You are on page 1of 13

ĐỀ CƯƠNG CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Câu 1: Chính trị học là gì? Chức năng, nhiệm vụ và đối tượng của chính trị học
Chính trị là một hiện tượng xã hội ra đời gắn liền với sự ra đời của giai cấp và Nhà
nước. Từ khi xuất hiện, chính trị đã có ảnh hưởng to lớn tới quá trình tồn tại và phát triển của
mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trước khi chính trị học ra đời với tư
cách là một khoa học nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có đối tượng, phương pháp, khái
niệm, phạm trù..., đã có rất nhiều các quan niệm, quan điểm, thậm chí là tư tưởng, học thuyết
của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh của chính trị.
Trước chủ nghĩa Mác, có nhiều quan niệm khác nhau về chính trị:
Ở phương Tây:
Hy Lạp cổ đại: chính trị được hiểu là công việc nhà nước.
Platon: Chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối cao, chính trị là nghệ thuật cai trị.
Arixtốt: Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội.
Ở phương Đông:
Ở Trung Quốc cổ đại: chính trị được hiểu là sắp đặt, lo liệu quản lý để xã hội có kỷ
cương, nề nếp. Nổi bật nhất là các quan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lão tử...
Khổng tử: Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh.
Ông xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ thường - là cơ sở nền tảng
cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ và cả sau này.
Hàn Phi tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải xây dựng và
ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và pháp - ông là đại diện tiêu biểu
của phái Pháp gia.
Lão tử: Với quan điểm "vô vi nhi trị" - không làm gì mà mọi người tự thuần phục, tự tìm
đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị nước.
Các tư tưởng và học thuyết nêu trên ít nhiều đã đề cập được những vấn đề cơ bản của
chính trị. Tuy nhiên do những hạn chế về lập trường, quan điểm, điều kiện lịch sử- xã hội mà
các học thuyết đó ít nhiều còn bộc lộ những quan điểm thô sơ, chất phác, thậm chí là sai lầm về
chính trị.
Theo đó, Mác Lê-nin đã nghiên cứu nghiêm túc các quan điểm đi trước và đưa ra những
nhận định đúng đắn về chính trị.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê-nin: Thứ nhất, chính trị là lợi ích, quan hệ lợi
ích giữa những giai cấp; Thứ hai, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước. Cái căn
bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền nhà nước; Thứ ba, là biểu hiện tập trung kinh
tế; Thứ tư, chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
TÓM LẠI, Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các
dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự
tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn
của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
CHÍNH TRỊ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
Chính trị học là khoa học nghiên cứu đời sống chính trị như 1 chỉnh thể, lấy quyền lực
chính trị làm phạm trù trung tâm, nhằm nhận thức và vận dụng những quy luật, những vấn đề có
tính quy luật chi phối sự vận động và biến đổi của lính vực chính trị và toàn bộ đời sống xã hội.
Đối tượng của chính trị học: chính trị học nghiên cứu khái quát đời sống chính trị của
xã hội nhằm đạt được những tri thức mang tính bản chất, từ đó làm cơ sở cho việc nhận thức
đúng đắn những quy luật, tính quy luật chi phối toàn bộ đời sống chính trị. Mà đặc trưng của
đời sống chính trị xã hội là quyền lực chính trị (thể hiện trong các thể chế chính trị qua các hệ
thống chính trị và những hình thức khác nhau của quan hệ chính trị)
Vấn đề trung tâm của Chính trị học là nghiên cứu quyền lực chính trị, phương thức
giành quyền lực chính trị, các thiết chế và các hình thức tổ chức thực hiện quyền lực chính trị,
các kiểu hệ thống chính trị đã có trong lịch sử và đang tồn tại trong thời đại ngày nay.
Chính trị học cũng nghiên cứu quá trình hoạt động chính trị nhằm giành chính quyền,
duy trì và sử dụng quyền lực chính trị.
Chính trị học cũng nghiên cứu các mối quan hệ về lí luận chính trị của các chế độ xã hội.
Vd. lí luận chính trị về nhà nước cổ đại của Platôn (Platon) và Arixtôt (Aristote); "Nho giáo"
của Khổng Tử (Kongzi); Chính trị học tư sản; Chính trị học vô sản do Mac và Enghen khởi
xướng.
Từ những đối tượng trên, chính trị học có những nhiệm vụ:
Về chức năng tổng quát, chính trị học phát hiện, dự báo những quy luật, tính quy luật cơ
bản nhất của đời sống chính trị; hình thành hệ thống tri thức có tính lý luận, căn cứ khoa học và
thực tiễn.
Đời sống chính trị mà ở đó có mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ sinh ra quyền lực chính
trị. Cụ thể mâu thuẫn trong các xẫ hội phong kiến, chiếm hữu nô lệ… => Quy luật: có áp bức
có đấu tranh
Về nhiệm vụ cụ thể
Một là nghiên cứu lịch sử tư tưởng của các tiền nhân nhằm kế thừa một cách chọn lọc
tinh hoa chính trị cho ngày nay.
Hai là nghiên cứu vấn đề quyền lực chính trị, quátrình hình thành và phát triển của
quyền lực chính trị, việctổ chức và cơ chế thực thi quyền lực chính trị, việc giành, giữ và chuyển
giao quyền lực chính trị.
Ba là nghiên cứu hệ thống chính trị: Kết cấu và chức năng của một hệ thống chính trị.
Bốn là nghiên cứu văn hoá chính trị với tư cách là một thiết chế chi phối và tác động
tích cực tới hoạt động chính trị.
Năm là nghiên cứu các vấn đề về Đảng chính trị vàĐảng cầm quyền, công tác tư tưởng,
tổ chức và xây dựng một Đảng chính trị.
Sáu là nghiên cứu vai trò của con người - với tư cách là một động vật chính trị; các
phẩm chất cần thiết của một chính khách với tư cách là thủ lĩnh chính trị. Nhằm Trang bị cho
các nhà lãnh đạo chính trị những tri thức, kinh nghiệm cần thiết để giúp cho hoạt đọng của họ
phù hợp với khách quan, tránh sai lầm, chủ quan, duy ý chí. Trang bị cho mỗi công dân kiến
thức để họ có thái độ, động cơ đúng đắn, có cơ sở khoa học để đánh giá những sự kiện chính trị
diễn ra trong nước và quốc tế.
Chính trị học ở Việt Nam tập trung nghiên cứu vấn đề dân chủ hoá hệ thống chính trị nói
riêng, dân chủ hoá đời sống xã hội nói chung trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, nghiên cứu phương diện chính trị của quá trình đa dạng hoá cơcấu xã hội -
giai cấp, đấu tranh giai cấp, nghiên cứu lí luận chung về đảng cầm quyền, những đặc trưng và
yêu cầu quản lí nhà nước trong điều kiện dân chủ hoá đời sống xã hội; nghiên cứu các quan hệ
và tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể lãnh đạo và chủthể quản lí cũng như giữa lãnh đạo và
bịlãnh đạo, quản lí và bị quản lí; nghiên cứu những phương pháp có hiệu quảtrong quản lí,
trong kiểm soát xã hội; nghiên cứu các quá trình hình thành và ảnh hưởng của văn hoá chính trị
đối với hoạt động chính trị, đối với việc tích cực hoá hoạt động chính trị của mọi thành viên
trong xã hội, đối với việc hoàn thiện kĩ năng hoạt động của cán bộ lãnh đạo và quản lí các quá
trình chính trị xã hội; nghiên cứu những động lực hoạt động chính trị và sự thể hiện của chúng
trong quá trình đổi mới hiện nay ở Việt Nam.

Câu 2: Quyền lực chính trị là gì? Vì sao trong thời kỳ quá độ lên CNXH, quyền lực chính trị
lại thuộc về nhân dân lao động?
Chính trị học là khoa học đấu tranh cho quyền lực chính tị và khoa học về giành, giữa
thực thi quyền lực chính tị. Quyền lực chính trị trở thành trung tân
Quyền lực là sức mạnh để thực hiện hành vi tác động đến người khác thông qua sự thừa
nhận của họ. Quyền lực là năng lực buộc người khác phải thực hiện ý chí của mình.
Quyền lực chính trị là bước phát triển cao của quyền lực xã hội. Nếu như trong xã hội,
quyền lực xã hội biểu hiện rất đa dạng, phong phú như quyền lực gia đình, quyền lực kinh tế,
quyền lực tôn giáo, thì quyền lực chính trị chiếm vai trò trung tâm.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một hoặc liên minh giai cấp, các lực lượng xã hội
sử dụng nhằm thực hiện sự thống trị hoặc các lợi ích cơ bản thông qua nhà nước, bằng nhà
nước, là năng lực thực thi và các giải pháp phân bổ các giá trị xã hội có lợi cho giai cấp cầm
quyền sau cho có sự tương quan nhất định với các giai cấp, lực lượng xã hội khác.
Mô hình và tổ chức thực thi quyền lực ở mỗi nước là khác nhau, nhưng về thực chất
quyền lực chính trị luôn thuộc về giai cấp, tầng lớp xã hội cầm quyền. Chẳng hạn như ở Anh,
quyền lực chính trị được tổ chức và thực thi theo mô hình Nghị viện, có nghĩa là Nghị viện có
quyền lực tối cao. Nghị viện có quyền ban hành, hủy bỏ đạo luật, thể hiện tính pháp quyền cao.
Hay ở Mỹ, hệ thông chính trị được tổ chức và vận hành theo mô hình dân chủ đại diện. Thông
quan bầu cử và bổ nhiệm để chọn ra người ưu tú đứng đầu.
Quyền lực chính trị là biểu hiện của sự tập trung quyền lực kinh tế. Xét về lịch sử, giai
cấp nào nắm quyền lực về kinh tế thì nắng quyền lực chính trị và ngược lại. Mâu thuẫn trong đời
sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Cuộc đấu
tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những mâu thuẫn trong đời sống kinh
tế. Ví dụ như ở các nước TBCN, Quyền lực chính trị nằm trong tay giai cấp tư sản. Họ lập ra bộ
máy nhà nước với các cơ quan thực thi quyền lực khác nhau nhưng mục đích sau cùng vẫn là để
duy trì và bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản. So với giai cấp phong kiến, thì giai cấp tư sản là
đại diện cho nền sản xuất tiến bộ, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tuy nhiên không có thế lực về
chính trị. Chính bởi vậy họ đã đứng lên đấu tranh để giành lại địa vị xã hội của mình và cũng là
minh chứng cho việc giai cấp nào nắm thế mạnh về kinh tế thì nắm quyền lực chính trị.
Từ đó, có thể thấy bản chất của quyền lực chính trị là mối quan hệ của các giai cấp
trong việc giành giữ, và thực thi quyền lực nhà nước. Song vấn đề đấu tranh cho quyền lực
chính trị, giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị còn là quan hệ giữa các lực lượng xã hội,
các chủng tộc, giữa các dân tộc quốc gia trên trường quốt tế, tôn giáo và chính quyền, thậm chí
đó còn là vấn đề nội bộ của một giai cấp, một chính đảng.
Quyền lực chính trị có thể thuộc về một chính đảng của một giai cấp, một liên minh
nhiều đảng phái hoặc thuộc về nhân dân, khi lí tưởng của giai cấp, của chính đảng phù hợp,
phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc. Ví dụ như ở Việt Nam hiện nay, quyền lực
chính trị thể hiện tập trung ở quyền lực nhà nước được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền
lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Quá trình hình thành và phát triển của quyền lực chính trị gắn liền với sự ra đời và
phát triển của giai cấp, nhà nước.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, khi chưa có sự phân chia giai cấp và chưa xuất
hiện nhà nước, quyền lực chính trị chưa xuất hiện. Buổi đầu, quyền lực - tồn tại trong các thị
tộc, bộ lạc là thứ quyền lực xã hội. Chỉ đến khi nền sản xuất xã hội phát triển tạo ra của cải dư
thừa, lúc đó mới xuất hiện sự tư hữu của cải xã hội của một nhóm người, họ lập ra một bộ máy
cưỡng chế để thực thi pháp luật. Đến đây, quyền lực chính trị xuất hiện với hình thức là sức
mạnh cưỡng chế của một giai cấp đối với các giai cấp khác và toàn xã hội. Như vậy quyền lực
chính trị xuất hiện dựa trên hai nguyên nhân: SỰ XUẤT HIỆN CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ SỰ PHÂN
CHIA XÃ HỘI THÀNH CÁC GIAI CẤP ĐỐI KHÁNG.
Chế độ chiếm hữu nô lệ, Quyền lực chính trị được nắm giữ trong tay giai cấp chủ nô.
Dưới chế độ phong kiến, Quyền lực chính trị tập trung trong tay của giai cấp địa chủ,
quý tộc, phong kiến.
Khi chế độ bản chủ nghĩa thay thế chế độ phong kiến, về phương thức sản xuất có sự
tiến bộ hơn trước tuy nhiên tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư do quan hệ sản xuất dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, do đó giai cấp tư sản nắm
quyền lực chính trị. Đặc biệt chủ nghĩa tư bản sử dụng quyền lực chính trị để duy trì bản chất óc
lột và trấn áp đa số nhân dân lao động.
Xét chung cho xã hội có giai cấp đối kháng thì giai cấp bóc lột không ngừng củng cố và
xây dựng quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước đủ sức mạnh để trấn áp giai cấp khác. Do
vậy trong các chế độ có giai cấp đối kháng thì quyền lực chính trị cơ bản thuộc về giai cấp bóc
lột, nhân dân lao động cơ bản không nắm được quyền lực chính trị.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời trên nền tảng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, quyền lực chính trị đã phát triển lên một bước cao. Quyền lực lúc này thực sự xuất phát
từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong chủ nghĩa xã hội, xét về mặt lợi ích thì quyền lực chính trị cơ bản thuộc về giai
cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức vì xuất phát từ hai cơ sở: Một là xuất phát từ bản
thân của chế độ xã hội chủ nghĩa và đặc trưng nhất là chế độ công hữu về sản xuất nhân dân lao
động là người nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu nên nắm quyền lực về kinh tế, chính trị, vă hóa,
xã hội, từ đó nắm được quyền lực nhà nước làm công cụ xây dựng xã hội mới. Hai là xuất phát
từ lợi ích của giai cấp cầm quyền, lợi ích của giai cấp công nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa
là cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động.
Tóm lại quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động chỉ thực sự có được khi xuất
hiện cơ sở khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Nhà nước trong
các chế độ bóc lột dựa trên sự thống trị của chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp cầm quyền bao giờ
cũng là giai cấp bóc lột, một giai cấp có có lợi ích căn bản đối lập với lợi ích của nhân dân lao
động. Hơn nữa trong xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, không có sự bình đẳng về kinh tế
do đó không thể có sự bình đẳng về chính trị xã hội. (Đặc biệt trong các chế độ xã hội tư bản
chủ nghĩa ngày nay, giai cấp tư sản nắm toàn bộ tư liệu sản xuất nên những công ty độc quyền,
đa quốc gia, xuyên quốc gia chi phối nền kinh tế thế giới thì càng chứng minh rõ ràng quyền lực
chính trị thuộc về giai cấp tư sản chứ không phải nhân dân lao động)
Ngày nay, Quyền lực chính trị không chỉ là Quyền lực Nhà nước mà còn là quyền lực của
các lực lượng chính trị khác trong Hệ thống chính trị. Sự thắng lợi của cách mạng tháng 8 –
1945 chính là cột mốc đánh dấu việc xác lập thể chế chính trị dân chủ, đưa nhân dân từ địa vị
nô lệ lên vị trí chủ nhân đất nước. Về phương diện lý luận, trong thời kì quá độ lên CNXH,
quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó được thể
hiện qua: Thứ nhất, mọi đường lối chủ trương của Đảng đều là kết quả phản ánh khái quát nhu
cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân; Thứ hai, nhà nước là công cụ để thể chế hóa và thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân lao động, đồng thời qua nhà nước nhân dân lao động được tổ
chức lại để có được sức mạnh nhằm thực hiện vai trò là chủ thể đích thực của quyền lực chính
trị. Đối tượng mà quyền lực chính trị hướng đến ở nhà nước ta là áp đăt ý chí nhân dân vì mục
tiêu độc lập dân tộc; Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân: là cơ sở chính trị xã hội của Đảng – nơi đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện
vọng chân chính của nhân dân.
Thứ nhất, cơ sở kinh tế đảm bảo quyền lực chính trị là nhân dân lao động là chế độ công
hữu về sản xuất, chủ yếu dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển cao của xã hội.
Thứ hai, đảng cầm quyền thực sự là tiên phong của giai cấp công nhân, là đại biểu lợi
ích của nhân dân lao động, tập trung tinh hoa trí tuệ phẩm chất cả giai cấp, cả dân tộc. Mọi
đường lối, chủ trương của Đẳng đều phản ánh khái quát nhu cầu chính đáng của nhân dân
Nhà nước của ta là công cụ quyền lực của nhân dân, là của dân, do dân, vì dân. Nhà
nước quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng chính sách, …
Các tổ chức và đoàn thể nhân dân thực sự là tổ chức của chính quần chúng.
Bản thân nhân dân lao động có nhận thức, kiến thức, năng lực, ý thức thực hiện quyền
lợi đoàn thể
Phải dân chủ hóa đời sống xã hội
Chỉ khi nào nhân dân, trước hết là công nhân và nhân dân lao động thực sự là chủ thể
của quyền lực trong xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa xã hội mới có cơ sở vững
chắc trong sự tồn tại của mình.
Trong Nhà nước ta, đối tượng mà quyền lực chính trị hướng đến không giống như trong
nhà nước của giai cấp bóc lột. Vì đây là “nhà nước của nhà nước” (Leenin) nên một mặt, đối
tượng mà sự áp đặt ý chí của nhân dân hướng đến lại chính là bản thân nhân dân, và vì nhân
dân hướng đến chính trị của mình, do vậy ở đây sự áp đặt lại hóa ra có bản chất tự quản xã hội.
Tuy nhiên trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự giác ngộ chính trị trong các tầng lớp
nhân dân không đồng đều, địa vị kinh tế và chính trị của các bộ phận dân cư không đồng nhất
xét trong tương quan giai cấp, cho nên có những bộ phận nhân dân chưa đạt địa vị giai cấp, xét
về mặt chính trị và kinh tế như ở trình độ một chủ thể, do đó họ trở thành đối tượng bị áp đặt (bị
thống trị) của quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước.
Câu 3: Vì sao định hướng đi lên CNXH ở VN phải thực hiện 1 Đảng và nhất nguyên chính
trị?
Đảng là tổ chức xã hội tự nguyện, là tập hợp những người có chung những đặc điểm
nhất định, tuần theo những nguyên tắc nhất định và cùng thực hiện những nhiệm vụ nhất định vì
mục tiêu nào đó. Khi một Đảng có một mục tiêu chính trị, tập hợp những người có cùng một đặc
điểm đó là chung một giai cấp, cùng có mong muốn đấu tranh giành quyền lực chính trị thì đó
được gọi là Đảng chính trị
Đảng chính trị là đội tiên phong của giai cấp, là công cụ đấu tranh cho lợi ích giai cấp
của mình.
Nhất nguyên chính trị là chế độ trong một quốc gia mà vai trò lãnh đạo nhà nước và
nhân dân thuộc về một Đảng duy nhất. Nhất nguyên là quan điểm thừa nhận và khẳng định một
hệ tư tưởng, một đường lối cho một giai cấp về thể chế chính trị và cho phép triển khai hệ tư
tưởng, sự lãnh đạo với các giai cấp khác trong xã hội. Thông qua Nhà nước, đường lối đó được
cụ thể hóa, tập trung ý chí của nhân dân cũng như quyền lực của giai cấp giữ vai trò lãnh đạo.
Trước hết cần hiểu được về những ưu nhược điểm của chế độ chính trị là nhất nguyên.
Đối với nhất nguyên chính trị, về ưu điểm, do chỉ có một Đảng duy nhất lãnh đạo chính trị,
đường lối chủ trương của đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước được thể chế hóa, các tổ chức
chính trị xã hội được triển khai tạo sự thống nhất trong việc đề ra và thực hiện những quyết
sách chính trị. Từ đó phát huy sức mạnh, mọi nguồn lực phục vụ xã hội, phù hợp với mục tiêu
của Đảng cầm quyền.
Do 1 đảng lãnh đạo nên sẽ loại trừ sự cạnh tranh và lợi ích từ các phe phái, đảng phái
nên ổn định về mặt chính trị xã hội, mà những điều này có trong đa nguyên chính trị.
Tuy nhiên, về hạn chế, thứ nhất chế độ 1 đảng cầm quyền mà không thực hiện dân chủ
đầy đủ, vi phạm dân chủ thì sẽ dẫn đến quan liêu, đặc quyền đặc lợi trong một số bộ phận cán
bộ đảng viên có chức có quyền trong bộ máy nhà nước. Nguyên nhân đó là không có lực lượng
đối kháng kìm hãm lợi ích nhóm. Điều đó đòi hỏi Đảng phải không ngừng chỉnh đối và thay đổi.
Thứ hai, nhất nguyên chính trị theo một hệ thống từ đầu đến cuối, do đó người đứng đầu đóng
vai trò vô cùng quan trọng. Rất dễ hình thành lợi ích nhóm nếu như người đứng đầu không trong
sạch. Đây lại là ưu điểm của đa đảng vì lợi ích của các nhóm kìm hãm lẫn nhau. Chính vì thế
người đứng đầu phải cần có bản lĩnh chính trị, lập trường chính trị đúng đắn để không bị cám
dỗ bởi quyền lực, phải tự chỉnh đốn bản thân và đạo đức cách mạng.
Từ những phân tích bước đầu trên đây, có thể thấy rằng sở dĩ Việt Nam theo chế độ nhất
nguyên chính trị là bởi những lý do chính yếu sau.
Nhìn từ hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ĐCSVN được nhân lân lựa chọn là lực lượng
chính trị duy nhất đủ năng lực, uy tín để nêu cao ngọn cờ dân tộc lãnh đạo cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, con người. Không chỉ vậy, Đảng ra đời và tồn lại là cả một quá trình chọn
lọc nghiêm khắc của lịch sử, và là kết quả của sự chuẩn bị kĩ lưỡng về tư tưởng, chính trị và tổ
chức của của các chiến sĩ cách mạng, mà đứng đầu là chủ tịch HCM. Có thể điểm qua một số
giai đoạn lịch sử để thấy tính ưu việt của nhất nguyên chính trị dưới sự lãnh đạo của ĐCS như
sau: Thời kỳ 1930 - 1945, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ
chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là kết
quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau thành lập Đảng,
từ cao trào Xô viết Nghệ tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đến phong trào giải phóng
dân tộc 1939 - 1945, mặc dù có lúc cách mạng bị dìm trong máu lửa. Hay trong cuộc trường
chinh 30 năm (1945 - 1975), kháng chiến giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và
Cuộc Tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước, một lần nữa lịch sử và Nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính
trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị
nhất nguyên với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát
triển đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử
giao phó sứ mệnh nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam mà không cần sự
tồn tại của nhiều Đảng. Liên hệ hiện nay, trong năm 2021 Việt Nam cũng phải đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là đại dịch Covid-19 bùng phát, lây lan nhanh. Với tinh
thần coi sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết, Đảng và Nhà nước Việt Nam
có nhiều chủ trương, quyết sách đồng bộ; vừa quyết liệt “chống dịch như chống giặc”, vừa khôi
phục, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân đã chặn đứng sự hoành hành của
đại dịch Covid-19. Như vậy sự lãnh đạo duy nhất của Đảng là nhân tố quyết định đảm bảo sự
phát triển ổn định, tiến tới một xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh
Thứ hai, nhất nguyên chính trị được quyết định trong quyết sách của Đảng và nhà
nước ta là vấn đề mang tính nguyên tắc. Những lập luận của những người muốn thực hiện đa
đảng ở Việt Nam thường lấy thực tiễn nước ngoài để minh chứng, dẫn đến sự thiếu hiểu biết và
chống phá của các thế lực thù địch rằng nhiều đảng thì sẽ dân chủ hơn, phát triển hơn. Tuy
nhiên nhất nguyên chính trị không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển dân chủ. Lý luận
Mác-Lênin đã khẳng định: Dân chủ là phạm trù có tính lịch sử và giai cấp. Do đó, dân chủ xuất
hiện khi có nhà nước, mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định và dân chủ còn phụ
thuộc vào trình độ phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Hiện nay
nhiều nước tư bản thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhưng xét đến cùng thì
các đảng đó đều là đảng của giai cấp tư sản, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Do đó nền
dân chủ đó là dân chủ tư sản, chỉ dành cho một bộ phận thiểu số trong xã hội. Thực tế nếu Việt
Nam thực hiện chế độ đa nguyên chính trị có thể dẫn đến tình trạng các đảng tranh giành ảnh
hưởng, làm mất ổn định chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc mà Bác Hồ và nhân dân ta xây
dựng sẽ bị phá vỡ.
Thứ ba, xuất phát từ bài học quốc tế từ Liên Xô và Đông Âu. Đây là hai quốc gia đã
theo CNXH nhất nguyên chính trị. Tuy nhiên trong thời gian thực hiện chế độ nhất nguyên chính
trị, Đảng Cộng sản đã buông lỏng các phương tiện thông tin đại chúng, dẫn đến dư luận đa
nguyên hóa, không cảnh giác những lực lượng chống phá, các thế lực thù địch này đã tuyên
truyền nhiều khẩu hiệu về tự do ngôn luận, tự do dân chủ sai lệch khiến nhân dân mất niềm tin
vào hệ thống chính trị. ĐCS Liên Xô đã cho phép thành lập các tổ chức chính trị và các đảng
chính trị làm cho tình hình chính trị trở nên rối loạn. ĐCS cầm quyền bị bao vây bởi nhiều đảng
chính trị, lực lượng phản động cùng sự hậu thuẫn của phương tây => mất chính quyền.
Thứ tư, thực tế những hạn chế của đa nguyên chính trị đã khẳng định rằng Việt Nam
thực hiện nhất nguyên chính trị là hoàn toàn đúng đắn. Chính bởi có nhiều Đảng nên rất dẽ xảy
ra bất đồng, các Đảng sẽ luôn tranh giành quyền lực chính trị, do vậy nếu như xảy ra bất cứ sự
thay đổi nào trong kinh tế, văn hóa hay xã hội thì rất khó để ổn định trở lại. Có thể thấy chủ
nghĩa tư bản ngày nay đã bước sang một giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, có
nhiều thành tựu trong việc phát triển năng lực sản xuất, khoa học công nghệ, năng suất lao động
cao. Song về cơ bản nó vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của mình. Các
nạn khủng hoảng kinh tế xã hội, tệ nạn xã hội, nhất là khi đại dịch Covid19 diễn ra lại càng bộc
lộ bản chất của chế độ chính trị không vì sức khỏe và hạnh phúc đại đa số nhân dân lao động,
điển hình là Mỹ. Bằng chứng là, tại đất nước này cũng đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình, theo đó
các phòng trào phản kháng xã hội diễn ra mạnh mẽ theo nhiều hình thức và nội dung khác nhau,
càng chứng tỏ những hạn chế của chế độ đa nguyên chính trị này.
Vậy nên vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay không phải là lựa chọn 1 đảng hay 2 đảng,
mà là thực hiện tốt hơn nữa quyền lãnh đạo duy nhất của ĐCSVN đối với xã hội, đồng thời xây
dựng đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về cả chính trị, tư tưởng, tổ chức, đoàn kết, gắn bó
mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học và đội ngũ đảng viên đủ phẩm chất
năng lực.
Câu 4: Nội dung những thành tố xây dựng văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một dạng hoạt động đặc thù của xã hội con người, là thuộc tính của
sản phẩm văn hóa tinh thần. nói cách khác, đó là biểu hiện của hoạt động văn hóa của con
người trong lĩnh vực chính trị. Nhà khoa học chính trị Gabriel Almond nhìn nhận Văn hóa chính
trị là một dạng đặc biệt của định hướng chính trị, phản ánh đặc thù của mỗi hệ thống chính trị”.
Nó phản ánh sự khắc biệt đặc thù trong mỗi nền chính trị khác nhau cũng như tầm quan trọng
của văn hóa chính trị ở các quốc gia. Từ điển bách khoa của Nga cho rằng Văn hóa chính trị là
kinh nghiệm lịch sử, ký ức cộng đồng xã hội và nhóm người trong lĩnh vực chính trị, là phong
tục tập quán thói quen và các xu hướng ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân, nhómngười trong
hoạt động chính trị. Điều này khá gần gũi và phổ biến với các nước phương Đông khi cho rằng
chủ thể của văn hóa chính trị là con người, khẳng định văn hóa chính trị bắt nguồn từ quá khứ,
tiếp diễn trong hiện tại, không ngừng phát triển đến tương lai.
Tóm lại, văn hóa chính trị là một phạm trù chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà
nước, trong quá trình thực hiện quản lý xã hội của con người chính trị và góp phần chi phối,
định hướng hoạt động của con người chính trị, để phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền,
đồng thời góp phần định hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ chức chính trị.
Lịch sử chứng minh, văn hóa chính trị Việt Nam đã có những thời kỳ phát triển rực rỡ,
đã cùng sánh vai với các cường quốc đương thời vàcũng đã có những tư tưởng mang tính thời
đại, tiêu biểu như tầm nhìn chính trị và tư tưởng dựa vào dân, lấy sự đồng thuận của dân làm
nền tảng cho sự nghiệp dựng nước của Lý Thái Tổ; chính sách thân dân của Nguyễn Trãi; tư
tưởng Tổ quốc là trên hết - ngọn cờ tập trung lực lượngvà nhân lên sức mạnh của cả dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Nói đến các thành tố của văn hóa chính trị là nói đến tập hợp những giá trị, chuẩn mực
cấu thành văn hóa chính trị của một nền chính trị nhất định; các hệ tư tưởng chính trị; văn hóa
chính trị truyền thống và ý thức thái độ hành vi của chủ thể khi tham gia đời sống chính trị.
Thứ nhất đó là hệ tư tưởng chính trị. Đây được xem là nội dung quan trọng chi phối
bản chất khuynh hướng vận động của văn hóa chính trị. Hệ tư tưởng chính trị trước nhất là hệ
tư tưởng của giai cấp cầm quyền, được xem là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm
của một giai cấp về: giành và giữ quyền lực nhà nước, xác định chế độ chính trị, hình thức tổ
chức nhà nước; quan hệ với các giai cấp khác. Có thể nói đó là sự thống nhất hữu cơ giữa tri
thức khoa học (lý luận) và tri thức kinh nghiệm chính trị. Theo đó, tri thức lý luận thể hiện ở việc
lựa chọn học thuyết trính trị làm nền tảng, lập trường của một giai cấp. Học thuyết đó có chân
chính, khoa học, phù hợp với thực tiễn lịch sử hay không sẽ quyết định mục tiêu, phương pháp
đấu tranh cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó. (Chẳng hạn như đối với giai cấp công nhân
có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác Lê-nin=> sứ mệnh công nhân). Tuy nhiên ngoài việc có được
đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo và khoa học, cần phải cụ thể hóa hệ tư tưởng ở mỗi giai
đoạn khác nhau để phù hợp với thực tiễn.
Như vậy với tư cách là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp, liên minh giai
cấp hoặc nhân dân lao động nói chung trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, “hệ tư tưởng là yếu tố
cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội, có khả năng chi phối các nhân
tố khác trong văn hóa chính trị. Cụ thể nó quy định tính chất, nội dung, khuynh hướng phát triển
và tính tích cực của văn hóa chính trị trong một xã hội nhất định.
Thứ hai đó là các giá trị và chuẩn mực xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp. Những giá
trị này được cụ thể hóa dưới dạng các quy phạm pháp luật, có chức năng điều chỉnh hành vi
toàn xã hội. Tập hợp những quy phạm pháp luật, một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị,
mặt khác duy trì sự ổn định của xã hội, giúp xã hội hoạt động trong các quan hệ pháp luật. Ở đó
quy định những hành vi nào được làm, hành vi nào không được làm, thái độ ứng xử như thế nào.
Những giá trị này thường được cụ thể hóa thành đạo đức nghề nghiệp trong công việc, hay các
ngành nghề cụ thể trong hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, tập hợp các quy phạm đạo đức trong xã hội không được luật hoá, cũng cần
được giai cấp thống trị gìn giữ, bảo lưu trong hệ thống văn hoá chính trị của mình. Bởi chính
những quy phạm đạo đức cũng là những quy phạm quan trọng điều chỉnh hành vi của con người
trong xã hội và là biểu hiện rõ nét nhất của văn hoá.
Trong đời sống chính trị hiện đại, muốn đáp ứng yêu cầu văn hóa chính trị cao, chúng ta
cần phải đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống quyền lực nước ta, theo đó
quan trọng là đổi mới cơ chế phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc thực hiện quy chế dân
chủ hiện nay chính là minh chứng cho giá trị trên.
Thứ ba đó là các truyền thống chính trị. Đó là những giá trị do con người tạo ra trong
tiến trình lịch sử và thể hiện sự kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống. Việt Nam từ ngàn
đời xưa với lịch sử dựng nước giữ nước lâu dài, nhân nghĩa chính là nét đặc sắc trong văn hóa
chính trị truyền thống. Từ thời Nguyễn Trãi, Nhân nghĩa gắn với yên dân trừ bạo. Trong thời đại
mới, nhân nghĩa có ý nghĩa hơn thế nữa, đó là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Nhân
nghĩa tức là xây dựng một đn VN hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ.
Hay sống trong môi trường quan hệ làng xã suốt mấy nghìn năm, người Việt Nam ưa trợ
giúp lẫn nhau. Dàn dần những tập quán ứng xử đó đã trở thành đạo lý, chuẩn lực. Để tồn tại và
phát triển đến ngày nay, dân tộc VN đã trải qua vô vàn thử thách. Thế nhưng vũ khí mạnh nhất
của dân tộc VN lại là đoàn kết dân tộc. Do đó, đoàn kết trở thành chuẩn mực đạo lý của VN. Và
để duy trì khối đoàn kết thống nhất, người VN có một chuẩn mực XH truyền thống là quyền lợi
cá nhân phải phục tùng quyền lợi cộng đồng, quyền lợi cộng đồng nhỏ phải phục tùng cộng
đồng lớn và toàn dân tộc.
Như vậy có thể thấy các truyền thống chính trị có ảnh hưởng rõ nét đến các hoạt động
chính trị. Qua đó góp phần giáo dục, phát triển những giá tị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đặc biệt là khi đặt trong thời đại ngày nay, khi sự giao lưu giữa các nền văn hóa trở nên mạnh
mẽ hơn bao giờ hết, thì những giá trị truyền thống chính là căn cứ để phân biệt với các nền văn
hóa khác.
Thứ tư đó là ý thức, thái độ hành vi của chủ thể khi tham gia đời sống chính trị. Đây
cũng chính là yếu tố đo lường văn hóa chính trị của mỗi quốc gia. Đó là sự kết hợp giữ nhu cầu,
thói quen, niềm tin, nhận định…Chính điều đó hình thành nên lập trường chính trị vững chắc,
thể hiện qua niềm tin và tình cảm chính trị. Nếu kết quả của nhận thức đúng đắn, sâu sắc về lý
tưởng chính trị đã lựa chọn, không chịu bất cứ sự áp đặt nào thì niềm tin chính trị sẽ mang tính
ổn định bền vững, ngay cả khi đời sống chính trị thuận lợi và gặp khó khăn. Trên cơ sở đó có thể
đo lường văn hóa chính trị của một quốc gia. Nhưng trong thực tế, không có sự ổn định chính trị
nào tuyệt đối, vì chính trị là sự đấu tranh cho những lợi ích khác nhau.
Từ đó, muốn xây dựng VHCT tiên tiến, thì phải xây được niềm tin trên cơ sở khoa học
tiến bộ phù hợp xu thế phát triển của nhân loại. Chính vì vậy việc nâng cao trình độ học vấn,
đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho chủ thể chính trị đặc biệt là quần chúng
nhân dân, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, đề cao tinh thần tiên phong, gương mẫu
trong văn hóa ứng xử của các cơ quan, đơn vị đảng viên là quan trọng hơn bao giờ hết.

Câu 5: Trình bày và phân tích các đặc điểm, cấu trúc, các thành tố cơ bản của hệ thống
chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã hội thừa
nhận. Bao gồm các tổ chức chính trị như đảng phái, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau, cùng liên kết, nhằm thực hiện mục tiêu chính trị
phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị.
Bất kì một chế độ chính trị nào cũng tồn tại một hệ thống chính trị. Hệ thống đó tập hợp
những thiết chế thực thi quyền lực chính trị và bao giờ cũng có kết cấu của nó. Nói đến kết cấu
của hệ thống chính trị tức là nói đến các tổ chức cấu thành nên hệ thống chính trị và mối quan
hệ giữa các tổ chức đó.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt nam thể hiện bản chát của nền dân chủ XHCN,
theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Đảng cộng sản, với tư cách là
đội tiên phong của giai cấp công nhân và đại biểu cho lợi ích nhân dân lao động, có sức mạnh
lãnh đạo toàn bộ xã hội thông qua nhà nước và các đoàn thể nhân dân => bộ máy nhà nước
quản lý, còn đoàn thể nhân dân sẽ tập hơp các giai cấp tầng lốp tham gia quản lí nhà nước xã
hội.
Cũng giống như các hệ thống chính trị nói chung, hệ thống chính trị nước ta được kết
cấu từ những tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội khác nhau: ĐCSVN, Nhà nước
CHXHCNVN, Mặt trận TQVN cùng các đoàn thể quần chúng của mặt trận. Mỗi tổ chức có vai
trò vị trí khác nhau, tuy nhiên tất cả cùng tác động vào quá trình phát triển kinh tế xã hội nhằm
đảm bảo quyền lực của nhân dân
Đảng cộng sản Việt Nam
Who: Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu lợi ích của công nhân, nhân dân
lao động và cả dân tộc. Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị.
What: Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc đề ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược,
quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời lãnh đạo tổ chức thực hiện cương
lĩnh đường lối của Đảng.
How: Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường
lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được NN tiếp nhận và thể chế hóa bằng pháp luật và
những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Ngoài ra thông qua các hệ thống
tổ chức Đảng các cấp, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng. Lãnh đạo bằng PP giáo dục, thuyết
phục, nêu gương, vận động làm công tác quần chúng…
Nhà nước CHXHCNVN
Là trụ cột của hệ thống chính trị, công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân
dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời
sống xã hội. => NN của dân do dân vì dân. Mặt khác nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thực hiện đường lối chính trị của đảng.

You might also like