You are on page 1of 7

Đề bài 1: Phân tích đoạn trích “Chí khí anh hùng” để làm nổi bật nét đặc sắc

trong nghệ thuật


khắc hoạ nhân vật của Nguyễn Du.
I. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và đoạn trích:
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

+ Nghệ thuật khắc họa nhân vật góp phần làm nên giá trị để tác phẩm xứng tầm kiệt tác.Điều
này cũng là một phương diện nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du. Đoạn trích
“Chí khí anh hùng” là một trong những đoạn đặc sắc của tác phẩm, thể hiện tài năng của
Nguyễn Du trong việc khắc họa nhân vật.

- Nêu vấn đề cần nghị luận: Ở đoạn trích này Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp hình tượng người
anh hùng Từ Hải bằng ngòi bút nghệ thuật độc đáo.

II. Thân bài:

a, Luận điểm 1: Giới thiệu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn trích, cắt nghĩa vấn đề nghị
luận (ý kiến, nhận định)
-Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

-Vị trí, nội dung đoạn trích: Đoạn trích từ câu … đến câu …/3.254 của tác phẩm truyện thơ Nôm
“Đoạn trường tân thanh”.
+ “Chí khí anh hùng” được trích từ phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc” trong Truyện Kiều. Đây là
phần do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong tác phẩm chữ Hán “Kim Vân Kiều truyện”. Đoạn
trích nói về cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải sau nửa năm chung sống mặn nồng. Từ Hải
lên đường thể hiện quyết tâm mưu đồ việc lớn của người anh hùng với hùng tâm tráng trí cao
cả, lớn lao.

+Ở đoạn trích này vẻ đẹp hình tượng nhân vật Từ Hải được khắc họa sinh động mang tính lí
tưởng với tầm vóc, ý chí và khát vọng phi thường. Cùng với việc vẽ lên chân dung người anh
hùng Từ Hải nhà thơ cũng gửi gắm những thông điệp ý nghĩa qua nhân vật này.

b, Luận điểm 2: Phân tích đoạn trích- vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải qua ngòi bút khắc
họa độc đáo của Nguyễn Du. Từ đó thể hiện quan niệm về người anh hùng lí tưởng của đại
thi hào dân tộc
* 4 câu thơ đầu đoạn trích: nêu lên hoàn cảnh để làm nổi bật khát vọng của người anh hùng
Để làm nổi bật vẻ đẹp người anh hùng, trong bốn câu thơ đầu đoạn trích tác giả đã vẽ lên hình
ảnh người anh hùng với khát khao, hoài bão lớn lao, cao đẹp:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.

- Giữa lúc cuộc sống của Từ Hải và Thúy Kiều đang ở độ đằm thắm, mặn nồng nhất thì Từ
Hải quyết định dứt áo lên đường thực hiện chí nguyện lớn lao. “Nửa năm” là khoảng
thời gian chung sống của Từ Hải và Kiều, thời gian hạnh phúc rất đỗi ngắn ngủi trong
hành trình của cuộc hôn nhân. Hình ảnh ẩn dụ “hương lửa đương nồng” gợi tả hạnh
phúc mới ở buổi ban đầu rất đỗi nồng đượm của “trai anh hùng, gái thuyền quyên”.

- Theo lẽ thường, những người đàn ông sẽ khó có đủ quyết tâm để rời bỏ hạnh phúc
riêng tư “nam nhi khó qua ải mĩ nhân” nhất là đối với giai nhân tài sắc như Thúy Kiều.
Còn Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, mặc dù đang trong giai đoạn hạnh phúc
nhất nhưng sâu thẳm trong trái tim Từ Hải khát khao, hoài bão, nguyện vọng về sự
nghiệp lớn lao, trị vì thiên hạ vẫn luôn cháy bỏng, chỉ chờ thời cơ thích hợp để thực
hiện.

- Thái độ lên đường của Từ Hải hết sức dứt khoát, hành động “thoắt” cho thấy sự thay đổi
nhanh chóng trong con người Từ Hải. Chỉ cần nghĩ đến những khát khao, hoài bão lớn của đời
người là chàng đã muốn lên đường ngay lập tức. Tư thế lên đường “trông vời” đó là cái nhìn
thẳng về phía trước, tầm nhìn xa rộng thể hiện một thái độ tự tin, mạnh mẽ của con người có
bản lĩnh kiên định, vững vàng. Các từ ngữ Nguyễn Du miêu tả quyết tâm của Từ Hải hết sức đắt
giá: “trượng phu”, “động lòng bốn phương”, “trời bể mênh mông” cho thấy một không gian
hoạt động rộng lớn, đó là không gian thiên nhiên, vũ trụ để Từ Hải thỏa sức vẫy vùng, thể hiện
hùng tâm, tráng trí của mình.

- Dù trong hoàn cảnh “hương lửa đương nồng” Từ không quên mình là một tráng sĩ trong
xã hội phong kiến theo tư tưởng làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao
rộng. Từ Hải vội lên đường mưu sự nghiệp lớn lao. Tác giả dùng từ “trượng phu” đây là
lần duy nhất ông dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. ”Trượng phu” nghĩa là
người đàn ông có chí khí lớn.

- Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ. Đó là cách xử sự bất
thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong
lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ bị níu kéo mà quên đi sự nghiệp.
Nhưng Từ Hải thì khác “thân nam nhi không vương thê nhi”, ngay khi đang hạnh phúc,
chàng vẫn “thoắt” nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Điều đó cho thấy “chí
khí” lập sự nghiệp anh hùng, trị vì thiên hạ luôn thường trực trong tâm tưởng và thôi
thúc Từ Hải hành động nhanh, mạnh, quyết liệt. Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản
chất của Từ Hải, hơn nữa Từ Hải cũng cho rằng thực hiện được chí lớn thì mới xứng
đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình.
- Cụm từ “động lòng bốn phương” theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho
thấyTừ Hải “không phải người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời
đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chính vì thế, chàng hướng về “trời bể mênh mang”,
với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng:

→Không gian trời bể mênh mang, con đường thẳng đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” rồi mới để cho Từ Hải
và Thúy Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi logic không? Thực chất là không, vì hai chữ “thẳng
rong” ý chỉ Từ Hải lên đường đi thẳng không có ý định chia tay hay nói lời tiễn biệt. Ở đây ta có
thể hình dung sở dĩ Từ Hải nói với Thúy Kiều vì có lẽ Kiều với theo xin đi cùng nên Từ hải đành
phải dừng lại chia tay, từ biệt Kiều. Khắc họa nhân vật lúc chia tay, Nguyễn Du thể hiện rõ tính
cách của Từ Hải là người có chí khí phi thường.

→ Từ Hải đã luôn ở trong vị thế sẵn sàng – chàng luôn cầm chắc thanh gươm, yên ngựa luôn
được đặt sẵn – chàng biết chẳng chóng thì chầy chàng cũng sẽ ra đi. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh
thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một trang nam tử, "nam nhân thà rơi máu chứ
không rơi lệ".

Không gian rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mênh mang – như khắc họa thêm hình ảnh quyết liệt,
dứt khoát của chàng. Tầm vóc của chàng sánh ngang trời đất, trở nên kì vĩ với ý chí và hoài bão
vươn đến tận vũ trụ

→ Qua bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một người anh hùng lí tưởng, phi
thường, có ước mơ, có hoài bãi cao cả, có chí lớn ôm trọn trời đất. Nguyễn Du đã rất khéo léo
khi xây dựng hình ảnh người anh hùng Từ Hải qua không gian rộng lớn, qua tư thế, hành động
mạnh mẽ, dứt khoát.

* 10 câu thơ tiếp: Vẻ đẹp người anh hùng, hình ảnh Từ Hải được khắc họa qua cuộc đối
thoại với Thúy Kiều khi từ biệt để lên đường. Ở đoạn này vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải
càng được thể hiện rõ nét hơn.

- Kiều cất lời trước với giọng điệu chứa chan tình cảm qua cách xưng hô “chàng- thiếp”
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
→ Lời thuyết phục của Kiều nhẹ nhàng thể hiện rõ tâm nguyện của ý chung nhân, bậc tri kỉ hiểu
chồng, thấu tình đạt lí, tinh tế. Nàng hiểu chí nguyện lớn lao của Từ Hải nên không níu kéo mà
viện đến lễ giáo “phận gái chữ tòng” để xin đi theo. Dựng lên cuộc đối thoại với lời thuyết phục
của Kiều như thế này mục đích của tác giả Nguyễn Du muốn nhấn mạnh cốt cách, chí khí mạnh
mẽ của Từ Hải. Dù cho Thúy Kiều thuyết phục khéo léo như vậy nhưng Từ Hải không hề xiêu
lòng.
Từ Hải đã ngay lập tức đáp lại Kiều nhưng với âm điệu của lời trách cứ:
Từ rằng: ”Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.

+ Trước hết những lời đối thoại của Từ Hải đã cho thấy tình cảm chàng dành cho Thúy Kiều,
chàng ý thức được sự lo lắng, băn khoăn, hiểu được ý định xin được đi theo của nàng Kiều nên
đã nói chuyện với nàng để giải tỏa nỗi băn khoăn ấy. Chàng còn khẳng định tình cảm tri ân tri kỉ
giữa hai người nhưng đi liền với đó trách móc nàng Kiều vẫn chưa thoát khỏi chuyện nữ nhi
thường tình

+ Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa
mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng
Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để xứng tầm làm vợ một người anh
hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều trong danh dự.

→Trong lời trách yêu ấy Từ Hải chỉ cho Kiều thấy mình là một người có ý chí, quyết tâm, ôm
mộng lớn bao trùm thiên hạ bởi vậy vợ chàng, tri âm tri kỉ của chàng cũng phải là người phụ nữ
mạnh mẽ, hiểu chuyện, không nên có những thái độ giống như những người phụ nữ bình
thường khác.
- Tiếp đó, để làm Thúy Kiều yên tâm, chàng còn khẳng định, đưa ra lời hứa hẹn:
Bao giờ mười vạn tinh binh

Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp trời


Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Những câu thơ là lời khẳng định tình cảm sâu sắc Từ Hải dành cho Thúy Kiều, đó làm tấm lòng
trân trọng, luôn lo lắng cho Thúy Kiều của Từ Hải. Từ hứa hẹn chắc chắn một năm sau sẽ trở về
đón nàng trong vinh quang. Đằng sau những hình ảnh được gợi ra trong lời nói của Từ Hải ta
còn thấy được khát vọng lớn lao của người anh hùng: muốn có một đội quân tinh nhuệ, hùng
hậu, đủ sức làm rung chuyển thiên hạ. Từ hải bày tỏ mục đích ra đi vì sự nghiệp lớn của mình là
để khẳng định bản lĩnh nam nhi. Khát vọng lớn lao của người anh hùng Từ Hải thể hiện qua thái
độ dứt khoát, kiên quyết dẹp bỏ tình riêng hết lòng vì sự nghiệp lớn. Từ Hải khẳng định, an ủi
Kiều khi có được sự nghiệp lớn lao thì Kiều sẽ là người đầu tiên được Từ đền đáp xứng đáng. Sự
tài hoa của ngòi bút ND trong việc khắc họa nhân vật anh hunhf là ở chỗ tác giả gợi ra một loạt
những hình ảnh ước lệ, tượng trưng gợi không khí chiến trận hào hùng và hình ảnh TH trở về
trong vầng hào quang của chiến thắng: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh
rợp đường”…

- Đồng thời Từ Hải cũng phân tích để Thúy Kiều hiểu được việc nàng muốn đi theo là
không phù hợp trong hoàn cảnh thực tại vì:
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu.

→ Từ Hải không né tránh khi đề cập đến thực tại còn gian nan “bốn bể không nhà” trong tay
chưa có cơ đồ, việc đi theo của Kiều sẽ làm vướng bận. Cách nói thẳng thắn, dứt khoát chỉ cho
Kiều thấy khó khăn để nàng thêm hiểu và đồng cảm cho mình. Nhưng qua đây cũng cho thấy
khí chất, khí phách, khí thế của người anh hùng mưu nghiệp lớn từ con số không, từ khởi đầu
sơ khai muôn nỗi khó khăn → Nguyễn Du đã sử dụng thủ pháp đòn bẩy để làm nổi bật chí khí
hào hùng, mạnh mẽ của người anh hùng.
- Trong lời chia tay, Từ Hải thể hiện rõ sự tự tin vào tương lai, sự nghiệp huy hoàng mà
mình sẽ có được:
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!

+ Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là
người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công
trở về với cả một cơ đồ lớn.

+ Khát vọng lớn lao của Từ Hải còn được thể hiện ở lời khẳng định chỉ trong vòng một năm ngắn
ngủi sẽ hoàn thành sự nghiệp lớn lao để trở về. Đối với một người nam nhi làm nên sự nghiệp
lớn, gây dựng cơ đồ chỉ trong một năm quả là nhanh chóng, phi thường. Qua đó khẳng định
bản lĩnh, tự tin của Từ Hải vào tài năng của mình.

→ Thông qua lời đối thoại với Thúy Kiều đã khắc họa rõ nét, chân thực những khát vọng lớn
lao, cao cả, sự mạnh mẽ và cả tình yêu tha thiết Từ Hải dành cho Thúy Kiều.
* 2 câu cuối: Khắc họa hình ảnh người anh hùng lên đường:
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi

- Hai chữ “quyết lời” và hành động “dứt áo” thể hiện phong cách mạnh mẽ, phi thường
của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.

- Hình ảnh “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” là một hình ảnh so sánh đẹp đẽ và đầy ý
nghĩa. Qua việc sử dụng điển tích, tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay
cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của
con người khi được thỏa chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá trong giây lát con
người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”. Chia li và hội ngộ, hội ngộ và chia li, hai sự kiện
trái ngược và nối tiếp trong đời thường của mỗi người. Nếu không có chia li và hội ngộ,
cuộc sống chỉ là một dòng chảy đơn điệu và tẻ nhạt. Nếu hội ngộ là sướng vui, hạnh
phúc thì chia li là sầu muộn, đau buồn. Ở trong hoàn cảnh này chia li, từ biệt mà không
hề bi lụy vì hình ảnh Từ Hải lên đường mạnh mẽ, khoáng đạt gắn với niềm tin, hi vọng
mãnh liệt sẽ trở về trong vinh quang.

- Nguyễn Du khắc họa Từ Hải với vẻ đẹp phi thường – lướt gió, đạp mây mà đi – vượt
bể, vượt núi cao, vượt qua bao sóng gió. Lòng chàng luôn vững tâm về tương lai – chàng
"quyết lời", "dứt áo ra đi“ bởi ý thức :“Sinh vi nam tử yếu hi kỳ/ Khẳng hứa càn khôn tự
chuyển di” ( Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời- Phân Bội Châu).
Chàng muốn cho Kiều một cuộc sống hạnh phúc và lớn hơn còn muốn có cả giang sơn.
Từ Hải tự tin vào tài năng của mình nên hình ảnh người anh hung lên đường được khắc
họa với vẻ đẹp phóng khoáng, lãng mạn, hào hùng.

→ Hai câu thơ cuối thể hiện quyết tâm của Từ Hải. Các từ “quyết lời”, “dứt áo ra đi” cho thấy
hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Hình ảnh cánh chim bằng cưỡi gió bay
cao, bay xa ngoài biển lớn được Nguyễn Du sử dụng để nói lên lí tưởng, khát vọng, hoài bão cao
đẹp của người anh hùng.
c.Luận điểm 3: Nhận xét, đánh giá về nghệ thuật khắc họa nhân vật

– “Chí khí anh hùng” là đoạn do Nguyễn Du sáng tạo ra trong tác phẩm Truyện Kiều, không có
trong “Kim Vân Kiều truyện” (Thanh Tâm tài nhân). Nguyễn Du xây dựng hình tượng anh hùng
lí tưởng theo quan niệm của mình: đó là bậc trượng phu có chí khí lớn lao, sự nghiệp lẫy lừng,
vẻ đẹp mạnh mẽ, hào hung, phóng khoáng

- Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải
mang trong mình khát khao lớn lao, được vùng vẫy trong bốn biển. Đồng thời hình ảnh Từ Hải
cũng gửi gắm niềm tin về công lý, về sự nghiệp anh hùng của Nguyễn Du.
– Nét độc đáo trong cách xây dựng hình tượng người anh hùng của Nguyễn Du:

+ Nhân vật Từ Hải của Nguyễn Du là một anh hùng áo vải, giữa đường thấy chuyện bất bình
chẳng tha. Chàng chiến đấu vì lẽ công bằng trong xã hội, chiến đấu để giành lại chính nghĩa, để
bảo vệ cái yếu, cái thiện trước sự xâm hại của cái ác, cái xấu.

+ Nguyễn Du kết hợp miêu tả ước lệ với việc tạo ấn tượng về tầm vóc vũ trụ. Hai phương diện
ước lệ và cảm hứng vũ trụ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
+ Nguyễn Du không cần miêu tả dài dòng, chỉ bằng mấy câu nói, những từ chỉ hành động nhân
vật của ông đã hiện lên trọn vẹn với khí phách anh hùng.

+ Tính cách và chí khí của Từ Hải được biểu hiện qua cách sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ
Hán Việt và ngôn ngữ bình dân đời thường. Tác giả cũng dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng
điển cố, điển tích để hướng đến khắc họa nhân vật Từ Hải theo khuynh hướng lí tưởng hóa.
Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng
này.
- Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du, giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do và công lí. Cho nên
nhân vật Từ Hải được xây dựng là một người chí khí, một người siêu phàm. Từ Hải hiện diện
trong “Truyện Kiều” như một nhân vật anh hùng lí tưởng, Từ Hải đã làm nên những trang sôi
động nhất, hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân Thanh”.
Đoạn trích “Chí Khí Anh Hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét vẻ đẹp anh hùng của
Từ Hải.

- Nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo của ngòi bút Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được
tầm vóc, khát vọng của người anh hùng theo quan niệm của ông (nhan đề - chí khí )
3.Kết bài

-Khẳng định vấn đề nghị luận: Trong “Chí khí anh hùng” khi xây dựng nhân vật người anh hùng
của mình, Nguyễn Du đã có nhiều sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật miêu tả.

→ Nhờ đó, hình tượng nhân vật Từ Hải đã đi vào lòng mỗi người đọc với những ấn tượng
đặc biệt.
-Khẳng định giá trị, sức sống của đoạn trích và tác phẩm

You might also like