You are on page 1of 9

CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN

PHẠM MẠNH HÙNG – 11 ANH

VẺ ĐẸP NGƯỜI NGHĨA SĨ TRONG VĂN BẢN VĂN


TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
I. Giới thiệu
1. Tác giả

- Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1/7/1822 tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định
(nay là phường Cầu Kho, Quận 1, TP Hồ Chí Minh). Thời thơ ấu, được sống
trong sự nuôi dạy chu đáo nhưng đường đời của ông cũng sớm gặp gian
truân. Năm 25 tuổi, sau một thời gian nỗ lực, ra công đèn sách, Nguyễn
Đình Chiểu trở ra kinh đô Huế ứng thí, nhưng chưa đến khoa thi thì hay tin
mẹ lâm bệnh nặng đã mất tại Gia Định.
- Vì quá đau buồn, thương khóc mẹ, trên đường về chịu tang mẹ lại nhiễm
phong sương và bị chứng đau mắt, dù được chữa trị, nhưng đôi mắt ông mãi
mãi không nhìn thấy nữa. Không còn nhìn thấy ánh sáng, nhưng tâm hồn
luôn tỏa sáng, giữ tròn chữ trung, chữ hiếu, mà hai câu thơ: “Thà đui mà giữ
đạo nhà/Còn hơn có mắt ông cha không thờ” đã nói lên tất cả. Ông mất vào
ngày 3/7/1888, được an táng tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. 

- Cả cuộc đời 66 năm, Nguyễn Đình Chiểu sống bằng nghề dạy học, nghề
thầy thuốc và sáng tác văn chương. Sự nghiệp văn chương của Cụ, trừ một
bài thơ viết bằng chữ Hán, còn lại  đều viết bằng chữ Nôm, với các truyện
thơ nổi tiếng như: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn
đáp, các bài văn tế, thơ điếu, thơ luật Đường. Nói đến sự nghiệp văn chương
của Nguyễn Đình Chiểu thì phải nói đến truyện thơ Lục Vân Tiên, là một tác
phẩm đầu tay chứa đựng triết lý, trọng đạo nghĩa, tiết tháo làm người, thể
hiện quan điểm ca ngợi, bảo vệ cái tốt, cái hay, cái đẹp và phê phán, “ghét
cay, ghét đắng” cái xấu, cái ác. Qua tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện
tư tưởng đổi mới Nho giáo mới với những nguyên tắc trung - hiếu - tiết -
nghĩa rất gần gũi, bình dị và rất Nam Bộ.

- Đặc biệt trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu là các bài văn
tế, nhất là bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Các bài văn tế đã đưa ông lên vị
trí người mở đầu cho dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX, một
trong những tác giả dẫn đầu phong trào phi thực dân hóa ở khu vực và quốc
tế giai đoạn này. Khác các tác giả trước đó, Nguyễn Đình Chiểu đã nhìn thấy
sức mạnh to lớn của những người nông dân trong chống giặc xâm lược; kính
trọng, ca ngợi họ như những người anh hùng. Năm 1963, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã khẳng định: “Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước mà
tác phẩm là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của Nhân
dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu lúc chúng đặt chân
lên đất nước chúng ta”. Trong đó, "bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc
ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Nguyễn Đình
Chiểu là người đầu tiên dùng văn chương tạc vào lịch sử chân dung những
người nông dân - nghĩa binh, những tướng lĩnh đánh giặc.

2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm
thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về
phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực
hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng
mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm,
tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì
nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương
hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần
phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy
điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với
lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết
bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Cuộc kháng chiến chống pháp Trận tập kích ở Cần Giuộc
16/12/1861
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn tế những người nông dân nghĩa sĩ đã
hi sinh. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú Đường luật
gồm bốn phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết.
- Phần 1: Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang như mõ): khái quát bối cảnh của
thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân. Đất nước
bị xâm lăng trong cái dữ dội, ác liệt. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Trước
sự làm ngơ của triều đình nhà Nguyễn đã đặt người nông dân vào thử thách
lịch sử, một khung cảnh bão táp của thời đại, vận nước là thước đo lòng
người, những biến cố chính trị lớn lao. Người nghĩa sĩ không coi trọng
chuyện được mất, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.
- Phần 2: Thích thực (từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng nổ): kể về nguồn
gốc, phẩm hạnh, công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là
những người nông dân 100% mộc mạc, chất phác sau lũy tre làng nhưng
suốt đời vẫn nghèo khó. Họ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, quen việc
quốc, cày, bừa, cấy và hoàn toàn xa lạ với việc nhà binh: tập khiên, tập
súng, tập mác, tập cờ… Mặc dù khi vào trận đánh họ có nhiều thiếu thốn
nhưng họ tự nguyện đứng lên kiên quyết xông pha vào mặt trận: “nào đợi ai
đòi ai bắt”, “ra sức đoạn kình”, “ra tay bộ hổ” và giành được nhiều thắng
lợi.
- Phần 3: Ai vãn (từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật
dờ trước ngõ): Bày tỏ lòng thương tiếc, sự cảm phục của tác giả và nhân dân
đối với người nghĩa sĩ. Đó là tiếng khóc quặn lòng cho một thời đại bi
thương: Già trẻ trai gái Trường Bình khóc,chùa Tông Thạnh khóc, cây cỏ
khóc, sông Cần Giuộc khóc, tác giả khóc. Đó cũng là tiếng khóc thể hiện
niềm tự hào.
- Phần 4: Khốc tận (Kết) đoạn còn lại: Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa
sĩ. Tác giả đề cao quan niệm cao đẹp: Chết vinh còn hơn sống nhục. Nêu
cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân, họ ra trận
không cần công danh, bổng lộc, gượng ép mà chỉ vì một điều rất đơn giản là
lòng yêu nước, thương dân.
- Trong đó, vẻ đẹp hình tượng của người nghĩa sĩ nông dân được khắc họa rõ
nhất ở hai phần đầu: Lung khởi và Thích thực  
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một
tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm
chất vốn có ngoài đời của họ - người nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu
nước. Đó là những con người vốn hiền lành chất phác chỉ quen với chuyện
“ruộng trâu ở trong làng bộ” nhưng khi đất nước đứng trước nạn ngoại xâm
họ đã dám đứng lên chống lại kẻ thù mạn.
II. Cảm nhận

1. Xuất thân của những người nghĩa sĩ


“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.”

- Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính sự từ
gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình
thường mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được
bày tỏ cùng trời đất.

- Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị
càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục
dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.

“Nhớ linh xưa:


Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng”

- Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là "cui cút làm ăn". Họ vẫn
sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo
toan " miếng cơm manh áo" giản dị dời thường; họ chỉ quen làm lụng việc
nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa
biết đến "cung ngựa", "trường nhung", chưa quen với "tập mác, tập cờ".
Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến
trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh
giặc.

 Nhờ việc khắc họa sự thiếu kinh nghiệm về việc binh pháp, chiến đấu mà
Nguyễn Đình Chiểu đã chỉ ra được một số bất lợi những người nghĩa sĩ sẽ
gặp phải. Từ đó, ông đã thành công khắc họa hình ảnh những người nông
dân ngày đêm chỉ biết việc nhà nông nhưng khi đất nước lâm nguy thì bọn
họ vẫn tự nhiệm, đứng lên bảo vệ tổ quốc.
2. Lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của những
người nghĩa sí nông dân

- Khi mà "tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng", họ ngóng trông
mệnh lệnh của triều đình: "trông tin quan như trời hạn trồng mưa". Thì ra cái
bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân
yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm
chế:

“Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
 Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen
xì, muốn ra cắn cổ.”

- Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật
quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim
của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.
- Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng
căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng
lên quật khởi rất hào hùng.

“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”

- Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây,
người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ
của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ "bước chân xuống thuyền,
nước mắt như mưa" thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại
hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang
sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông
dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay
cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước
cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động
lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức
mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Không chờ bày bố mà chỉ "ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao
tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón
gõ". Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho
chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa.
- Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức
mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với " đạn nhỏ, đạn to", "táu
thiếc, tàu đồng" vứi đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng
chống lại chỉ là "một manh áo vải", "một ngọn tầm vông", chỉ có " dao
phay" và chỉ là những "hỏa mai đánh bàng rơm con cúi". Thử hỏi rằng đem
những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào
chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau
biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn
bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã
đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.

“Chỉ với những vũ khí thô sơ như:


Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh...”

- Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo
nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với
một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu
mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.

 Nhờ cách diễn đạt lòng căm thù giặc và trận chiến, Nguyễn Đình Chiểu làm
sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu
nước không bao giờ cúi đầu trước kẻ đô hộ ngoại lai. Hoàn cảnh chiến đấu
chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đấu bằng chính tỉnh
thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.
Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn
Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân khi
tạc nên bức tượng đài ấy.

3. Kết luận

- Giá trị nội dung: Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã
xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười thế kỷ nay. Nhưng trong văn học,
hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX
với bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói,
với bài văn tế này, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật
đầu tiên về người nông dân – nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất
đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương mà hào hùng đúng như cuộc
chiến đấu bi tráng mà nhân dân việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỷ
XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc
mình.

- Giá trị nghệ thuât: Khi khắc họa hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, người
viết hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực, chân dung của họ được tái hiện
chân thực nhất từ dáng vẻ về ngoài, cho đến cuộc sống lao động vất vả hàng
ngày,… Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so
sánh (ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ…). Đặc biệt là thủ pháp đối lập
được sử dụng nhiều: lướt tới/ xông vào, đâm ngang/ chém ngược, manh áo
vải, ngọn tầm vông/ đạn to, đạn nhỏ,… Các thủ pháp nghệ thuật trên đã góp
phần khắc họa vẻ đẹp anh dũng, bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ.

III. Bài tập

1. Đọc hiểu

Câu 1: Hình ảnh người nghĩa sĩ được khắc họa trong văn bản Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc như thế nào?
*Định hướng: Chỉ ra cách tác giả đã diễn tả xuất thân, lòng yêu nước, lòng
căm thù giặc và tinh thần chiến đấu cao thượng của những người nghĩa sĩ nông
dân.

Câu 2: Đặc sắc nghệ thuật trong văn bản Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là gì?
*Định hướng: Chú ý đến tính trữ tình, các biện pháp nghệ thuật như so sánh và
đối lập.

Câu 3: Nói về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến
chống Pháp, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Cái sống được cha ông ta
quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh
là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh
Tây là vinh, theo Tây là nhục”. Điều này đã được thể hiện trong văn bản
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như nào?
*Định hướng: Phân tích 2 câu thơ sau:
“Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ
đầu Tây, ở với man di rất khổ.”
Câu 4: Viết 1 đoạn văn ngắn (5-7) câu bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về vai
trò của người nông dân nghĩa sĩ trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại
xâm của dân tộc ta thế kỉ XIX?
*Định hướng: Chỉ ra sự phá cách về hình tượng người nông dân kháng chiến
trong trường hợp cua Nguyễn Đình Chiểu

2. Tự luận

Câu 1: Trong văn bản “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nguyễn Đình Chiểu đã
thành công dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ dũng càm, nhưng nhiều người
cho rằng đó chỉ là nỗ lực trong vô vọng để che giấu sự thật nghiệt ngã của thực
tế.

Hãy viết đoạn văn nghị luận khoảng 200 chữ trình bày quan điểm của
anh/chị về vấn đề “Vai trò của việc bất tử hóa, ca ngợi hình tượng trong
đời sống”

Câu 2: Có 1 ý kiến cho rằng “Những người nghĩa sĩ nông dân trong văn bản
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chỉ là những người để cho sự thiếu sáng suốt dẫn đến
sự thất bại của mình và họ nên bị chỉ trích hơn là ca ngợi”.

Hãy viết 1 bài văn nghị luận trình bày quan điểm của anh/chị về quan
điểm này. Bài học lịch sử ở đây là gì?

Câu 3:

You might also like