có tác dụng có lợi là chống nhiễm trùng bởi Plasmodium falciparum (tức là sốt
rét). Các bệnh huyết sắc tố như thiếu máu hồng cầu hình liềm được di truyền lặn trên nhiễm sắc thể.
Rối loạn tế bào hình liềm được phân loại bằng số lượng gen globin bị ảnh hưởng. Hai kiểu bệnh nhân
phổ biến nhất :

 Người mang gene bệnh và khỏe mạnh ( 1 gene đột biến) (Sickle cell trait)
 Bệnh nhân thiếu máu hồng cầu liềm ( 2 gene đột biến ) (Sickle cell (amenia) patient)
Người mang gene bệnh là trạng thái dị hợp tử trong đó cá thể bị ảnh hưởng mang một gen cho HbS.
Khoảng 8% đến 10% người Mỹ gốc Phi có kiểu gen này. Ở trung tâm châu Phi, có tới 25% dân số có thể
mắc phải.

1
Bệnh nhân thiếu máu hồng cầu hình liềm là trạng thái đồng hợp tử. Một gen từ mỗi cha mẹ góp phần
hình thành phân tử HbS chịu trách nhiệm cho bệnh.Hồng cầu trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm
trở thành hình liềm khi trải qua tình trạng giảm oxy máu hoặc giảm pH hay khi bệnh nhân bị mất nước.
Khoảng 50.000 người Mỹ gốc Phi (khoảng 0,003% đến 0,15%), hoặc 1 trong 600, có thiếu máu hồng cầu
liềm.

III) CƠ CHẾ HÌNH THÀNH HC HÌNH LIỀM


Tế bào hồng cầu hình liềm (HbS) là biến thể Hb đầu tiên của hơn 600 biến thể Hb di truyền ở người
(hemoglobinopathies) được công nhận. Trong số này, hơn 90% có sự thay thế axit amin đơn lẻ trong
chuỗi Hb. HbS là kết quả của việc thay thế một axit amin-valine duy nhất cho axit glutamic, tại phần dư
thứ sáu của chuỗi. Ngược lại, Thalassemia, một loại bệnh huyết sắc tố khác,được tạo ra nhờ xóa hoặc đột
biến gen α hoặc β globin dẫn đến khiếm khuyết trong tổng hợp globin (giảm hoặc không có sự tổng hợp
của một hoặc nhiều chuỗi globin). Ở bệnh nhân bị thiếu máu hồng cầu hình liềm, hơn 80% Hb là HbS

Sự biến dạng của hồng cầu thành hình liềm là kết quả của quá trình khử oxy hoặc giảm pH máu, gây ra
sự kết tinh một phần HbS, trùng hợp và sắp xếp lại phân tử Hb bị khiếm khuyết (Hình 23-4).

2
Hình 2. Thiếu máu hồng cầu hình liềm. Phết máu ngoại vi cho thấy các tế bào hồng cầu hình liềm bất
thường (RBCs) trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm.

Do đó làm tế bào hồng cầu cứng và tổn thương màng tế bào, và cuối cùng tạo ra hình dạng liềm không
hoàn nguyên. Các tác động liên quan của những thay đổi này bao gồm tạo hồng cầu, tăng độ nhớt của
máu, giảm lưu lượng máu, thiếu oxy, tăng độ bám dính của hồng cầu, tắc mạch máu và bệnh nặng hơn.
Các trường hợp có tình trạng tắc nghẽn mạch do hồng cầu liềm thường hiếm gặp ở những người chỉ mang
1 gene bệnh (Sickle trait).

3
IV) DẤU HIỆU LÂM SÀNG THƯỜNG GẶP
Dấu hiệu lâm sàng và triệu chứng thiếu máu hồng cầu hình liềm là kết quả của thiếu máu mãn tính và
tắc mạch máu nhỏ.
Biến chứng toàn thân bao gồm
 Vàng da
 Xanh xao
 Viêm dactyl (ấm và đau tay và chân)
 Loét chân
 Phì đại các cơ quan
 Suy tim, đột quỵ
 Đau bụng và xương (hoại tử vô khuẩn) và chậm phát triển tăng trưởng (Hình 23-5).
 Rối loạn bất sản, một bệnh cấp tính trong đó có ngừng sản xuất tế bào hồng cầu và thiếu máu
nghiêm trọng, có thể phát triển từ nhiễm trùng, phản ứng quá mẫn, thiếu oxy, bệnh hệ thống, nhiễm toan,
mất nước hoặc chấn thương

4
Hình 4. Thiếu máu hồng cầu hình liềm. A, Loét chân và B, biến dạng tăng trưởng của ngón giữa do
nhiễm trùng và viêm ngón ( dactylitis) ở kì tăng trưởng.

Các cá nhân có kiểu hình tế bào hình liềm thường không có triệu chứng trừ khi họ được đặt trong tình
huống có nồng độ oxy thấp bất thường (ví dụ, trong một chiếc máy bay không bị áp lực, thông qua việc
gây mê toàn thân). Bệnh nhân mang 1 gene bệnh(Sickle trait) thường không phải là yếu tố nguy cơ trong
điều trị nha khoa trừ khi có tình trạng thiếu oxy nghiêm trọng, nhiễm trùng nặng hoặc mất nước xảy ra.
CÁC TÁC ĐỘNG TRÊN TỪNG CƠ QUAN
1.TÁC ĐỘNG TRÊN NIÊM MẠC MIỆNG VÀ LƯỠI
Biểu hiện phổ biến nhất của SCD trong khoang miệng là hệ quả của triệu chứng thiếu máu tán huyết và
tăng bilirubin máu( sự phá hủy hồng cầu tăng). Có thể thấy niêm mạc miệng nhợt nhạt và vàng da. Mặc
dù hầu hết bệnh nhân sẽ cho thấy tất cả các niêm mạc trong khoang miệng nhạt màu, một số vùng dễ thấy
hơn những vùng khác là nướu, niêm mạc và niêm mạc má và lưỡi. Ngược với bệnh nhân thiếu máu ác
tính có biểu hiện teo và đỏ toàn bộ nhú lưỡi, viêm lưỡi nhược sắc có thể được phát hiện ở các vùng khu
trú ở bệnh nhân SCD
2.ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẤU TRÚC RĂNG
Thiểu sản men và ngà răng và chậm mọc răng đã được báo cáo ở bệnh nhân SCD.
Liên quan đến tính nhạy cảm với sâu răng, nghiên cứu cho thấy bệnh nhân bị SCD không thực sự tăng
nguy cơ mắc bệnh. 
Với vi khuẩn là một yếu tố bệnh căn chính gây sâu răng, có thể dự phòng bằng penicillin khi còn là trẻ
em để ngăn ngừa nhiễm phế cầu khuẩn, điều này có thể có tác dụng bảo vệ thông qua làm giảm nồng
độ streptococci mutans trong khoang miệng và do đó giảm nguy cơ sâu răng.
Cũng có tranh cãi về việc liệu mức độ của streptococci và lactobacilli có giảm ở những bệnh nhân dùng
kháng sinh lâu dài,theo một nghiên cứu của Fukuda và cộng sự, đã báo cáo mức độ liên cầu khuẩn thấp
hơn và sâu răng ở trẻ em được điều trị tích cực bằng kháng sinh, nhưng sau 6 tuổi, thuốc kháng sinh bị

5
ngưng sử dụng và không còn khác biệt về mức độ vi khuẩn. Điều này cho thấy rằng penicillin dự phòng
có tác dụng như 1 yếu tố bảo vệ chỉ trong giai đoạn sớm của thời kì tuổi trẻ và chỉ đơn thuần là trì hoãn
việc thu nhận vi khuẩn sâu răng. 
Liên quan đến người lớn tuổi bị SCD, một nghiên cứu của Laurence và các cộng sự đã kết luận rằng
những bệnh nhân bị SCD có tỷ lệ nhạy cảm với sâu răng cao hơn.Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã kết
luận rằng các yếu tố nguy cơ đã biết đối với sâu răng ảnh hưởng đến sức khỏe răng miệng của bệnh nhân
rõ rệt hơn các yếu tố liên quan đến SCD. Khi bệnh nhân bị SCD có các vấn đề sức khỏe toàn thân mạn
tính, rối loạn huyết học trở thành ưu tiên chính còn sức khỏe răng miệng trở thành thứ yếu, điều này làm
tăng nguy cơ sâu răng. Việc sử dụng lâu dài penicillin ảnh hưởng đến sự cân bằng của hệ vi sinh vật
đường miệng và dẫn đến nhiễm nấm cơ hội cao hơn rõ rệt. Sau khi cân nhắc mọi thứ, điều quan trọng là
giáo dục bệnh nhân về tầm quan trọng của việc vệ sinh răng miệng tốt và thăm khám răng thường xuyên.

Hình 5 cho thấy một trường hợp bệnh nhân mắc SCD có men kém khoáng chất có biểu hiện lâm sàng
dưới dạng men rỗ với màu vàng-đổi màu nâu, sâu răng và vệ sinh răng miệng kém.

 Về tác dụng đối với tủy răng; nó có thể ảnh hưởng theo những cách khác nhau, một là có thể bị ảnh
hưởng do các sang thương sâu răng lớn và nhiễm trùng thứ phát, thứ dễ dàng lây lan trong xương và
khoảng mô liên kết bên dưới. 
Một cách khác mà tủy răng có thể bị ảnh hưởng là do hoại tử vô khuẩn; rối loạn do hồng cầu hình liềm
có thể xảy ra trong hệ thống vi tuần hoàn của tủy răng, làm tắc nghẽn mạch máu đến tủy và tạo ra hoại tử
tủy không triệu chứng ở răng bình thường mà không có mặt của yếu tố gây bệnh.
Ngoài ra,nguồn cung cấp máu bị tổn thương có thể gây ra huyết khối mạch máu và dẫn đến sỏi tủy vôi
hóa trong buồng tủy.

6
3.TÁC ĐỘNG TRÊN MÔ NHA CHU
Tác dụng của SCD đối với mô nướu và nha chu còn đang được tranh cãi theo các các nghiên cứu về chủ
đề này. Bệnh nhân bị SCD thường có tăng phản ứng viêm, thứ có thể làm tăng phản ứng nướu với lượng
mảng bám tối thiểu khiến họ có nguy cơ cao bị viêm nướu và bệnh nha chu.
Một nghiên cứu của Mahmoud và cộng sự, cho kết quả rằng tỷ lệ mắc bệnh nha chu viêm cao hơn đáng
kể về mặt thống kê ở trẻ bị SCD so với dân số khỏe mạnh.Carvalho cho rằng bệnh nhân bị SCD dễ mắc
bệnh nha chu. Ông cho rằng các yếu tố miễn dịch làm trầm trọng thêm phản ứng viêm, bao gồm sự gia
tăng nồng độ bạch cầu đơn nhân trong huyết thanh và sau đó là giải phóng các cytokine tiền viêm.Những
cytokine này có liên quan đến tổn thương nha chu, trong đó bao gồm tái hấp thu xương và kích thích các
hoạt động của enzyme phá hủy như collagenase và metalloproteinase trong các mô nha chu.
Mặt khác, Guzeldemir và cộng sự, đã không tìm thấy tăng mất bám dính hoặc bệnh nha chu mặc dù chỉ
số nướu(GI) và mảng bám(PI) cao hơn(các chỉ số của viêm nướu). 
Crawford, trong nghiên cứu của ông, cho rằng các bệnh nhân SCD không có mức độ ý nghĩa các bệnh
nha chu phá hủy nghiêm trọng về mặt lâm sàng là nặng nề so với nhóm đối tượng không mắc bệnh phù
hợp theo độ tuổi, chăm sóc răng miệng và mức độ mảng bám vi khuẩn; cũng như không là các kiểu mất
bám dính khác nhau trong các quần thể này. Duy trì vệ sinh răng miệng và các yếu tố tại chỗ có thể quan
trọng hơn đối với sự thoái hóa của mô nha chu và mức độ nghiêm trọng của bệnh nha chu và tình trạng
viêm hơn là bệnh SCD. Điều này một lần nữa chứng minh làm thế nào bệnh nhân mắc bệnh mãn tính có
xu hướng ưu tiên các vấn đề sức khỏe chính yếu trong khi bỏ qua những vấn đề khác. Chảy máu dưới
nướu liền và niêm mạc miệng và đã được báo cáo. Sưng nướu do xuất huyết lặp đi lặp lại và sửa chữa tạo
mô xơ đã được tìm trên mô để thấy các mạch máu nội mô chứa đầy hồng cầu trong biểu mô nướu cũng
như màng mô sợi liên kết dày đặc và các tế bào viêm.
Người ta đưa ra giả thuyết rằng giảm áp lực oxy cộng với hồng cầu liềm tạo ra một khu vực anoxic
trong nội mô mạch máu. Khu vực này chèn ép các tế bào nội mô làm suy yếu cấu trúc của các mạch khiến
chúng có thể tự vỡ hoặc khi bệnh nhân được bù nước bằng dịch truyền tĩnh mạch gây ra tụ máu. Nướu
sưng do u máu (hemantoma) bên dưới có thể gây lầm lẫn với viêm mô tế bào do răng và thường có thể
gây chẩn đoán sai. Các biến chứng nặng hơn của u máu có thể đe dọa tính mạng như Ludwig angina và
bong tróc niêm mạc miệng. Nhiễm trùng nha chu đã do sự lắng đọng của các hồng cầu hình liềm. Đó là
một lý do khác để nhấn mạnh về tầm quan trọng của chăm sóc nha khoa thường xuyên để tránh những
điều trị nha khoa phức tạp hơn
4.TÁC ĐỘNG TRÊN THẦN KINH HÀM DƯỚI
Đau mặt và/hoặc đau răng có thể xảy ra ở bệnh nhân SCD mà không có yếu tố bệnh căn rõ ràng. Tắc
mạch (VOC) trong khu vực hàm mặt trên cũng có thể xảy ra trong các ống hẹp của thần kinh chính chi
phối hàm trên và hàm dưới gây mất cảm giác cũng như bệnh lý thần kinh.
Hai dây thần kinh chính mà dễ bị tổn thương bởi tắc mạch do đi qua lỗ thần kinh hẹp và kênh thần kinh
trong xương hàm dưới là dây thần kinh xương ổ dưới và thần kinh cằm.
Sự tắc nghẽn mạch cung cấp máu cho các dây thần kinh có thể gây mất cảm giác và tê dai dẳng môi
dưới và cằm, có thể kéo dài tới 24 tháng.
Konotey-Ahulu phát hiện ra rằng 4% bệnh nhân bị đau từ trung bình đến nặng ở hàm dưới trong thời
gian mắc rối loạn hồng cầu hình liềm, với nhiều cảm giác nóng rát và tê ở môi dưới dọc theo dây thần
kinh và phục hồi cảm giác có thể mất vài tháng.
5.TÁC ĐỘNG LÊN XƯƠNG MẶT VÀ XƯƠNG Ổ RĂNG
-Bệnh nhân bị SCD có nguy cơ cao bị viêm tủy xương do nhiễm trùng thứ phát do thiếu máu cục bộ
hoặc do xương thiếu mạch vì tắc mạch.
 Việc tắc mạch gây ra nhồi máu xương lặp đi lặp lại dẫn đến một môi trường thuận lợi cho sự phát triển
của vi khuẩn.

7
Viêm xương tủy thường xảy ra ở xương dài, tuy nhiên nó có thể xảy ra ở hàm dưới do nguồn cung cấp
máu tương đối thấp hơn.
-Biểu hiện lâm sàng của viêm tủy xương có thể tương tự như nhồi máu xương hàm dưới vì vậy điều
quan trọng là phân biệt giữa viêm tủy xương và tắc mạch(VOC) thông qua nuôi cấy mô xương hoặc máu.
-Sự khác biệt chính giữa hai tình trạng này là viêm tủy xương sẽ đau và có dấu hiệu nhiễm trùng (đau,
sưng, sốt, tăng bạch cầu) trong khi VOC thì có đau nhưng không có dấu hiệu sưng hoặc nhiễm trùng.Biểu
hiện trên phim X quang của viêm xương tủy bao gồm mất vỏ xương, tủy xương phù và tăng sinh bệnh lý,
tụ dịch dưới màng xương và tăng sinh bất thường các mô mềm liền kề. Vùng tủy xương tăng sản và mở
rộng có thể xảy ra khi cơ thể
tăng tạo máu để bù đắp cho sự phá hủy gia tăng và rút ngắn tuổi thọ của hồng cầu. 
Điều này có thể biểu hiện lâm sàng như là lồi trán, răng cửa trên hô và bất thường khớp cắn. Những
biến dạng xương dài hạn của phần nhô ra ở giữa mặt bao gồm sống mũi sụp và nhô ra của răng hàm trên
cần được tư vấn chỉnh nha để kiểm soát sai khớp cắn và thẩm mỹ. Phì đại tuyến mang tai cũng đã được
báo cáo ở bệnh nhân SCD
Những biến đổi trên phim X quang ở bệnh nhân SCD có thể là chứng phì đại tủy xương và tăng sản
hồng cầu có thể gây ra những thay đổi trong hình dạng bè xương do mất bè xương tốt và hình thành
không gian tủy xương lớn hơn.Hình ảnh X quang nha khoa có thể cho thấy những khoang tủy mở rộng và
giảm số lượng bè xương, cũng như loãng xương toàn thân và vỏ xương hàm dưới mỏng hơn. Kết quả là
xương xuất hiện nhiều vùng thấu quang hơn với các dải xếp tầng nổi bật, thô ( Stepladder
appearance) .Các bè xương giữa các răng trong bệnh nhân mắc SCD có thể xuất hiện dưới dạng các hàng
ngang nổi bật trông như 1 thang đứng (stepladder apearrance).Có thể quan sát thấy vỏ xương mỏng, hàm
dưới bất đối xứng và quá sản men ở bệnh nhân với SCD. Hình 6,7,8 cho thấy những biến đổi trên phim X
quang có thể thấy trong SCD bệnh nhân trưởng thành.

8
Hình 6. Hình ảnh tóc dựng đứng (hair – on – end apperance)

Hình 7. X quang toàn cảnh cho thấy quá khoáng hóa men răng, răng bị sâu, mất răng, tăng kích thước
xương hàm dưới và giảm số bè xương.

9
Hình 8. Phim quanh chóp cho thấy sự phá hủy xương.

Sự mờ đục xoang tối đa có thể được nhìn thấy ở những bệnh nhân bị SCD là kết quả của tăng sản tủy
xương của xoang hàm trên.Quá trình tạo máu ngoài tủy xương đã được ghi nhận, trong đó có làm mờ
hoàn toàn và mở rộng các xoang hàm hai bên và xoang mũi trước với mật độ mô mềm được đo đạt bằng
CT scan.
V) TẦM SOÁT BỆNH NHÂN THIẾU MÁU HỒNG CẦU HÌNH LIỀM
Nếu nha sĩ xác định bệnh nhân có dấu hiệu hoặc triệu chứng gợi ý thiếu máu, bệnh nhân này nên được
gửi đến phòng thí nghiệm thương mại để kiểm tra công thức máu toàn bộ và phân biệt, hoặc đến bác sĩ để
đánh giá. Các chỉ số Hb, hematocrit và các chỉ số hồng cầu (thể tích trung bình [MCV], huyết sắc tố trung
bình [MCH] và nồng độ hemoglobin trong cơ thể [MCHC]) là các xét nghiệm được sử dụng phát hiện
bệnh nhân có thiếu máu hay không.
Ngoài ra, cần phải kiểm tra tổng số tế bào bạch cầu (WBC) và số lượng tiểu cầu để xác định xem có
khiếm khuyết tủy xương toàn thể hay không cũng như để kiểm tra bạch cầu đa nhân trung tính
Thiếu máu thường được xác định khi Hb <12 g / dL đối với phụ nữ và <13 g / dL đối với nam.
Căn cứ theo kích thước của hồng cầu mà thiếu máu được phân loại là microcytic-thiếu máu hồng cầu
nhỏ (MCV <80 μm3), macrocytic-thiếu máu hồng cầu to (MCV> 96 μm3), hoặc Normocytic-thiếu máu
hồng cầu bình thường (MCV, 80-96 μm3) .
Để tiếp tục phân loại các loại thiếu máu khác nhau, các thử nghiệm chính trong phòng thí nghiệm, như
trong Bảng 1, được thực hiện.

10
Theo như bảng này thì các test cần thực hiện để chẩn đoán xác định bệnh nhân thiếu máu do hồng cầu
hình liềm gồm
1.Test Sickledex
Dương tính cho thấy có hồng cầu hình liềm
Có sự xuất hiện của Hemoglobin bất thường.
Ở vết hồng cầu hình lưỡi liềm, hemoglobin bình thường trên một nửa (hemoglobin A) và hemoglobin bất
thường dưới một nửa. (hemoglobin S).
Ở bệnh hồng cầu hĩnh lười liềm, hầu hết tất cả hemoglobin là hemoglobin S với một vài hemoglobin F.
Ở trẻ em, xét nghiệm máu tìm hồng cầu hình lưỡi liềm sẽ được thực hiện lặp lại ở 6 tháng tuổi, hay xét
nghiệm DNA sẽ được thực hiện.
Tất cả bệnh nhân người Mỹ gốc Phi nên được hỏi về sự hiện diện của bệnh hồng cầu hình liềm trong tiền
gia đình của họ. Nếu tiền sử không cho thấy có cá nhân nào trong gia đình có bệnh hồng cầu hình liềm,
nha sĩ nên sắp xếp cho bệnh nhân được xét nghiệm. Điều này có thể được thực hiện trong nha khoa với
xét nghiệm Sickledex (được phân phối bởi Johnson & Johnson), trong phòng thí nghiệm lâm sàng thương
mại hoặc bởi bác sĩ.
2.Sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC)
HbA2 cao và HbS xuất hiện, giá trị HbA thấp đáng kể
3.Điện di Hemoglobin
Có HbS (>0%) Ở người trưởng thành, mức độ bình thường là:
 Hb A: 95% – 98%
 Hb A2: 2% – 3%
 Hb F: 0.8% – 2%
 Hb S: 0%
 Hb C: 0%
4.Đếm hồng cầu lưới
Đếm số lượng hồng cầu lưới dưới 1% cho thấy tủy xương không sản xuất đủ hồng cầu, trong khi giá trị
lớn hơn 1% cho thấy tăng tạo hồng cầu để đáp ứng với chảy máu hoặc phá hủy
5.Nồng độ bilirubin gián tiếp
Giá trị nồng độ Bilirubin trong máu cao :Ở trẻ lớn và người lớn, giá trị bình thường của bilirubin liên hợp
(Trực tiếp) từ 0 – 0.3 milligrams mỗi decilít (mg/dl). Gía trị bình thường của bilirubin tổng hợp ( gồm cả
trực tiếp và gián tiếp) 0.3 – 1.9 mg/dl.
Ở trẻ lớn và người lớn, giá trị bình thường của bilirubin liên hợp (Trực tiếp) từ 0 – 0.3 milligrams mỗi
decilít (mg/dl). Gía trị bình thường của bilirubin tổng hợp ( gồm cả trực tiếp và gián tiếp) 0.3 – 1.9 mg/dl.

11
VI) HƯỚNG ĐIỀU TRỊ VÀ KIỂM SOÁT TÌNH TRẠNG BỆNH Ở BỆNH
NHÂN THIẾU MÁU HỒNG CẦU HÌNH LIỀM
1.Xác nhận với bác sĩ chuyên khoa về tình trạng bệnh ổn định.
Các nha sĩ nên có được một tiền sử cẩn thận để xác định tình trạng liên quan đến thiếu máu.
Bao gồm các câu hỏi liên quan đến chế độ ăn uống, suy dinh dưỡng, sử dụng rượu hoặc ma túy, sử
dụng thuốc chống viêm không steroid, mất máu kinh nguyệt, mang thai, suy giáp, vàng da, sỏi mật, cắt
lách, rối loạn chảy máu và cấy ghép nội tạng là quan trọng.Thông tin tiền sử liên quan đến các thành viên
gia đình cũng quan trọng để xác định nguy cơ di truyền đối với chứng thiếu máu tán huyết
Bệnh nhân thiếu máu có thể có một căn bệnh nghiêm trọng bệnh đi kèm như loét dạ dày hoặc ung thư
biểu mô mà phát hiện sớm có thể là cứu sống bệnh nhân. Bệnh nhân bị thiếu máu hồng cầu hình liềm có
thể gặp nguy hiểm nghiêm trọng nếu bệnh không được phát hiện trước khi bắt đầu điều trị nha khoa. Vì
vậy, điều quan trọng là nha sĩ phải cố gắng xác định những bệnh nhân này thông qua lịch sử và kiểm tra
lâm sàng trước khi bắt đầu bất kỳ điều trị.
Ở trẻ em, nên đặt câu hỏi để đánh giá tăng trưởng bình thường.
Khi hỏi tiền sử bệnh của một người phụ nữ , nên đặt câu hỏi về sự bắt đầu, tính chất và sự đều đặn của
chu kỳ kinh nguyệt bệnh nhân có thể rất quan trọng. Phụ nữ có tiền sử kinh nguyệt đều đặn nhưng chảy
máu nhiều có thể bị thiếu máu và cần được tư vấn và điều trị y tế.
Đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh nhân Thiếu máu thiếu máu là quan trọng để ngăn ngừa các
biến chứng. Đầu tiên và trước hết, nha sĩ cần đảm bảo rằng bệnh nhân đang ở tình trạng kiểm soát được
trước khi tiến hành điều trị nha khoa thông thường. Trong nhiều trường hợp, thiếu máu có liên quan đến
bệnh mãn tính, Để ngừa các biến chứng y tế , bệnh nhân có Hb phải ở mức trên 11 g / dL và bệnh nhân
không có triệu chứng. Bệnh nhân bị khó thở và có Hb  11 g / dL, nhịp tim bất thường hoặc độ bão hòa
oxy dưới 91% (như đã xác định bởi SpO2) được coi là không ổn định, Và điều trị nha khoa nên được
hoãn lại cho đến khi tình trạng sức khỏe của họ được cải thiện.
2. Sắp xếp các cuộc hẹn ngắn.
Đối với điều trị nha khoa thường xuyên, các cuộc hẹn nên ngắn (để giảm căng thẳng) cho bệnh nhân bị
thiếu máu hồng cầu hình liềm.
3. Tránh các thủ tục dài và phức tạp.
Sự trì hoãn trong điều trị nha khoa dành cho những bệnh nhân bị thiếu máu và có trình trạng hiện tại
nghiêm trọng. Kế hoạch điều trị biến đổi được hướng chủ yếu vào những người bị thiếu máu nặng hoặc
thiếu máu hồng cầu hình liềm. Những Thủ thuật phẫu thuật không bắt buộc tốt nhất thì nên tránh ở nhóm
bệnh nhân bị thiếu máu hồng cầu hình liềm.
4. Duy trì phục hồi răng tốt.
Điều trị răng miệng tốt và chăm sóc nha khoa phòng ngừa rất quan trọng vì nhiễm trùng răng miệng có
thể gây ra cơn mất máu cấp. Nếu nhiễm trùng xảy ra, nó phải được điều trị nhanh chóng thông qua các
biện pháp tại chỗ và toàn thân như trích rạch và dẫn lưu, dùng liều cao kháng sinh thích hợp, nội nha và /
hoặc nhổ rằng. Nếu viêm mô tế bào phát triển, bác sĩ phải tư vấn và cân nhắc cho bệnh nhân nhập viện.
Cần chú trọng đặc biệt đến các quy trình vệ sinh răng miệng để tránh sâu răng, viêm nướu và nhiễm
trùng có thể dẫn đến viêm tủy xương
5. Viện chăm sóc nha khoa tích cực.
Nếu những biện pháp chăm sóc sức khỏe không được thực hiện, 50% người bị thiếu máu hồng cầu hình
liềm sẽ chết trước 30 tuổi.
Bởi vì thiếu axit folic có thể đóng một vai trò quan trọng trong những nguyên nhân gây ra cơn thiếu
máu cấp tính,nên bổ sung chế độ ăn uống giàu axit folic hàng ngày cho hầu hết bệnh nhân bị thiếu máu
hồng cầu hình liềm. Ngoài ra, điều trị dự phòng bằng penicillin được sử dụng ít nhất trong 5 năm đầu đời.

12
a. Hướng dẫn vệ sinh răng miệng
b. Kiểm soát chế độ ăn uống
c. Đánh răng bằng bàn chải và dùng bổ sung chỉ nha
d. Bôi gel fluor
6. Tránh nhiễm trùng đường miệng; điều trị tích cực khi xảy ra NT đường miệng
Kiểm soát bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm chủ yếu dựa trên penicillin dự phòng thường quy cho trẻ
sơ sinh và sử dụng kháng sinh sớm để ngăn ngừa nhiễm trùng nặng.
Chiến lược điều trị bao gồm sử dụng hydroxyurea (có hoặc không có erythropoietin), gây ra sản xuất
HbF và do đó ngăn ngừa hình thành các polyme HbS. Một khi khủng hoảng xảy ra, dùng axit folic liều
cao, thuốc giảm đau để giảm đau, hydrat hóa và truyền máu được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân.19,21
Ghép tủy xương (BMT) đã được sử dụng ở trẻ em bị thiếu máu hồng cầu hình liềm thành công (tỷ lệ chữa
khỏi 25% đến 30%) nhưng có liên quan đến tỷ lệ tử vong. Bệnh nhân thiếu máu có thể phải nhập viện nếu
giá trị hematocrit nhỏ hơn 20%. Truyền máu với hồng cầu được dành riêng cho bệnh nhân chảy máu tích
cực và cho những người bị thiếu máu nặng và có triệu chứng mắc bệnh tiềm ẩn.
7. Sử dụng máy đo SpO2, duy trì độ bão hòa O2 ở trên 95%.
8. Sử dụng thuốc gây tê không có epinephrine cho chăm sóc răng miệng định kỳ. Đối với điều
trị phẫu thuật, sử dụng thuốc tê có 1: 100.000 epinephrine
Việc sử dụng gây tê tại chỗ là chấp nhận được (tránh gây mê toàn thân); tuy nhiên, bao gồm một lượng
nhỏ epinephrine trong thuốc tê gây tranh cãi ở chỗ một số các tác giả tin rằng nó có thể làm giảm lưu
thông và gây tắc mạch máu. (Smith và cộng sự đề nghị nên sử dụng thuốc tê mà không cần dùng chất co
mạch để chăm sóc răng miệng định kỳ.)
Khi một thủ tục phẫu thuật phải được thực hiện, họ khuyên nên sử dụng thuốc gây tê cục bộ với
epinephrine 1: 100.000 để đạt được cầm máu và gây tê sâu. Nếu được yêu cầu, nên sử dụng oxy nitơ oxit
(N 2 O-O) trong thời gian ngắn với ít nhất 50% nồng độ oxy được cung cấp.
9. Tránh dùng barbiturat và ma túy mạnh; để an thần BN có thể dùng diazepam (Valium).
Thuốc an thần tiêm tĩnh mạch (IV) phải được sử dụng cực kỳ thận trọng ở những bệnh nhân thiếu máu
hồng cầu hình liềm . Barbiturates và chất gây nghiện nên tránh vì ức chế trung tâm hô hấp và các tác
nhân này dẫn đến thiếu oxy và nhiễm toan máu, có thể gây ra một cuộc khủng hoảng cấp tính. Thuốc an
thần nhẹ có thể được cung cấp với diazepam (Valium) hoặc nalbuphine hydrochloride.
10. Sử dụng kháng sinh dự phòng cho phẫu thuật lớn
Kháng sinh dự phòng được khuyên dùng cho bệnh nhiên thiếu máu hồng cầu hình liềm khi các thủ tục
phẫu thuật lớn được thực hiện để ngăn ngừa nhiễm trùng vết thương hoặc viêm tủy xương.Penicillin là
thuốc được lựa chọn ở bệnh nhân không dị ứng. Kháng sinh tiêm bắp hoặc IV (tiêm tĩnh mạch) nên được
xem xét để sử dụng cho bệnh nhân thiếu máu hồng cầu hình liềm bị nhiễm trùng răng cấp tính.
11. Tránh sử dụng salicylat tự do; kiểm soát cơn đau với acetaminophen và codein.
Oxy được cung cấp thêm bằng ống thông qua đường mũi . Gây mê toàn thân khi mức Hb giảm xuống
dưới 10 g / dL. Không nên dùng salicylat liều cao vì hiệu ứng axit có thể gây ra khủng hoảng. Kiểm soát
đau băng cách dùng acetaminophen và lượng nhỏ liều codein. Tránh để bệnh nhân mất nước trong suốt
quá trình phẫu thuật và giai đoạn hậu phẫu. Tham khảo ý kiến bác sĩ y khoa đang điều trị bệnh nhân là
một điều bắt buộc trước khi thực hiện bất kỳ thủ tục phẫu thuật nào.
12. Sử dụng N20-O2 với hơn 50% oxy

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Dental Management of the Medically Compromised Patients 7th- Falace
2/ Sickle cell disease: An overview of orofacial and dental manifestations- Nadia Kawar, DDS, MS,
Sahar Alrayyes, DDS, MS, Haider Aljewari, DMD – Tạp chí ELSEVIER

14

You might also like