You are on page 1of 32

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TPHCM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tên đề tài: TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC.
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG THANH
NIÊN HIỆN NAY, LIÊN HỆ BẢN THÂN

Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm


1890 – 2 tháng 9 năm 1969),
tên khai sinh là Nguyễn Sinh
Cung là một nhà cách
mạng và chính
khách người Việt Nam. Ông là
người sáng lập ra Đảng Cộng
sản Việt Nam, từng là Thủ
tướng Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trong những năm 1945–
1955 và là Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm
1951 đến khi qua đời.

Giảng viên giảng dạy: Thầy Cao Đức Sáu


Họ và tên SV: Phạm Lê Mẫn Nghi
Lớp học phần: Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Mã số sinh viên: 20510100319

TP.HCM, ngày 25 tháng 8 năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Họ và tên sinh viên: Phạm Lê Mẫn Nghi


Mã số sinh viên: 20510100319
Mã lớp học phần: 0000150

ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN


Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm
GHI BẰNG SỐ GHI BẰNG CHỮ thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm


thi thứ 2

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 25 tháng 8 năm 2021


Sinh viên nộp bài
Ký tên
Mục lục
I. Mở đầu 1
II. Nội dung 1
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức 1
1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng 1
a. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người 1
cách mạng
b. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội 3
1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng 4
a.Trung với nước, hiếu với dân 4
b.Cần, kiệm, liêm, chí, chí công vô tư 5
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa 7
d. Tinh thần quốc tế trong sáng 8
1.3 Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng 9
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức 9
b. Xây đi đôi với chống 11
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời 12
2. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp nâng cao đạo đức cách 13
mạng cho thanh niên Việt Nam hiện nay
2.1 Thực trang 13
a.Về mặt tích cực 13
b.Về mặt tiêu cực 14
2.2 Nguyên nhân 17
a.Nguyên nhân khách quan 17
b.Nguyên nhân chủ quan 19
2.3 Giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho thanh niên Việt Nam 19
hiện nay
a.Phương hướng thứ nhất 20
b. Phương hướng thứ hai 20
i.Giáo dục đạo đức thông qua việc học tập 20
ii. Giáo dục đạo đức phải thông qua hình thức hoạt động 21
iii. Xây dựng môi trường giáo dục 22
iv. Giáo dục đạo đức cách mạng là quá trình kết hợp giữa giáo dục 23
và tự giáo dục
3 Liên hệ bản thân 24
a.Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường của sinh viên 24
b. Học tập và làm theo lời Bác 24
c. Không ngừng học tập rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, 25
nêu cao tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm
III. Kết luận 25
IV. Tài liệu tham khảo 26
I.Mở đầu

Mỗi xã hội hình thành và phát triển đều dựa trên một nền tảng nhất định cả về vật
chất và tinh thần, kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội. Sự phát triển của xã hội Việt
Nam cũng vậy, nó đòi hỏi phải có nền tảng vật chất và tinh thần cho sự phát triển lâu
dài, bền vững, trong đó không thể thiếu lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, được hình thành thông qua vai trò chủ động, tự giác của con người. Do
đó, việc hình thành một nền đạo đức - nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vững
của xã hội Việt Nam trong hiện tại và tương lai, phải có định hướng, phù hợp với
thực tiễn phát triển của dân tộc.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, chứa đựng những hạt nhân hợp lý, chắt lọc từ tinh hoa giá trị đạo đức
nhân loại, phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, hướng tới
những giá trị mang tầm thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh, là hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt nam. Một trong những nét đặc sắc
nổi bật trong tư tưởng của Người là vấn đề đạo đức của người cách mạng. Vì vậy, rèn
luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhiệm vụ cấp
bách, trước mắt, cũng như lâu dài trong tương lai của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân.

II.Nội dung

1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

1.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng

a. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng

- Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng thế giới
bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục, thực hành đạo đức. Khi đánh giá vai trò của
đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nêu rõ đạo đức là nguồn nuôi
dưỡng và phát triển con người. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định đạo đức là gốc, là
nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Người coi đạo
đức rất quan trọng như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối. Trong tác phẩm
Sửa đổi lối làm việc (1947), Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không Có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
1
được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một
công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Hồ Chí
Minh viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức
tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi đươc xa Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”

- Người chỉ rõ, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục, thì cần nhớ
rằng: “Trước mặt quân chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chủ quý mến những người có tư cách, đạo đức”.

- Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc,
phẩm chất mỗi con người. Trong bài Người cán bộ mạng (1955), Hồ Chí Minh yêu
cầu “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng.... Mọi việc thành hay bại,
chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”. Bởi vì có đạo
đức cách mạng trong sáng mới làm được những việc cao cả, vẻ vang. Người quan
niệm, “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán.
Cán bộ lấy đạo đức làm cốt cán”. Theo Hồ Chí Minh, “Đại đa số chiến sĩ cách mạng
là người có đạo đức: Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày
thường thì làm gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của công.... Đạo đức ấy
có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục
thuần phong”. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người
vững vàng trong mọi thử thách. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành công
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”.

- Hồ Chí Minh thường nhắc lại tinh thần của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải
tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong Di chúc,
Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thẩm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”. “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
2
nghĩa xã hội vừa “'hồng” vừa “chuyên””. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.

- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả
thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng,
gắn đức với tài, lời nói đi đối với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói:
“Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất
mà do ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô
trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.

- Đức và tài phải là những phẩm chất thống nhất của con người. Nếu đạo đức
là tiêu chuẩn cho mục đích hành động thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó.
Vì vậy, con người cần có cả đức và tài, nếu thiếu tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng
thiếu đạo đức thì vô dụng, thậm chí có hại. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
đức và tài, hồng và chuyên,phẩm chất và năng lực phải thống nhất làm một. Trong
đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Người đòi hỏi tài năng phải gắn
chặt và đặt vững nền tảng đạo đức. Hồ Chí Minh thường khuyên: “Dạy cũng như học
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan
trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”

- Vai trò của đạo đức còn thể hiện là thước đo lòng cao thượng của con người.
Trong bài Đạo đức cách mạng (1955), Hồ Chí Minh viết: “Tuy năng lực và công việc
của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được
đạo đức đều là người cao thượng”. Thực hành tốt đạo đưc cá nhân không chỉ có tác
dụng tôn vinh nâng cao giá trị của mình mà còn tạo ra sức mạnh nội sinh giúp ta vượt
qua mọi thử thách.

- Hồ Chí Minh hết sức quan tâm giáo dục toàn diện cho các em học sinh, sinh
viên cả “Đức, Trí, Thể, Mỹ”. Trong đó, đức là gốc, là trước hết; tài là cực kỳ quan
trọng, không có tài thì không xây dựng, phát triển được đất nước. Đức bao gồm nếp
ăn ở, sinh hoạt hằng ngày, trước hết là với gia đình, anh em, bạn bè, rộng ra là với
quốc gia, dân tộc; học để làm việc, làm người, làm cán bộ.

b. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp đẫn của chủ nghĩa xã hội

- Hồ Chí Minh cho rằng, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở mức
sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do, giải phóng, mà trước hết là ở những giá
3
trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương
sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thành hiện
thực.

- Trong bài xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội (1961), Người
viết: “Nhà nước ta ngày nay là tất cả những người lao động. Vậy công nhân, nông
dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: Hiện nay, nhân dân lao động ta là những
người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho giai cấp bóc lột
như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời
sống tự do, hạnh phúc cho minh. Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của
tất cả những của cải vật chất và văn hoá, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Bởi
vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người
vì mình”. Người nói rõ: “Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo. Khác hẳn với trước
kia, công nhân bây giờ là người chủ đất nước, chủ xã hội, chủ cuộc sống. Bởi vậy
mọi người đều phải thấm nhuần sâu sắc ý thức làm chủ tập thể và đạo đức cách mạng
“mình vì mọi người”.

- Hồ Chí Minh quan niệm, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành
lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược
thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ
nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.

- Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên
cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt hàng nghìn năm lịch sử. Tấm gương
đạo đức và nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với
nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Tấm gương sáng của Người từ lâu đã là
nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân Việt Nam và nhân loại
tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội,

1.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

a. Trung với nước, hiếu với dân

- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất
và chi phối các phẩm chất khác.

4
- Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo
đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng
là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này được
Hồ Chí Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với
dân”, đã tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. Người nới:
“Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên mời”. Đầu năm 1946,
Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay,
thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với
đồng bào”.

- Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh không những kế
thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của
truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân... Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng và
Chính phủ là “đầy tớ nhân dân" chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ
nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước; rất ít
lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy, điều này càng làm cho tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Thư gửi thanh niên (1965), Người viết: “Phải
luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Luận
điểm đó của Hồ Chí Minh vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị -
đạo đức cho mỗi người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước
đây, hôm nay, mà còn lâu dài về sau nữa.

- Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với
nước là phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho
Đảng, cho cách mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh” Hiếu với dân là phải
thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân, lấy dân
làm gốc, “hết lòng hét sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách
mạng” ra lệnh ra oai"'.

5
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì
vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh
ngay từ cuốn sách Đường cách mệnh đến bản Di chúc cuối đời.

- Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. Với ý nghĩa như vậy cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung
với nước, hiếu với dân”.

- “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong
đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù
hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.

- “Cần tức là siêng năng; chăm chỉ, cố gắng dẻo dại”. “Muốn cho chữ cần có
nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch chữ mọi công việc”2. Cần tức là lao động cần
cù siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh
thần tự lực cánh sinh, không lười biếng... Phải thấy rõ, "Lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phức của chúng ta”.

- “Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi”. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén
lu bù. “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng
không nên tiêu. Khi có việc Đảng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù
bao nhiêu đồng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc
đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên
quyết không xa xỉ”“Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người”.
Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà”.

- Liêm ‘là trong sạch, không tham lam”; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng
giữ gìn của công, của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
6
đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.
“Chữ Liêm phải đi đối với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi với chữ cần. Có
Kiệm mới Liêm được”.

- “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, thẳng thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ; “Đối với
mình - Chớ tự kiêu, tự đại”. “Đối với người.... Chớ ninh hót người trên. Chớ xem
khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn,... Phải thực hành chữ Bác –
Ái” “Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”; “việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.

- Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành
trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức, những
người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần,
kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.

- Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công
bằng, không chút thiên tự, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân
dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem
lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng
nghĩ đến mình trước,... khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”.

- Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Người giải
thích: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp
thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có
dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước,
để làm kiểu mẫu cho dân”.

- Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân
tộc giàu về ậật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tếến bộ. Cần, kiệm,
liêm chính còn là nền tảng của đời sống mới của các phong trào thi đua yêu nước. Để
trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm
chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người,

7
giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất” “Thiếu một đức, thì không thành
người”

c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa

- Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhnâ
đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng với
việc thể hiện nghiêm chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã
xác định tình thương yêu con người là một những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

- Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm
cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương dân, yêu thương con người mà Hồ
Chí Minh sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc,
tự do hạnh phúc cho con người.

- Tinh yuê thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết
dành cho những người nghèo kổổ, những người bị mất quyền, những người bị áp
bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có tình
yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

- Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư
tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh,đã được thể hiện ở sự ham muốn
tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây là yếu
tố cốt lõi đầu tiền tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý
tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn của Người.

- Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập
trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè,
đồng chí, anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó đòi hỏi mỗi
người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha
đối với người khác; phải có thái độ tôn trọng những quyền của con người, tạo điều
kiện cho con người phát huy tài năng, nâng con người lên, kể cả những người nhất
thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ “dĩ hòa vi quý”, không phải hạ thấp, càng
không phải vùi dập con người. Bằng hành động và ứng xử của mình, Hồ Chí Minh
truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là phải biết yêu thương và sống với
8
nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống
với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa
thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Trong Di chúc, Người viết: “Đầu
tiên là công việc đối với con người,... Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

d. Tinh thần quốc tế trong sáng

- Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc.

- Hồ Chí Minh la tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu
và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các
dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi
sự chia rẽ, hận thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền, Hồ Chí Minh nêu cao
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu gọi phải tăng cường
đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đổi với các cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tể trong sáng:

“Quan sơn muôn dặm một nhà,

Bốn phương vô sản đều là anh em!”

- Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây
đắp tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo
ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền
văn hóa hòa bình cho nhân loại; đó là di sản thời đại vô giá của Người về hòa bình,
hữu nghị, hợp tác phát triển giữa các dân tộc.

1.3 Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng

a. Nói đi đối với làm, nêu gương về đạo đức

- Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được
Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc

9
nhất trong xây dựng nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, nó đã trở thành phương pháp luận trong cuộc sống và là nền tảng
triết lý sống hết sức bình dị mà vô cùng sâu sắc của Người. Trong tác phẩm Đường
cách mệnh, khi đề cập tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí Minh yêu cầu: ‘‘Nói thì
phải làm”. Trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Người viết: “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong suốt cuộc đời mình. Hồ
Chí Minh đã giáo dục mọi người và chính Người đã thực hiện điều đó một cách
nghiêm túc và đầy đủ nhất.

- Hồ Chí Minh là tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi đối với việc
làm. “Nói đi đối với làm” là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Nói đi đối với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo,
nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi Cách mạng Tháng
Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán
bộ “vác mặt làm quan cách mạng”. Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy
sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên
“Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói
“phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái
ngược với phương châm, chính sách của Đảng và Chính phủ”, làm tổn hại đến uy tín
của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.

- Nêu gương về đao đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương
Đông. Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành
nền tảng tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên: “Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Sự gương
mẫu của cán bộ, đảng viên trong lời nói và việc làm không chỉ là cách thức để giáo
dục đạo đức cho quần chúng, mà còn là một phương pháp để tự giáo dục bản thân
mình. Lời nói đi đối với việc làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí
Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với
họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý
nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ
bằng lý luận cách mạng tiền phong mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của
mình.
10
- Theo Hồ Chí Minh, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”
Đối với cán bộ, đảng viên, Người nêu luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng
chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước”. Người nói; “Lấy gương người tốt, việc tốt
để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng con
người mới, cuộc sống mới”. Muốn làm được như vậy, phải chú ý phát hiện, xây dựng
những điển hình người ốốt, việc tốt” rất gần gũi trong ờời thường, trong các lĩnh vực
lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập, nghiên cứu... bởi vì, theo Người: ‘Từng giọt
nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết
bao nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả”. Không nhận thức được điều này
là “chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc”. Theo Hồ Chí Minh, “Người tốt, việc tốt nhiều
lắm. Ở đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.

- Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn,
vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đúc trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của
mỗi người và của toàn xã hội.

b. Xây đi đôi với chống

- Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đối với chống là đòi hỏi của nền
đạo đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng;
xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống các biểu
hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.

- Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Trong đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức
và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những
con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người. Theo Hồ Chí Minh, “Không có
ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay”. Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực
đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đối với chống, muốn xây phải chống,
chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính.

- Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo
đức lành mạnh ở mỗi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo

11
đức của mình như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc sự trau dồi đạo đức
cách mạng là việc làm “sung sướng và vẻ vang nhất trên đời”. Tiếp nhận sự giáo dục
đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi
đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn.

- Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải được tiến hành bằng việc
giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Vệệc giáo dục đạo đức
mới phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng
lứa tuổi ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải
khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Hồ Chí Minh quan niệm,
“Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất ầần đi, đó là thái
độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm chất đạo đức cao
quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức, trước hết là đối với đảng viên, cán bộ.

- Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức
mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên Cơ sở kiên trì mục tiêu cốống chủ
nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập tục lạc hậu, phải loạị trừ chủ nghĩa cá
nhân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng khó khăn, lâu dài, gian khổ, sâu sắc giữa
tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Muốn giành được thắng lợi
trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền,
vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh,
trong sạch về đạo đức; phải chú trọng kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường tính
nghiêm minh của pháp luật.

- Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và hàng triệu, hàng triệu con
người, trước tiên phải chăm lo bồi dưỡng những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức mới
ngay từ trong gia đình, đến nhà trường và xã hội; chống lại cái xấu, cái sai, cái vô
đạo đức. Trong bài Chống quan liêu, tham ô, lãng phí (1952), Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính”. Nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn là chủ nghĩa cá nhân. Trong bài Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cả nhân (1969), Người viết: “do cá nhân chủ
nghĩa mà phạm nhiều sai lầm... Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng
cao đạo đức cách mạng, ồồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết tính tổ chức

12
và tính kỷ luật”. Tuy nhiên, Người lưu ý: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không
phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân””.

c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời

- Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ,
gian khổ. Một nền đạo đức mới có thể xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức
của mỗi người. Hồ Chí Minh hằng quan tâm phải làm thế nào để mỗi người tự nhận
thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc phải kiên trì, thường xuyên,
liên tục. Người nhắc lại luận điểm của Khổng Tử “chính tâm tư thân”; “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”, và nêu rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải
trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi người. Bồi
dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở
thành con người mới không phải là một việc dễ dàng... Dù khó khăn gian khổ, nhưng
muốn cải tạo thì nhất định thành công".

- Đạo đức cách mạng thể hiện trong hành động của người Việt Nam yêu nước
vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo
đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của nó. Do vậy, đạo đức cách mạng đòi
hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua các hoạt động thực tiễn trong công
việc, trong các mối quan hệ của mình; phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối,
huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ
cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện liên tục, tu
dưỡng suốt đời, trong đó, thời tuổi trẻ đặc biệt quan trọng. Đạo đức không phải là cái
gì đó có tính “nhất thành bất biến” mà nó được hình thành, phát triển do môi trường
giáo dục, do sự rèn luyện, phấn đấu và tu dưỡng bản thân của mỗi người. Từ thực
tiễn, Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do vậy Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi
người phải thường xuyên được giáo dục và tư giáo dục về mặt đạo đức. Người chỉ rõ,
“Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng
ta”. Thục hiện việc này phải kiên trì, bền bỉ. Nếu không kiên trì rèn luyện, thì ở thời
kỳ trước là người có công, nhưng thời kỳ sau có thể lại là người có tội, lúc trẻ giữ
được đạo đức nhưng lúc già là thoái hóa biến chất, hư hỏng. Từ rất sớm, Người đã
lưu ý “Một dân tộc, một đảng và một con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
13
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

2. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho thanh
niên Việt Nam hiện nay

2.1 Thực trạng

a. Về mặt tích cực:

- Ngày nay dưới tác động của nền kinh tế sản xuất vận hành theo cơ chế thị
trường và các quan hệ xã hội mới cũng như các trào lưu tư tưởng và sự biến động
trên thế giới ,tình hình thanh niên ,sinh viên có những biến động mạnh mẽ . Thanh
niên ,sinh viên ngày nay không còn là lớp người thu động và dễ điều khiển dạy bảo
như trước đây . Thanh niên , sinh viên họ tự ý thức mình trong mối quan hệ xã hội và
những người xung quanh cùng thế hệ .Họ không cam chịu với hoàn cảnh hiện tại , họ
rất thực tế và nhanh nhậy hơn nhiều so với lớp người bằng tuổi họ trong những thập
niên trước .

- Không chỉ thanh niên ,sinh viên hiện nay rất năng động nhậy bén với cuộc
sống và công việc mà bên cạnh đó họ vẫn không ngừng tiếp thu và gìn giữ những
phẩm chất truyền thống tốt đẹp – Chăm chỉ kiên trì và nỗ lực .

- Hầu hết thanh niên đều khẳng định đường lối kinh tế và mở rộng giao lưu
quốc tế “Làm bạn với tất cả các nước “ Là hoàn toàn đúng và cần thiết phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh kinh tế và xu thế của thời đại ngày nay . Thanh niên , sinh viên
cũng rất quan tâm đến vấn đề dân chủ ,công bằng xã hội và biến động chính trị trên
thế giới . Họ lạc quan tin tưởng hơn vào cuộc sống ,tích cực hơn trong việc học tập
tiếng nước ngoài và những ngành nghề hiện đại như tin học ,điện tử , quản lý doanh
nghiệp . Nhưng một trong những nhu cầu hiên nay của sinh viên là mức sống đước
đảm bảo để yên tâm học tập. Hiện nay mức sống của họ dựa vào gia đình là chủ
yếu , một số được sự chu cấp của nhà nước và một số dựa vào bản thân họ .Một số
sinh viên ngoài giờ học tập đã cố gắng tìm một số việc như gia sư ,tiếp thị để tăng
thêm thu nhập.Điều đó chứng tỏ rằng thanh niên ngày nay đã nhận thức đúng đắn
“Lao động là vinh quang” Họ đã có sự tự lập ,trưởng thành ,vừa chứng tỏ bản lĩnh
giỏi giang linh hoạt của thanh niên, sinh viên ta.Trong hoàn cảnh mới việc học tập
của sinh viên gặp không ít khó khăn có thanh niên,sinh viên phải bỏ học vì gia đình
14
không có đủ tiền đóng học phí mua sách vở và các tài liệu khác đặc biệt là các gia
đình nông thôn, cán bộ công nhân chức thấp .

- Sinh viên hiên nay rất ham học, ham hiểu biết vì thế họ đã đạt được những
thành công lớn trong mọi lĩnh vực trong nước và quốc tế.

- Thêm vào đó ,hiện nay cứ mỗi dịp hè đến , phong trào “Tuổi trể làm xanh
những mùa hè “ Lại bùng dậy , tràn đến những vùng nông thôn ,xa xôi hẻo lánh đem
lại ánh sáng văn minh cho những đứa trẻ nghèo đói và cho cả lớp thanh niên nông
thôn. Điều đó phản ánh sự kế tiếp truyền thống “Lá lành đùm lá rách “của thanh niên
và sinh viên ngày nay.

b.Về mặt tiêu cực :

- Trong thập kỷ này ,đặc biệt là những năm gần đây chất lượng đạo đức của sinh
viên xuống cấp nghiêm trọng ,một số khá đông thanh niên ,sinh viên chưa vững lập
trường của thế giới quan duy vật biện chứng để nhân thức và hành động . Họ rơi vào
quan điểm định mệnh mê tín dị đoan,sự trông chờ vào may rủi,sự tin tưởng theo
tướng số, bói toán, cúng lễ. Họ đã không khẳng định được những vấn đề có tính quy
luật, họ nhầm giữa tự do và tất yếu, giữa ngẫu nhiên và tất nhiên. Chính vì vậy mà
chất lượng học tập, lối sống, suy nghĩ và hành động đang bị xuống cấp nghiêm trọng.

*Về học tập :

- Với khả năng lĩnh hội trí thức, ở trường đại học hoạt động học tập là hoạt động
chủ yếu nhất của sinh viên . Phần lớn xác định động cơ thi vào trường một cách đúng
đắn.

Thì đáng lí ra ,tất yếu sẽ dẫn đến sự nhận thức đúng đắn về học tập , tích cực và tự giác
học tập . Song thực tế lại không như vậy sinh viên tự đánh giá thái độ học tập của mình
như sau:

o Tích cực học tập :15,2%.

o Bình thường : 74,8%.

o Không tích cực :10%.

- Từ chỗ tinh thần học tập như trên đa số sinh viên có tâm lý chán nản, chay
lười học tập, ý thức học tập trên lớp cũng giảm sút.

o Đi học đều :45%.


15
o Đi học đúng giờ :40%.

o Còn lại đi học muộn về sớm :25%.

o Số sinh viên nghỉ học không lý do:35%.

- Và 60% ghi chép bài đầy đủ ,25%không ghi chép bài đầy đủ ,không chấp
hành nội quy lớp học ,chỉ học tiết thứ nhất ,tiết thứ hai chỉ còn lại 30% sinh viên tiếp
tục nghe giảng.

- Với điều kiền hiện nay, cơ sở vật chất của trường học thiếu thốn trang thiết
bị kỹ thuật, sách giáo khoa, tài liệu không đáp ứng nhu cầu dạy và học ,mà ý thức
học tập của thanh niên, sinh viên như vậy là điều đáng lo ngại, chắc rằng chất lượng
sẽ không đảm bảo , có ảnh hưởng xấu tới tương lai của họ .

- Về động lực cách thức học tập, tìm hiểu về vấn đề này, nhiều ý kiến cho biết
số thanh niên, sinh viên có ý thức học tập, có động lực, có định mức đúng đắn và có
chất lượng chiếm rất ít (khoảng 20%). Còn số còn lại thì Sao? Một bộ phận hoàn toàn
không học và một phần lớn nằm trong thang học đối phó tuy là vẫn tham gia học tập
tích cực ,song khi vào thực tế thì không hiểu vấn đề …

- Trong thi cử, một điều đáng buồn do thanh niên sinh viên hiện nay đó là
phần lớn thanh niên, sinh viên bước vào thi đều mang tư tưởng dùng tài liệu để sao
chép , quay cóp , trao đổi …Kèm theo đó là những kiểu cách sử dụng tài liệu “tinh
vi” ,cán bộ coi thi rất khó giám sát .Hiện tượng lừa dối thầy cô trong thi cử cũng
không ít. Những biểu hiện tiêu cực như vậy của thanh niên ,sinh viên tất yếu dẫn đến
kết quả của học tập không hoàn toàn phản ánh đúng thực chất học tập của họ chính
điều này đã che dấu đi hiện tượng tiêu cực của sinh viên trong học tập .Nó hình thành
trong tư tưởng sinh viên sự ỷ lại trông chờ ,kèm theo đó những hoạt động thiếu nhân
cách đạo đức .

* Lối sống, suy nghĩ và hành động:

- Sự phát triển của KHKT ,cuộc sống hiện đại khá xa 5-10 năm trước những
nhu cầu hứng thú tham gia vào các loại dịch vụ văn hoá ,thể thao du lịch các kiểu
“modern”sẽ càng thêm hớp dẫn ,cuốn rũ tuổi trẻ , kiến cho thanh niên ,sinh viên phải
cân nhắc lựa chọn những hoạt động mà mình yêu thích phù hợp với quỹ thời gian
hiện có .

16
- Vấn đề biết sử dụng thời gian nhàn rỗi sẽ có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển cân đối ,hài hoà nhân cách của thanh niên sinh viên. Đây là điều rất hợp lý
và có ích cho họ.Nó có tầm quan trọng trong việc hình thành phong cách sống của
thanh niên sinh viên. Không ít những sinh viên đã sử dụng thời gian nhàn rỗi không
hợp lý . Họ đã vô hiệu hoá quỹ thời gian đó bằng những việc làm vô ích đó là :

- La cà , quanh quẩn nơi quán xá ,có tiền thì mua không có thì nợ, chờ ngày có
tiền thì trả .từ đó tụ họp thành hội đánh tú , cứ thế ngày này đến tháng khác tạo cho
thanh niên, sinh viên cảm thấy buồn chán, tẻ nhạt, ngại sự thật, thiếu niềm tin .

- Cao hơn nữa những thanh niên ,sinh viên tụ tập nhau lại để tổ chức các trò
chơi không lành mạnh như : đánh bài,cờ bạc có thưởng phạt rồi mức độ thưởng phạt
cao dần lên .Nguy hại hơn là hiện nay trình trạng đánh bạc trong sinh viên khá phổ
biến ,với hình thức sát phạt rất cao .Từ đó gây ra nhưng mâu thuẫn nội bộ rồi gây gổ
đánh nhau gây thương tích .những kẻ thua cuộc không còn tiền trả thì có âm mưu lấy
trộm tiền , tài sản trấn lột người khác .Có nhiều sinh viên vì quá thiếu thốn về mặt
kinh tế đã tìm cách lấy chìa khoá xe và vé giửi xe máy của bạn đựng trong túi ,cặp
sách của họ sau đó dắt xe ra ngang nhiên .

- Một số hiện tượng đáng chú ý nữa là vấn đề nghiện ma tuý và những việc
làm trái pháp luật .

- Điều mà không chỉ nghành giáo dục mà cả toàn xã hội đang lo lắng cho thế
hệ thanh niên sinh viên – những người trực tiếp tham gia vào công cuộc đổi mới của
đất nước. Đó là tư tưởng suy nghĩ của họ về sự phát triển của xã hội,về lý tưởng của
Đảng của Nhà nước về chế độ chủ xã hội ở nước ta hiện nay đang rất mập mờ . Qua
điều tra của một số nhà làm công tác xã hội cho biết khoảng 15 –20% tin vào lý
tưởng của Đảng cộng sản (gồm những thanh niên,sinh viên tiên tiến ,tích cực học tập
,tích cực tham gia vào hoạt động chính trị- xã hội).Còn lại đa số ở trang thái mờ nhạt
nửa tin nửa ngờ (thiếu niềm tin)51% và ít chịu hy sinh , đòi hưởng thụ nhiều 32%.

- Ngoài ra trong rất nhiều sinh viên có những tư tưởng xấu hẹp hòi ích kỷ.
Sống vì mục đích hiện tại chứ không biết nghĩ đến tương lai ,tư tưởng xấu tách rời
khỏi cộng đồng , sống vì mục đích cá nhân .Với những tư tưởng như thế làm cho
thanh niên sinh viên không thể tiến bộ được ,mà nó chỉ luẩn quẩn và thêm rắm rối mà
thôi.

17
- Trên đây là những mặt tiêu cực biểu hiện trong thanh niên sinh viên hiện
nay.nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra nguyên nhân của vấn đề .Hiện tượng tiêu cực đó
có nhiều nguyên nhân nhưng tổng quát nhất có hai nguyên nhân chính đó là :

2.2 Nguyên nhân:

a.Nguyên nhân khách quan:

- Từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta từ một nền kinh tế tự cung tự cấp
vận hành theo cơ chế quan hệ bao cấp sang một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ,nó đã góp phần
kích thích con người nắm bắt nhanh nhậy những nhu cầu thị trường , thúc đẩy họ áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm đẩy mạnh tiến bộ sản xuất ,tăng
năng suất lao động, hạ giá thành, đáp ứng hàng hoá đủ số lượng, và cao về chất lượng
cũng như cho ra đời những hàng hoá với những mẫu mã phù hợp với những thị hiếu
của người tiêu dùng, nó kích thích lưu thông phân phối hàng hoá kịp thời thuận lợi,
nhưng cũng chính cơ chế thị trường đã tạo ra sự phân cấp giầu nghèo, bất công xã
hội, làm cho con người chạy theo lợi ích trước mắt, lối sống chạy theo đồng tiền,lối
sống gấp, hưởng thụ không quan tâm đến giá trị cao quý, cùng với sự mở cửa của
luồng hàng và lối sống xa xỉ từ các nước phát triển tràn sang các nước nghèo, thanh
niên sinh viên là tầng lớp có trình độ còn non trẻ, dễ bị tiêm nhiễm và dễ bị lay
động.Chính vì vậy đất nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn cả về kinh tế cũng như
trong công tác quản lý giáo dục

-Kinh phí giành cho xây dựng cơ sở vật chất ở các trường đại học rất hạn hẹp.
Do vậy mà điều kiện phục vụ sinh hoạt văn hoá ,văn nghệ ...Tuy rằng nó chưa phải là
vấn đề quan trọng song nó có tác động không nhỏ đến tư tưởng hoạt động của sinh
viên. Hiện nay đời sống của sinh viên gặp nhiều khó khăn,chế độ học bổng quá thấp
mà giá cả sinh hoạt lại cao, ăn uống kham khổ, khẩu phần ăn thiếu. Chính vì vậy dẫn
đến lượng dinh dưỡng không đủ đáp ứng cơ thể làm giảm thể lực và trí lực một cách
đáng lo ngại.

- Thế hệ thanh niên sinh viên hiện nay sinh ra và lớn lên trong thời đại với sự
phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã đem lại những bước tiến kỳ diệu do
sự tiến bộ xã hội.Trên phạm vi thế giới không khí chính trị cởi mở hơn, mở rộng dân
chủ giao lưu văn hoá với các nước, nó tạo sự năng động trong tư duy song nó cũng

18
đặt ra thử thách mới đối mới việc xây dựng lối sống XHCN, giữ gìn kỷ cương trật tự
xã hội, dẫn đến khủng hoảng kinh tế kéo theo sự khủng hoảng về chính trị đạo đức,
thanh niên sinh viên là thành phần, là nhân tố trực tiếp chịu tác động của nó hơn nữa
trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn, công việc đổi mới đang diễn ra hết sức
phức tạp trong khi đó, các lực lượng thù địch ra sức chống phá các nước Xã Hội Chủ
Nghĩa bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm. Nó tiến hành những cuộc đấu tranh tâm lý
vào thanh niên sinh viên và nó đã lôi cuốn thanh niên sinh viên cả tin vào con đường
tiêu cực phản bội ...Đứng trước hàng loạt những nhu cầu của thế hệ trẻ nói chung,
thanh niên sinh viên nói riêng nhà nước đang gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn
đề học hành, nghề nghiệp,cống hiến hưởng thụ công bằng xã hội.

- Việc làm là nỗi lo lắng của sinh viên đang tham gia học tập .Những người tự
cho mình là “thấp bé cổ họng” không biết dựa vào ai còn kéo theo tư tưởng khi ra
trường muốn có việc phải có “cây” đưa lối “chỉ” đường .Đã không hiếm sinh viên
xuất sắc ra trường không có việc làm hay làm công việc không hợp với chuyên
môn.Bên cạnh đó có những sinh viên trình độ kém lại có việc làm tốt.Đây là điều bất
công của xã hội .Nó trở thành vết hằn trong tư tưởng của nhiều thanh niên sinh viên
làm cho họ nản chí.

- Đất nứoc chuyển sang nền kinh tế thị trường các chính sách mở cửa quan hệ
hợp tác với các nước trên thế giới đã ra đời các luồng thông tin ào ạt mới lạ choáng
ngợp ,xô bờ cộng với tinh thần dân chủ hoá công khai hoá lĩnh vực đời sống,tạo điều
kiện cho sự phát triển đồng thời dẫn đến sự đa nguyên văn hoá,đa nguyên tư tưởng,
lối sống phong phú phức tạp phim ảnh phong phú,kích động, phản động thâm nhập
vào hoạt động sinh hoạt,văn hoá, tinh thần của con người và của giới thanh niên sinh
viên từ đó dẫn đến hành động mất nhân cách con người ,đồng tiền làm tha hoá bản
chất người thanh niên. Không ít những thanh niên đã dùng thế lực của đồng tiền để
mua chuộc mọi thứ, chính vì có thế lực đó họ đã tỏ ra thái độ bất cần và sống ỷ lại
vào thế lực đó.

b.Nguyên nhân chủ quan:

- Trước những sự tác động mạnh mẽ , liên tục và thường xuyên của hiện tượng
tiêu cực bên ngoài xã hội,thanh niên sinh viên sẽ trở thành tốt hay xấu, tích cực hay

19
tiêu cực là do yếu tố chủ quan, ở đây nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định
hình thành mặt tiêu cực trong sinh viên hiện nay .

- Do tuổi đời còn rất trẻ,nên nhận thức còn thấp bản lĩnh,lập trường không
vững vàng , ý chí không kiên định. Hơn nữa vừa thoát khỏi cuộc sống phụ thuộc bây
giờ bước vào cuộc sống tự lập, vậy nên ý thức tự chủ kém, tư tưởng dựa dẫm vẫn
còn. Chính vì vậy khi đứng trước những vấn đề phức tạp của khách quan tác động
vào, họ không xác định được mình, không biết định hình vấn đề, không có cách xử lý
vấn đề đúng đắn từ đó bị lôi cuốn bị những hiện tượng khách quan chi phối và thậm
chí điều khiển,đó là con đường đưa họ đến những sai lầm trong cuộc sống.

- Nguy hại hơn cả lối sống buông thả bắt đầu phát sinh , thanh niên sinh viên
không còn đóng vai trò làm chủ chi phối hoàn cảnh mà lại bị hoàn cảnh chi phối mọi
hoạt động của bản thân. Năng lực tự giáo dục, tự rèn luyện của chủ thể bị xoá mòn
thay vào đó là những hành vi tiêu cực ngày càng nhiều hơn và thường xuyên hơn.
Với những điều kiện và khả năng của chủ quan là như vậy cộng với những tác động
tiêu cực của khách quan, là điều tất yếu sẽ dẫn đến hiện tượng tiêu cực trong thanh
niên sinh viên hiện nay .

- Nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan nó không tách rời
nhau,mà có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, có sự chi phối cho nhau nó làm tiền đề để
phát triển.Trong đó nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định.

2.3 giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng cho thanh niên Việt Nam hiện nay

-Việc giáo dục đạo đức cho thanh niên là rất cần thiết bởi vì họ là lực lượng
xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không , đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng
thế giới hay không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên sinh viên vào việc
bồi dưỡng lực lượng thanh niên công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân
tộc ,là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, công tác vận
động thanh niên trong thời kỳ đổi mới thì thanh niên là một lực lượng quan trọng ,
đặc biệt nòng cốt . Hiện tại họ đang trên ghế nhà trường và đang được giáo dục đào
tạo để trở thành người công dân ,người cán bộ chuyên môn bước vào đời để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc .Để giúp họ xứng đáng và ghánh vác trách nhiệm đào tạo
giáo dục họ trở thành người có phẩm chất và năng lực tương ứng. Trong đó đạo đức

20
là cái gốc, cái cốt lõi. Muốn giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh nay có hiệu quả
cần phải có đổi mới phương hướng và các hình thức giáo dục .

a. Phương hướng thứ nhất:


- Đổi mới nhận thức và quán triệt quan điểm đồng bộ . Đổi mới nhận thức của toàn xã
hội về vị trí của giáo dục đào tạo .Coi giáo dục đào tạo không chỉ là phúc lợi của xã hội
mà cần hiểu rõ giáo dục đạo đức là một động lực để phát triển kinh tế đầu tư cho giáo dục
đào tạo là đầu tư theo chiều sâu và cho tương lai. Phải coi giáo dục là công việc của toàn
xã hội là trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân không phó mặc cho nhà trường cho thầy cô
giáo.

-Hình thành đạo đức cho thế hệ trẻ là sản phẩm của công cuộc xây dựng và cải tạo
trên phạm vi toàn xã hội nó thông qua cuộc đấu tranh giai cấp và điều kiện sinh hoạt vật
chất quyết định. Quan điểm này đòi hỏi phải thấy rõ sự hình thành đạo đức trên cơ sở
kinh tế. Kinh tế càng phát triển xã hội càng ổn định , trình độ văn hoá của nhân dân ngày
càng cao thì các điều kiện đó có tác dụng tích cực và thuận lợi tới việc giá dục và đạo đức
cho sinh viên. Trong những năm tới chúng cần ổn định kinh tế nâng cao đời sống , tích
cực chống tham nhũng, chống tiêu cực xã hội ,thực hiện được các mục tiêu mà Đảng đề
ra .

-Cần xây dựng và bổ xung hoàn chỉnh hệ thống cơ sở kinh tế xã hội đảm bảo quyền
lợi và nghĩa vụ của tuổi trẻ. Tạo điều kiện cho thanh niên sinh viên sống trong điều kiện
có dân chủ, có kỷ cương, tự do nhưng có trách nhiệm công dân, trách nhiệm đối với nhà
trường, xã hội và gia đình .

-Giáo dục đạo đức phải thấu suốt trong quá trình đào tạo sinh viên phải tiến hành mọi
lúc, mọi nơi một cách liên tục lâu dài. Giáo dục đạo đức phải gắn liền với hoạt động
trong và ngoài nhà trường .

b. Phương hướng thứ hai :


Đổi mới phương pháp, hình thành giáo dục đạo đức trong các trường đại học .

i.Giáo dục đạo đức phải thông qua việc giảng dạy và học tập

-Muốn giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên hình thành cho họ thế giới quan
khoa học thì phải bằng nhiều cách. Những biện pháp quan trọng nhất và cơ bản nhất là
phải thông qua việc giảng dạy và học tập các môn học. Mặc dù có những môn học trong
đó không nói một lời nào về đạo đức, nhưng lại bao hàm một nội dung đạo đức sâu sắc
21
chẳng hạn như môn toán học ngoài việc làm phong phú trí thưc cá nhân như tiền đề cho
việc xây dựng quan niện đạo đức thì bản thân chúng với tư cách là một hệ thống logic
chặt chẽ sẽ góp phần rèn luyện tính trung thực, thái độ thẳng thắn tính nguyên tắc cho
người học .

-Mặt khác thông qua các môn học sẽ cung cấp cho thanh niên sinh viên những kiến
thức khoa học cho hệ thống xây dựng niềm tin triết học, chính trị đạo đức cho sinh
viên .Trên cơ sở trí thức ấy họ có cách nhìn về thế giới và rèn luyện cho mình nền nếp
xem hoạt đông giảng dạy và học tập trong nhà trường không những phát triển năng lực trí
tuệ mà thông qua việc bồi dưỡng trí tuệ phải nhằm giáo dục thế giới quan hình thành
niềm tin tưởng, quan điểm sống tích cực tạo ra một chất lượng về lối sống nghĩa là tạo
một hệ thống giá trị nhân cách.Vì vậy trong quá trình giảng dạy ,người giáo viên giảng
dạy hấp dẫn lôi cuốn thuyết phục người học về kiến thức bao nhiêu thì càng thuận lợi bấy
nhiêu trong quá trình giáo dục tư tưởng tình cảm của họ .Nhưng trong quá trình giảng dạy
muốn thuyết phục niềm tin cho thanh niên sinh viên thì phải sử dụng tổng hợp nhiều yêú
tố ,không những chỉ riêng nội dung kiến thức là cơ bản mà nghệ thuật diễn giảng cũng
không kém phần quan trọng ,lời giảng phải rõ ràng chính xác, gợi cảm trong sáng ,ngữ
điệu hấp dẫn ,giáo viên có thể kích thích,hướng dẫn trí nhớ tư duy và tình cảm cho sinh
viên.

-Nhà trường phải quan tâm hơn nữa trong đời sống học tập của simh viên , quản lý
chặt chẽ trong việc nề nếp sinh hoạt, công bằng và nghiêm túc trong việc quản lý thi cử.
Kiểm tra đánh giá không để hiện tượng dùng tiền ,quen biết thay cho việc học.

-Nhưng bên cạnh thông qua những kiến thức của bài giảng , sinh viên phải sáng tạo
tham khảo tìm tòi thêm những tài liệu có liên quan để nhằm rèn luyện và xây dựng cho
mình phương pháp suy nghĩ đúng đắn và cách giải quyết có cơ sở .

ii. Giáo dục đạo đức thông qua các hình thức hoạt động :

-Việc giáo dục đạo đức cho sinh viên không chỉ là việc lên lớp giảng bài , thảo luận
mà còn phải là quá trình tham gia tích cực của họ với các hoạt động xã hội , hoạt động
thực tiễn .Vì vậy nhà trường phải giáo dục đạo đức cho sinh viên thông qua các tổ chức
hoạt động khác như:

*Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động học tập :

22
-Sự học nào cũng vậy, nhằm phục vụ, phụng sự cho thời ấy, không có sự học vu vơ
viển vông không nhằm tới một mục đích một lý tưởng nào. Định hướng học tập của
thanh niên sinh viên phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình hiện
nay. Học để chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ , là để nâng cao giá trị con người , là con người
thì phải có học thức có tri thức tốt để dễ xin việc , làm việc có hiệu quả để ổn định cho
cuộc sống sau này.

*Giáo dục thông qua các hoạt động tổ chức tập thể :

-Sinh hoạt tập thể trong nhà trường là một hình thức hoạt động giáo dục đạo đức tập
thể vừa là môi trường vừa là lực lượng giáo dục thường xuyên tác động đến sinh viên .

-Trong nhà trường đại học có nhiều tổ chức sinh hoạt tập thể : tập thể lớp ,tập thể
đoàn ,tập thể hội sinh viên . Mỗi tổ chức đều có tác dụng đến việc hình thành đạo đức đòi
hỏi hình thức phương pháp phù hợp,nhất là khi quần chúng thanh niên sinh viên đã có
chuyển biến nhận thức và trình dộ trong tình hình kinh tế xã hội mới.

iii. Xây dựng môi trường giáo dục :


-Qúa trình hình thành và phát triển phong cách đạo đức luôn luôn chịu chi phối toàn
diện của môi trường sống , môi trường xã hội ,môi trường học tập và sinh hoạt .Vì vậy
việc xây dựng một môi trường giáo dục là một tất yếu khách quan có liên quan đến việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên.

*Môi trường nhà trường:

-Môi trường nhà trường giữ vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục đạo
đức vì vậy để làm được điều đó nhà trường phải thực hiện những yêu cầu sau :

+Trước hết nhà trường phải là tấm gương để sinh viên noi theo .Mọi tổ chức ,
mọi thành viên trong trường phải thực sự là tấm gương trong việc giáo dục đạo đức
làm nâng cao hiệu quả giáo dục. Nhưng trong đó người thầy phải là tấm gương sáng
nhất trong tất cả các tấm gương trong nhà trường. Học sinh mong mỏi và hy vọng ở
thầy giáo rất nhiều về tri thức khoa học, phương pháp và lối sống.

+Nhà trường phải chứng minh được những tình cảm lớn được biểu hiện ngay
trong cuộc sống nhà trường , tạo nên môi trường lành mạnh để tác động đến sinh viên
.

*Môi trường gia đình :

23
-Chăm lo cho con cái từ lúc ấu thơ đến lúc trưởng thành là công việc chung của
toàn xã hội , của nhà trường. Cùng với môi trường trên gia đình có vai trò quan trọng biết
nhường nào trong sự nghiệp “vì lợi ích trăm năm trồng người” . Mãi mãi gia đình là
trường học tình cảm chắp cánh cho tuổi trẻ thành đạt và cũng là nơi san sẻ bớt nỗi buồn
nếu là thất bại .Không có tình thân nào có thể so sánh được tình thân của mẹ và cha – là
người bạn lớn của con trong suốt cả cuộc đời .Tuy đến tuổi trưởng thành nhưng thanh
niên sinh viên chúng ta còn non nớt trên đường đời , vốn kinh nghiệm sống còn ít rất dễ
vấp ngã trước cuộc sống nhất là cuộc sống hiện tại còn có nhiều tiêu cực. Chính vì vậy
gia đình là chỗ dựa tình cảm vững chãi nhất để vượt qua những khó khăn thiếu thốn ,
những cám dỗ vật chất đời thường mà rèn luyện tu dưỡng để đền đáp công ơn của cha mẹ
.

*Môi trường xã hội :

-Qúa trình hình thành và phát triển đạo đức của sinh viên không những chịu chi
phối của nhà trường ,gia đình và môi trường xã hội là mảnh đất quyết định một phần
không nhỏ đến đạo đức của sinh viên .Trong tình hình hiện nay môi trường kinh tế xã hội
với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành
đạo đức cho sinh viên. Cơ chế thị trường một mặt đã tạo nên điều kiện thuận lợi song
cũng có những mặt tiêu cực trong việc giáo dục đạo đức sinh viên chính vì vậy phải đưa
ra những nội dung, yêu cầu khách quan về đạo đức của sinh viên trong giai đoạn phát
triển mới của xã hội giúp cho sinh viên có thể thích ứng được , phát huy tác dụng được
trong cuộc sống hiện tại cũng như trong tương lai khi sinh viên chúng ta bước vào đời với
những vị trí xã hội nhất định .

iv .Giáo dục đạo đức cách mạng là quá trình kết hợp giữa giáo dục và quá trình tự giáo
dục :

-Do đặc điểm của đạo đức , công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên
không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ tri thức của các khái niệm, nguyên lý, nguyên tắc
chuẩn mực đạo đức, những tri thức khoa học khác, mà phải gắn liền với những cảm xúc ,
những rung cảm sâu lắng để trở thành nội dung cơ bản của sự vận động.Chính vì vậy đòi
hỏi quá trình giáo dục đạo đức phải gắn chặt với quá trình tự giáo dục

-Sự kết hợp giữa quá trình giáo dục và quá trình tự giáo dục là một trong những
biện pháp có hiệu qủa tích cực đến hình thành đạo đức cho thanh niên sinh viên .Phương

24
pháp này làm cho yêu cầu của xã hội trở thành nhu cầu bên trong của mỗi sinh viên tạo
nên những động lực mạnh giúp cho mỗi sinh viên chúng ta vượt qua những khó khăn trở
ngại để điều chỉnh hành vi đạo đức của mình .Vì vậy nhà trường và mỗi bản thân sinh
viên phấn đấu cho biện pháp này trở thành hiện thực.

3. Liên hệ bản thân

-Sinh viên cần chủ động, tích cực, thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư
tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với
làm, góp phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên.

-Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phụ
thuộc nhiều vào sự nỗ lực của thanh niên, sinh viên, có tác động to lớn đến tương lai
của cá nhân và đất nước. Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm,
trung thực, nói đi đôi với làm, đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc
biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng, càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.

-Là một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, bản thân em đã rút ra được
nhiều bài học quý giá về đạo đức cách mạng qua môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
Qua đó rút ra được những bài học quý giá cho bản thân nói riêng và thanh niên, sinh
viên nói chung.

a.Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường của sinh viên

-Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm
gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm.Tự soi
mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác
dạy.Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung
thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.

-Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các
tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.

b. Học tập và làm theo lời Bác

-Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức đúng
đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần trách

25
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô trách
nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì dở" đối
với bản thân, gia đình và xã hội.Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương
điển hình thanh niên, sinh viên hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng
kiến, cách làm hiệu quả trong thực hành theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh
thần trách nhiệm, trung thực nói đi đôi với làm.

-Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút nào
được quên lý tưởng cho cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho
chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới.Phải dám
nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm vụ và có trách nhiệm
với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ, không tránh né,
đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người khác. Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu
hậu quả xấu đến với mình khi mình không hoàn thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho
hoàn cảnh hay người khác.

c.Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm

- Mỗi hội viên, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân
tình.Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân,
bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân.Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu
trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng, dối dân.Phải chống lại thói Ích kỷ, tính
tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vô cảm, "đục nước béo cò" khi người khác
gặp hoạn nạn.Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng
giả, mua bán tri thức...Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách
nhiệm của mình.Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội.

- Để làm được như vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung
thực, trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cân thiết và
quý báu, là phẩm giá của mỗi người.Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên
gắn tinh thần trách nhiệm, được tính trung thực, nói đi đôi với làm và thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, công việc chuyên môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức
đoàn, hội, độiHội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng

26
đạo đức, rèn luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội,
không nói dối thầy cô, cha mẹ.Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của
người con ngoan, trò giỏi.Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp
dụng vào cuộc sống hằng ngày, vào công việc.

III. Kết luận

- Muốn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ,cuộc sống của nhân dân
ấm no hạnh phúc phải có con người có đủ năng lực phẩm chất đạo đức phù hợp với
yêu cầu phát triển của xã hội trong đó đạo đức cách mạng là cơ sở là nền tảng để ra
hoa kết trái những năng lực , hành động ý chí với quyết tâm cao . Muốn nâng cao đạo
đức cho thanh niên sinh viên phải học tập và bồi dưỡng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.Vì vậy trong những năm tới cần coi trọng học tập môn này để phù hợp và đáp
ứng nhu cầu giáo dục .

- Nguyên nhân những quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những
lý luận về đạo đức chúng ta có cơ sở khoa học để đánh giá , tìm rõ nguyên nhân , tìm
ra con đường giáo dục phù hợp với tình hình thực tế hiện, nay không kêu gọi động
viên chung chung mà phải cụ thể gắn với thực tế cuộc sống .Vì vậy biện pháp bao
trùm cơ bản của giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên là phải thông qua việc
học tập bồi dưỡng tri thức , tổ chức hoạt động đồng thời nhà trường ,gia đình và xã
hội phải tạo nên môi trường lành mạnh tạo điều kiện để đạo đức trong mỗi sinh viên
được hình thành nuôi dưỡng. Đối với thanh niên sinh viên nhiệm vụ cơ bản của họ là
học tập và rèn luyện .Vì vậy phải lấy những kết quả đó đồng thời là một trong những
thước đo phẩm chất đạo đức của họ trên cơ sở mà uốn nắn những mặt khác đời sống .

- Giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên là vấn đề thiết thực to lớn trong công
cuộc đổi mới đồng thời đây cũng là vấn đề rộng lớn và phức tạp Lo lắng trăn trở , mong
ước thì nhiều nhưng do điều kiện và khả năng có hạn đề tài này chắc chắn chưa đáp ứng
được yêu cầu của thầy giáo vì vậy em rất mong được sự thông cảm và giúp đỡ.

IV. Tài liệu tham khảo


Giáo án môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh của giảng viên trường Đại học Kiến Trúc tp.HCM,
thầy Cao Đức Sáu
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5
27
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15

28

You might also like