SẮC […] Giờ đây khi sắp sửa trình bày một phương pháp giáo dục có thể xem là mới, tôi muốn nói điều này: Ngày nay, cái mới lạ được nhiều người tìm kiếm chỉ bởi nó mới; thế nhưng, ai cố gắng vươn đến cái mới trong bất cứ lĩnh vực nào của văn hóa trước tiên đều phải giành được tư cách làm điều đó qua việc học tôn trọng cái cũ. Nơi đây ở Oxford tôi cảm nhận sức mạnh của những gì sống trong các truyền thống xưa truyền cảm hứng cho mọi thứ như thế nào. Một người cảm nhận được điều này có lẽ có quyền nói về cái mới; bởi lẽ, một cái mới muốn duy trì được chính nó thì phải có gốc rễ nơi [những gì trong] quá khứ [mà] đáng tôn kính. Một bi kịch và thất bại lớn của thời đại chúng ta chính là cứ muốn hết cái mới này đến cái mới khác, trong khi thật ít người có khuynh hướng chính đáng là tạo ra cái mới từ trong cái xưa. […] Những gì tôi sẽ trình bày ở đây về giáo dục và giảng dạy là dựa trên kiến thức tâm linh-khoa học – mà việc xây dựng nó tôi đã lấy làm công trình cả đời mình. Khoa học tâm linh này đã được xây dựng ban đầu chỉ bởi nó cần được xây dựng; trong những năm gần đây các bằng hữu mới bước ra mang nó vào những lĩnh vực cụ thể của đời sống. Emil Molt từ Stuttgart – vốn đã quen thuộc với công việc đã và đang diễn ra ở Goetheanum (Dornach, Thụy Sĩ) của khoa học tâm linh Anthroposophy – mong muốn nhìn thấy nó được áp dụng vào giáo dục trẻ em ở trường. Điều này đã dẫn đến việc thành lập trường Waldorf ở Stuttgart. Phương pháp sư phạm và giáo khoa của trường Waldorf này là dựa trên nền tảng tâm linh đã nói – mà tôi khẳng định rằng phải dẫn đến một sự đổi mới giáo dục phù hợp với tinh thần của thời đại chúng ta: đổi mới sao cho nền giáo dục đáp ứng được những nhu cầu được đặt ra bởi các nhiệm vụ và giai đoạn phát triển của nhân loại thời kì này. Nền giáo dục và chương trình giảng dạy đang bàn hoàn toàn dựa vào kiến thức về con người – nhưng là một kiến thức nhắm đến bao hàm mọi phần tâm linh (không nhận biết được bằng ngũ quan thông thường) của toàn bộ bản thể con người từ khi sinh đến khi chết, mọi yếu tố là minh chứng trường tồn rằng con người thuộc về thế giới tâm linh. Trong thời đại này, đời sống tâm linh chủ yếu của chúng ta vốn đến từ những thời kì cổ đại, được nối tiếp bởi truyền thống. Song song với đời sống tâm linh này – mà chúng ta mỗi ngày một tương tác ít dần đi – là đời sống do những khám phá xuất sắc của khoa học tự nhiên hiện đại đem lại. Trong một thời đại đã và đang sống những nhà khoa học tự nhiên hàng đầu, khi đang trình bày về đời sống tâm linh chúng ta cũng không thể phớt lờ đóng góp có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kiến thức của con người mà khoa học tự nhiên mang lại. Song, tuy khoa học tự nhiên có thể cho chúng ta hiểu rõ cơ thể vật chất cùng những chức năng sinh lí trong cuộc đời vật chất của con người, nó lại chưa hề thành công – dù có phát triển đến đâu – trong việc chạm đến phần tâm linh vốt là cốt lõi của đời sống con người, bởi nó được tiến hành bằng phương pháp thí nghiệm dùng những công cụ bên ngoài và bằng quan sát bởi các giác quan thông thường. Tôi không nói thế với ý chê bai. Đóng góp to lớn của khoa học tự nhiên là nó đã duy nhất trong lịch sử nhìn vào thế giới tự nhiên mà hoàn toàn không để ý đến bất cứ yếu tố tâm linh nào ở đó. [Lời bàn 1] Lời bàn 1: Ngành “khoa học tự nhiên” như được biết đến ngày nay – ngành đã phát triển chuyên biệt tách khỏi các ngành được gọi là “khoa học xã hội và nhân văn” – vốn có tuổi đời khá trẻ trong lịch sử nhân loại Lùi xa hơn vào lịch sử, các nhà khoa học thường am tường nhiều lĩnh vực không phân biệt “tự nhiên” hay “xã hội”, chẳng hạn Pythagoras (thế kỉ 5-6 trước Công nguyên) thường được biết đến là nhà toán học nhưng ông cũng là triết gia và nhà huyền học có nhiều giảng dạy về chính trị và tâm linh, Aristotle (thế kỉ 4 trước CN) viết về vật lí, sinh học, đạo đức học, thẩm mĩ học, âm nhạc, tâm lí học, ngôn ngữ học, chính trị và triết học, hay Galen (thế kỉ 2-3 sau CN), được cho là nhà nghiên cứu y học lỗi lạc nhất lịch sử cổ đại) là y sĩ, nhà phẫu thuật cũng là nhà triết học. Đến thời Phục Hưng vẫn có những nhân vật am hiểu nhiều lĩnh vực tương tự như vậy, mà Leonardo da Vinci là một ví dụ nổi bật. Người ta có thể nhìn vào những tiểu sử này và chỉ nghĩ rằng họ là những cá nhân kiệt xuất, nhưng không thấy phản ánh ở đây mối quan hệ khắng khít hầu như không tách rời giữa các lĩnh vực khác nhau của tri thức nhân loại (ta có thể tự hỏi: vì sao ngày nay chẳng còn nghe nói đến nhà khoa học nào như vậy nữa, mà chỉ là những người xuất sắc trong một hay cùng lắm là vài lĩnh vực?) Nhưng cũng bởi sự hoàn toàn không để ý đó mà những kiến thức về con người có được nơi tâm lí học và nhân chủng học không giúp chúng ta lĩnh hội một cách thiết thực cái tâm linh. Trong nền văn minh hiện đại này, chúng ta cũng có một đời sống tâm linh được đa dạng các tôn giáo và tín ngưỡng duy trì và giúp lan tỏa, nhưng văn hóa tâm linh này không có khả năng cho chúng ta sự tin tưởng chắc chắn [“conviction”] về cái vĩnh hằng và bất tử, về thế giới chúng ta thuộc về nhưng không cảm nhận được bằng giác quan thường, khi cảm giác cô quạnh của cuộc sống vật chất và thế giới quan vật chất khiến chúng ta tự hỏi: “Đâu là hiện thực vĩnh cửu, tâm linh ẩn mình sau thế giới cảm nhận được bằng giác quan?” [Ghi chú 2] Ghi chú 2: Xem thêm bài “Làm thế nào để vượt qua sự thiếu thốn nơi tâm hồn trong thời hiện đại?” https://www.facebook.com/groups/1011527472258558/1561823 420562291/ Chúng ta có thể có tin rằng trước khi chào đời mình đã ở giữa lòng những thế giới tâm linh, thiêng liêng. Chúng ta có thể đi đến tin phần tâm linh của mình sẽ trải nghiệm những gì sau khi bước qua ngưỡng cửa cái chết. Chúng ta có thể hệ thống hóa, chính thức hóa những điều chúng ta tin như thế và hệ thống đó sẽ sưởi ấm trái tim cùng làm hân hoan tinh thần ta. Chúng ta có thể tự nhủ: “Trong tổng thể vũ trụ này con người là một thực thể có tầm vóc hơn rất nhiều cuộc sống vật chất giữa sinh và tử này.” Nhưng những gì chúng ta đạt được theo cách này mãi vẫn chỉ là một niềm tin [“beliefs”], vẫn chỉ là điều chúng ta nghĩ và cảm thấy. Mỗi ngày một khó khăn hơn chính là việc áp dụng vào thực tế những khám phá quan trọng và nguyên lí của khoa học tự nhiên trong khi vẫn mang giữ những niềm tin tâm linh kiểu đã nói. Chúng ta biết qua những điều tâm linh, nhưng chúng ta không còn hiểu cách sử dụng chúng, cách làm bất cứ thứ gì với chúng, cách đem những lí tưởng tâm linh vào thấm đẫm công việc và đời sống thường ngày của mình. Lĩnh vực nào của cuộc sống đòi hỏi nhiều nhất ở chúng ta hiểu biết tâm linh? Chính là trong giáo dục. Trong lĩnh vực này chúng ta phải lĩnh hội con người tổng thể, mà con người tổng thể bao gồm thể xác, tâm hồn và linh hồn. Muốn giáo dục chúng ta phải có khả năng làm việc với các mặt tâm linh. Ở mọi thời đại trong lịch sử, con người đã luôn phải lưu ý đến thế giới tâm linh và hoạt động dựa trên sức mạnh của nó; giờ đây, bởi chúng ta đã tiến những bước xa như thế trong khoa học [khảo sát những khía cạnh] bên ngoài, yêu cầu phải làm việc với những khía cạnh tâm linh bên trong là khẩn cấp hơn lúc nào hết. Cho nên vấn đề xã hội của thời nay trên hết và quan trọng hơn hết chính là vấn đề giáo dục. Chúng ta hoàn toàn có lí do để hỏi: Phải làm gì để cơ cấu và tổ chức xã hội bớt bi kịch, bớt đầy đe dọa? [Lời bàn 3] Và không có câu trả lời nào khác ngoài rằng trước tiên, chúng ta phải đưa vào cuộc sống thực tế, vào cộng đồng xã hội những người được giáo dục thông qua kiến thức và hoạt động sáng tạo [có nguồn gốc từ thế giới] tâm linh. Lời bàn 3: Mình tin rằng phải nhìn thế giới đúng như thực trạng của nó thì mới mong nhận được động lực thật sự để nỗ lực tâm linh. Mình không có mục đích chỉ trích một cá nhân cụ thể nào – bởi ai nói như thế thì mình cũng sẽ có cùng phản ứng – nhưng mình cho rằng nói kiểu “thế giới của niềm vui và hòa bình/sự thanh thản nằm ngay đầu ngón tay, chúng ta chỉ cần chạm lấy nó” tuy nghe rất động viên, rất lạc quan, rất yên ủi nhưng thật sự cũng rất, ừm, Luciferic. Loại kiến thức tôi đang mô tả có điều kiện cần là chúng ta không ngừng đối phó với cuộc sống. [Lời bàn 4] Nó đi tìm cái tâm linh bên trong cuộc sống và lấy đó làm nền tảng của giáo dục xuyên suốt những giai đoạn đời khác nhau. Ở trẻ con, phần tâm linh gần với phần thể xác hơn ở người lớn; chúng ta có thể thấy phần vật chất được định hình bởi phần tâm linh. Khoa học tự nhiên hiện đại đã quan sát thấy bộ não của một trẻ vừa lọt lòng có thể ví như khối đất sét mà một nhà điêu khắc cầm lấy để tạo hình. Đến khi trẻ bảy tuổi bắt đầu đi học tiểu học, bộ não của nó đã trở thành một công trình nghệ thuật tuyệt vời – nhưng là một công trình nghệ thuật cần phải được tiếp tục tác động và cải thiện mãi đến khi rời ghế nhà trường. Những năng lực tâm linh sâu kín hoạt động tạo hình cơ thể người, và với tư cách các nhà giáo dục chúng ta được yêu cầu đóng góp vào quá trình đó. Nhưng chúng ta phải làm nhiều hơn chỉ quan sát bản thể vật chất; tuy chúng ta không bao giờ được làm ngơ phần thể xác, chúng ta phải quan sát nơi đó hoạt động của những yếu tố tâm linh. Chúng ta được yêu cầu phải làm việc với linh hồn của đứa trẻ – [mà để như thế] phải liên hệ bản thân không chỉ với tự nhiên, mà còn với trật tự tâm linh của thế giới. [Lời bàn 5] Lời bàn 4: Cho nên một người rút lui khỏi cuộc sống dù dưới hình thức nào cũng là đang không tự tạo điều kiện để mình nhận lấy và đào sâu kiến thức đó! Lời bàn 5: Cho nên “thuận tự nhiên” mà tự nhiên chỉ như chúng ta quan sát thấy bằng ngũ quan thông thường là không thật sự đúng đắn hay có ý nghĩa. “Tự nhiên/Thiên nhiên” là gì? Từ đâu có? Đâu thật sự là những “qui luật tự nhiên” (và cũng vì sao có chúng)? Vì sao con người nên “thuận” theo chúng? Thuận tự nhiên có phải là sống như muôn loài khác trong thiên nhiên hoang dã? v.v. Bao nhiêu là câu hỏi. Khi đối diện nghiêm túc với giáo dục, chúng ta được yêu cầu không chỉ công nhận [sự tồn tại của] Đấng Tối cao [“God”] để có được sự thanh thản trong tâm hồn, mà còn phải khiến xảy ra điều Ngài muốn cho xảy ra, phải biến thành hành động những kế hoạch Ngài đã định. [Lời bàn 6] Để làm được những điều này cần phải có một nền tảng tâm linh cho giáo dục. Nền tảng tâm linh này là đề tài tôi sẽ trình bày trong những ngày tiếp theo. Lời bàn 6: Mình cảm nhận sâu sắc điều này khi “dấn thân” vào con đường giáo dục Waldorf từ chỗ một người hoàn toàn không có bất cứ niềm tin tâm linh nào. Vì sao ta lại bị giáo dục Waldorf thu hút? Vì sao nó truyền cảm hứng cho ta? Vì sao ta cứ bước tới dù vấp phải bao nhiêu là khó khăn, dù luôn là thiểu số ít ỏi? Vì sao ta nên làm theo những nguyên lí này hay phương pháp kia (mà Steiner nói và ta thấy chí lí, khiến ta cảm động) dù thứ nào cũng có vẻ “không bình thường”? v.v. Hỏi tới nơi thì đúng là chỉ có thừa nhận God (cùng những khái niệm tâm linh khác như karma) như Steiner nói mới có nổi “peace of soul.”