You are on page 1of 14

TÂY TIẾN

- Quang Dũng -
I. NHÀ THƠ QUANG DŨNG.
Quang Dũng - tên thật là Bùi Đình Diệm, nhà thơ ở một làng quê trung
du miền Bắc có cái tên hết sức dân dã “Xứ Đoài” thuộc tỉnh Sơn Tây xưa
(nay là Hà Tây). “Khí đẹp núi sông” của Sơn Tây đã hun đúc nên Quang
Dũng có dòng máu hào kiệt, có chí vọng cống hiến cuộc đời cho đất
nước, có tình quê, tình người đằm thắm và có hồn thơ hồn nhạc đậm đà
… Ông là người nghệ sĩ đa tài, vừa làm thơ, vừa sáng tác nhạc, vẽ tranh,
nhưng thành công nhất ở mảng thơ văn, chính vì vừa là nhạc sĩ, vừa là
họa sĩ và thi sĩ nên thơ của ông mang đặc điểm “thi trung hữu nhạc” và
“thi trung hữu họa”.

Chân dung nhà thơ Quang Dũng


Quang Dũng là nhà thơ- chiến sĩ tiêu biểu của thời kháng chiến chống
Pháp. Trong bối cảnh này, tất cả mọi người Việt Nam có lương tri - dù họ
xuất thân từ những giai tầng xã hội khác nhau, và dù họ mang tính cách
cá nhân khác nhau - đều có chung một nhận thức: độc lập tổ quốc là trên
hết. Mang nhận thức sâu sắc đó, Quang Dũng đã dấn thân vào những trận
chiến đấu với giặc Pháp, bất kì ở đâu, bất kỳ mục đích quân sự nào.
Quang Dũng là mẫu thi sĩ kiêm chiến sĩ. Ở ông, khẩu súng và cây bút
luôn là đôi bạn gắn bó với nhau khăng khít. Mẫu người như ông rất phổ
biến trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Những con người “từ nhân dân
mà ra”, luôn sẵn sàng xã thân vì nghĩa lớn, sẵn lòng xông pha ra tiền
tuyến, nhưng lại không sở trường về “tranh quyền đoạt vị”, mưu cầu danh
lợi…Phần lớn họ khi kết thúc chiến tranh, sẽ trở về với lối sống dân dã
của quê hương và đồng đất. Dường như họ tiếp thu một cách thuần túy
cái tư tưởng “an bần lạc đạo” của cổ nhân. Tuy nhiên trong tâm khảm họ
không bao giờ mờ phai những ấn tượng chói ngời của một thời oanh liệt.
Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm
2001.
Chất thơ Quang Dũng
Thơ Quang Dũng vừa hồn nhiên, vừa tinh tế; mang vẻ đẹp hào hoa
phóng khoáng, đậm chất lãng mạn.
Thơ Quang Dũng vang vọng về quá khứ, nơi biết bao chiến sĩ vô danh
đã vĩnh viễn gửi thân lại nơi núi rừng.
Đợi làm sao
Ngươi đã chết bây giờ!
Ngươi đã chết đi vào kỉ niệm
Đã xa vời
Như ánh sáng trăng sao …
(Đường chiều thứ bảy)
Thơ Quang Dũng hùng hậu, phóng khoáng, gợi nên một Quang Dũng lúc
nào cũng đau đáu trong tâm hồn ngọn lửa kỳ lạ của chiến tranh.
Khúc hành quân từ buổi hoa niên
Chen lẫn tiếng cười khinh nỗi nhọc
Bước trên sấm đất dậy bom rền,
Bóng anh trắng vách Trường Sơn dựng…
(Những người tóc đã trắng)
Thơ Quang Dũng còn khắc họa được hình ảnh những người lính giàu
chất thơ, chất họa, và có sức hấp dẫn rất đặc biệt:
… Lính mấy chàng vất vả
Tìm sống một đêm thơ
Rượu nhỏ một li thôi
Cho lên hương cuộc đời.

… Bàn tay như rễ cây


Bộ râu hơn bàn chải
Anh ôm con người ta
Anh ôm ghì nó mãi.
(Lính râu ria)
Chất bi tráng là nét đặc trưng của thơ Quang Dũng. Chất bi tráng bật lên
từ người lính chân chính, của một dân tộc anh hùng trong hoàn cảnh của
cuộc chiến tranh tàn khốc, cam kho.
Chất trữ tình thấm đẫm tinh thần nhân văn - truyền thống ngàn đời của
dân tộc cũng là điểm nổi bật của thơ Quang Dũng.
II. TÁC PHẨM TÂY TIẾN.
2.1. Đoàn quân Tây Tiến.
Đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947-1 năm sau ngày Cả nước
kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhiệm vụ của đoàn binh là phối hợp
với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt-Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân
đội thực dân Pháp. Đoàn quân hoạt động ở Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình,
miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào) => địa bàn rộng lớn, hoang vu,
hiểm trở, rừng thiên nước độc. Quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi
tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có những anh nông dân
vừa rời tay cuốc tay cày đã cầm súng chiến đấu. Nhưng chủ yếu đoàn
quân quy tụ các anh tri thức tiểu tư sản, vừa rời ghế nhà trường, vừa
buông cây bút, gấp quyển vở đã tham gia vào cuộc chiến cứu nước.
Trong bối cảnh cả nước sục sôi không khí chiến đấu, những người lính
Tây Tiến ra đi với một lý chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập
tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về, chiến đấu với mục
đích “quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh”. Họ chiến đấu trong điều kiện gian
khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét rừng hoành hành dữ dội. Tuy vậy,
họ vẫn lạc quan, vẫn giữ cốt cách hào hoa lãng mạn. Cái tinh thần ấy là
hào khí của một thế hệ con người.
Đoàn cứu quốc quân một lần ra đi
Là có sá chi đâu ngày trở về.

Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến


Năm 1948, đoàn quân Tây Tiến tan rã, nhưng những người lính Tây Tiến
vẫn chia ra hoạt động ở các đơn vị mới, thực hiện các nhiệm vụ cách
mạng mơi.
2.2. Hoàn cảnh sáng tác.
Thi phẩm Tây Tiến được viết năm 1948 - sau 1 năm kể từ khi binh đoàn
thành lập, cũng là năm tan rã của binh đoàn. Bài thơ được viết ở Phù Lưu
Chanh - đơn vị hoạt động mới của Quang Dũng.
Tây Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách
mạng, ra đời ngay trong thời kỳ của cuộc kháng chiến chống Pháp, và trở
thành thi phẩm xuất sắc của nền văn học Việt Nam sau năm 1945.
Bài thơ Tây Tiến sau khi ra đời đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội
và cán bộ thời kì kháng chiến chống Pháp. Nhưng sau đó, do quan niệm
có phần ấu trĩ của một số người trong giới văn học, nên bài thơ bị là có
những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn của anh hùng kiểu cũ, do đó ít ai
nhắc tới.
Mãi tới thời kỳ đổi mới trong xu hướng nhận thức lại các giá trị văn học,
bài Tây Tiến mới được khôi phục vị trí của nó trong lịch sử văn học và
đưa vào nhà trường.
2.3. Nhan đề.
- Ban đầu: Nhớ Tây Tiến. => in đổi lại thành Tây Tiến.
- Ý nghĩa:
+ Đảm bảo tính hàm súc của thơ (Văn hay mạch kị lộ) => Cảm xúc chủ
đạo chi phối bài thơ (nỗi nhớ) được giấu kín.
+ Vừa chỉ hướng hành quân vừa làm rõ hình tượng trung tâm của tác
phẩm: đoàn quân Tây Tiến.
+ Bỏ đi từ “Nhớ” => Vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến - không chỉ là
đoàn quân sống trong nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng mà trở thành một
hình tượng bất tử trong thơ.
2.4. Tây Tiến - bài thơ lạ và lệch.
- Lạ: Tây Tiến lạ vì đối tượng hướng đến là các tri thức tiểu tư sản Hà
Thành, khác lạ so với các đối tượng văn học đương thời chủ yếu là giai
cấp đấu tranh thuộc tầng lớp nông dân. Cách phản ánh trần trụi cái khắc
nghiệt của chiến tranh, nỗi gian khổ của lính Tây Tiến cũng là điểm nổi
bật, tạo nên sự lạ lẫm của Tây Tiến so với các tác phẩm đương thời.
- Lệch: Có thể nói Tây Tiến là một tác phẩm lệch chuẩn so với xu hướng
lúc bấy giờ, do đó nó cấm đoán trong một khoảng thời gian. Tây Tiến
lệch vì nó không đơn thuần diễn ta người lính qua các bản hùng ca bất ta,
nó chọn cách phản ánh chân thuật nỗi truân chuyên của người bộ đội, gợi
nhắc về những năm tháng chiến tranh nhọc nhằn. Không né tránh như
những tác giả đương thời, Quang Dũng đi sâu vào hi sinh của chiến sĩ,
không giấu giếm, không che đậy những khó khăn, mà đem khó khăn, hi
sinh ấy viết nên bản anh hùng ca thật sự về lính Tây Tiến.
2.5. Bố cục.
- Đoạn 1: (14 câu đầu): Qua nỗi nhớ da diết của tác giả, hình ảnh đoàn
quân Tây Tiến hiện ra trong những cuộc hành quân gian khổ trên nền của
thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội.
- Đoạn 2: (từ câu 15 đến câu 22): Những kỉ niệm tuyệt đẹp về tình quân
dân trong đêm liên hoan và vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng Tây Bắc.
- Đoạn 3 (từ câu 23 đến câu 30): Khắc họa chân dung người lính Tây
Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ.
- Đoạn 4 (4 câu cuối): Nhà thơ đã phải rời xa đơn vị, gửi lòng mình mãi
mãi gắn bó với Tây Tiến và miền núi Tây Bắc.
2.6. Đôi nét về nội dung tác phẩm.
2.6.1. Qua nỗi nhớ da diết của tác giả, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến
hiện ra trong những cuộc hành quân gian khổ trên nền của thiên
nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội.
Sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, cả
nước sục sôi ý chí chiến đấu, từ em nhỏ mẹ gia, từ nông dân đến tri thưc,
mọi tầng lớp xã hội đều hưởng ứng đấu tranh mạnh mẽ. Trong đoàn
người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên
trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường,
chiến lũy Hà Nội mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến thấp
thoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng - tác giả của bài thơ, như
bao thanh niên tri thức Hà Nội ngày ấy, ông cũng hao hức gia nhập đoàn
quân Tây Tiến với một niềm say mê tuổi trẻ và một chút lãng mạn của
những người thanh niên nho sĩ quý tộc ảnh trong “Chinh phụ ngâm”:
“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”: cũng chính vì thế mà những thanh
niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hi sinh để chiến đấu
đến thắng lợi cuối cùng.
Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian ngắn
với đơn vị và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu
Chanh. Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những ngày
tháng chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con
đường hành quân mà ông cùng đơn vị đã từng đi qua. Nỗi nhớ lớn dần
trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những kỷ niệm hết sức sâu đậm
trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với
Tấy Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ
nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về một miền rừng núi với
bao kỷ niệm vui buồn. Ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để
lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ
về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng
chẳng biết gọi tên chính xác nỗi nhớ ấy. Nhớ chơi vơi! Hai tiếng “chơi
vơi” dùng ở đây thật là đắt địa, diễn tả một nỗi nhớ không hình, không có
lượng nhưng hình như rất nặng mà mênh mông đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ
ấy ta đã bắt gặp một lần trong ca dao:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn nằm.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trưng cho nỗi nhớ chơi
vơi của mình thật là một chi tiết đắt! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả
vùng núi rừng ấy, nhớ về rừng núi thiết tha như thế làm cho người đọc
chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ
con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trơi
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Hình ảnh đỉnh Pha Luông


Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của một
miền núi rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm cái nội dung bên
trong chúng ta đã có thể hình dung ra cái con đường mà Quang Dũng
miêu tả qua thanh luật của nó. Kết cấu đoạn thơ cứ thanh bằng thanh trắc
đan chéo nhau, trải ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm, khấp
khểnh, gập gềnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi
trong lớp sương dày của núi rừng, sương lấp cả người. Đêm nhẹ như hơi
bay trong đêm mờ hơi sương. Tất cả chỉ lung linh trong lớp sương khói
mờ ảo, thơ mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh gắn liền với một đặc điểm địa
vật; nếu ra chỉ thử thay “Sài Khao” bằng một tên gọi khác là lớp sương
huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước trên con đường
xa vạn dặm, với cái trắc trở gập ghềnh của con đường. Đã “dốc lên khúc
khuỷu” mà lại còn “dốc thăm thẳm” thì đúng là đến độ cao chất ngất,
ngoằn ngoèo khó đi, đã “ngàn thước lên cao” rồi lại “ngàn thước xuống”,
tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nỗi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến
khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và
khắc nghiệt. Quang Dũng có cách dùng từ rất là tinh tế mà cũng hết sức
tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn “heo hút”, và để diễn tả
chiều cao của núi thì chỉ ba từ “súng ngửi trời” là đủ đưa ta đến tuyệt
đỉnh cao vời. “Súng ngửi trời” nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là
cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong
cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết cấu âm của đoạn thơ
cũng đã đủ vẽ lên trước mắt ta hình ảnh một miền rừng núi mà quân Tây
Tiến từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng nghe rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Sau khi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, người chiến sĩ Tây
Tiến như đứng trên đỉnh núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong
màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng,
Thanh bằng của từng chữ trải ra mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ
giăng thung lũng. Câu thơ miêu tả một cái nhìn ngang, sau những lần
vượt đèo sâu núi cao, người lính phóng tầm mắt ra và nhìn ra xa, một
ngôi nhà hiện ra trong màn mưa. Ngôi nhà như là điềm báo về sự sống,
báo về sự đầm ấm gia đình, gợi cho người lính niềm vui, cho biết rằng họ
không cô đơn ở chốn rừng thiên nước động này. Rừng núi trùng điệp, ấn
tượng về núi rừng cũng thật khắc khiệt và dữ dội.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi đã gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của
miền rừng núi này. Một miền núi rừng âm u với thu dữ đe dọa con người.
Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có điều kỳ là
là nêú ta thay địa danh này bằng hai chữ khác cũng là hai thanh bằng trắc
đi với nhau như “Châu Thuận” chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm
súc ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải
hiện lên với đầy đủ sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những
khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành
quân. Cái trắc trở, khập khiễng của con đường Tây Tiến chợt làm chúng
ta nhớ đến câu thơ của Lý Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh)
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà
người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Quang Dũng nói cái sự thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến
sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm tỏa sáng cả ý
tthơ là người lính Tây Tiến đã đến lúc gục xuống vẫn cố gắng gục xuống
trong tư thế của người lính. Chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành
trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình.
Bao cảnh gian khổ, khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành
quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một
cách ghê gớm. Có những người lính vượt qua được, và cũng không ít
những con người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa
nắng, đi từ khó khăn này đến khó khăn khác, chịu hết thử thách này đến
thử thách khác mà dường như vẫn chẳng nề hà, khi kiệt sức phải gục
xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ. Ôi
những người lính một thời tinh nghịch biết bao nhiêu cũng kiên cường
biết bao! Cho dù Quang Dũng có nói thật về một vùng rừng núi che lấp
con người thì chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa
họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một
người trong cuộc, từng là chiến sĩ Tây Tiến chính vì vậy mà nhà thơ viết
về cuộc sống gian khổ của người lính Tây Tiến một cách hết sức cảm
động. Cái khắc nghiệt, gian khổ và dữ dội của một miền biên ải, những
gian truân mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng là những ấn tượng
không thể nào quên. Quang Dũng nói về người lính Tây Tiến không như
những nhà thơ khác; ông nói sự thật về cái gian truân, sự khổ cực, hi sinh
của người lính một thời. Thế nhưng hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không
vì thế mà trở nên ủy mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả người
chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến
thắng, nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại
cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội họa vậy. Bởi chiến thắng
có giá trị khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người
lính sẽ không quá cao đẹp nếu không trải qua những thử thách gian truân,
trắc trở của cuộc chiến đấu khắc nghiệt. Câu:
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay
Là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị của
phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn
tượng thì niềm vui, dù ít ỏi lại càng thêm đáng nhớ.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai châu mùa em thơm nếp xôi.
Sau chặng đường dài hành quân mệt mỏi, các chiến sĩ có dịp dừng chân
lại ở một bản làng có cái tên rất đổi yêu thương - Mai Châu. Hai câu thơ
cuối đoạn bộc lộ sâu sắc cảm xúc bồi hồi, tha thiết khi nhớ về hương vị
của nấm xôi nghĩa tình, hình ảnh khói chiều Mai Châu. Câu thơ đậm đà
tình quân dân. Hương vị bản Mường với “cơm lên khói” với “mùa em
thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc
đáo về ngôn ngữ thi ca. “Mùa em” không chỉ là mùa thời gian mà đồng
thời là mùa của kỷ niệm, là thứ mùa riêng đã in sâu trong tâm trí, trở
thành miến ký ức độc đáo, sâu đậm của tình quân dân. Mùa ký ức ấy,
không dễ gặp hai lần trong một đời người.
2.6.2. Những kỉ niệm tuyệt đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan
và vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng Tây Bắc.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khen lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lao nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa,
Đoạn thơ khép lại một Tây Bắc oai hùng và dữ dội, mở màn cho một
cảnh sắc rực rỡ, lung linh dưới ánh đuốc và ngỡ ngàng của người lính.
Bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp quyến rũ đầy tình tứ: các cô gái dân
tộc hiện ra đẹp lộng lẫy trong xiêm y rực rỡ, dưới ánh đuốc lung linh,
nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp; tất cả những vẻ đẹp sống động, lôi cuốn
tiếng khèn, điệu nhạc đặc trưng của dân tộc.
Dường như để thả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi
chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến.
Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi
thơm cơm nếp gợi cho ta cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh
phúc, sức sưởi ấm của nó đủ làm tâm hồn ta dần ấm lại sau những phút
giây chứng kiến những gian khổ của người lính. Hội đuốc hoa là những
hình ảnh có sức khơi gơi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như được
chứng kiến một lễ hội huyên náo. Hai tiếng “kìa em” vừa ngỡ ngàng, vừa
sung sướng được diễn tả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả
đoạn thơ dìu dặt âm thanh tiếng khèn, phảng phất vui tươi của cuộc sống
yên bình, dường như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh “nhạc về Viên
Chăn xây hồn thơ” là hình ảnh đẹp, gợi cho ta thấy một buổi liên hoan
này diễn ra ở biên giới Việt-Lào, thơ mộng diễn tả tâm hồn lãng mạn của
người lính Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao gian lao trên con đường
hành quân, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù
họ còn tiếp tục chịu đựng những gian truân, hy sinh ấy, người lính Tây
Tiến, vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm
sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng
hôm nay tâm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thơ
và họa, “nhạc xây hồn thơ”. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận những thử
thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp
nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với
người lính là chuyện bình thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan,
vẫn yêu đời, vẫn sống với tâm hồn trẻ trung, nhiệt huyết.
Hình ảnh hội đuốc vùng cao
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Bốn câu thơ mở ra một vẻ đẹp thật thơ mộng: thiên nhiên, cảnh vật đều
nhòe mờ nhưng dường như chính vì thế mà có hồn hơn, mềm mại hơn.
“Hồn lau” còn có thể theo nghĩa, mà xin mượn đôi ba câu của nhà thơ
Giang Nam lột tả
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi,
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xác thịt của em tôi!
Để hiểu rằng mảnh đất này có hương hồn của bao tử sĩ đã ngã xuống, là
đồng đội, là anh bạn, là chiến sĩ, là huynh đệ, là đồng chí. Nên khi trở về
với người đại đội trưởng như rưng rưng cảm xúc cây lau hóa thành hồn
lau, mảnh đất đã hóa thành hương hồn, tâm hồn của các tử sĩ làm lay
động náu nhiệt cả chốn này. Với hàm nghĩa ma mị như vậy, không khỏi
làm ta nhớ những câu hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy đi nước mắt
của bao người dân máu đỏ da vàng, những câu hát cho xác người, những
câu hát được cho là đã viết nên những ca từ trêu đùa với ma quỷ, chết
chóc mà thực ra là nổi đau thương nước nhà đến bàng hoàng “Mùa xuân
ơi, xác nuôi thơm cho đất ruộng cày.Việt Nam ơi, xác thêm hơi cho đất
ngày mai. Đường đi tới, dù chông gai. Thì quanh đây đã có người”. Hiểu
một cách nhẹ nhàng hơn “hồn lau” còn có nghĩa là, cành bông lau chập
chờ, lay động trên bến bờ như cũng có hồn, hay chính tâm hồn tâm hồn
nhà thơ đã nhập vào cảnh vật mà thấy được hồn của cảnh trong mỗi bông
lau kẽ lay động, phơ phất. Cũng như vậy, những bông hoa dập dềnh trên
dòng nước lũ cũng mang hồn cảnh vật, quyên luyến, tình tứ (hoa “đong
đưa” chứ không phải “đung đưa”). Nổi lên trên nền cảnh của bức tranh
thiên nhiên thơ mộng là hình ảnh một dáng người vững chãi trên con
thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp
rắn rỏi, khỏe khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mềm mại, đẹp
mơ màng. Cũng vì vậy mà người lính Tây Tiến có thể cảm nhận một
dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình
ảnh rất đỗi bình thường ấy ngỡ rằng sau bao sự thách thức về tinh thần
mà người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy
in sâu vào tâm hồn người lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ
chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận thử thách mới.
2.6.3. Khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng
của họ.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
“Đoàn binh không mọc tóc”! Có cách nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến
thế! Như vậy thì hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản
không? Thực chất, chiến tranh khóc liệt vô cùng, cái gian khổ của nó làm
tàn phá đi dung nhan; làm tàn hoại đi bao sức trẻ. Cho nên cái hình ảnh
“không mọc tóc”, thực ra là trụi, như tất yếu của hệ quả mà chiến tranh
đem lại, khi các anh băng qua những cánh rừng, ngọn suối, chiến đấu
trong sự thiếu thốn về lương thực thuốc men, sốt rét rừng làm các anh
rụng đi từng mảng tóc, làm xanh xao, vàng vọc những làn da. Quang
Dũng không hề che giấu những hi sinh, mất mát đó. Song, cái nhìn lãng
mạn của ông đã cho họ ốm nhưng không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái
hình thái tiều tụy của họ chứ đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút
lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai
hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái
nhìn của ông vẫn toát lên cái oai phong, hùng dũng cuat những con hổ
nơi rừng thiên. Cái vẻ oai phong, kiêu hùng ấy còn được thể hiện qua đôi
mắt giận dữ (“mắt trừng”) của họ…Đó là khó chất mà khiến kẻ thù phải
khiếp sợ, dè chừng. Những điều đó làm ta nhớ tới đội quân “tì hổ” trong
thơ Phạm Ngũ Lão “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” hay trong Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi “Sĩ tốt kén tay tì hổ-Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”;
những người lính, những người lính cụ Hồ thế kỷ 20 vẫn mang dáng dấp,
hào khí, sức mạnh của thời “Sát thát” chảy trong huyết quản. Đôi mắt
trừng hướng về biên giới, mang chứa trong đó không chỉ sự câm phẫn nộ,
căm thù; còn là khát vọng lập chiến công, là mộng công danh của người
lính trẻ. Và cũng như bao người lính mọi miền tổ quốc. Người lính Hà
Nội ra đi, cũng mong rằng đất nước sớm sạch bóng quân thù.
Những câu thơ tiếp theo, mới thực sự khái quát nên chất riêng, chất lạ
của những chàng lính thủ đô hào hoa. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Mơ dáng kiều thơm là mơ về người thiếu nữ Hà thành, có thể là mơ về
những người thân yêu, người mà các anh cảm mến…đó là chỗ dự tinh
thần đáng quý cho người chiến sĩ vững bước cầm tay súng bảo vệ quê
hương. Nét đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến còn được thể hiện qua
lý tưởng hết sức thiêng liêng, cao đẹp. “Chiến trường đi chẳng tiết đời
xanh”. Chiến trường là nơi chết chóc, là khu tử địa, đi dễ khó về. Đời
xanh là cuộc đời đang độ xuân thì, đang độ tươi đẹp nhất, căng tràn nhất.
Những người lính đương cái độ đẹp đẽ nhất của cuộc đời đó, vậy mà sẵn
sàng lao vào chốn thập tử nhất sinh, mà chẳng tiêc. Bởi họ vì lý tưởng
thật cao đẹp, chiến đấu cho quê hương chết cho quê hương, quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Hình ảnh biên cương


Sự hi sinh là điều mà người ta giấu hay lẫn tránh. Quang Dũng đã có một
sự “vượt khó” mà táo bạo. Hay nói cách khác ông không tránh né vào sự
thật trần trụi mà người ta né tránh. Viết về cái chết, đó là một phần của
chiến tranh. Những cái chết của những người lính trẻ “rải rác” khắp biên
cương, miền viễn xứ; những nắm mồ hoang lạnh chẳng được đắp cẩn
thận, trở thành những nắm mồ mà đồng đội đời sau, sẽ chẳng biết tên
tuổi. Ấy thế nhưng, lột tả sự thật ấy, ta vẫn thấy một chất hào hùng quyện
vào. Có lẻ vì những từ Hán Việt đã làm “sang trọng” hơn lên, kiêu hùng
hơn lên những cái chết. Để ý kỷ, ta còn thấy, nhà thơ rất hài hòa khi xen
lẫn những cặp từ Hán Việt và Thuần Việt rất đăng đối: rải rác-biên
cương, mồ-viễn xứ, chiến trường-đời xanh, áo bào-chiếu/sông Mã - độc
hành. Đó là cách đan xen giữa cái trần trụi chẳng né giấu với cái trang
trọng để nâng chất bi tráng hào hùng. Và như vậy, ông đã làm đươch hai
điều; tả chiến tranh, mà vẫn thần thoại hóa cái chết. Đặc biệt sự trang
trọng còn được nâng tầm với ý thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông
Mã gầm lên khúc độc hành”. Trong cuộc chiến tranh đầy thiếu thốn ấy,
người lính ra đi đều mang theo 1 chiếc chiếu, trước là chiếc chiếu phía
dưới lưng các anh, là chỗ dựa cho các anh nằm xuống nghỉ nghơi sau
chặn đường hành quân khó nhọc, sau là chiếc chiếu đắp trên các anh,
khâm liệm các tử sĩ ngả xuống nơi biên ải bom đạn loạn lạc; ấy vậy mà
chiếc chiếu ấy nay cũng chả còn; vì vậy để thể hiện sự trân trọng những
hi sinh của người lính, Quang Dũng đã thay cái chiếu ấy bằng chiếc áo
bào, suy đến cùng đó là những chiếc áo được Chế Lan Viên ghi lại trong
Tiếng hát con tàu:
“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn,
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”
Người lính ra đi như thế nào thì khi về với đất mẹ cũng sẽ bình dị, thân
thương như thế ấy, chính cái chết ấy đã lay động cả đất trời, tạo nên sự
cảm thông sâu sắc của thiên nhiên. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm
thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn
linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc độc hành. Họ ra đi chẳng tiếc
đời xanh tuổi trẻ, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã dâng hiến cho một lý
tưởng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản
không chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng. Họ ra đi
nhưng tráng khí của họ vẫn còn sống mãi, đó là tinh thần của bậc trượng
phu ra đi vì nghĩa lớn như Trần Quốc Tuấn từng viết trong Hịch tướng sĩ
“Dẫu trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa,
ta cũng cam lòng”.
2.6.4. Nhà thơ đã phải rời xa đơn vị, gửi lòng mình mãi mãi gắn bó
với Tây Tiến và miền núi Tây Bắc.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Ý thơ đã khắc vào trong mỗi người lính Tây Tiến về một lời thề thật
thiêng liêng. Lời thề đó, không nói ra, nhưng in sâu trong tâm dạ. Họ giã
biệt không hẹn ước, bởi chiến trường, chốn tử địa sao có thể biết được
ngày mai. Hình ảnh con đường lên thăm thẳm ấy, cho ta hiểu con đường
phía trước của người lính, họ chia tay và tiếp tục với những nhiệm vụ
mới, gian lao, nguy hiểm hơn. Những con đường ấy mang ý nghĩa sự trở
lại, sự trở lại thăm chốn xưa, thăm đồng đội cũ nay đã mãi mãi nằm lại
với những cung đường Tây Tiến. Cho nên mùa xuân của năm 1948, thời
gian li biệt, ngày li biệt, chẳng nói câu gì, những lời thời đã khắc cốt ghi
tâm. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng
hào hùng đến mức vậy, và cũng khó có thể có được một bài Tây Tiến như
thế. Về một miền đất thiêng, một đơn vị anh hùng, sẽ mãi trong lòng
người lính suốt đời không quên.
2.5. Tổng kết
- Bài thơ là con sông của nội nhớ. Một nỗi nhớ chơi vơi không đầu
không cuối. Một nỗi nhớ được mở rộng ra trong cả không gian và thời
gian. Một nỗi nhớ khi gầm gào mãnh liệt, khi lắng sâu, dạt dào.
- Nỗi nhớ thiên nhiên. Thiên nhiên Tây Bắc dữ dội đến chết chóc, lúc lại
thơ mộng, trữ tình đến nao lòng người dù xa vẫn không thể quên.
- Nỗi nhớ về cơ quan. Kỷ niệm đẹp đẽ thắm đượm tình quân dân. Đặc
biệt là hình ảnh những người lính trẻ trung, kiêu hùng được khắc tạc qua
bút phát lãng mạn và bi tráng.

You might also like