You are on page 1of 3

LẠM PHÁT 7 THÁNG CÒN THẤP,

NHƯNG CHƯA THỂ CHỦ QUAN?


Minh Nhung
Đánh giá và cảnh báo trên xuất phát từ diễn biến 7 tháng qua và các yếu
tố tác động đến CPI trong 5 tháng cuối năm.
CPI 7 tháng
còn thấp
CPI 7 tháng đầu năm như sau.
CPI 7 THÁNG ĐẦU NĂM (%)

3.37
3.18

2.44

1.0
0.7 0.69
0.38
0.19 0.18

Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng Tháng BQ 7


7/2022 so 7/2022 so tháng
tháng tháng 2022 so
7/2021 12/2021 cùng kỳ

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

CPI 7 tháng đầu năm còn thấp được thể hiện trên một số điểm chủ yếu.
Nếu tính theo tháng sau so với tháng trước, trong 7 tháng có 2 tháng tăng
thấp (1, 4), có 5 tháng tăng cao hơn (2, 3, 5, 6 và 7), nhưng vẫn không lớn. Nếu
tính tháng 7 năm nay so với cùng kỳ năm trước, tháng 7/2022 so với tháng
12/202, và tính bình quân 7 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước (mục tiêu
tính theo cách này), thì CPI vẫn còn thấp so với mục tiêu cả năm.
CPI bình quân 7 tháng so với cùng kỳ, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch
vụ tiêu dùng, chỉ có 2 nhóm tăng cao hơn tốc độ chung (Giao thông tăng ………
%, Đồ uống và thuốc lá tăng ………%); có 7 nhóm khác tăng thấp hơn; 2 nhóm
giảm (Bưu chính viễn thông giảm ………%, Giáo dục giảm ………%). Trong 7
nhóm tăng thấp hơn, đáng lưu ý có nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống- chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng (33,56%) chỉ tăng
………%, trong đó thực phẩm (chiếm 21,28%) giảm 0,4%, dù từ vài tháng nay
tăng cao.
So sánh CPI tháng 7 so với cùng kỳ thì của nhiều nền kinh tế lớn trên thế
giới cao nhất trong mấy chục năm, vượt xa so với mức định hướng, cao hơn
nhiều của Việt Nam.
Các yếu tố của lạm phát 7 tháng đầu năm chưa gây áp lực lớn. Tổng cầu
tuy tăng lên nhưng vẫn còn yếu. Giá nhập khẩu tiếp tục tăng cao nhưng chủ yếu
chuyển vào chi phí sản xuất, chưa gây áp lực lớn đối với giá hàng hóa, dịch vụ
tiêu dùng. Yếu tố tài khóa- tiền tệ chưa gây áp lực lớn, khi ngân sách bội thu,
gói hỗ trợ tài khóa, tiền tệ, nhất là gói cấp bù lãi suất mới đang triển khai; đặc
biệt tỷ giá VND/USD từ vài tháng nay tăng, nhưng bình quân 7 tháng so vơi
cùng kỳ vẫn còn giảm (………%), chứng khoán giảm, giá vàng chững lại và có
xu hướng giảm – với diễn biến “3 ngày béo, 7 ngày gầy”
Các yếu tố tác động
cả năm
Những dấu hiệu tăng cao lên đã xuất hiện từ 7 tháng đầu năm. Trong 7
tháng có 5 tháng tăng cao, trong đó đáng lưu ý tháng 3, tháng 5, tháng 6- theo
thông lệ trong nhiều năm qua- thường tăng thấp, thậm chí thường giảm.
Các yếu tố tác động đến lạm phát trong 5 tháng còn lại đã có diễn biến
mới so với 7 tháng đầu năm.
Yếu tố cầu kéo đã tăng mạnh trong tháng 7 (TMBL quý II tăng 19,5%,
cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 4,6% của quý I, tính chung 7 tháng tăng
………%, có khả năng sẽ tăng tốc trong 5 tháng còn lại do nhiều nguyên nhân.
Có nguyên nhân do thu nhập bị bào mòn và tiêu dùng bị dồn nén trong nhiều
tháng vì đại dịch, nay tăng tốc do tỷ trọng tiêu dùng thông qua tự cấp, tự túc
không những không tăng như trong đại dịch mà sẽ có xu hướng giảm xuống,
cùng với sự tăng lên tương ứng của tỷ trọng tiêu dùng thông qua việc mua bán
trên thị trường (TMBL)- tức là tốc độ tăng TMBL sẽ phục hồi, ở cả 4 ngành cụ
thể, kể cả Bán lẻ hàng hóa, Dịch vụ khác, đặc biệt là các khoản Dịch vụ lưu trú
ăn uống, Du lịch lữ hành. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó đầu tư
công sẽ có quy mô và tốc độ tăng cao lên; tỷ lệ vốn đầu tư phát triển/GDP 6
tháng đạt 29,4%, cao hơn tỷ lệ tương ứng của quý I (26,3%), tiến dần đến mục
tiêu (33%).
Yếu tố chi phí đẩy bao gồm cả giá nhập khẩu tiếp tục tăng lên (nhập khẩu
lạm phát); chi phí sản xuất tăng cao, nhưng chưa chuyển vào giá hàng hóa, dịch
vụ tiêu dùng (CPI) trong thời gian trước, nay sẽ chuyển vào CPI; giá nhập khẩu
tính bằng USD tăng, nhưng tính bằng VND tới đây sẽ tăng “kép” khi tỷ giá
VND/USD có thể sẽ tăng lên trước sức ép tăng lãi suất đồng USD trên thế giới
và để Việt Nam khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, để ngăn chặn khả
năng xuất siêu trong 6 năm trước sang nhập siêu trong năm nay (tuy trong 7
tháng đã xuất siêu hàng hóa 709 triệu USD, nhưng nhập siêu dịch vụ 6 tháng ở
mức rất lớn (8004 triệu USD).
Yếu tố tài khóa- tiền tệ cũng có xu hướng đổi chiều, khi gói hỗ trợ cấp bù
lãi suất sẽ kéo theo 1 triệu tỷ đồng tín dụng ra lưu thông (vào những tháng cuối
năm), tạo áp lực lên CPI. Nếu tỷ giá VND/USD tăng sẽ làm cho giá nhập khẩu
tăng kép (vừa tăng do giá nhập khẩu tính bằng USD tăng, vừa tăng do tỷ giá
VND/USD tăng); đó là chưa nói lượng nhập khẩu nhiều loại hàng hóa, dịch vụ
tiếp tục tăng do vẫn còn bị đứt gãy trong 7 tháng đầu năm, trong khi nhu cầu
lượng nhập khẩu tăng để phục vụ tăng trưởng kinh tế và tiêu dùng. Sự chuyển
dịch dòng tiền từ các thị trường khác có xu hướng chuyển sang thị trường hàng
hóa, dịch vụ tiêu dùng cũng tạo sức ép cho CPI. Bội thu ngân sách trong 5 tháng
cuối năm sẽ khó giữ được như đầu năm do cấp bù lãi suất, do giảm thuế, phí
xăng dầu,…
Khi lạm phát tăng thì yếu tố tâm lý cũng bị ảnh hưởng, vòng quay tiền tệ
tăng, tâm lý găm giữ hàng hóa, vàng, USD tăng.
Những yếu tố trên sẽ tạo sức ép cho CPI, làm cho CPI cả năm sẽ tăng cao
hơn mục tiêu; đã có dự báo khả năng CPI bình quân năm sẽ ở mức trên 5%.
Đào Ngọc Lâm 0912174812

You might also like