You are on page 1of 6

Phân tích bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” để làm nổi

bật vẻ đẹp của hình tượng những người nghĩa sĩ nông


dân yêu nước

N
Gửi bởi  tôn tiền tử  ngày 12/03/2019 23:44
guyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình tượng người nông dân trong văn học mà
trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong
bài văn tế, hình tượng người nông dân được khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ
chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người nông
dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược. Họ đã anh
dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề
rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

V ăn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam.
Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn
công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những
nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp
ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho
Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân
dân. Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm nghệ thuật hiếm có. Bi tráng là tầm
vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng
ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở
chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.
Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với
nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo: “Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý nghĩa
là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương.
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu
nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh
giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong
mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ
cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. hình tượng chính của bài văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân
Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền
lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa,
rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Cui cút làm ăn có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ
vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng một mình mà chẳng nói với ai. “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó” đã hiện
lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ. Bắt đầu
bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.Họ là những người nông dân mà
quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông,
“chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã
đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi
là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi:
Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có một chí
hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình..., chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
1
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và
giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có
bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang
chỉ là “một manh áo vải”. Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai
khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt
đầu quan hai nọ”.
Bài Văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời
cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn
giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”. Giọng văn của
Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần
Giuộc. Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước đến nay, đây là tác
phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân
Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc còn có tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ con về, vợ
thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi ai. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường
trong tư thế người anh hùng:
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rộng lớn bùi ngùi, đau đớn:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương của con cái được nói
đến vô cùng xúc động:
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của
họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự chủ. Không ai được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương
sáng rất đáng tự hào:
Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ.
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Thà chết vinh
còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho
dân tộc Việt Nam.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được
trả thù kia;...
Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong lòng mỗi người dân Việt
Nam về tấm gương anh dũng, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;

T
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
óm lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc khẳng định tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình
Chiểu. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người
nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững
chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ “nó” rất quan trọng trong
cuộc đời. Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để
cho các thế hệ đi sau khi đọc được bài văn tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh
hơn.
tửu tận tình do tại

Quan niệm về người anh hùng trong “Văn tế nghĩa sĩ


Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu 
Gửi bởi  tôn tiền tử  ngày 12/03/2019 23:49

2
N guyễn Đình Chiểu là một nhà thơ, nhà văn giàu lòng yêu nước. Khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, lòng yêu nước ở ông dồn tụ nung nấu để phát tiết lên
ngòi bút đâm gian, chở đạo. Đâm gian là vạch tội ác kẻ thù, còn chở đạo theo
ông lúc này là ngợi ca những anh hùng cứu nước thất thế mà vẫn hiên ngang, ngợi ca
cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861) là sự theo
sát kịp thời cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam kì và thể hiện quan niệm về người anh
hùng.

T rong thơ văn yêu nước chống Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện nhiều hình
ảnh về người anh hùng vì nước, qua đó thể hiện quan niệm về người anh hùng.
Họ là những sĩ phu như Trương Định vẫn nặng lòng trung quân nhưng vì đại
nghĩa của dân tộc đã dám chống lại mệnh lệnh của ông vua hèn yếu, ở lại cùng nhân dân
để chiến đấu, bảo vệ giang sơn gấm vóc của ông cha:
Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiến;
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.
(Văn tế Trương Định - 1864)
Họ là những người như Phan Tòng, trên đầu còn trắng vành khăn tang mẹ, vẫn
đẹp tình riêng cầm quân đánh giặc để lại gương sáng nghìn thu:
Cơm áo đến bồi ơn đất nước
Râu mày giữ vẹn phận tôi con
Tinh thần hai chữ phai sương tuyết
Khí phách nghìn thu rõ núi non
(Thơ điếu Phan Tòng - 1868)
Bên cạnh những người anh hùng có tên tuổi như Trương Định, Phan Tòng.
Nguyễn Đình Chiểu cũng đã xây dựng một tượng đài sừng sững về người nông dân,
những anh hùng không tên không tuổi. Viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình
Chiểu có cái nhìn đúng đắn về người anh hùng và quan niệm tích cực về lẽ sống và cái
chết.
Quan niệm tiến bộ, mới mẻ về người nông dân là những đóng góp nổi bật nhất
của Nguyễn Đình Chiểu trong thơ văn yêu nước. Trong lịch sử nói chung, nhất là lịch sử
chống xâm lược, nhân dân bao giờ cũng đóng một vai trò to lớn. Từ các giai đoạn trước
nhất là trong thơ văn Nguyễn Trãi, hình ảnh người dân đã xuất hiện: Nhân dân bốn cõi
một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới (Bình Ngô đại cáo). Nhưng đến những sáng
tác của Nguyễn Đình Chiểu (cuối thế kỉ XIX), hình tượng người nông dân trong văn học
mới có sự tương xứng với vai trò lịch sử vốn có của họ. Dưới ngòi bút của Nguyễn Đinh
Chiểu, lần đầu tiên người nông dân xuất hiện như những người anh hùng với tất cả thân
phận, cốt cách, tầm vóc của họ.
Họ vốn là những người nông dân nghèo khổ, suốt đời cui cút làm ăn, toan lo
nghèo khó. Lúc đất nước bình yên họ khác nào những chấm mờ xa xôi, lầm lũi nơi kênh
rạch, ruộng đồng, bãi đước, bờ tre. Nhưng khi quân giặc đến cướp phá tấc đất ngọn rau,
bát cơm manh áo thì họ đã nhất tề đứng dậy, chiến đấu anh dũng, sẵn sàng đem máu
xương để tô thắm lịch sử anh hùng của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là
sinh động và não nùng cảm tình của dân tộc đối với những chiến sĩ của nghĩa quân, vốn
là người nông dân. Xưa chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu
nước (Phạm Văn Đồng). Chỉ một manh áo vải, một cây gậy tầm vông, một lưỡi dao
phay, một bó rơm con cúi, họ đã tự nguyện sung vào đội quân chiến đấu. Cho dù quân
trang, kỹ thuật của họ gần như trần trụi, võ nghệ nào đợi tập rèn... binh thư không hề bày
bố... nhưng họ vẫn hiên ngang lẫm liệt: Chỉ nhọc quan quân gióng trống kì trống giục,
đạp rào lướt tới... liều mình như chẳng có.
3
Họ chính là những thân phận bị lãng quên nhưng đã đứng lên với trách nhiệm
công dân, làm chủ vận nước, lấy tấm thân trần trụi chống chọi với sắt thép, quân thù, ý
thức tự giác, tinh thần vượt lên trên sức mạnh vốn có của người nông dân để chống giặc
giữ nước.
Trong tác phẩm này, quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu rất
tiến bộ. Người anh hùng không chỉ là những sĩ phu, những con người kiệt xuất, có tên
tuổi cụ thể mà người nông dân cũng trở thành anh hùng, thành tập thể anh hùng. Nguyễn
Đình Chiểu đã đánh giá đúng vai trò của người nông dân, họ là thành phần cốt lõi trong
cuộc chiến đấu đương thời khi mà vua quan nhà Nguyễn cam tâm đầu hàng giặc. Vai trò
ấy càng nổi bật hơn khi nó vừa kế thừa, phát huy truyền thống quật cường của dân tộc,
lại có sự kết hợp và phát huy cái ngang tàng, hào hiệp của tính cách con người Nam Bộ.
Nguyễn Đình Chiểu đã đật niềm tin vào các nghĩa quân. Và ông tin họ xứng dáng là
những anh hùng. Chính họ đã làm rạng ngời một lẽ sống cao đẹp của thời đại.
Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn,
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cùng vinh;
Hương hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Và cái chết của người anh hùng vì nước là cái chết bất tử. Cái chết ấy có tác dụng
bồi vào sự sống, nhân lên sức mạnh của sự sống:
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được
trả thù kia...
Viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu không chỉ để khóc những
người dã bỏ mình vì nước mà còn có cái nhìn đúng đắn về người anh hùng. Sáng tác của
Đồ Chiểu đã gợi lên cảm khái hào hùng trong niềm xót thương vô hạn của người đọc.
Với Nguyễn Đình Chiểu, những con người bình dị, gần gũi, không tên tuổi cũng có thể

C
trở thành anh hùng khi họ nặng tình với đất nước, dân tộc.
ó thể nói Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh điểm tư tưởng nghệ thuật trong văn
nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu. Trong kho tàng văn tế Việt Nam xưa, nó xứng
đáng được trao giải nhất chi nhường cho ai? Phạm Văn Đồng trong bài Nguyễn
Đình Chiếu - Ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc từng đặt bài văn tế này ngang
hàng Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi và cho rằng: Một bên là bài ca về người anh
hùng thất thế nhưng mãi hiên ngang trước lịch sử.

BÀI VĂN PHẦN TÍCH CƠ BẢN:

N guyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở Nam Bộ thời kì văn học Trung đại, là
ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng
nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. Trong hệ thống tác phẩm đó ta không thể không nhắc

V
đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông.
ăn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta,
cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc
phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giờ, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu
cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng
dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy
là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được
trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử
thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ đã không nề hà sống chết, đem
thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính

4
mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của
thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Phần tiếp theo của tác phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa
mộc mạc, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng anh dũng kiên cường. Trước khi giặc ngoại xâm
đến họ vốn chỉ là những người nông dân vô cùng thuần phác, họ sống cuộc đời bình dị, “cui cút làm
ăn” với biết bao lo toan, bộn bề của cuộc sống. Họ chỉ biết đến nơi làng quê nghèo, mà chưa từng
biết đến thế giới ngoài kia. Quanh năm suốt tháng những người nông dân ấy bận rộn với công việc
nhà nông: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” còn những việc “tập khiên,
tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Nhưng khi giặc xâm lược đến bờ cõi, đến sự bình yên
vốn có, họ sẵn sàng đứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn về nhận thức và tình cảm. Trước hết
đó là sự chuyển biến trong tình cảm. Họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi
tháng” - tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi đấu
tranh: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, độc ác
của kẻ thù: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì,
muốn ra cắn cổ”. Đến lúc này họ đã có những chuyển biến rõ ràng về nhận thức, nếu ban đầu trong
những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội “như trời hạn
trông mưa” thì đến đây họ đã có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về kẻ thù
– những kẻ đi xâm lăng thì không có lí do để tồn tại dưới ánh sáng chính nghĩa và hơn thế họ nhận
thấy trách nhiệm của bản thân với đất nước: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình,
chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Sự chủ động của họ thật oai phong,
lẫm liệt đầy dũng khí.
Trong trận đánh Tây họ không được trang bị binh pháp, chưa một ngày được rèn luyện võ
nghệ, trang bị của họ hết sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Ngoài
cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn tầm vông” “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”,…
Ngược lại, địch được trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chúng còn được rèn luyện vô cùng tinh nhuệ:
“đạn nhỏ đạn to” “tàu đồng súng nổ”. Sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy rõ, nhưng người
nghĩa sĩ nông dân vẫn “Đạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng như không”, “Xô cửa xông vào liều mình
như chẳng có”, “Đâm ngang chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”,… Không hề sợ hãi trước
uy lực của kẻ thù. Bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả
đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa
sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất.
Những vũ khí hiện đại của kẻ thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc
thương cho toàn thể dân tộc. Tiếng khóc của tác giả, của người thân và của toàn thể non sông dân
tộc cho sự hi sinh anh dũng của những con người quả cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số phận
của người nhà, từ nay sẽ rơi vào vòng nô bộc của kẻ thù. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm
phục sâu sắc đến những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về
theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ không chỉ
bày tỏ lòng tiếc thương trước những người đã mất mà còn khẳng định những điều bất tử với thời
gian và hướng tới sự tiếp nối của thế hệ tương lai. Bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng
không phải là bi lụy, yếu đuối.
Những vần thơ cuối cùng đã khẳng định sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc
trong sự tiếc thương và cảm phục của những người còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả
thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu: “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì
hai chữ thiêng dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ” vừa thể hiện
được nỗi xót thương và lòng tưởng nhớ những người đã mất vừa tôn vinh công trạng của họ trong
sự so sánh ngầm với triều đình.
Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt ngôn ngữ đậm
màu sắc Nam Bộ. Xây dựng hình tượng nghệ thuật – nghĩa sĩ nông dân chân thực, chi tiết, sinh
động, lần đầu tiên người nông dân được xuất hiện đầy đẹp đẽ, trang trọng đến vậy. Kết hợp hài hoà
các chi tiết thể hiện tình cảm cảm xúc của người viết, tăng chất trữ tình cho bài văn tế, đồng thời
giúp dễ dàng đi vào lòng người đọc.

5
B ằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã khắc họa thành công bức
tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Đồng thời qua tác phẩm, Nguyễn
Đình Chiểu đã bày tỏ lòng cảm phục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và
sự hi sinh bất khuất của họ.

You might also like