1. Luật tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung 2004:
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 đã góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý và công tác quản lý giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Luật, hệ thống các tổ chức tín dụng đã lớn mạnh không ngừng với hệ thống mạng lưới ngày càng mở rộng, dịch vụ và tiện ích ngân hàng ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, Luật Các tổ chức tín dụng đã bộc lộ khá nhiều hạn chế cần điều chỉnh, thay thế cho phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu phát triển mới của Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Thứ nhất, Luật được xây dựng trên quan điểm chỉ quy định những nội dung chủ yếu, bao quát, những nội dung cụ thể do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn nên phát sinh nhiều văn bản hướng dẫn dưới Luật. Việc ban hành văn bản hướng dẫn dưới Luật lại gặp nhiều khó khăn do bị chi phối bởi một số Luật liên quan khác như Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Luật đầu tư, Luật phá sản… Các luật này được quy định khá chi tiết, cụ thể, trong khi Luật Các tổ chức tín dụng là Luật chuyên ngành lại quy định thiếu cụ thể, chi tiết. Cho đến nay, việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật các tổ chức tín dụng vẫn chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng có nhiều quy định trong Luật chưa thực hiện được. Thứ hai, Luật các tổ chức tín dụng còn có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Quỹ tín dụng nhân dân là loại hình kinh tế hợp tác xã nên có quy mô, năng lực tài chính nhỏ, hoạt động ở cấp thấp nhưng vẫn bị điều chỉnh bởi hành lang pháp lý chung của các loại hình tổ chức tín dụng là chưa phù hợp. Thứ ba, một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng chưa rõ ràng, minh bạch, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện. Ví dụ, Luật không quy định rõ những nghiệp vụ nào tổ chức tín dụng đương nhiên được làm, những nghiệp vụ nào phải xin phép, nghiệp vụ nào phải thành lập công ty; việc góp vốn đầu tư thành lập công ty con và các loại hình công ty khác để thực hiện hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và các lĩnh vực khác chưa được quy định rõ ràng, nhất là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng mẹ và công ty con; nhiều thuật ngữ chưa thật chính xác dẫn đến hiểu không đồng nhất và vận dụng theo nhiều cách khác nhau; thiếu định nghĩa một số thuật ngữ cần thiết như dịch vụ ngân hàng, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng con của ngân hàng nước ngoài, luật chống rửa tiền, mua bán nợ, thư tín dụng, vốn đầu tư, các hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động đầu tư tài chính hải ngoại; một số vấn đề như cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, độc quyền, điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán…chưa được quy định cụ thể. Thứ tư, Luật các tổ chức tín dụng hiện hành chưa cập nhật được những chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất nên hoạt động của các tổ chức tín dụng bị bó hẹp, khó tiếp cận và hội nhập quốc tế. Luật quy định về áp dụng các điều ước quốc tế nhưng chưa tham khảo các cam kết tại Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, những nguyên tắc cơ bản của uỷ ban Basel… Một số nghiệp vụ mới chưa có quy định cụ thể. Thứ năm, một số điều khoản quy định trong Luật không phù hợp với hoạt động của các tổ chức tín dụng hoặc chưa thống nhất với các Luật khác làm cản trở sự phát triển của các tổ chức tín dụng. Hiệu lực thực thi pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng chưa cao dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng chưa được bảo vệ. 2. Luật tổ chức tín dụng 2010: - Bất cập của quy định về người có liên quan của Luật Các TCTD 2010 (chủ yếu xác định người có liên quan theo yếu tố định lượng) - Quy định xử phạt hành vi vi phạm của người quản lý, điều hành trong quá trình quản trị, điều hành TCTD cần chặt chẽ hơn - Quy định về 5 trường hợp xem xét đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt của Luật các TCTD 2010 còn thiếu quy định về trường hợp TCTD mất vốn lớn do nguyên nhân chủ quan khác không liên quan đến hoạt động kinh doanh của TCTD, chưa quy định rõ việc tiến hành ngay thủ tục phá sản TCTD mà không cần thực hiện kiểm soát đặc biệt đối với TCTD yếu kém không thể và không cần phục hồi... - Có quy định cụ thể về việc NHNN có quyền trực tiếp mua cổ phần bắt buộc và giao Thủ tướng Chính phủ quy định về việc mua cổ phần bắt buộc của NHNN. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện quy định này còn có nhiều ý kiến chưa đồng thuận, dẫn đến khó khăn lớn cho NHNN triển khai thực hiện. - Có quy định giao quyền cho NHNN thực hiện sáp nhập, hợp nhất bắt buộc đối với TCTD bị kiểm soát đặc biệt khi chủ sở hữu không tăng được vốn, tuy nhiên, luật chưa có các quy định cụ thể để NHNN thực hiện quyền này. - trong điều kiện ngân sách nhà nước không có nguồn lực dành cho việc tái cơ cấu TCTD yếu kém, quy định về tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng đã cản trở việc hỗ trợ vốn dài hạn của NHNN cho TCTD yếu kém thông qua công cụ tái cấp vốn. - Chưa có quy định cho vay đặc biệt để hỗ trợ nguồn vốn dài hạn để phục hồi TCTD yếu kém.