You are on page 1of 23

BÀI TẬP/THỰC HÀNH: NGHIÊN CỨU PHÁN QUYẾT CỦA ICJ

- Cá nhân tự nghiên cứu


- Thảo luận trên lớp ngày 23/3

NỘI DUNG
1. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền của ICJ trong vụ việc;
Sự đồng ý chấp nhận thẩm quyền của Tòa của tất cả các bên tranh chấp là cơ sở
pháp lý duy nhất để Tòa có thể xác lập thẩm quyền của mình đối với một tranh
chấp cụ thể.
2. Giá trị pháp lý của phán quyết;
Về mặt lý thuyết, phán quyết của tòa có giá trị chung thẩm và có giá trị bắt buộc
đối với các bên
3. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét giải thích phán quyết;
Điều 60. Quy chế tòa án công lý :
Phán quyết đã làm xong thì không kháng cáo trong trường hợp có sự tranh cãi về ý
nghĩa hay về phạm vi phán quyết thì Tòa án phải giải thích các vấn đề đó theo yêu cầu
của bất kỳ bên nào.
4. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét sửa đổi phán quyết;
Theo quy định của ICJ, hồ sơ yêu cầu xem xét lại phán quyết phải được nộp trong vòng
6 tháng kể từ khi phát hiện yếu tố mới và không quá 10 năm từ ngày phán quyết được
đưa ra.
CÁC VỤ VIỆC:
1. Vụ kiện giữa Campuchia và Thái Lan về chủ quyền ngôi đền cổ Preah Vihear (nội
dung 1,2,3)
2. Vụ tranh chấp đảo Pedra Branca giữa Singapore và Malaysia (2003-2008; 2017) ( cả 4
nội dung)
3. Vụ Nicaragoa kiện Mỹ (1984-1986) nội dung 1,2 (lưu ý biện pháp đảm bảo thi hành
Phán quyết)
4. Vụ Palestine kiện Mỹ 2018 (nd 1)
CỤ THỂ:

1
1. Vụ kiện giữa Campuchia và Thái Lan về chủ quyền ngôi đền cổ Preah Vihear năm
1959-1962 và 2011-2013
- Trang 239 đến 254 (trong Tòa án công lý quốc tế- PGS.TS Nguyễn Hồng Thao 2011).
- Giải thích phán quyết năm 1962 (2011-2013)
- Có thể tham khảo thêm PQ tại: https://www.icj-cij.org/files/case-related/45/045-19620615-
JUD-01-00-EN.pdf và các tài liệu khác.

5. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền của ICJ trong vụ việc;

Ngày 28 tháng 4 năm 2011, Vương quốc Campuchia đã đệ trình lên Tòa án, bằng
một Đơn nộp tại Cơ quan đăng ký, Yêu cầu giải thích Phán quyết được Tòa án
đưa ra vào ngày 15 tháng 6 năm 1962 trong vụ án liên quan đến Đền Preah
Vihear
Campuchia nhấn mạnh tính cấp thiết và nguy cơ thiệt hại không thể khắc phục
được, cũng đã đệ trình Yêu cầu chỉ định các biện pháp tạm thời

6. Giá trị pháp lý của phán quyết;


Phán quyết được đưa ra vào ngày 11 tháng 11 năm 2013,(phán quyết cuối cùng),
Đây là phán quyết bắt buộc, các bên không được kháng cáo . Một phần trên dải
đất tranh chấp chung quanh địa điểm của ngôi đền mà UNESCO đã công nhận là
di sản thế giới dọc theo biên giới Thái Lan - Campuchia là thuộc về Campuchia.

7. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét giải thích phán quyết;
Ngày 28 tháng 4 năm 2011, Vương quốc Campuchia đã đệ trình lên Tòa án, bằng
một Đơn nộp tại Cơ quan đăng ký, Yêu cầu giải thích Phán quyết được Tòa án
đưa ra vào ngày 15 tháng 6 năm 1962 trong vụ án liên quan đến Đền Preah
Vihear
Trong Phán quyết được đưa ra vào ngày 11 tháng 11 năm 2013, Tòa án kết luận
rằng có tranh chấp giữa các Bên về ý nghĩa và phạm vi của Phán quyết năm 1962.
Sau đó, Tòa án chuyển sang giải thích Bản án năm 1962.

2
Tòa án nhận thấy rằng thuật ngữ "vùng phụ cận trên lãnh thổ Campuchia" phải
được hiểu là mở rộng ít nhất đến khu vực mà một đội cảnh sát đã đóng quân tại
thời điểm tố tụng ban đầu

2. Vụ tranh chấp đảo Pedra Branca giữa Singapore và Malaysia (2003-2008)


+ xem thêm tại https://www.icj-cij.org/en/cases-by-country và các tài liệu khác.
+ Tóm tắt vụ kiện
Tranh chấp đảo Pedra Branca - theo cách gọi của Xinh-ga-po hoặc Pulau Batu Puteh -
theo  cách gọi của Ma-lai-xi-a cùng các đảo đá Midlle Rocks và bãi nổi South Ledge giữa
Xinh-ga-po và Ma-lai-xi-a diễn ra trong một thời gian dài và chỉ đến sau khi được Tòa án
Công lý quốc tế chính thức đưa ra phán quyết về chủ quyền đối với Pedra Branca, Middle
Rocks và South Ledge vào ngày 23/5/2008 thì tranh chấp mới được giải quyết. Trên cơ sở kinh
nghiệm này, bài viết muốn đưa ra một số gợi ý và bài học cho Việt Nam trong tranh chấp hiện
nay ở Biển Đông.
Bối cảnh và quá trình hình thành tranh chấp
Pedra Branca - theo cách gọi của Xinh-ga-po hoặc Pulau Batu Puteh - theo cách gọi của
Ma-lai-xi-a (sau đây gọi chung là “Pedra Branca”)[1] là đảo đá nhỏ, dài 137m, rộng 60m, có
diện tích khoảng 8560m2 khi thủy triều xuống. Về vị trí địa lý, Pedra Branca nằm ở tọa độ
1°19'48" N, 104 ° 24'27" E; khoảng 24 hải lý về phía Đông của Xinh-ga-po, 7,7 hải lý về phía
Nam của bang Johor của Ma-lai-xi-a, và 7,6 hải lý phía Bắc của Bintan của In-đô-nê-xi-a.
[2] Năm 1844, người Anh bắt đầu quá trình chuẩn bị xây dựng ngọn hải đăng Horsburgh trên
đảo Pedra Branca. Năm 1847, công trình được khởi công. Đến năm 1851, hải đăng Horsburgh
được hoàn thành và chuyển giao cho Xinh-ga-po, lúc bấy giờ là thuộc địa của Anh theo Hiệp
ước Anglo-Dutch năm 1824.[3]
Middle Rocks bao gồm hai cụm đá nhỏ rộng khoảng 250m, cao từ 0,6 đến 1,2m và nằm
trên mặt nước khi thủy triều lên cao. Middle Rocks nằm 0,6 hải lý về phía nam của Pedra
Branca.[4] South Ledge là một khối đá chỉ có thể nhìn thấy khi thủy triều xuống, nằm 1,7 hải
lý về phía nam Middle Rocks và 2,2 hải lý về phía nam-tây nam của Pedra Branca.[5] Cả ba
cấu trúc địa lý trên đều nằm ở lối vào phía Đông của Eo biển Xinh-ga-po, gần cửa ngõ vào
3
Biển Đông, về phía Đông của Middle Channel, thuộc khu vực các tuyến đường biển nhộn nhịp
nhất trên thế giới.[6]
Ngày 21/12/1979, Ma-lai-xi-a xuất bản bản đồ “Ranh giới Lãnh hải và Thềm lục địa của
Ma-lai-xi-a”, thể hiện Pedra Branca là một phần lãnh thổ của mình. Lập luận của Ma-lai-xi-a là
khi lãnh chúa Johor (tiền thân Ma-lai-xi-a) trao phần đất (về sau là Xinh-ga-po) cho người Anh
theo Hiệp ước năm 1824, đảo Pedra Branca không đi cùng phần lãnh thổ được trao và phần
biển thuộc về người Anh chỉ trong bán kính cách Xinh-ga-po 10 hải lý. Trong khi đó, Pedra
Branca cách Xinh-ga-po đến 25 hải lý và cách Johor chỉ có 7,7 hải lý. Vì vậy trên cơ sở các
chứng cứ lịch sử và pháp lý, Pedra Branca thuộc về Ma-lai-xi-a.
Ngày 14/2/1980, Xinh-ga-po đưa ra thông cáo phản đối bản đồ và lập luận của Ma-lai-xi-
a. Xinh-ga-po khẳng định đã sở hữu và thực thi chủ quyền hòa bình và hữu hiệu đối với hòn
đảo này hơn 150 năm, trong đó có việc quản lý và tiến hành xây dựng nhiều công trình quan
trọng trên đảo mà Ma-lai-xi-a không có bất kỳ động thái hoặc phản hồi nào. Tranh chấp về
Pedra Branca giữa Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po diễn ra lúc công khai, lúc ngấm ngầm kéo dài cả
thập kỷ 80, tác động đến quan hệ song phương Xinh-ga-po-Ma-lai-xi-a và là chủ đề được thảo
luận ở nhiều cấp (Thủ tướng, Ngoại trưởng, và chuyên gia) và được cả người dân lẫn báo giới
hai nước quan tâm theo dõi.[7]
Quá trình giải quyết tranh chấp
Ngày 22/1/1992, tại một cuộc họp bên lề Cấp cao ASEAN lần thứ 4, Thủ tướng Xinh-ga-
po Goh Chok Tong và Thủ tướng Ma-lai-xi-a Mahathir Mohamad quyết định sẽ tổ chức trao
đổi tài liệu pháp lý và đàm phán để giải quyết tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế.[8] Ngày 17/2/1992, Xinh-ga-po trao Công hàm và các tài liệu liên quan cho
Ma-lai-xi-a. Trong Công hàm này Xinh-ga-po đề cập đến khả năng giải quyết tranh chấp
thông qua Tòa án Công lý quốc tế nếu đàm phán không thành công.[9] Ngày 29/6/1992, Ma-
lai-xi-a trao Công hàm và tài liệu liên quan của mình cho Xinh-ga-po. Trong Công hàm này
Ma-lai-xi-a không phản hồi đối với ý kiến của Xinh-ga-po về khả năng giải quyết tranh chấp
thông qua Tòa án Công lý quốc tế.
Trong hai năm 1993 và 1994, hai bên tổ chức hai vòng đàm phán để trao đổi các tài liệu
lịch sử và pháp lý nhằm xác định chủ quyền đối với Pedra Branca. Tại vòng đàm phán thứ
nhất, Xinh-ga-po chính thức đề nghị đưa Middle Rocks và South Ledge vào phạm vi khu vực
tranh chấp. Sau vòng đàm phán thứ hai không có kết quả, Ma-lai-xi-a tỏ ý chấp nhận xem xét
khả năng giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tài phán quốc tế. Ngày 6/9/1994, sau cuộc hội
đàm song phương, Thủ tướng Xinh-ga-po Goh Chok Tong và Thủ tướng Ma-lai-xi-a Mahathir
4
Mohamad tuyên bố hai bên đã đồng ý về nguyên tắc đưa tranh chấp chủ quyền đối với đảo
Pedra Branca ra giải quyết bởi một “bên thứ ba” nhưng không chính thức xác định là cơ quan
tài phán nào và giao chuyên gia pháp lý hai nước nghiên cứu tìm cơ chế giải quyết tranh chấp
phù hợp. Ngày 17/9/1994, 14 năm sau khi tranh chấp phát sinh, Ma-lai-xi-a chính thức đồng ý
giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án Công lý quốc tế.[10]
Quá trình đàm phán Thỏa thuận đặc biệt đệ trình tranh chấp lên Tòa án Công lý quốc tế
kéo dài suốt bốn năm. Khó khăn trong quá trình đàm phán chủ yếu xuất phát từ khác biệt của
hai bên liên quan đến phạm vi điều chỉnh của Thỏa thuận (chỉ điều chỉnh tranh chấp Pedra
Branca hay bao gồm cả tranh chấp Middle Rocks và South Ledge); thứ tự liệt kê tên đảo (đặt
Pedra Branca hay Pulau Batu Puteh trước); và quyền và nghĩa vụ của bên thua kiện (có đề xuất
Tòa xác định quyền và lợi ích của bên không có chủ quyền đối với Pedra Branca hay không).
Năm 1998 đàm phán kết thúc, theo đó hai bên thống nhất đưa cả tranh chấp liên quan đến
Middle Rocks và South Ledge vào phạm vi điều chỉnh của Thỏa thuận. Ma-lai-xi-a đồng ý đặt
Pedra Branca lên trước Pulau Batu Puteh (Pedra Branca/Pulau Batu Puteh) theo thứ tự chữ cái
với điều kiện rằng thứ tự này sẽ không được xem là một yếu tố liên quan đến chủ quyền mà
Tòa án Công lý quốc tế sẽ xem xét và hai bên thống nhất không yêu cầu Tòa xác định quyền
và lợi ích của bên không có chủ quyền đối với Pedra Branca.[11]
Năm năm sau, vào ngày 6/2/2003, Thỏa thuận đặc biệt được ký và vào ngày 9/5/2003,
Thỏa thuận được hai bên phê chuẩn. Đáng lưu ý, Ma-lai-xi-a chỉ chấp nhận ký Thỏa thuận với
Xinh-ga-po sau khi Tòa án Công lý quốc tế ra phán quyết vào ngày 17/12/2002 liên quan đến
tranh chấp về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa Indonesia và Ma-lai-xi-a
và tuyên bố Pulau Ligitan và Pulau Sipadan thuộc về Ma-lai-xi-a.[12] Ngày 24/7/2003, Ngoại
trưởng hai nước ký Thông báo chung gửi Tòa án Công lý quốc tế, chính thức trao cho Tòa án
Công lý quốc tế quyền phân định chủ quyền đối với Pedra Branca, Middle Rocks và South
Ledge.[13]
Ngày 23/5/2008, năm năm sau khi Xinh-ga-po và Ma-lai-xi-a đệ trình tranh chấp, Tòa án
Công lý quốc tế chính thức đưa ra phán quyết về chủ quyền đối với Pedra Branca, Middle
Rocks và South Ledge.[14] Theo phán quyết này, Pedra Branca thuộc về Xinh-ga-po với tỉ lệ
biểu quyết 12-4. Nhóm đảo đá nhỏ Middle Rocks thuộc về Ma-lai-xi-a với kết quả ủng hộ 15-1.
Cũng với tỉ lệ biểu quyết 15-1, Tòa kết luận bãi cạn lúc nổi lúc chìm, South Ledge, cách đảo
chính 3,8km (chỉ nổi khi nước triều rút), thuộc về quốc gia mà vùng lãnh hải có South Ledge.
[15]
 Phán quyết của Toà án Công lý quốc tế
5
Trong phán quyết của mình, Tòa án Công lý quốc xác định ngày 14/2/1980 (ngày Xinh-
ga-po trao Công hàm phản đối bản đồ của Ma-lai-xi-a) là “thời điểm quyết định” của tranh
chấp Pedra Branca, đánh dấu việc tranh chấp Pedra Branca chính thức hình thành. Theo đó,
Tòa chỉ xem xét hành vi của các bên tranh chấp đối với Pedra Branca trước thời điểm này.
Nói cách khác, tất cả các hoạt động, phát ngôn, tuyên bố về chủ quyền của các bên tranh chấp
sau ngày 14/2/1980 không được Tòa xem xét. Tương tự như vậy, đối với tranh chấp Middle
Rocks và South Ledge, Tòa cho rằng ngày 06/2/1993, ngày đầu tiên của vòng đàm phán trao
đổi tài liệu pháp lý giữa Chính phủ Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po, là “thời điểm quyết định” và
chỉ xem xét hành vi của các bên tranh chấp liên quan đến Middle Rocks và South Ledge trước
ngày 06/2/1993.[16]
Về tình trạng pháp lý của Pedra Branca, Tòa phân tích theo hai giai đoạn: trước và sau
năm 1844 khi người Anh tiến hành chuẩn bị xây dựng hải đăng trên Pedra Branca. Trước năm
1844, Tòa bác lập luận của Xinh-ga-po cho rằng Pedra Brance là lãnh thổ vô chủ (terra
nullius) và đồng ý với Ma-lai-xi-a rằng Pedra Branca thuộc về Vương quốc Hồi giáo Johor
(tiền thân của Ma-lai-xi-a). Tuy nhiên, Tòa cũng ghi nhận, từ những năm 1840 đến năm 1980,
chủ quyền đối với Pedra Branca đã được chuyển cho Xinh-ga-po qua các hoạt động thực hiện
chủ quyền liên tục và hòa bình của Anh (và sau đó là Xinh-ga-po) trong một thời gian dài mà
Ma-lai-xi-a không có bất kỳ sự phản đối nào. Toà nhận định, trong một số tình huống cụ thể,
Ma-lai-xi-a thậm chí còn ngầm thừa nhận việc thực hiện chủ quyền của Xinh-ga-po. Thư trao
đổi giữa Thư ký thuộc địa Xinh-ga-po và Cố vấn Johor năm 1953 được Tòa xem như một
trong những bằng chứng cho thấy Ma-lai-xi-a không tuyên bố chủ quyền đối với Pedra Branca
[17](Tòa bác lập luận của Ma-lai-xi-a về việc Cố vấn Johor không có thẩm quyền từ bỏ hoặc
phủ nhận chủ quyền của Johor).
Đối với Middle Rocks, Tòa bác lập luận của Xinh-ga-po cho rằng Middle Rocks là một
phần (dependency) của nhóm đảo Pedra Branca. Tòa nhận định rằng, tương tự như Pedra
Branca, Middle Rocks không phải là lãnh thổ vô chủ (terra nullius) mà thuộc chủ quyền của
Johor trước năm 1844. Các hoạt động xác lập chủ quyền của Anh và Xinh-ga-po sau năm 1844
chỉ được tiến hành đối với Pedra Branca và không áp dụng đối với Middle Rocks. Do đó, Tòa
kết luận chủ quyền đối với Middle Rocks vẫn thuộc về Ma-lai-xi-a.[18]
Đối với South Ledge, Tòa trích dẫn Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 và
án lệ Ca-ta và Ba-ranh[19] và cho rằng đây là bãi cạn lúc chìm lúc nổi, chỉ lộ ra khi thủy
triều thấp nên không tạo thành “lãnh thổ” theo nghĩa giống như một hòn đảo. Do đó, Tòa

6
không đưa ra câu trả lời cụ thể về chủ quyền đối với South Ledge mà chỉ kết luận chung rằng
bãi cạn lúc chìm lúc nổi này sẽ thuộc về nước mà khu vực lãnh hải bao trùm South Ledge.[20]
Hợp tác biển và phân định biển trên cơ sở phán quyết của Toà án Công lý quốc tế
Chính phủ Ma-lai-xi-a và Chính phủ Xinh-ga-po đều không phản đối kết quả phân xử.
Bộ trưởng Ngoại giao Ma-lai-xi-a Rais Yatim mô tả quyết định của Tòa án công lý quốc tế là
giải pháp cả hai cùng thắng và sẽ tác động tích cực đến quan hệ song phương giữa Ma-lai-xi-a
và Xinh-ga-po. Phó Thủ tướng Najib Tun Razak cho rằng phán quyết là một quyết định cân
bằng vì Ma-lai-xi-a cũng đã thành công một phần trong yêu sách lãnh thổ của mình.[21] Phó
thủ tướng Xinh-ga-po S. Jayakumar bày tỏ sự hài lòng của Xinh-ga-po vì Tòa đã trao chủ
quyền của Pedra Branca, đối tượng chính của cuộc tranh cãi, cho Xinh-ga-po. Thủ tướng Lý
Hiển Long nhấn mạnh việc đưa tranh chấp lên Tòa phân xử là một cách tốt để các bên có thể
giải quyết những bất đồng mà vẫn duy trì quan hệ láng giềng tốt đẹp.[22]
Mặc dù cũng có một số phản ứng chính trị nội bộ, đặc biệt là tại Quốc hội Ma-lai-xi-a và
bang Johor của Ma-lai-xi-a, về kết quả phán quyết, cả Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po đều khẳng
định cam kết tuân thủ và thực hiện đầy đủ phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế. Chỉ 10 ngày
sau phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế, ngày 03/6/2008, Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po đã
thống nhất thành lập Ủy ban Kỹ thuật chung Ma-lai-xi-a-Xinh-ga-po (MSJTC) để triển khai
thực hiện phán quyết.[23] Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po cũng nhất trí một trong hai bên đều có
thể hỗ trợ tàu gặp nạn tại các vùng biển gần Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge và
ngư dân cả hai nước đều có thể tiếp tục các hoạt động đánh bắt cá truyền thống của họ tại vùng
biển này.
Theo kết quả của cuộc họp ngày 20/8/2008 của Tiểu ban Nghề cá và Quản lý Hàng hải và
Không phận, các hoạt động đánh bắt cá truyền thống của cả hai nước sẽ tiếp tục được duy trì
trong vùng biển cách Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge hơn 0,5 hải lý.
Việc chuẩn bị kỹ thuật phục vụ khảo sát thủy văn làm cơ sở cho đàm phán phân định lãnh
hải giữa hai nước được Ủy ban Kỹ thuật chung giao cho Tiểu ban Nghiên cứu Khảo sát. Đến
tháng 7/2010, Tiểu Ban Nghiên cứu Khảo sát đã hoàn thành soạn thảo Bản ghi nhớ (MOU) về
khảo sát thủy văn tại khu vực Pedra Branca và Middle Rocks. Bản ghi nhớ được ký kết tại
cuộc họp thứ năm của Ủy ban Kỹ thuật chung vào ngày 02/12/2010, tạo cơ sở pháp lý để hai
bên tiếp tục tiến hành việc nghiên cứu xác định đặc tính của South Ledge và phân định biên
giới biển. In-đô-nê-xi-a cũng đã bày tỏ quan tâm muốn tham gia vào quá trình khảo sát, nghiên
cứu và đàm phán vì cho rằng vùng biển mà Ma-lai-xi-a và Xinh-ga-po đàm phán có thể chồng
lấn với vùng biển của In-đô-nê-xia.[24]
7
Tuy nhiên, đến năm 2013, MSJTC rơi vào tình trạng bế tắc do hai bên không thể nhất
trí về lãnh hải quanh Pedra Branca và South Ledge. Tình trạng bất định kéo dài này đã gây khó
khăn cho nhiệm vụ đảm bảo mối quan hệ hòa bình và hữu nghị giữa hai nước.
Ngày 2/2/2017, Malaysia đã gửi đơn yêu cầu ICJ sửa đổi phán quyết năm 2008 về chủ
quyền đối với Pedra Branca. Malaysia đã viện dẫn 3 tài liệu được Anh giải mật gần đây để hỗ
trợ cho việc nộp đơn yêu cầu xem xét lại phán quyết về Pedra Branca, đó là thư từ trao đổi nội
bộ của giới chức Singapore thời thuộc địa năm 1958, báo cáo tai nạn của Hải quân Anh năm
1958 và một bản đồ chú thích về các hoạt động hải quân từ thập niên 1960. Những tài liệu này
đã được tìm thấy trong Cơ quan Lưu trữ quốc gia Anh từ ngày 4/8/2016 đến ngày 30/1/2017.
Malaysia cho rằng đây là những tình tiết quan trọng, mới được phát hiện có thể ảnh hưởng đến
quyết định của Tòa và cả tòa án và Malaysia đều không biết tới tại thời điểm phán quyết được
đưa ra.
Tháng 6 năm 2017, Malaysia tiếp tục nộp đơn xin giải thích nhằm làm rõ phán quyết
phán quyết năm 2008 của ICJ về Pedra Branca và dải South Ledge với lập luận Pedra Branca
và dải South Ledge “nằm trong lãnh hải của Malaysia, nên phải thuộc chủ quyền nước này
chứ không phải Singapore”.
Sau khi nhận được thông báo từ Malaysia về việc nộp đơn yêu cầu xem xét lại phán
quyết nói trên, Singapore đã nghiên cứu kỹ đơn và tài liệu của Malaysia, thành lập nhóm
chuyên gia pháp lý (gồm có Bộ trưởng tư pháp Lucien Wong, Giáo sư S. Jayakumar, Giáo sư
Tommy Koh và cựu Chánh án Chan Sat Keong) để xem xét yêu cầu của Malaysia [196]; lựa
chọn Thẩm phán Gilbert Guillaume [195] tham gia vào quá trình giải quyết yêu cầu của
Malaysia theo đúng Quy chế của Tòa. Singapore đã đệ trình Bản Ghi nhớ bằng văn bản về sự
chấp nhận đơn đăng ký của Malaysia với ICJ vào ngày 24/5/2017 theo đúng thời hạn và luôn
sẵn sàng cho việc trình bày các lập luận theo đúng tiến độ mà ICJ đã ấn định cho thủ tục tố
tụng. Với yêu cầu giải thích phán quyết từ Malaysia, mặc dù có sự phản đối nhưng Singapore
luôn giữ vững cam kết giải quyết tất cả vấn đề theo đúng pháp luật quốc tế; đồng thời
Singapore sẽ nộp Bản Ghi nhớ bằng văn bản của mình đối với vấn đề này trong một thời gian
thích hợp [197].
1. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền của ICJ trong vụ việc:
- Ngày 17/9/1994, 14 năm sau khi tranh chấp phát sinh, Ma-lai-xi-a chính thức đồng ý
giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án Công lý quốc tế

8
2. Giá trị pháp lý của phán quyết:

Tòa án nhận thấy rằng chủ quyền đối với Pedra Branca / Pulau Batu Puteh
thuộc về Singapore
3. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét giải thích phán quyết;

4. Cơ sở pháp lý cho ICJ trong việc xem xét sửa đổi phán quyết
- Vào ngày 2 tháng 2 năm 2017, Malaysia đã nộp Đơn yêu cầu sửa đổi Phán quyết
do Tòa án đưa ra vào ngày 23 tháng 5 năm 2008 trong vụ kiện liên quan đến Chủ
quyền đối với Pedra Branca. Malaysia cho rằng đây là những tình tiết quan trọng,
mới được phát hiện có thể ảnh hưởng đến quyết định của Tòa và cả tòa án và
Malaysia đều không biết tới tại thời điểm phán quyết được đưa ra.
- Tháng 6 năm 2017, Malaysia tiếp tục nộp đơn xin giải thích nhằm làm rõ phán
quyết phán quyết năm 2008 của ICJ về Pedra Branca và dải South Ledge với lập
luận Pedra Branca và dải South Ledge “nằm trong lãnh hải của Malaysia, nên
phải thuộc chủ quyền nước này chứ không phải Singapore”.
- Vào ngày 29 tháng 5 năm 2018, Tòa án đã đưa ra Lệnh ghi nhận việc ngừng tiến
hành tố tụng theo thỏa thuận của các Bên, theo thỏa thuận của Malaysia vào ngày
30 tháng 6 năm 2017 đối với Singapore và chỉ đạo rằng vụ việc phải được xóa
khỏi Danh sách.
- Theo quy định của ICJ, hồ sơ yêu cầu xem xét lại phán quyết phải được nộp trong
vòng 6 tháng kể từ khi phát hiện yếu tố mới và không quá 10 năm từ ngày phán
quyết được đưa ra.

-
3. Vụ Nicaragoa kiện Mỹ (1984-1986) nd 1 và 2 (lưu ý biện pháp đảm bảo thi hành Phán
quyết):
- Tòa án công lý quốc tế- PGS.TS Nguyễn Hồng Thao (2011) trang 266 đến 283
- và các tài liệu khác.

9
Vào ngày 9 tháng 4 năm 1984, Nicaragua đã đệ trình Đơn khởi kiện chống lại Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, cùng với Yêu cầu chỉ định các biện pháp tạm thời liên quan đến tranh chấp liên quan
đến trách nhiệm đối với các hoạt động quân sự và bán quân sự trong và chống lại Nicaragua.
Vào ngày 10 tháng 5 năm 1984, Tòa án đã ra Lệnh chỉ ra các biện pháp tạm thời. Một trong
những biện pháp này yêu cầu Hoa Kỳ ngay lập tức ngừng và kiềm chế bất kỳ hành động nào
hạn chế quyền tiếp cận các cảng của Nicaragua, và đặc biệt là việc đặt mìn. Tòa cũng chỉ rõ
rằng quyền có chủ quyền và độc lập chính trị của Nicaragua, giống như bất kỳ quốc gia nào
khác, cần được tôn trọng đầy đủ và không được gây nguy hiểm bởi các hoạt động trái với
nguyên tắc nghiêm cấm đe dọa hoặc sử dụng vũ lực và nguyên tắc không can thiệp vào các vấn
đề thuộc thẩm quyền trong nước của một Quốc gia. Tòa án cũng quyết định theo Thứ tự nói
trên rằng thủ tục tố tụng trước tiên sẽ được giải quyết đối với các câu hỏi về thẩm quyền của
Tòa án và về khả năng chấp nhận của Đơn Nicaragua. Ngay trước khi kết thúc thủ tục tố tụng
bằng văn bản trong giai đoạn này, El Salvador đã đệ trình tuyên bố can thiệp vào vụ việc theo
Điều 63 của Quy chế, yêu cầu cho phép tuyên bố rằng Tòa án thiếu thẩm quyền giải quyết Đơn
của Nicaragua. Trong Đơn đặt hàng ngày 4 tháng 10 năm 1984, Sau khi nghe tranh luận của cả
hai Bên trong quá trình điều trần công khai được tổ chức từ ngày 8 đến ngày 18 tháng 10 năm
1984, vào ngày 26 tháng 11 năm 1984, Tòa án đã đưa ra Phán quyết tuyên bố rằng họ có thẩm
quyền giải quyết vụ việc và Đơn của Nicaragua được chấp nhận. Đặc biệt, tuyên bố của
Nicaragua năm 1929 là hợp lệ và Nicaragua do đó có quyền viện dẫn tuyên bố năm 1946 của
Hoa Kỳ làm cơ sở cho quyền tài phán của Tòa án (Điều 36, khoản 2 và 5, Quy chế). Các thủ
tục tố tụng tiếp theo diễn ra trong sự vắng mặt của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã tuyên bố vào ngày 18
tháng 1 năm 1985 rằng họ “dự định không tham gia vào bất kỳ thủ tục tố tụng nào nữa liên
quan đến vụ này”. Từ ngày 12 đến ngày 20 tháng 9 năm 1985, Tòa án đã nghe Nicaragua tranh
luận bằng miệng và lời khai của năm nhân chứng mà Tòa án đã gọi. Vào ngày 27 tháng 6 năm
1986, Tòa án đã đưa ra Phán quyết của mình về các công trạng. Các phát hiện bao gồm bác bỏ
biện minh của quyền tự vệ tập thể mà Hoa Kỳ đã nâng cao liên quan đến các hoạt động quân
sự hoặc bán quân sự ở hoặc chống lại Nicaragua, và tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các
nghĩa vụ do luật tục quốc tế áp đặt là không can thiệp vào các công việc của Quốc gia khác,
không được sử dụng vũ lực chống lại Quốc gia khác, không được xâm phạm chủ quyền của
Quốc gia khác và không được làm gián đoạn thương mại hòa bình trên biển. Tòa án cũng phát
hiện ra rằng Hoa Kỳ đã vi phạm một số nghĩa vụ phát sinh từ Hiệp ước song phương về Hữu
nghị, Thương mại và Hàng hải năm 1956, và họ đã có những hành vi nhằm tước bỏ đối tượng

10
và mục đích của hiệp ước đó. Các phát hiện bao gồm bác bỏ biện minh của quyền tự vệ tập thể
mà Hoa Kỳ đã nâng cao liên quan đến các hoạt động quân sự hoặc bán quân sự ở hoặc chống
lại Nicaragua, và tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các nghĩa vụ do luật tục quốc tế áp đặt là
không can thiệp vào các công việc của Quốc gia khác, không được sử dụng vũ lực chống lại
Quốc gia khác, không được xâm phạm chủ quyền của Quốc gia khác và không được làm gián
đoạn thương mại hòa bình trên biển. Tòa án cũng phát hiện ra rằng Hoa Kỳ đã vi phạm một số
nghĩa vụ phát sinh từ Hiệp ước song phương về Hữu nghị, Thương mại và Hàng hải năm 1956,
và họ đã có những hành vi nhằm tước bỏ đối tượng và mục đích của hiệp ước đó. Các phát
hiện bao gồm bác bỏ biện minh của quyền tự vệ tập thể mà Hoa Kỳ đã nâng cao liên quan đến
các hoạt động quân sự hoặc bán quân sự ở hoặc chống lại Nicaragua, và tuyên bố rằng Hoa Kỳ
đã vi phạm các nghĩa vụ do luật tục quốc tế áp đặt là không can thiệp vào các công việc của
Quốc gia khác, không được sử dụng vũ lực chống lại Quốc gia khác, không được xâm phạm
chủ quyền của Quốc gia khác và không được làm gián đoạn thương mại hòa bình trên biển.
Tòa án cũng phát hiện ra rằng Hoa Kỳ đã vi phạm một số nghĩa vụ phát sinh từ Hiệp ước song
phương về Hữu nghị, Thương mại và Hàng hải năm 1956, và họ đã có những hành vi nhằm
tước bỏ đối tượng và mục đích của hiệp ước đó.

Nó quyết định rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ ngay lập tức dừng và kiềm chế mọi hành vi cấu thành
vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình, và rằng nó phải bồi thường cho tất cả những tổn thương
gây ra cho Nicaragua do vi phạm nghĩa vụ theo luật tục quốc tế và năm 1956 Hiệp ước, số tiền
bồi thường đó sẽ được ấn định trong các thủ tục tiếp theo nếu các Bên không thể đạt được thỏa
thuận. Tòa án sau đó đã ấn định, theo một Lệnh, giới hạn thời gian cho việc nộp các văn bản
khẩn cầu của các Bên về vấn đề hình thức và số tiền bồi thường, và Đài tưởng niệm Nicaragua
được nộp vào ngày 29 tháng 3 năm 1988, trong khi Hoa Kỳ vẫn duy trì từ chối tham gia vụ
việc. Vào tháng 9 năm 1991, Nicaragua thông báo cho Tòa án, ngoài ra, rằng nó không muốn
tiếp tục quá trình tố tụng. Hoa Kỳ nói với Tòa án rằng họ hoan nghênh việc ngừng hoạt động
và theo Lệnh của Tổng thống ngày 26 tháng 9 năm 1991, vụ việc đã được xóa khỏi Danh sách
của Tòa án.

1. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền của ICJ trong vụ việc;


Tuyên bố của Nicaragua về việc chấp nhận thẩm quyền của Toà vào năm 1929 về bản chất

là không hợp lệ, vì văn bản chấp nhận Quy chế của Tòa án công lý quốc tế thường trực

11
(PCIJ) (chính xác hơn là “Nghị định thư Ký kết – Protocol of Signature”- của Quy chế)

chưa bao giờ được gửi đến Toà. Tuy nhiên, Nicaragua đã tuyên bố tuân thủ hình thức đó,

theo quy định của PCIJ cho phép ký thác một tuyên bố không bắt buộc trước khi thông qua

Quy chế. Do đó, tuyên bố có khả năng có hiệu lực, được hoàn thiện bởi sự phê chuẩn theo

đúng các thủ tục đương nhiệm. Tuyên bố thứ hai xuất hiện khi Nicaragua trở thành thành

viên của Liên hợp quốc theo Điều 92 của Hiến chương, trong khi đang trong quá trình trở

thành thành viên của Quy chế ICJ. Điều này đã hoàn thiện khả năng có hiệu lực của tuyên

bố trước đó theo như Điều 36 (khoản 5) Quy chế ICJ, điều khoản này cho phép việc chuyển

các tuyên bố không bắt buộc (công nhận thẩm quyền) của PCIJ sang ICJ. Hơn nữa, Tòa

lưu ý rằng Nicaragua luôn tự coi mình bị ràng buộc bởi tuyên bố này và được đề cập như

một quốc gia thành viên trong hệ thống (của ICJ) theo Niên giám của Tòa, mặc dù có chú

thích nhắc lại việc không nhận được văn kiện thông qua. Điều này đủ để chỉ ra rằng

Nicaragua bị ràng buộc với quyền tài phán của Tòa bằng sự chấp thuận ngầm.

Tòa sau đó chuyển sự chú ý của mình đến thư của Ngoại trưởng Hoa Kỳ George Schultz

gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc Javier Pérez de Cuéllar ngày 6 tháng 4 năm 1984. Thư này

có mục đích là nhằm tránh nè các vụ kiện nhằm vào Hoa Kỳ, nó được gửi đi 3 ngày trước

khi Nicaragua gửi đơn kiện lên Tòa. Trong phần có liên quan, lá thư này cho rằng Tuyên

bố của Hoa Kỳ theo Điều 36 (khoản 2) của Quy chế:

[S]ẽ không áp dụng đối với các tranh chấp với bất kỳ quốc gia miền Trung Mỹ hoặc phát

sinh hay liên quan đến các sự kiện ở Trung Mỹ, bất kỳ tranh chấp nào sẽ được giải quyết

bằng cách mà các bên tham gia đồng ý … Bất chấp các nội dung nêu ra trong Tuyên bố

trước đây, điều khoản này sẽ có hiệu lực ngay lập tức và sẽ có hiệu lực trong hai năm, để

phục vụ cho quá trình giải quyết tranh chấp khu vực.

12
Tòa cho rằng việc phủ quyết Tuyên bố của Hoa Kỳ về việc chấp nhận thẩm quyền của Toà

trước đây (theo điều 36 khoản 2 của Quy chế) không thể tước đi thẩm quyền của Tòa. Bởi

vì các lý do sau đây:

Đây là điều kiện thứ 3 để nói lên cơ

1. Nó được gửi khi Hoa Kỳ nhận thức được rằng Nicaragua sẽ gửi đơn kiện
mình ra Tòa mặc dù nó được gửi trước hành vi này của Nicaragua.
2. Nó trái với Tuyên bố năm 1946 của Hoa Kỳ mà theo đó Hoa Kỳ đã tự ràng
buộc mình vào quy định rằng bất cứ sự thay đổi nào liên quan đến thẩm
quyền của Tòa Hoa Kỳ phải thông báo trong vòng 6 tháng.

Tòa tiếp tục bác bỏ lập luận của Hoa Kỳ rằng nước này sẽ chấp nhận các hành vi có qua có

lại của Nicaragua hoặc bất cứ bên thứ 3 nào có liên quan đến việc áp dụng Tuyên bố năm

1946 của mình. Theo đó, nước này tự thấy việc này là công bằng và có lợi cho cả hai bên

nếu như việc huỷ Tuyên bố năm 1946 có hiệu lực ngay lập tức.

Tòa nhắc lại rằng nguyên tắc có qua có lại trong trường hợp này chỉ liên quan đến nội dung

của các tuyên bố chứ không liên quan đến các điều kiện để các tuyên bố này có hiệu hay

huỷ bỏ các tuyên bố khác. Cần phải chú ý thêm là việc có qua có lại có thể được viện dẫn

chỉ bởi các quốc gia đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa ở mức độ áp dụng rộng hơn để

tránh bị đặt vào tình thế bất lợi trước một quốc gia khác chấp nhận thẩm quyền của Toà

bằng các bảo lưu – nó không thể được viện dẫn bởi một nước không muốn tuân theo các

điều khoản trong tuyên bố của chính mình.

Cuối cùng, Tòa cho rằng nguyên tắc có qua có lại chỉ tồn tại giữa các thành viên trong vụ

kiện trước Tòa, chứ không phải để chống lại các tuyên bố công nhận thẩm quyền của Tòa,

hành vi này, theo Tòa, là nằm ngoài quá trình tố tụng. Tòa lưu ý rằng tuyên bố của

13
Nicaragua không có quy định về thời gian cho việc thông báo huỷ bỏ hiệu lực của tuyên

bố, nên việc Hoa Kỳ giả định rằng Hoa Kỳ có thể huỷ bỏ tuyên bố của mình với hiệu lực

tức thời là sai về mặt pháp lý, cụ thể là nguyên tắc có qua có lại giữa các thành viên.

Nicaragua, theo phân tích từ luật điều ước quốc tế và theo nguyên tắc thiện chí thực hiện

các cam kết của mình, có trách nhiệm phải bác bỏ các sửa đổi về sự đồng ý (thẩm quyền

của Tòa) trong thời gian thích hợp trước khi nó có hiệu lực.

Một sự phản đối nữa của Hoa Kỳ đối với thẩm quyền của Toà liên quan đến cái gọi là

nguyên tắc bảo lưu Vandenberg, nằm trong tuyên bố năm 1946 của Thượng nghị sĩ Arthur

H Vandenberg của Michigan. Tuyên bố này sẽ bác bỏ thẩm quyền của Tòa đối với các

tranh chấp phát sinh tranh chấp từ một điều ước đa phương, trừ khi (1) tất cả các bên tham

gia điều ước bị ảnh hưởng bởi quyết định này cũng là các bên tham gia vụ kiện, hoặc (2)

Hoa Kỳ đồng ý với thẩm quyền của mình. Tòa quyết định rằng tuyên bố bảo lưu này trước

mắt sẽ có giá trị áp dụng trong trong quá trình tố tụng , nhưng không đủ để vô hiệu hóa

việc Hoa Kỳ đồng ý với thẩm quyền của Toà, bởi vì mức độ mà các quốc thứ ba trong quá

trình tố tụng có thể bị ảnh hưởng như thế nào bởi phán quyết cuối cùng của Tòa phụ thuộc

vào các quyết định liên quan chặt chẽ đến quá trình tranh tụng về mặt nội dung của vụ. Do

đó, vấn đề ở đây không phải chỉ có tính chất sơ bộ (là thẩm quyền của Toà) mà liên quan

đến các phiên nội dung của quá trình tranh tụng. Sau đó, Tòa đã xem xét và khẳng định

thêm một cơ sở của thẩm quyền là điều khoản thỏa hiệp có trong Điều XXIV (khoản 2) của

Hiệp ước Thương mại và hàng hải, trong đó có một số điều khoản mà Nicaragua cáo buộc

rằng Hoa Kỳ đã vi phạm.

Tòa án cũng xem xét các phản đối khác nhau của Hoa Kỳ liên quan đến sự phù hợp của các

yêu sách của Nicaragua. Trước hết, Tòa chỉ ra rằng các bên thứ ba, có khả năng bị ảnh

hưởng bởi phán quyết, là không phải là rất cần thiết trong quá trình tố tụng này theo như

tuyên bố của Tòa trong vụ Monetary Gold. Phán quyết của Toà, trước hết, là không liên

14
quan đến các quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba, mặc dù các quyền và nghĩa vụ rất có thể sẽ

bị ảnh hưởng gián tiếp bởi phán quyết của Tòa. Do đó, Điều 59 của Quy chế, phán quyết

của Toà chỉ có hiệu lực với các bên trong tranh chấp, có thể được áp dụng để bảo vệ quyền

lợi của các bên thứ ba.

Thứ hai, Tòa cho rằng thẩm quyền của mình không bị cản trở dù Hội đồng Bảo an cũng có

các quyền tương tự trong việc bảo vệ an ninh và hòa bình. Theo Điều 24 (khoản 1) của

Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an chỉ có thẩm quyền chính yếu đối với các vấn

đề liên quan đến việc duy trì hòa bình; quyền lực này không phải là độc quyền. Hơn nữa,

Điều 12 (khoản 1) của Hiến chương không chứa bất kỳ giới hạn nào đối với các hoạt động

song song giữa Hội đồng Bảo an và Tòa, trái ngược với mối quan hệ giữa Hội đồng Bảo an

và Đại hội đồng. Do đó, dưới sự phân chia quyền hạn được quy định trong Hiến chương

Liên Hợp Quốc, Hội đồng được ủy quyền để giải quyết các khía cạnh chính trị của các

tranh chấp quốc tế và Tòa án với những khía cạnh về pháp lý, một sự sắp xếp được Tòa án

đã xác nhận là phù hợp trong vụ Tehran Hostages.

Thứ ba, Tòa bác bỏ lập luận của Hoa Kỳ rằng tranh chấp này là không thể giải quyết được

bằng con đường tài phán, Tòa cho rằng Tòa sẽ chỉ áp dụng các quy định điều chỉnh việc sử

dụng vũ lực và không can thiệp theo luật pháp quốc tế, và vì vậy sẽ không vượt quá chức

năng tư pháp của Tòa. Nếu có khó khăn trong việc thiết lập các bằng chứng thực tế trong

một cuộc xung đột đang diễn ra, thì có thể nói rằng tình huống này được xử lý theo các

nguyên tắc về bằng chứng.

Cuối cùng, Tòa án cho rằng các bên không bị ràng buộc phải thực hiện tất cả mọi thủ tục

chính trị để giải quyết tranh chấp trước khi đưa tranh chấp ra Tòa, đáng chú ý nhất là

“Quá trình Contadora”. Việc tiếp tục đàm phán không làm ảnh hưởng đến thẩm quyền của

Toà hay làm cho các yêu sách trước Toà trở nên không phù hợp.

15
Trên cơ sở những điều đã nói ở trên, 11/5 thẩm phán đồng ý với thẩm quyền của Toà để xét

xử vụ theo các Tuyên bố không bắt buộc (công nhận thẩm quyền của Toà), và 14/2 phiếu

cho rằng Tòa có quyền tài phán theo Hiệp ước Thương mại và hàng hải. Tất cả các lập luận

về việc các yêu sách không phù hợp đưa ra quá trình tố tụng đều bị từ chối.

1. Cở sở tạo nên thẩm quyền:

- Điều kiện thứ 3: Có thẩm quyền giải quyết tranh chấp vì dựa trên tuyên bố đơn

phương của cả 2 bên - Nicaragoa 1929(vẫn còn hiệu lực), Mỹ 1946 (trừ một số vụ

liên quan đến các tranh chấp liên quan đến…)

- cac nguyên tắc ngoài được ghi nhận trong các điều ước quốc tế còn được ghi nhận

trong các tập quán quốc tế => thừa nhận của các bên của các quốc gia => k loại trừ

thẩm quyền của tòa trong tuyên bố 1946 của Mỹ

Các quy tắc liên quan đến điều 2 của Hiến chương, các quy tắc cơ bản đó ngoài được

quy định tại HCLHQ thì còn ghi nhận tại tập quan quốc tế

2. Giá trị pháp lý của phán quyết

- sơ qua nội dung của phán quyết

- có giá trị chung thẩm, bắt buộc với các bên, được đảm bảo bằng các biện pháp ..

mà tại đây cụ thể là điều 94 của HĐBA LHQ => có áp dụng để HĐBA thông qua

nghị quyết yêu cầu 2 bên thực hiện phán quyết, nhưng Mỹ là thành viên được

tham gia Đ27.3

- tháng 11, Nicaragoa vận động các bên khuyến nghị và đưa ra như vậy để làm sức

ép lên Mỹ từ cộng đồng quốc tế.

16
4. Đọc thêm: Vụ Palestine kiện Mỹ 2018 tại Tòa ICJ về Công ước Viên về Quan hệ
ngoại giao năm 1961: Sơ bộ về thẩm quyền
https://iuscogens-vie.org/2018/10/28/105/
Nội dung của tranh chấp – Bốn câu hỏi về thẩm quyền của Tòa – Liệu Palestine là một quốc
gia? – Liệu có quan hệ điều ước giữa Palestine và Mỹ? – Liệu tranh chấp có liên quan đến
giải thích hay áp dụng Công ước Viên năm 1961? – Liệu Israel có là một bên tranh chấp
không thể thiếu? – Kết luận sơ bộ 
Ngày 28 tháng 9 năm 2018, Palestine khởi kiện Mỹ ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) liên quan
đến việc Mỹ di chuyển trụ sở đại sứ quán của nước này tại Israel từ Tel Aviv đến Jerusalem
(xem đơn kiện bằng tiếng Anh tại đây, tóm tắt của Ban thư ký Tòa tại đây). Đại sứ quán Mỹ tại
Jerusalem được chính thức mở cửa vào ngày 14 tháng 5 năm 2018.[1] Đây là vụ kiện đầu tiên
mà Palestine tiến hành trước Tòa ICJ. Palestine yêu cầu Tòa tuyên bố Mỹ đã vi phạm Công
ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961 khi di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem, buộc Mỹ
rút phái đoàn ngoại giao khỏi Jerusalem và cam kết không tái phạm.[2]
1. Nội dung tranh chấp được đệ trình
Palestine cho rằng Jerusalem có quy chế pháp lý quốc tế đặc biệt theo các nghị quyết của Đại
hội đồng Liên hợp quốc. Nghị quyết 181(II) năm 1947 khẳng định “Thành phố Jerusalem được
xác lập như một thực thể riêng biệt với quy chế quốc tế đặc biệt.” Điều đó có nghĩa là
Jerusalem không là một phần lãnh thổ của Israel. Do đó, việc Mỹ di chuyển đại sứ quán của
mình tại Israel đến Jerusalem đã vi phạm các quy định của Công ước Viên năm 1961.
Các quy định của Công ước Viên năm 1961 sử dụng cụm từ “ở quốc gia tiếp nhận” (in the
receiving State) ở nhiều điều khoản, ví dụ như Điều 3(1) về chức năng của phái đoàn ngoại
giao là đại diện cho quốc gia ở quốc gia tiếp nhận. Theo đó, rõ ràng rằng chức năng đại diện
của phái đoàn ngoại giao (và hai chức năng khác trong năm chức năng theo Điều 3(1)) phải
được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận.[3] Điều 3(1) nêu trên quy định nguyên
văn rằng:
“1. Các chức năng của một phái đoàn ngoại giao bao gồm, inter alia,:
● Đại diện quốc gia gửi ở quốc gia tiếp nhận;
● Bảo vệ lợi ích của quốc gia gửi và của công dân của mình ở quốc gia tiếp nhận trong khuôn
khổ cho phép của luật quốc tế;
● Đàm phán với Chính phủ quốc gia tiếp nhận;
● Thu thập bằng các biện pháp hòa bình các điều kiện và tình hình phát triển ở quốc gia tiếp
nhận, và báo cáo về cho Chính phủ quốc gia gửi;
● Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa quốc gia gửi và quốc gia tiếp nhận, và phát triển quan hệ
kinh tế, văn hóa và khoa học giữa hai nước.”
Theo Palestine, cụm từ “ở quốc gia tiếp nhận” còn được sử dụng ở 12 điều khoản khác của
Công ước, và điều này cho thấy phái đoàn ngoại giao của một quốc gia phải được thành lập
trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận.[4] Hơn nữa, Điều 21(1) cũng quy định quốc gia tiếp nhận
sẽ tạo điều kiện cho phái đoàn ngoại giao mua trụ sở trên lãnh thổ của mình (on its territory).
[5] Tóm lại, Palestine cho rằng Jerusalem không phải là lãnh thổ của Israel, mà Công ước Viên
năm 1961 lại yêu cầu phái đoàn ngoại giao của một nước phải được thành lập trên lãnh thổ của
quốc gia tiếp nhận, do đó, việc Mỹ di chuyển đại sứ quán của mình tại Israel đến Jerusalem đã
vi phạm Công ước trên.
2. Bốn câu hỏi về thẩm quyền của Tòa ICJ
Theo đơn kiện của Palestine,[6] Tòa ICJ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà Palestine đệ
trình theo Điều 1 của Nghị định thư tùy chọn của Công ước Viên về Quan hệ ngoại giao. Công
ước Viên về Quan hệ ngoại giao năm 1961 có hiệu lực năm 1964. Công ước được thông qua
17
kèm với một nghị định thư: Nghị định thư tùy chọn về Giải quyết tranh chấp bắt buộc
(Optional Protocol concerning the Compulsory Settlement of Disputes 1961). Nghị định thư
này cũng có hiệu lực năm 1964. Điều 1 Nghị định thư tùy chọn quy định
“Các tranh chấp phát sinh từ việc giải thích hay áp dụng Công ước sẽ thuộc thẩm quyền bắt
buộc của Tòa án Công lý Quốc tế và theo đó có thể được đệ trình trước Tòa theo đơn kiện của
bất kỳ bên tranh chấp nào là Thành viên của Nghị định thư này.”
Mỹ là thành viên của Công ước Viên và Nghị định thư nêu trên vào năm 1972. Palestine gia
nhập Công ước Viên ngày 02 tháng 04 năm 2014 và Nghị định thư tùy chọn ngày 22 tháng 03
năm 2018. Ngay sau đó, ngày 01 tháng 5 năm 2018, Mỹ gửi công hàm cho Tổng thư ký Liên
hợp quốc khẳng định Palestine không là một quốc gia có chủ quyền, không có quyền gia nhập
Nghị định thư tùy chọn và do đó không có quan hệ điều ước với Palestine theo Nghị định thư
tùy chọn.[7] Ngày 12 tháng 10 năm 2018, hai tuần sau khi Palestine khởi kiện Mỹ ra Tòa ICJ
dựa trên Nghị định thư tùy chọn, Tổng thư ký Liên hợp quốc nhận được công hàm của Mỹ
tuyên bố rút khỏi Nghị định thư.[8]
Để xem xét Tòa ICJ có thẩm quyền hay không, bốn vấn đề sau đây có thể được xem xét đến:
(1) Palestine có là một Quốc gia hay không?, (2) có hay không quan hệ điều ước giữa Mỹ và
Palestine liên quan đến Công ước Viên năm 1961? (3) tranh chấp về di chuyển đại sứ quán Mỹ
có phải là tranh chấp về giải thích hay áp dụng Công ước Viên hay không? Và (4) Israel có
phải là một bên không thể thiếu trong tranh chấp?
Đọc thêm hai bài phân tích trên EJIL Talk!: Palestine Sues the United States in the ICJ re
Jerusalem Embassy của Marko Milanovic, và Palestine’s Application the ICJ, neither
Groundless nor Hopeless. A Reply to Marko Milanovic của Alina Miron.
Câu hỏi 1: Palestine có là một Quốc gia hay không?
Câu hỏi này được đặt ra bởi lẻ câu trả lời sẽ có tính quyết định trong việc xác định liệu Nghị
định thư tùy chọn có được xem là căn cứ xác lập thẩm quyền của Tòa và liệu Palestine có
quyền đệ trình tranh chấp lên Tòa hay không. Nếu Palestine không phải là quốc gia, vậy Tòa
không thể có thẩm quyền để xem xét vụ kiện (xem thêm Định nghĩa Quốc gia trong luật quốc
tế).
Chỉ có Quốc gia mới có quyền là thành viên của Công ước Viên năm 1961 và Nghị định thư
tùy chọn. Điều 48 và 50 của Công ước Viên năm 1961 quy định chỉ có bốn nhóm quốc gia
(State) có quyền gia nhập Công ước này: Quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, Quốc gia
thành viên của các cơ quan chuyên trách, Quốc gia là thành viên của Quy chế Tòa, các Quốc
gia khác được Đại hội đồng mời gia nhập. Điều V và VII của Nghị định thư tùy chọn quy định
các Quốc gia thành viên của Công ước Viên và tất cả các Quốc gia khác có thể trở thành thành
viên của Công ước đều có quyền gia nhập Nghị định thư. Tóm lại, chỉ có Quốc gia mới có
quyền gia nhập Công ước và Nghị định thư tùy chọn.
Theo Quy chế Tòa ICJ, cũng chỉ có Quốc gia mới có tư cách đệ trình tranh chấp cho Tòa giải
quyết. Điều 35 Quy chế Tòa quy định Tòa chỉ mở cho các Quốc gia thành viên của Quy chế
Tòa và các Quốc gia khác. Các thực thể phi quốc gia, như tổ chức quốc tế, không có quyền đệ
trình tranh chấp để giải quyết trước Tòa ICJ. Nói cách khác, Tòa chỉ giải quyết tranh chấp giữa
quốc gia và quốc gia. 
Đa số các quốc gia trên thế giới công nhận Palestine là một quốc gia – chủ thể của luật quốc tế.
Tuy nhiên, một số nước lớn vẫn chưa công nhận Quốc gia Palestine như Mỹ và EU. Mỹ không
cho rằng Palestine đủ tiêu chí để là một quốc gia độc lập.[9] Palestine đương nhiên cho rằng
mình là một quốc gia, và đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thay mặt cộng đồng quốc tế
công nhận.[10] Palestine trích vẫn Nghị quyết 67/19 (2012) Đại hội đồng công nhận “quy chế
Quốc gia quan sát viên phi thành viên của Liên hợp quốc” (non-member observer State in the
United Nations). Không rõ vì sao Bộ Ngoại giao Việt Nam lại dịch là ‘quy chế Nhà nước quan

18
sát viên phi thành viên’,[11] và dịch ‘the State of Palestine’ là ‘Nhà nước Palestine’.[12] Từ
góc độ luật quốc tế, cách dịch này mang tính đa nghĩa, dễ gây hiểu lầm không cần thiết.
Quy chế pháp lý của Palestine vẫn là một vấn đề gây tranh cãi, rất nhạy cảm về mặt chính trị.
Do đó, nhiều khả năng Tòa sẽ tìm cách không phải đề cập đến vấn đề này.

Câu hỏi 2: Có quan hệ điều ước giữa Mỹ và Palestine theo Nghị định thư tùy chọn?
Câu hỏi này quan trọng ở chỗ hai quốc gia có thể đều là thành viên của một điều ước nhưng lại
không có quan hệ điều ước với nhau. Vấn đề này được nêu lên một cách rất thông minh bởi
Sotirios Lekkas trên EJIL Talk![13] Như đã đề cập ở trên, ngay khi Palestine gửi công hàm gia
nhập Nghị định thư tùy chọn, Mỹ đã có công hàm khẳng định không có quan hệ điều ước với
Palestine theo Nghị định thư này. Tình huống này tương tự như việc Israel và các nước Ả-rập
cùng gia nhập các điều ước đa phương nhưng luôn có tuyên bố không công nhận nhau đi kèm.
Sotirios Lekkas cho rằng nếu đã không có quan hệ điều ước theo Nghị định thư tùy chọn thì
Điều 1 và mọi điều khoản khác của Nghị định thư đều không có hiệu lực pháp lý giữa hai
nước, và do đó, Tòa không có thẩm quyền xem xét mà không cần thiết xem xét đến câu hỏi
liệu Palestine có phải là một quốc gia hay không.
Marko Milanovic không đồng ý với Sotirios Lekkas,[14] ông cho rằng tuyên bố của Mỹ là vô
hiệu về mặt pháp lý bởi vì một quốc gia không có quyền đơn phương vô hiệu hóa (inoperative)
quan hệ điều ước giữa quốc gia thành viên và quốc gia mới gia nhập. Quyền đó chỉ có thể khi
có bảo lưu hợp pháp.
Vấn đề liệu một quốc gia có quyền từ chối quan hệ điều ước với một quốc gia mới gia nhập
hay không là một vấn đề rất thú vị, cần nghiên cứu thêm. Ở đây một điểm cần lưu ý rằng, toàn
bộ hệ thống pháp lý quốc tế được xây dựng dựa trên nền tảng sự đồng ý của quốc gia. Các
quốc gia có quyền quyết định xác lập hay không xác lập quan hệ điều ước với quốc gia khác
thông qua việc ký kết các điều ước. Mặt khác, khi tham gia vào các điều ước quốc tế đa
phương mở cho nhiều quốc gia khác thì các quốc gia cũng phải dự trù và có thể xem là ngầm
đồng ý với việc phải xác lập quan hệ điều ước với các quốc gia gia nhập sau. Nếu ý kiến thứ
hai này là đúng thì câu hỏi về tư cách quốc gia của Palestine sẽ nhất định cần xem xét đến; còn
nếu ý kiến thứ nhất là đúng thì vụ kiện có thể bị bác mà không cần xem xét đến các căn cứ
khác.
Câu hỏi 3: Tranh chấp mà Palestine đệ trình có liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước
Viên?
Vấn đề thứ ba mà Tòa cần xem xét là liệu nội dung tranh chấp mà Palestine đệ trình có liên
quan đến giải thích và áp dụng Công ước Viên hay không? Nếu tranh chấp được đệ trình
không liên quan đến Công ước Viên năm 1961 thì Palestine không thể dựa vào Nghị định thư
tùy chọn để khởi kiện, và Tòa ICJ cũng không thể có thẩm quyền theo Nghị định thư đó.
Theo các án lệ của Tòa ICJ, để xác định một tranh chấp có liên quan đến giải thích hay áp
dụng một điều ước hay không, cần phải có bằng chứng cho thấy tranh chấp đó liên quan đến
nội dung, vấn đề được điều ước đó điều chỉnh (the subject-matter of the treaty), tốt nhất là đề
cập trực tiếp đến điều ước đó trong các trao đổi (ví dụ như tên của điều ước, điều khoản của
điều ước chẳng hạn).[15] Trong đơn kiện của mình, Palestine dẫn hai công hàm gửi đến Mỹ
liên quan đến việc di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem có nhắc đến Công ước Viên năm 1961.
[16] Công hàm ngày 14/05/2018 của Palestine gửi Bộ Ngoại giao Mỹ xem hành động của Mỹ
là vi phạm Công ước Viên năm 1961. Công hàm ngày 04/07/2018 thông báo cho Bộ Ngoại
giao Mỹ về việc đang có tranh chấp giữa hai nước theo Điều I và II của Nghị định thư tùy chọn
liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước Viên.
Như vậy, rõ ràng rằng Palestine đã có thông báo gửi trực tiếp đến Mỹ đề cập đến tranh chấp
liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước Viên năm 1961. Đặc biệt là công hàm ngày
04/07/2018 thông báo rõ ràng, không mập mờ về sự tồn tại một tranh chấp như thế. Hơn nữa,
19
như tóm tắt ở trên, nội dung tranh chấp theo đơn kiện mà Palestine đệ trình liên quan đến nội
hàm của các quy định của Công ước Viên năm 1961 – nội hàm của cụm từ “ở nước tiếp nhận”
sử dụng trong Công ước có được hiểu là đại sứ quán của một nước phải ở trong lãnh thổ của
nước tiếp nhận hay không. Ngoài ra, với hai công hàm này, Palestine cũng có thể lập luận rằng
nước này đã thỏa mãn điều kiện thủ tục (nếu có) theo quy định của Nghị định thư tùy chọn về
việc thông báo sự tồn tại của một tranh chấp.
Câu hỏi 4. Israel có phải là một bên tranh chấp không thể thiếu?
Câu hỏi thứ ba cũng rất quan trọng, và có thể có tính chất quyết định trong việc Tòa có xem
xét vụ kiện hay không. Nếu Israel là một bên tranh chấp không thể thiếu thì Tòa chỉ có thể
thực thi thẩm quyền xem xét vụ kiện khi Israel chấp nhận thẩm quyền của Tòa hoặc có yêu cầu
can thiệp (intervene) vào vụ kiện theo Điều 62 Quy chế Tòa ICJ. Israel hiện không là thành
viên của Nghị định thư tùy chọn và cũng không có tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa.
Việc Tòa từ chối thực thi thẩm quyền giải quyết một tranh chấp được đệ trình khi không có sự
đồng ý của một bên thứ ba không thể thiếu thường được gọi là nguyên tắc Monetary Gold
(Monetary Gold principle) theo tên của vụ việc đầu tiên mà Tòa xem xét nguyên tắc này – Vụ
Tiền vàng được đưa khỏi Rome năm 1943 giữa Ý và Pháp, Anh và Mỹ (Monetary Gold
Removed from Rome in 1943). Trong vụ kiện này, bốn nước là Ý, Pháp, Anh và Mỹ đã ký
thỏa thuận đặc biệt (special agreement) chấp nhận thẩm quyền của Tòa để xem xét vụ kiện
này. Nhưng, trong phán quyết năm 1954, Tòa không đồng ý xem xét vụ kiện khi Albania
không đồng ý tham gia bởi vì “các lợi ích pháp lý của Albania sẽ không chỉ bị ảnh hưởng nếu
Tòa ra phán quyết mà còn sẽ là nội dung thực chất của một phán quyết như thế.”[17] Trong
phán quyết năm 1995 trong Vụ Đông Timor giữa Bồ Đào Nha và Australia, Tòa đã khẳng định
lại nguyên tắc này như là phái sinh của một trong những nguyên tắc cơ bản trong Quy chế Tòa:
Tòa chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các quốc gia tranh chấp đồng ý với thẩm
quyền của Tòa.[18] Tòa đã từ chối giải quyết tranh chấp trên với lý do Indonesia không đồng ý
tham gia. Tòa cho rằng:
“[…] trong vụ việc này, hiệu lực của phán quyết mà Bồ Đào Nha yêu cầu sẽ tương đương với
việc xác định liệu Indonesia cho quân vào và tiếp tục chiếm đóng Đông Timor có hợp pháp
hay không và theo đó, liệu Indonesia có quyền ký kết điều ước quốc tế trong vấn đề về tài
nguyên thềm lục địa của Đông Timor hay không. Quyền và nghĩa vụ của Indonesia sẽ là một
nội dung thực chất của một phán quyết như thế mà không có sự đồng ý của Quốc gia này. Một
phán quyết như vậy sẽ trái ngược trực tiếp với ‘một nguyên tắc rõ ràng của luật quốc tế, như
được ghi nhận trong Quy chế Tòa, cụ thể rằng Tòa chỉ có thể thực thi thẩm quyền với một
Quốc gia khi Quốc gia đó đồng ý.’”[19]
Tóm lại, nếu quyền và nghĩa vụ của một quốc gia là nội dung chính của một vụ kiện thì Tòa
chỉ xem xét giải quyết vụ kiện khi quốc gia đó đồng ý.
Trong vụ kiện của Palestine, có vẻ nguyên tắc này sẽ là căn cứ quan trọng nhất để Mỹ đề nghị
Tòa không giải quyết vụ kiện. Quyền và nghĩa vụ của Israel sẽ khó có thể không bị ảnh hưởng
trực tiếp từ một phán quyết của Tòa ở nhiều khía cạnh. Israel vẫn xem Jerusalem là thủ đô của
mình và là một phần lãnh thổ của Israel. Nếu Tòa cho rằng Công ước Viên yêu cầu đại sứ quán
của một nước phải ở trên lãnh thổ của nước tiếp nhận thì rõ ràng việc kết luận Mỹ có vi phạm
khi di chuyển đại sứ quán đến Jerusalem sẽ cần Tòa giải quyết vấn đề Jerusalem có thuộc lãnh
thổ của Israel hay không. Đương nhiên, nếu Tòa cho rằng Công ước Viên không nên được giải
thích như trên thì Tòa có thể kết luận Mỹ không vi phạm mà không cần thiết xem xét đến quy
chế lãnh thổ của Jerusalem. Lập luận như thế buộc Tòa phải xem xét giải thích Công ước Viên
trước khi đi đến quyết định liệu có thực thi thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà Palestine đệ
trình hay không. Điều này hàm ý rằng có khả năng Tòa không thể chia tách thành hai giai đoạn
xét xử: phiên xem xét thẩm quyền và phiên xem xét thực chất.
3. Kết luận sơ bộ
20
Vụ kiện mà Palestine đệ trình sẽ là một trong những vụ kiện gây “đau đầu” nhất cho các thẩm
phán Tòa ICJ trong thời gian gần đây bởi tính chất nhạy cảm chính trị. Mặc dù Tòa là một cơ
quan tư pháp, xét xử theo luật quốc tế nhưng không thể loại trừ yếu tố chính trị tác động đến
hoạt động của Tòa. Trong Vụ xin ý kiến tư vấn về việc Israel xây dựng bức tường trên lãnh thổ
chiếm đóng của Palestine năm 2004, Tòa đã xác định rõ ràng rằng Israel đã vi phạm luật pháp
quốc tế. Nhưng vụ việc đó là theo thủ tục xin ý kiến tư vấn, khác với vụ kiện của Palestine lần
này. Trong vụ kiện này, nội dung tranh chấp liên quan đến Công ước Viên thực chất không
quan trọng và cũng không thực sự phức tạp về mặt pháp lý. Cái mà Tòa đặc biệt khó khăn phải
đối mặt: Liệu Palestine có phải là một quốc gia hay không?
Có hai viễn cảnh. Thứ nhất, Tòa chấp nhận có thẩm quyền và theo đó công nhận Palestine là
một quốc gia – chủ thể của luật quốc tế. Kết luận như thế hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế
về tư cách quốc gia (xem thêm Định nghĩa Quốc gia trong luật quốc tế), và ý kiến của tuyệt đại
đa số các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Phán quyết của Tòa sẽ là viên gạch cuối cùng để
kết tinh ý kiến đa số đó, khép lại một trong những vấn đề tranh cãi pháp lý nhưng vô lý và phi
đạo đức. Đương nhiên, một số quốc gia sẽ rất không hài lòng. Viễn cảnh này đầy hy vọng
nhưng khá không chắc chắn.
Thứ hai, Tòa sẽ từ chối xem xét vụ kiện với lý do: (a) Israel là bên thứ ba không thể thiếu theo
nguyên tắc Monetary Gold, (b) không có quan hệ điều ước giữa Mỹ và Palestine, và tệ hại nhất
là (c) Palestine không là một quốc gia. Nhiều khả năng nhất, dù rất không mong muốn, là Tòa
sẽ không giải quyết vụ kiện này với lý do (a) và (b) ở trên. Trần H. D. Minh

1. Cơ sở pháp lý xác định thẩm quyền của ICJ trong vụ việc:

Quan điểm chung của hai nhóm:


- Xác định đúng và chính xác tranh chấp đang xảy ra
- Hoạt động chính của tòa: giải quyết tranh chấp và đưa ra kết luận tư vấn các vấn đề
pháp lý (tư vấn mang tính khuyến nghị nhưng vẫn mang tính pháp lý)
- Trên biển đông có những loại tranh chấp :
- tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ
+) Hoàng sa (VN - TQ) : Các quốc gia là thành viên quy chế. có tranh chấp pháp lý
không? đây là vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ. các bên có chấp nhận thẩm quyền của
tòa. có hình thức, có nên sử dụng không? dựa vào gì? dựa vào phán quyết, biện pháp
đảm bảo phán quyết, hiệu quả thực thi như thế nào?

21
+) Trường sa (6 nước, tranh chấp đa phương): Sử dụng chức năng tư vấn, có sử dụng
được không? có nên không? nên sử dụng như thế nào? Điều kiện sử dụng chức năng tư
vấn:
- Vấn đề pháp lý và chủ thể xin tư vấn là ai? là đại hội đồng và hội đồng bảo an - có thể
xin tư vấn tất cả mọi vấn đề, các cơ quan khác trong lĩnh vực của họ. Như vậy, Vn
muốn sử dụng thì phải nhờ đến đại hội đồng hoặc hội đồng bảo an. Nếu đưa ra đại hội
đồng hoặc hội đồng bảo an thì phải xem cơ chế ra quyết định của 2 cơ quan này. Một
nghị quyết thông qua hội đồng bảo an phải đc 9/15 phiếu thuận và không bị 1 vecto từ 1
thành viên của hội đồng bảo an.
- phân định ranh giới các vùng biển chồng lấn.
- Tuy nhiên có thể có tranh chấp liên đến việc thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. đối với loại tranh chấp này, điều kiện thứ nhất:
chủ thể là quốc gia thuộc thành viên quy chế tòa. xác định xem đây có phải là tranh
chấp pháp lý không? thể hiện như thế nào? (tại sao là tranh chấp pháp lý) cuối cùng là
sự chấp nhận thẩm quyền của 2 bên có liên quan. Tuy nhiên hiện nay, Vn chưa đơn
phương tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của tòa, TQ cũng vậy. Hy vọng cuối cùng là
thảo thuận chung đưa ra tòa. Như vậy không thể sử dụng tòa để giải quyết tranh chấp.
Nếu muốn sử dụng thì sẽ xảy ra ở tương lai, vn cần phải tuyên bố đương phương chấp
nhận thẩm quyền của tòa, hoặc kí kết các điều ước quốc tế, hoặc là thách kiện

- ví dụ Việt Nam và Tq trong vùng vịnh bắc bộ được giải quyết vào năm 2000, còn ngoài
cửa vịnh thì đang tìm phương án giải quyết
- việt nam và campuchia trong vùng vịnh thái lan
- Việt nam và thái lan
- việt nam - thái lan - malay
- việt nam - malay
- Vn- indo ( đặc quyền kinh tế, thềm lục địa -2003)
-) thường không đưa ra thiết chế, chỉ đàm phán với các nước có liên quan

Câu 3 bài ktra:


- VN chưa/ không sd được (đưqt,...) 3 điều kiện của Tòa (VN-TQ)
- nếu muốn sử dụng trong tương lai thì phải làm gì (VN cần đưa ra tuyên bố đơn phương,
ký điều ước quốc tế - COC áp dụng cho giải quyết tranh chấp Trường Sa nhiều hơn)
22
- Có nên sử dụng không

23

You might also like