You are on page 1of 30

Lignin based biocoposite for food handling and packaging

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA HÓA

ĐỒ ÁN CÔNG NGHỆ 1
NGÀNH: KỸ THUẬT HÓA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: HÓA POLYMER

ĐỀ TÀI:

LIGNI BASED BIOCOMPOSITE FOR FOOD


HANDLING AND PACKAGING

Người hướng dẫn: Ts. Phạm Ngọc Tùng


Sinh viên thực hiện: Hồ Tất Thị Vi
Nguyễn Chí Bảo
Số thẻ sinh viên: ……………..
Lớp: 19KTHH1

Đà Nẵng, 1/2023

1
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Mục lục
Lời giới thiệu
Chương I. Tổng quan về vật liệu đóng gói thực phẩm (Vi)..........................3
1.1.1 Thực trạng bao bì hiện đại:...............................................................3
1.1.2. Ưu và nhược điểm khi sử dụng nhựa làm vật liệu đóng gói............3
1.1.3. Tình hình tiêu thụ nhựa và thực trạng ô nhiễm nhựa hiện nay........3
1.1.4. Một số loại nhựa thường được sử dụng trên thị trường:..................5
1.1.5. Bao bì từ các polymer không phân hủy sinh học.............................6
1.1.5.1. Nhựa Polyethylene terephthalate (PET).....................................................6
1.1.5.2.Polyetylen (hoặc polythene)........................................................................6
1.1.5.3. Polypropylen (PP)......................................................................................8
1.1.5.4 Polyvinyl Clorua (PVC)..............................................................................8
1.1.5.5 Polystyrene (PS)..........................................................................................8
1.1.6. Bao bì từ các polymer phân huỷ sinh học........................................9
1.1.6.1:PVA(PolyvinylAlcohol)..............................................................................9
1.2.Tổng quan về lignin...........................................................................10
1.2.1) Cấu trúc của lignin.....................................................................................10
1.2.2) Phân loại lignin...........................................................................................13
1.2.3) Ứng dụng của lignin....................................................................................18
Chương II. Ứng dụng công nghiệp dựa trên hạt nhựa lignin làm bao bì thực
phẩm............................................................................................................19
2.1 ) Vật liệu màng sinh học có nguồn gốc từ lignin..............................19
2.1.1 ) Màn lignin/cellulose...................................................................................19
2.1.2) Màng polyme tự nhiên kết hợp cùng lignin................................................24
2.2: Ứng dụng màng lignin cho bao bì đóng gói sản phẩm.....................25
2.2.1. Chất chống ẩm............................................................................................25
2.2.2.Chất chống oxi hóa:.....................................................................................25
2.2.3.Chất hấp thụ ion kim loại.............................................................................27
2.2.4.Chất chống UV.............................................................................................28
2.2.5. Chất kháng khuẩn:.......................................................................................29

2
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Lời giới thiệu


Vật liệu cao phân tử dựa trên nhiên liệu hóa thạch (đại diện chủ yếu à chất dẻo nhiệt và nhựa
nhiệt dẻo) được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội hiện đại do các đặc tính đa
dạng của chúng. Tuy nhiên, ô nhiễm nhựa, chẳng hạn như vi nhựa có nguồn gốc từ nhựa
không phân hủy sinh học, đang đe dọa môi trường sinh thái và sức khỏe con người, môi
trường, dẫn đến sự suy thoái có thể nhìn thấy của môi trường toàn cầu. Việc tăng tỷ lệ polyme
thân thiện với môi trường và phát triển các vật liệu thay thế bền vững có thể giảm thiểu hiệu
quả các vấn đề rác thải nhựa toàn cầu, điều này đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu tìm kiếm các
chất thay thế xanh phù hợp để xây dựng các vật liệu bền vững. Và việc thúc đẩy nhựa sinh
học có thể phân hủy sinh học sẽ rất được khuyến khích, trong khi các loại nhựa thông thường
chắc chắn đang dần bị thay thế.

Chương I. Tổng quan về vật liệu đóng gói thực phẩm (Vi)
1.1.1 Thực trạng bao bì hiện đại:
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo nhu cầu sử dụng của con người ngày càng cao,
vật liệu có tính hữu dụng cao và giá thành rẻ là ưu tiên hàng đầu. Bao bì nói chung và
bao bì thực phẩm nói riêng đã được con người biết đến và sử dụng lâu đời, tùy thuộc
vào từng giai đoạn phát triển mà các hình thức và mẫu mã khác nhau. Ban đầu con
người sử dụng những vật liệu từ thiên nhiên như lá cây, vỏ cây để làm dụng cụ đựng
thực phẩm. Nhưng xã hội ngày càng phát triển, bao bì được làm bằng nhiều vật liệu
khác nhau được tổng hợp từ dầu mỏ - các loại nhựa dần dần được thay thế, góp phần
đưa bao bì mở rộng và hoàn thiện hơn. Phổ biến hiện nay là bao bì nhiều lớp: loại vật
liệu được tổng hợp từ nhiều lớp vật liệu khác nhau, mỗi lớp có đặc tính và chức năng
khác nhau, tùy thuộc mục đích sử dụng của bao bì và sản phẩm được chứa đựng mà có
thể ghép từng lớp lại với nhau để giảm thiểu nhược điểm và tăng ưu điểm của những
lớp vật liệu đơn. Được phân loại làm ba nhóm chính: bao bì ghép nhiều lớp nhựa với
nhau (túi bánh snack -PET/PP), bao bì và các vật liệu khác: bao bì ghép nhựa và kim
loại: cafe hòa tan( PET/PE/AL/PE), bao bì giấy và nhôm: thường gặp: kẹo singum,...
1.1.2. Ưu và nhược điểm khi sử dụng nhựa làm vật liệu đóng gói
Đầu tiên là nhựa để đóng gói thường có tính an toàn cao vì nó không phản ứng với
thực phẩm ( ví dụ: polyolefin). Hạn sử dụng của sản phẩm nhựa cao hơn nhiều so với
vật liệu khác. Thứ hai về giá thành: Nhựa là phương tiện đóng gói hiệu quả về chi phí
nhất khi so sánh với bất kỳ vật liệu nào khác, chi phí vận chuyển giảm đáng kể do
trọng lượng thấp hơn và ít hư hỏng hơn. Thứ ba phải kể đến sự tiện dụng của nó: nhựa
có thể được chuyển đổi dưới mọi hình thức với nhiều kỹ thuật xử lý khác nhau, do đó
có thể đóng gói bất kỳ loại chất nào như chất lỏng, bột, mảnh, hạt, chất rắn. Điều cuối
cùng đó là vấn đề chất thải: bao bì bằng nhựa làm giảm sự lãng phí của các sản phẩm
thực phẩm khác nhau, điển hình. Ví dụ như khoai tây hoặc hành tây đóng gói trong
leno.

3
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Song, bên cạnh những ưu điểm đã nêu trên thì hiện nay con người đang phải đối mặt
với những thách thức trong việc xử lý nhựa để tránh gây ô nhiễm môi trường, một số
nhựa được tái chế hoặc đốt nhưng đa số sẽ được đưa vào bãi rác hoặc thải rác vào
trong thế giới tự nhiên.
1.1.3. Tình hình tiêu thụ nhựa và thực trạng ô nhiễm nhựa hiện nay.
Với những tính năng vượt trội, chất dẻo đã nhanh chóng phổ biến và trở thành những
vật phẩm quen thuộc đối với con người. Mỗi ngày, lượng tiêu thụ nhựa trung bình của
cả thế giới là vô cùng lớn. Trung bình ước tính một năm có 5000 tỷ túi nilon thải ra
môi trường. Mỗi phút có hơn một triệu chai nhựa bị thải ra. Tổng lượng rác thải nhựa
được ước tính có thể lên tới 6.3 tỷ tấn và với tình hình sử dụng hiện nay thì con số này
có thể gấp đôi chỉ trong vòng 20 năm nữa. Trong tổng số hơn 6 tỷ tấn rác thải nhựa
nằm ngoài môi trường, có hơn 80% là thải ra môi trường biển. Nguồn gốc của nhựa
rác thải này bao gồm nhựa dùng một lần, các hạt vi nhựa có trong nước thải, túi nilon,
các sản phẩm nhựa chưa tái chế,… phần lớn đều trút hết ra biển, gây ra tình trạng ô
nhiễm biển nặng nề và đe dọa đến sự sống còn của các loài sinh vật biển (Hình 1).
Đồng thời, việc ô nhiễm nhựa cũng khiến các loại thực phẩm cơ bản của con người bắt
đầu có hạt vi nhựa, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho sức khỏe loài người.
Đại dịch COVID-19 đã dẫn đến sự gia tăng tiêu thụ nhựa trên toàn cầu vì người tiêu
dùng đánh giá cao tính chất tiện lợi và vệ sinh của sản phẩm nhựa được sử dụng một
lần – viết tắt là SUP: các sản phẩm như khẩu trang y tế, bộ dụng cụ xét dừng làm đẩy
nhanh chất thải nhựa trên toàn thế giới. Châu Á đóng vai trò quan trong trong ngành
công nghiệp chất thải nhựa toàn cầu, vừa là nhà sản xuất lớn nhất vừa là điểm đến
chính cho xuất khẩu chất thải nhựa khắp nơi trên thế giới. Với việc chỉ riêng Trung
Quốc vượt qua bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào khác về nguyên liệu nhựa được sản
xuất, châu Á chịu trách nhiệm về hơn một nửa sản lượng nguyên liệu nhựa toàn cầu.
Hơn nữa, nhiều công ty châu Á nằm trong số những công ty đóng góp chất thải SUP
lớn nhất trên toàn cầu, nổi bật nhất là Sinopec, Indorama Ventures và
PetroChina. Ngoài ra, khu vực này cũng chiếm gần một nửa tổng số rác thải nhựa
được quản lý sai trong đại dịch COVID-19. Châu Á là điểm đến chính của hoạt động
buôn bán chất thải toàn cầu. Ngoài việc tạo ra rác thải địa phương, nhiều nước đang
phát triển ở Nam và Đông Nam Á cũng là những nước nhập khẩu rác thải nhựa lớn từ
Châu Âu và Hoa Kỳ. Cùng với Indonesia và Việt Nam, Malaysia nói riêng là một
trong những điểm đến rác thải hàng đầu trên thế giới. Trong những năm gần đây, nước
này đã tiếp nhận hơn 300 nghìn tấn chất thải nhựa xuất khẩu bởi Liên minh châu
Âu. Ba nước ASEAN cũng là điểm đến hàng đầu cho xuất khẩu chất thải nhựa từ Mỹ,
cùng với nước láng giềng Đông Nam Á là Thái Lan và Hồng Kông, Đài Loan và Ấn
Độ.
Năm 2019, ngành nhựa Việt Nam sản xuất 8,89 triệu tấn sản phẩm và có đóng góp ước
tính 17,5 tỷ USD cho nền kinh tế quốc gia, hay tương đương với 6,7% GDP. Năm
2020, Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường với các điều khoản sửa đổi, bổ sung

4
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, trong đó, có bổ sung quy định về giảm thiểu, tái sử
dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, hạn chế sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một
lần và túi ni lông khó phân hủy, khuyến khích sản xuất các sản phẩm thân thiện với
môi trường thay thế sản phẩm nhựa truyền thống. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
Việt Nam tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa
trong thời gian tới cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

Hình 1.1: Lượng chất thải nhựa hàng năm thải ra đại dương từ các con sông được chọn
trên toàn thế giới tính đến năm 2019 (tính bằng tấn)
1.1.4. Một số loại nhựa thường được sử dụng trên thị trường:
Tùy vào từng chất liệu nhựa, mà các bao bì có thể phân hủy tạo ra nhiều chất hóa học
nguy hiểm hòa lẫn vào trong thực phẩm. Vì thế nên không phải bất kì loại nhựa nào
cũng có thể tái sử dụng. Từ bảng dưới, ta có thể thấy nêu lọai nhựa có ghi nhãn số 1
(PET hay PETE) chỉ an toàn cho một lần sử dụng, khi tiếp xúc với oxi không khí hay
nhiệt độ cao thì những loại nhựa như thế này sẽ phân hủy thành những chất độc hại
ảnh hưởng đến sức khỏe. Tránh sử dụng số 3 (PVC) và số 7 vì đó là hóa chất động hại
nhất và dễ lẫn vào thức ăn và nước uống. Số 2 (HDPE), 4 (LDPE) và 5 (PP) phù hợp
để sử dụng lại nhiều lần.
Phân loại các loại nhựa
PET HDPE PVC LDPE PP PS OTHER
Tên Polyeth High- Polyvinyl Low- Polyprop Polystyr Plycarb
gọi ylene densty chloride density ylene ene onate,
terephth polyethy polyethy acrylic,
alate lene lene sợi thủy
5
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

tinh,..
Ứng Chai Bình Khay Túi Đồ nội Đồ chơi, Sản xuất
dụn nước sữa, dầu đựng nhựa, thất, ống bao bì đĩa
g giải gội bánh keo, bao tải,.. hút,.. nhựa,.. DVD,..
khát,... đầu,.. bọc thực
phẩm,..
1.1.5. Bao bì từ các polymer không phân hủy sinh học

1.1.5.1. Nhựa Polyethylene terephthalate (PET)

Là loại nhựa nhiệt dẻo thuộc loại polyeste. Nó hình thành từ phản ứng trùnghợp
giữa các monome etylen terephtalate với công thức hóa học (C10H8O4)n
Nhựa PET có mức độ chống mài mòn và độ bền cơ học cao, khả năng chịu lực xé
và va chạm cao, độ cứng cao. Hệ số ma sát thấp nên được ứng dụng trong các ứng
dụng khác nhau. Tính chống thấm khí O2 và CO 2 tốt hơn nhựa khác, thậm chí ở 100
độ C thì PET vẫn giữ nguyên tính chất này. Khả năng chịu lực và chịu nhiệt tốt.
Khi gia nhiệt tới 200 độ C hoặc làm lạnh ở -90 độ C thì PET vẫn giữ nguyên cấu
trúc hóa học. Nhưng, về mặt có rất nhiều lỗ rỗng, xốp, rất khó để có thể làm sạch.
PET là một trong ba loại nhựa an toàn có thể tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm, tuy
nhiên việc tái sử dụng PET nhiều lần sẽ có nguy cơ gia tăng việc hòa tan các chất có
hại vào trong nước – sử dụng ngày càng nhiều vật liệu đóng gói nhiều lớp (bao gồm
lớp phủ và các chất phụ gia mới để cải thiện rào cản oxy), thêm nhiều loại nhựa khác
vào khi tái chế. Không sử dụng PET đựng các loại thực phẩm quá nóng vì PET có
thể chảy mềm ở nhiệt độ 80 độ C, có thể sinh ra một số aldehyde và thôi nhiễm
antimony- gây kích ứng đường tiêu hóa, dẫn đến nôn mửa và tiêu chảy, nó cũng
gây tổn thương đến gan thận, nếu liều lượng đủ cao sẽ làm tim ngừng đập.

1.1.5.2.Polyetylen (hoặc polythene)

Là một nhựa nhiệt dẻo được sử dụng rất phổ biến trên thế giới (hàng năm tiêu thụ hơn
60 triệu tấn). Polyetylen là một hợp chất hữu cơ gồm nhiều nhóm etylen CH2 -CH2
liên kết với nhau bằng các liên kết Hydro no. Polyetylen được điều chế bằng phản ứng
trùng hợp các Monome Etylen (C2H4).
Nhựa PE (Polyethylene) có màu trắng, hơi trong, không dẫn điện, không dẫn nhiệt.
Đặc biệt là nhựa PE (Polyethylene) không cho nước và khí thấm qua. Tùy thuộc vào
loại PE mà chúng có nhiệt độ hóa thủy tinh Tg ≈ -100 °C và nhiệt độ nóng chảy Tm ≈
120 °C. Sản phẩm làm từ nhựa PE có độ bền, độ cứng, khả năng chịu va đập thấp hơn
các loại nhựa khác. Nhưng có độ dai cao, tương đối mềm.

Nhựa PE (Polyethylene) có tính chất hóa học như Hydrocacbon no. Do vậy, chúng
hầu hết không tác dụng với các dung dịch axít, kiềm, thuốc tím và nước brom. Ở nhiệt
độ cao hơn 70 °C PE hòa tan kém trong các dung môi như Toluen, Xilen, Amilacetat,
Tricloetylen, dầu thông, dầu khoáng… Dù ở nhiệt độ cao, PE cũng không thể hòa tan
6
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

trong nước, trong các loại rượu, chất béo, aceton, ete etylic, glicerin và các loại dầu
thảo mộc. Khả năng chống chịu với O2, N2, CO2 với dầu mỡ rất kém. Sẽ có hiện tượng
sưng tấy khi tiếp xúc với dầu thơm (aromatic oils) hoặc chất tẩy rửa như Alcool,
Acetone,...

Bảng so sánh các loại chính của nhựa PE

LDPE LLDPE HDPE

Tên đầy đủ của Polyethylene mật độ Polyethylene mật Polyethylene mật


polymer thấp độ thấp tuyến tính độ cao

Kết cấu Mức độ cao của Múc độ phân Tuyến tính( hoặc
phân nhánh chuỗi nhánh chuỗi ngắn mức độ phân
ngắn+ phân nhánh cao nhánh chuỗi ngắn
chuỗi dài thấp)

Chất xúc tác và Sử dụng quá trình Sử dụng chất xúc Chất xúc tác
quá trình trùng hợp triệt để tác Ziegler-Natta Ziegler-Natta
bằng phương pháp hoặc chất xúc tác trong:
hình ống hoặc mettallocene
phương pháp clave - Trùng hợp một
tự động giai đoạn.

-Trùng hợp nhiều


giai đoạn hoặc
chát xúc tác kiểu
Cr hoặc Phillips

Tỷ trọng 0,910-0,925g/cm3 0,91-0,94g/cm3 0,941-0,965g/cm3

Kết tinh Thấp và vô định Semi-crytalline, Kết tinh cao và vô


hình cao (ít hơn 50- mức odoj từ 35- định hình
60% kết tinh) 60% thấp(>90% tinh
thể)

7
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Đặc điểm -Linh hoạt So cới LDPE, nó - Kháng hóa chất


có: tốt.
- Tính chất chống
ẩm tốt -Độ bền kéo cao - Độ bền kéo cao
hơn
-Độ bền va đập cao - Chống ẩm tốt
ở nhiệt độ thấp - Khả năng chống
va đập và đâm
- Khả năng chống thủng cao hơn
axit, bazo và dầu
thực vật tốt

1.1.5.3. Polypropylen (PP)

Nhựa PP được viết tắt của Polypropylene, là loại nhựa nhiệt dẻo cứng được sản xuất từ
Monome Propene (hoặc Propylene), ngoài ra nó là một loại nhựa Hydrocarbon Resin.
Công thức hóa học của loại PP là(C 3 H 6 )n. Đây là một trong những loại nhựa rẻ nhất và
được ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực. PP thuộc họ polyme polyolefin và là một phần
tinh thể, không phân cực.

Nhựa PP rất bền, có tính bền cơ học cao (bền xé và bền kéo đứt), khá cứng vững,
không mềm dẻo như PE, không bị kéo giãn dài nên có thể được chế tạo thành sợi. Đặc
biệt có khả năng bị xé rách dễ dàng khi có một vết cắt hoặc một vết thủng nhỏ. Nó
trong suốt và có độ bóng bề mặt cao cho khả năng in ấn cao, nét in rõ. Không màu
không mùi, không vị, không độc. Là vật liệu dễ cháy, khi cháy tạo ngọn lửa màu xanh
nhạt, có dòng chảy dẻo, có mùi cháy gần giống mùi cao su. Nhựa PP chịu được nhiệt
độ cao hơn 100o C. Có tính chất chống thấm O2, hơi nước, dầu mỡ và các khí khác. Độ
kết tinh khoảng 70o . Kháng hóa chất: Bazơ và axit loãng, không phản ứng dễ dàng với
polypropylene ( chất tẩy rửa, sản phẩm sơ cứu)

Khi ở nhiệt độ thấp nhựa PP dễ bị mất liên kết gây vỡ vật liệu. Tuy nhiên ở điều kiện
thường liên kết PP rất bền vững gây khăn cho việc sơn và trang trí, dễ làm trôi sơn,
không bền/ mờ nhạt theo thời gian. PP có khả năng chịu nhiệt cao nhưng khi gặp sản
phẩm có tình trạng bị nứt nẻ, hoặc có dấu hiệu hư hỏng nếu bạn cho sản phẩm tiếp xúc
trực tiếp với ánh sáng trong thời gian dài sẽ gây tình trạng hư hỏng nặng hoặc biến
chất (tuổi thọ kém khi tiếp xúc với ánh sáng trong thời gian dài)3. Nhựa không an toàn
cho bao bì thực phẩm và đồ uống.

1.1.5.4 Polyvinyl Clorua (PVC)

Trong khi sản xuất nhựa PVC, người ta đã đưa vào một lượng Phthalates đóng vai trò
là chất làm dẻo để làm cho nhựa dẻo hơn và khó bị phá vỡ. Nhưng, Phthalates là một
chất có hại cho cơ thể, là một chất gây rối loại nội tiết (EDC) có thể thay đổi sự cân
8
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

bằng nội tiết tố và gây các vấn đề sinh sản ( hormone bị rối loạn và vô sinh, tăng nguy
cơ sẩy thay và tiểu đường thai kỳ ở phụ nữ mang thai). Cơ quan Bảo vệ môi trường
Hoa Kỳ (EPA) liệt chất trên vào chất có thể gây ung thư.

PVC còn chứa DEHA (Diethylhydroxylamine) có thể gây ung thư và các chứng bệnh
liên quan đến xương, gan khi tiếp xúc trong thời gian dài.

1.1.5.5 Polystyrene (PS)

Hình 1.2: Trùng hợp tạo nhựa PS


Được biết đến nhiều hơn với tên gọi Styrofoam, chất dẻo polystyrene được biết đến là
loại chất hóa học có tên là styrene rửa trôi. Hóa chất gây hại cho môi trường và cũng
liên quan đến nhiều vấn đề sức khỏe. Nó nên được tránh và không bao giờ được làm
nóng, không đựng thực phẩm kiềm và có tính axit mạnh vì PS sẽ bị phân giải.

1.1.6. Bao bì từ các polymer phân huỷ sinh học

1.1.6.1:PVA(PolyvinylAlcohol)

Hình 1.3: Quá trình trùng hợp nhựa PVA


PVA Là một polyme phân cực cao, không màu, không mùi, có thể hòa tan trong nước
nên được sử dụng để điều chế vật liệu sinh học, không độc, tương hợp sinh học và giá
thành tương đối thấp. Trong số tất cả các polyme vinyl, chỉ có PVA là có thể phân hủy
sinh học bởi vi sinh vật, nhưng tốc độ phân hủy sinh học của nó quá chậm đối với một
số ứng dụng thực tế trong điều kiện môi trường.

Độ hòa tan trong nước và độ nhớt phụ thuộc vào mức độ thủy phân và khối lượng
phân tử của PVA, có cấu trúc phân cực cao do phân tử chứa nhiều nhóm -OH. Có khả
năng tạo màng: vì PVA được hòa tan trong nước khi sử dụng. Màng và lớp phủ PVA
9
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

không cần chu kỳ đóng rắn, sự tạo màng dễ dàng tạo ra bằng cách cho nước bay hơi
khỏi dung dịch. Giá trị độ bền kéo cao. Khả năng chịu dầu và dung môi: PVA không
bị ảnh hưởng bởi dầu thực vật, mỡ và hydrocarbon dầu mỏ. Khả năng chịu dung môi
tăng theo mức độ thủy phân. Tính chất keo dán: thuộc tính quan trong của PVA: tính
keo dán hay độ bền kết dính của nó do khả năng dễ tạo màng và thu được độ bền kéo
cao hơn. Khả năng chống thấm khí. Sự phân hủy của PVA: khi phân hủy sinh vật cho
hợp chất dioxide carbon và nước. Có khoảng 55 loài vi sinh vật khác nhau có khả năng
phân hủy PVA.

1.2.Tổng quan về lignin

1.2.1) Cấu trúc của lignin

Hầu hết các lignocelluloses bao gồm ba biopolyme, tức là cellulose, hemicelluloses và
lignin, trong đó cellulose bị ràng buộc bởi hemicelluloses và lignin để tạo thành các
thành tế bào cứng. Sự phân tách, cô lập và biến đổi hóa học sau đó của ba biopolyme
cấu thành có thể tạo ra một loạt các nhiên liệu, hóa chất và vật liệu có giá trị gia tăng
có nguồn gốc sinh học. Nếu các sản phẩm này thu được bằng một hệ thống tích hợp
các con đường phản ứng (xúc tác), tức là, trong cái gọi là hoạt động của nhà máy lọc
sinh học, thì tiềm năng tối ưu của mỗi thành phần và do đó có thể đạt được giá trị tối
đa của toàn bộ nguồn cấp sinh khối

Hình 1.4. Các về chất chính có trong cây


Lignin là một polyme thơm phức tạp và không tan trong nước, có nguồn gốc chủ yếu
từ các khối xây dựng rượu hydroxycinnamyl được metoxyl hóa, các monolignol
nguyên mẫu. Không giống như cellulose, với một chuỗi các đơn vị phân tử được xác
định rõ ràng được liên kết bằng các liên kết β-1,4-glycosidic đều đặn, lignin được đặc
trưng bởi nhiều dạng liên kết riêng biệt và khác nhau về mặt hóa học, mỗi loại đòi hỏi
các điều kiện khác nhau để phân cắt khi phân hủy chọn lọc là được nhắm mục tiêu.
Mặc dù có cấu trúc phức tạp hơn, hàm lượng carbon cao hơn và hàm lượng oxy thấp
10
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

hơn của lignin, so với phần polysaccharide hoặc holocellulose, khiến nó trở thành
nguyên liệu hấp dẫn để sản xuất nhiên liệu sinh học và hóa chất. Đáng chú ý, bản chất
thơm và có chức năng cao của lignin thể hiện tiềm năng để điều chế trực tiếp các
chất thơm đặc biệt và hóa chất tốt, phá vỡ yêu cầu về sự khử chức năng hoàn toàn
thành “BTX” (benzen, toluen và xylenes) và sự tái chức năng sau đó thành các hóa
chất nền tảng mong muốn.
Lignin là chất tạo phức sinh học thơm trong thành tế bào thực vật, hoạt động như một
cấu trúc hỗ trợ tăng cường và chống thấm cho thành tế bào, tạo điều kiện vận chuyển
nước và đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thực vật chống lại mầm bệnh.
Các thành phần chính của polyme lignin là các đơn vị phenylpropanoid, syringyl (S),
guaiacyl (G) và p -hydroxyphenyl (H), có nguồn gốc từ sự kết hợp gốc tổ hợp của ba
monolignol điển hình (alcohol sinapyl, alcohol coniferyl, và alcohol p -coumaryl). Với
1 số ngoại lệ đáng chú ý, lignins từ cây hạt trần chỉ bao gồm đơn vị G ( với 1 số lượng
nhỏ đơn vị H ), trong khi lignin trong cây hạt kín được tạo ra từ đơn vị G và S.
monolignols H được nâng lên trong gỗ nén mềm và có thể hơi cao hơn ở cỏ. Sự đa
dạng về các đơn vị ít phong phú hơn đã xác định đã xác định từ đa dạng các loài, và
chúng có thể được kết hợp với polymer ở các mức độ khác nhau. Một số đơn vị chẳng
hạn như chất có nguồn gốc từ monomer sinapyl axetat có thể tạo ra tới 85%
monolignols S trong lignin

Hình 1.5: Sơ đồ cấu trúc của lignin trong cây dương


Trong quá trình đốt cháy, monolignol được kết nối bởi các liên kết liên kết khác nhau,
chẳng hạn như các liên kết ether (β- O -4, α- O -4 và 4- O -5) và liên kết carbon-
carbon (β-β, β-5, β-1 và 5-5), dẫn đến sự hình thành các đại phân tử lignin vô định
hình.

11
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Hình 1.6: Các đơn vị tạo ra từ các monolignols monolignols khi được kết hợp vào
polyme lignins , tạo ra 3 monolignol alcohol sinapyl, alcohol coniferyl, và alcohol p -
coumaryl tương ứng syringyl (S), guaiacyl (G) và p -hydroxyphenyl (H)
Do sự kết hợp ngẫu nhiên của các monolignol và sự phong phú khác nhau
của chúng liên kết, lignin rất không đồng nhất so với cellulose và
hemicelluloses, có cấu trúc đều đặn. Thành phần monome và cấu trúc hóa học
của lignin cũng khác nhau đáng kể giữa các loài thực vật, độ tuổi, mô, môi
trường phát triển và các phương pháp chiết xuất được sử dụng. Lignin của gỗ
cứng được tạo thành từ các đơn vị S và G, và lignin của gỗ mềm bao gồm các đơn vị G
và một lượng nhỏ các đơn vị H, trong khi các loại gỗ khác của cỏ chứa cả ba đơn vị.
Nhiều đơn vị phenol khác thường cũng bắt nguồn từ con đường sinh tổng hợp
phenylpropanoid đã được tìm thấy trong nhiều loài thực vật.

Ví dụ, p -coumarate (P Ca), ferulate, P -hydroxybenzoate (P BA), Tricin và Caffeyl


alcohol hiện được công nhận là monome chính thức của các polyme lignin trong các
loại thực vật khác nhau.

12
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Hình 1.7: Các monome khác nhau của polyme lignin từ các loại thực vật
khác nhau (pBA: P - Hydroxybenzoate, pCA: P -coumarate axit)

Monolignol pCa thường được tìm thấy trong hầu hết các loại cỏ, trong khi các chất lên
men đã được báo cáo ở các loại cây khác nhau với số lượng tương đối thấp.
Monolignol pBa đã được xác định rộng rãi trong cây dương,cây liễu, cây cọ và gỗ cây
dương, và monolignol axetat được tìm thấy trong một số loại thực vật, như kenaf,
abaca và cây trăn. Flavone tricin lần đầu tiên được phát hiện trong lignin rơm lúa mì
có nguồn gốc từ các phản ứng ghép chéo với các monolignol trong một con đường
sinh tổng hợp.Rượu 5-hydroxyconiferyl và rượu caffeyyl đã được tìm thấy trong một
số lớp vỏ hạt, chỉ kết hợp thông qua các liên kết β- O -4 tạo ra các homopolyme tuyến
tính, tức là, c- lignin. Lợi ích từ cấu trúc đồng nhất, C-lignin có thể bị phân hủy hoàn
toàn bằng phương pháp thủy phân để đạt được sản lượng monome cao.

Các đặc tính của monolignol

Một loạt các monolignol làm cho lignin trở thành một polymer có giá trị, sở hữu nhiều
nhóm chức năng khác nhau, ví dụ, vòng thơm, hydroxyls aliphatic và phenolic,
carboxyl, carbonyls và nhóm methoxy. Các nhóm chức này và các cấu trúc độc đáo
của lignin xác định các tính chất hấp dẫn của nó bao gồm chống oxy hóa, kháng
khuẩn, hấp thụ UV, tính kỵ nước, huỳnh quang, hấp thụ ion kim loại và sự ổn định
nhiệt,…. đáp ứng nhiều nhu cầu cho vật liệu polymer chức năng. Trong khi đó, một số
hoạt tính sinh học tiềm năng của lignin, các hoạt động chống bệnh đái tháo đường,
chống ung thư và chống đông máu cũng đã được báo cáo dựa trên đánh giá thực
nghiệm và đã chỉ ra rằng lignin là một ứng cử viên đầy hứa hẹn trong lĩnh vực y sinh.
Ngoài ra, các vị trí hóa học và các nhóm chức năng phong phú của nó cung cấp cho
Lignin nhiều khả năng đa dạng để sửa đổi hóa học hơn nữa, và khả năng hòa tan tốt
của lignin trong nhiều dung môi hữu cơ có lợi cho việc điều chỉnh cấu trúc . Sự biến
đổi hóa học của lignin có thể được thực hiện thông qua chức năng hóa các vòng thơm
và nhóm hydroxyl, cũng như đồng trùng hợp ghép.

VD: Chức năng của các vòng thơm bao gồm aminaxit, hydroxyalkyl hóa và nitrat hóa,
trong khi các phản ứng của nhóm hydroxyl bao gồm este hóa, etilen hóa, phenol hóa,
alkyl hóa và axet hóa. Nhóm hydroxyl là nhóm chức chính trong lignin, và nó có ảnh
hưởng to lớn đến tương tác của nó với nhiều phân tử polyme. Sự tồn tại của những
tương tác này giữa các polyme có thể thúc đẩy đáng kể các tính chất cơ học và độ bền
của các vật liệu polyme cao phân tử.

1.2.2) Phân loại lignin


13
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Phân loại lignin thường được dựa theo các phương pháp triết xuất khác nhau. Các
phương pháp triết xuất lignin cũng có thể được phân loại thành hai loại: (1) Lignin
được chiết xuất thông qua các dung môi và dung dịch khác nhau từ sinh khối
lignocellulosic, và đây là phương pháp phân đoạn phổ biến cho Lignin trong nghiên
cứu hóa học lignocellulosic hiện tại, (2) thủy phân cellulose và hemicellu bị mất trong
môi trường axit và tách lignin dưới dạng cặn không hòa tan. Các lignin hòa tan có cấu
trúc vô định hình, và chất không hòa tan có cấu trúc hình thái nguyên thủy của sợi
nguyên liệu Sự hiện diện của một số nhóm chức như hydroxyl phenolic và cacboxyl
trên cấu trúc của lignin tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng hòa tan của nó trong dung
dịch kiềm. Organosolv lignin có thể hòa tan trong nhiều dung môi khác nhau như
dioxan, metanol, etanol, axeton và pyridin. Các dung môi phổ biến cho kiềm lignin và
lignosulfonat là dung dịch kiềm loãng, nước và muối. Không thể hòa tan lignin thủy
phân bằng enzym / axit trong bất kỳ dung môi nào.

VD: Klason lignin và lignin còn lại sau khi điều trị bằng cellulase. Lignin bị cô lập
cũng có thể được phân thành. (Phương pháp Klason Lignin Klason là một phương
pháp tiêu chuẩn để xác định hàm lượng lignin trong gỗ. Trong quá trình này, tất cả các
liên kết polysaccharide đều bị thủy phân bằng axit sulfuric 72% và để lại cặn lignin
rắn.). Lignin dưới dạng mẫu được sử dụng để xác định đặc điểm cấu trúc.
lignin như một sản phẩm phụ thu được từ các quá trình tiền xử lý và công nghiệp khác
nhau, dựa trên mục đích phân lập lignin.

Các đặc điểm cấu trúc của lignin tự nhiên từ các nguyên liệu khác nhau là rất quan
trọng để hướng dẫn thêm việc giải cấu trúc và định giá của lignocelluloses. Trọng
lượng phân tử và độ phân tán của lignin cũng bị ảnh hưởng bởi các phương pháp tách
do sự phân hủy một phần của lignin trong quá trình chiết xuất . Ngoài ra, các điều kiện
phân tách bao gồm tác động cơ học, enzym hoặc thuốc thử hóa học có thể ảnh hưởng
đến cấu trúc liên kết chéo của lignin và các đoạn lignin được hình thành với sự phân
bố trọng lượng phân tử khác nhau. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để phát triển các
mẫu lignin lý tưởng cho đặc tính cấu trúc của lignin tự nhiên trong những thời gian
gần đây.

VD: Các phương pháp cổ điển, được gọi là lignin gỗ nghiền (MWL), lignin enzym
phân giải cellulose (CEL) và lignin phân giải axit nhẹ bằng enzym (EMAL), chủ yếu
được sử dụng để chiết xuất lignin từ sinh khối nghiền bi hoặc xử lý bằng enzyme. Để
cải thiện năng suất của lignin, các lignin còn lại từ các sinh khối khác nhau được điều
chế với năng suất cao và các cấu trúc tương đối không thay đổi để đóng vai trò là
lignin tự nhiên. Lignin gỗ đã qua nghiền thu được từ việc xay gỗ trong máy nghiền bi
trong hàng chục giờ và các liên kết với polysaccharid bị phá vỡ về mặt cơ học. Trong
số đó, lignin enzyme kép (DEL) với năng suất tuyệt vời (> 95%) và tính toàn vẹn cấu
trúc đã được chứng minh là một mẫu lý tưởng để mô tả "lignin tự nhiên" của các loại
lignocellulose đa dạng. Nó đã được sử dụng làm lignin ban đầu để điều tra các biến
đổi cấu trúc trong quá trình xử lý, chẳng hạn như điều hòa gen và quá trình xử lý sinh
học của lignocellulose.Là một phương pháp xanh và hiệu quả (chỉ sử dụng phương
pháp nghiền bi và thủy phân bằng enzym), DEL cho thấy hứa hẹn trong việc nghiên

14
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

cứu hóa học cơ bản của lignin và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá và
định giá các polyme lignin trong các nhà máy chế biến sinh học.

Về mặt công nghiệp.

Các nhà máy nghiền giấy và bột giấy là những nguồn lignin công nghiệp chủ yếu và
quy mô lớn, nơi sản xuất biopolyme thu được như một sản phẩm phụ thông qua quá
trình chiết xuất trong quá trình phân tách sinh khối lignocellulosic. Các lignin thương
mại phổ biến nhất được sản xuất từ các quy trình chiết xuất chính, ví dụ như là các quy
trình Kraft, soda, sulfite và organosolv.

Hình 1.8: Các quy trình triết xuất lignin

Lignin được phân lập từ sinh khối khi có mặt dung dịch NaOH ở nhiệt độ và áp suất
cao. Các liên kết với polysaccharid bị phá vỡ và các mảnh lignin bị hòa tan trong dung
môi, tạo thành chất lỏng màu đen. Kết quả là lignin được tách ra từ dung dịch màu đen
với Na2CO3 được gọi là soda lignin. Lignin được tách ra khi có mặt Na2SO4 được đặt
tên là kraft lignin..

Trong quy trình nghiền bột bằng kiềm, bao gồm kraft và soda, các liên kết (chẳng hạn
như liên kết ete β- O -4 ) của lignin bị phân cắt hoàn toàn, và các phần lignin dễ dàng
hòa tan trong dung dịch kiềm ở nhiệt độ cao tạo ra chất lỏng màu đen. Bột giấy kraft
(với dung dịch NaOH và Na2S) chủ yếu được sử dụng để xử lý vật liệu gỗ cứng, trong
khi nghiền bột soda (chỉ với dung dịch NaOH) phổ biến để chế biến vật liệu không
phải gỗ và gỗ mềm. Anthraquinone (AQ) thường được chọn làm chất xúc tác trong
quá trình soda để phân cắt hiệu quả cả liên kết α-ete và liên kết β-O -4 ete của lignin
và cũng bảo vệ carbohydrate khỏi bị thoái hóa.

Lignosulfonat hoặc lignin đã sulfonat hóa là các polyme polyelectrolyte anion hòa tan
trong nước, được thu hồi từ quá trình nghiền sulfit của gỗ (rượu nâu) . Trong quá trình
nghiền bột, một dung dịch nước có chứa lưu huỳnh đioxit và muối axit lưu huỳnh
được sử dụng để phá vỡ các liên kết với polysaccharid . Quy trình nghiền sulfite có thể
15
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

được thực hiện trong các điều kiện axit hoặc trung tính, trong đó lignin được biến đổi
về mặt hóa học bằng cách sulfonat hóa và đưa vào các nhóm sulfonat anion. Tương tự,
quá trình này cũng có thể phá vỡ các liên kết α- và β-ete trong lignin, tạo ra lignin
sulfo hóa (còn được gọi là lignosulfonat) với khả năng hòa tan trong nước tuyệt vời và
hàm lượng lưu huỳnh cao hơn (> 5% trọng lượng).

Organosolv Lignin : Organosolv nghiền thành bột được tiến hành trong sự có mặt của
dung môi hữu cơ dạng nước ở nhiệt độ dao động từ 140 đến 220 ° C. Trong quá trình
này, các liên kết alpha arylether của lignin bị phá vỡ bởi sự phân cắt thủy phân và các
mảnh thu được sẽ hòa tan trong dung môi .Một trong những chất xúc tác thích hợp cho
quá trình nghiền bột organosolv là HCl khi có nước với các dung môi khác nhau bao
gồm axeton, metanol, etanol, butanol, etylen glicol, axit fomic hoặc axit axetic, hoặc
hỗn hợp của chúng .Nồng độ dung môi trong nước dao động trong khoảng 40–80%.
Quy trình organosolv với dung môi hỗn hợp ethanol-nước tạo ra năng suất bột giấy
cao hơn so với quy trình kraft, và độ bền kéo và xé của bột giấy organosolv gỗ mềm
nằm giữa các giá trị tương ứng của bột giấy kraft và bột giấy sulphite

Gần đây, nhiều phương pháp phân tách mới nổi hoặc mô hình lọc sinh học đã được đề
xuất, trong đó hệ dung môi xanh (ví dụ, chất lỏng ion-IL và dung môi eutectic sâu-
DES) đã được sử dụng để phân lập polyme lignin có độ tinh khiết cao và các đặc tính
hóa lý hấp dẫn từ các vật liệu sinh khối đa lượng. Lưu ý : việc tái chế IL và DES sau
khi sử dụng là một khía cạnh quan trọng đối với việc sử dụng trong khoa học và công
nghiệp, và các chiến lược chiết xuất ngược và dựa trên màng đã được đề xuất để tái
chế chúng; tuy nhiên, phải phát triển thêm nhiều công việc và phương pháp khả thi
hơn để xác minh khả năng áp dụng của chúng. Khi IL được sử dụng để xử lý
lignocellulose, quá trình chiết xuất lignin và hemicelluloses trong khi để lại cặn
cellulose (còn gọi là nghiền bột ionosolv) tương tự như nghiền bột organosolv, nhưng
nó có thể được tiến hành ở nhiệt độ thấp hơn (<160 o C). Quá trình phân đoạn dựa trên
IL có thể phân cắt các liên kết β- O -4 và tái trùng hợp lignin, tùy thuộc vào mức độ
nghiêm trọng của quá trình.

DES là dung môi chi phí thấp và thân thiện với môi trường có thể được điều chế dễ
dàng bằng cách kết hợp hai hoặc nhiều hợp chất tinh khiết, chẳng hạn như muối (như
chất cho liên kết hydro-HBD) và rượu hoặc axit cacboxylic (như chất nhận liên kết
hydro-HBA) tại phòng nhiệt độ. DES cho thấy khả năng hòa tan được ưu tiên đối với
lignin và độ hòa tan không đáng kể đối với cellulose, và nhiều đặc tính vốn có của
chúng có thể được điều chỉnh một cách tinh vi bằng cách thay đổi thành phần của
chúng. Hai hệ dung môi này đã nhận được sự quan tâm rộng rãi trong giới học thuật và
công nghiệp, và chúng có thể phân đoạn lignin một cách tinh vi và thu được các
polyme lignin đặc biệt thúc đẩy quá trình hóa trị của lignin thay vì chuyển đổi hóa học
đơn giản.

Ví dụ, lignin quy mô nano có độ tinh khiết cao được phân lập bằng cách sử dụng DES
có thể được sử dụng để điều chế vật liệu nano chức năng. Hơn nữa, thiết lập dòng chảy
mới đã được phát triển và áp dụng rộng rãi từ quá trình khử phân giải lignin đến việc
phân lập nhanh chóng lignin trong vài thập kỷ qua. So với các hệ thống mẻ thông
16
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

thường, chế độ chảy qua sử dụng các dung môi hữu cơ khác nhau và có thể nhanh
chóng chuyển các mảnh lignin hòa tan khỏi vùng gia nhiệt, điều này ngăn ngừa sự thay
đổi cấu trúc và tái định vị của lignin. Điều này cho phép lignin được loại bỏ hoàn toàn khỏi
lignocellulose dưới các thông số thích hợp

Ngoài ra còn lignin thủy phân : Trong một axit loãng, hầu hết các liên kết
polysaccharid bị thủy phân thành đường fermentable và kết quả là chất cặn bã là lignin
bị thủy phân . Lignin thủy phân, được chiết xuất từ bã của quá trình sản xuất etanol
cellulose, thường được gọi là “lignin thủy phân bằng enzym (EHL)”. Vì các quá trình
thủy phân sinh khối bằng enzym thường hoạt động trong các điều kiện tương đối nhẹ,
các nhóm chức năng hoạt động nhất như hydroxyl phenolic và hydroxyl rượu có thể
được bảo tồn . Do đó, EHL kết quả được cho là sẽ phản ứng mạnh hơn so với
lignosulfonate hoặc kraft lignin. Tuy nhiên, trong thực tế, lignin thủy phân có cấu trúc
phân tử rất lớn, cản trở steric mạnh và thường chứa các tạp chất đường, do đó nó
không phản ứng như organosolv hoặc kraft lignin trong các ứng dụng hóa học. Do đó,
lignin thủy phân bằng enzym thường được sử dụng làm nhiên liệu trong quá trình đốt
cháy hoặc khí hóa để tạo ra hơi nước hoặc điện

Tính chất của từng loại lignin


Kraft lignin đến từ quá trình nghiền bột kraft trong quá trình nghiền bột, natri
hydroxit và natri sunfua phá vỡ liên kết giữa các đơn vị phenylpropan của phân tử
lignin trong điều kiện nấu ở nhiệt độ cao để giảm khối lượng phân tử. Điều này dẫn
đến sự hình thành các nhóm thiol béo, do đó kraft lignin có hàm lượng lưu huỳnh cao
(1–2% trọng lượng) và kỵ nước so với các loại lignin khác, kraft lignin thường được sử
dụng cho các ứng dụng có giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên, kraft lignin đã được kiểm
nghiệm là hòa tan trong các dung dịch kiềm do nồng độ cao của các nhóm hydroxyl
phenolic có trong nó. Trong quá trình nghiền bột thủ công, thường được sử dụng để
điều chế lignin, phần lớn thời gian nó bị phân hủy và hòa tan thành rượu đen. So với
các loại lignin khác, kraft lignin chứa số lượng cao nhất trong các nhóm hydroxyl
phenol. Sự phân huỷ lignin dẫn đến sự gia tăng số lượng nhóm hydroxyl với sự giảm
khối lượng phân tử của lignin do sự phân cắt của các liên kết β O-4 ′. Điều kiện nấu
được sử dụng trong quá trình nghiền bột thủ công đã được phát hiện để kiểm soát
lượng nhóm hydroxy tự do
Soda lignin thu được từ các nguồn tài nguyên khác nhau thường thể hiện các đặc tính
tương tự như trọng lượng phân tử thấp, hàm lượng phenolic hydroxyl cao và nhiệt độ
chuyển hóa thủy tinh tương đối thấp. Quá trình nghiền soda liên quan đến việc sử dụng
natri hydroxit làm hóa chất nấu ăn để sản xuất bột gỗ. So với quy trình nghiền bột giấy
kraft, quy trình này được cho là tạo ra bột giấy có độ bền xé thấp hơn. Do những lo
ngại về môi trường, lignin soda được thu hồi để tránh ô nhiễm. Tuy nhiên, một lượng
rất nhỏ (<1%) lignin được sử dụng cho các ứng dụng công nghiệp
Lignosulfonat thu được từ quá trình nghiền bột sulfit. Nhóm axit sulfonic trên
lignosulfonate xác định khả năng hòa tan tốt trong nước của nó. Nó có thể hòa tan

17
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

trong các dung dịch nước khác nhau với độ pH khác nhau, nhưng không hòa tan trong
các dung môi hữu cơ như etanol và axeton. Trọng lượng phân tử của lignosulfonate
tương đối thấp, và nó có khả năng tương thích tốt với các vật liệu polyme khác. Alkali
lignin thu được từ quá trình nghiền bột bằng kiềm. Trong điều kiện đun nấu ở nhiệt
độ cao có tính kiềm, nhiều nhóm hoạt chất của lignin bị phá hủy, dẫn đến giảm hoạt
tính
So với lignin kiềm và lignosulfonate, organosolv lignin cung cấp nhiều ưu điểm độc
đáo, chẳng hạn như tỷ lệ các nhóm phản ứng cao hơn và không có tạp chất chứa lưu
huỳnh. Nó chỉ liên quan đến quá trình hòa tan; do đó, độ tinh khiết cao của nó cũng lý
tưởng để sử dụng trực tiếp

1.2.3) Ứng dụng của lignin

Cho đến gần đây, lignin được coi là phế phẩm của các nhà máy nghiền giấy và các nhà
máy sản xuất etanol cellulose. Nó chủ yếu được tiêu thụ trong các nhà máy / nhà máy
trong nồi hơi thu hồi để phát nhiệt và điện , và một lượng nhỏ lignin (<1%) được sử
dụng làm chất độn như vecni mực, sơn và ma trận đàn hồi hoặc chất hoạt động bề
mặt / chất phân tán . Trong những thập kỷ gần đây, ngày càng có nhiều quan tâm đến
việc sử dụng lignin làm nguyên liệu thô để tổng hợp các hóa chất thơm sinh học (như
vanilin và phenol) và các vật liệu cao phân tử dựa trên sinh học (nhựa và polyme) do
các lý do sau :

1. Vật liệu bền vững và có thể tái tạo


2. Có rất nhiều việc tạo ra lignin như một sản phẩm phụ trong ngành công nghiệp
giấy / bột giấy và công nghiệp etanol cellulose
3. Có nhiều nhóm chức khác nhau hiện diện trong cấu trúc lignin cho phép nhiều
phản ứng hóa học khác nhau
4. Lignin có khả năng phân hủy sinh học bên trong và các polyme kết hợp với
lignin sẽ dễ phân hủy sinh học hơn các polyme gốc dầu mỏ

lignin có cấu trúc vòng thơm rất lớn và bao gồm nhiều nhóm chức hoạt động như
phenolic hydroxyl, cacboxyl, và nhóm metoxy ở mạch bên. Do đó, lignin dễ dàng hình
thành liên kết hydro và lực liên phân tử với một số nhóm chức của các thành phần
khác. Hơn nữa, cần tăng cường khả năng tương thích giữa lignin và các vật liệu cao
phân tử khác để thu được màng composite đồng nhất hơn. Các màng composite này
không chỉ có đặc tính khó phân hủy mà còn có thể giảm đáng kể chi phí sản xuất.
Đồng thời, các đặc tính của lignin như chịu nhiệt và có khả năng hấp thụ mạnh tia cực
tím (UV) cũng được giữ lại trong composite dựa trên lignin, do đó có thể thu được
thành công vật liệu composite đa chức năng, chi phí thấp.

Lignin khi trộn vào màng polymer sẽ cho thấy nó có nhiều ứng dụng trong bao bì thực
phẩm, ứng dụng phủ, xử lý nước thải, phân phối thuốc, …. Điều này được cho là do so
với vật liệu màng không có lignin, vật liệu polyme với lignin pha trộn cho thấy hiệu
suất chống lão hóa, độ bền cơ học được cải thiện, sửa đổi độ ổn định nhiệt, khả năng
18
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

phân hủy và các đặc tính khác trong quá trình thực nghiệm. Trộn vật liệu polyme là
một trong những phương pháp chính để chuẩn bị màng composite. Phương pháp này
có thể kết hợp hiệu quả một số vật liệu cao phân tử để màng hỗn hợp đã chuẩn bị có
nhiều đặc tính chức năng

Hình 1.9: Các ứng dụng của lignin khi trộn vào các màng polymer

Chương II. Ứng dụng công nghiệp dựa trên hạt nhựa lignin làm bao bì
thực phẩm.
2.1 ) Vật liệu màng sinh học có nguồn gốc từ lignin

Trong những năm gần đây, vật liệu màng / màng có nguồn gốc lignin (vật liệu tổng
hợp) với nhiều chức năng hấp dẫn đã được chế tạo thành công dựa trên sự biến đổi và
xử lý thích hợp của polyme lignin. Do khả năng phân hủy sinh học và khả năng tương
thích sinh học của các đại phân tử lignin, nhiều hệ thống dựa trên lignin có thể sống
được với môi trường, chẳng hạn như hệ thống lấy cảm hứng từ gỗ, hệ thống lignin /
polyme tự nhiên, hệ thống lignin / polyme tổng hợp và các hệ thống khác, có thể được
sử dụng để phát triển khả năng phân hủy sinh học vật liệu màng thông qua các phương
pháp liên kết chéo khác nhau (liên kết vật lý, liên kết hóa học, ...) và các chiến lược
xây dựng (ép nóng, pha trộn, đúc dung môi, phủ quay, ...). Hơn nữa, sự kết hợp của
polyme lignin với các polyme phân hủy sinh học khác nhau mang lại cho hệ thống vật
liệu kết quả các đặc tính mới để có được vật liệu màng thân thiện với môi trường tiên
tiến có thể được ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau.

2.1.1 ) Màn lignin/cellulose

Lignin là một chất kết dính tự nhiên ở thực vật góp phần vào sự ổn định của nước, sức
mạnh và độ cứng của thành tế bào. Ngoài ra, gỗ dày đặc được xử lý bằng cách loại bỏ
một phần và ép gỗ tự nhiên cũng đã được chứng minh là sở hữu sức mạnh đặc hiệu
siêu cao, trong đó lignin còn lại tương tự đóng vai trò là chất kết dính. Tương tự như
19
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

thành phần cấu trúc của gỗ tự nhiên, một số vật liệu tổng hợp có thể tái tạo được hình
thành bởi lignin và cellulose đã được xây dựng để hoạt động như là sự thay thế nhựa
khả thi và hiệu suất cao. Lignin cho thấy khả năng tương thích kém với cellulose. Mặt
khác, các nhóm ưa nước của lignin hầu hết được bao bọc trong các chuỗi kỵ nước, làm
cho nó không tương thích với các carbohydrate ưa nước như cellulose. Mặt khác, do
pH bình thường và không có phụ gia hóa học, cellulose và lignin có điện tích âm, dẫn
đến lực đẩy tĩnh điện giữa chúng

Gỗ là một hỗn hợp tự nhiên bao gồm các sợi cellulose, hemicelluloses và lignin, và
thường được coi là cấu trúc bê tông cốt thép trong đó cellulose, hemicelluloses và
lignin đóng vai trò là vật liệu cốt thép, vật liệu đệm và xi măng. Gỗ và các
lignocelluloses khác đã phát triển các cấu trúc và rào cản hóa học phức tạp để ngăn
chặn ma trận tổng hợp khỏi các cuộc tấn công hóa học và sinh học, trong khi lignin
đóng vai trò chính trong hiệu suất cấu trúc và chức năng của thành tế bào. Lấy cảm
hứng từ cấu trúc composite được gia cố lignin mạnh mẽ, nhiều vật liệu mới nổi đã
được chế tạo dựa trên mô hình lignocellulose, như vật liệu tổng hợp bằng gỗ, vật liệu
bán dẫn, aerogel, loại gỗ nhân tạo, thiết bị lưu trữ năng lượng. Ngoài ra, các thành
phần chính của gỗ (cellulose, hemicelluloses và lignin), cũng có thể được xây dựng lại
hoặc tu sửa để chế tạo các vật liệu chức năng và bền vững khác, như vật liệu màng linh
hoạt. Trong quy trình này, lignin hoạt động như một tác nhân gia cố, nhưng cũng có
hiệu suất chức năng hóa lý cho các vật liệu màng có nguồn gốc lignin

Về mặt cấu trúc, gỗ có cấu trúc phân cấp bắt nguồn từ sự kết hợp của cellulose,
hemicelluloses và lignin, và cung cấp nguồn cảm hứng để xây dựng các vật liệu có cấu
trúc tương tự, mở rộng ứng dụng của các khối xây dựng thông thường bằng cách tối ưu
hóa cấu trúc và thành phần của nó, vật lý, hóa học và / hoặc các cách tiếp cận xử lý kết
hợp. Việc tái tạo các thành phần lignocellulosic bằng cách hòa tan gỗ là một cách tiếp
cận đầy hứa hẹn để định hình lại các vật liệu màng được nhắm mục tiêu; tuy nhiên, rất
khó để hòa tan gỗ trong các dung môi thông thường (như nước và dung môi hữu cơ)
do tương tác mạnh giữa các nhóm hydroxyl trong cellulose và ái lực thấp của cellulose
đối với các phân tử dung môi.

Cellulose là một hợp chất polyhydroxy có thể kết hợp với các vật liệu khác thông qua
liên kết hydroxyl hydro, dẫn đến hình thành cấu trúc vướng víu không gian; do đó, cố
gắng sử dụng liên kết hydro để kết nối các polyme có thể kết hợp hiệu quả cellulose và
lignin . May mắn thay, người ta đã báo cáo rằng gỗ nghiền bi có thể được hòa tan
trong các hệ dung môi hữu cơ, chẳng hạn như hệ thống dựa trên dimethyl sulfoxide
(DMSO) và axit formic. Gỗ hòa tan trong dung dịch axit fomic được sử dụng để chế
tạo màng gỗ có độ dẻo và độ bền tương đối cao Các màng thu được bằng cách sử dụng
phương pháp xử lý đơn giản thể hiện khả năng gấp lại lý tưởng, khả năng phân hủy
sinh học và khả năng quang ổn định, cũng như khả năng ổn định nhiệt cao (lên đến
180 ° C mà không làm mềm), cung cấp một cách bền vững và hiệu quả về chi phí để
sản xuất vật liệu màng phân hủy sinh học và gỗ. Một số hệ dung môi xanh đã được
phát triển để hòa tan hiệu quả sinh khối lignocellulosic, chẳng hạn như chất lỏng ion
(ILS) có độ ổn định nhiệt cao và ít nguy hiểm hơn. Trong khi đó, các vật liệu tổng hợp
tương thích sinh học có nguồn gốc từ các nguồn sinh học tự nhiên và có thể tái tạo đã
20
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

làm tăng mối lo ngại ngày càng tăng trong thập kỷ qua. Sự xuất hiện của các hệ thống
IL mới đã đẩy nhanh sự phát triển của vật liệu màng từ sinh khối lignocellulosic

Hình 2.1: Sơ đồ sơ đồ để chuẩn bị màng gỗ phân hủy sinh học và các đường cong
căng thẳng căng thẳng của nó so với màng cellulose và cellulose acetate

Ví dụ, các màng tổng hợp sinh khối khác nhau, nhựa nhiệt dẻo chống cháy và sợi
composite đã được sản xuất từ các dung dịch lignocellulose khác nhau. Màng All-
Biomass được chế tạo bằng cách trực tiếp hòa tan rơm lúa mì trong một chất lỏng ion
và giới thiệu thêm cellulose như một mạng lưới vướng víu, do đó tạo ra một màng
tổng hợp thân thiện với môi trường và đa chức năng. Các màng kết quả có khói mù
siêu cao (97%) và tính chất che chắn tia cực tím, và các xét nghiệm lưu biến mở rộng
cho thấy việc bổ sung bột cellulose cải thiện đáng kể khả năng xử lý của dung dịch
polymer và tăng cường hơn nữa độ bền kéo. Hơn nữa, các màng có nguồn gốc rơm thu
được cho thấy độ bền kéo cao hơn so với polyetylen thương mại (PE) và polypropylen
(PP), làm cho các màng phân hủy hoàn toàn sinh học cạnh tranh và thay thế tiềm năng
cho túi polyolefin. Mặc dù vậy, giá tương đối cao và sự phục hồi của IL vẫn là vấn đề
khó khan

Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc thêm lignin thủy phân vào
màng sinh học lấy cảm hứng từ thành phần của gỗ trong một hệ thống axit hữu cơ tự
nhiên, trong đó các màng linh hoạt với các tải trọng lignin khác nhau (0 ~ 50 wt%) sau
khi bay hơi dung môi. Hoạt động nhặt rác triệt để của các màng tăng tuyến tính với tải
lignin và sự phát triển của vi khuẩn trên các màng dựa trên lignin đã bị ức chế đáng kể.
Cả hai đều liên quan trực tiếp đến sự tồn tại của các hợp chất phenolic. Tương tự như
gỗ tự nhiên, màng tổng hợp với khả năng tương thích tốt có cường độ cơ học và độ
cứng cao chủ yếu là do mạng lưới liên kết ngang và liên kết hydro trong sinh khối.

21
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Hình 2.2: Sơ đồ chế tạo của composite cellulose lignin lấy nguồn từ gỗ

Gần đây nhất, một hỗn hợp lignin-cellulose mạnh, ổn định nước và phân hủy sinh học
được phát triển bởi nhà nghiên cứu. Báo cáo của họ cho thấy kết quả tổng hợp có tính
linh hoạt và sức mạnh cơ học vượt trội vượt trội so với nhiều vật liệu dựa trên dầu mỏ.
Hơn nữa, sự ổn định nước tuyệt vời được Lignin tạo ra làm cho tổng hợp trở thành một
ứng cử viên tốt để thay thế các sản phẩm nhựa, có thể làm giảm bớt sự phụ thuộc vào
tài nguyên hóa dầu hữu hạn.Từ quan điểm của gỗ, cường độ cao của vật liệu chủ yếu
bắt nguồn từ khả năng tương thích giao thoa tốt giữa lignin và cellulose và các tương
tác liên phân tử. Độ bền kéo của ma trận lignin-cellulose cao tới 200 MPa, cao gấp
năm lần so với giấy cellulose thô và lignin-cellulose thể hiện đẳng hướng tuyệt vời
thay vì dị hướng của gỗ, bất kể hướng kéo dài

Hình 2.3: Độ bền kéo của hỗn hợp lignin/cellulose so với các hỗn hợp khác

Việc sử dụng dung môi màu xanh lá cây (chẳng hạn như chất lỏng ion) có thể hỗ trợ
việc hình thành màng hỗn hợp lignin và cellulose. Màng tổng hợp dựa trên lignin là
một lựa chọn tuyệt vời trong các vật liệu đóng gói chức năng do các đặc tính của các
polyme lignin, ví dụ, tính chất chống oxy hóa và kháng khuẩn. Hơn nữa, so với một số
dung môi hữu cơ nguy hiểm như DMSO / hệ thống nước và dioxan / nước, chất lỏng
ion rất đơn giản, thân thiện với môi trường và an toàn như một dung môi xử lý màng,
do đó nó được sử dụng rộng rãi hòa tan lignin, celluloseza và tinh bột trong 1-allyl-3-
methylimidazole clorua, và tổng hợp một màng phức hợp có độ trong suốt tốt bằng
22
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

cách đúc dung dịch. Liên kết hydro giữa các phân tử mạnh hơn, đồng thời tính ổn định
nhiệt và tính thấm khí của nó tốt hơn so với màng cellulose tái sinh (RC), do đó màng
composite cho thấy tiềm năng ứng dụng lớn trong bao bì thực phẩm tươi sống.

Khi sử dụng anhydrit propionic để este hóa lignin sunfat, lignin dung dịch hữu cơ và
lignin thủy phân để thu được lignin propionic; và một màng tổ hợp nano xử lý nước
được điều chế từ lignin axit propionic và celluloseza triacetat bằng cách đúc dung
dịch. Hơn nữa, ảnh hưởng của các loại lignin khác nhau đến hiệu suất của màng
composite đã được nghiên cứu. Sự ester hóa cao của lignin có thể làm giảm khả năng
thấm ướt và chảy của màng composite. Sulfate lignin là lignin có mức độ este hóa thấp
hơn trong số ba vật liệu thử nghiệm được đề cập ở trên; do đó, màng composite được
chuẩn bị bằng sulfat lignin làm nguyên liệu thô cho thấy thông lượng cao nhất. Để
kiểm tra thêm hiệu suất của màng, nó được sử dụng để lọc nước ngầm có chứa nồng
độ cao của florua, asen, canxi, natri và magiê. Kết quả cho thấy tỷ lệ loại bỏ màng tế
bào của các anion là 15–35%, và của các cation hóa trị một và cation hóa trị hai lần
lượt là 12–42% và 27–54%. Hơn nữa, các loại ion và chất hữu cơ trong nước ngầm
ảnh hưởng đến việc loại bỏ asen và florua bằng cách sử dụng màng lọc. Sụ hòa tan
celluloseza axit trong dimetylaxetamit / liti clorua và phản ứng với nó với lignin
proline, và điều chế màng cellulose / lignin bằng phương pháp tái sinh axeton, như
trong Kết quả thí nghiệm cho thấy màng được chuẩn bị cho thấy khả năng chống tia
cực tím cao. và màng cellulose chứa 2% lignin có tác dụng bảo vệ 100% chống lại
UV-B (280–320 nm) và hơn 90% chống lại UV-A (320–400 nm). Tuy nhiên, độ bền
kéo giảm. Vì vậy, làm thế nào để tăng tỷ lệ lignin dưới tiền đề duy trì hiệu suất tốt nhất
là điều đáng để khám phá. Do màu sắc đậm hơn của lignin, độ trong suốt của màng
cũng là một trong những chỉ số chính được khảo sát

Hình 2.5: Màng cellulose trong suốt với ít hơn 2% lignin liên kết hóa học có khả năng
hấp thụ và bảo vệ khỏi tia UV

23
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Hình 2.6: Sự tự liên kết của lignin và liên kết hydro giữa lignin và cellulose của
composite lignin-cellulose

Một nhà nghiên cứu đã sử dụng NaOH để xử lý các tinh thể nano cellulo (CNC), và
thêm lignin kiềm (AL) và lignin sunfat gỗ mềm (SKL) vào huyền phù CNC để chuẩn
bị màng chống tia cực tím có thể phân hủy sinh học. Kết quả cho thấy rằng việc bổ
sung NaOH làm tăng độ trong suốt và tính đồng nhất của màng CNC, và lignin được
biến tính bằng cách acetyl hóa để giảm màu sắc và cải thiện khả năng truyền ánh sáng
nhìn thấy của màng. Màng composite CNC / lignin là vật liệu màng phủ / màng phân
hủy sinh học, chi phí thấp có chức năng ngăn tia cực tím và phân cực quang học, có
thể được sử dụng trong kính râm, kính chắn gió xe hơi, cửa sổ nhà, kính áp tròng,
polyme nhạy cảm với tia cực tím và các khía cạnh khác. Việc kết hợp sắt, axit
polyacrylic (PAA) hoặc lignosulfonat với màng xenlulo trong chất lỏng ion axit axetic
1-ethyl-3-metylimidazole để thu được màng phức hợp. Lignosulfonate được thêm vào
màng cellulose để tăng điện tích âm và cản trở steric nhằm nâng cao hiệu suất chống rỉ
của màng composite. Khi lignosulfonate được chức năng hóa trên bề mặt của màng
NF270 thương mại, loại hoạt động chống hà tương tự cũng được quan sát thấy. Đối
với hai loại màng chức năng lignin này, sau nhiều chu kỳ ô nhiễm lặp đi lặp lại, khả
năng thu hồi lưu lượng nước cao tới 90%. Ngược lại, đối với màng không biến tính,
người ta quan sát thấy khả năng thu hồi lưu lượng nước cao tới 60%, cho thấy lignin
có thể giảm chi phí tạo màng và cũng có thể được sử dụng để xử lý nước thải, do đó
đạt được mục đích tái chế.

2.1.2) Màng polyme tự nhiên kết hợp cùng lignin

Thiên nhiên cung cấp nhiều sự lựa chọn về vật liệu để tổng hợp vật liệu màng sinh học
mới, bao gồm các nguồn tài nguyên tái tạo và phân hủy sinh học từ các ngành công
nghiệp lâm nghiệp, nông nghiệp và thực phẩm, ví dụ: tinh bột, chitosan / chitin,
gelatin, agar và dầu thực vật. Cấu tạo của chúng với các đặc tính chức năng khác nhau
và khả năng tương thích tốt có thể được kết hợp với lignin để phát triển các vật liệu giá
trị gia tăng thân thiện với môi trường

Tinh Bột

Tinh bột là một polyme cacbohydrat có thể phân hủy hoàn toàn, có nhiều trong các
polyme tự nhiên thu được từ các loại cây trồng như ngô, lúa mì và sắn. Việc chuyển
đổi tinh bột thành màng chi phí thấp cũng được quan tâm trong những năm gần đây;
tuy nhiên, tính nhạy cảm với nước của tinh bột làm giảm đáng kể tính ổn định vật lý và
24
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

độ bền cơ học của nó, điều này làm suy yếu các ứng dụng sau này của màng. Lignin là
một polyme kỵ nước thường được thêm vào ma trận tinh bột để tăng cường độ ổn định
nước và độ bền của màng tạo thành, đồng thời cung cấp cho chúng các đặc tính hóa lý
bổ sung . khả năng chống nước và độ bền cơ nhiệt, và

2.2: Ứng dụng màng lignin cho bao bì đóng gói sản phẩm

2.2.1. Chất chống ẩm

Việc chuyển đổi tinh bột thành màng chi phí thấp được quan tâm trong những năm gần
đây. Tuy nhiên, tính nhạy cảm với nước của tinh bột làm giảm đáng kể độ ổn định vật
lý và độ bền cơ học của nó, điều này làm giảm các ứng dụng sau này của màng. Lignin
là một polyme kỵ nước (do liên kết ngang của các polysaccharid có trong lignin)
thường được thêm vào tinh bột để tăng cường độ ổn định nước và độ bền của màng tạo
thành, cải thiện khả năng chống nước và độ bền cơ nhiệt, lignin có khối lượng phân tử
thấp có thể tăng cường khả năng tương thích giữa lignin và tinh bột. Lignin được thêm
vào tùy thuộc vào cấu trúc, phương pháp chiết xuất và nguồn gốc của nó để đạt được
sản phẩm tốt nhất. Khi thêm lignin có nhiều nhóm hydroxyl và khối lượng phân tử cao
sẽ làm tăng mật độ và độ cứng của màng tinh bột, tăng mô đun Young của màng
composite, cho phép chúng chịu được lực biến dạng lớn hơn.

Hình 2.7: Liên kết ngang và liên kết hydro có thể có giữa các phân tử tinh bột và
lignin.

Vì Borax được sử dụng trong công thức, nên có khả năng hình thành liên kết ngang
giữa tinh bột và lignin thông qua các nhóm hydroxyl của chúng là rất cao. Tính kỵ
nước của màng tinh bột-lignin càng lớn, được chứng minh bằng góc tiếp xúc với nước
cao hơn, cùng với khả năng hình thành liên kết ngang mạnh, có nghĩa là việc bổ sung
lignin làm tăng liên kết tinh bột-lignin và khả năng chống thấm nước của màng kết
dính. Với hàm lượng lignin thấp (<20% trọng lượng) làm gia tăng độ bền kéo của
màng hỗn hợp tinh bột-lignin . Tuy nhiên, khi sử dụng lượng lignin cao (> 20% trọng

25
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

lượng), cấu trúc màng chặt hơn do liên kết hydro giữa các phân tử cao dẫn đến giảm
độ bền kéo của màng tinh bột-lignin

2.2.2.Chất chống oxi hóa:

Hình 2.8: Sự phân bố ligin trước và sau khi xử lý đồng nhất


Lignin là một polyme thơm có cấu trúc hóa học phức tạp, chứa nhiều vòng thơm với
các nhóm chức hydroxyl và metoxyl. Do sự hiện diện của các nhóm chức này, phản
ứng lan truyền quá trình oxy hóa có thể được kết thúc bằng cách cho hydro. Lignin
đang được coi là chất chống oxy hóa tiềm năng vì các nhóm phenolic bị cản trở của
chúng có thể hoạt động như chất ổn định trong các phản ứng gây ra bởi oxy và các loại
phản ứng của nó, điều kiện làm chậm quá trình lão hóa của vật liệu tổng hợp và hệ
thống sinh học. Tùy thuộc vào nguồn, quá trình chế biến, quy chiết xuất khác nhau có
thể ảnh hưởng đến các đặc tính chống oxy hóa của lignin, ngay cả khi nó được thu
nhận từ cùng một nguyên liệu thô. Pan  và cộng sự.  (2006) đã phân tích tiềm năng
chống oxy hóa của 21 mẫu organosolv, lignin ethanol từ cây dương lai ( Populus nigra
x P. maximowiczii) trong các điều kiện chiết xuất khác nhau cho thấy rằng  lignin thu
được ở nhiệt độ cao sử dụng thời gian phản ứng dài và etanol pha loãng cho hoạt tính
chống oxy hóa cao. Những lignin này được đặc trưng bởi có nhiều nhóm hydroxyl
phenolic hơn, ít nhóm hydroxyl béo hơn, trọng lượng phân tử thấp và độ phân tán
hẹp.  Mặt khác, khối lượng phân tử cao, hàm lượng nhóm hydroxyl béo cao, tính
không đồng nhất và độ đa phân tán rộng ( M w / M n) có liên quan đến các tác động tiêu
cực trong hoạt động chống oxy hóa của lignin. Ngoài ra, sự hiện diện của carbohydrate
cũng có thể làm giảm hoạt động chống oxy hóa.

Các cơ chế oxi hóa khả thi được đề ra để giải thích hoạt động chống oxy hóa của
lignin: (1) lignin hoạt động như một chất tạo chelate, bằng cách loại bỏ các kim loại
của thuốc thử Fenton, (2) lignin hoạt động như một chất chống oxy hóa “tự sát”, chấp
nhận các gốc hydroxyl để ngăn chặn hoạt động của các gốc này trên các phân tử mục
tiêu khác, (lignin acts as a “suicide” antioxidant, accepting the hydroxyl radicals to
prevent the action of this radicals on other target molecules) hoặc (3) lignin ức chế các
enzym tham gia vào các con đường trao đổi chất có khả năng tạo ra các gốc tự do.
Nhiều cuộc điều tra đồng ý với ý kiến về việc lignin hoạt động như một chất diệt các
gốc tự do do sự hiện diện của các cấu trúc phenolic. Các nhóm hydroxyl của phenol có
26
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

thể quét các gốc peroxyl. Hơn nữa, phenol có khả năng khử hoặc chelate các ion hóa
trị hai, cần thiết cho một số phản ứng, và chúng cũng có thể làm gián đoạn các phản
ứng oxy hóa bằng cách chuyển nguyên tử hydro hoặc bằng cách chuyển điện tử với sự
hình thành cation gốc phenoxy, được khử hóa nhanh chóng và thuận nghịch để tạo
thành gốc phenoxy 

Vật liệu đóng gói được chế biến bằng chitin và chitosan là những ứng cử viên đầy hứa
hẹn như là lựa chọn thay thế cho bao bì nhựa hóa dầu vì chúng có khả năng tạo màng
tốt và đặc tính rào cản oxy lý tưởng. Những chất này sẽ cho phép chúng được ứng
dụng rộng rãi trong vật liệu đóng gói chức năng, kỹ thuật mô và xử lý nước do tính
tương thích sinh học tốt, khả năng phân hủy sinh học và không độc hại. Lignin, như
một polyme thơm, có thể tạo màng tổng hợp lignin/chitin hoặc chitosan với các đặc
tính chống oxy hóa cao hơn, kháng khuẩn và chống nước. Hơn nữa, sự tồn tại của các
tương tác bề mặt mạnh mẽ giữa chitosan và lignin (dưới 20% trọng lượng) đã cải thiện
các đặc tính cơ học của màng chitosan. Sự phân tán của lignin trong nền polyme có thể
cải thiện các tính chất hóa lý của vật liệu phim. Sự đồng nhất của lignin, chẳng hạn
như sản xuất các hạt lignin, rõ ràng là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân bố đồng nhất
của nó trong ma trận màng chitosan (Hình 7 cho thấy sự phân bố của lignin trước và
sau khi xử lý đồng nhất), dẫn đến các màng phức hợp tăng tính kỵ nước bề mặt và loại
bỏ gốc hoạt động. Điều này có thể là do nhiều nhóm chức kỵ nước hơn di chuyển lên
bề mặt thay vì tập hợp bên trong chất nền. Gần đây, chức năng của chitosan với lignin
và các monome của nó đã được nghiên cứu trong một dung môi thân thiện với môi
trường và vật liệu màng mỏng được chế tạo có thể được ứng dụng như bao bì hoặc lớp
phủ hoạt tính. Axit phenolic (axit coumaric, ferulic và sinapic) đã được ghép thành
công vào chitosan, nhưng chỉ thu được hoạt tính chống oxy hóa trung gian trong màng
ghép lignin-chitosan (hình 9). Hơn nữa, hoạt động chống oxy hóa của các monome
lignin có liên quan đáng kể đến việc loại bỏ các gốc rễ của chúng hoạt động. Do đó,
hoạt động chống oxy hóa của lignin-chitosan. Màng composite có thể được tăng lên
bằng cách chọn các phân đoạn lignin có hàm lượng axit sinapic cao và hàm lượng axit
coumaric thấp. Điều này có thể hướng dẫn việc xác định các nguồn lignin thích hợp và
quy trình phân lập để tạo ra các màng chức năng bảo vệ các sản phẩm nhạy cảm khỏi
quá trình oxy hóa.

27
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Hình 2.9: Ghép hợp chất phenolic lên chitosan thông qua phương pháp ghép gốc tự
do.

2.2.3.Chất hấp thụ ion kim loại

Lignin và kitin cũng có thể đóng vai trò là chất hấp phụ ion kim loại cho nước thải
hoạt động. Do đó, hoạt động chống oxy hóa của lignin-chitosan xử lý, nhưng hệ thống
polyme tự nhiên này hiếm khi được nghiên cứu để cấu tạo vật liệu màng cho sự hấp
phụ các ion kim loại nặng. So với các chất hấp phụ dạng bột được điều chế từ lignin và
kitin, các màng mới được đúc từ dung môi màu xanh lá cây và có nguồn gốc sinh học
(chất lỏng ion và γ-valerolactone) có khả năng hấp phụ kim loại cao (tối đa 84% trọng
lượng đối với Fe (III) trong vòng 48 giờ). Chúng cũng ổn định, có thể tái chế và trải
qua quá trình hấp thụ / giải hấp thụ dễ dàng (Hình 10). Mô hình động học chỉ ra rằng
hấp phụ và trao đổi ion chịu trách nhiệm liên kết các ion kim loại trong màng
composite. Đối với màng composite chitin hoặc chitosan có nguồn gốc lignin, có rất
nhiều nghiên cứu để phát triển và tối ưu hóa các vật liệu đóng gói chức năng cho
ngành thực phẩm.

Hình 2.10: Quy trình chuẩn bị màng lignin/chitin từ Dung dịch BmimOAc-GVL và
các đường cong hấp phụ đa dạng đối với Fe (III)

2.2.4.Chất chống UV

Gelatin là một polypeptit thủy phân của collagen có cấu trúc xoắn ba bên phải có thể
được sử dụng làm vật liệu che chắn tia cực tím do hàm lượng cao các axit amin thơm.
Gelatin đã phát triển từ keo có nguồn gốc tự nhiên thành một vật liệu phổ biến cho sản
xuất thực phẩm và y tế, phim chụp ảnh, biogel tiên tiến và ma trận hỗ trợ. Màng chắn
tia UV gelatin trong suốt với các đặc tính cơ học và kháng khuẩn tuyệt vời đã được
xây dựng trong IL sinh học (choline citrate) được thể hiện ở hình 9.

28
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

Hình 2.11: Cầu nối giữa Gelatin và lignin thông qua liên kết hydro
Alkali lignin trong màng biến tính làm giảm tỷ lệ ôxy hóa xuống 75% trong khả năng
ngăn chặn tia cực tím và hoạt động của quá trình loại bỏ tận gốc (Zadeh và cộng sự
2018). Các cấu trúc phụ lignin phenol góp phần vào hoạt động chống oxy hóa, và đặc
tính ngăn tia UV từ thấp đến cao là nhóm hydroxyl p-hydroxyphenyl phenolic>
guaiacyl> syringyl. Syringyl phenolic đơn vị có các hoạt động chống oxy hóa cao nhất
và các đặc tính che chắn tia cực tím vì nó chứa Lignin có tiềm năng như một chất phụ
gia chống oxy hóa tự nhiên trong bao bì thực phẩm do nó 3.3. Đóng gói hoạt động các
nhóm methoxyl bổ sung (Guo et al. 2019).
Màng linh hoạt và có thể phân hủy sinh học chặn tia UV, dễ dàng tổng hợp và có thể
mở rộng quy mô cho sản xuất công nghiệp. Một số màng composite agar lignin liên
quan đến tính chất ngăn hơi nước, cơ học, ngăn tia UV và kháng khuẩn , chỉ ra rằng
màng agar-lignin có thể được sử dụng làm vật liệu đóng gói thực phẩm để đảm bảo an
toàn thực phẩm và thời hạn sử dụng phù hợp. Lignin có cấu trúc thơm và rất dễ phản
ứng do có nhiều nhóm chức năng, có thể tương tác với nhiều polyme khác và tạo cho
nó hiệu suất cơ học mong muốn.

PVA là một polyme phân cực cao và tan trong nước đã thu hút sự quan tâm rộng rãi và
đã được sử dụng để điều chế vật liệu polyme xanh do khả năng phân hủy sinh học
tuyệt vời, không độc, tương hợp sinh học và giá thành tương đối thấp. Trong số tất cả
các polyme vinyl, chỉ có PVA là có thể phân hủy sinh học bởi vi sinh vật, nhưng tốc
độ phân hủy sinh học của nó quá chậm đối với một số ứng dụng thực tế trong điều
kiện môi trường. Việc kết hợp một lượng lignin thích hợp vào chất nền là một trong
những cách tiếp cận hiệu quả nhất để tăng cường khả năng phân hủy của nó và Các
tính chất cơ học. Trong hệ thống PVA và polyme lignin, tương tác mạnh giữa các phân
tử (chẳng hạn như liên kết hydro) xảy ra giữa các nhóm hydroxyl của lignin và PVA,
điều này củng cố độ bền cơ học của màng composite. Tương tự như các vật liệu phim
có nguồn gốc lignin khác, Màng tổng hợp PVA lignin (hoặc các dẫn xuất của lignin)
29
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo
Lignin based biocoposite for food handling and packaging

cũng thể hiện đặc tính chống tia cực tím và chống oxy hóa rộng rãi do các nhóm chức
năng trong polyme lignin.

2.2.5. Chất kháng khuẩn:.

Hình 2.12: Hiệu suất kháng


khuẩn của màng CWNF.

Lignin trong chất nền hình thành các tương tác mạnh mẽ với chitosan và cũng tạo cho
màng composite một sức mạnh đáng kể và các hoạt động kháng khuẩn đối với các
mầm bệnh thực phẩm. Các monome lignin được ghép vào chitosan thông qua các
nhóm hydroxyl và các nhóm amin của chúng tạo ra một màng mỏng được chức năng
hóa có thể dùng làm vật liệu đóng gói hoặc làm lớp phủ

30
SVTH: Hồ Tất Thị Vi GVHD: Ts. Phạm Ngọc Tùng
Nguyễn Chí Bảo

You might also like