You are on page 1of 19

I.

MỞ ĐẦU
- Tính cấp thiết của đề tài
- Từ ngàn đời xa, theo chiều dày lịch sử dựng nước và giữ nước. Dân tộc
Việt Nam vốn có truyền thống bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, coi
đó là sự nghiệp chung của cả cộng đồng. Kết tinh những truyền thống
quý báu đã sản sinh ra những con người Việt Nam của mọi thời đại, một
dân tộc anh hùng. Tiếp nối truyền thống đó, chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em.
- Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống của dân tộc, là đạo
lý của con người Việt Nam. Trẻ em là lớp người kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, vì vậy để trẻ em được phát triển một cách toàn
diện về thể chất, tinh thần, trí tuệ và hành vi buộc Đảng, Nhà nước ta và
các tổ chức chính trị xã hội cần phải quan tâm bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em. Bảo vệ trẻ em là việc làm thường xuyên lâu dài của Đảng, của
Nhà nước và của mọi người dân trong toàn xã hội, là chiến lược lâu dài
đến sự phát triển nguồn nhân lực đất nước, là điều kiện tiên quyết đưa đất
nước Việt Nam lên tầm thời đại.
- Thấm nhuần đường lối, chính sách, những quan điểm đó của Đảng và
Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, trong những
năm qua Đảng bộ và nhân dân luôn luôn quan tâm đến việc bảo vệ chăm
sóc và giáo dục trẻ em trên mọi lĩnh vực, bằng nhiều hình thức khác nhau
và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, tình hình trẻ em và
công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em ở cả nước nói chung và từng
địa bàn nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết cần được
quan tâm giải quyết như:
+ Tỷ lệ suy dinh dưỡng còn cao.
+ Công tác giáo dục còn nhiều bất cập, việc quan tâm đến những trẻ
em có hoàn cảnh éo le còn hạn chế.
+ Trẻ em có lối sống thiếu lành mạnh, phạm pháp ở trẻ em có chiều
hướng gia tăng.
+ Hành vi bạo hành trẻ em cần được xử lí nghiêm minh.
- Trong thời kì hội nhập, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bên cạnh những mặt tích cực còn có rất nhiều mặt tiêu cực tác động
không tốt đến việc nhận thức của trẻ. Trong giai đoạn cách mạng hiện
nay Việt Nam đã ra nhập tổ chức WTO (tổ chức thương mại thế giới) và
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế toàn cầu đòi hỏi thế hệ trẻ, thế hệ kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc trong tương lai, phải có sự phát triển nhảy vọt về
thể lực, trí tuệ và phẩm chất. Điều đó đặt ra yêu cầu hết sức khách quan
cho Đảng, Nhà nước, các địa phương cơ sở đặc biêth phải quan tâm đến
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Mục tiêu nghiên cứu
- Trước hết nhằm mục đích để bản thân tìm hiểu, rèn luyện và tư duy
tổng kết thực tiễn.
- Thứ hai, đề tài nhằm mục đích thông qua khảo sát, đánh giá phân tích
tình hình để chỉ ra được những kết quả đạt được và những bất cập,
những vấn đề đặt ra, dựa trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hữu
hiệu nhất, giải quyết những tồn tại đem lại hiệu quà cao cho công tác
này và thúc đẩy công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, phục vụ
sự phát triển thế hệ trẻ.
- Thứ ba, đề tài cũng có thể là cơ sở để các địa phương và các cán bộ
cấp cơ sở đánh giá và nghiên cứu ứng dụng trong thực tiễn trong lĩnh
vực trẻ em.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trẻ em từ 0-16 tuổi
trên toàn quốc.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá về tình hình
nhức nhối ở trẻ em ở Việt Nam; các số liệu chủ yếu trong 3 năm gần
đây (2020-2022).
- Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận nói trên, bài báo cáo sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung của luận án như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê,
- Ý nghĩa khoa học lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ thống và toàn diện
về những vấn đề cấp thiết của trẻ em và những phương pháp bảo vệ trẻ em ở
Việt Nam hiện nay. Luận án có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Hệ thống hóa, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về bảo vệ trẻ em, xây dựng các
khái niệm, nội dung, hình thức, các điều kiện bảo đảm bảo vệ trẻ em.
- Phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng của trẻ em ở Việt Nam hiện nay; từ
đó, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong việc quản lí, chăm
sóc và bảo vệ trẻ Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đề xuất phương hướng, giải
pháp nhằm bảo đảm bảo vệ trẻ em ở Việt Nam ngày càng tốt hơn, hiệu quả
hơn.
- Với những ý nghĩa như trên, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các cơ sở đào tạo về pháp luật về quyền
con người, quyền của nhóm dễ bị tổn thương và những đề tài nghiên cứu có
liên quan đến quyền trẻ em.
II. Khái niệm tổng quan về trẻ em
1. Về trẻ em
- Trên thế giới, ở mỗi quốc gia có rất nhiều những khái niệm khác nhau về trẻ
em. Nhưng những khái niệm đó đều thể hiện trẻ em là những công dân vị thành
niên mà xã hội chưa công nhận là người trưởng thành.
- Theo công ước quốc tế: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi”. Công ước
giải thích thêm định nghĩa này bằng việc nhắc lại điều đã nêu trong: “Tuyên bố
về quyền trẻ em” như sau: “Trẻ em, do chưa trưởng thành về mặt tinh thần và
thể lực, cần có sự bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, bao gồm bảo vệ về mặt pháp lý
thích hợp trước cũng như sau khi sinh”.
- Ở Việt Nam, pháp luật Việt Nam chỉ rõ: “ Trẻ em là công dân Việt Nam dưới
16 tuổi”. Như vậy đối với Việt Nam, theo luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ
em thì trẻ em được hiểu là công dân dưới 16 tuổi.
- Trẻ em được phân ra nhiều lứa tuổi không đồng nhất về mặt tâm, sinh lý, điều
đó quy định những chế độ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục khác nhau, phải có
những đặc điểm, yêu cầu riêng khác nhau phù hợp với từng lứa tuổi phát triển.
Nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về tâm sinh lý trẻ em trong nước và thế
giới đã tương đối thông nhất về cách phân chia giai đoạn của trẻ em như sau:
STT Độ tuổi Các giai đoạn
1 Từ 0 đến 1,5 tuổi Trẻ sơ sinh
2 Từ 1,5 đến 3 tuổi Nhà trẻ
3 Từ 3 đến 6 tuổi Mẫu giáo
4 Từ 6 đến 12 tuổi Thiếu nhi
5 Từ 13 đến 16 tuổi Thanh thiếu niên
- Tương ứng với mỗi độ tuổi là một giai đoạn phát triển của trẻ về đặc điểm,
tâm sinh lí khác nhau. Vậy phải có phương pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
khác nhau phù hợp với sự phát triển của trẻ theo từng giai đoạn.
2. Về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
- Khái niệm bảo vệ trẻ em được hiểu khái quát: bảo vệ trẻ em là sự ngăn chặn,
loại bỏ mọi ảnh hưởng tác động đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của trẻ.
- Khái niệm chăm sóc trẻ em được hiểu khái quát là: sự cung cấp đầy đủ mọi
điều kiện về dinh dưỡng an toàn môi trường tự nhiên, môi trường xã hội để trẻ
phát triển toàn diện về nhận thức, năng lực, tinh thần, là chuẩn bị nguồn lực bổ
sung liên tục cho lực lượng lao động mới cps phẩm chất, năng lực và trình độ,
thể lực ngày càng cao phục vụ cho sự nghiệp và bảo vệ đất nước.
- Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh: lúc sinh thời, Người đã dành nhiều tình
cảm và sự quan tâm đặc biệt cho trẻ em, những chủ nhân tương lai của đất nước
“hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em mà mình sẵn có”. Sự quan tâm đặc
biệt của Người dành cho trẻ em còn bắt nguồn từ tầm nhìn xa trông rộng, xã hội
nào cũng có trẻ em, lớp này lớn, lớp khác kế tiếp ra đời. Công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em phải làm thường xuyên không ngừng để tạo ra lớp sau
phát triển hơn lớp trước về mọi mặt.
- Về sức khỏe: Người chỉ rõ “phải làm sao cho các cháu được ăn no, mặc ấm,
giữ gìn vệ sinh, phòng chữ bệnh, rèn luyện thân thể, cải tạo nòi giống”.
- Về giáo dục: kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân. Người
đòi hỏi trẻ em cần được giáo dục toàn diện “ Không những có tri thức phổ thông
mà phải có đầy đủ tri thức cách mạng”. Đối với thiếu nhi, phương pháp giáo
dục phải nhẹ nhàng vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi theo khuôn khổ người lớn, quan
tâm đến ý kiến và sáng kiến của trẻ em, đặt niềm tin vào thế hệ trẻ. Quá trình
phải triển của trẻ gắn liền với quá trình học tập và vui chơi, chơi mà học – học
mà chơi. Bảo vệ trẻ em cùng là làm sao cho các em được học hành đầy đủ tử tế,
tránh cho trẻ em tiếp xúc với các trò chơi phản giáo dục, đảm bảo cho các em
phát triển về trí lực và tinh thần lành mạnh.
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
chính là đào tạo những lớp người mới có đủ trình độ, phẩm chất, năng lực và
thể lực hoàn thành mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội. Mục đích nhằm đảm bảo cho thế hệ trẻ Việt Nam được phát triển
toàn diện, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp
thu những tinh hoa của thế giới, đáp ứng được những yêu cầu sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
3. Về vai trò của trẻ em
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đất nước ta đang tiến đến
con đường hội nhập tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội là một sự nghiệp vĩ đại lâu dài đòi hỏi phải có lớp người kế tiếp nhau
thực hiện. Các em thiếu niên nhi đồng ngày nay sẽ là lớp người xây dựng nguồn
nhân lực cho đất nước, tạo nên lớp cây mới đủ trình độ, phẩm chất, năng lực, trí
tuệ, phẩm chất để kế tiếp sự nghiệp cách mạng của dân tộc, hoàn thành mục tiêu
giải phóng xã hội.
- Bảo vệ, chăm sóc trẻ em có vai trò quan trọng được biểu hiện trên những góc
độ cụ thể đó là: vì trẻ em có quyền và bổn phận được hệ thống pháp lệnh công
nhận nên tuy nhỏ tuổi nhưng các em cũng có quyền công dân về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội cần được tôn trọng.
- Trẻ em là niềm tin, niềm hy vọng, là động lực tạo nên sức sống của gia đình,
của xã hội. Cho nên nhiều gia đình khó khăn vẫn lặng lẽ âm thầm vun đắp cho
con cháu, xem sự thành đạt của con cháu là hạnh phúc, là lẽ sống tự nhiên của
chính mình.
- Trẻ em không những có vị trí lớn lao trong sự phát triển lịch sử qua các thời
đợi mà còn là tương lai của dân tộc, là lớp người kế thừa, phát triển dân tộc. Có
thể khẳng định không có trẻ em, không có thế hệ trẻ sẽ không có sự phát triển
của quốc gia, của nhân loại. Trẻ em là nguồn nhân lực, là người chủ tương lai
của nước nhà.
III. Các vấn đề về trẻ em
1. Vấn đề bạo hành trẻ em
a. Thực trạng
- Trong những năm gần đây tình trạng bạo lực trẻ em trong gia đình ngày một
gia tăng cả về số lượng lẫn mức độ. Đây không còn là một vấn đề của riêng gia
đình mà là vấn nạn của xã hội. Trẻ em non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần rất
cần được chăm sóc, yêu thương và bảo vệ song thực tế không như vậy.
- Điều khiến chúng ta sửng sốt, đau buồn hơn cả chính là nhiều vụ bạo hành dã
man trẻ em lại do chính những người làm cha làm mẹ, những người thân thích
ruột thịt trong gia đình gây ra. Nó chính là hổ dữ ăn thịt con, khi mà nhẹ thì
mắng chửi nặng thì dùng lời lẽ để đay nghiến, xúc phạm các em. Nặng nề hơn là
dùng vũ lực đòn roi, thậm chí là các biện pháp dã man, tra tấn tựa thời trung cổ
với các vật dụng nguy hiểm như: Nước sôi, roi sắt, xích cùm…
- Theo con số thống kê của Bộ Lao động – Thương binh xã hội, đến nay, cả
nước có hơn 25 triệu trẻ em, chiếm 29% tổng dân số, trong đó có hơn 1,4 triệu
em có hoàn cảnh đặc biệt, hơn 1,2 triệu em bị khuyết tật… Tuy nhiên, điều đáng
lo ngại hiện nay là tình trạng ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột trẻ em vẫn
diễn biến phức tạp và trở thành vấn đề bức xúc cho xã hội. Năm 2019 là 3000
vụ đến năm 2021 đã tăng lên 7000 vụ. Đó là con số thống kê các vụ việc bị phát
hiện đưa ra ánh sáng, bị xử lí còn con số thực tế có thể lớn hơn rất nhiều.
- Có những hình thức bạo hành trẻ em như sau:
+ Bạo hành thể xác: Những hành vi bạo lực như đánh, đấm, tát… tác động
trực tiếp đến sức khỏe nạn nhân. Kiểu hành vi này hay xảy ra khi hai bên chênh
lệch về sức mạnh thể chất như giữa chồng và vợ, bố mẹ và con cái hoặc con cái
và bố mẹ già.
+ Bạo hành tinh thần: Chửi bới, mắng nhiếc, im lặng không nói chuyện
trong thời gian dài…

b. Nguyên nhân
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trẻ em trong gia đình,
trước hết phải kể đến nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo
vệ trẻ em chưa đầy đủ và phần nào đó còn bị xem nhẹ, nhiều thói quen,
phong tục, tập quán như  văn hoá ″Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt
cho bùi” ″ bấy lâu nay khiến cho người ta coi chuyện đánh con là “bình
thường” đó là quyền của cha mẹ phải dạy cho con nên người.
- Do thiếu hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật về quyền trẻ em nói
riêng, chưa được các cấp, các ngành quan tâm, đấu tranh loại bỏ, tuyên
truyền nâng cao hiểu biết cho các bậc cha mẹ về quyền trẻ em. Từ việc gia
đình không có được một chức năng bình thường, cho đến sự thiếu thông
đạt, sự khiêu khích của người phối ngẫu, hay sự dồn nén tâm lý của một
người, hoặc vì các chất kích thích như rượu, thuốc, hoặc vì thiếu một cuộc
sống tâm linh, cho đến những sự khó khăn về kinh tế, vv đều dẫn đến bạo
hành trẻ em.
- Kết quả của những sự nghiên cứu về bạo hành đã chứng minh rằng những
người có hành vi bạo lực thường muốn chế ngự người khác. Một người có
hành vi bạo lực chẳng những có thể dùng vị trí thượng phong về thể lý,
nhưng còn có thể dùng những khả năng trỗi vượt về tinh thần, tâm lý, về
kiến thức, uy quyền, sự thông đạt, và ngay cả về phương diện mầu da, hay
tiếng nói …vv.
- Nhận thức về sự nguy hại nhiều mặt và hậu quả lâu dài, nghiêm trọng của
các hành vi xâm hại tình dục, bạo lực đối với trẻ em chưa được cảnh báo
đúng mức, đa phần những trẻ em bị ngược đãi, xâm hại và bị bóc lột có
tâm lý mặc cảm, tự ty hoặc tâm lý thù hận đối với xã hội và sau này khi
trưởng thành nhiều em trong số đó cũng ứng xử tương tự đối với người
khác.
- Trong khi đó, vai trò bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của gia đình,
cộng đồng chưa được coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em của cha mẹ, người chăm sóc trẻ và của chính bản thân trẻ
chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng còn
hạn chế, trẻ em dễ trở thành nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại
tình dục và dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội.
- Tình trạng nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ ly hôn,
ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật…cũng là nguyên
nhân dẫn đến việc trẻ bị bạo lực.
- Nhận thức về bảo vệ trẻ em còn hạn chế thể hiện ở khía cạnh thiếu hiểu
biết về luật pháp, về các hành vi vi phạm quyền trẻ em, dẫn đến tình trạng
người thân trong gia đình xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em (khoảng 50%
tổng số vụ vi phạm) và các thành viên khác trong xã hội phạm tội nghiêm
trọng đối với trẻ em đến mức phải xử lý hình sự.
- Môi trường xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến bạo lực trẻ em như:
cha mẹ bị cuốn vào tệ nạn xã hội, nghiện hút, cờ bạc, rượu chè; cha mẹ
mâu thuẫn hoặc ly hôn, lối sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm với con cái.
- Bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự loại bỏ thai nhi
khi biết là gái, vứt bỏ trẻ sơ sinh là gái và bạo lực với trẻ em gái.

c. Hậu quả
Hậu quả của bạo hành trẻ em không chỉ về mặt thể xác mà còn về tinh thân; hậu
quả của bạo hành trẻ em sẽ gắn liền; theo sao mỗi cá nhân đến suốt cuộc đời.
- Bạo hành ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất của trẻ
Bạo hành làm trẻ không thể phát triển về thể chất một cách bình thường; như trẻ
còi cọc; chậm lớn; đau bụng; rối loạn tiêu hóa; nước da tái; môi nhợt nhạt; ánh
mắt đờ đẫn bạc nhược hoặc hung dữ.
- Ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ
Việc bạo hành trẻ em không chỉ gây ra những hậu quả nặng nề về sức khỏe thể
chất; mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần của trẻ kéo theo
nhiều hệ lụy tâm lý. Tất cả những hành động như đánh đập; vùi dập; khủng bố;
làm nhục; … đều khiến đứa trẻ thiếu tự tin, rụt rè; luôn trong trạng thái thảng
thốt. Khi bị bạo hành thường xuyên sẽ khiến trẻ có những rối loạn hành vi; và
ứng xử.  Nhiều trường hợp vì bị bạo hành quá nhiều nên kéo theo sự thay đổi về
tâm tính; khả năng nhìn nhận những mặt tốt – xấu trong xã hội bị ảnh hưởng;
thậm chí trở nên vô cảm, lãnh đạm với mọi thứ xung quanh.
- Rối loạn hành vi ứng xử
Khi bị bạo hành nhiều; trẻ rất có thể thay đổi hành vi ứng xử. Có trẻ đang hiền
lành, hòa nhã; lễ phép bỗng trở nên thô lỗ; nóng nảy, cục cằn; và hung bạo;
thậm chí sẽ học theo hành vi bạo hành đối với người khác, nhìn ai cũng thấy
đáng ghét; và ra tay đánh đập; ngay cả với các loài động vật.
Ngược lại, có nhiều trẻ khi bị bạo hành sẽ thu mình lại; sống khép kín, cô lập;
hay buồn phiền suy nghĩ, luôn thấy tự ti; ngại giao tiếp, không dám đưa ra suy
nghĩ của bản thân; và rất dễ lâm vào tình trạng trầm cảm. Nặng hơn, trẻ có thể
bị hoang tưởng, ảo giác; tâm trí bất ổn; và xa lánh mọi người; phó mặc cuộc
sống, không có ước mơ; hoài bão và mục đích, lý tưởng sống.
- Trẻ bị bạo hành có thể thành người dễ bạo lực
Điều đặc biệt lưu ý là việc bạo hành sẽ gây hậu quả trầm trọng đến việc hình
thành; và phát triển nhân cách của trẻ. Bị bạo hành; trẻ dần dần hình thành một
nhân cách nhút nhát; tự ti, thiếu sự khẳng định mình.
Trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi chấp nhận; và vượt qua các thử
thách biến cố hay thất bại trong cuộc sống sau này. Vì thế, trẻ dễ mắc phải các
rối loạn stress; lo âu và trầm cảm kéo dài. Có những trẻ biểu hiện lúc nhỏ có thể
đơn giản là hung bạo; hay cáu gắt, khó tính; nhưng khi lớn lên, trẻ có thể trở
thành một con người cục cằn; lỗ mãng và độc ác. Sống trong môi trường không
lành mạnh; bị bạo hành; hoặc chứng kiến sự bạo hành, trẻ sẽ có quan niệm sống
lệch lạc; không biết tôn trọng người khác; và cũng không biết tôn trọng chính
bản thân mình. Thậm chí trẻ trở nên vô cảm; không biết lên án những hành vi
phi đạo đức của người khác.

d. Giải Pháp
Xã hội càng phát triển thì mặt trái của nó càng nhiều, tuy nhiên nhận thức của
xã hội cũng sẽ cao hơn, do đó càng cần phải nhận thức rõ hơn nữa tầm quan
trọng của trẻ em – mầm non tương lai của đất nước, và phải đề ra và thực hiện
các biện pháp để dần dần làm giảm đi tình trạng bạo hành trẻ em
- Nâng cao nhận thức của xã hội, tăng cường trách nhiệm và năng lực của gia
đình, nhà trường, cộng đồng:
Trong việc chủ động phòng ngừa có hiệu quả các hành vi bạo lực, xâm hại đối
với trẻ em. Thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức,
pháp luật, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho cha mẹ, người chăm
sóc trẻ, giáo viên, cộng đồng và bản thân trẻ em
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vệ bảo vệ trẻ em:
Sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004, trong đó xác
định rõ quyền hạn, trách nhiệm và vai trò của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội, nhà trường, gia đình và các cá nhân trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em,
đáp ứng các nhu cầu chăm sóc và bảo vệ an toàn cho mọi trẻ em; bổ sung một
chương riêng về bảo vệ trẻ em nhằm tăng khả năng phòng ngừa, ngăn chặn các
nguy cơ xâm hại, bạo lực trẻ em; bổ sung những quy định, chế tài cụ thể về các
hành vi xâm hại, bạo lực đối với trẻ em; quy định rõ các thủ tục và quy trình
phòng ngừa, trợ giúp và giải quyết các trường hợp trẻ em bị xâm hại, bạo lực,
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình
và các cá nhân phòng ngừa các hành vi xâm hại, bạo lực đối với trẻ em.
- Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình – xã hội. Nhà
trường trong việc quản lý giáo dục trẻ em:
Cần phải thực hiện tốt công tác tư vấn, tham vấn học đường và phát huy vai trò
của công tác Đoàn, Đội. Môi trường gia đình có tác động tích cực đến việc hình
thành nhân cách, do đó cha mẹ phải là tấm gương tốt để con cái noi theo. Chính
quyền địa phương phải quan tâm, chăm lo cho trẻ em. Cộng đồng không vô cảm
trước những nguy cơ trẻ em bị xâm hại, bạo lực.
- Xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện cho mọi trẻ em:
Nhằm phòng ngừa có hiệu quả các hành vi xâm hại bạo lực đối với trẻ em; ngăn
ngừa trẻ em vi phạm pháp luật, trên cơ sở thực hiện có hiệu quả việc xây dựng
xã phường phù hợp với trẻ em theo Quyết định số 37/2010/QĐ-TT ngày
22/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn xã, phường
phù hợp với trẻ em. Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “ Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm
sóc trẻ em từ trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành trong
đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ chức trong việc thực hiện công
tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phát triển đội ngũ cán bộ xã hội, cộng tác viên, tình
nguyện viên đến tận thôn, bản, khu, ấp…
Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em,
bao gồm:
+ Dịch vụ bảo vệ trẻ em trong gia đình (dịch vụ tư vấn, tham vấn gia đình và trẻ
em; các trung tâm, điểm công tác xã hội trẻ em …)
+ Dịch vụ bảo vệ trẻ em ngoài môi trường gia đình (cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở
trợ giúp trẻ em, trường giáo dưỡng..)
+ Dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp dành cho trẻ em bị xâm hại, bạo lực.

e. Ví dụ
Dư luận xã hội vô cùng phẫn nộ khi những vụ án bạo hành trẻ em trong thời
gian gần đây. Ví dụ như vụ bé Vân An (8 tuổi, TP Hồ Chí Minh) bị chính cha
đẻ và người phụ nữ mang danh mẹ kế hành hạ, đánh đập đến tử vong. Những
đứa trẻ đáng lẽ được sống trong sự yêu thương, nâng niu lại phải chịu những
trận đòn roi kinh hoàng trong chính ngôi nhà mình sinh sống. Kết cục của mỗi
vụ án, những đứa trẻ sẽ mang trong mình nỗi đau dai dẳng thậm chí có những
cháu bé đã phải ra đi mãi mãi với sự nuối tiếc, căm phẫn của người thân, gia
đình và cả xã hội. Những nỗi đau về thể xác, những sang chấn về tâm lý sẽ mãi
là ký ức đáng sợ trong suy nghĩ của các cháu. Thậm chí, có những trường hợp
đau lòng khiến các cháu phải ra đi mãi mãi để lại những sự tiếc nuối, căm phẫn
của nhiều người. Đáng buồn hơn, người gây ra đau đớn đó là những người thân
quen hay chính bố mẹ đẻ các cháu.

2. Vấn đề phạm tội ở trẻ em


a. Thực trạng:
- Những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật, tội phạm trong thanh thiếu
niên có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ. Thủ đoạn phạm tội của
nhiều đối tượng có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng, thậm chí đã hình thành các
băng nhóm nguy hiểm. Đây là hiện tượng rất đáng báo động, cần có những giải
pháp quyết liệt để xử lý, ngăn chặn.
- Thống kê của Bộ Công an cho thấy, từ năm 2018 đến quý I-2021, cả nước ghi
nhận hơn 10.000 vụ người chưa thành niên vi phạm pháp luật, với 16.000 đối
tượng có liên quan. Tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên trên địa bàn cả nước là
5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 đến dưới 16 tuổi và
70,3% đối với người từ 16 đến 18 tuổi. Từ đó có thể thấy, tình hình tội phạm, vi
phạm pháp luật ở trẻ vị thành niên có chiều hướng tăng nhanh. Trong đó, nữ
giới chiếm 5%, nam giới chiếm đến 95%.
b.Nguyên nhân, lí do:
+ Sống trong môi trường thiếu lành mạnh, bị lôi kéo bởi bạn bè xấu:
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ khiến việc
tiếp cận với phim ảnh, trò chơi trên internet rất dễ dàng. Nếu cha mẹ thiếu kiểm
soát hoặc bỏ mặc, khuyến khích cho con chơi những trò chơi bạo lực thì dễ biến
những đứa trẻ thành những đứa trẻ ưa bạo lực, sẵn sàng sử dụng bạo lực để giải
quyết các vấn đề. Các chương trình trên internet không được chọn lọc dẫn đến
việc tiếp thu nhiều thông tin độc hại khiến tâm lý, nhân cách trẻ bị ảnh hưởng.
Trong các môi trường tác động hình thành đến nhân cách của đứa trẻ thì môi
trường gia đình là quan trọng nhất, đặc biệt là cách sống, lối sống, suy nghĩ của
cha mẹ.
+ Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ từ các tổ chức, đoàn thể:
Theo Luật trẻ em và các văn bản pháp luật có liên quan thì trách nhiệm giáo
dục, bảo vệ trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà là còn có trách
nhiệm của nhà trường và xã hội, mà cụ thể là trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức xã hội, các đoàn thể có trách nhiệm bảo vệ trẻ em. Cơ chế phối hợp, trách
nhiệm cụ thể giữa các cơ quan tổ chức và chính quyền địa phương trong việc
bảo vệ trẻ em còn nhiều vấn đề bất cập. Hiện nay, mặc dù có nhiều cơ quan
cùng thực hiện giám sát quyền trẻ em, nhưng lại chưa có cơ quan nào chịu trách
nhiệm giám sát độc lập quyền trẻ em.
+ Chưa chú trọng việc giáo dục đạo đức, đặc biệt là đối với các học sinh cá
biệt:
Nội dung chương trình giáo dục phổ thông vẫn nặng về kiến thức mà chưa thật
sự chú trọng vấn đề đạo đức, kỹ năng sống và đặc biệt là giáo dục pháp luật.
+ Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa đạt kết quả cao:
Thực tế hiện nay, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, ...chưa sâu
rộng; các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường ở một số
địa phương còn mang tính hình thức; công tác quản lý, giáo dục pháp luật cho
người chưa thành niên còn nhiều bất cập, hạn chế...
+ Tiếp xúc với mạng xã hội từ nhỏ
Trong khi, các yếu tố văn hoá nước ngoài du nhập vào nước ta phong phú và
phức tạp trong quá trình hội nhập, nhưng xã hội lại thiếu một bộ lọc hiệu quả
đối với các yếu tố văn hoá đó. Kết quả là bên cạnh những yếu tố văn hoá tích
cực, tiến bộ cũng không ít yếu tố văn hoá tiêu cực. Sự bùng nổ thông tin với sự
xâm nhập của các băng, đĩa có nội dung bạo lực, khiêu dâm, đồi trụy, khiến một
bộ phận không nhỏ trẻ em vùi đầu vào các quán internet để chát, chơi game
online (chủ yếu là game bạo lực). Trong môi trường xã hội nhiều biến động đó,
đã dẫn đến đạo đức của một bộ phận không nhỏ trẻ em đi xuống, với biểu hiện
là đề cao lối sống hưởng thụ, ăn chơi lêu lổng, đua đòi thích thể hiện mình nên
dẫn đén phạm tội nghiêm trọng.
c. Hậu quả:
+ Sống trong môi trường thiếu lành mạnh, bị lôi kéo bởi bạn bè xấu:
Những đứa trẻ như tấm gương phản chiếu của cha mẹ chúng nên nếu những đứa
trẻ không được chăm sóc và dạy dỗ chu đáo sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang
bướng, thích sử dung bạo lực, thậm chí bất cần, dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê,
lôi kéo.
+ Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ từ các tổ chức, đoàn thể:
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới những “lỗ hổng” trong quá trình bảo vệ,
chăm sóc trẻ em. Chỉ đến khi những đứa trẻ trở nên hư hỏng, thực hiện các hành
vi đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì mới phát hiện ra nhiều bất cập
trong việc giáo dục, quản lý trẻ em và kết quả giải quyết vụ án hình sự cho thấy
lỗ hổng cũng như trách nhiệm của người lớn, của cơ quan tổ chức trong hoạt
động bảo vệ, giáo dục trẻ em.
+ Chưa chú trọng việc giáo dục đạo đức, đặc biệt là đối với các học sinh cá
biệt:
Những đứa trẻ có hoàn cảnh gia đình éo le, bị bạo lực gia đình nếu không được
nhà trường và giáo viên quan tâm đúng mức khiến những đứa trẻ đó bị tách
khỏi cộng đồng, dễ có những suy nghĩ tiêu cực và nhận thức không đầy đủ về
cuộc sống.
+ Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa đạt kết quả cao:
Chính vì những nguyên nhân này mà ảnh hưởng rất lớn đến lối sống, nhận thức
và ý thức chấp hành pháp luật của trẻ em; trẻ em thường dễ bị kích động dẫn
đến các hành vi bạo lực, nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên với lối sống thực
dụng, ích kỷ, coi thường pháp luật...
d. Biện pháp:
 Giải pháp về xây dựng, áp dụng, tuyên truyền pháp luật: Pháp luật về trẻ
em nằm ở là một hệ thống bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật
như:
- Giải pháp phòng ngừa tội phạm, làm cơ sở đấu tranh với tội phạm là người
dưới 18 tuổi thì cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để quy định quyền cũng
như cơ chế được thực hiện quyền của trẻ em.
- Việc áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải được vận
dụng, thực hiện một cách nghiêm túc, đầy đủ để đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của họ để người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức được sai lầm của mình,
có cơ hội sửa chữa giáo dục, cải tạo để trở thành những công dân tốt, sống có
ích cho xã hội.
- Các ban, ngành, đoàn thể địa phương cần phải tăng cường tổ chức tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về các quy định của pháp luật cho đối
tượng thanh, thiếu niên. Việc kịp thời tuyên truyền pháp luật tạo cơ hội tốt cho
người dân tiếp cận dễ dàng, hiểu rõ hơn về thủ đoạn, nguyên nhân phát sinh tội
phạm từ đó tự xây dựng cho mình ý thức phòng ngừa trở thành nạn nhân của tội
phạm cũng như hình thành các kỹ năng khác trong phòng, chống tội phạm.
 Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, tăng cường các biện pháp
quản lý xã hội, đặc biệt là quản lý trên không gian mạng:
- Việc giáo dục đạo đức phải kết hợp với giáo dục pháp luật và kỹ năng sống để
những đứa trẻ phát triển toàn diện, không chỉ nhận thức được những kiến thức
khoa học mà còn biết vận dụng, ứng xử trong đời sống xã hội. Khi trẻ em được
giáo dục ý thức tôn trọng, biết sẻ chia, sống có đạo lý thì nguy cơ trở thành tội
phạm sẽ giảm đi rất nhiều. Nhà nước cũng cần phải ban hành và thực hiện các
quy phạm pháp luật để giúp trẻ nhận thức và phát triển hình thành nhân cách
của trẻ em, nghiêm cấm và xử lý kịp thời các hoạt động có tính bạo lực, kích
động bạo lực, lôi kéo làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển hình thành nhân cách
của trẻ em.
 Nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, tổ chức đoàn thể
và chính quyền địa phương:
- Cần đẩy mạnh giáo dục gia đình. Gia đình phải quan tâm giáo dục đạo đức, lối
sống; kiểm soát được các mối quan hệ xã hội của chính con em mình để kịp thời
phát hiện, chấn chỉnh những hành vi lệch lạc, sai trái, phải bồi dưỡng, giáo dục
cho người chưa thành niên nhận thức đúng và có hành vi chuẩn mực, có kiến
thức pháp luật.
- Nhà trường cần tổ chức các biện pháp quản lý khoa học, chặt chẽ đối với học
sinh; nâng cao vai trò, trách nhiệm của giáo viên trong việc chăm sóc, giáo dục
học sinh; tăng cường công tác tuyên tuyền, giáo dục pháp luật trong nhà trường
và phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với gia đình trong việc
trao đổi thông tin để cùng quản lý giáo dục các em phát triển toàn diện.
- Mặt trận Tổ quốc, Tổ dân phố, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Ủy ban nhân dân
cấp xã phường,.. cần nắm bắt tình hình, kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ và bảo vệ trẻ
khi trẻ bị xâm hại đến quyền, ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân
cách của trẻ và cũng cần có sự quan tâm tạo ra các sân chơi lành mạnh để
hướng các em vào một môi trường tốt, tránh xa các tệ nạn xã hội…
 Vấn đề giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho người dân:
- Gia đình phải đảm bảo về điều kiện kinh tế, văn hóa. Khi đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội phát triển thì trẻ em có nhiều cơ hội hình thành nhân cách và phát
triển bản thân tốt hơn.
e. Ví dụ
Vụ án mạng kinh hoàng xảy ra cách đây không lâu tại địa bàn xã Tân Lập giữa
nhóm thanh thiếu niên xã Tân Lập với nhóm thanh thiếu niên xã Trung Hòa
(huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) là một minh chứng điển hình. Lêu lổng, đua
đòi, các đối tượng lên mạng facebook và thành lập nhóm có tên “1 sống - 2
chết”, tập hợp khoảng 20-30 thành viên tham gia. Chỉ là do mâu thuẫn cá nhân,
ngày 23.1, tại khu vực Vòng xuyến Yên Mỹ, giữa hai nhóm xảy ra xô xát. Hậu
quả là Lê Văn Hai (Sinh năm 2003 tại xã Trung Hòa) bị đối tượng Nguyễn Văn
Nhớ (Sinh năm 2001 tại xã Tân Lập) đâm tử vong. Đáng nói, đa số các đối
tượng vi phạm còn lại trong nhóm này đều trong độ tuổi 15 đến 16. 
3. Vấn đề giáo dục của trẻ em vùng cao
a. Thực trạng:
- Trước yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập khu vực và
quốc tế, đồng thời, nhằm thực hiện chính sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”, xoá dần khoảng cách chênh lệch
về giáo dục giữa “miền ngược và miền xuôi”, đòi hỏi công tác giáo dục ở các
vùng dân tộc thiểu số phải tiếp tục được quan tâm, đầu tư hơn nữa. Thực trạng
đói nghèo, kém phát triển, chưa nhận thức và sự hiểu biết về chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; còn nghe theo kẻ xấu lừa phỉnh gây mất ổn định an
ninh chính trị ở một số vùng dân tộc hiện nay có nguyên nhân chủ yếu là do
trình độ học vấn của đồng bào còn hạn chế, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới, hải đảo.
- Trình độ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở vùng dân tộc thiểu số còn hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương.
Tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện còn
thấp (khoảng 11,32%). Trong tổng số 48.200 cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, số
người có trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45,7%, tiểu học 18,7%, chỉ có
1,9% có trình độ cao đẳng và đại học. Đội ngũ cán bộ thôn, bản, phum, sóc
năng lực, trình độ còn thấp hơn nhiều. Bên cạnh đó, lực lượng trong độ tuổi lao
động của vùng dân tộc thiểu số đã qua đào tạo mới đạt 10,5%. Nguồn nhân lực
vùng dân tộc thiểu số có trình độ đại học và trên đại học mới đạt 2,8%, riêng
người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 1,1%, thấp hơn 4 lần so với toàn quốc. 
- Nhìn chung, mặt bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu
số vẫn còn có khoảng cách đáng kể với dân tộc đa số. Chất lượng nguồn nhân
lực đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thiếu
về số lượng và một bộ phận yếu về trình độ chuyên môn. Vùng đồng bào dân
tộc thiểu số so với mặt bằng chung cả nước, chênh lệch giàu nghèo giữa các
vùng miền, giữa các dân tộc còn cao và có nguy cơ ngày càng rộng ra, thể hiện
ở tỷ lệ biết chữ của trẻ em dân tộc thiểu số chỉ đạt tỷ lệ 78% so với tỉ lệ biết chữ
chung, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số trên 30% (hiện còn hơn 2.000 xã và trên
18.000 thôn, bản đặc biệt khó khăn). Tỷ lệ mù chữ, tái mù chữ trong đồng bào
còn khá cao, tỷ lệ người có trình độ học vấn cao là rất thấp (dân tộc Brâu là dân
tộc chưa có người đi học đại học).
- Nghiên cứu của Tổ chức cứu trợ trẻ em Anh vừa mới thực hiện tại Việt Nam
cho thấy, tỷ lệ trẻ em đến trường ở bậc tiểu học gần như là phổ cập (đạt gần
95%). Tuy nhiên, nếu tính riêng ở khu vực dân tộc thiểu số thì tỷ lệ trẻ em đến
trường bậc tiểu học chỉ đạt khoảng 80% và bậc trung học cơ sở là 77%.
b. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân học sinh bỏ học trước hết là do hoàn cảnh khó khăn nên các em
muốn nghi  học đi lao động phụ giúp gia đình, nhất là vùng núi, biên giới, hải
đảo, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, lạc hậu, ở một số vùng đồng bào dân
tộc thiểu số chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, do tảo hôn
do bị người thân, bạn bè rủ rê hoặc nhà ở xa trường học, đi lại khó khăn góp
phần làm tăng số trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học sớm bởi đói
nghèo. “Đói chữ chẳng bằng đói cơm”, “Văn hay chữ tốt không bằng thằng dốt
lắm tiền” – đó là cách suy nghĩ vẫn còn tồn tại ở một số cha mẹ trong thời đại
“kỹ thuật số” này. Đối với họ, lợi ích kinh tế trước mắt quan trọng hơn rất nhiều
việc đầu tư cho con học hành. Điều tất yếu xảy ra là trong số những thanh niên
Việt Nam không được đi học trung học, có tới gần một nửa bị đói nghèo ngăn
bước đến trường.
- Là do nhiều gia đình dân tộc còn quan điểm cổ hủ “trọng nam khinh nữ”, chỉ
có con trai mới cần phải đi học còn con gái đến 13-14 tuổi nên đi lấy chồng. Về
phía học sinh, nhiều em vì không có thời gian để làm bài tập về nhà cũng như
không có ai giúp đỡ hiểu thêm bài khi cô giáo giao nên dẫn đến học lực của
những em này thường rất kém và cuối cùng chán nản bỏ học luôn khi mới chỉ
học hết đến lớp 6.
- Hiện nay, thì có rất nhiều nguyên nhân trẻ em không được đi học trước hết là
do bỏ học nhất là việc các gia đình Việt buông lỏng quản lý, giáo dục con em
mình do bận rộn với công việc mà không chú ý, đôn đốc việc học tập của con
cái nhất là những học sinh lêu lổng, ham chơi, cá biệt, những học sinh có sức
học yếu, hổng kiến thức chán học, bỏ học nên không theo kịp chương trình nên
bỏ học. Có những học sinh chỉ thích theo bố mẹ đi làm nương rẫy, không thích
đến trường.
- Môi trường học tập tại trường chưa đủ hấp dẫn, thiếu các hoạt động ngoại
khoá cộng thêm điều kiện vật chất khó khăn.
- Chất lượng và phương pháp giảng dạy của giáo viên vùng dân tộc thiểu số
chưa đảm bảo cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều giáo viên chưa
có phương pháp dạy học để thu hút học sinh.
c. Hậu quả:
- Nhiều em gái chỉ học hết cấp tiểu học là ở nhà và chuẩn bị xây dựng gia đình.
mất thời lượng học, giảm sự hứng thú khi đến trường ở trẻ em, khiến các em dễ
dàng bỏ học ngay cả vì những lý do rất đơn giản như trường học cách xa nhà.
Đây cũng là nguyên nhân khiến nhiều trẻ em không đến trường hoặc không
muốn đi học nữa.
- Nhiều học sinh có kết quả học tập kém sử dụng tiếng dân tộc chưa thành thạo,
học sinh dân tộc thiểu số phải sống trong điều kiện nội trú không đủ đảm bảo vệ
sinh và độ an toàn.
- Về tâm lý, các nghiên cứu cho thấy việc ở nhà quá lâu làm tăng lo âu, căng
thẳng, thậm chí là các dấu hiệu trầm cảm ở cả trẻ rất nhỏ cho tới độ tuổi thanh
thiếu niên; có thể thay đổi vĩnh viễn mức nhạy cảm của hệ thần kinh với các dẫn
xuất thần kinh và hormone gây căng thẳng trong cơ thể. 
- Về thể chất, làm giảm sức đề kháng của các bạn nhỏ, tăng khả năng gặp các
vấn đề về tim mạch và cân nặng. Về phát triển trí tuệ, việc thiếu vắng các tương
tác xã hội đa dạng còn làm giảm chỉ số trí tuệ IQ, giảm các phản xạ xử lý thông
tin từ môi trường.
- Có thể thấy, tình trạng học sinh bỏ học nói chung, học sinh dân tộc thiểu số bỏ
học nói riêng dẫn đến rất nhiều hệ lụy, các em thiếu kiến thức dẫn đến các hành
vi lệch lạc, không đúng chuẩn mực, dễ sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc,
rượu chè, nghiện hút... Ngoài ra, các em không có điều kiện tham gia vào các
công việc đòi hỏi kỹ thuật cao mà chỉ làm các công việc lao động chân tay đơn
giản, hiệu quả và thu nhập thấp. Do đó, làm giảm tiềm năng cá nhân của các em
mà còn làm tăng các chu kỳ nghèo đói và bất lợi của mọi thế hệ và cả quốc gia.
d. Giải pháp:
- Việc tuyên truyền viên để kêu gọi và hỗ trợ các gia đình dân tộc thiểu số đưa
con em mình đến trường cũng là một giải pháp nhằm giúp cho trẻ em vùng sâu,
vùng xa đến trường nhiều hơn và không bỏ học giữa chừng.  
-Việc huy động trẻ đến trường cũng như nâng cao chất lượng dạy và học cho trẻ
em vùng dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn là một vấn đề mà
ngành Giáo dục đang quan tâm. Thiết nghĩ, ngoài sự kết hợp chặt chẽ giữa địa
phương-gia đình- nhà trường và học sinh đòi hỏi cần có sự đầu tư và hỗ trợ kinh
phí từ Nhà nước cho những vùng đặc biệt này.
- Tăng nguồn đầu tư cho công tác phát triển giáo dục ở vùng biên giới, vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có dân số ít. Phải có sự phối hợp đồng bộ
giữa chính sách của Đảng và Nhà nước với hoạt động của ngành giáo dục và sự
đóng góp của toàn dân cho sự nghiệp giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Vì vậy, xã hội hoá giáo dục để toàn dân cùng quan tâm đóng góp một cách
thiết thực là một trong những biện pháp hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện
nay.
- Phải đào tạo đội ngũ giáo viên là người dân tộc thiểu số có trình độ cả về sư
phạm và kiến thức cho từng vùng, từng dân tộc. Bên cạnh việc đào tạo, cần xây
dựng chế độ đãi ngộ và sử dụng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục,
sao cho họ yên tâm với nghề nghiệp, gắn bó với sự nghiệp “trồng người” ở
chính quê hương của họ.
- Ngành giáo dục phải xây dựng chương trình, sách giáo khoa và phương pháp
dạy học phù hợp với đối tượng học của từng dân tộc, từng vùng trên cơ sở 2
ngôn ngữ (ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ phổ thông).
- Có chính sách đặc thù đối với con em đồng bào các dân tộc sau khi tốt nghiệp
phổ thông trung học, nếu không thi được vào các trường trung cấp, cao đẳng,
đại học thì bố trí cho đi học nghề và giải quyết công ăn, việc làm sau khi ra
trường để tránh lãng phí tiền của, công sức của bản thân học sinh, gia đình và
nguồn nhân lực cho sự phát triển các vùng dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc
tế sâu rộng ở nước ta hiện nay.
e. Ví dụ
Cô Nguyễn Thị Phượng, giáo viên Chủ nhiệm lớp 6B, Trường THCS Hùng
Vương cho biết: Lớp 6B có 20 em đến lớp nhưng có đến 8 em bỏ học. Nhà
trường đã phối hợp với địa phương nhiều lần đến vận động. Những học sinh này
đều có hoàn cảnh hết sức khó khăn. Đến nay mới chỉ có 2 em đi học trở lại. Nhà
trường đang tiếp tục đến nhà những em khác để vận động các em ra lớp.

Riêng Trường THCS Dang Kang có 8 em bị kẻ xấu lôi kéo, bỏ học đi lao động
tại TP. Hồ Chí Minh. Điều đáng ngại là một số phụ huynh đồng tình cho con em
mình bỏ học, theo kẻ xấu đi lao động ở các tỉnh xa. Nhà trường phối hợp với địa
phương vận động gia đình đưa được 4 em quay về.

KẾT LUẬN
- Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi và gió dục con trẻ là quá trình hoạt
động có mục đích để những quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em đi vào cuộc
sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân, gia đình bảo đảm trẻ em được sống trong môi trường an toàn,
lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ
giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
- Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới phê chuẩn CRC
và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em Luật Trẻ em
năm 2016 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia bảo vệ trẻ em tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện
là cơ sở pháp lý vững chắc ở Việt Nam.
- Thực tiễn ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy, bên cạnh những kết quả
đạt được còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cần tiếp tục nghiên cứu một cách
thấu đáo trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về trẻ em, từ đó đề xuất
những giải pháp đồng bộ bảo đảm cho trẻ em.
- Trên cơ sở nghiên cứu về trẻ em ở Việt Nam hiện nay, báo cáo rút ra một số
kết luận sau:
+ Nghiên cứu, phân tích đưa ra được các khái niệm về trẻ em và bảo vệ trẻ em.
Đồng thời chỉ ra được những đặc điểm, vai trò của trẻ em; nêu ra những phân
tích các hình thức bảo vệ trẻ em là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
+ Phân tích các điều kiện bảo đảm pháp lý về bảo vệ trẻ em, đó là các điều
kiện về chính trị, pháp lý, tổ chức và các điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội, các
điều kiện bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp lý, bảo đảm về tổ chức, thì
đồng thời cần phải đẩy mạnh việc xây dựng môi trường văn hoá - xã hội, phát
triển kinh tế tạo cho các chủ thể và toàn xã hội có quan niệm đúng về quyền trẻ
em và bảo vệ trẻ em.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm của nước về xây dựng pháp luật về trẻ em, cho thấy
đây là vấn đề được quốc tế và các quốc gia đều quan tâm, với nhiều sự vận dụng
khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và hoàn cảnh của
mỗi nước. Từ những kinh nghiệm đó, Việt Nam có thể tham khảo, vận dụng
sáng tạo trong điều kiện thực tế của Việt Nam.
+ Đánh giá được những ưu điểm, nguyên nhân của ưu điểm, những hạn chế và
nguyên nhân của hạn chế. Trong đó chỉ ra được những hạn chế về pháp luật về
trẻ em.
+ Đảng và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ quyền
con người và quyền trẻ em; bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em phải
phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và các bảo đảm sự thống nhất nhận
thức của nhận thức của các chủ thể về trách nhiệm, vai trò và sự phối hợp trong
chiến dịch vì trẻ em.

You might also like