You are on page 1of 32

1. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.

́c. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
2. phân tích sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
3. Phân tích sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học mác lê nin
4. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn
đề này
5. Phân tích tầm quan trọng của Nguyên tắc lịch sử cụ thể. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
6. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
7. Phân tích cơ sở lý luận khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
8. Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự vận dụng
của Đảng ta đối với vấn đề này
9. Phân tích cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn. Sự vận dụng của Đảng
ta đối với vấn đề này
10. Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra khuynh hướng, con đường vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Sự vận dụng của
Đảng ta đối với vấn đề này
11. Phân tích mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
12. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn
đề này
13. Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
14. Phân tích làm rõ tính độc lập tương đối của đời sống tinh thần với đời sống vật chất của xã hội. Ý nghĩa phương pháp
luận rút ra từ đó.
15. Bỏ qua
16. Để ý thức tác động lại vật chất cần điều kiện gì. Sự tác động đó phụ thuộc vào những yếu tố nào, kết quả của tác động
đó. Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra
17. Phân tích quan điểm sau của Lênin: Phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Ý nghĩa phương pháp luận được rút
ra từ việc nghiên cứu vấn đề này
18. Phân tích luận điểm: thực tiễn luôn cao hơn nhận thức (Lý luận). Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ việc nghiên
cứu vấn đề này
19. Phân tích luận điểm sau của Lênin: Mác coi sự vận dộng của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng việc
nghiên cứu vấn đề đó vào xem xét con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam.
20. Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: Thực tiễn ko có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này
21. Phân tích để làm rõ sự khác biệt căn bản về nội dung của Chủ nghĩa duy vật biện chứng với các hình thức duy vật khác
trong lịch sử
22. Phân tích để làm rõ sự khác biệt về bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng với các hình thức duy vật khác trong
lịch sử
23. Phân tích để làm rõ sự khác biệt căn bản về thế giới quan duy vật biện chứng với các hình thức thế giới quan khác
trong lịch sử
24. Phân tích luận điểm sau của chủ nghĩa Mác: “ vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ
khí. Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng vật chất, song lí luận có thể trở thành vật chất một khi nó
được thâm nhập vào quần chúng”
25. Phân tích để làm rõ vai trò của triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan.

Câu 1: Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này?
Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Khái niệm:
+ vật chất: trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán Lê nin đã định nghĩa: vật chất là 1
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
+ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tuy nhiên không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc của con người là trở thành ý thức. Ngược lại ý thức là sự phản
ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông
qua hoạt động lao động. Vì vậy ý thức là cái vật chất được đem vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó.
- Cơ sở lý luận: trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất là cái có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định ý thức. Điều này được thể hiện:
+ Nội dung: Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại, phát triển của ý thức. Vật chất có trước, ý thức có sau.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ
chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách
quan. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả qía trình phát triển lâu dài của thế giới
vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về
giới tự nhiên, nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
+ Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chấtm là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung
của ý thức đc quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển cả ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh

1
học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất
không chỉ quyết định nội dung mà con quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
+ Xu hướng vận động: Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó, vật chất phát triển đến đâu thì ý thức hình
thành, phát triển đến đó, vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
Như vậy, vật chất quyết định cả nội dung và khuynh hướng vận động phát triển của ý thức. Vật chất cũng còn là điều kiện môi
trường để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng.
* Sự vận dụng của Đảng ta:
Nguyên tắc quan trọng được Đảng vận dụng là nguyên tắc tôn trọng khách quan – xuất phát từ thực tế khách quan.
- Yêu cầu của nguyên tắc:
+ Mục đích ,đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ
hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của cuộc sống, xuất phát từ sự vật để nhận thức sự vật.
+ không được lấy ý chí áp đặt cho thực tế, chủ quan duy ý chí
+ không được lấy tình cảm cá nhân làm xuất phát điểm cho những vấn đề quan trọng đề ra phương hướng, mục tiêu
+ tôn trọng quy luật, sự thật.
+ khi có mục đích, đường lối, chủ trương đúng phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
- Vận dụng yêu cầu:
+ Nếu tự giác vận dụng đúng thì con người sẽ nhận thức được sự vật, đề ra phương hướng mục tiêu đúng đắn
+ Bếu lơ là, nhận thức sai sự vật dẫn đến cách nhìn nhận sự vật hiện tượng không đúng, đưa ra mục tiêu, phương hướng
thiếu chính xác, k thực tế
Liên hệ thực tiễn ( có 2 lựa chọn )
Lựa chọn 1
1. Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986
Giai đoạn này Đảng ta đã đề ra các chính sách sau:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng . Muốn phát triển ngành công nghiệp nặng cần có nhiều vốn, nhân lực.Trong
khi đó giai đoạn này nước ta mới trải qua chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, khó khăn về tài chính cũng như trình độ
dân trí còn thấp. Vì vậy việc đề ra chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là chưa tôn trọng thực tế khách
quan.
- Xóa bỏ các thành phần kinh tế. Trong điều kiện nước ta đứng dậy sau chiến tranh việc phát triền nền kinh tế nhiều
thành phần sẽ góp phần đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu, xây dựng cơ sở hạ tầng...Tuy nhiên Đảng ta chưa tôn
trọng thực tế khách quan, đã xóa bỏ các thành phần kinh tế chỉ thừa nhận thành phần kinh tế nhà nước và tập thể.
- Duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp.Thời kỳ chiến tranh, chúng ta rất thành công trong việc huy
động, tổ chức sức mạnh của mỗi người, mỗi vùng và sức mạnh của cả nước; sức mạnh trong và ngoài nước; sức
mạnh của quá khứ, hiện tại, tương lai tạo nên một lực lượng vật chất khổng lồ của chiến tranh nhân dân, đánh bại
những thế lực hơn chúng ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế và tiềm lực quân sự để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, nhưng khi hòa bình lập lại thì cơ chế này không còn phù hợp nữa,nó kìm chế sự phát triển kinh tế xã
hội. Việc Đảng ta chủ trương duy trì cơ chế quản lý này là chưa tôn trọng thực tế khách quan.
- Chưa thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Sau chiến tranh, tỷ lệ mù chữ ở nước ta còn rất cao. Tuy nhiên
Đảng ta lại chưa thực sự có những chính sách để giáo dục phát triển.
Với những chính sách trên có thể nói thời kỳ từ năm 1976 đến 1986 Đẳng ta đã chưa thực sự dựa trên thực tế khách quan
để đưa ra các chủ trương chính sách. Điều này đã khiến cho những chính sách này không phù hợp với thực tế, làm cho nền kinh
tế nước ta trì trệ, kém phát triển, làm giảm niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng. Khi kinh tế yếu kém dẫn đến chính
trị quốc phòng an ninh cũng trở nên mờ nhạt, văn hóa tư tưởng lạc hậu
2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Trong giai đoạn này Đảng ta đã đổi mới trong nhận thức, các chính sách đưa ra cũng có nhiều thay đổi theo hướng tích
cực. Được thể hiện thông qua các chính sách lớn:
- Đưa ra 3 chương trình kinh tế: Lương thực- thực phẩm; hàng tiêu dùng; xuất khẩu
- Thừa nhận các thành phần kinh tế
- Xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp
- Ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Với những chính sách được đề ra xuất phát từ thực tế khách quan, nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng cao trong khu
vực và trên thế giới, hội nhập sâu rộng với thế giới, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao,
làm tăng niềm tin của nhân dân với Đảng.
Lựa chọn 2
Giai đoạn 76-85:
Trong giai đoạn 10 năm trước đổi mới này, Đảng ta xác định bước đi của thời kì quá độ là ngắn, tiến hành xóa bỏ các
thành phần kinh tế tư nhân, xóa bỏ quan hệ sản xuất phi XHCN, không quan hệ với các nước tư bản, tập trung phát triển công
nghiệp nặng, ít quan tâm đến công nghiệp nhẹ. Đảng ta đã chủ quan, duy ý chí, đề cao tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, chưa
phát huy được tính năng động chủ quan, cũng nhu vai trò tích cực của nhân tố con người. Đảng ta đã chủ trương kế hoạch hóa
tập trung , nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên
xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp
lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp,
doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Các cơ quan hành chính can thiệp

2
quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các
quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Hậu quả trước tiên có thể nhận thấy được là về mặt kinh tế, hàng hóa trên thị trường trở nên khan hiếm, nền kinh tế trở
nên khó khăn. Khi kinh tế yếu kém dẫn đến chính trị quốc phòng an ninh cũng trở nên mờ nhạt, văn hóa tư tưởng lạc hậu
Giai đoạn 86 đến nay:
Với đường lối đổi mới đúng đắn do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất
quan trọng.Đảng ta đã nhận định bước đi của thời kỳ quá độ được xác định dài, cam go, thăng trầm, thậm chí có cả những lúc
thụt lùi đồng thời chấp nhận kinh tế tư nhân và những mặt trái của nó. Tập trung phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
Những thành tựu đó đã tăng cường sức mạnh tổng hợp làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố
vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Từ đại hội VIII của
Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh CNH, HDH phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước CN, thực hiện mục tiêu” độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu nước mạnh, XH công bằng dân chủ văn minh.
Kinh tế trở nên tăng trưởng và phát triển đã giúp cho chính trị giữ được vị thế, văn hóa tư tưởng trở nên phong phú.
Tuy nhiên chúng ta đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế, so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hòa bình do các thế lực thù
địch gây ra. Bởi vậy chúng ta phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người VN,
quyết tâm đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu” lấy việc “ phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Bên cạnh đó Đảng ta chủ trương đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hoá đời sống xã hội nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực và
quyền làm chủ của nhân dân. Mặt khác đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội phù hợp có ý nghĩa then
chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như: cơ chế quản lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân
chủ, và cơ chế này phải lấy con người làm trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy mọi nguồn lực. Cơ chế
quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và phẩm chất thành thạo về nghiệp vụ. Trong khi đó, xác định nhân tố
con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, Đảng ta chủ trương đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ
của quá trình nâng cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế của người lao
động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ hoạt động sáng tạo như ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi. Cũng
cần có chính sách đảm bảo và kích thích phát triển về mặt tinh thần, thể chất cho nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống cơ
chế chính sách phù hợp để giải quyết tốt vấn đề ba lợi ích tập thể, và lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như
lâu dài của người lao động. Đảng và Nhà nước đã dần khắc phục thái độ trông chờ và ỷ lại vào hoàn cảnh bằng cách nhanh
chóng cổ phần hoá các công ty nhà nước để tạo sự năng động, sáng tạo trong hoạt động cũng như cạnh tranh, nhất là trong thời
kỳ hội nhập hiện nay. Đảng cũng đã cương quyết giải thể các công ty làm ăn thua lỗ như: Tổng công ty sành sứ Việt Nam,
Tổng công ty nhựa, Tổng công ty rau quả Việt Nam… để tránh việc nhà nước bỏ vốn vào nhưng lại luôn phải bù lỗ cho các
công ty này. Ngoài ra chúng ta cũng cần nâng cao trình độ nhận thức tri thức khoa học cho nhân dân nói chung và đặc biệt đầu
tư cho ngành giáo dục. Chúng ta cần xây dựng chiến lược giáo dục, đào tạo, với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở rộng
quy mô chất lượng ngành đào tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, cải tiến nội dung chương trình giáo dục,
đào tạo phù hợp với từng đối tượng, trường lớp ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng cao dân trí, phổ cập giáo dục với việc bồi
dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động để đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ kích thích tính năng động và tài năng sáng tạo của người
lao động ở nước ta. Sự nghiệp đất nước càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người càng tăng lên một cách
hàng hợp với quy luật.

Câu 2: Phân tích sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
*Khái niệm về ý thức, vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng ( DVBC )
+ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
+ ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc của con người là trở thành ý thức. Ngược lại ý thức là
sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện
thông qua hoạt động lao động. Vì vậy ý thức là cái vật chất được đem vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có
thể tưởng tượng ra những cái không có thực trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao. Tuy nhiên sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ là phản ánh sự tồn tại
*Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì
ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực
tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thưc, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi
hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất
mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng,
xây dựng, kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện… để thực hiện mục tiêu của mình.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý
thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc, nguyên si thế giới
vật chất. Vì vậy, ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu : Tích cực hoặc tiêu cực.

3
- Tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mang, có nghị lực, có ý chí thì hành động
của con người phù hợp với quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện
mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực của ý thức, ý thức sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát
triển của đối tượng vật chất. Vai trò của ý thức thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí. Nó không những là kim
chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực của thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực
tiễn sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ và bản sắc
của hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê với
công việc, khả năng sáng tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động thực
tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm
- Tiêu cực: Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất quy luật khách quan thì
ngay từ đầu hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác động tiêu cực đối
với hành động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan,khi đó ý thức sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất. Ý thức sai lầm, trái
quy luật khách quan của con người có tác động tiêu cực thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan,
kéo lùi lịch sử. Bởi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Không nhận thức được điều này sẽ rơi
vào quan niệm duy vật tầm thườngvà bệnh nảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.
Tác động này được phụ thuộc vào 4 nhân tố:
+ ý thức tư tưởng mang nội dung gì
+ năng lực tổ chức triển khai nội dung đến đâu
+ mức độ thấm nhuần ý thức tư tưởng đến đâu
+ điều kiện vật chất và hoàn cảnh lịch sử
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động
thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể thấy: Vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo của ý thức. Là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức, ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của
con người. Sức mạnh của ý th ức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý
thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con
người thành động theo định hướng của ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan , tôn trọng khách
quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Nguyên tắc: Phát huy vai trò nhân tố chủ quan
- yêu cầu: + Phải tôn trọng tri thức khoa học
+ Phải làm chủ tri thức khoa học
+ xác định nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực.
+ phải đáp ứng thỏa đáng những nhu cầu chính đáng của con người trong điều kiện có thể
- vận dụng yêu cầu
+ Con người tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở
thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động, mặt khác phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình
thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính
nhân văn trong định hướng hành động
+ phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí, đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm
chính sách, lấy tình cảm làm xuất phát điểm cho chiến lược, sách lược….,mặt khác, cũng cần phải chống chủ nghĩa kinh
nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động… trong nhận thức và thực tiễn, luôn luôn
xác định rằng: nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực.
* Liên hệ thực tiễn ( có thể lấy liên hệ ở câu 1)
Xuất phát từ đâu và đi theo con đường nào? Chỉ có thể và phải xuất phát từ những điều kiện – hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của đất nước Việt Nam và con người Việt Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh khu vực thế giới hiện đại, theo quy luật
chung mà chủ nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra.
Thực tế là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ nghĩa từ một xuất phát điểm về kinh tế xã hội rất thấp - nhất là lực
lượng sản xuất. Đó là tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn khá phổ biến, kỹ thuật thô sơ, thủ công nửa
cơ khí. Sản xuất hàng hoá còn chưa trở thành phổ biến, thị trường bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép kín kể cả trong kinh
tế đối ngoại. Phương thức tổ chức, quản lý nền kinh tế dựa trên lĩnh vực kinh tế của chúng ta là tập trung lực lượng sản xuất,
đổi mới phương thức, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm.
Muốn phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn
chiều sâu, tạo đường băng để đất nước “cất cánh” một cách hiện thực hướng tới năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp hoá chứ không dừng lại ở phương hướng chung. Nghĩa là, phải xây dựng một chương trình khả thi cho cả công
nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, chú trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm,
cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ…
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng ta đã khẳng định : con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự vừa có
những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt
là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và

4
động lực chủ yếu trong phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và công nghệ. Trong thời đại cách
mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác
là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập hệ thống chính trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp
rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.

Câu 3: Phân tích sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
* Thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
Thế giới quan duy vật
- Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực.
Thế giới quan duy vật thừa nhận chỉ có 1 thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất không sinh ra, không bị
mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn vô tận.. Thế giới quan duy vật cũng thừa nhận mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật
chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức song ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật
chất. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Sự phát triển của Thế giới quan duy vật
+ Thế giới quan duy vật chất phác: là thế giới quan thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của những nhà duy
vật. Tuy còn nhiều hạn chế cả về trình độ nhận thức cũng như nội dung phản ánh nhưng thế giới quan duy vật chất phác thời cổ
đại đã có những đóng góp lớn lao vào quá trình phát triển nhận thức. Điều ấy thể hiện: Sự ra đời của thế giới quan duy vật thời
cổ đại đã đánh dấu bước chuyển hoá từ giải thích thế giới dựa trên thần linh sang giải thích thế giới dựa vào giới tự nhiên, nó
định hướng cho con người nhận thức thế giới phải xuất phát từ chính bản thân thế giới và nó đã đặt ra nhiều vấn đề - từ đó thế
giới quan duy vật ở các giai đoạn sau tiếp tục phát triển, hoàn thiện.
+ Thế giới quan duy vật siêu hình: là thế giới quan duy vật được hình thành và phát triển bằng phương pháp tư duy
siêu hình. Thế giới quan duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét vào thời cận đại, vào thế kỷ thứ XVII – XVIII ở các nước Tây Âu.
Thế giới quan duy vật siêu hình thời cận đại tuy góp phần chống thế giới quan duy tâm, góp phần giúp con người đạt được một
số hiệu quả trong nhận thức từng lĩnh vực hẹp song vì phát triển tư tưởng về vật chất của các nhà duy vật thời cổ đại và phương
pháp nhận thức là phương pháp siêu hình nên ngoài những hạn chế mà các nhà duy vật thời cổ đại đã mắc phải, các nhà duy vật
thời cận đại còn mang nặng tư duy máy móc, không hiểu thế giới là một quá trình với tính cách là lịch sử phát triển của vật chất
trong các mối liên hệ đa dạng, phức tạp và trong trạng thái vận động không ngừng, vĩnh viễn.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng: là thế giới quan duy vật được hình thành và phát triển bằng phương pháp tư duy biện
chứng. Thế giới quan này được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ thứ XIX, V.I.Lênin và những người kế tục ông
phát triển. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới trước đó, trực
tiếp là những quan điểm duy vật của L.Phơbách và phép biện chứng của F.Hêghen; là kết quả sử dụng tối ưu thành tựu của
khoa học, trước hết là thành tựu của Vật lý học và Sinh học. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng còn là kết quả tổng
kết sự kiện lịch sử diễn ra ở các nước Tây Âu, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành và đã bộc lộ cả những
mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế của nó.
Phương pháp biện chứng
- Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong
mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự móc xích của chúng, trong sự vận động của chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của
chúng
- Sự phát triển của phương pháp duy vật
+ Phép biện chứng cổ đại. Phép biện chứng cổ đại thể hiện trong triết học ấn độ, Trung Quốc và rõ nhất là trong triết học
Hy Lạp cổ đại. Về đại thể, phép biện chứng cổ đại coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có
mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau; thế giới và các bộ phận của nó không ngừng vận động và phát
triển.
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát. Phép biện chứng cổ đại mới chỉ được tạo nên từ một số quan điểm
biện chứng mộc mạc, thô sơ, mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác mà chưa được minh
chứng chắc chắn bằng các tri thức khoa học, chưa là hệ thống lý luận chung nhất với các nguyên lý, quy luật, phạm trù và do
vậy, cũng chưa xác định rõ đối tượng, phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng.
+ Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức. Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, phát triển đến đỉnh
cao ở Ph.Hêghen (1770-1831). Trong triết học Ph.Hêghen, ông đã xây dựng và áp dụng phép biện chứng vào nghiên cứu các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Qua đó, họ đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất, có lôgíc
chặt chẽ của nhận thức tinh thần, và trong một ý nghĩa nào đó, là của cả hiện thực vật chất. Mặc dù có nhiều “hạt nhân hợp lý”
và “lấp lánh mầm mống phôi thai của chủ nghĩa duy vật” nhưng phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức cũng mắc
phải những hạn chế nhất định. Đó là biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”, của cái phi vật chất, là biện chứng của khái niệm, của
tư duy thuần tuý, phản ánh một lực lượng thần bí nào đó ở bên ngoài thế giới vật chất. Tuy nhiên, biện chứng cổ điển Đức đã
tạo ra bước quá độ chuyển biến về thế giới quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang thế giới quan khoa học duy

5
vật biện chứng. Cũng chính nhờ có hệ thống phạm trù, quy luật đó mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo và phát triển thành
những phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật.
+ Phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen định nghĩa “phép biện chứng...là môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. V.I.Lênin viết “phép biện chứng, tức là học thuyết
về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của
con người phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”. Hồ Chí Minh đánh giá “chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương
pháp làm việc biện chứng”. Khác với các phép biện chứng trước đó, sự ra đời của phép biện chứng duy vật gắn liền với những
thành tựu phát triển rực rỡ của khoa học tự nhiên đã phản ánh “bản chất đích thực” của thế giới và thực tiễn cách mạng trong
thế kỷ XIX, tạo cơ sở vững chắc để các nhà kinh điển triết học Mác khái quát và xây dựng phép biện chứng duy vật. Phép biện
chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng. Phép biện chứng duy vật có vai
trò vô cùng to lớn và quan trọng đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với
phép biện chứng đã làm cho phép biện chứng duy vật không chỉ dừng lại ở phương pháp giải thích thế giới mà đã trở thành
phương pháp cải tạo thế giới, thực sự là công cụ thế giới quan, phương pháp luận chung nhất, đúng đắn và khoa học nhất của
giai cấp vô sản trong quá trình đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
*Thực chất sự thống nhất của thế giới quan duy vật và phép biện chứng
Thực chất sự thống nhất của thế giới quan duy vật và phép biện chứng được thể hiện ở chỗ tư tưởng quan điểm đưa ra phải
là quan điểm duy vật khi giải thích về thế giới. Những quan điểm duy vật ấy luôn chứa đựng trong đó phương pháp đưa ra đánh
giá chỉ trong triết học Mác – Lê nin mới có: quan điểm duy vật bao hàm cả phương pháp biện chứng
Kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết triết học trong lịch sử, tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương
thời C.Mac và Ph.Angghen đã sáng tạo nen chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
với phép biện chứng. Sự thống nhất này đã mang lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm về
thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động, chuyển hóa và phát triển
Quá trình ra đời của triết học Mác
- Sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của nhân loại
+ Về mặt lí luận có: Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị cổ điển Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
+ Về mặt Khoa học xã hội: Định luật bảo toàn năng lượng – Maye, Học thuyết tế bào Schleider( 1938) và Schwann
(1939), Học thuyết tiến hóa – Đácuyn
+ Kế thừa duy vật siêu hình của Phoiobach và duy tâm biện chứng của Heghen
-Tư tưởng duy vật: Hạt nhân hợp lý nhất của các nhà tư tưởng trước Mac (phoiobach), gạt bỏ mặt hạn chế của duy vật siêu
hình (chỉ xem xét sự vật hiện tượng độc lập tách rời không phát triển, nếu có sự phát triển vận động thì chỉ là sự thay đổi về
lượng, không có sự thay đổi về chất)
- Tư tưởng duy tâm: gạt bỏ mặt hạn chế của duy tâm biện chứng (Heghen)
Vai trò của triết học Mác
- thể hiện trong định hướng nhận thức và thực tiễn mục tiêu của lịch sử xã hội loài người. Dù chủ nghĩa tư bản đã tự điều
chỉnh để tồn tại và phát triển nhưng những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản vẫn k giải quyết được. Lý tưởng của nhân loại
chỉ có thể là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
- vận dụng dáng tạo nội dung lý luận, thế giới quan và phương pháp luận triết học mác xít là cơ sở để giải quyết đúng quy
luật những vấn đề đặt ra của thời đại hiện nay như quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc. Chỉ có thể dựa trên những nguyên lý cơ
bản của triết học Mác-Lênin mới giải quyết đúng những vấn đề căn bản nhất của thời đại ngày nay, thúc đẩy lịch sử xã hội loài
người phát triển theo xu thế tiến bô, hợp quy luật.
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học. Chính vì
vậy mà giữa Thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất này đã mang
lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất
không ngừng vận động, chuyển hóa và phát triển.

Câu 4. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện? Sự vận dụng củađảng ta qua hai giai đoạn. (hoặc nguyên
tắc chống lại cách nhìn phiến diện một chiều)
1 Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện
* Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là mối liên hệ phổ biến.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Cở sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Trên cơ sở đó, phép chứng duy vật xem xét thể
giới như một chỉnh thể. Theo đó, các sự vật, hiện tượng dù có phong phú, đa dạng thế nào thì cũng chi là những dạng cụ thể của
một thế giới duy nhất và thống nhất thế giới vật chất. Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến: Các sự vật, hiện tượng, các quá
trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Tính thống nhất vật chất của thế giới
là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có
khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất.
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một
sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Về sự tồn tại của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy
định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Ví dụ, bão từ xảy ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ tnrờng trái đất, từ đỏ tác động

6
đến mọi sự vật, trong đó có con người. Việc thải các chất độc hại vào môi trường sẽ gây nên nạn ô nhiễm môi trường, tạo ra
hiệu ứng nhà kính...,khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở, là cái quyết định các mối liên hệ giữa các sự vật
hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chi là
những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn
tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Về vai trò của các mối liên hệ
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông
qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác
động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với sự vật, hiện tượng khác.
Các tính chất của mối liên hệ
Các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng có tính khách quan. Tính khách quan của chủng biểu hiện ở chỗ, các mối liên hệ là
tự thân, vốn có của sự vật, hiện tượng, gắn liền với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, không do ai sáng tạo
ra, cũng không do sự áp đặí chủ quan của con người. Sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện
tượng khác. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác.
thân con người. Các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng không chỉ có tính khách quan mà còn có tính phố biến. Tính phổ
biến của mối liên hệ thể hiện ở chỗ, các mối liên hệ này tồn tại ở mọi nơi, mọi chỗ, ờ bất kỷ một sự vật, hiện tượng nào trong tự
nhiên, xã hội, tư duy. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài những mối liên hệ. Bên cạnh đó, các mối liên hệ biểu hiệiỊ
dưới các hình thức riêng biệt cụ thể, khác nhau và biến đổi tũỳ theo điều kiện lịch sử - cụ thể nhất định. Nhưng dù dưới hình
thức nào thì chúng cũng chỉ là biểu hiện tính phổ biến của các mối liên hệ.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy vật đã xây dựng nguyên tắc toàn diện là một nguyên tắc
phương pháp luận quan trọng của phép biện chứng duy vật.
* Yêu cầu
- Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật hiện tượng, chúng ta phải xem xét tất cả các mối liên hệ của sự vật hiện tượng
này với sự vật hiện tượng. Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng
khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. Phải đặt sự vật, hiện tượng đang
nghiên cứu vào trong không gian và thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng
trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
- Để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản
ánh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con người về
sự vật, hiện tượng cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc
tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự
vật, hiện tượng mà không thể bổ sung, không thể phát triển
* Vận dụng yêu cầu
+ Tránh sự phiến diện trong cách nhìn nhận, đánh giá
+ Xét nhiều: thông tin nhiều, mang tính khách quan. Bản chất, chức năng quy luật tiềm ẩn bên trong sự vật hiện tượng,
liên hệ giữa các sự vật hiện tượng được bộc lộ rõ thuộc tính
+ Xét có trọng tâm, trọng điểm: Lựa chọn những sự vật hiện tượng tiêu biểu, hoặc những thuộc tính tiêu biểu của sự vật
hiện tượng để đánh giá, qua những đặc tính đó, thuộc tính của sự vật hiện tượng bộc lộ rõ nét nhất
+ tập trung tối đa tâm lực, trí lực, vật lực để xem xét sự vật hiện tượng.
Tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối
liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải
biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ
tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động
phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
- Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả
năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật hiện tượng trong
một chỉnh thể thống nhất với tát cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng. Nguyên
tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn
của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh nhất định, con
người chỉ phản ảnh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con
người về sự vật và hiện tượng mang tính tương đối. Nắm được điều đó sẽ tránh tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật
hiện tượng và các tri thức về sự vật phải thường xuyên được bổ sung và phát triển.
- Trong hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Khoa học tự nhiên rất
cần đến quan điểm toàn diện, bởi việc nghiên cứu trong các ngành khoa học tự nhiên không tách rời nhau, ngược lại phải trong
mối liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có những sự vật, hiện tượng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các
khoa học. Trong lĩnh vực xã hội, nguyên tắc toàn diện đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể hiểu được một hiện
tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi những mối liên hệ, những sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác
2. Sự vận dụng của Đảng ta:
*. Giai đoạn 1976 – 1986

7
Đường lối chính sách được Đảng và nhà nước đưa ra đã vi phạm nguyên tắc toàn diện, dẫn đến 1 số chủ trương đường
lối sai:
- Phiến diện một chiều, cần ưu tiên phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghệp nhẹ lại ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng
- Không nhận thức đúng đắn vai trò của các thành phần kinh tế mà chỉ thừa nhận tp kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể
- Chỉ duy trì hình thức phân phối bình quân mà mà không thừa nhận các hình thức phân phối khác, tập trung quan
liêu bao cấp
- Đầu tư phát triển kinh tế nhưng không đúng, không coi trọng giáo dục đào tạo
Các chính sách trên chưa xem xét xã hội Việt Nam trên tất cả các phương diện mà chỉ thông qua thắng lợi của 2 cuộc
chiến tranh, do sự nóng vội đưa đất nước ta nhanh chóng theo con đường CNXH nên đã đưa ra những chủ trương sai lầm, phát
triển công nghiệp nặng (sắt, thép…) trong khi lương thực thực phẩm thiếu thốn, xóa bỏ thành phần kinh tế TBCN, các thương
gia, tiểu thương không có điều kiện phát triển, bộ máy tập trung quan liêu bao cấp cùng nền giáo dục không được coi trọng làm
cho đất nước càng ngày càng kém phát triển: kinh tế suy thoái, văn hóa xã hội trì trệ…
*. Giai đoạn 1986 – nay
Nghị quyết trung ương VIII đề cập đến việc đổi mới toàn diện: cuộc sống vật chất, tổ chức quản lý, kế hoạch đào
tạo…:
- Thực hiện 3 chương trình kinh tế: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu (tức là phát triển nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp) và phát triển công nghiệp nặng mũi nhọn khi có điều kiện
- Thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần
- Xóa bỏ quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thừa nhận cơ chế thị trường định hướng XHCN
- Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo
=> Nền kinh tế có sự phục hồi và dần phát triển, nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu lương
thực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao.

Câu 5. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử cụ thể? Sự vận dụng của đảng ta qua hai giai đoạn.
1: Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử cụ thể
* Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử cụ thể là mối liên hệ phổ biến
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Mọi sự vật
hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. các
sự vật, hiện tượng cũng như các bộ phận cùa chúng không tồn tại biệt lập nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa
lẫn nhau. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng
nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí
có thể làm thay đổi hòan toàn bản chất của sự vật.
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó,
phải phân tích xem những điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng.
Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh
làm nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu
có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều
kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc lịch sử – cụ thể là nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong
từng giai đoạn cụ thể của nó, biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và thực tiễn..
* Yêu cầu
- Xem xét tất cả những điều kiện hoàn cảnh liên quan đến sự phát triển của sự vật hiện tượng, để thấy được sự ảnh hưởng
của điều kiện hoàn cảnh chi phối sự vật hiện tượng, qua đó nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách khách quan, công bằng hơn.
- Không chỉ đánh giá sự vật hiên tượng ở hiện tại mà còn quan tâm đến quá khứ. Xem xét sự vật hiện tượng đó đã diễn ra
như thế nào, không được phủ nhận sạch trơn quá khứ
* Vận dụng yêu cầu
- Tự giác nhìn nhận sự vật trong mọi giai đoạn phát triển, điều kiện cụ thể để thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng
Tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử cụ thể:
- Nguyên tắc lịch sử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thực tiễn cũng như nhận thức. Khi xem xét sự vật hiện
tượng, chúng ta phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện,
với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời
gian cụ thể, gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật hiện tượng tồn tại
- Giá trị của nguyên tắc lịch sử cụ thể ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của
các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
- Nguyên tắc LS-CT yêu cầu phải nhận thức sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật
nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua
trong quá trình phát triển của mình.
- Ntac LS-CT yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay
thế nhau; yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn
tại hiện thời và khả năng chuyển thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định biện chứng.

8
- Ntac LS-CT còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển, tiêu vong của chúng, cho
phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể không chỉ kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối quan hệ nhân
quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa vai trò của chúng để tạo nên bức tranh khoa học về các
quá trình lịch sử.
2. Sự vận dụng của Đảng ta
*. Giai đoạn 1976 – 1986
Đường lối chính sách được Đảng và nhà nước đưa ra đã vi phạm nguyên tắc lịch sử – cụ thể, dẫn đến 1 số chủ trương
đường lối sai:
- Thực tế khách quan: nghèo nàn, trình độ dân trí thấp lại ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là chủ quan duy ý chí
- Các thành phần kinh tế tạo ra nguồn lực chủ yếu cho nền kinh tê, tạo ra cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật thì không
được coi trọng
- Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp chỉ phù hợp trong thời chiến nhưng vẫn áp dụng trong thời bình
- Không xuất phát từ thực tế khách quan vai trò của giáo dục
*. Giai đoạn 1986 - nay
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền
KTTT định hướng XHCN nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Và việc nghiên cứu tìm
hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn
đề bức thiết. Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu
tư nước ngoài với những qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng một hành lang pháp lý chung
cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu
hàng đầu, từ đó sẽ phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng
cường hội nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô,
định hướng nền KTTT theo định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn nhân
lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự
xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực
cải tạo xã hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm môi trường, giữ vững
sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận dụng
sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới; Có phương hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh
tế trong những năm tới.

Câu 6. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển? Sự vận dụng của đảng ta qua hai giai đoạn.
1 Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển
* Cơ sở lý luận nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Khái niệm sự phát triển
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần
dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển
diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao
hơn.
Nội dung của sự phát triển
Mọi sự vật, hiện tượng đểu nằm trong quá trình vận động, phát triển, trong đó phát triển được xem như trường hợp đặc
biệt của sự vận động. Trong quả trình phát triển sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, hoàn thiện hơn. Phương
thức của sự phát triển là sự thay đổi về chất trên cơ sở những thay đổi về lượng. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là những
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng, khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”
Tính chất của sự phát triển
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ
biến và tính đa dạng, phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo quan điểm duy vật biện chứng,
nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong
sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức của con người.
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã
hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực
cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái
niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song
mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau,
sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện

9
tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có
thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý vê sự phát triên, phép biện chứng duy vật rút ra những nguyên tắc phương pháp luận dùng để chỉ đạo hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn: Mọi sự vật hiện, tượng trong thế giới đều nằm trong quá trình vận động
và phát triển, nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải quán triệt nguyên tắc phát triển.
Nguyên tắc phát triển đặt ra các yêu cầu sau:
- Xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong các quá trình phát sinh, phát triển trong sự vận động,
biến đổi, chuyển hoá của chúng. Để có nhận thức đúng đắn về sự vật và vận dụng kết quà nhận thức ấy vào thực tiễn, chúng ta
không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, mà phải thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai. Phải phân tích để làm rõ những
biến đổi của sự vật, khái quát những hình thức biểu hiện của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng biến đổi chính cùa sự vật
đó.
- Phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đom giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau cho nên phải có sự phân tích cụ thể từng giai
đoạn để tìm ra nhõng cách thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp nhằm thúc đẩy những biến đổi có lợi và sự kìm hãm
nhữiỊg biến đổi có hại.
- Trong nhận thức, để phản ánh được sự vận động và phát triển của thế giới khách quan, nội dung của các luận điểm khoa
học không thể là bất biến. Nội dung của chúng cũng thay đổi, phát triển. Vì vậy cần phải có cái nhìn mềm dẻo, linh hoạt trong
việc xây dựng, phát triển các khái niệm khoa học nhằm phản ánh sự phát triển của sự vật hiện tượng một cách kịp thời.
Vận dụng yêu cầu
Để quán triệt nguyên tắc phát triển, chúng ta cần khắc phục những sai lầm sau:
- Chúng ta cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, v.v... trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Từ đó,
cần có quan điểm đứng đắn trong nhận thức về cái mới và tạo điều kiện cho sự khẳng định cái mới, cần xây dựng quan điểm
đúng đắn, khoa học trong việc nắm bắt hiện thực và có sự định hướng, niềm tin khoa học vào những xu hướng phát triển tất
yếu, hợp quy luật của hiện thực;
- Chúng ta cần có cái nhìn động, linh hoạt tránh tuyệt đổi hóa một hiện tượng, một khuynh hướng nào đó. Từ đó phải ra sức
tìm tòi cái mới, cũng như vận dụng một cách linh hoạt trong việc sử dụng các phương tiện tác động vào đối tượng, nhất là khi
tình hình đã thay đổi nhằm ủng hộ cái mới;
- Trong quá trình xây dựng các quyết sách và thực hiện các quyết sách phải tránh các cách nhìn cực đoan cả tả khuynh và
hữu huynh, cần nhận thức trạng thái chín muồi của đối tượng mà xây dựng và thực hiện các quyết sách một cách hiệu quả cho
sự ra đời của cái mới
Tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển:
Nguyên tắc phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo
chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, bản thân mỗi con người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng, biết
vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
2.Sự vận dụng của Đảng ta:
Trước đổi mới (1986)
Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự khái quát đó lại chưa phản ánh thật đầy đủ và chi tiết những điều
kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thế giới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục
bổ sung, phát triển quan điểm về mâu thuẫn, đồng thời nhận thức và giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó, bởi tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta về thực chất là giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội IX (2001),
Đảng ta xác định cụ thể các loại mâu thuẫn trong những chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ, đó là, mâu thuẫn giữa thực
trạng kinh tế-xã hội kém phát triển với yêu cầu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh;
mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta vươn tới mục tiêu đó; mâu thuẫn giữa nhân tố
chủ quan với yếu tố khách quan trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xác định mâu thuẫn, Đảng ta cũng đề ra các phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Việc giải quyết những mâu thuẫn xã
hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, nhưng phương diện khách quan của mâu thuẫn quy định nội
dung phương pháp giải quyết những mâu thuẫn đó. Do vậy, muốn giải quyết những mâu thuẫn xã hội, chúng ta phải căn cứ vào
bản chất, trạng thái (đã chín muồi hay chưa) của mâu thuẫn; phải căn cứ vào điều kiện chủ quan và khách quan; trong và ngoài
nước; phải tính đến thời điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương pháp giải quyết thích hợp. Vận dụng sáng tạo một trong
những phương pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa hết sức quan trọng mà V.I.Lênin đã chỉ ra
trong Chính sách kinh tế mới là "kết hợp các mặt đối lập một cách có nguyên tắc". Cụ thể, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường với sự quản lý có kế hoạch kinh tế - xã hội của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa; kết hợp nhiều thành phần kinh tế trong một cơ cấu kinh tế hỗn hợp nhưng thống nhất; vừa đấu tranh,
vừa hợp tác để phát huy mọi tiềm năng, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân và từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới; sử dụng các hình thức kinh tế quá độ như, kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh v.v.
Cùng với việc xác định mâu thuẫn, đề ra các phương pháp giải quyết mâu thuẫn, Đảng ta cũng xác định động lực của
công cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về nội lực, động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng ta lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và các nguồn lực của các thành phần kinh tế. Đây là động lực trực tiếp có

10
ý nghĩa quyết định đối với công cuộc đổi mới. Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế. Đây là các
nguồn lực căn bản cho sự phát triển của đất nước. Chúng ta cần ra sức tranh thủ những thành tựu khoa học, công nghệ, lực
lượng sản xuất, văn minh vật chất và văn minh tinh thần của nhân loại đã đạt được từ trước tới nay; hợp tác có hiệu quả với các
quốc gia, các tổ chức và các doanh nghiệp trên thế giới để phát triển đất nước. Nội lực và ngoại lực tạo thành một tổng hợp lực
to lớn, đủ sức mạnh để đưa đất nước tiến lên. Muốn vậy, chúng ta phải thực hiện được điểm mấu chốt là hình thành và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức
mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát
triển đất nước.

Câu 7. Cơ sở lý luận khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều bệnh giáo điều. Sự vận dụng của Đảng ta?
*Khái niệm:
- Bệnh kinh nghiệm: là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng 1 cách máy móc vào hiện
tại khi điều kiện đã thay đổi.
Biểu hiện:
+ trong nhận thức và hành động luôn xem thường lý luận, ngại học tập để nâng cao nhận thức lý luận.
+ khi tiếp thu lý luận 1 cách giản đơn thậm chí là bớt xén để lý luận phù hợp với kinh nghiệm
+ xem tri thức kinh nghiệm là tri thức tuyệt đích, đóng vai trò quyết định của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri thức kinh nghiệm thông thường là trình độ thấp
của tri thức. tri thức này chỉ khái quát thực tiễn với những yếu tố và điều kiện đơn giản, hạn chế. Nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm
mọi nơi mọi lúc, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và thất bại trong thực tiễn khi điều kiện hoàn cảnh đã thay
đổi
- Bệnh giáo điều: là tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vân
dụng lý luận 1 cách máy móc không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể mỗi nơi mỗi lúc.
Biểu hiện:
+Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn 1 cách nguyên si máy móc dập khuôn.
+ Xa rời thực tế trong cả nhận thức và hành động.
Trong thực tiễn, bệnh giáo điều có 2 hình thức biểu hiện: giáo điều lý luận – vận dụng lý luận 1 cách máy móc.. và
giáo điều kinh nghiệm – áp dụng máy móc kinh nghiệm của nước khác, nơi khác vào nước mình, địa phương mình.
- Cơ sở lý luận:
+ do vi phạm quan hệ biện chững thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật chất, còn
lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là
cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận; nó cung cấp chất liệu phong phú sinh động để
hình thành lý luận và thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện
thực. Lý luận mặc dù được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của lý
luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực
tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn.
+ Do có sự yếu kém về tri thức lý luận. Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan điểm
thực tiễn. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo sát sự phát triển của thực
tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận
của nhận thức, kiểm tra những luận điểm của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật
phải được hình thành, bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ không phải bằng con đường suy
diễn thuần túy, không phải bằng con đường tự biện. Do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên tổng kết
quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp.
* Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn với những yếu
tố và điều kiện đơn giản hạn chế. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiêu quả, một mặt phải quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung , vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Mặt
khác hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội CN. Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh
tế phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó, để chủ động về quyết sách kinh doanh phù hợp.
Khi thị trường hóa toàn bộ các yếu tố của quá trình sản xuất thì sẽ khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm
Bệnh giáo điều là tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận
dụng lý luận một cách máy móc, không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể mỗi nơi. Nguyên nhân là do hiểu biết lý luận còn nông
cạn, chưa nắm chắc thực chất của lý luận, lý luận chưa được vận dụng, kiểm nghiệm và khái quát từ thực tiễn nên xa rời thực
tiễn, mất tính sinh động và sáng tạo của lý luận. Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận phải luôn gắn liền với thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn và không ngừng sáng tạo cùng thực tiễn. Hồ Chí Minh nói :” Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mác-lenin. Thực tiễn không có lý luận thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có thực tiễn là lý
luận suông”.
* Sự vận dụng của Đảng
Trước đổi mới (trước 1986)

11
Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch
sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan,
nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết.
- Căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm
cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn,
CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. căn “bệnh” giáo điều biểu hiện ở nước ta là qua việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tiến
hành cải tạo XHCN; xóa tất cả các thành phần kinh tế, chỉ còn kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
- Căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa biểu hiện ở việc bắt chước một cách rập khuôn theo mô hình XHCN ở Liên Xô (cũ):
Liên Xô có bao nhiêu bộ ta cũng có bấy nhiêu bộ, Liên Xô phát triển công nghiệp nặng thì ta cũng phát triển công nghiệp nặng
mà không xem xét đến điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời không chú ý đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
trong khi nước ta là một nước nông nghiệp với tất cả những điều kiện vật chất khách quan đều thuận lợi để phát triển nông
nghiệp. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng
chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường...), quá nhấn mạnh
một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ.
Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính
sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội: Nnhiều vấn đề
mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay
đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình
lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói
mòn. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong phát triển kinh tế còn nặng nề, chưa bị xóa bỏ. Chậm đổi mới cơ chế và bộ máy
quản lý, thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý nhưng lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm, quá tập trung quyền lực nhà
nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối... làm cản trở sự sáng tạo, tạo
nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội.
Thời kỳ đổi mới ( sau 1986 )
Nhận thức được những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có mọi phương hướng đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn như Văn kiện Đại hội
VI của Đảng đã xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Đại hội
VI đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong đó bài học thứ hai là "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng". Nền kinh tế hàng hóa nhiều thanh phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước được
hình thành.
Đại Hội Đảng lần IX cũng đã nhấn mạnh “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã hội Việt Nam,
tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào…”.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định "Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn
luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế
giới, không sao chép bất cứ một mô hình sẵn có nào; đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa
chọn những giải pháp mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển
biến tình hình".
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh chóng, phức tạp, khó
lường thì những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, trong đó có những vấn đề liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường
xây dựng CNXH. Không ít vấn đề về nhận thức lý luận còn chưa đủ rõ; không ít vấn đề về thực tiễn, nhất là những vấn đề bức
xúc nảy sinh từ cuộc sống, chưa được giải quyết kịp thời và tốt nhất.
Thực tiễn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, có sự thay đổi toàn diện và cơ bản, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị và khối đại đòan kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường, giữ vững an ninh, quốc phòng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự vận
dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
* Quan điểm duy vật biện chứng về vận động, phát triển
Vận động
- Khái niệm: Vận động là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn
giản đến phức tạp
- Tính chất:
+ Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những trình độ phát triển của kết cấu vật chất
+ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình thức vận động thấp
hơn
+ Mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao giờ cũng đuợc đặc trưng bằng một hình thức
vận động cơ bản
Phát triển
- Khái niệm:

12
Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện.
Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới
- Tính chất:
+ Phát triển mang tính khách quan,nó là cái vốn có của bản thân sự vật hiện tượng.
+ Phát triển không chỉ là sự thay đổi về mặt số lượng hay khối lượng mà nó còn là sự thay đổi về chất.
+ Phát triển mang tính kế thừa nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải tạo và phát triển, không kế thừa nguyên xi hay lắp
ghép từ cái cũ sang cái mới một cách máy móc, hình thức.
+ Tùy vào từng sự vật, hiện tượng,quá trình cụ thể, phát triển còn bao gồm cả sự thụt lùi đi xuống nhưng khuynh hướng chung
là đi lên, là tiến bộ. Theo quan điểm duy vật biện chứng thì khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc.
+ Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn của sự vật hiên tượng quy định.
* Nguồn gốc, động lực của vận động và phát triển là nguyên tắc thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá
trình vận động và phát triển, theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển
chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy
vật biện chứng đã tìm thấy nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, các mặt
đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng. Mâu thuẫn biện chứng cũng nằm trong quá trình phát triển. Khi mới xuất hiện,
mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản của hai khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau không ngừng phát triển và đi đến
sự đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, mâu thuẫn được giải quyết và mâu thuẫn mới hình thành. Sự
vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. C. Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn
tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp giữa hai mặt ấy thành một phạm trù mới”. V.I. Lênin
nhấn mạnh: “ Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Khái niệm: Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau
nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề để tồn tại của nhau.
- Tính chất:
+ Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến
+ Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật hiện tượng đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau,
biểu hiện khác nhau trong điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau.
- Quá trình vận động của mâu thuẫn:
+ các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc không tách
rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập
bao hàm sự đồng nhất của nó. Sự đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định
nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của nó rất phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện
cụ thể của sự vật, hiện tượng. Quá trình thống nhất và đấu trang của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng.
Sự chuyển hóa diễn ra hết sức phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào hoàn
cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể
+ Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh là tuyệt đối, còn sự thống nhất là tương đối. Trong sự
thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
+ Tác động qua lại dẫn đến sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện
ở sự khác biệt và phát triển thành 2 mặt đối lập. Khi 2 mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã
chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành
và quá trình tác động, chuyển hóa giữa 2 mặt đối lập lại tiesp diễn, làm cho sự vật hiện tượng luôn luôn vận động phát triển
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập,
nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động, phát triển
+ Trong nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử – cụ thể, tức là phân tích cụ thể từng loại
mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp, phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh,
điều kiện nhất định, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng
đắn nhất.
Hoạt động thực tiễn là nhằm giải quyết mâu thuẫn tạo ra sự biến đổi của sự vật Dó đó, phải xác định đúng trạng thái
chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn được
giải quyết bằng con đường đấu tranh của các mặt đối lập. Đối với mâu thuẫn khác nhau có phương pháp giải quyết khác nhau.
* Sự vận dụng của Đảng: Mâu thuẫn trong quá trình CNH, HDH đất nước
Trước 1986
Đại hội Đảng toàn quốc lần III (1960 ) đã xác định: CNH là nv trung tâm của trong suốt thời kì quá độ. Nội dung cơ
bản của CNH khi đó được xác định là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: CM QHSX, CM KHKT, CM tư tưởng văn hóa. Trong công nghiệp
nặng thì chú trọng công nghiệp cơ khí chế tạo máy móc để sản xuất ra tư liệu sản xuất, trang bị công cụ sản xuất cơ khí máy
móc cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân Nhận thức về công nghiệp hóa hiện đại hóa: Xem công nghiệp hóa chỉ là quá trình
tạo ra máy móc, coi trọng ngành công nghiệp nặng phục vụ cho nền sản xuất xã hội, coi nhẹ nông nghiệp và các ngành dịch vụ
khác.
=> Việc áp dụng các cơ sở trên của công nghiệp hóa trong thời kì nước ta vừa mới bị tàn phá nặng nề do 2 cuộc chiến tranh là
chủ quan, nóng vội về đường lối.

13
+ Đưa máy cày ồ ạt vào đồng ruộng thay cho sức kéo của súc vật vừa không phù hợp với điều kiện bậc thang ở nước ta vừa
không tận dụng được sực kéo, gây lãng phí
+ Việc đầu tư tràn lan ở nhiều cơ sở sản xuất máy móc trong khi vốn không có, người lao động không có trình độ cũng như
quản lí kém hiệu quả dẫn đến ngành nông nghiệp ko được coi trọng, thiếu lượng thực lực phẩm, kinh tế đình trệ, đói kém và lạc
hậu
Sau 1986
Đại hội đảng VIII (1986) đã tập trung nói rõ về CNH, HDH ở nước ta từ mục đích đến tiến hành từng bước, thứ tự ưu tiên
các ngành trong cơ cấu kinh tế, đến cả việc xác định động lực của quá trình CNH, HDH là như thế nào…,mở ra một chặng
đường mới đẩy mạnh CNH, HDH. Thời kì quá độ của nước ta hiện nay có 3 mâu thuẫn cơ bản
- Mâu thuẫn 1 bên là lực lượng sản xuất phát triển và đang tự tìm con đường giải phóng với bên kia là quan hệ sản xuất
đang kìm hãm, MT giữa lực lượng lao động và QHSX TBCN (thành phần tư bản tư nhân, xí nghiệp 100% vốn nước
ngoài..) => MT QHSX Và LLSX
- Mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu thỏa mãn các nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của nhân dân với 1 nên là
nền sản xuât quá thấp kém, còn đang ở trình độ nền sx giản đơn và mang nhiều tính tự cấp, tự túc > MT giữa SX và
nhu cầu
- Mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển tự phát đi lên CNTB và 1 bên là sự can thiệp có định hướng của chúng ta phát
triển theo con đường dẫn tới CNXH
Phương hướng giải quyết
- Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân với tình trạng quan liêu bao cấp của hệ thống chính trị: Giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng, bằng sự tiên phong gương mẫu của Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng
- Tập trung xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Câu 9 Phân tích cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn. Sự vận dụng của
Đảng ta đối với vấn đề này
1. phân tích cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn
- Khái niệm:
+ tả khuynh: có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn có sự thay đổi sớm về lượng nhưng không tính đến việc
lích lũy về chất.
+ hữu khuynh: là tư tưởng bảo thủ trì trệ, không dám thực hiện sự thay đổi về chất khi đã có sự tích lũy đủ về lượng.
- Biểu hiện của tả khuynh- hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn:
+ tả khuynh: nóng vội, luôn muốn đốt cháy giai đoạn, không quan tâm đến tính khách quan vốn có của sự vật.
+ hữu khuynh: bảo thủ, tuyệt đối hóa về sự thay đổi về mặt quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của
sự vật, không kịp thời chuyển những thay đổi về tính quy định vốn có sang tính khách quan vốn có của sự vật.
- Nguyên nhân:
+ Vi phạm sự thống nhất giữa tác động qua lại của sự vật hiện tượng.
+ vi phạm nguyên lý của quy luật lượng chất, cụ thể:
Cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh, hữu khuynh là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn
đến những sự thay đổi về chất và ngược lại, chỉ ra cách thức vận đông, phát triển của sự vật, hiện tượng
Các khái niệm
- Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc tính và đặc điểm cấu trúc của sự
vật. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những
thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Tính quy định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân biệt sự
vật này với sự vật khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua các thuộc tính.
- Lượng của sự vật là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc độ, trình độ phát triển của sự
vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay
thấp..v..v..đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này
với thời kỳ khác. Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, một nước có 50 triệu
dân..v..v
- Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện
tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự vật không còn là nó.
- Điểm nút là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút gọi là đường nút.
- Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một phạm trù triết học
dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.
Nội dung của quy luật
- Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật
tương ứng với thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự
vật. ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Khi lượng của sự vật được
tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về
lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt quá giới hạn độ sẽ làm
cho chất của sự vật thay đổi căn bản. Điểm mà tại đó sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện gọi là điểm nút. Bước nhảy là
bước thay đổi căn bản về chất của sự vật do sự thay đổi lượng trước đó gây ra. Đồng thời, sự thay đôi về chất lại tác động đến
lượng, thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển.
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại: Mọi sự vật đều là sự
thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua

14
bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn... Quá trình tác động đó diễn ra
liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.
Y/cầu của quy luật:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định,
thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng
bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ
quan, duy ý chí, nôn nóng, "đốt cháy giai đoạn" muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát,
còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng
phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ
những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu khuynh" thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
2. Sự vận dụng của Đảng: Vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của các thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công CNXH.
Trước 1986
Chúng ta chưa tích lũy đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH, nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất XHCN. Sau năm
1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một
thành phần dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là bộ phận đối lập với kinh
tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ, làm như vậy là chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém với một bên là quan hệ sản
xuất được xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, hay nói cách khác khi lực lượng sản xuất
của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ đủ về lượng (tính chất và trình độ) đã vội vã thay đổi chất (quan hệ sản xuất
XHCN) làm cho đất nước lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Sau 1986
Từ đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai lầm trên chúng ta thực hiện xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, xuất phát từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là đa dạng, không đồng đều và
chưa cao.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều thành phần là phù họp với phát triển lực lượng
sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự giải phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo
chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế- xã hội với những kết quả
đáng mong đợi:
- Thực hiện 3 chương trình kinh tế: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu (tức là phát triển nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp) và phát triển công nghiệp nặng mũi nhọn khi có điều kiện
- Thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần
- Xóa bỏ quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thừa nhận cơ chế thị trường định hướng XHCN
- Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo

Câu 10. Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra khuynh hướng, con đường vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Sự vận
dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
1.Cơ sở lý luận chỉ ra khuynh hướng, con đường vận động và phát triển của SV HT là: Quy luật phủ định của phủ định
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được
thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó gọi là phủ định. Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động và phát triển. Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn
tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa. Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật
khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là
khẳng định.
2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy, những nhân tố mới xuất hiện sẽ
thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra - sự vật đó không còn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có
những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như
là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những
nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định hai lần phủ định của phủ định được thực hiện,
sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua sự phủ
định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai (những hạt thóc mới phủ định cây lúa), sự vật dường
như quay trở lại sự khẳng định ban đầu (hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao hơn (số lượng hạt thóc nhiều hơn, chất lượng hạt thóc
cũng sẽ thay đổi).
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung
thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng sự vật sẽ ngày càng phát triển.

15
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển
trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của
phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát
triển tiếp theo.Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song sự
phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường "xoáy ốc". Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị
rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng
của đường "xoáy ốc" dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của
sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện
chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc tính
mới làm cho sự phát triển đi theo đường "xoáy ốc".
3. ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa phươngpháp luận sau đây:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển
của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu
kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt.
Do đó, chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển.
Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc
hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó, trong hoạt động của mình, con
người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn.
4. Vận dụng: hình thái kinh tế xã hội theo đường xoắn ốc
Loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế xã hôi. Đó là xã họi cộng sản nguyên thủy, chiễm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển, diệt vong .
Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở lên lỗi thời,
hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp thì phương thức sản
xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng
sản xuất.
Có thời kỳ nước ta mắc phải căn bệnh phủ định sạch trơn, đây là thời gian đánh giá về giá trị của CNTB là xấu, phải
tránh xa còn CNXH thì toàn màu hồng. Vào giai đoạn này, tất cả những sản phẩm hàng hóa cũng như những văn hóa tư tưởng
của CNXH được đề cao tuyệt đối, còn của CNTB thì được cho là sai lệch, không tốt.
Sau những năm đổi mới, đất nước ta đã biết nhìn nhận và kế thừa chọn lọc những giá trị, những thành tựu mà CNTB
mang lại.
Tóm lại, có thể thấy sự vận động của không chỉ Việt Nam mà toàn nhân loại đều tất yếu đi theo quy luật này. Tuy nhiên khi cái
mới xuất hiện, ban đầu sẽ là cái cá biệt, non yếu. Vì vậy chúng ta cần quan tâm bảo vệ để nó tồn tại, phát triển và được nhân
rộng ra.

Câu 11: Phân tích mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
*Khái niệm
- Thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải
biến tự nhiên, xã hội và bản thân con người
Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
+ lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt động trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của
cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
+ hoạt động chính trị – xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các quan hệ xã hội theo
hướng tiến độ
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác động nhằm làm cải biến các quan hệ xã hội
theo hướng tiến bộ
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau,không thể thay thế được cho nhau
song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
- Lý luận: là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, những quy luật của các sự
vật, hiện tượng
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan
sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng, kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức
kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành
tố của tri thức ở cấp độ thấp nhưng là cơ sở để hình thành lí luận
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó, có thể phân chia lí luận thành
+ Lý luận ngành: lí luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành, nó là cơ sở để sáng tạo tri thức
cung như phương pháp luận cho hoạt động của ngành đó, như lí luận văn học, nghệ thuật…
+ Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con người, là thế giới quan và phương pháp
luận nhận thức và hoạt động của con người.
*Mối quan hệ biện chứng giữa lí luận và thực tiễn
- Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận: lý luận hình thành, phát triển xuất phát từ thực tiễn,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

16
+ Thực tiễn là cơ sở của lý luận:Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người
phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý
luận,. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở đẻ bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt
động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua
đó, lý luận được bổ sung , mở rộng.
+ Thực tiễn là động lực của lý luận.Hoạt động của con người là nguồn gốc các cá nhân, hoàn thiện các mối quan hệ của
con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận đụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con
người và càng kích thích con người tiếp tục bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự
tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Qua đó, thực tiễn thúc đẩy một ngành khoa
học mới ra đời – khoa học lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước
hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hoen, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận
không tạo ra những sản phảm đáp ứng nhu cầu của con người , mà phải thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận. Tính chân lý của lý luận là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và
được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phiải
thông qua thực tiễn kiểm nghiệm.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tình toàn vẹn của nó. Thực tiễn có nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau, chỉ có lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển
trong thực tiễn. Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm
hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu.
+Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn,
vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Không có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế
giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp. Lý
luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho
hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát.
+ Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương
hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa
học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể
lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận.
+ Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: "Không có lý luận cách mạng thì
không thể có phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng
vật chất".
* ý nghĩa phương pháp luận
Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được
bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống.
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn,
dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan
liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao
trìnhđộ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư
duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào
những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sáchcủa Đảng.
Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệmvà bệnh giáo
điều.
*Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hoà
và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề
nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với
xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản
xuất giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn -
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính
chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và
điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng
không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý
luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan
điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua
thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán

17
trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những
khuyết điểm, lệch lạc nhất định.

Câu 12. Phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (hoặc nội dung cơ bản nhất của quy luật chi
phối sự phát triển của lịch sử loài người). Sự vận dụng của Đảng ta đói với quy luật này.
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của
xã hội loài người. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất địnhvà quan hệ sản
xuất tương ứng.
- Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động" . Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ
năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra
của cải vật chất. Trong các yếu tố của LLSX, LLSX hàng đầu là người lao động. Cùng với người lao động, công cụ lao động
cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất.Trong sự phát triển của lực
lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản
xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân
phối sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội, quyết định quan hệ về tổ chức
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp
tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản
xuất. Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản
xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động
sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
2. Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động
qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan
hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trửo lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quyết
định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã
hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ… do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm. Và khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải không ngừng phát triển sản xuất,
nâng cao năng suất lao động. Sự phát triển đó được đánh dấu bằng trình độ của LLSX.Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở
trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao
động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công,
phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện
đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa. Sự vận động, phát triển của lực lượng
sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất. Trong
trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm
hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất
đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
- Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã
hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v. và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ
tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu
nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật
xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

18
3. Sự vận dụng của Đảng ta
Giai đoạn 76-86:
Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển. Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên Nhà nước lãnh
đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất.
Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội
đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978.Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp". Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập
trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế, các xí nghiệp nhà máy cứ theo kế hoạch nhà nước mà
làm. Thành phần kinh tế tư nhân bị cấm. Nông dân làm việc trong các hợp tác xã.
Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm. Kết quả này
do nhiều nguyên nhân trong đó có cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở
về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội”[18] dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch
nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến
lãng phí lớn về sức người, sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của
Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu
bao cấp với cách kế hoạch hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương
và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính
sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những
người lao động... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện pháp có hiệu quả. Hậu quả nghiêm
trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để
thực thi "đánh tư sản mại bản", làm cạn kiệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng.
Giai đoạn 86 đến nay:
Là thời kỳ chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định 2
hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" . Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc" .Xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy,
chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung
tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Câu 13. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?Sự vận dụng của Đảng ta đói
với quy luật này.
1. Khai niệm CSHT và KTTT
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một
xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã
hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy
định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ
sản xuất thống trị trong xã hội đó.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng
với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ
tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên
hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau
đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như
triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
2.1 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ
sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng
tầng trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của
kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết
định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng
trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v. đều trực
tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay
muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã
hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.

19
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến
trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, v.v.. Trong kiến trúc thượng
tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v. hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.
Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
2.2. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không phải
là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc
lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Tất cả các yếu tố cấu
thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách
thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ
máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật, v.v. cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó,
chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh
tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp
với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm
hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
3. Vận dụng của Đảng ta
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan
hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất.
Tương ứng với sự đồng nhất về bản chất kinh tế là sự tác động của nhiều hệ thống quy luật kinh tế. Hệ thống quy luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa; hệ thống quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra một hành lang
pháp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, đồng thời Nhà nước sử dụng tổng thể các biện pháp - trong
đó biện pháp kinh tế là quan trọng nhất - nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất. Kinh tế Nhà nước không ngừng được củng
cố và phát triển cả về chất và về lượng ở những vị trí nòng cốt của nền kinh tế.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng
về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít. Bởi vậy,
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo đảm bảo
cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ: ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả
các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người,
thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát
triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt
thời kỳ quá độ.

Câu 14: Phân tích làm rõ tính độc lập tương đối của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất của xã hội. Ý nghĩa
phương pháp luận được rút ra từ đó?
1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội gồm: phương thức sản xuất vật chất các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa
lý, dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và
phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là quan trọng nhất.
- Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội; nội dung của ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội .C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế ấy, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát
triển trên cơ sở đời sống vật chất, do đó không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm
trong hiện thực vật chất.
Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều
kiện đời sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến

20
đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật... tất
yếu sẽ biến đổi theo.
Tồn tại xã hội quyết định sự biến đổi của ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì ý thức
xã hội cũng thay đổi theo; sự biến đổi của ý thức xã hội là sự phản ánh đối với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của
một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Theo C.Mác: “ ...không thể nhận
định về một thời đại đảo lộn như thế căn cư vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn
của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”(C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.15.).
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không
phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tưtưởng, quan niệm, hình thái ý
thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, nhưng nếu xét đến cùng thì các mối quan
hệ kinh tế bao giờ cũng được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Triết học Mác - Lênin khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng cũng khẳng định ý thức xã hội có tính độc
lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được xem xét trong quan hệ biện chứng với tồn tại
xã hội, vẫn do tồn tại xã hội quyết định, nhưng ý thức xã hội có quy luật vận động nội tại riêng và luôn tác động mạnh mẽ trở
lại tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu hiện trên những đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, không
phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Trong nhiều
trường hợp, ý thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội đã thay đổi. Điều đó là do:
- Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy,
những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ cố tình duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.
→Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng; kiên trì đấu
tranh xoá bỏ các tàn dư tư tưởng, ý thức lạc hậu. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch về mặt tư tưởng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân ta.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận trong điều kiện nhất định tư
tưởng con người có thể vượt trước tồn tại xã hội. Tính phản ánh vượt trước của ý thức xã hội chỉ xuất hiện ở một bộ phận
những tư tưởng khoa học, tiên tiến. Những tư tưởng này có khả năng phản ánh sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
trong tương lai và hình thành các dự báo khoa học.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội cho
thấy ý thức xã hội của một xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội trước đó. Tính kế thừa trong sự
phát triển của ý thức xã hội cho phép thế hệ sau tiếp thu thành quả của thế hệ trước và vận dụng vào thực tiễn mới để phát triển
cao hơn. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng nhân loại, trực tiếp nhất là triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. Ý thức xã hội được biểu hiện
dưới nhiều hình thái cụ thể khác nhau, mỗi hình thái phản ánh các mặt khác nhau của đời sống vật chất xã hội và mỗi hình thái
có phương thức phản ánh riêng, có chức năng xã hội nhất định. Các  hình thái ý thức xã hội này luôn tác động lẫn nhau và sự
tác động này phản ánh quy luật nội tại trong quá trình phát triển của ý thức xã hội.
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, nhất là ý thức tư tưởng tiến bộ góp phần to lớn vào thúc
đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại ý thức xã hội lạc hậu, phản tiến bộ có thể kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra động thái phức tạp trong lịch sử
phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm
thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Ý nghĩa phương pháp luận: việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có vai trò quan
trọng để xây dựng phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội là cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Theo nguyên lý này, một mặt, nhận
thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội phải căn cứ vào tồn tại xã hội nhưng mặt khác cũng phải thấy được sự độc lập
tương đối giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Do đó, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải tiến hành đồng
thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý thức xã hội;
đồng thời, cũng cần phải thấy rằng những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo
ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Ý thức xã hội có khả năng tác động đến tồn tại xã hội theo hướng tích
cực và tiêu cực. Nếu xem nhẹ sẽ có tác động xấu, ngược lại sẽ có những tác động tốt. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao đời
sống vật chất ta cần phải không được xem nhẹ nâng cao đời sống tinh thần.

Câu 16. Để ý thức tác động lại vật chất cần những điều kiện gì? Sự tác động đó phụ thuộc vào các yếu tố nào. Kết quả
của sự tác động đó. Lấy ví dụ minh họa.
- Khái niệm:

21
+ vật chất: trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán Lê nin đã định nghĩa: vật chất là 1
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
+ ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Tuy nhiên không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc của con người là trở thành ý thức. Ngược lại ý thức là
sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện
thông qua hoạt động lao động. Vì vậy ý thức là cái vật chất được đem vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có
thể tưởng tượng ra những cái không có thực trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo
tưởng, huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao. Tuy nhiên sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh bởi vì ý thức bao giờ cũng chỉ là phản ánh sự tồn tại.
- Ý thức tác động trở lại đối với vật chất được biểu hiện ở chỗ:
+ Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào óc con người giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động phát
triển của sự vật, hiện tượng.
+ Vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là vai trò hoạt động thực tiễn của con người, vì ý thức tự nó không thể
hiện được gì hết. Ý thức chỉ có tác dụng đối với thực tại khi nó được thực hiện trong thực tiễn, thông qua thực tiễn.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn làm cho vật chất biến đổi theo 2 chiều hướng
là thúc đẩy vật chất hiện thực tốt lên hoặc kéo vật chất hiện thực xấu đi. Tác động này được phụ thuộc vào 4 nhân tố:
+ ý thức tư tưởng mang nội dung gì
+ năng lực tổ chức triển khai nội dung đến đâu
+ mức độ thấm nhuần ý thức tư tưởng đến đâu
+ điều kiện vật chất và hoàn cảnh lịch sử
Cụ thể, để ý thức tác động lại vật chất cần những điều kiện:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức song
ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
Hoạt động thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhắm cải tạo
hiện thực. Hoạt động thực tiễn có các dạng cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị- xã hội và thực nghiệm
khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con
người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy
trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những
mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt
động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và
xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau song
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Hoạt động này là mắt khâu trung gian trong mối quan
hệ giữa ý thức của con người với thế giới vật chất. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất,
đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác
*Sự tác động đó phụ thuộc vào các yếu tố nào?
- Ý thức: Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối
tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. ý thức ra đời trong quá
trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng
động sáng tạo thống nhất ba mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng,
có chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Ba là, chuyển mô
hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
Hoạt động vật chất: Sự tác động của ý thức lên vật chất chỉ thực sự bộc lộ khi con người có hoạt động vật chất cụ thể.
Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn.
Ý chí quyết tâm: Con người bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, có thể thực hiện các mục tiêu đề ra.

* Kết quả của sự tác động


Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt đông đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn sâu sắc thế giới
quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp, chính xác. Ngược lại, ý thức có thể
làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới quan

Câu 17. Phân tích luận điểm: phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)? ý nghĩa pp luận?

- Quan điểm phát triển theo chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ
mất đi; sự vật hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuần giữa các mặt đối lập

22
bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển là 1 trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát ttriển, sự vật hiện tượng
chuyển hóa sang chất mới cao hơn phức tạp hơn; làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận động và chức năng của sự vật ngày
càng hoàn thiện hơn.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng.
+ Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là hổ biến trong tất cả các sự vật. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến
trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc
phát triển của nhận thức.
+ Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này
phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những
nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, "sự thống nhất
của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự "đồng nhất" của các mặt đó. Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển
khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà
còn luôn luôn "đấu tranh" với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn
nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại
giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.

+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành
mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn
liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển.
Điều đó có nghĩa là: "Sự thống nhất (...) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của
các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối" .
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi
của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản,
nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập
xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được
thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và
phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy
định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Nội dung
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau: Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi
ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập.
Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau
làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu
nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những
khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các
mặt đối lập đó. V. I. Lênin viết: "Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận của nó..., đó là thực chất... của
phép biện chứng".
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối
quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác
động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật,
hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, phải chống thái độ chủ
quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi
đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn
một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.

Câu 18. Phân tích luận điểm: thực tiễn luôn cao hơn nhận thức lý luận? / hoặc thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực là
tiêu chuẩn kiểm tra nhận thức.Ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghien cứu luận điểm này, yêu cầu của bài học.
Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang
đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối
quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý ... luôn là chìa khóa để
để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý
chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.

23
Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản:
1- Thực tiễn là gì?
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ
triết học Mác – Lênin nói chung.
* Quan điểm của triết học trước Mác:
- Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn.
- Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải
bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất.
* Quan điểm triết học mácxít:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và
xã hội.
Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất
(để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất "cảm tính" của
con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và
được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của con
người và xa hội loài người.
Hoạt động thực tiễncó ba dạng cơ bản, đó là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các
dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất
trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con
người và xã hội loài người.
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối
quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do
con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và phát
triển của đối tượng nghiên cứu.
2- Lý luận là gì?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử.
Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được
diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật ... phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan hệ với thực tiễn
Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận (nhận thức):
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý; lý luận hình thành, phát triển xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Do đó thực tiễn luôn cao hơn nhận thức
lý luận.
- Thực tiễn là cơ sở của lý luận:Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người
phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý
luận,. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở đẻ bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt
động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua
đó, lý luận được bổ sung , mở rộng.
- Thực tiễn là động lực của lý luận.Hoạt động của con người là nguồn gốc các cá nhân, hoàn thiện các mối quan hệ của
con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận đụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con
người và càng kích thích con người tiếp tục bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự
tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Qua đó, thực tiễn thúc đẩy một ngành khoa
học mới ra đời – khoa học lý luận.
- Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước
hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hoen, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận
không tạo ra những sản phảm đáp ứng nhu cầu của con người , mà phải thông qua hoạt động thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận. Tính chân lý của lý luận là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và
được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phiải
thông qua thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tình toàn vẹn của nó. Thực
tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, chỉ có lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân
lý.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát
triển trong thực tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người khái quát thành lý luận. Chính nhờ có lý luận soi
đường, hoạt động con người trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. (Tham khảo: Lý luận còn dự báo
khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất
bại có thể có trong quá trình hoạt động. Mặt khác lý luận còn đóng vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết cá cá nhân thành
cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và xã hội. Lý luận có tính lịch sử cụ thể,
do đó khi vận dụng lý luận cần phân tích một cách cụ thể tình hình, nếu vận dụng một cách máy móc, giáo điều thì chẳng
những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.)

24
Ý nghĩa phương pháp luận:
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực
dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc
và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông
qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải
pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây
lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề
của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động
nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ
thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Câu 19. Phân tích luận điểm sau của Lênin: Mác coi sự vận động xã hội là một quy trình lịch sử - tự nhiên. Sự vận dụng
sự nghiên cứu vấn đề này vào xem xét con đường đi lên CNXH VN hiện nay.
1. Kết cấu của hình thái kinh tế xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và
với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Lực lượng sản xuất là năng lực thực
tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao
động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" . Dựa
trên cơ sở lí luận hình thái kinh tế xã hội của Mác, 3 bộ phận hình thành nên hình thái kinh tế xã hội này tác động qua lại và
hình thành nên những hệ thống quy luật chung và quy luật đặc thù. Sự thay thế có thể diễn ra tuần tự hoặc không tuần tự từ thấp
đến cao nhưng vẫn mang tính tự nhiên.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ
sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân
phối sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản
xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng
của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm
mống của xã hội tương lai.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v.
cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ
sở hạ tầng nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy
luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của
các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực
lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Các quan 1hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác . Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế
độ xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ,
duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi vào phân tích XHTB, quá trình
hình thành, ra đời, tiêu vong cùng những giai đoạn lịch sử từng có trước đó và đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình
thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên" .
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến
trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Sự tác động của các quy
luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển
chung của nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác
động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát
triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có

25
những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một
số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải
theo ý muốn chủ quan.
2. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đem lại cho khoa học xã hội một phương pháp thực sự khoa học. Học thuyết đã
chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên
không thế xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cầm quyền để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Học
thuyết cũng chỉ ra xã họi không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh
động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định
các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Học thuyết còn chỉ ra sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các
quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên
cứu các quy luật vận động phát triển của đời sống xã hội. Hiện nay loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi
mặt. Tuy nhiên học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn
về đời sống xã hội.
3. Vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
Sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công, miền bắc đi lên xây dựng CNXH và sau 1975 cả nước đi lên CNXH. Việt
Nam đi lên CNXH bỏ qua TBCN là sự lựa chọn tất yêu, đúng đắn cả về định tính, định hướng, khát vọng. Về lý luận: ta đã vận
dụng đúng lý luận của Mác vào Việt Nam, phù hợp với khát vọng của nhân dân, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bỏ qua k
đi theo TBCN, từng bước đi lên xây dựng CNXH. Tuy nhiên chúng ta chỉ bỏ qua TBCN về bản chất còn vẫn kế thừa những
thành tựu, cơ sở kinh tế. Về thực tiễn cũng được thể hiện rõ nét qua quá trình tiến hành CNH- HĐH đất nước.
* Việc lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
Nước ta tiến lên CNXH từ một xuất phát điểm rất thấp, đó là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu trải qua liên tiếp chiến
tranh. Vì vậy, Đảng ta đã lựa chọn con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Sự lựa chọn này đã được Đảng ta xác
định ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đầu năm 1930 do Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta là đồng chí Trần Phú soạn
thảo và ghi rõ : "Cách mạng Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ thì tiến thẳng lên làm cách mạng XHCN
mà không kinh qua chế độ TBCN".
Sự lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Từ khi nước ta bước vào thời
kỳ đổi mới (năm 1986), cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế Đảng ta đổi mới tư duy lý luận kinh tế và nhận thức được rằng,
chúng ta bỏ qua CNTB chỉ là bỏ qua CNTB với ý nghĩa là một phương thức sản xuất đẻ ra quan hệ bóc lột và những bất công,
chỉ bỏ qua các quan hệ sản xuất TBCN với ý nghĩa nó là một quan hệ thống trị nền kinh tế, chỉ bỏ qua tính chát hiếu chiến và
thủ đoạn bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản. Nhưng chúng ta không bỏ qua nên kinh tế hàng hoá và những quan hệ
kinh tế vốn có của nó; không bỏ qua những thành quả về mặt khoa học kỹ thuật; trình độ tổ chức quản lý của nền sản xuất lớn
tiên tiến của CNTB; không bỏ qua những kinh nghiệm những lý thuyết kinh tế mà CNTB đã bỏ qua nhiều thế kỷ để hình thành
và tạo lập cho nhân loại; không bỏ qua những quy luật kinh tế khách quan, những cơ chế kinh tế tạo ra sức mạnh động lực thúc
đẩy nền kinh tế.
*. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến
một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, của đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh
tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc. Việc xây dựng và phát triển nên kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của
nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định "mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liên với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản
lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước XHCN. Nhà nước ta là Nhà
nước XHCN quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường; áp
dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát
huy tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân
dân.
*. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng CNXH
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất
của chúng ta là chưa có nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời
đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.
Đảng ta đã chỉ rõ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự; vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn

26
những thành tựu mới nền khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ Đại hội VIII của Đảng năm 1986, đất nước đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn
đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới".
*. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm
không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội; thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Câu 20. Phân tích luận điểm của HCM: thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ việc nghiên cứu luận điểm này.
- Quan điểm của CN duy vật biện chứng về thực tiễn là lý luận:
+ Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên,
xã hội và bản thân con người.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng phong phú song có 3 hình thức cơ bản:
~ hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên, tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại,
phát triển của xã hội
~ hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các qhệ xh theo hướng tiến bộ.
~ hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động của các nhà khoa học tác động nhằm cải biến những đối tượng nhất định, trong
1 đkiện nhất định, theo 1 mục đích nghiên cứu nhất định.
+ Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các
sự vật, hiện tượng.
Lý luận có thể chia thành:
~ Lý luận ngành: là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của 1 ngành.
~ Lý luận triết học: là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con người, là thế giới quan và phương pháp luận
nhận thức và hoạt động của con người.
Mối quan hệ:
- Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận: lý luận hình thành, phát triển xuất phát từ thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn.
+ Thực tiễn là cơ sở của lý luận:Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người
phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý
luận,. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở đẻ bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt
động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua
đó, lý luận được bổ sung , mở rộng.
+ Thực tiễn là động lực của lý luận.Hoạt động của con người là nguồn gốc các cá nhân, hoàn thiện các mối quan hệ của
con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận đụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con
người và càng kích thích con người tiếp tục bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự
tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Qua đó, thực tiễn thúc đẩy một ngành khoa
học mới ra đời – khoa học lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước
hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hoen, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận
không tạo ra những sản phảm đáp ứng nhu cầu của con người , mà phải thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận. Tính chân lý của lý luận là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và
được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phiải
thông qua thực tiễn kiểm nghiệm.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tình toàn vẹn của nó. Thực tiễn có nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau, chỉ có lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển
trong thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người khái quát thành lý luận. Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt động con
người trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. Lý luận còn dự báo khả năng phát triển cũng như các
mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong quá trình hoạt
động. Mặt khác lý luận còn đóng vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết cá cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh
vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và xã hội. Lý luận có tính lịch sử cụ thể, do đó khi vận dụng lý luận cần
phân tích một cách cụ thể tình hình, nếu vận dụng một cách máy móc, giáo điều thì chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà
còn phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

27
Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý
luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở
thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý
luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý
luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động
thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định
thành công trong hoạt động thực tiễn. Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm
trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không
hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn
cuộc của cách mạng, Những cán bộ ấy quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi,
chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ" (Hồ Chí Minh, 1995,
tập 5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to
lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý luận thì không khác gì
đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của
bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do
kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản
chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở
rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận
suông, tức bệnh giáo điều, lý luận sách vở thuần túy. Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu
không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực
tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện
thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn
luôn hòa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
- Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn.
+ Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Bản thân thực tiễn luôn vân động phát triển và biến đổi. Quá
trình đó diễn ra có lúc tuân theo quy luật, có lúc không, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát quá
trình đó. Bám sát thực tiễn không chỉ đơn giản phản ánh phù hợp thực tiễn đương đại mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích
để chọn lọc những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật để làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận. nếu lý
luận đó không đúng nhu cầu thực tiễn, không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn lý luận đó sẽ bị bác bỏ
+ kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở để hình thành lý luận. Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của
loài người thì mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn VN và
qtế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng của ĐCSVN.
- hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với đkiện lịch sử cụ thể
+ lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn
+ trong điều kiện nước ta hiện nay, coi trọng lý luận là vận dụng sáng tạo tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào
điều kiện cụ thể của nước ta.
* ý nghĩa phương pháp luận:
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ lý
luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm
thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng thời thực
tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều cũng không còn chỗ đúng.

Câu 21: Phân tích để làm rõ sự khác biệt căn bản về nội dung giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các hình thức duy
vật khác trong lịch sử
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua tất cả các quan điểm, quan niệm của nó song có thể nhận thức nội
dung này qua quan điểm duy vật về thế giới nói chung và quan điểm duy vật về xã hội nói riêng
+ quan điểm duy vật về thế giới: Trong lịch sử triết học, các nhà triết học trước hết phải giải đáp vấn đề bản chất thế
giới là gì? Là vật chất hay tinh thần? Các nhà triết học duy vật cho ràng, bản chất thế giới là vật chất. Ngược lại, các nhà triết
học duy tâm lại cho rằng, bản chất thế giới là tinh thần. Quan điểm của các nhà triết học duy vật cũng không ngừng được bổ
sung và phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Kế thừa tư tưởng các nhà triết học duy vật và căn cứ vào
các thành tựu của khoa học tự nhiên, CNDVBC đi đến khẳng định rằng: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở
tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan, tồn tại độc lập với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh. Tính
thống nhất đó của thế giới được thể hiện:
~ chỉ có 1 thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô tận,
vô hạn, không sinh ra và không mất đi.
~ tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều là những dạng tồn tại cụ thể của cật chất hay thuộc tính của vật chất.
Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động

28
~ các sự vật, hiện tượng trong thế giứoi vật chất thống nhất chặt chẽ với nhau, vận động phát triển theo các quy luật
khách quan, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau
~ ý thức là 1 đặc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ nào người
Những nội dung trên không phải là sáng tạo thuần túy từ tư duy của các nhà duy vật biện chứng mà nó là sự khái quát các
thành tựu của khoa học tự nhiên. Các nhà duy vật biện chứng đã tổng kết, bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế
giới được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật mà bằng 1 sự phát triển lâu dài, khó khăn
của triết học và khoa học tự nhiên.
+ Quan điểm duy vật về xã hội
Xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, là tổng hợp những con người thực hiện cùng tất cả các hoạt động các
quan hệ của họ. Đối với quá trình hình thành quan điểm duy vật để xã hội và cơ sở để xác định quan điểm duy vật về xã hội,
V.I.Lênin đã viết: “ trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn
bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”. nội dung cơ bản quan điểm
duy vật về xã hội thể hiện: ~ xã hội là 1 bộ phận đặc thù của tự nhiên: Quán triệt quan điểm duy vật vào lĩnh
vực xã hội, CNDVBC khẳng định xã hội là 1 bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Quy luật của tự nhiên bao gồm: quy luật qhsx
phù hợp với llsx, quy luật cơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng. Quy luật đặc thù chỉ có thể chi phối trong 1 giai
đoạn nhất định là đấu tranh giai cấp, cung cầu, giá trị, cạnh tranh. Chính sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên đã dẫn đến sự ra
đời của con người và xã hội loài người. xã hội là sản phẩm phát triển cao nhất và là 1 bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Tính
đặc thù của XH thể hiện ở chỗ XH có những quy luật vận động, phát triển riêng và sự vận động, phát triển của xã hội phải
thông qua hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những mục đích nhất định
~ sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống XH, phương thức sản xuất quyết đinhj quá trình sinh hoạt XH, chính trị và
tinh thần nói chung, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xh. Sản xuất vật chất trong
từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành bằng 1 phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất ấy quyết định sinh hoạt
xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Sự thay đổi phương thức sản xuất sớm muộn sẽ làm thay đổi các mặt khác của đời sống
xh. Triết học Mác đã khẳng định, chỗ khác nhau căn bản giữa con ng với động vật là con người không chỉ dựa vào cái có sẵn
trong tự nhiên mà bằng lao động sản xuất tác động tích cực vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho đời
sống của mình. SX vật chất trong từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành bằng 1 phương thức sản xuất nhất định. Phương thức
sản xuất ấy quyết định sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Sự thay đổi phương thức sản xuất sớm muộn sẽ làm
thay đổi các mặt khác của đời sống. Trong quá trình tồn tại và phát triển con người không chỉ gắn liền với 1 phương thức sản
xuất nhất định mà còn gắn liền với đk tự nhiên, dân số và những đk sinh hoạt vật chất khác. Toàn bộ những đk sinh hoạt vật
chất ấy tạo thành tồn tại xã hội.
~ Sự phát triển của xã hội là 1 quá trình lịch sử - tự nhiên: trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất thường xuyên
phát triển. khi lực lượng sản xuất phát triển đến 1 lúc độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với trình độ
mới của lực lượng sản xuất. Lúc này kết cấu kinh tế - tức cơ sở hạ tầng của XH thay đổi. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng sẽ dẫn
đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Đến đây, tất cả các mặt cơ bản cấu thành 1 hình thái kinh tế xã hội đã thay đổi. hình
thái kinh tế xã hội này đã chuyển sang 1 hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn. Như vậy, với tư cách là 1 bộ phận đặc thù của
thế giói vật chất, sự vận động, phát triển của xã hội vừa chịu sự chi phối của quy luật chung nhất chi phối toàn bộ thế giới vật
chất, vừa chịu chi phối của các quy luật riêng có của mình.
~ quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử: Khi khẳng định sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định đời sống tinh thần nói chung, đời sống chính trị nói riêng và khẳng định sự phát triển của xã
hội loài người là qtrình lịch sử tự nhiên được bắt đầu bằng sự ptriển của lực lượng sản xuất thì CNDVBC cũng đã khẳng định
quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mang xã hội, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
các giá trị văn hóa tinh thần. Quan điểm duy vật về xã hội là 1 hệ thống quan điểm thống nhất chặt chẽ với nhau, về sự ra đời,
tồn tại, vận động phát triển của xã hội và các lực lượng thực hiện những nhiệm vụ lịch sử đã đặt ra trong sự vận động và ptriển
ấy.

Câu 22. Phân tích để làm rõ sự khác biệt về bản chất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các hình thức duy vật khác
trong lịch sử.

Chủ nghĩa duy vật bao gồm 3 hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy vật chất phát, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm
thực tiễn, ở sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực
tiễn-cách mạng của nó.
- giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn.
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Mối quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa ý thức và vật
chất.
+ chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, coi ý thức là nguồn gốc của vật chất, sản sinh ra vật chất
+ chủ nghĩa duy vật trước Mác đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại chủy nghĩa duy tâm. Song hạn chế của chủ
nghĩa duy vật duy vật trước Mác là duy vật không triệt để và không thấy được sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
+ chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, song ý thức có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người

29
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo hiện thực. Hoạt động
thực tiễn có các dạng cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học. Hoạt động này
là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức của con người và thế giới vật chất.
Thông qua thực tiễn, ý thức của con người được vật chất hóa, tư tưởng trở thành hiện thực, con người “ sáng tạo ra thế
giới ”. Việc đưa thực tiễn vào nhận thức, đặc biệt thấy được vai trò của hoạt động sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học. trong khi khẳng định vai trò của các yếu
tố vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã “ không loại trừ các lĩnh vực tư tưởng, đến lượt chúng lại có tác động ngược lại
nhưng là tác động cấp 2 lên các điều kiện vật chất ấy…”
- Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản bị tách rời nhau. Việc tách ròi giữa thế giới quan duy vật và phép
biện chứng đã không chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác không hiểu về mối quan hệ phổ biến, về
sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
Kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết triết học trong lịch sử, tổng kết thành tựu các khoa học xã hội đương
thời, C. Mác và Ph. Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
với phép biện chứng. Sự thống nhất này đã mang lại cho con người 1 quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm thế giới
là 1 quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động chuyển hóa và phát triển.
- Quan niệm duy vật triệt để.
Khẳng định nguồn gốc vật chất của xã hội, khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản
xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chúng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự phát
triển của xã hội loài ngừoi là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt
để của chủ nghĩa duy vật cũ. V.I.Lê nin nhận định rằng: “ trong khi nhận thức sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác
đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học ”
- Tính thực tiễn – cách mạng
+ chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Cnghĩa duy vật biện chứng được giai cấp vô sản
tiếp nhận như 1 công cụ định hướng cho hành động, như vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng
toàn thể nhân loại. công cụ định hướng này, vũ khí lý luận này, đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào công nhân
từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. C.Mác và Ph. Ăngghen nhận định: giống như chủ nghĩa duy vật biện chứng thấy giai cấp
vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí tinh thần của
mình nên ngay từ đầu, cái khuynh hướng mới, coi lịch sử phát triển của lao động là chìa khóa của toàn bộ lịch sử của xã hội, đã
chủ yếu hướng về giai cấp vô sản và được giai cấp vô sản dành cho 1 sự hưởng ứng mà nó k tìm thấy và không mong chờ có
được ở 1 nơi nào khác.
+ chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng phản ánh đúng thế giới, định hướng cho hoạt động con người phù hợp với quy luật, được
quần chúng nhân dân tin và hành động theo. Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện ở mối quan hệ
mật thiết với hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên mọi lĩnh vực.
+ chủ nghĩa duy vật khẳng định sự tất thắng của cái mới.
CN duy vật biện chứng quan niệm về tính hợp lỹ của cái hiện tồn bao hàm cả quan niệm về sự phủ định, về sự diệt vong tất yếu
của cái hiện tồn. Tính cách mạng sâu sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật
chi phối sự vận động và phát triển; qua đó quá trình xóa bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ hơn là tất yếu.
Tóm lại, chỉ có 1 thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, trong thế giới vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định ý thức song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng là hệ thống mở, nó luôn cần được bổ sung, phát triển trên nền tảng phát triển của hoạt động thực tiễn và hoạt
động nhận thức. CN duy vật biện chứng là kim chỉ nam cho hành động, nó đặt ra những yêu cầu có tính nguyên tắc phương
pháp luận mà từ những nguyên tắc ấy con người vận dụng sáng tạo sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Câu 23: phân tích để làm rõ sự khác biệt căn bản giữa thế giới quan duy vật biện chứng với các hình thức thế giới quan
khác trong lịch sử
- là sản phẩm và là một bộ phận của thế giới, con người có nhu cầu phải nhận thức về thế giới cũng như phải nhận thức về bản
thân mình trong mối quan hệ với thế giới để điều chỉnh hoạt động của mình. Kết quả của quá trình nhận thức ấy tạo nên thế giới
quan
Như vậy, thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống
và vị trí của con người trong thế giới ấy.
- là kết quả trực tiếp của qtrình nhận thức, TGQ phát triển theo sự phát triển nhận thức của con người. Trong đó, TGQ được thể
hiện dưới 3 hình thức cơ bản. cụ thể
+ thế giới quan huyền thoại: thế giới có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo. TGQ huyền thoại
đặc trung cho “tư duy nguyên thủy”, được thể huện rõ nét qua các câu chuyện thần thoại, phản ánh nhận thức về thế giới của
con người trong xã hội công xã nguyên thủy. Nó mang nặng dấu ấn của thời đại mà ở con người tính mông muội chưa bị dẩy
lùi trong cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, trong cả hoạt động nhận thức và thực tiễn. TGQ huyền thoại chủ yếu là sản phẩm
của nhận thức cảm tính nên những gì trừu tượng thường được con người hình dung dưới những dạng vật cụ thể. TGQ đó thể
hiện đậm nét trí tưởng tượng của tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách k tự giác giữa thực và ảo, giữu người và thần. Sự pha
trộn này theo Ph. Ăngghen nhận định là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu biết về nguồn gốc,
nguyên nhân, bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nhân cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng
thành các vị thần hoặc bán thần trong thần thoại.

30
+ TGQ tôn giáo là TGQ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con
người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. TGQ tôn giáo ra đời khi trình
độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con ngừoi còn rất thấp. Đặc trưng chủ yếu của THQ tôn giáo là niềm tin cao
hơn lý trí, trong đó niềm tin vào 1 thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. Ở
niềm tin này TGQ tôn giáo vừa biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn ấy. Nó như
tiếng thở dài của chúng sinh, như “ thuốc phiện” làm giảm nỗi đau trước những mất mát của những người cùng khổ, là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận quần chúng trong cuộc sống.
+ TGQ triết học là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù,
các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người mà còn chứng
minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.
- TGQ còn có thể chia thành TGQ duy vật và TGQ duy tâm. Trong đó, TGQ duy tâm là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là
tinh thần và thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con người, xã hội
loài người nói riêng. TGQ duy tâm thể hiện đa dạng dưới nhiều nhiều cấp độ khác nhau. Các cấp đọ của TGQ duy tâm phụ
thuộc vào trình độ nhận thức của con người và tương ứng với trình độ nhận thức ấy, TGQ duy tâm được thể hiện dưới hình thức
thô sơ, tôn giáo hay triết học.
Khác với TGQ duy tâm, TGQ duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định
của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực.
Theo đó, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất không sinh ra, không mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô
hạn, vô tận.
Tương ứng với 3 hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phát, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa
duy vật biện chứng là 3 hình thức cơ bản của TGQ: TGQ duy vật chất phác, TGQ duy vật siêu hình và TGQ duy vật biện
chứng.
+ TGQ duy vật chất phác là TGQ thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phát của những nhà duy vật. Nhận thức của
các nhà duy vật mang nặng tính trực quan, phỏng đoán chứ chưa có những căn cứ khoa học vững chắc. Các nhà duy vật thời kì
này đã đồng nhất vật chất với vật thể - đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong những lĩnh vực khác
nhau, dẫn đến quan điểm duy vật k triệt để. TGQ duy vật thời cổ đại chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới chứ chưa đóng được
vai trò cải tạo thế giới.
+ TGQ duy vật siêu hình: Các nhà duy vật siêu hình trong khi phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, thừa nhận bản chất
của thế giới là vật chất đã phát triển tư tưởng coi vật chất là chất đầu tiên tạo ra vũ trụ của các nhà duy vật thời cổ đại. các nhà
duy vật siêu hình đề cao con người, đề cao các giá trị của con người song quan niệm con người cũng chỉ như một cỗ máy, họ
còn mang nặng tư duy máy móc, k hiểu thế giới là một quá trình với tính cách là lịch sử ptriển của vật chất trong các mối liên
hệ đa dạng phức tạp và trong trạng thái vận động không ngừng, vĩnh viễn.
+ TGQ duy vật biện chứng: Sự ra đời của TGQ duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới
trước đó, trực tiếp là những quan điểm duy vật của Phoiơbắc và phép biện chứng của Hêghen; là kết quả sử dụng tối ưu thành
tựu của khoa học, trước hết là thành tựu của vật lý học và sinh học. Sự ra đời TGQ duy vật biện chứng còn là kết quả tổng kết
các sự kiện lịch sử diễn ra ở các nước Tây Âu, khi phương thức sản xuất TBCN đã hình thành và bộc lộ cả những mặt mạnh
cũng như hạn chế của nó.

Câu 24: Phân tích luận điểm sau của Mác: “ Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí.
Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổi bởi lực lượng vật chất, song lý luận có thể trở thành vật chất 1 khi nó được
thâm nhập vào quần chúng”

Câu 25: phân tích để làm rõ vai trò của triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới khách quan.
1. khái niệm
- triết học: là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người
trong thế giới đó.
- thế giới quan (TGQ): là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống
và vị trí của con người trong thế giới ấy.
+ về nguồn gốc: TGQ là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, song suy cho cùng nó là kết quả của cả hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Hình thành TGQ là một quá trình tất yếu mà chủ thể của nó có thể là 1 cá nhân hay cộng
đồng xã hội
+ về nội dung: TGQ phản ánh thế giới ở 3 góc độ: các đối tượng bên ngoài chủ thể, bản thân chủ thể, mối quan hệ giữa
chủ thể và các đối tượng bên ngoài chủ thể.
+ về hình thức: TGQ có thể biểu hiện dưới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ
thống lý luận chặt chẽ.
+ về cấu trúc: TGQ là hiện tượng tinh thần nên có cấu trúc phức tạp và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau,
song 2 yếu tố cơ bản của thế giới quan là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành TGQ, song tri thức
chỉ gia nhập vào TGQ khi nó đa trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người hành động. Như vậy,
chức năng bao trùm của TGQ là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người.
2. những hình thức cơ bản của TGQ
Là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, TGQ ptriển theo sự ptriển nhận thức của con người. cho đến nay, sự phát triển của
TGQ đã được thể hiện dứoi 2 hthức cơ bản: TGQ huyền bí, TGQ tôn giáo và TGQ triết học.
- TGQ huyền thoại là TGQ có nội dung pha trộn 1 cách k tự giác giữa thực và ảo.

31
TGQ huyền thoại đặc trưng cho “tư duy nguyên thủy”, được thể hiện rõ nét qua các chuyện thần thoại, phản ánh nhận thức về
tgiới của con người trong xhội công xã nguyên thủy. Nó mang nặng dấu ấn của thời đại đã sản sinh ra nó – thời đại mà con
người tính mông muội chưa được đẩy lùi trong cả đsống vật chất lẫn đời sống tinh thânh, trong cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt
động thực tiễn. TGQ đó thể hiện đậm nét tư duy chứa đựng sự pha trộn 1 cách k tự giác giữa thực và ảo, giữa ngừoi và thần. sự
pha trộn này theo Ph.Ăngghen nhận định là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu về nguồn gốc
nguyên nhân, bản chất của sự vật hiện tượng trong thế giới.
- TGQ tôn giáo là TGQ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được
thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. THQ tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức
và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp. Theo Ph. Ăngghen, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản
ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế ”. Đặc trưng chủ yếu của TGQ
tôn giáo là niềm tin cao hơn lý trí trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau khi
chết giữ vai trò chủ đạo. Ở niềm tin này TGQ tôn giáo vừa biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực vừa là sự phản kháng chống
lại sự nghèo nàn ấy.
- TGQ triết học là TGQ được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó không
chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người mà con chứng minh các quan điểm,
quan niệm đó bằng lý luận. TGQ triết học chỉ hình thành khi nhận thức của con người đa đạt đến trình độ cao của sự khái quát
hóa, trừu tượng hóa và khi các lực lượng xhội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
TGQ triết học và triết học không tách rời nhau. Triết học là hạt nhân lý luận của TGQ là bộ phận quan trọng nhất vì nó chi phối
tất cả những quan điểm, quan niệm còn lại của TGQ như những quan điểm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn hóa…
Phân biệt TGQ triết học với TGQ khác, C.Mác viết: “ các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa,
than vãn, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin
tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị dọa dẫm, triết học an ủi. Và thật thế, triết
học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ - của
cả thế giới lẫn trần tục ”.

32

You might also like