Professional Documents
Culture Documents
Vai trò của Hồ Chí Minh trong sự ra đời của Đảng ta được thể hiện:
(CÓ KHẢ NĂNG)
- Một là, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc Việt Nam. Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu chân Người từng
in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong 10 năm (1911 - 1920).
Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận
thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan trọng, đó là
nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Người đã tìm
thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Có
thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng
cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân tộc,
Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thông điệp về hòa
bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là
kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
- Hai là, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
trong nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng. Khi xác định con
đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo cách mạng Tháng
Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt động thực tiễn tích
cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt
Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn con đường đến
hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
+ Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên
án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu
gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng
vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất
của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời tiến
hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc.
+ Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm
chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc
bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển
thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
+ Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra
đời của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo
cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa
chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán
bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho
những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư
tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người
trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp
tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn
Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào
"vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu
tranh cách mạng một cách tự giác. Thông qua phong trào “vô sản hoá”, lớp lớp thanh
niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân
sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự
ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp
qui luật cho sự ra đời của Đảng.
- Ba là, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù chưa nhận
được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam. Song với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng trách lịch sử
đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long –
Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng
(2 đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng
Mậu và Lê Hồng Sơn). Còn Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã thành lập, song chưa
có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày 24/02/1930, tổ chức này
được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam). Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên
Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách
lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.
+ Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể
hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” (tức cách mạng dân tộc dân chủ), “thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Nhiệm
vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, tức cách mạng dân tộc, dân
chủ, trong đó giành hết độc lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam, trước
hết phải làm “dân tộc cách mệnh”, tức trước hết phải đánh đổ sự cai trị, nô dịch dân
tộc của chủ nghĩa đế quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước
mình: “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều
nhất trí chống lại cường quyền”[4]. Có thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí
Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa như
nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi
đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, ở Việt Nam. Đây là một luận
điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng là
một đóng góp đặc sắc, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin trên phương diện lý
luận về các mô hình vận động, phát triển của cuộc cách mạng vô sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có vai trò to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực hoạt động nhận thức, phát triển lý luận
cách mạng gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của Người, đặc biệt là ở
những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập. Nói cách khác, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Trải qua 92 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành
được những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đoàn kết, đồng lòng đánh thắng
các thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử như Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 -1954, cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước 1954 - 1975. Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc đổi mới sau 35 năm
qua, càng chứng minh cho sự lựa chọn đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to
lớn đó đã chứng minh một chân lý: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” [5].
- Kỷ niệm 92 năm thành lập Đảng, chúng ta càng thấy công lao to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tưởng nhớ và khắc sâu
công lao to lớn của Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập, nghiên cứu trau
dồi kiến thức lý luận và thực tiễn, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong
cách Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn
công cuộc đổi mới đất nước. Qua đó, tích cực đấu tranh chống các quan điểm sai trái
phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam, góp phần bảo vệ Đảng, lãnh tụ, chế độ và thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Hồ Chí Minh: Vai trò trong chiến tháng Cách mạng Tháng tám 1945
(CÓ KHẢ NĂNG)
- Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng thiên tài về trí tuệ, nhãn quan
chính trị sắc bén cùng Trung ương Đảng hoàn chỉnh đường lối chỉ đạo chiến lược
của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1-9-1939) với sự kiện Đức tấn công Ba Lan,
chiến tranh lan rộng khắp thế giới. Hội nghị Trung ương lần VI (tháng 11-1939), Hội
nghị Trung ương lần VII (tháng 11-1940) đã họp phân tích tình hình trong và ngoài
nước, các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trước mắt, quyết định điều chỉnh về đường lối
và phương pháp cách mạng, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung mũi nhọn
vào chống bọn đế quốc và tay sai. Đặc biệt, ngày 28-1-1941 Hồ Chí Minh trở về nước
sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Người sáng lập ra Đảng ta nay trở về
trực tiếp lãnh đạo cùng toàn Đảng chèo lái con thuyền cách mạng của dân tộc. Với sự
nhạy bén của mình ngay khi về nước, Người đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ VIII (từ ngày 10 đến 19-5-1941) tại Cao Bằng. Hội nghị đã quyết định cần
giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc. Điều này đã cho thấy sự đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và Bác trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hội nghị đã
hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, vạch ra những chính
sách cụ thể, sát hợp nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân
tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội. Có thể khẳng định rằng, Hồ Chí Minh là người có công lao trước
tiên trong việc khởi xướng, phát triển và hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc, mà đây chính là nhân tố hàng đầu quyết định đến sự thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
- Thứ hai, nhận định đúng tình hình, xác định kẻ thù trực tiếp, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo nhân dân chớp thời cơ lãnh
đạo nhân dân giành chính quyền.
Khi Nhật đầu hàng đồng minh (13-8-1945), Đảng ta đã khẳng định, tình thế
cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ hội giải phóng dân tộc ngàn năm có một. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 25 triệu đồng bào ta đã vùng lên giành
chính quyền, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 02-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh khổng lồ của gần một triệu đồng bào,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng vận dụng một cách sáng tạo
để lựa tình thế, chọn thời cơ, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm
chiến lược. Thắng lợi đó cũng chứng minh rằng, một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu
có truyền thống nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết, sáng tạo dưới
sự lãnh đạo của Đảng cách mạng chân chính có thể làm nên những sự kiện vĩ đại
có tầm vóc đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới.
- Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người có vai trò lớn nhất trong việc khai
sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 26-8-1945, Người mở phiên họp đầu tiên với Ban Thường vụ Trung ương
Đảng để thảo luận các vấn đề quan trọng. Tại số nhà 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập và tranh thủ ý kiến của
các đồng chí lãnh đạo Đảng. Sau những ngày chuẩn bị khẩn trương, một cuộc mít tinh
lớn của nhân dân Hà Nội đã diễn ra tại Quảng Trường Ba Đình chiều ngày 02-9-1945.
Trong buổi lễ long trọng đó, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ
lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945) là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng dân tộc mà ý nghĩa của những tư tưởng đó vẫn còn giá trị lâu dài.
Nhiều bài học kinh nghiệm trong Cách mạng Tháng Tám (1945) của Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Đó là bài học về sự kiên quyết điều chỉnh đường lối cách
mạng khi cần, trên cơ sở phương hướng chiến lược cách mạng đúng đắn, mục tiêu
cách mạng nhất quán. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Đảng không ngừng bổ sung,
phát triển, cụ thể hóa đường lối cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Bài
học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ để giành thắng lợi. Nghệ thuật chớp thời cơ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn luôn là bài học
cực kỳ quý báu cho cả hiện tại và tương lai, đang được Đảng và nhân dân ta kế thừa,
phát huy, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc
xây dựng đất nước. Bài học về tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn toàn dân tham gia sự nghiệp
cách mạng, tham gia sự nghiệp xây dựng đất nước; nâng cao ý thức tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của dân tộc, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế. Bài
học về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; giữ vững
ổn định chính trị, xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho
công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Vai trò của Đảng trong cách Mạng tháng Tám 1945
(CÓ KHẢ NĂNG)
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng tháng
Tám 1945
1.1. Xác định đúng chiến lược và sách lược
Trải qua các cao trào cách mạng: 1930-1931, 1936-1939 và đặc biệt là cao trào
giải phóng dân tộc 1939-1945 đã chứng minh rõ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám,
Bước vào năm 1945, những thế lực phát - xít Đức, Ý, Nhật bị thất bại nặng nề
trên khắp các chiến trường Âu - Á; quân đội Xô - viết và các lực lượng chống phát -
xít chiến thắng vẻ vang, tạo nhân tố quốc tế thuận lợi cho các dân tộc bị áp bức, nô
dịch có thể đứng lên giành lấy độc lập, tự do. Đối với cách mạng Việt Nam, sau ngày
phát - xít Nhật đảo chính lật đổ Pháp (ngày 9-3-1945), Thường vụ Trung ương Đảng
đã kịp thời ra Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng đã có
chủ trương rất sáng suốt, kịp thời và cụ thể, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước
mạnh mẽ, từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên tổng khởi nghĩa; kết hợp chặt chẽ đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và công tác binh vận...Nét đặc sắc, tiêu biểu và
độc đáo trong chủ trương của Đảng ta phát động cuộc tổng khởi nghĩa là việc chọn
thời điểm và địa điểm tiến hành khởi nghĩa.
1.2. Tổ chức và xây dựng lực lượng
Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền trong cả nước. Ban Thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự
Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định thống nhất các lực
lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ
trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa
cho kịp thời cơ. Được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các
nước Đồng minh, ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào
(Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp
thời phát động, lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật
và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam. Ngay đêm
13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Trường Chinh -
Tổng Bí thư phụ trách. Uỷ ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ tịch
Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng bào
cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đến đây, trong một thời
gian dài chuẩn bị lực lượng từ năm 1930, Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân
dân chớp thời cơ nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vô cùng
quan trọng để cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi.
1.3. Chớp thời cơ để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
Trong bối cảnh 16 nghìn quân Anh chưa vào miền Nam và khi 20 vạn quân
Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; quân Nhật bại trận mất tinh thần,
hoang mang, rệu rã ngồi chờ quân Đồng minh đến tước vũ khí; còn chính quyền bù
nhìn tay sai Trần Trọng Kim thì bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng, có thể
khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám là Đảng ta đã phát hiện thời cơ và chớp thời cơ để cuộc Tổng khởi nghĩa nổ ra
đúng lúc, giành thắng lợi trong cả nước, ít đổ máu. Đồng thời, thắng lợi này là do lãnh
tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhanh chóng và kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược cách mạng. Sự chủ động và nhạy bén đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng,
đường lối, quan điểm đúng đắn, trí tuệ tập thể của Đảng và vận dụng động trung
thành, sáng tạo, phát triển quy luật về thời cơ cách mạng, chứng tỏ tầm nhìn thời đại
của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp chặt chẽ điều kiện
khách quan và chủ quan: Kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng
với tinh thần yêu nước, dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta; kết hợp sức
mạnh dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng với những chiến công của quân đội Liên Xô,
phe Đồng minh và thắng lợi của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên toàn thế giới.
Trong đó, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định; vì thời cơ cách mạng xuất
hiện như một tất yếu (trong thời gian rất ngắn, khoảng 2 tuần, sau khi phát xít Nhật
đầu hàng quân Đồng minh đến khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương để giải
giáp quân đội Nhật), nếu Đảng tiên phong không chuẩn bị thời cơ, chờ đón thời cơ và
chớp thời cơ kịp thời thì điều kiện khách quan dù có thuận lợi đến đâu, cách mạng
cũng không thể nổ ra và giành thắng lợi hoàn toàn được.
Như vậy, cuộc cách mạng tháng Tám thành công một cách mau lẹ, trọn vẹn là
do nhiều nhân tố, nhưng trước hết và quyết định nhất là vai trò lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt và nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
1930-1945 (CÓ KHẢ NĂNG)
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là kết quả của quá trình vận
động cách mạng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại; là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển
của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân
Pháp. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong, trực tiếp nắm chắc ngọn cờ
lãnh đạo để dẫn dắt nhân dân ta tiến tới cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh
cao là Xô viết Nghệ -Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả
nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến. Thành quả lớn nhất
của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và
phong kiến đã không thể nào xóa nổi là, nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo
duy nhất thuộc về Đảng ta; nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng. Trong khi khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng
cách mạng to lớn của công nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của
giai cấp phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định
đối với sự phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Cao trào cách mạng 1930-1931
là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền
trên cả nước.
Đảng lãnh đạo cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939
Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết
hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân
dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách mạng tiến
bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc địa, chống phát
xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng
1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi với
nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú, kể cả việc lợi dụng các
“Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng đã động
viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp.
Sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh
đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu
quyết liệt trong những năm 1940-1945.
Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng
đã họp Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội
dung: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu
hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ
đế quốc và tay sai, giành độc lập hoàn toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Tháng 11-
1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh),
khẳng định chủ trương của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 là đúng. Tháng 5-1941,
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 họp tại Pắc Bó (Cao Bằng), do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện thêm một bước đường
lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề
dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương và chủ trương thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị quyết định thành lập tổ chức Việt
Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, gồm các đoàn thể cứu quốc trên
cả nước. Hội nghị nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm và dự kiến một số chủ trương, chính sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập
tại tỉnh Cao Bằng. Cùng với đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và
cả căn cứ địa cách mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên
khắp cả nước, đâu đâu cũng diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân
tộc. Qua các cuộc vận động cách mạng đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình
thành các chủ trương, quyết sách, đồng thời đẩy mạnh xây dựng một cách toàn diện
các lực lượng cách mạng, gấp rút chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thắng lợi.
Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa
giành chính quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc.
Tại khu vực Đông Dương, do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật
tiến hành đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương (vào đêm 09-3-1945).
Ngay lúc đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp đánh giá tình hình và ra chỉ thị
“Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ: Cuộc đảo
chính Nhật - Pháp làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Kẻ thù
chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật; phải
nhanh chóng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới
tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng
khiếp và làm chết gần hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc
của Nhật để cứu đói”. Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng, nhất là nông
dân, đứng lên chống Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa tháng 3-1945,
cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực
lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và vũ trang, đã phát triển rộng rãi
khắp nông thôn và đô thị.
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh
vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai
Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Trước tình hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở
Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí
Minh, thống nhất với chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng
phát động toàn dân kịp thời đứng lên tổng khởi nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ
tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước
đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương
nhiệt liệt hưởng ứng. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền đã thắng lợi hoàn toàn trên cả nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa
phương đã thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày 02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình,
Hồ Chủ tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng tuyên bố với nhân dân trong
cả nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời, có
chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam
(Đảng) đã đóng vai trò lãnh đạo quan trọng và có sự ảnh hưởng sâu sắc.
Đầu tiên, Đảng đã đưa ra chiến lược và chủ trương đúng đắn để giải phóng dân tộc.
Điều này bao gồm việc xây dựng một đội ngũ lãnh đạo vững mạnh, tập trung vào việc
tổ chức và kích hoạt các cuộc khởi nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc. Đảng đã
đưa ra các mục tiêu cụ thể như đánh đổ chế độ thực dân Pháp, thiết lập chính quyền
nhân dân, và xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ.
Thứ hai, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa và phong trào giải phóng
dân tộc. Điều này bao gồm việc thành lập các tổ chức cơ sở như Việt Nam Quốc dân
Đảng, Việt Minh và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo các cuộc khởi
nghĩa và phong trào như Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, Khởi nghĩa Hà Nội năm 1945
và Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thứ ba, Đảng đã xây dựng và phát triển mạng lưới tổ chức và cơ cấu lãnh đạo. Điều
này bao gồm việc thành lập các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến cơ sở, đảm bảo sự
lãnh đạo và quản lý hiệu quả trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng đã đào tạo và
phát triển đội ngũ lãnh đạo với năng lực và tầm nhìn chiến lược.
Tóm lại, vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc từ năm 1930
đến 1945 là quan trọng và có sự ảnh hưởng sâu sắc. Đảng đã đưa ra chiến lược và chủ
trương đúng đắn, tổ chức và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa và phong trào, và xây dựng
mạng lưới tổ chức và cơ cấu lãnh đạo hiệu quả. Tất cả những điều này đã đóng góp
quan trọng vào thành công của sự nghiệp giải phóng dân tộc.