You are on page 1of 16

PHẦN 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN

CHƯƠNG 1. LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT


TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. Lãi suất


1.1.1. Khái niệm
Lãi suất bắt đầu suất hiện từ khi quan hệ mua bán , trao đổi
hàng hóa bắt đầu hình thành. Lãi suất là một trong những biễn
số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn
biễn của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí, vì trực
tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi chúng ta . Lãi
suất ( hay lãi suất tín dụng ) là một công cụ kinh tế cực kỳ quan
trọng và nhạy cảm đối với nền kinh tế , nó đóng vai trò ổn định
và góp phần hoàn thiện chính sách tiền tệ tạo ra sự kích thích
cần thiết để phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn thế giới.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm
về lãi suất . Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá
cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê
những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức
tài sản khác nhau . Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho
người cho vay một khoản tiền vốn gọi là lãi suất . Theo
Sammuelson: “Lãi suất là giá của người đi vay phải trả cho
người cho vay để sử dụng một khoản tiền trong một khoản
thời gian xác định”
Thông thường, lãi suất được biểu thị bằng một tỷ lệ phần
trăm (%) của tổng số tiền vay tính cho một đơn vị thời gian là
tháng hoặc năm.
1.1.2. Đặc điểm:
Tính cạnh tranh : Lãi suất huy động vốn hình thành trên
cơ sở cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại (NHTM) , Tổ
chức tín dụng (TCTD)… Tính cạnh tranh của lãi suất càng được
thể hiện rõ khi hệ thống các tổ chức tham gia và cung cấp tín
dụng ngày càng nhiều . Mức lãi suất hấp dẫn thì mới thu hút
được khách hàng tham gia. Do vậy , mỗi NHTM, TCTD muốn
phát triển được hệ thống của mình đều phải đưa ra được một
mức lãi suất có khả năng cạnh tranh đối với các NHTM,TCTD
khác nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình .
Tính linh hoạt : Lãi suất tín dụng hình thành một các linh
hoạt , nhạy bén, thích ứng với mọi hoàn cảnh, đối tượng . Sự
thay đổi thưởng xuyên của chính sách tín dụng phù hợp với sự
biến đổi của cung , cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi Ngân
sách Nhà nước , yếu tố tâm lý của người đi vay và người cho
vay trên thị trường tài chính.
1.1.3 . Các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ:
Lãi suất có thể có nhiều cách phân chia khác nhau như
phân loại theo nội tệ và ngoại tệ , phân theo nghiệp vụ kinh
doanh của các TCTD, phân loại theo nội dung kinh tế ...Ở đây ,
ta chia lãi suất trên thị trường theo các nhân tố tác động thành 2
nhóm :
• Phân loại theo nguồn sử dụng:
- Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả
cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo sự
công bằng, trong nền kinh tế thị trường, về mặt kinh tế, việc
định các mức lãi suất huy động khác nhau chỉ căn cứ vào đối
tượng huy động (tiền hay vật đảm bảo có giá trị) và thời hạn huy
động.
- Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người
đi vay phải trả cho người cho vay. Về mặt lý thuyết, các mức lãi
suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình
quân của đối tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên với ý
nghĩa là một công cụ điều tiêt vĩ mô nền kinh tế, điều đó không
phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tùy thuộc vào mục tiêu chính
trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu của chúng là
kinh doanh tiền tệ là lãi suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn
lãi suất huy động để đảm bảo ngân hàng có thể bù đắp được các
chi phí hoạt động đã bỏ ra và có lợi nhuân. Thông thường, lãi
suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ được xác định
như sau:
Cho vay = Huy động + Chi phí + tối thiểu + Lợi nhuận
• Phân loại theo giá trị thực:
Hàng ngày chúng ta thường gặp các loại lãi suất được công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức sử dụng một số loại lãi suất đó để làm
đơn vị tính toán trong các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hầu
hết các loại lãi suất này là lãi suất chưa tính đến yếu tố lạm phát,
và để xác định được giá trị thực của các loại lãi suất này, người
ta phải tính thêm một yếu tố đó là tỷ lệ lạm phát dự tính.
- Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ
hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận
trước.
- Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các
khoản lãi được trả hoặc thu được.
Lãi suất: Lãi suất Tỷ lệ thực = Danh nghĩa - Lạm phát
Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa
rất quan trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất
thực mà họ quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi
kinh doanh trực tiếp. Đối với người cần vốn, nếu dự đoán được
tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay
không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát
tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì
trượt giá khi trả nợ.
• Phân loại theo phương pháp tính lãi
- Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so
với số tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để
tính lãi thời hạn kế tiếp.
- Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so
với số tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng
thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con)
• Phân loại theo loại tiền
- Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng
nội tệ (kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay)
- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại
tệ. Lãi suất ngoại tệ có ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất
khẩu hay nhâp khẩu: để khuyến khích xuất khẩu, người ta
thường áp dụng cơ chế lãi suất ngoại tệ cho vay thấp hơn, trong
huy động thì cao hơn so với lãi suất nội tệ và ngược lại. Với cơ
chế này sẽ khuyến khích các nhà xuất khẩu vay tiền để đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu của mình trong trường hợp lãi suất
cho vay đối với đồng ngoại tệ thấp và ngược lại.
• Phân loại theo độ dài thời gian:
Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho
vay, thời gian càng dài thì lãi suất càng cao.
Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy

động và cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng
thời tính rủi ro mất vốn cũng càng cao.
- Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy
động và khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm.
- Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy
động và khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
- Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy
động và khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.Theo cách phân
loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời gian càng
dài thì lãi suất càng cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
đặc biệt lãi suất ngắn hạn có thể cao hơn lãi suất trung và dài
hạn.
Ví dụ:
Khi nền kinh tế trong quá trình khôi phục lại sau chiến tranh,
khủng hoảng kinh tế…nhà nước cần một số lượng vốn lớn trong
thời gian ngắn, lúc này lãi suất huy động ngắn hạn sẽ được ưu
tiên nâng cao hơn các loại lãi suất khác.

1.1.4. Các nhân tố tác động đến lãi suất


Trong nền kinh tế thị trường , nhà nước chỉ đóng vai trò là
người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính và các tổ chức tài
chính trung gian . Các nước có nền kinh tế thị trường chủ yếu
theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính, do vậy cơ chế hình
thành lãi suất chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường, Đó là sự thay
đổi về cung – câu của vốn vay ảnh hưởng tới sự hình thành và
biến đổi lái suất trên thị trường.
Cung về vốn vay bắt nguồn từ những người có thu nhập
dôi ra mà họ muốn tiết kiệm và cho vay kiếm lời, qua đó cho
thấy rằng tiết kiệm là nguồn cung về vốn vay . Còn cầu về vốn
vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn vay
tiền để đầu tư, mua nhà đất hay xây dụng nhà máy …. Như vậy,
đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay .
Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng đến sự
thay đổi về cung cầu vốn vay , dưới đây ta chỉ phân tích những
tác nhân có ảnh hưởng quan trọng đến đường cung và đường cầu
về vốn vay , qua đó tác động đến lãi suất.
 Mức lạm phát kì vọng
Khi mực lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một
thời kỳ nào đó , lãi suất sẽ có xu hướng tăng .
Ta thấy rằng:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát
Do đó , để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm
phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng phải tăng lên tương ứng .
Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng , công chúng sẽ chuyển phần
tiết kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạng thức tài
sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hơn là cho vay .
Điều đó làm giảm cung về vốn vay , qua đó làm dịch chuyển
đường cung sang trái và làm lãi suất tăng lên .
Ngược lại , ta thấy rằng , nếu lạm phát dự tính có xu hướng
giảm thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống.
 Đầu tư
Đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến lượng cầu về vốn
vay . Khi Nhà nước có các chính sách khuyền khích về đầu tư,
ví dụ như Nhà nước giảm thuế lợi tức công ty , nó có khuyến
khích doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn vào tư bản
mới. Qua đó làm thay đổi đầu tư tại mọi mức lãi suất và làm
thay đổi đến cầu về vốn vay . Nhu cầu vay vốn tăng lên , đướng
cầu về vốn vay dịch chuyển sang bên phải và làm cho lãi suất
tăng lên . Ngược lại , các chính sách của chính phủ làm kìm hãm
đầu tư sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất .
 Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế
tác động đến giá cả hàng hóa. Thông thường người ta quan tâm
nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập của những cá nhân
và tổ chức cung cầu dịch vụ tín dụng hay những người tham gia
chứng khoán. Nghĩa là khi thuế thu nhập tăng , phần tiết kiệm
của các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi , do đó lượng tiền cho vay
, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái , lãi suất tăng lên .
Ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi
suất .
 Ngân sách của chính phủ
Ta biết rằng :
Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ .
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế , tình trạng
thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn
vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái và làm
tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, chính phủ bội cho ngân
sách như vậy sẽ tác động đến tâm lý dân chúng về sự gia tăng
của lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất.
 Các yếu tố khác của đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố trên , sự thay đổi của lãi suất trên thị
trường còn chịu cảnh hường của nhiều yếu tố về đời sống xã hội
khác như : sự đa dạng của các thể chế tài chính, sự thay đổi
trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế trung
gian , hiệu suất sử dụng vốn trong accs thời kỳ khác nhau do
những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mạng tính chu
kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị…
cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
1.1.5. Vai trò của lãi suất:
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi
suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của
xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã
chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm
đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương
(NHTW) đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được
mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ (CSTT) là kiềm chế
lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất giữ vị trí khá quan
trọng, nó được thể hiện như sau:
° Lãi suất là đòn bẩy, kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp
phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính
sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ
suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy kích thích các
doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới
thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn
vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng sẽ tạo ra một nguồn vốn của
cải cho xã hội, tổng thu nhập quốc dân tăng lên rất nhiều.
° Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại, lãi suất là giá cả của vốn, do vậy thông qua lãi
suất các ngân hàng thương mại sẽ tự điều chỉnh hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng của mình mà kết quả cuối
cùng là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân
cư được lợi hơn vì sẽ được hưởng giá rẻ và chất lượng dịch vụ
cao.
° Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư
trong nền kinh tế, hay nói cách khác, khi các doanh nghiệp, các
tầng lớp dân cư có vốn, muốn đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải
lấy lãi suất tín dụng trong nền kinh tế làm cơ sở và quyết định, ít
nhất hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực khác để sinh lời phải có tỷ
lệ lớn hơn hoặc cùng lắm phải bằng lãi suất tín dụng.
° Lãi suất còn là công cụ để kiềm chế lạm phát rất hữu hiệu
thông qua chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Trong
trường hợp nền kinh tế có lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ sử
dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền
nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm điều hòa lượng tiền trong lưu
thông, cân đối với khối lượng hàng hóa.
Như vậy, lãi suất trong nền kinh tế là công cụ kinh tế khá quan
trong, làm sao lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nước
trên thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề
được đặt ra và cần được giải quyết
1.2. Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương:
1.2.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách lãi suất là bộ
phận của chính sách tiền tệ, tác động đến cung- cầu vốn và hiệu
quả phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế.
Chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ
của Chính phủ , là cách thức quản lý và điều tiết lãi suất thị
trường nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát lạm phát
để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng ki nh tế, ổn định giá cả ,
nhiều việc làm và tỷ giá hối đoái ổn định.
1.2.2. Các loại chính sách lãi suất :
Chính sách lãi suất trần : Chính sách lãi suất trần là
chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa. Chính sách này
khuyến khích việc huy động vốn và tăng khả năng kiểm soát của
chính phủ. Chính phủ đưa ra một mực lãi suất nhất định và áp
đặt chung cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng và cho toàn bộ nền
kinh tế.
Chính sách lại suất cố định: Lãi suất cố định là lãi suất
mà Ngân hàng Nhà nước khống chế NHTM cả về lãi suất huy
động và lãi suất cho vay . Theo chính sách này thì sẽ không có
sự cạnh tranh về lãi suất trên thị trường tài chính tín dụng và do
đó không thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Chính sách lãi suất tự do : Chính sách tự do hóa laĩ suất
là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mực lãi suất vượt
quá mực lãi suất chung . Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những
biễn đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường . Tuy
nhiên , nó chỉ thực hiên được trong môi trường cạnh tranh hoàn
hỏa. Như Việt Nam thì hiện tại chúng ta đang sử dụng chính
sách lãi suất thỏa thuận .
Các TCTD được sử dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong
hoạt động thương mại , thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
bằng VNĐ. Về dài hạn thì việc xóa bỏ “trần” lãi suất cho vay
khiến các TCTD có thể mở rộng phương thức huy động vốn, cho
vay và huy động với mực lãi suất phù hợp với cung cầu trên thị
tường tín dụng. Điều này đặc biệt có lợi đối với các tổ chức kinh
tế và người sản xuất ở khu vực nông thôn , nhất là trong bối
cảnh tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng
trưởng huy động vốn . Theo như NHNN , cơ chế lãi suất này sẽ
tạo ra điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ thống Ngân
hàng theo định hướng thị trường. Theo đó sẽ xóa bỏ những “dị
biệt” trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam để dần tiến tới hội
nhập thị trường tín dụng Quốc tế.
Chính sách lãi suất ưu đãi : Chính sách lãi suất ưu đãi
là chính sách dành cho một số đổi tượng đặc biệt như người
nghèo , gia đình chính sách… với lãi suất thấp. Việc thực hiện
chính sách này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu
quả dấn đến việc dùng vốn và phần lớn chính sách này lấy từ
ngân hàng nhà nước . Các đối tượng được vay vốn với lãi suất
ưu đãi thường là những hộ nghèo, các khu vực ở vùng sâu vùng
xa , hải đảo , miền núi… Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo
điều kiện cho người vay , nhưng lại hạn chế phát triển thị trường
vốn vay .
1.2.2. Nội dung của chính sách lãi suất của NHTW:
Nội dung của chính sách lãi suất được xác định bằng mô
hình:
Rf = f(x1, x2, x3, x4, x5, x6)
- x1 là cân bằng cung - cầu vốn thị trường, thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng vốn huy động và vốn tín dụng của hệ thống TCTD
phải tương ứng với nhau, vì trong những năm tới, kênh tín dụng
ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu trong huy động tiết kiệm và
cung ứng vốn cho đầu tư phát triển; việc sử dụng quan hệ các
chỉ số vốn tín dụng nói trên phản ánh tương đối chính xác quan
hệ cung - cầu vốn thị trường.
- x2 = R – CPI > 0, trong đó R là lãi suất tiền gửi danh nghĩa
ngắn hạn VND của TCTD, CPI là chỉ số giá tiêu dùng; áp dụng
công thức hiệu ứng của Fisher là lãi suất thực tế = lãi suất danh
nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
- x3 là cân bằng giữa cung - cầu vốn khả dụng của TCTD mà
cầu vốn khả dụng là số vốn các TCTD cần có để đảm bảo khả
năng chi trả thường xuyên cho khách hàng, được NHNN dự báo,
hàng tuần, tháng hoặc quý để điều tiết tiền tệ; còn cung vốn khả
dụng của TCTD bao gồm tiền mặt tại quỹ + tiền gửi tại NHNN
vượt mức DTBB + hạn mức chiết khấu chưa sử dụng + giá trị
giấy tờ có giá có thể bán trên thị trường liên ngân hàng phải đủ
hoặc dư thừa so với nhu cầu vốn của thị trường.
- x4 là cân bằng giữa lãi suất VND – tỷ giá hối đoái – lãi suất
USD theo phương trình lãi suất tiền gửi VND = lãi suất tiền gửi
ngắn hạn USD + mức tăng tỷ giá VND so với USD + hệ số k,
trong đó hệ số 2% để đảm bảo ≥ k là chênh lệch lợi tức giữa
tiền gửi VND và tiền gửi USD và k tính hấp dẫn của lãi suất
VND, tránh chuyển dịch tiền gửi VND sang USD và hỗ trợ huy
động vốn ở trong và ngoài nước.
- x5 < tốc độ tăng GDP thực tế, tức là lãi suất thực là phần giá
trị gia tăng mà người gửi tiền nhận được từ kết quả hoạt động
của nền kinh tế trong một thời hạn nhất định phải nhỏ hơn mức
độ gia tăng của cải thực của nền kinh tế, thì mới khuyến khích
tiết kiệm, đầu tư.
- x6 là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động
thực tế bình quân của TCTD và 3% < x6 < 6%, vì theo thống
kê chênh lệch này của các TCTD trong 10 năm qua (1995-2004)
giao động trong khoảng 3% - 6% và với mức này đủ để các
TCTD có thể bù đắp chi phí; đồng thời, theo thông lệ quốc
tế và các kiến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì chênh lệch
lãi suất của các NHTM Việt Nam phải ở mức 5% - 6% để bù
đắp đủ dự phòng rủi ro và tái đầu tư hiện đại hoá công nghệ.
Căn cứ vào trình độ phát triển và cơ chế quản lý của nền
kinh tế, NHTW sẽ xây dựng và ban hành chính sách lãi suất
thích hợp, để thi hành thống nhất trong hệ thống ngân hàng. Đó
có thể là lãi suất sàn, lái xuất trần , lãi suất cơ bản, lãi suất thỏa
thuận . Chính sách lãi suất của NHTW có thể thực hiện theo hai
hướng đó là : chính sách can thiệp trực tiếp và chính sách tự do
hóa lãi suất . Khi các nước đã theo đuổi chính sách tự do hóa
hoàn toàn thì NHTW vẫn tìm cách can thiệp những sự can thiệp
mang tính thị trường , nhằm quản lý nền kinh tế theo mục tiêu
của CSTT.
Chinh sách can thiệp trực tiếp : là việc NHTW qui định lãi
suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản , lãi suất tái chiết khấu
vv… để áp dụng cho từng loại khách hàng, từng nghiệp vụ tín
dụng trên thị trường. Như vậy chính sách can thiệp trực tiếp
được thực hiện bằng cách NHTW qui định biểu lãi suất áp dụng
cho các hoạt động tín dụng trên thị trường. Biểu lãi suất này
được điều chỉnh một phần hay toàn bộ khi có sự thay đổi mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội . Theo sự phát triển của kinh tế
thị trường, những cách thực quy định và kiểm soát lãi suất thị
trường của NHTW ngày càng lỏng và linh hoạt hơn . Chính sách
can thiệp trực tiếp thường được áp dụng ở các nước phát triển
trong một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định , thị trường tài
chính còn yếu , nhiều khó khăn trong quá trình kiểm soát lượng
tiền cung ứng , đồng thời nền kinh tế có khả năng xảy ra lạm
phát cao .
Chính sách tự do hóa lãi suất : là chính sách mà trong đó
NHTW không đưa ra những khống chế giới hạn biến động của
lãi suất thị trường . Mức lãi suất được hình thành trên cơ sở quan
hệ cung cầu tín dụng . Chính sách này được phần lớn các nước
có thị trường phát triển áp dụng , mặc dù thị trường tự do quyết
định lãi suất nhưng NHTW vẫn điều tiêt thông qua việc sử dụng
công cụ lãi suất tái chiết khấu .
1.2.3. Cơ chế truyền dẫn và tác động chính sách lãi suất của
NHTW
Chính sách lãi suất có thể được NHTW sử dựng nhằm tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền đề đạt được
các mục tiêu đề ra.
 Tác động trực tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay
- Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay : nếu lãi suất
tiền gửi qui định cao , sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm
gia tăng nguồn vốn cho vay , giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu lãi
suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi , giảm khả năng mở
rộng tín dụng . Nếu lãi suất cho vay qui định thấp, các
doanh nghiệp có cơ hội vay được nhiều vốn cho sản xuất
kinh doanh và ngược lại . Nhược điểm của biện pháp điều
tiết này là làm cho NHTM mất đi tính linh hoạt và quyền tự
chủ trong kinh doanh , nó dễ dấn đến tình trạng ứ đọng vón
trong ngân hàng nhưng lại thiếu vón đầu tư hoặc khuyến
khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ , bất động sản
trong khi ngân hàng hụt hẵng về tiền mặt cũng như nguồn
vốn cho vay .
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay : NHTW
có thể ấn định khung lãi suất dưới nhiều hình thức như lãi
suất sàn, lãi suất trần và mức chênh lẹch giữa lãi suất cho
vay bình quân với mức lãi suất tiền gửi bình quân , lãi suất
trần , lãi suất cơ bản vv… và bắt buộc các NHTM phải xây
dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi suất .
Biện pháp điều tiết này có ưu điểm là các NHTM được
phép xây dựng lãi suất linh hoạt hơn và bước đầu có quyền
tự chủ qui định mức lãi suất kinh doanh. Đồng thời giúp
cho các NHTM lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay ,
loại bỏ những dự án kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định
khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp
dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế
thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với vốn đầu tư, nó phải
được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
 Tác động gián tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất
tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường
mở
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của
NHTW đối với các NHTM và TCTD dưới hình thức tái
chiết khấu, NHTW có thể tác động đến khả năng vay của
NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng lên hay
giảm xuống. Khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên , các
NHTM sẽ bất lợi trong việc vay vốn NHTW . Trong điều
kiện đó, các NHTM không có khả năng mở rộng tín dụng .
Ngược lãi, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các NHTM có
khả năng mở rộng cho vay vốn đối với khách hàng. Do đó,
sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu được coi dấu hiệu của
định hướng CSTT của NHTW. Mức độ phát huy hiệu quả
công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về vốn của
NHTM vào NHTW , vì thế nó là công cụ kém chủ động .
Để khắc phục nhược điểm này , NHTW thường sử dụng nó
với công cụ DTBB( Dự trữ bắt buộc)
- Tỷ lệ DTBB : là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền DTBB và tổng
số dư tiền gửi phải tính DTBB các NHTM thu hút được
trong một khoảng thời gian nhất định . Việc qui định tỷ lệ
DTBB tạo điều kiện để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền
của hệ thống NHTM và quan trọng hơn là NHTW sử dụng
để tác động đến mức cung tiền tệ. Khi NHTW quyết định
tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB, làm giảm hoặc tăng khả năng
cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Từ đó làm
giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ để tác động đến lãi suất
thị trường.
- Nghiệp vụ thi trường mở : là nghiệp vụ mua bán các chứng
từ có giá của NHTW trên TTTT. Thông qua việc sử dụng
công cụ này sẽ điều tiết lãi suất trên thị trường. Khi muốn
gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông , mở rộng tín dụng
cho nền kinh tế , NHTW thực hiện mua các chứng từ có giá
trên thị trường. Ngược lại , khi muốn giảm mức cung tiền,
thu hẹp tín dụng , NHTW bán các chứng từ có giá đang
nắm giữ.
- NHTW : Ngân hàng Trung ương
- NHNN : Ngân hàng Nhà nước
- TTTT: Tài chính tiền tệ
- TCTD: Tổ chức tín dụng
- NHTM : Ngân hàng Thương mại
- CSTT : Chính sách tiền tệ
- DTBB: Dự trữ bắt buộc

You might also like