You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG


------------------***------------------

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ


ĐỀ TÀI: TỰ DO HÓA LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

Sinh viên thực hiện: Vũ Thu Trang – MSV: 2014310157


Nguyễn Phương Hiền – MSV: 2014310061
Bùi Thị Bình – MSV: 2014310025
Lê Thị Thanh Nga – MSV: 2014310098
Bùi Cao Phương Trinh – MSV: 2014310159
Phùng Quang Thành – MSV: 2014310129
Nguyễn Thị Quỳnh Hương – MSV: 2011310036
Đỗ Kiều Chinh – MSV: 2011310018
Lớp tín chỉ: TCH303.2
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Mai Thị Hồng

Hà nội, tháng 9 năm 2021


Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................4
PHÀN NỘI DUNG ...................................................................................................5
Chương 1. Cơ sở lý thuyết chung về tự do hoá lãi suất ........................................5
1. Tìm hiểu chung về lãi suất ..............................................................................5
1.1. Khái niệm. ..................................................................................................5
1.2. Cơ chế xác định lãi suất ............................................................................5
1.2.1. Thị trường...........................................................................................5
1.2.2. Chính sách tiền tệ ...............................................................................5
1.2.3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường hiện nay ............7
2. Tự do hóa lãi suất .............................................................................................8
2.1. Khái niệm ...................................................................................................8
2.2. Tính tất yếu của tự do hóa lãi suất ..........................................................9
2.2.1. Xét diện vĩ mô của nền kinh tế..........................................................9
2.2.2. Xét diện vi mô của nền kinh tế..........................................................9
2.3. Điều kiện cơ bản để tự do hóa lãi suất ....................................................9
2.4. Ưu, nhược điểm của tự do lãi suất ........................................................10
2.4.1. Ưu điểm .............................................................................................10
2.4.2. Nhược điểm.......................................................................................11
Chương 2. Thực trạng tự do hóa lãi suất ở Việt Nam ........................................13
1. Tiến trình thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam: ..................................13
2. Những điều kiện thuận lợi để thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam ...15
2.1. Về tình hình kinh tế vi mô ..........................................................................16
2.2. Về tình hình thị trường tài chính ..............................................................16
2.3. Về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và các thể
chế tài chính trung gian khác ............................................................................17
2.4. Năng lực tài chính và khả năng thanh toán .............................................17
3. Những khó khăn trong quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam: ............18
Trang 2
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

4. Mục tiêu và bước đi tiếp theo của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
..............................................................................................................................20
4.1. Mục tiêu, quan điểm của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam........20
4.2. Bước đi tiếp theo của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. .............21
Chương 3. Giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tiến trình tự do hóa lãi suất ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập ......................................................................23
1. Điều kiện để tiếp tục thực hiện tiến trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
hiện nay. ..............................................................................................................23
2. Các giải pháp để thực hiện tiến trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam hiện
nay........................................................................................................................24
2.1. Đối với Ngân hàng nhà nước......................................................................24
2.2. Đối với các Ngân hàng thương mại ...........................................................25
2.3. Một số giải pháp khác .................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................25
Tài liệu tham khảo ..................................................................................................28

Trang 3
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

PHẦN MỞ ĐẦU
Cùng với tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tự do hóa tài
chính là điều tất yếu. Trong đó, việc tự do hóa lãi suất được xem là trung tâm của
quá trình tự do hóa tài chính. Lãi suất là yếu tố có vai trò rất quan trọng đối với nền
kinh tế.
Việc xác định lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa
phát triển và ngược lại. Mặt khác, lãi suất là công cụ thực thi chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước, ảnh hưởng tới cung – cầu về vốn và luân chuyển các nguồn
lực tài chính. Lãi suất cũng là một công cụ mà chính phủ có thể can thiệp nhằm thực
hiện áp chế tài chính. Ở Việt Nam, chính sách lãi suất đã góp phần bình ổn giá cả,
đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, kích cầu, tăng trưởng thu nhập quốc dân.
Việc tự do hóa lãi suất với việc giảm sự can thiệp của nhà nước, để lãi suất vận động
theo các yếu tố thị trường là thực sự cần thiết đối với sự phát triển của một quốc gia.
Tự do hóa lãi suất giúp các dòng vốn trong xã hội được tự do lưu chuyển, không gặp
bất cứ sự ngăn cản hay tùy thuộc vào ý muốn của nhà đầu tư. Nhờ đó, dòng vốn
được lưu chuyển từ nơi có lợi nhuận thấp đến nơi có lợi nhuận cao, từ nơi nhiều rủi
ro tới nơi ít rủi ro hơn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện ổn định kinh
tế vĩ mô, giúp các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh và có
hiệu quả.
Tự do hóa lãi suất là xu thế tất yếu của thị trường tiền tệ và Việt Nam đang thực hiện
đúng theo quy luật. Vậy chúng ta cần tiếp tục con đường này như thế nào? Với lý do
trên, chúng em chọn đề tài “Tự do hóa lãi suất của Việt Nam trong quá trình hội
nhập”. Do trình độ kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi
những sơ sót trong quá trình nghiên cứu; chúng em rất mong nhận được những sự
nhận xét, đánh giá của cô. Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

Trang 4
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

PHẦN NỘI DUNG


Chương 1. Cơ sở lý thuyết chung về tự do hoá lãi suất
1. Tìm hiểu chung về lãi suất
1.1. Khái niệm.
Lãi suất là chi phí mà người đi vay phải trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ
người cho vay trong một khoảng kỳ hạn nhất định
Ngoài ra khái niệm lãi suất còn được coi như là giá cả của tiền vốn.
Định lượng: Lãi suất (Interest Rate) là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền lãi (lợi tức) thu
được/phải trả với số vốn cho vay phát ra trong một kỳ nhất định
Phân loại lãi suất:
Trong thực tế, dựa trên các cơ sở như nghiệp vụ ngân hàng, thời hạn tín dụng,
sự quản lý của nhà nước... mà chúng ta phân chia lãi suất thành nhiều loại khác
nhau như lãi suất huy động, lãi suất cho vay, lãi suất không kỳ hạn, lãi suất ngắn
hạn, lãi suất trung và dài hạn, lãi suất cố định, lãi suất thả nổi, lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tái chiết khấu ... Ngoài ra nếu phân biệt theo giá trị
thực của lãi suất thì có hai loại là lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế.
1.2. Cơ chế xác định lãi suất
1.2.1. Thị trường
Thành phần thuộc nhóm cơ chế xác định lãi suất theo thị trường bao gồm:
 Người cho vay: là những người dư thừa vốn, cho người nào đó vay tiền để
giúp trang trải các khoản chi tiêu cho tiêu dùng hay đầu tư.
 Người đi vay: là cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức nhận được tiền vay để tài
trợ cho tiêu dùng hoặc đầu tư.
 Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: là những chủ thể
tham gia vào thị trường tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn để thực
hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn nhằm mục đích
kinh doanh thu lợi nhuận.
Những thành phần này tham gia vào việc xác định lãi suất tuân theo quy luật
thị trường. Khi cầu về vốn được đáp ứng bằng cung về vốn ở mức toàn dụng vốn
thì hình thành lãi suất cân bằng. Những biến động của các biến số kinh tế vĩ mô sẽ
ảnh hưởng đến hành vi của các thành phần này, dẫn đến sự thay đổi cung cầu về
vốn và từ đó lãi suất cân bằng được điều chỉnh cho phù hợp.
1.2.2. Chính sách tiền tệ

Trang 5
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Ngân hàng trung ương là một định chế tài chính công thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước về hoạt động lưu thông tiền tệ tín dụng. Là ngân hàng thực hiện nhiệm
vụ phát hành tiền, quản lý hành chính hệ thống ngân hàng, ngân hàng của chính
phủ
Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào lượng cung tiền
và các biến số kinh tế vĩ mô khác nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền
tệ đó là:
 Ổn định tiền tệ.
 Tạo việc làm.
 Tăng trưởng kinh tế.
Cách sử dụng hợp lí công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi suất
của ngân hàng trung ương ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế.
Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý nhằm mục đích hướng dẫn phân bổ đúng đắn
nguồn vốn, huy động được nhiều nguồn lực tiềm năng trong nền kinh tế, kích thích
thúc đẩy phát triển vững mạnh cho nền kinh tế. Đó là một yêu cầu bức thiết luôn
được đặt ra cho mỗi đất nước cũng như các nhà hoạch định chính sách của nó.
Theo các học thuyết, nghiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất, ngân hàng trung
ương có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp (qua hệ thống NHTM) lên lãi suất.
Thứ nhất, cơ chế tác động trực tiếp: Ngân hàng trung ương sử dụng lãi suất như là
một công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương hành động
mang tính chủ quan áp đặt một khung lãi suất, chênh lệch lãi suất tiền gửi- tiền vay
hoặc trần - sàn lãi suất và buộc các tổ chức tín dụng phải tuân theo. Công cụ tài
chính này mang tính cưỡng chế với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước. Đây là
đặc trưng tiêu biểu của cơ chế kiểm soát lãi suất.
Thứ hai, cơ chế tác động gián tiếp: Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ gián
tiếp tuân theo quy luật thị trường của chính sách tiền tệ để tác động lên lãi suất
thông qua hành vi của hệ thống ngân hàng thương mại. Các công cụ gián tiếp đó
là:
- Dự trữ bắt buộc: Các ngân hàng thương mại được yêu cầu bắt buộc phải giữ lại
một tỉ lệ phần trăm nhất định của các khoản tiền gửi dưới dạng dự trữ hoặc là bằng
tiền mặt tại quỹ hoặc là bằng tiền gửi tại quỹ dự trữ tại ngân hàng trung ương. Sự
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các
tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại và lên cả hệ thống tài chính.
Thí dụ trong trường hợp khi ngân hàng trung ương muốn kiềm chế lạm phát,
họ có thể nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng đa cá tổ
chức tín dụng và buộc các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay. Ngược
lại trong trường hợp khi ngân hàng trung ương muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ
Trang 6
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, từ đó các tổ chức tín dụng có thể mở rộng tín dụng và
hạ lãi suất cho vay, kích thích sự phát triển.
- Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là là lãi suất mà NHTW áp dụng
cho các định chế nhận gửi khi họ vay tiền từ cửa sổ chiết khấu của NHTW trên cơ
sở những chứng từ có giá của ngân hàng thương mại. Đây là lãi suất phạt đối với
ngân hàng thương mại khi ngân hàng thương mại thiếu hụt khả năng thanh toán.
Từ đó, ngân hàng trung ương thông qua lãi suất tái chiết khấu tác động vào lãi suất
thị trường.
Thí dụ trong trường hợp khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất tái chiết
khấu, từ đó buộc các ngân hàng thương mại phải tăng dự trữ để đảm bảo tính thanh
toán. Đồng thời,ngân hàng thương mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp
cho chi phí những khoản tăng thêm dự trữ, do đó mà lãi suất thị trường tăng lên.
Ngược lại, khi giảm lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng trung ương cho phép các
ngân hàng thương mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó kéo theo lãi suất
thị trường .
- Nghiệp vụ thị trường mở(OMOs) là công cụ quan trọng nhất giúp ngân hàng
Trung ương tác động tới lượng tiền của nền kinh tế. Nghiệp vụ thị trường mở là
hoạt động ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán nợ (chứng khoán kho bạc)
trên thị trường tiền tệ ngắn hạn. Ngân hàng trung ương muốn thúc đẩy tăng trưởng,
mở rộng tín dụng, bằng cách mua vào các chứng khoán có giá làm cho lượng cung
tiền tăng lên, dẫn tới việc lãi suất giảm. Ngược lại, khi muốn thu hẹp tín
dụng, ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán có giá làm cho cung tiền tệ
giảm xuống dẫn tới lãi suất trên thị trường tiền tệ sẽ tăng lên.
- Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những tín phiếu kho bạc,
trong đó ngân hàng cam kết sẽ mua lại những tín phiếu kho bạc này vào một thời
điểm trong tương lai (thường ngắn hạn) với mức giá được xác định trước trong hợp
đồng. Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp,
trong đó chứng khoán( thường là những tín phiếu kho bạc) đóng vai trò thế chấp.
Khi mua thế chấp (tức cho vay), ngân hàng trung ương bơm tiền vào thị trường tài
chính và do vậy làm giảm lãi suất trong ngắn hạn. Ngược lại, khi bán thế chấp từ
tài khoản của mình, ngân hàng trung ương rút tiền ra khỏi thị trường tiền tệ và gây
ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.
1.2.3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường hiện nay
Như chúng ta đã biết, lãi suất tín dụng là biến số thường xuyên biến động và
được theo dõi một cách chặt chẽ trong nền kinh tế thị trường. Dựa vào sự biến
động của lãi suất tín dụng, người ta có thể dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế
như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân

Trang 7
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

sách nhà nước,....Từ đó, người ta có thể dựa vào mức lãi suất tín dụng trong một
thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai, dẫn đến các quyết định của cá
nhân, tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Vai trò quan trọng của lãi suất tín
dụng trong nền kinh tế được thể hiện ở những khía cạnh như sau:
 Lãi suất tín dụng được coi là công cụ kích thích vật chất để thu hút các
khoản tiết kiệm từ các nguồn lực trong nền kinh tế, từ đó tạo nguồn vốn cho
vay của các tổ chức, cá nhân đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
 Lãi suất tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Lãi suất phải trả cho khoản vay là một trong những khoản chi phí bắt
buộc của doanh nghiệp, do vậy lãi suất thấp sẽ kích thích doanh nghiệp vay
vốn để đầu tư phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Lãi suất
còn là yếu tố buộc doanh nghiệp phải hạch toán kinh tế, sử dụng vốn vay có
hiệu quả nhất.
 Lãi suất tín dụng cũng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Biến động của lãi
suất tác động đến đầu tư, tiêu dùng, qua đó tác động đến mục tiêu khác nhau
của kinh tế vĩ mô như là: lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, tiêu dùng, làm
tổng cầu tăng, sản lượng tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm…. ngược lại, lãi suất
cao sẽ hạn chế đầu tư, làm tổng cầu giảm, sản lượng giảm,và thất nghiệp
tăng.
 Lãi suất tín dụng được coi là công cụ đo lường, kiểm tra tình trạng “sức
khỏe” của nền kinh tế. Thí dụ, khi nền kinh tế đang phát triển, lãi suất có xu
hướng tăng, do cung-cầu quỹ cho vay đều tăng, nhưng tốc độ tăng của cầu
quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại khi nền
kinh tế suy thoái, lãi suất có xu hướng giảm xuống.
2. Tự do hóa lãi suất
2.1. Khái niệm
Tự do hóa lãi suất (Interest Rate Liberalization) là cơ chế lãi suất trong đó có
rất ít hoặc hoàn toàn không có sự can thiệp của các cơ quan chức năng vào việc
hình thành lãi suất và lãi suất được hình thành trên cơ sở thị trường, vận động theo
qui luật cung cầu.
Thực chất của việc tự do hoá lãi suất là một quá trình loại bỏ các qui phạm,
giới hạn bất hợp lí, giảm thiểu tối đa việc kiểm soát lãi suất trong kinh doanh tiền
tệ của các trung gian tài chính và thay thế bằng các biện pháp điều tiết lãi suất gián
tiếp của Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
Trong điều hành các chính sách lãi suất, Ngân hàng Trung ương chỉ công bố mức
lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn của mình
đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi, cho vay cụ thể theo từng

Trang 8
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

thời kỳ, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức
tín dụng tự ấn định, dựa trên cung cầu vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó
hình thành nên mức lãi suất phản ánh chính xác nhu cầu của thị trường. Khi muốn
lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế phù hợp với mục tiêu
của chính sách tiền tệ từng giai đoạn đã đề ra, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện
thông qua việc điều hành lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín
dụng, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và cuối cùng
sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng
2.2. Tính tất yếu của tự do hóa lãi suất
2.2.1. Xét diện vĩ mô của nền kinh tế
Trong quá trình phát triển nền kinh tế và hội nhập, Việt Nam đã có những
thành công bước đầu trong công việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sau nhiều
năm bị gián đoạn, tụt lại phía sau do cuộc chiến tranh với các nước đế quốc hàng
đầu. Hiện nay, chúng ta đã đặt mối quan hệ với IMF, WB, ADB, … trở thành
thành viên của ASEAN năm 1997, gia nhập AFTA và WTO, chính vì thế, chúng ta
đã gặt hái được những thành công lớn trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp
theo đó, chúng ta đã chuyển đổi một số hoạt động để phù hợp với các quy định,
định ước quốc tế, trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Như vậy, kiểm soát lãi suất chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián tiếp
điều hành chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công cụ
hành chính trực tiếp, từ đó sẽ trả lãi suất về đúng vai trò của mình là đòn bẩy kích
thích nền kinh tế phát triển, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế
2.2.2. Xét diện vi mô của nền kinh tế
Tự do hóa lãi suất sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong
nước, các ngân hàng thương mại và các chi nhánh ngân hàng thương mại nước
ngoài tại Việt Nam, giúp các ngân hàng trong nước sẽ có cơ hội để phát triển, đa
dạng hóa nghiệp vụ, tiếp cận công nghệ tiên tiến. Về phía các khách hàng của ngân
hàng thương mại như là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư sẽ chủ động hơn
trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của
mình, đồng thời được quyền lựa chọn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng phù hợp để giao dịch hoạt động.
2.3. Điều kiện cơ bản để tự do hóa lãi suất

Trang 9
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

 Thứ nhất, kinh tế vĩ mô đủ sự ổn định và chắc chắn để chịu được các tác
động, các cú sốc từ bên ngoài có thể xảy ra đối với nền kinh tế khi thực hiện
tự do hóa lãi suất hoàn toàn.
 Thứ hai, sự biểu hiện đầy đủ các công cụ của chính sách tiền tệ hữu hiệu, sự
hình thành các quy trình nghiệp vụ phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế thị
trường.
 Thứ ba, có môi trường pháp lý và thể chế toàn diện, đủ khả năng điều chỉnh
các quan hệ kinh tế. Có quy chế hoàn thiện, hiệu quả về phòng ngừa, đảm
bảo hạn chế và bù đắp được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của
các trung gian tài chính.
 Thứ tư, hệ thống các cơ quan tài chính phát triển lành mạnh, uy tín. Các cơ
quan này không chỉ đòi hỏi cần có công nghệ hiện đại mà còn phải có sự
phát triển chuyên môn sâu rộng, có kinh nghiệm lâu dài quản lý ở nhiều khía
cạnh.
 Thứ năm, sự thanh tra, giám sát chặt chẽ của Ngân Hàng Trung Ương đối
với các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh nói chung và việc thực
thi chính sách tiền tệ nói riêng.
 Thứ sáu, chọn lựa thời điểm bắt đầu, tốc độ và lộ trình (trật tự sử dụng các
công cụ) tự do hóa lãi suất phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế. Kinh
nghiệm về tự do hóa lãi suất ở một số nước vào những năm 80 cho thấy tự
do hóa lãi suất không đúng thời điểm sẽ làm tăng sự bất ổn định của nền
kinh tế vĩ mô thông qua việc làm tăng lạm phát, nợ nước ngoài và giảm sức
sản xuất trong nước.
 Thứ bảy, tự do hóa lãi suất gắn liền với tự do hóa tỷ giá hối đoái.
2.4. Ưu, nhược điểm của tự do lãi suất
2.4.1. Ưu điểm
 Việc tự do hóa lãi suất góp phần tạo ra các dòng vốn tự do trong xã hội, có
thể lưu chuyển đến bất kỳ đâu, tùy thuộc vào ý chí của các nhà đầu tư mà
không phải gặp bất kỳ sự ngăn cản phi kinh tế nào. Khi đó lãi suất tự điều
chỉnh một cách linh hoạt và nhạy cảm với các nhu cầu của thị trường, tức là
nó phản ánh chính xác với giá của vốn trên thị trường. Nhờ quá trình tự do
hóa lãi suất, dòng vốn đã được lưu chuyển từ khu vực có lợi nhuận thấp đến
khu vực có lợi nhuận cao, từ khu vực rủi ro cao sang khu vực rủi ro thấp
hơn, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ
mô; tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất, giúp các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần của nền kinh tế phát triển mạnh và có hiệu quả.

Trang 10
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

 Tự do hóa lãi suất là hạt nhân của quá trình tự do hóa tài chính. Lãi suất
được tự do hoá sẽ thúc đẩy quá trình tự do hoá tài chính, góp phần làm cho
thị trường tài chính chính thức phát triển và giảm thiểu những tác động tiêu
cực của thị trường tài chính ngầm. Các tổ chức tài chính khi đó được phát
triển, từ đó nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính được cung ứng trong
nền kinh tế.
 Góp phần giảm thâm hụt ngân sách nhà nước bằng cách huy động nội lực để
bù đắp thâm hụt ngân sách, thay vì đi vay quá nhiều tín dụng nước ngoài
hoặc sử dụng tiền phát hành, vì vậy, có thể giải quyết tận gốc vấn đề lạm
phát từ nguyên nhân bội chi ngân sách Nhà nước hàng năm.
 Quá trình tự do hóa lãi suất cùng với quá trình tự do hóa kiểm soát ngoại hối
và áp dụng chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ tạo ra quá trình quốc tế hóa hệ thống tài
chính và lãi suất trong nước do cạnh tranh. Từ đó, phản ánh thực chất cung
cầu về vốn và bám sát hơn lãi suất quốc tế nhằm thu hút vốn nước ngoài
ngắn hạn và dài hạn để tài trợ cho những nhu cầu trong nước đang tăng khá
nhanh trong những năm gần đây. Khuyến khích các ngân hàng thương mại
đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm và dịch vụ phù hợp cho khách hàng tốt và
mức lãi suất cao cho khách hàng có nhiều rủi ro. Chính việc tự do hóa lãi
suất đã tạo điều kiện phát triển các công cụ tài chính để tự các doanh nghiệp
và ngân hàng thương mại bù đắp những rủi ro trong hoạt động tín dụng
thông qua các nghiệp vụ như: hoán đổi (SWAP), giao dịch có kỳ hạn
(FORWARD).
 Tự do hóa lãi suất còn tác động đến việc điều hành chính sách tiền tệ. Quá
trình tự do hóa lãi suất thúc đẩy mức biến động của các luồng vốn tư nhân
ngày càng tăng đã gây khó khăn cho các ngân hàng Trung ương của các
nước trong việc kiểm soát hoặc gây ảnh hưởng đến vốn khả dụng trong nước
và cơ cấu lãi suất. Khi đó, tự do hóa lãi suất cho phép ngân hàng Trung ương
rút về sau thị trường mà không mất đi khả năng kiểm soát, đồng nghĩa với
việc bãi bỏ các công cụ kiểm soát trực tiếp để ngân hàng Trung ương đưa ra
các giải pháp thực hiện chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp,
kiểm soát những rủi ro thua lỗ
2.4.2. Nhược điểm
Tự do hóa lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song đối với các nước
đang phát triển thì việc chuyển ngay từ thái cực kiềm chế sang thái cực tự do là
một việc làm tương đối khó khăn. Nó có xu hướng làm bộc lộ những yếu kém về
thể chế và cơ cấu trong khu vực tài chính và có thể gây thiệt hại cho hệ thống ngân

Trang 11
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

hàng do những cú sốc vi mô xuất phát từ bên ngoài và chính sách vĩ mô không phù
hợp. Do vậy, bên cạnh những ưu điểm đã trình bày ở trên, tự do hóa lãi suất cũng
có những nhược điểm nhất định có thể kể đến như sau:
 Thứ nhất, việc bãi bỏ các công cụ lãi suất rõ ràng đã làm mất đi một công cụ
để điều tiết nền kinh tế và hệ thống tài chính. Nếu sự thay đổi trong bộ máy
quản lý giám sát không theo kịp hoặc các công cụ kiểm soát chưa được phát
triển kịp thời thì sẽ gây ra những bất lợi tiềm ẩn. Đối với khu vực tài chính,
những toan tính về lợi nhuận sẽ làm tăng mức lãi suất và những lựa chọn đối
nghịch sẽ xảy ra. Đối với khu vực sản xuất, việc mức lãi suất bị đẩy lên cao
sẽ loại bỏ tất cả các ngành và các khu vực sản xuất có tỷ lệ sinh lời không
thể vượt qua yêu cầu về lãi suất. Hàng loạt các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế có thể phá sản và sự méo mó về cơ cấu sẽ xuất hiện.
 Thứ hai, tự do hóa lãi suất sẽ đi kèm với một công cuộc phân phối lại của cải
và thu nhập trong nền kinh tế, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
 Thứ ba, nghịch lý của vấn đề tiết kiệm là nó làm giảm tiêu dùng, thu hẹp
cầu, do đó có thể dẫn đến thu hẹp về đầu tư và cuối cùng làm giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Như vậy nếu tự do hoá lãi suất làm tăng tiết kiệm trong
nền kinh tế thì có thể gây ra tác động tiêu cực đến nền kinh tế theo nghịch lý
tiết kiệm.
 Thứ tư, chính sách tự do hóa lãi suất gây ra sự mất cân bằng cung - cầu. Số
lượng ngân hàng ít, chưa đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu vốn tối thiểu theo quy
định của Nhà nước, hoặc đang phải đối mặt với các vấn đề về thanh khoản
chưa được xử lý triệt để, nhưng họ lại không muốn giải thể, sát nhập hay cổ
phần hóa theo yêu cầu... Do đó, việc tự do hóa lãi suất huy động ít nhiều có
thể làm gia tăng một số hoạt động huy động vốn với lãi suất cao trong thời
gian đầu, gây sốc vốn và thanh khoản cho các ngân hàng và có thể dẫn đến
các hành vi tìm cách lách luật hoặc vi phạm pháp luật.
 Thứ năm, việc tự do hóa lãi suất gây ra áp lực thanh khoản lớn cho các ngân
hàng. Sức hấp dẫn của lãi suất được hình thành bởi sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng có thể thúc đẩy hoạt động rút vốn của người gửi từ ngân hàng có
lãi suất thấp gửi vào ngân hàng có lãi suất cao. Thông thường, người gửi tiền
không phân biệt được lãi suất cơ bản với trần lãi suất, thậm chí còn mơ hồ
về các hoạt động, khả năng thanh khoản và sự vững chắc của các ngân hàng.
Đối với đa số đám đông, ai huy động cùng mức lãi suất cao hơn thì sẽ gửi
tiền vào, thậm chí họ không cần biết tư cách pháp nhân của người huy động
và mục tiêu huy động vốn.

Trang 12
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Chương 2. Thực trạng tự do hóa lãi suất ở Việt Nam


1. Tiến trình thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam:
Bên cạnh quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, thị trường
tiền tệ cũng có nhiều biến động do các cú sốc thị trường quốc tế, trong đó biểu hiện
rõ nhất là những diễn biến lãi suất qua từng giai đoạn.
 Giai đoạn 1989 - 1993
Kể từ ngày 26/3/1988, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đổi mới cơ cấu tổ
chức theo Nghị định 53/HĐBT, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình phát
triển của Ngân hàng và trong công tác quản lý lãi suất. Kết quả là, các ngân hàng
thương mại đã được tạo ra, hoạt động dưới sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước,
trong khi trước đây hệ thống ngân hàng được vận hành độc quyền.
Theo đó, trong quyết định số 25-NH/QĐ ngày 12/5/1980 của ngân hàng Nhà
nước, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn là 0,6%/tháng; lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1-3
tháng là 0,9%/tháng; từ 2-6 tháng là 1,05%/tháng; từ 6-12 tháng là 1,2%/tháng;
trên 12 tháng là 1,5%/tháng… Trong giai đoạn này, chính sách lãi suất từng bước
thể hiện vai trò trong công cuộc kiềm chế lạm phát, đồng thời đã hình thành nhiều
loại lãi suất phù hợp với nhu cầu thị trường ví dụ như lãi suất liên ngân
hàng… Tuy nhiên, có sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế và
lãi suất tiền gửi tiết kiệm, lãi suất huy động cao hơn lãi suất cho vay, hơn nữa có sự
phân biệt về lãi suất cho vay giữa khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh dẫn
đến bất bình đẳng trong nền kinh tế.
 Giai đoạn 1994 - 2000
Năm 1996, theo nghị quyết của Quốc hội, ngân hàng Nhà nước đã bãi bỏ
chính sách thu thuế doanh thu của các hoạt động tín dụng để giảm chi phí cho vay,
song lãi suất cho vay vẫn tăng lên đến trên 20%/năm. Các khoản lãi suất cho vay
duy trì có sự khác nhau giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, trong đó
ngân hàng Nhà nước duy trì mức lãi suất cao hơn ở khu vực nông thôn để kích
thích nguồn vốn vay về với khu vực này.
Quyết định số 39/1998/QĐ/NHNN được ban hành nhằm thu hẹp khoảng
cách chênh lệch lãi suất cho vay của hai khu vực, đồng thời thu hẹp lãi suất trần và
bãi bỏ chênh lệch 0,35%/tháng. Tuy nhiên, trên thực tế quyết định này càng đưa
nhiều khu vực nông thôn lâm vào tình trạng thiếu vốn, không đảm bảo tín dụng
cho nông thôn do không áp dụng chính sách ưu đãi về lãi suất. Kể từ sau năm
1997, các ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất cho vay như gia hạn các khoản
nợ từ 1-3 năm lên đến 5 năm cho các doanh nghiệp, cho các tập đoàn nhà nước vay
không thế chấp đẩy lãi suất cho vay từ 20,1%/năm trong năng 1996 giảm xuống
còn 14,4%/năm duy trì trong 2 năm từ 1997-1998.
Lãi suất tín dụng tăng trong giai đoạn này đến trực tiếp từ việc vay mượn
của các doanh nghiệp nhà nước để làm cho hệ thống tài chính của họ có khả năng

Trang 13
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

chống chọi tốt hơn với cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong năm 1999, việc chính
sách tín dụng được mở rộng không làm kích thích tăng trưởng kinh tế, lãi suất huy
động vốn và lãi suất tín dụng mỗi năm đã lần lượt giảm 2% so với các năm trước.
Tuy nhiên, năm 2000 đã đánh dấu một bước tiến mới trong cơ chế điều hành
lãi suất. Theo đó, ngân hàng Nhà nước thống nhất việc thay đổi lãi suất cho vay
không được vượt quá lãi suất cơ bản cộng thêm 0,3%/tháng cho vay ngắn hạn và
0,5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Về cơ bản, quyết định này không
khác mấy so với quyết định áp trần lãi suất trước kia nhưng các ngân hàng thương
mại có thể chủ động hơn trong việc đưa ra mức lãi suất cho vay phù hợp với từng
đối tượng khách hàng mà họ hướng đến.

 Giai đoạn 2001 - 2008


Từ năm 2001 đến năm 2008, lãi suất huy động và cho vay tăng lên nhịp
nhàng. Với chính sách bỏ trần sàn lãi suất, lấy lãi suất cơ bản làm cơ sở tham chiếu
nên các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đã đua nhau thiết lập lãi suất riêng của
mình. Trong vòng 7 năm, lãi suất huy động vốn đã tăng lên 97% và lãi suất cho
vay tăng lên 67%.
Mức tăng đột biến kỷ lục này báo động lỗ hổng trong việc điều hành và quản
lý lãi suất của ngân hàng nhà nước, làm tăng lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên,
việc các ngân hàng thương mại thiết lập lại lãi suất càng làm cho bài toán quản lý
trong vấn đề tự do hóa lãi suất trở nên khó hơn. Năm 2008 là năm Việt Nam chịu
tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, buộc ngân hàng Nhà
nước phải “bơm” gói kích cầu trị giá 30.000 tỷ đồng để kích thích thị trường tiêu
dùng. Cùng với việc ba lần tăng lãi suất (đỉnh điểm là vào tháng 6/2008 mức lãi
suất huy động là 14%, cao nhất châu Á), ngân hàng Nhà nước cũng thực hiện giảm
giá tiền VND xuống 2% để giảm bớt áp lực từ đồng tiền nội tệ. Việc chính sách
tiền tệ được thắt chặt cũng là một giải pháp để giải cứu thị trường khỏi sự gia tăng
của lạm phát, dù chưa đủ để tạo ra áp lực giảm nhiệt của lãi suất cho vay.
Cụ thể, ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về
những cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam nhằm kiểm soát lãi suất
cho vay của các tổ chức tín dụng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Những diễn
biến của thị trường lãi suất trong năm 2008 đã đi ngược lại với kỳ vọng của ngân
hàng Nhà nước, lãi suất không phản ánh đúng mối quan hệ cung-cầu, bất cập về trần
lãi suất cũng đã đẩy các tổ chức tín dụng bước vào thời kỳ mất cân đối trong cầu vốn
vay tín dụng trung và dài hạn rất lớn, làm gia tăng rủi ro trong kỳ hạn vốn.
 Giai đoạn 2009 đến nay
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN quy định các
khoản cho vay bằng đồng Việt Nam phải thu lãi suất thỏa thuận nhằm giải quyết
những vấn đề về lãi suất, cho phép ngân hàng áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận
Trang 14
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

với các khách hàng vay trung và dài hạn cho mục đích kinh doanh, mở rộng sản
xuất. Tình hình lãi suất trong năm 2011 không mấy khả quan khi chịu ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân đẩy mức lãi
suất huy động và mức lãi suất cho vay tăng cao, trong khi mức lãi suất thực trên thị
trường phải được duy trì ở ngưỡng âm 3,55%.
Trong khi ngân hàng Nhà nước đã quy định mức trần lãi suất huy động một
năm là 14% thì các ngân hàng thương mại vẫn lách luật, huy động trượt lãi suất 2%
- 5% để thu hút khách hàng. Ngày 21/12/2012, quyết định số 2646/QĐ-NHNN đã
được ngân hàng Nhà nước đã ban hành về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng điện tử và cho vay
bù đắp thâm hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng Nhà nước đối với các
ngân hàng nhằm giảm lãi suất tái cấp vốn từ 10%/năm còn 9%/năm, lãi suất tái
chiết khấu giảm từ 8%/năm xuống 7%/năm, lãi suất cho vay qua đêm giữa các liên
ngân hàng cũng giảm từ 11%/năm xuống còn 10%/năm. Như vậy, với chính sách
thắt chặt tiền tệ, đến nay lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm.
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự sửa đổi được ban hành vào năm 2015 đã quy
định mức trần lãi suất một năm không vượt quá 20% đối với các khoản vay tín
dụng, được áp dụng từ ngày 1/1/2017. Tuy nhiên, việc áp trần lãi suất không phải
là một giải pháp tối ưu như đã phân tích, những bộ luật này cũng đã “mở đường”
cho các tổ chức tín dụng được phép thỏa thuận lãi suất theo cơ chế thị trường với
điều khoản “trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” (NHNN, 2015).
2. Những điều kiện thuận lợi để thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Ưu điểm lớn nhất của cơ chế tự do hóa lãi suất là tạo điều kiện cho các tổ
chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy động cho vay vốn với mức lãi suất phù
hợp; đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn cho người cần vay vốn; tạo thuận lợi cho việc
cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao năng lực tài
chính, khả năng cạnh tranh, khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc
tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam…
Theo kinh nghiệm của quá trình tự do hóa lãi suất ở một số nước và nước ta trong
nhiều năm qua, có thể rút ra một số điều kiện để nước ta thực hiện tự do hóa lãi suất
là:
 Kinh tế vĩ mô ổn định
 Thị trường tài chính - tiền tệ minh bạch và hiệu quả
 Mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ là ổn định thị trường tài chính – tiền
tệ
 Phát triển hệ thống thanh toán có khả năng kiểm soát được hầu hết các luồng
vốn khả dụng của ngân hàng, chứng khoán và các định chế tài chính khác.

Trang 15
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

 Hệ thống NHTM có năng lực cạnh tranh và khả năng đảm bảo an toàn hoạt
động cao hơn.
 Ngân sách nhà nước thâm hụt ở mức thấp.
Khi đủ các điều kiện trên, nước ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hóa lãi suất nhưng
không phải là cơ chế tự do hoàn toàn. NHNN với tư cách là người điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng các lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn để
tham gia điều chỉnh gián tiếp lãi suất thị trường, phát huy vai trò của lãi suất đối với
sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tế hiện nay thì đã có một số điều kiện thuận lợi cho tự do hóa lãi suất, như tăng
trưởng kinh tế không quá nóng, kỳ vọng lạm phát không cao, lãi suất trên thị trường
quốc tế thấp, vốn khả dụng của các NHTM đang dồi dào, các NHTM đã có những
phản ứng nhất định trước những thay đổi của chính sách tiền tệ.
Kinh tế vĩ mô và ổn định tài chính có tầm quan trọng hàng đầu đối với sự thành công
của các chương trình tự do hóa lãi suất.
2.1. Về tình hình kinh tế vi mô
Việt Nam bắt đầu mở cửa và thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế năm
1986. Các mối quan hệ liên kết kinh tế đã được thiết lập trong những năm tiếp theo
càng khẳng định được xu thế hội nhập của Việt Nam: tham gia ASEAN (1995),
APEC (1998), ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (2000), là thành viên của WTO
(2006), …
Theo báo cáo kinh tế quý 4/2020:
 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý 4/2020 đạt mức 4.48% cao hơn so với quý
3/2020 (2.62%). Tính chung năm 2020, GDP Việt Nam tăng 2.91% mức tăng
trưởng dương, thuộc nhóm tốt nhất so với các nước trong khu vực và quốc tế
trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với nhiều trắc trở và khó
khăn. Tính chung năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
2.68%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3.98%; khu vực dịch vụ tăng
2.34% …
 Tăng trưởng vốn đầu tư thực hiện từ khu vực nhà nước tăng mạnh: Riêng trong
quý 4/2020, vốn đầu tư toàn xã hội đạt 719.6 nghìn tỷ đồng, tăng 7.5%. Vốn
đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành năm 2020 đạt 2164.5 nghìn tỷ
đồng, tăng 5.7%.
 Lạm phát bình quân năm 2020 đạt 2.31% trong vùng mục tiêu.
 Cán cân thương mại năm 2020 thặng dư 19.95 tỷ USD.
2.2. Về tình hình thị trường tài chính

Trang 16
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Song song với sự phát triển kinh tế, hệ thống tài chính cũng có nhiều thay đổi, hội
nhập hơn theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và mở cửa từng bước …
 Lãi suất liên ngân hàng tăng nhẹ trong những ngày cuối năm 2020:

Trong quý 4/2020, lãi suất liên ngân hàng qua đêm và một tuần chỉ dao động nhẹ, ở
mức thấp hơn so với quý 3/2020.
Tính đến ngày 28/12/2020, tăng trưởng cung tiền M2 năm 2020 ở mức 13.26% so
với cuối năm 2019, cao hơn so với năm 2019 (12.1%)
 Thị trường trái phiếu sôi động
Trên thị trường trái phiếu, quy mô niêm yết trái phiếu CP tính đến 31/12/2020 đạt
hơn 1.35 triệu tỷ đồng, tăng 17.39% so với năm 2019. Trong đó nhà đầu tư nước
ngoài đã mua ròng 3.95 nghìn đồng tỷ đồng. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
phát triển mạnh trong tám tháng đầu năm. Lũy kế đến tháng 11, tổng giá trị TPDN
phát hành đạt 392,527 tỷ đồng, tăng 64.4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó giá
trị trái phiếu phát hành riêng lẻ đạt 348,456 tỷ đồng.
2.3. Về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và các
thể chế tài chính trung gian khác
Hệ thống ngân hàng không ngừng cải cách để nâng cao hiệu quả phân bố và sử
dụng các nguồn lực tài chính. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tiến hành cải cách kinh
tế gắn chặt với tự do hóa tài chính trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau, mở ra nhiều
tiềm năng và cơ hội phát triển cho hệ thống ngân hàng.
 Theo số liệu của Tổng cục thống kê cho biết: tính đến ngày 20/3/2020, huy
động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0.51%.
 Theo số liệu của NHNN, tính đến quý 2/2020, dư nợ tín dụng của hệ thống
ngân hàng đối với nền kinh tế chỉ tăng 1.96% so với cuối 2019, thấp nhất trong
khoảng 15 năm gần đây.
 Phân tích dữ liệu tài chính trong báo cáo tài chính quý 1/2020 của 18 NHTM
đang niêm yết đã công bố công khai cho thấy, lợi nhuận sau thuế giảm 11.5%
so với quý 4/2020.
 Phân tích từ BCTC quý 1/2020 cho thấy chênh lệch phần trăm giữa thu nhập
lãi và chi phí lãi phải trả của 18 NHTM đang niêm yết giảm 1.1 điểm cơ bản
so với quý 4/2019, giảm xuống còn 0.87%.
 Trong quý 1/2020, thu nhập lãi thuần chiếm 78% tổng thu nhập hoạt động của
18 NHTM đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
2.4. Năng lực tài chính và khả năng thanh toán

Trang 17
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của NHTM phải từ 9% trở
lên, nếu tỷ lệ này không đảm bảo, NHTM sẽ không đủ khả năng mở rộng hoạt
động kinh doanh, thậm chí còn đứng trước nguy cơ phá sản.
Cuộc CMCN lần thứ 4 với kỹ thuật số điều khiển các hoạt động sản xuất –
kinh doanh, giúp các NHTM mở ra triển vọng tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng
cao khả năng cạnh tranh. Năng lực tài chính và khả năng thanh toán của các
NHTM cũng được tăng lên.
Trong năm qua, chính sách tiền tệ đã được NHNN điều hành linh hoạt theo
hướng nới lỏng, thận trọng, phù hợp nhằm đảm bảo thanh khoản và hỗ trợ phục hồi
khả năng kinh doanh trong bối cảnh dịch bệnh.
3. Những khó khăn trong quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam:
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể về nhiều
mặt, đặc biệt là trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên,
năng lực tài chính, năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh của các thành viên trên
thị trường tài chính chưa đồng đều, tính bền vững của sự phát triển chưa cao: xét
trong hệ thống tổ chức tín dụng gồm 73 ngân hàng và 8 tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, chỉ có một số tổ chức tín dụng thương mại có số vốn và tài sản đăng ký lớn.
Trong đó, vốn đăng ký của khối ngân hàng thương mại nhà nước (2 ngân hàng
thương mại nhà nước, 3 ngân hàng thương mại do Nhà nước quản lý và 1 ngân
hàng an sinh xã hội) chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của toàn khối, thị phần huy
động vốn và cấp tín dụng khoảng 60%, thị phần của ngân hàng lớn nhất và ngân
hàng lớn kế tiếp khá chênh lệch. Lượng vốn điều lệ và tài sản lớn có khả năng
quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ vẫn có thế mạnh trong cạnh tranh thị trường,
nhưng trong điều kiện cấu trúc thị trường còn tồn tại nhiều ngân hàng thương mại
có quy mô vốn và thị phần thấp thường có hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh
tranh không lành mạnh. Mặt khác, các tập đoàn ngân hàng lớn, thông qua lợi thế về
hệ thống, có thể tác động đến các chính sách của các ngân hàng nhà nước nói
chung và chính sách lãi suất nói riêng thông qua hành vi chi phối thị trường.
Việc chạy đua tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008 và
những tháng đầu năm 2010 là biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh.

Trang 18
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Trong cơ cấu thị trường hiện nay, có một đặc điểm khác ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả của quá trình tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng có lãi suất
chính sách không nhỏ. Số dư nợ tín dụng của khoản này chiếm khoảng 12% tổng
dư nợ. Ngoài các khoản vay có cơ chế hỗ trợ lãi suất trước đây, chúng ta cũng có
nhiều dự án, các lĩnh vực sản xuất được hưởng ưu đãi lãi suất thông qua ngân hàng
phát triển và ngân hàng chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển sử dụng các
nguồn vốn chính sách ưu đãi hỗ trợ phát triển chính thức khác…
Những chính sách ưu đãi này là vô cùng cần thiết trong sự phát triển kinh tế hiện
nay, nhưng ở một mức độ nào đó sẽ làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hoá lãi
suất, do lãi suất hình thành trên thị trường khi đó không thể phản ánh chính xác
mối quan hệ cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn cũng bị bóp méo thông qua
công cụ lãi suất.
Về lý thuyết, khi xem xét lợi ích từ các quyết định đầu tư và kinh doanh, những
người tham gia vào nền kinh tế thường quan tâm đến lãi suất thực tế mà họ nhận
được. Nhìn vào tình hình thực tế ở Việt Nam hiện tại, lãi suất thực mà người gửi
tiền nhận được là lãi suất thực dương, bình quân trong 3 tháng đầu năm 2010
khoảng 2,8% - chưa kể các hình thức khuyến mại khác.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi tốc độ tăng của CPI, lãi suất thực tế đã có xu
hướng giảm kể từ tháng Hai. Trong trường hợp này, lãi suất danh nghĩa sẽ tăng dần
để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương. Điều này có nghĩa là Ngân hàng nhà
nước bỏ trần lãi suất đối với lãi suất huy động thì các ngân hàng thương mại vẫn có
thể cạnh tranh về vốn bằng cách tăng lãi suất huy động. Ngoài ra, theo xu hướng
này, tín hiệu về việc tăng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát.
Mặt khác, dưới góc độ lãi suất thực ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, các nhà
đầu tư vay vốn ngân hàng hiện đang phải đối mặt với lãi suất thực tương đối cao.
Đánh giá tác động của lãi suất thực đối với tăng trưởng kinh tế, dựa trên kết quả
ước tính của mô hình OLS (41 quan sát từ Quý 1 năm 2000 đến tháng 3 năm 2010-
tháng 3 năm 2010-tháng 3 năm 2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy lãi suất cho
vay ngắn hạn thực tế tăng 1% sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 0,04% so với
quý trước.
Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết cho rằng lãi suất, đầu tư và tổng sản
lượng có tương quan nghịch trong nền kinh tế. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn
có nhiều yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế, do đó, sự biến động của lãi suất
thực chỉ có thể giải thích được 12,3% sự biến động của tăng trưởng kinh tế.

Trang 19
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Là một nền kinh tế đô la hóa, lãi suất đồng nội tệ, ngoại tệ và tỷ giá hối đoái có
quan hệ mật thiết với nhau. Với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi
suất đồng ngoại tệ thêm vào đó với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự
nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường điều
này sẽ gây ra nhiễu loạn thị trường và gây áp lực lên tỷ giá hối đoái.
4. Mục tiêu và bước đi tiếp theo của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
4.1. Mục tiêu, quan điểm của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Khi cánh cửa hội nhập kinh tế ngày càng rộng mở thì yêu cầu tự do hóa lãi
suất tín dụng lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Dự thảo Bộ luật
Dân sự (sửa đổi) được trình Quốc hội xem xét, thông qua trong Kỳ họp thứ 10
khóa XIII đã cụ thể hóa được quan điểm để các tổ chức tín dụng được điều chỉnh
theo luật chuyên ngành và hoạt động theo hướng tự do hóa lãi suất.
Trong quá trình hội nhập kinh tế với quốc tế, việc tự do hóa lãi suất tín dụng
đã trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Sau khi được trình lên Quốc hội để xem xét
trong kỳ họp thứ 10 khóa 13, Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi thông qua kỳ họp
này cần cụ thể hóa được quan điểm để các tổ chức tín dụng được điều chỉnh theo
luật chuyên ngành và hoạt động theo hướng tự do hóa lãi suất.
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo BLDS sửa đổi, phần về
vấn đề trần lãi suất cho vay trong quan hệ dân sự, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin
ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về hai phương án tại Điều 467 BLDS mới như sau:
 Phương án 1: quy định mức lãi suất cố định ngay trong BLDS là tối đa
20%/năm của khoản tiền vay;
 Phương án 2: vẫn sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu, đồng thời
xác định quy định về trần lãi suất của BLDS sẽ không được áp dụng trong
trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác.
Trong vấn đề này, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cho
rằng cần đưa ra một lộ trình cụ thể nhằm tự do hóa lãi suất, đảm bảo lãi suất huy
động và lãi suất cho vay phản ánh đúng thực tế nhu cầu và nguồn cung vốn trên thị
trường tài chính. Đặc biệt là khi thanh khoản hệ thống ổn định, lạm phát được kiểm
soát ở mức thấp, các nhân tố vốn như vàng và đồng dollar đã được kiềm chế.
Chính vì vậy, dù chọn phương án nào trong hai phương án trên thì điều quan
trọng là phải làm rõ việc đưa các tổ chức tín dụng ra khỏi sự điều chỉnh của quy
định này và để nó hoạt động theo luật chuyên ngành và do Ngân hàng Nhà nước
chỉ đạo. Đây là điều kiện tiên quyết để thị trường tài chính ngân hàng phát triển và
Trang 20
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

để Việt Nam tham gia vào sân chơi lớn - thị trường kinh tế thế giới một cách hiệu
quả.
Từ nhiều năm nay, nhận thấy những mặt tích cực của việc tiến hành tự do hóa
lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận về tự do
hóa lãi suất để từ đó có những bước đi và hệ thống chính sách về lãi suất tương đối
phù hợp với điều kiện nước ta. Tuy nhiên, trong thời gian tới, chính sách lãi suất
vẫn cần được tiếp tục điều chỉnh theo hướng tự do hóa để phù hợp với mức độ hội
nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế, theo sát lãi suất thị trường quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước sau khi nhận thấy những mặt tích cực của việc tiến hành
tự do hóa lãi suất đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận yếu tố này đối với sự
phát triển của kinh tế, nhất là khi kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Nhờ đó Ngân hàng Nhà nước đã có những chính sách và kế hoạch
về lãi suất để phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, các chính sách
điều chỉnh lãi suất cần được tiếp tục điều chỉnh theo hướng tự do hóa, hiệu quả và
phù hợp hơn để đáp ứng những yêu cầu của thị trường tài chính khu vực và quốc tế
theo sát lãi suất quốc tế.
4.2. Bước đi tiếp theo của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Lãi suất là một nhân tố quan trọng trong thị trường tài chính - tiền tệ và là động
lực chính cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh lãi suất sẽ tạo ra những tác động tương
ứng. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập quốc tế đã đặt ra những yêu cầu mới về tự do
hóa lãi suất tín dụng.
Lãi suất là một loại công cụ đặc biệt của ngân hàng trung ương, được sử dụng
làm đòn bẩy kinh tế cho những mục tiêu khác nhau. Tình hình thị trường tiền tệ nước
ta những năm qua đã cho thấy rõ điều này, nếu thả lỏng việc kiểm soát thị trường lãi
suất, thị trường lãi suất sẽ trở nên không ổn định, nóng hơn bao giờ hết, lãi suất sẽ
tăng cao tới 28 -30%/1 năm, khiến cho các doanh nghiệp đã phải “chịu vốn vay ngân
hàng” sau những nỗ lực để cầm cự sẽ ở trên bờ vực phá sản. Một ví dụ cụ thể là hàng
trăm nghìn doanh nghiệp đã bị giải thể, phá sản hay ngừng hoạt động trong giai đoạn
2013-2016. Còn nếu kiểm soát lãi suất quá mức sẽ làm mất động lực của các nhà
băng. Khi lãi suất giảm nguồn thu chính của ngân hàng giảm sẽ kìm hãm sự phát
triển của các ngân hàng. Thậm chí là cả của người đi vay, lãi suất thấp đồng nghĩa
với việc giảm sức ép trả nợ cho ngân hàng. Do đó khiến cho nền kinh tế rơi vào tình
cảnh trì trệ. Chính vì thế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã và đang kiên trì thực
hiện chính sách lãi suất linh hoạt, hợp lý trong những năm gần đây.

Trang 21
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Thực vậy, từ nhiều năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những thay đổi trong
cách nhìn nhận về tự do hoá lãi suất sau khi nhận thấy những mặt tích cực của việc
tiến hành tự do hoá lãi suất , từ đó đề xuất và tiến hành những bước đi và hệ thống
chính sách về lãi suất tương đối phù hợp với điều kiện nước ta. Trong điều kiện môi
trường kinh doanh tín dụng đạt được sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng,nền kinh
tế càng mang nhiều yếu tố thị trường, lại càng cần được “ tự do định đoạt ” dựa trên
những quan hệ cung cầu về vốn. Nguyên nhân là do tính chất linh hoạt và nhạy cảm
của lãi suất, sự thay đổi nhanh chóng và mức độ ảnh hưởng đến môi trường tài chính
- tiền tệ. Chính vì thế, trong những năm gần đây, nhà điều hành chính sách tiền tệ đã
có những “nới lỏng” đối với nhiều loại lãi suất như: chỉ quy định trần lãi suất huy
động tiền gửi ngắn hạn dưới 13 tháng; không khống chế trần lãi suất cho vay bằng
ngoại tệ; và tích cực can thiệp thị trường tiền tệ bằng công cụ thị trường mở, nhằm
từng bước tạo cơ hội cho các ngân hàng tự xây dựng lãi suất dựa trên nhu cầu thực
tế của xã hội.
Sự thay đổi của lãi suất trên thị trường tiền tệ phản ánh mối quan hệ cung - cầu
trên thị trường tài chính, thế nhưng trên thực tế hiện nay vẫn tồn tại nhiều ngoại lực
tác động không nhỏ vào quan hệ cung - cầu này, khiến cho công cụ lãi suất không
phản ánh đúng thực tế của mối quan hệ này. Trong nhiều trường hợp lãi suất khiến
cho các quy luật thị trường bị lờ đi hoặc bị bóp méo do được hình thành từ những
mệnh lệnh hành chính. Câu hỏi đặt ra ở đây là: Chúng ta có nên áp dụng biện pháp
“áp chế tài chính” để quy định một trần lãi suất và để các thực thể hoạt động trong
thị trường tiền tệ chỉ được “ vùng vẫy” trong phạm vi cho phép?
Như đã nói ở trên, lãi suất là một nhân tố đặc biệt, được hình thành từ nhiều
nhân tố, cho nên lãi suất còn có khả năng tác động vào cả chính các nhân tố xác định
nên nó như: quan hệ cung cầu vốn, khối lượng tiền tệ, tỷ suất lợi nhuận bình quân
của các doanh nghiệp. Do vậy, yêu cầu cần thiết hiện nay là tạo ra những cơ chế vận
hành kinh tế vĩ mô sao cho nhà điều hành thị trường tiền tệ có thể vận hành thị trường
lãi suất một cách hiệu quả. Tuy không cứng rắn nhưng lại có hiệu lực cao mà không
cần thiết phải đưa ra một con số cụ thể cho một loại hình lãi suất cụ thể.
Một môi trường tài chính lành mạnh, minh bạch, công bằng trong cạnh tranh là
cần thiết để lãi suất có khả năng nắm bắt tín hiệu thị trường một cách nhạy bén và
hiệu quả. Đến thời điểm đó, thị trường sẽ tự điều chỉnh một mức lãi suất phản ánh
đúng thực tế mối quan hệ cung cầu của thị trường tài chính.
Cần được thúc đẩy quá trình này để sớm đạt được tự do hóa lãi suất, khi làm
sức ép của hội nhập quốc tế đang ngày càng gia tăng và thị trường vốn Việt Nam

Trang 22
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

không thể không tham gia. Một chính sách lãi suất mở cửa và hiệu quả theo hướng
tự do hóa sẽ đảm bảo cho lãi suất phát huy được những mặt tích cực của nó, tránh
việc sự lãng phí các nguồn lực, tránh được tình trạng thất thoát ngân sách do những
tổ chức tín dụng không lành mạnh và không công bằng trong cạnh tranh đối với
những tổ chức tín dụng lành mạnh. Trong quá trình tự do hóa lãi suất, các công cụ
lãi suất chính sách cũng cần từng bước được đổi mới để phù hợp với quốc tế, đảm
bảo hình thành được các mức lãi suất chỉ đạo chỉ tuân theo tín hiệu thị trường, cần
thiết lập đường cong lãi suất của thị trường đối với tất cả các dải kỳ hạn để các ngân
hàng thương mại có cơ sở xác định mức lãi suất phù hợp và linh hoạt theo diễn biến
của thị trường .
Tóm lại, cần phải tiếp tục điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá,
phù hợp hơn với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế, theo sát
lãi suất thị trường quốc tế. Khi các điều kiện đã hội đủ, chúng ta sẽ chuyển sang cơ
chế tự do hoá lãi suất kết hợp với sự điều tiết bằng các công cụ thị trường của Ngân
hàng Nhà nước, để đảm bảo giữ vững sự ổn định và an toàn cho hoạt động của hệ
thống ngân hàng. TS. Cao Sỹ Kiêm nêu quan điểm: “Trong thời gian tới, khi nền
kinh tế hoàn chỉnh, cung - cầu vốn trở lại bình thường, bớt căng thẳng thì thị trường
tài chính mới thực sự lành mạnh. Chính vì vậy, theo tôi nên để thị trường tự do hoàn
toàn”. Theo các chuyên gia chuyên gia: Khi thanh khoản hệ thống ổn định, lạm phát
đã được kiểm soát ở mức thấp, các nhân tố vốn từng gây bất ổn cho thị trường tiền
tệ là vàng và USD đã bị kiềm chế, thì rất cần đưa ra một lộ trình cụ thể nhằm tự do
hóa lãi suất, đảm bảo lãi suất cho vay và huy động được xác định trên cơ sở cung
cầu vốn của thị trường.
Chương 3. Giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tiến trình tự do hóa lãi suất ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Tự do hóa lãi suất là một phần của tự do hóa tài chính. Việc ấn định lãi suất hợp
lý sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Để thực hiện
tiến trình tự do hóa lãi suất, góp phần hội nhập vào thị trường tài chính – tiền tệ
toàn cầu trong thời gian tới cần phải có những giải pháp phù hợp.
1. Điều kiện để tiếp tục thực hiện tiến trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
hiện nay.
 Hành lang pháp lí cho hoạt động kinh tế tài chính phải tương đối đồng bộ và
hoàn chỉnh.
 Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán đã ra
đời và vận hành hiệu quả.
Trang 23
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

 Các tổ chức kinh tế đều phải đảm bảo khả năng sử dụng vốn triệt để và thật sự
có hiệu quả.
 Môi trường kinh tế vĩ mô đã thật sự ổn định và tương đối chắc chắn.
 Hệ thống ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương mại ổn định và hoạt
động hữu hiệu.
 Các ngưồn lực trong nước như vốn, tài nguyên, lao động ... đã được phân phối
và sử dụng tương đối hợp lí.
2. Các giải pháp để thực hiện tiến trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam hiện
nay.
2.1. Đối với Ngân hàng nhà nước
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu kiểm soát thị trường liên ngân hàng: Phát triển hệ
thống chỉ tiêu kiểm soát thị trường liên ngân hàng để theo dõi kịp thời diễn biến lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng làm cơ sở điều tiết lãi suất tái cấp vốn.
Dự đoán sự biến động lãi suất theo tình hình kinh tế: Đưa ra các biện pháp lãi
suất phù hợp với tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Bởi lãi suất là công cụ điều
tiết quan trọng trong chính sách tiền tệ, đặc biệt khi nước ta đang trong quá trình hội
nhập.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, giám sát thị trường tiền tệ - ngân hàng,
các quy định về tái cấp vốn, chiết khấu và tái chiết khấu; quy định về lãi suất, quản
lý ngoại hối theo thông lệ quốc tế.
Điều chỉnh các dịch vụ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, cần được thực hiện
càng sớm càng tốt để tạo ra một con đường để khẳng định các thông lệ quốc tế, đồng
thời đảm bảo rằng các dịch vụ vẫn phù hợp với Việt Nam.
Tăng cường các biện pháp giám sát của NHNN đối với hoạt động kinh doanh
của các NHTM, đặc biệt là nhóm NHTMCP có quy mô nhỏ và kinh doanh thiếu hiệu
quả.
Nâng cao năng lực giám sát và thực thi các quy định về phân loại nợ, đảm bảo
sự an toàn và hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thi hành, triển khai các biện
pháp phòng ngừa, hạn chế nợ xấu phát sinh cùng với việc xử lý nợ xấu.
Thay thế các biện pháp kiểm soát trực tiếp đối với lãi suất bằng các biện pháp
kiểm soát gián tiếp. Chuyển sang cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của
NHNN khi tự do hóa lãi suất có đủ điều kiện để tiến hành và thị trường tiền tệ ổn
định.

Trang 24
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

Điều tiết và giám sát các hoạt động của ngân hàng sau khi loại bỏ các ràng buộc
về lãi suất, nới lỏng các hạn chế để ngăn chặn sự bùng nổ về nhu cầu và hạn chế lạm
phát.
2.2. Đối với các Ngân hàng thương mại
 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM: các ngân hàng nên giải quyết tốt
các điểm yếu: xử lý các khoản nợ thu hồi, nợ quá hạn; nỗ lực phát triển nguồn
nhân lực, tích cực tìm kiếm thị trường mới, phát triển dịch vụ, chất lượng.
 Cải thiện hệ thống định giá lãi suất và khả năng định giá độc lập: trong tương
lai, mức độ biến động của lãi suất thị trường có thể rất lớn, các NHTM cần nâng
cao khả năng phòng tránh, đa dạng hóa và bù đắp rủi ro lãi suất để đảm bảo sự
hoạt động ổn định.
 Đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu các NHTM: tái cấu trúc không nên chỉ giới hạn
trong việc giải quyết các vấn đề trong quá khứ mà hiện tại còn phải phát triển
hệ thống để đảm bảo không xảy ra những vấn đề tương tự trong tương lai. Các
NHTM cũng cần tập trung vào cơ cấu tổ chức, quản trị, nhân lực và tài nguyên.
 NHTM nên hợp tác chiến lược dài hạn với các ngân hàng nước ngoài: bên cạnh
mục tiêu chính là tăng vốn, các ngân hàng nước ngoài có thể tạo điều kiện cho
các ngân hàng Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới.
 Các ngân hàng ở mọi quy mô và loại hình cần xây dựng chiến lược phát triển
và cụ thể hóa các kế hoạch hành động: các ngân hàng nên chủ động trong việc
tăng quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình hoạt động của mình. Các chiến lược
nên bao gồm các bước quyết định để đảm bảo chuyển sang hoạt động theo các
nguyên tắc hoàn toàn dựa trên thị trường.
 Tăng cường năng lực thể chế của các ngân hàng, đa dạng hóa các dịch vụ ngân
hàng phù hợp với việc chuyên môn hóa dịch vụ cho các phân khúc khách hàng,
tránh đầu tư ồ ạt. Tích hợp các hoạt động kinh doanh truyền thống vào chứng
khoán, quỹ, bảo hiểm, ủy thác,...sử dụng công nghệ để xây dựng hệ sinh thái
riêng, cải thiện nguồn thu của ngân hàng.
 Chuẩn hóa các quy trình quản lý và vận hành, tích hợp các hệ thống tự động để
nâng cao hiệu quả và giảm chi phí quản lý. Cần chú trọng các hoạt động kiểm
soát nội bộ và quản lý rủi ro để đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng.
2.3. Một số giải pháp khác
 Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, NHNN Việt Nam cần phải sửa đổi, bổ sung
khuôn khổ pháp lý hiện hành để đảm bảo ngành ngân hàng hoạt động trong một
môi trường nhất quán; tăng cường các quy định, chính sách minh bạch, trách
nhiệm giải trình và uy tín đối với cạnh tranh.
 Ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng GDP cao và ổn định, kiểm soát lạm phát ở
mức thấp, cân đối ngân sách nhà nước.
Trang 25
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

 Các cơ quan quản lý nền kinh tế phải nâng cao năng lực của mình trong tiến trình
hội nhập kinh tế nước ta hiện đang diễn ra mạnh mẽ.

Trang 26
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

PHẦN KẾT LUẬN

Có thể nói rằng việc chuyển đổi chính sách điều hành lãi suất sang cơ chế tự
do hoá lãi suất là xu thế tất yếu. Tuy nhiên cách thức chuyển đổi có hiệu quả nhằm
hạn chế những tiêu cực, kích thích nền kinh tế phát triển, huy động tích tụ tập trung
vốn cho công phát triển bền vững lại không có khuôn mẫu đồng nhất. Tùy theo
điều kiện đặc thù của từng quốc gia, nền tảng kinh tế vĩ mô, mức độ mở cửa, tập
quán tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư mà lộ trình tự do hoá lãi suất phải có thích ứng
phù hợp.
Song để vận dụng lãi suất thị trường, yếu tố chung cho cải cách ở mỗi quốc
gia là phải phát triển được thị trường. Trên cơ sở thị trường lãi suất được hình
thành và tác động vào nhiều biến số kinh tế vĩ mô khác, tất cả các công cụ điều
hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương cũng cần phải được chuyển từ
trực tiếp sang các công cụ gián tiếp mang tính thị trường. Từ đó thông qua các
công cụ định hướng thị trường để điều hành diễn biến lãi suất nhằm đạt các mục
tiêu tổng thể của nền kinh tế. Để có một thị trường phát triển, các công cụ thị
trường hữu hiệu phải có sự chuẩn bị kỹ càng về cả cơ sở vật chất cũng như con
người. Hệ thống ngân hàng cần phải được tiếp tục cải tổ, thúc đẩy sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng nhằm làm giảm chi phí và làm tăng hiệu quả
luân chuyển vốn trong nền kinh tế.

Trang 27
Nhóm 14 - TCH303.2 Tiểu luận giữa kỳ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Ngân hàng Nhà nước (2010), Thông tư 07/2010/TT-NHNN Quy định về cho

vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng;
2) IFM, staff. (1998, 1999), Vietnam: Selected issues and Statistical Appendix.

IMF;
3) Worldbank. (1995). Vietnam Financial Sector review. World Bank countries

report;
4) Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13;

5) Nguyen, X. T. (2003). The road to interest rate liberalization. Hochiminh:

Fulbright Economics.

6) Một số lí thuyết về tự do hoá tài chính trong hội nhập quốc tế về ngân hàng,

Trung tâm Bồi dưỡng Đại biểu Dân cử

7) Interest Rate Liberalization and Money Market Development, (1996) ,Marc

Quintyn, Hassanali Mehran, Bernard Laurens

8) Một số kiến nghị về tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, tạp chí tài

chính [Online]

9) Một số lí thuyết về tự do hoá tài chính trong hội nhập quốc tế về ngân hàng,

Trung tâm Bồi dưỡng Đại biểu Dân cử


10) Báo cáo kinh tế quý IV 2020 - Nghiên cứu của Viện Kinh tế và Chính sách
11) Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13;
12) Bước tiến mới của NHNN tới tự do hóa lãi suất: Thông tư 07 - con đường mới

cho cơ chế điều hành lãi suất hiện nay.

Trang 28

You might also like