You are on page 1of 16

B.

Dewaxing Catalyst
Các chất xúc tác cho quá trình Dewaxing Catalyst là các zeolit có kích
thước lỗ trung bình. Các tài liệu bằng sáng chế đã đề xuất về việc sử dụng
nhiều chất xúc tác khác nhau dựa trên việc sử dụng các zeolit có kích
thước lỗ trung bình. Ví dụ về Dewaxing Catalyst có bán trên thị trường
được trích xuất từ Oil and Gas Journal [24, 25] được biểu thị trong Bảng
8.13.

Các tài liệu về bằng sáng chế và các cuộc thảo luận với các nhà sản xuất
khác nhau chỉ ra rằng các chất xúc tác đang được sử dụng ngày nay dựa
trên việc sử dụng ferierit, mordenit, SAPO 11, silicalit và ZSM-5 với
ZSM-5 là chất xúc tác được sử dụng phổ biến nhất.

Chất xúc tác Zeolit có thể được sử dụng để khử các phân đoạn
hydrocacbon bằng cách chọn lọc phản ứng hydrocracking của các thành
phần của wax . Các đặc tính quan trọng của Lube Dewaxing Catalyst
phải được tối ưu hóa để cung cấp tính chọn lọc mong muốn và tính chất
xúc tác mà giới hạn độ chuyển hóa thành các phân tử wax. Giảm kích
thước lỗ của zeolit làm giảm các phản ứng coking và tăng tuổi thọ chất
xúc tác. Kích thước của một số hydrocacbon liên quan đến độ mở lỗ co
lại của ba zeolit; eronite, ZSM-5 và mordenite được biểu diễn trên Hình
8.3 [11]. Các dữ liệu này cho thấy rằng eronite sẽ chỉ cho phép các
hydrocacbon bình thường đi vào các lỗ rỗng; ZSM-5 cho phép một số
isoparafin và alkyl sidechains trên các hợp chất thơm đi vào các pore
channels; và mordenit cho phép naphthene và vòng thơm đi vào các
channels. Những dữ liệu này cho thấy rằng eron ite cho phép nhập các
parafin bình thường chứ không phải là các isoparafin; ZSM-5 cho phép cả
parafin và waxy isoparafin đi vào lỗ và sẽ bẻ gãy các hợp chất dạng
waxy một cách chọn lọc trong khi loại trừ hầu hết các lube component;
nhưng mordenit không thể hiện tính chọn lọc này và do đó nó bẻ gãy
nhiều good lube compounds [11]. Kích thước của hệ thống channels cho
ZSM-5 được thể hiện trong Hình 8.4 [32] và kích thước channels cho một
số zeolit khác được thể hiện trong Bảng 8.14 [26]. Cần lưu ý rằng
Faujasite, một zeolit lớn, không có hoạt tính chọn lọc phản ứng
hydrocracking để sử dụng làm chất xúc tác khử Wax.
Dữ liệu so sánh mordenite và ZSM-5 dựa trên các chất xúc tác dùng Wax
được show trong Bảng 8.15 [11]. Dữ liệu cho thấy rằng năng suất bôi
trơn và VI tại cùng một điểm đông đặc với mordenit thấp hơn so với
ZSM-5. Quá trình khử hoạt tính của chất xúc tác bị ảnh hưởng mạnh bởi
quá trìnhcoking và các chất độc có trong nguyên liệu thô, những chất này
dễ xâm nhập và lắng đọng hơn trong các lỗ xốp của mordenit so với
ZSM-5.

Rollmann và Walsh [27] đã báo cáo kết quả của một nghiên cứu sử dụng
một số zeolites cho thấy rằng đường kính lỗ rỗng càng lớn thì xu hướng
xảy quá phản ứng coking của zeolit càng lớn. Các dữ liệu này được thể
hiện trong Hình 8.5 so sánh lượng coke được tạo thành với tỷ lệ của các
hằng số tốc độ cho quá trình cracking của normal hexan và 3-metyl
pentan. Người ta cũng đưa ra giả thuyết rằng việc thêm một kim loại quý
vào mordenit làm giảm tỷ lệ xảy ra phản ứng coking của mordenit [11].
Nghiên cứu do Texaco thực hiện đã xác nhận rằng tốc độ thoái hóa và
coking của các chất xúc tác gốc mordenit thấp hơn với kim loại quý hơn
so với các kim loại thường. Tốc độ thoái hóa của mordenit với các kim
loại quý và kim loại thường cũng được cải thiện khi các hợp chất chứa
nitơ được loại bỏ khỏi nguyên liệu.

C. Process Condition

Các điều kiện của quá trình được sử dụng phụ thuộc vào nguyên liệu thô
đã được khử wax nhưng nằm trong phạm vi được trình bày trong Bảng
8.16 [1,3,12,14,21]. Thông tin kỹ thuật và chi tiết liên quan đến điều kiện
quá trình và thiết kế cho quá trình khử Wax bằng xúc tác hiện chỉ có sẵn
thông qua các thỏa thuận bí mật với nhà bản quyền của quá trình.

D. Feedstock, Wax and Dewaxed Oil Composition

Thành phần của waxes chứa trong gốc bôi trơn được trình bày trong
Bảng 8.17 [28]. Những dữ liệu này cho thấy SNOS nhẹ chứa các loại
waxes chủ yếu là parafin thông thường và các loại dầu nặng hơn chứa
các thành phần của naphthenes và aromatic waxes ngày càng tăng.
Mặc dù waxes có nguồn gốc từ sản xuất nguyên liệu sáng thường
được gọi là xăng dầu, nhưng đôi khi chúng được gọi là waxes không
kết tinh vì độ lọc kém. Những loại sáp này có chuỗi alkyl đủ dài để
cung cấp cho các phân tử một chỉ số VI cao và điểm đông đặc đặc
trưng của parafin bình thường.

Tỷ lệ crackinh tương đối của các parafin bằng ZSM-5 được trình bày
trong Hình 8.6 [12]. Dữ liệu cho thấy rằng các phân tử mạch dài bẻ
nhanh nhất và tốc độ bẻ gãy giảm khi mạch nhánh tăng lên.

So sánh thành phần của dầu gốc bôi trơn được pha chế từ các cấp
nguyên liệu khác nhau bằng cách sử dụng phương pháp khử sáp bằng
dung môi và khử sáp bằng MLDW theo báo cáo của Ramage [11]
được trình bày trong Bảng 8.18 đến 8.20. Dữ liệu thành phần cho
nguyên liệu thô và waxes được loại bỏ bằng phương pháp solvent
dewaxing cũng được trình bày. Dữ liệu cho thấy các thành phần chính
của wax là parafin bình thường (68%). Dầu đã khử ax MLDW có
hàm lượng parafin bình thường thấp hơn và số nhánh metyl cao hơn
so với dầu được khử wax bằng dung môi.
VI của dầu khử wax MLDW thấp hơn vì parafin bình thường và nhiều
parafin phân nhánh được chuyển đổi thành các phân đoạn không bôi trơn.
Dữ liệu cũng cho thấy rằng hàm lượng parafinic giảm và hàm lượng chất
thơm tăng lên khi độ nhớt của dầu gốc tăng từ loại trung tính nhẹ đến chất
có sáng màu. Chất sáng màu cũng không có các parafin bình thường.

Dữ liệu từ Bảng 8.18 đến 8.20 cho thấy hàm lượng wax parafin giảm và
hàm lượng wax vi tinh thể tăng khi khối lượng phân tử tăng. Dữ liệu cũng
chỉ ra rằng sự khác biệt của chĩ số VI giữa MLDW và dầu được khử wax
bằng dung môi giảm khi trọng lượng phân tử hoặc độ nhớt của dầu tăng
lên.
E. Effect of Processing Severity

Hình 8.7 và 8.8 so sánh sự thay đổi về thành phần và sản lượng của dầu
đã khử wax MLDW như là một hàm của điểm đông đặc của dầu đã khử
wax [11]. Điểm đông đặc giảm khi mức độ nghiêm trọng của quá trình
tăng lên. Dữ liệu cho thấy sự thay đổi lớn trong thành phần là do quá
trình bẻ mạch của các parafin. Vì cấu tử trung tính nặng và nguyên liệu
sáng màu chứa một lượng rất nhỏ parafin, việc giảm điểm đông đặc đối
với những dòng nguyên liệu này là kết quả của sự bẻ gãy các chuỗi bên
parafinic trên naphthenes và chất thơm.

F. Dewaxed Oil Properties

Các đặc tính của dầu đã khử sáp phụ thuộc vào nguyên liệu và sản lượng
phụ thuộc vào hàm lượng wax cũng như loại wax chứa trong nguyên liệu.
Bảng 8.21 trình bày một số dữ liệu điển hình do Tùng báo cáo [29].
Những dữ liệu này cho thấy rằng sản lượng dầu gốc MLDW thấp hơn đối
với dầu trung tính và cao hơn đối với nguyên liệu sáng màu so với
phương pháp khử wax bằng dung môi. Độ nhớt của các loại dầu được
khử wax bằng xúc tác cao hơn và chỉ số VIs thường thấp hơn so với các
loại dầu được khử wax bằng dung môi. Chỉ số VI của dầu MLDW được
pha chế trên thị trường được so sánh với chỉ số VI của dầu đã khử sáp
bằng dung môi cho cùng loại nguyên liệu cấp nhớt [12] như sau:

Chỉ số VIs của dầu MLDW nói chung thấp hơn so với các loại dầu được
khử wax bằng dung môi đối với độ nhớt thấp và bằng của các loại dầu có
độ nhớt cao đã được khử wax bằng dung môi.

Sản lượng dầu đã khử wax Delta, hàm lượng n-parafin và chỉ số độ nhớt
đối với các loại dầu đã khử wax bằng dung môi và MLDW được báo cáo
bởi Smith, et al. [12] và Taylor [28] được tóm tắt trong Bảng 8.22. Những
dữ liệu này cho thấy rằng sản lượng của hàm lượng parafin bình thường
và chỉ số VI thấp hơn đối với MLDW so với các loại dầu được khử wax
bằng dung môi. Lý do cho sự khác biệt ở vùng delta VI được Smith, et al.
[12] và Taylor [28] có lẽ liên quan đến thực tế là các nguyên liệu thô khác
nhau đã được sử dụng, các mức độ phân đoạn khác nhau và dầu thương
mại so với dầu trong phòng thí nghiệm. Các delta có chỉ số VI cao hơn
dành cho các loại dầu được pha chế trong phòng thí nghiệm và các delta
VI thấp hơn là từ các hoạt động thương mại.

Những dữ liệu này cho thấy MLDW hoạt động tốt nhất đối với các
nguyên liệu nặng; sản lượng và chỉ số VI cao hơn so với các nguyên liệu
có độ nhớt thấp, chỉ số VI thấp hoặc không có chỉ số VI hoặc sản lượng
liên quan đến khử wax bằng dung môi. Sản lượng thấp hơn dường như
liên quan đến hàm lượng parafin trong nguyên liệu. Điều này xác nhận
nghiên cứu của Rowe và Mur phy [17]; được trình bày như Hình 8.9,
được phát triển bằng cách sử dụng các nguyên liệu thô khác nhau.
Độ nhớt và chỉ số VI của các phân đoạn dầu bôi trơn từ dầu đã khử wax
MLDW và dầu đã được khử wax bằng dung môi, được báo cáo bởi Smith
[30] được trình bày trong Bảng 8.23 và 8.24. Những dữ liệu này cho thấy
rằng ZSM-5 đã loại bỏ một cách hiệu quả các loại wax có điểm đông đặc
thấp khỏi các phần sôi thấp của 150 dầu trung tính nhưng không loại bỏ
những chất wax khỏi các phần có nhiệt độ sôi cao hơn. Người ta hiểu
rằng hiện tượng tương tự cũng được thể hiện bởi các loại dầu
isodewaxed. Dầu khử wax bằng dung môi loại bỏ các chất wax giống như
điểm đông đặc khỏi các phân đoạn nhẹ và nặng. Việc xử lý lại các n-
parafin sôi nhẹ bằng phương pháp khử wax bằng xúc tác được cho là sẽ
cải thiện các đặc tính ở nhiệt độ thấp của 150 trung tính. Cũng rất thú vị
khi lưu ý rằng chỉ số VI của các phân đoạn có độ nhớt thấp có thể so sánh
với các phân đoạn của dầu naphthene tinh chế bằng một số dung môi và
dầu naphthene đôi khi được pha trộn với SNOS để cải thiện các đặc tính
nhiệt độ thấp của dầu bôi trơn.

You might also like