You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN

VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA CÁC
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

GVHD: TS. Hồ Ngọc Khương


SVTH:
1.Phan Vũ Thanh Lâm 20119355
2.Bùi Quốc Vinh 20135075
3.Lê Tuấn Anh 20151247
4.Võ Tuấn Tú 20119382
5.Trần Anh Khoa 20161328
Mã lớp học: LTCT120205_21_3_03

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 07 năm 2022


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

Điểm: ……………………………..

KÝ TÊN
MỤC LỤC

PHẦN 1: MỞ ĐẦU...........................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................
2. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................................
3. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................................
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu......................................................................
5. Kết cấu của tiểu luận.......................................................................................................

PHẦN 2: NỘI DUNG.......................................................................................................


CHƯƠNG 1: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM..............................................
1.1. Nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam................................
1.1.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa................................
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..............
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam.............................................................................
1.3. Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế..............................................
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA LỢI
ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................................
2.1. Thực trạng các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
trong những năm trở lại đây..............................................................................................
2.2. Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi
cho các hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế..............................................
2.3 Vai trò Nhà nước trong điều hoà lợi ích cá nhân doanh nghiệp, xã hội.......................
2.4. Vai trò nhà nước trong kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng
tiêu cực tới sự phát triển xã hội.........................................................................................
2.5. Vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích
kinh tế...............................................................................................................................

PHẦN 3: KẾT LUẬN.....................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lợi ích là một trong những thứ thúc đẩy hoạt động của con người, của sự thay
đổi xã hội và là một trong những vấn đề thiết yếu, có ý nghĩa quyết định bản chất các
mối quan hệ trong xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội, sự ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể lợi ích với mục đích đáp ứng nhu cầu sẽ tạo thành
quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa những lợi ích, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội thúc đẩy hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo những
phương hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau.
Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, ta ngày càng cảm thấy rõ hơn vai trò thúc đẩy của lợi ích đối với sự tiến bộ
xã hội. Nhưng khi chúng ta đi từng ngày sâu vào nền kinh tế thị trường, các quan hệ
lợi ích kinh tế luôn nảy sinh vấn đề rắc rối, vì lợi ích luôn đổi thay theo sự biến đổi của
nhu cầu xã hội, vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nói riêng lại
trở nên rối ren, tạo ra những vấn đề cấp bách cần phải giải quyết, xuất hiện các dấu của
sự mất cân bằng trong giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Để cân
bằng và bảo đẩm hài hòa lại các quan hệ lợi ích kinh tế này không ai khác ngoài nhà
nước.
Bởi vì thế mà nhóm lựa chọn đề tài “Vai trò nhà nước trong đảm bảo hài hòa
các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam” nhằm có thể thấy rõ được tầm quan trọng của nhà nước trong việc đảm bảo
cho đất nước phát triển một cách hoàn thiện nhất.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu vai trò của nhà nước Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong việc đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các quan hệ lợi
ích kinh tế ở Việt Nam, từ đó có thể thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của
Đảng, nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế Việt Nam cũng như trong công
cuộc xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh.

1
Phân tích vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay nhằm đảm bảo
công bằng, dân chủ, văn mình cho nhân dân, đồng thời phục vụ cho việc xây dựng đất
nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: tiểu luận nghiên cứu vấn đề dựa vào quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm chủ trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp phân tích, đánh giá, tổng
hợp từ các vấn đề liên quan để làm rõ vấn đề cần tìm hiểu. Đồng thời, còn sử dụng
phương pháp logic, so sánh, đối chiếu những vấn đề cần tìm hiểu trong từng giai đoạn
cụ thể.
5. Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận gồm 2 phần chính:
Chương 1: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các quan hệ lợi ích kinh
tế ở Việt Nam.
Chương 2: Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

2
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Là nền
kinh tế trong đó hàng hoá phát triển ở mức cao, ở đó thông qua thị trường mọi quan hệ
sản xuất và trao đổi đều được thực thi, chịu sự tác động, chịu sự điều tiết của những
qui luật thị trường. Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ
kinh tế tự nhiên, tự túc, kinh tế hàng hoá sau đó từ kinh tế hàng hoá phát triển lên kinh
tế thị trường. Kinh tế thị trường cũng phải trải qua quá trình phát triển ở các trình độ
khác nhau đi từ kinh tế thị trường sơ khai lên kinh tế thị trường hiện đại thời nay. Kinh
tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh loài người.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hoạt động theo
các qui luật của thị tường cùng lúc góp phần hướng đến từng bước xác lập một xã hội
mà trong đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của
Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thực chất, giá trị dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là
các giá trị ở xã hội tương lai mà con người còn tiếp tục phải phấn đấu. Bởi lẽ, nhìn từ
thế giới ngày nay mà xem xét, có quốc gia dân rất giàu nhưng nước chưa mạnh, xã hội
thiếu văn minh, có quốc gia nước rất mạnh, dân chủ thì lại thiếu công bằng. Như vậy,
một hệ giá trị toàn diện bao hàm cả dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh là hệ giá trị của xã hội tương lai mà nhân lại còn cần phải phấn đấu mới có
thể đạt được một cách trọn vẹn trên hiện thực xã hội. Do đó, định hướng xã hội chủ
nghĩa thực chất là hướng tới những giá trị cốt lõi thuộc xã hội mới ấy. Nền kinh tế thị
trường mà các hoạt động kinh tế của những chủ thể, hướng đến góp phần xác lập được
những giá trị xã hội thực tế cùng hệ giá trị toàn diện như thế là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để hướng tới được hệ giá trị như thế, nền kinh tế thị trường Việt Nam, hay các
nền kinh tế thị trường khác, cần có vai trò điều tiết của nhà nước, nhưng đối với Việt
Nam, nhà nước phải được kiểm soát dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng cầm quyền do lịch sử khách quan quy định là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nền
3
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải chứa đựng đầy đủ những đặc
trưng chung vốn có của nền kinh tế thị trường nói chung, vừa có những đặc trưng
riêng biệt của Việt Nam nói riêng. Là kiểu mô hình kinh tế thị trường tương thích với
đặc trưng lịch sử, trình độ phát triển, hoàn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam. Muốn
thành công phải do nhân dân nỗ lực xây dựng mới có thể vươn đến được.
1.1.2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
 Về mục tiêu
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhắm tới phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng cao đời
sống người dân, với mục tiêu cuối cùng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Đây là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu đó bắt nguồn từ thực trạng kinh tế -
xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục tiêu chính trị - xã
hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện. Mặt khác, quá
trình phát triển kinh tế thị trường Việt Nam ngoài việc việc phát triển hiện đại hóa lực
lượng sản suất, mà còn gắn với xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm ngày
càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam chỉ mới cất bước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực
lượng lao động còn yếu kém, lạc hậu nên việc sử dụng cơ chế thị trường cùng các hình
thức và phương pháp quản lý của nó là để kích thích sản xuất, khuyến khích sự năng
động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, bảo đảm từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 Quan hệ sở hữu với các thành phần kinh tế
Quan hệ sở hữu được hiểu là quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở
chiếm hữu tài liệu, nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của
quá trình sản xuất hay tái sản xuất trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Sở hữu là sự thống nhất biện chứng trong một chỉnh thể bao hàm cả nội dung
kinh tế và nội dung pháp lý.
Về nội dung kinh tế, sở hữu là cơ sở, là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nội dung
kinh tế của sở hữu trình bày ở khía cạnh những lợi ích, đầu tiên chủ thể sở hữu sẽ được

4
hưởng những lợi ích kinh tế khi xác định đối tượng sở hữu đó thuộc về mình trước các
quan hệ với các đối tượng khác. Khi không xác lập quan hệ sở hữu thì lợi ích kinh tế
không có cơ sở để thực hiện. Vì vậy, khi các đối tượng sở hữu có sự thay đổi phạm vi
và quy mô, địa vị của các chủ thể sở hữu sẽ thay đổi trong đời sống xã hội hiện thực.
Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện ở những quy định mang tính chất pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể sở hữu. Tất nhiên, khi xây dựng và hoạch định
cơ chế quản lý phát triển đất nước, sở hữu luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu. Vì vậy,
để những lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được thụ hưởng không bị các chủ thể khác
phản đối sở hữu đó phải mang tính pháp lý. Khi đó việc thụ hưởng được coi là chính
đáng và hợp pháp.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn
hợp nhiều hình thức kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng; Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh
tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
 Quan hệ quản lý nền kinh tế
Trên thế giới nền kinh tế thị trường hiện đại nhà nước đều phải can thiệp (điều
tiết) quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm hạn chế các khuyết điểm của kinh
tế thị trường và định hướng chúng theo mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có các quan hệ quản lý và cơ chế
quản lý đặc trưng riêng đó là: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý trên cơ
sở nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân dân. Với mục tiêu
dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
 Về phân phối
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phân phối công
bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận cũng như các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi
chủ thể kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều có thể
giàu có, đồng thời phân phối thành quả (đầu ra) chủ yếu dựa theo mức đóng góp kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, vốn hay các nguồn lực khác thông qua hệ thống an sinh

5
xã hội, phúc lợi xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ phân
phối. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hỗn hợp với sự
đa dạng hóa các loại hình sở hữu do vậy thích ứng với nó là các loại hình thức phân
phối khác nhau (cả đầu vào và đầu ra trong các quá trình kinh tế). Thực hiện nhiều
hình thức phân phối (thực chất là thực hiện các lợi ích kinh tế) ở nước ta sẽ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, góp phần cải thiện và nâng đời
sống cho mọi tầng lớn người dân trong xã hội, bảo đảm công bằng xã hội trong sử
dụng các nguồn lực kinh tế và đóng góp của họ trong quá trình lao động và sản xuất,
kinh doanh.
Trong đó, những hình thức phân phối phản ánh định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường là phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối
theo phúc lợi
 Về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện đồng
thời tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa - xã hội; thực hiện mục tiêu trong từng phần giai đoạn phát triển của kinh tế
thị trường trong từng kế hoạch chính sách. phản ánh đặc trưng mang tính định hướng
xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bởi tiến bộ và công bằng xã hội
vừa là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu
thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phải hiện thực hóa
từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự kết
hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất tốt đẹp của chủ
nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế hiện đại, văn minh. Tuy nhiên, nền kinh tế
còn non trẻ ấy đang trong quá trình hình thành và phát triển chắc chắn sẽ còn bộc lộ
nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
 Lợi ích kinh tế
Lợi ích là một thuật ngữ chỉ sự hài lòng về sự tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của
con người mà sự hài lòng này phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội
ứng với trình độ phát triển nhất định xã hội đó.

6
Lợi ích kinh tế là lợi ích về vật chất, có được khi thực hiện các hoạt động kinh
tế của con người.
 Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế
Xét về bản chất, lợi ích kinh tế ánh xạ mục đích và động cơ của các quan hệ
giữa các chủ thể trong nền sản xuất xã hội.
Về biểu hiện, gắn liền với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương
ứng.
 Vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội
Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy hành động của các chủ thể và các
hoạt động kinh tế - xã hội: Trước hết các hoạt động kinh tế của con người là để thỏa
mãn các nhu cầu vật chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu về
vật chất của mình. Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn nhu
cầu về vật chất phụ thuộc vào mức thu nhập. Do đó mức thu nhập càng cao, phương
thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất càng cao. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế
đều phải tạo giá trị để nâng cao thu nhập của mình. Để bảo đảm cho sự ổn định và phát
triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển thì lợi ích kinh tế cần phải được thực
hiện trong các tầng lớp xã hội đặc biệt là người dân. Về khía cạnh kinh tế, các chủ thể
hành động trước hết vì lợi ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm
bảo trong sự liên hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Phương thức và mức độ thỏa
mãn cấc nhu cầu vật chất trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và
dịch vụ mà xã hội có được. Mà tất nhiên các nhân tố đó lại là sản phẩm của nền kinh tế
và phụ thuộc vào quy mô và trình độ phát triển của xã hội đó.
Lợi ích kinh tế còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của các lợi ích khác:
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất phụ thuộc vào địa vị con người
trong hệ thống xã hội nên các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện
quyền làm chủ đối với tư liệu sản xuất nhầm nâng cao địa vị của mình. Đó là nguồn
gốc sâu xa của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử và theo cách nhìn khác thì nó
cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội. "Động lực của toàn bộ lịch sử
chính là cuộc đấu tranh giai cấp và những xung động về quyền lợi của họ" và "nguồn
gốc vấn đề trước hết là những lợi ích kinh tế mà quyền lực chính trị phải thực hiện với

7
tư cách phương tiện". Như vậy, mọi vận động của lịch sử, dù dưới hình thức như thế
nào, xét đến cùng, đều xoay quanh lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
 Quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế Quan hệ lợi ích kinh tế là quan hệ giữa con người với
con người, giữa các cộng đồng, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp thành
nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần còn lại của thế
giới nhằm mục tiêu xác lập các quan hệ lợi ích kinh tế liên hệ với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và một giai đoạn phát triển xã hội nhất định với kiến trúc
thượng tầng tương ứng.
Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
Các quan hệ lợi ích kinh tế thống nhất với nhau vì các thủ thể quan hệ liên kết
với nhau một chủ thể này có thể là một phần của chủ thể khác
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế hành
động vì lợi ích của riêng mình và thường theo những phương thức khác nhau. Khi có
mâu thuẫn thì việc thực hiện lợi ích của chủ thể này sẽ ảnh hưởng, ngăn cản thậm chí
làm tổn hại đến các lợi ích khác. Vậy nên trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá
nhân là nguyên tắc cơ bản, nền tảng của các lợi ích khác.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
Trình độ phát triển của lực lượng lao động. Để đáp ứng nhu cầu thỏa mãn lợi
ích kinh tế của các chủ thể càng cao thì trình độ phát triển của lực lượng lao động phải
đạt mức độ tương ứng.
Địa vị của chủ thể trong hệ thống xã hội cũng ảnh hưởng quan trọng đến lợi ích
kinh tế. Mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế thay đổi dựa
trên chính sách phân phối thu nhập của nhà nước, nên quan hệ lợi ích kinh tế và lợi ích
kinh giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ đa
chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
 Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường
Một số quan hệ lợi ích kinh tế đó là quan hệ lợi ích giữa người lao động và
người sử dụng lao động đó là mối quan hệ rất chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn
với nhau. Sự thống nhất được thể hiện: nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt

8
động kinh tế bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi ích kinh tế của
mình; đồng thời, người lao động cũng có việc làm, nhận được tiền lương thực hiện
được lợi ích kinh tế của mình và ngược lại. Sự mâu thuẫn. thể hiện: tại một vài trường
hợp nhất định, lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng lên mà tiền lương của người
lao động giảm xuống và ngược lại.
Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế là tương đối, giữa người sử dụng lao
động và người lao động vừa là đối tác, vừa là đối thủ của nhau, từ đó tạo ra sự thống
nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ thúc đẩy phát triển lẫn nhau. Trong nền
kinh tế thị trường, sự mâu thuẫn và sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa những người
sử dụng lao động chỉ cách nhau qua lợi ích kinh tế chung nếu cùng lợi ích thì hợp tác
đối lập thì cạnh tranh.
Quan hệ lợi ích giữ người lao động với người lao động. Trường hợp có nhiều
người bán sức lao động trong một chủ thể thì sự cạnh tranh với nhau sẻ trở nên càng
gây gắt. Số lượng lao động cần thiết lại có hạn nên nhu cầu giảm hậu quả là tiền lương
của người lao động bị giảm xuống, một bộ phận người lao động bị sa thải để cân bằng
với việc đó. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ có thể thực hiện
được các yêu sách của mình (ở một chừng mực nhất định) đối với giới chủ (những
người sử dụng lao động).
Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội. Trong cơ chế thị
trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động, người sử dụng lao động
đều là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có lợi ích cá nhân và có quan hệ chặt
chẽ với lợi ích xã hội.
Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu Thực
hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường.
Thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ
chức xã hội.
1.3. Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế
Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C. Mác coi quyền
lực của Nhà nước như vai trò “bàn đỡ” cho xã hội cũ thai nghén của xã hội mới.
Friedrich Engels trong tác phẩm “Chống Đuy-ring” cũng nhấn mạnh rằng “Giai cấp vô

9
sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu
Nhà nước” (Tuyển tập, tập V - NXB ST, HN 1983).
Ở các thời kỳ khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, tính chất Nhà nước
khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có các biểu hiện khác nhau...
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự khác nhau thể hiện ở
những điểm sau đây:
Một là, các nhà nước trước CNTB, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế,
chế độ đóng góp có tính cưỡng bước để nuôi sống Bộ máy cai trị thực hiện chức năng
đối nội, điều hoà giai cấp, điều hoà sự xung đột và “Giữ cho sự xung đột đó nằm trong
vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị. Nguồn thu của thuế khoá còn
nhằm thực hiện chức năng đối ngoại, bảo vệ lãnh thổ theo đó là bảo vệ lợi ích và mở
rộng lợi ích của giai cấp thống trị khỏi bị xâm lược hoặc bị mất đi ở nước ngoài.
Hai là, đến Nhà nước tư sản vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng lại ở
thuế, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài. Bên trên quá trình sản xuất
như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nền văn mình mà tiến lên thì bản thân thuế má là không
đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái” (C. Mác -
Ăngghen tuyển tập, tập V).
Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá
trình sản xuất. Nhà nước là: “Nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển
nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư
bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột công nhân bấy nhiêu”. (“Chống Đuy-
ring” - C. Mác - Ăngghen, tập V - NXB Sự thật, 1982).

10
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA LỢI
ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam trong những năm trở lại đây
Sau đổi mới từ 1986 đến nay, việc giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các chủ
thể, nhất là lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân đã được Đảng, nhà nước ta quan tâm và
giải quyết, nhất là trong lĩnh vực sở hữu và phân phối, tạo động lực cho sự phát triển
của cá nhân và sự phát triển của xã hội. Một số kết quả nhất định đã đạt được trong
quá trình đó là:
Đầu tiên là cả lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân đã bắt đầu được chú ý và quan
tâm giải quyết theo một chiều hướng thúc đẩy sự phát triển. Việc thực hiện tốt các
chính sách về phúc lợi và an sinh xã hội cùng với những kết quả tích cực trong phát
triển kinh tế - xã hội trong những năm qua đã tạo lập nên những giá trị mới của xã hội
và tạo nên sự công bằng về cơ hội trong việc hưởng thụ và tiến gần với các giá trị của
sự phát triển. Đời sống cá nhân của mỗi người được cải thiện và nâng cao, quyền và
lợi ích chính đáng được pháp luật bảo vệ, nhất là trong phân phối và sở hữu.
Chúng ta đã từng bước cải thiện và khắc phục được tư duy tuyệt đối hóa lợi ích
xã hội trong vấn đề giải quyết quan hệ giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Chủ thể
sở hữu tư nhân đã được thừa nhận và tạo điều kiện cho sự phát triển, nền kinh tế tư
nhân đã được thừa nhận và hiện nay coi đó “là một động lực quan trọng của nền kinh
tế”.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực tốt những chủ trương,
chính sách đúng đắn về vấn đề tạo cơ hội phát triển của cả lợi xã hội và lợi ích cá nhân
trên mọi lĩnh vực, nhất là trong sở hữu và phân phối.
Trước hết, chủ thể sở hữu đã công nhận nhiều chủ thể sở hữu như nhà nước, tư
nhân hay hỗn hợp. Ngoài đối tượng sở hữu truyền thống như đất đai, tài nguyên, máy
móc... còn xuất hiện thêm các đối tượng sở hữu mới như các sản phẩm trí tuệ, thông
tin, thị trường, thương hiệu, tên miền internet, tài nguyên số, không gian vũ trụ và
thậm chí là cơ hội phát triển... đã được công nhận và đóng một vai trò quan trọng trong
việc phát triển của nền kinh tế. Về hình thức sở hữu: trước đổi mới, chúng ta chỉ thừa
nhận hai hình thức sở hữu đó là sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân, thì sau đổi mới đến

11
nay, việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu ở Việt
Nam đã được ghi nhận bao gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân, sở
hữu tư bản tư nhân, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản nhà nước - nước ngoài và sở hữu hỗn
hợp; tương ứng với đó có nhiều thành phần kinh tế tương ứng. Bên cạnh đó, việc giải
quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cũng còn những hạn chế nhất định:
Thứ nhất là tình trạng đội lốt vì lợi ích xã hội để vi phạm lợi ích cá nhân chính
đáng của nhân dân lao động đang tồn tại cũng như nó tiềm ẩn nhiều vấn đề hết sức
phức tạp. Biểu hiện của tình trạng này đó là những biểu hiện của “lợi ích nhóm” tiêu
cực, hay “tư bản thân hữu”, tham ô, tham nhũng... trong nhiều lĩnh vực của xã hội nhất
là trong sở hữu và quản lý tài sản của Nhà nước, lĩnh vực đất đai, xây dựng.Ban Nội
chính Trung ương, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến hết năm 2018 đã thi hành kỷ luật
hơn 500 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó 1.300 đảng viên bị kỷ
luật do tham nhũng, cố ý làm trái; nhiều vụ án về tham ô, tham nhũng, lãng phí thời
gian qua đã được đưa ra xử lý như: các cá nhân tham nhũng trong vụ việc MobiFone
mua lại 95% cổ phần của AVG, vụ án liên quan đến Phan Văn Anh Vũ, (tức Vũ
“nhôm”), Dự án Xơ sợi Đình Vũ, Dự án Gang thép Thái Nguyên... Đến cả những hiện
tượng tham nhũng “vặt” cũng đang gây nhiều bức xúc cho xã hội.
Thứ hai là tình trạng vì lợi ích cá nhân không chính đáng mà vi phạm những lợi
ích xã hội và lợi ích cá nhân khác đã gây ra những tổn hại cho sự phát triển xã
hội.Biểu hiện của nó là hiện tượng buôn lậu, trốn thuế của nhiều cá nhân, doanh
nghiệp; kinh doanh buôn bán các mặt hàng giả, hàng kém chất lượng; thực phẩm
“bẩn”, không đảm bảo chất lượng, cho đến những hành vi xây dựng nhà ở, khu đô thị,
phá vỡ quy hoạch chung của thành phố, xây nhà không phép, lấn chiếm lòng đường,
vỉa hè, xây dựng các chung cư không theo quy định; những hiện tượng xe quá khổ,
xâm hại, lấn chiếm các công trình công cộng; trộm, cướp ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các
thành phố lớn trở thành nỗi bất an của người dân; tình trạng lừa đảo, các mô hình kinh
doanh đa cấp biến tướng, cho vay nặng lãi - tín dụng “đen”, đòi nợ thuê...Nó đang làm
cho lợi ích xã hội mà Nhà nước là đại diện bị những tổn hại nghiêm trọng.
Thứ ba lợi ích cá nhân chính đáng lại không được chú trọng tới khi mà lợi ích
cá nhân được đặt lên trên nó. Biểu hiện cụ thể là đời sống người dân còn gặp nhiều
khó khăn, thu nhập đời sống người lao động còn thấp; tỷ lệ hộ nghèo cận nghèo còn

12
cao. Một số nội dung của an sinh xã hội và pháp luật xã hội chưa thực sự được thực
hiện tốt, hiện tượng “nghịch lý an sinh xã hội" vẫn còn đang diễn ra. Ở Việt Nam, hiện
đang áp dụng mô hình QHLĐ chỉ có một tổ chức công đoàn trong một doanh nghiệp.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất của NLĐ, có chức năng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp chính đáng của NLĐ, được vận hành trong một hệ thống thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở theo Luật Công đoàn, trong đó công đoàn cơ sở được (CĐCS)
thành lập và hoạt động trong phạm vi một doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật,
công đoàn vừa đối tác, vừa là yếu tố tích cực tác động đến phát triển của doanh nghiệp.
Giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải. Theo pháp luật quy định, hòa giải
viên lao động hoạt động theo hình thức bán chuyên trách, hưởng chế độ bồi dưỡng thù
lao theo từng vụ việc được giải quyết. Hòa giải viên có nhiệm vụ GQTCLĐ cá nhân,
và GQTCLĐ tập thể về quyền. Qua khảo sát tại 18 quận, huyện cho thấy, trong 3 năm,
bình quân mỗi năm chỉ GQTCLĐ thông qua hòa giải từ 3-4 vụ. Riêng thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh, số vụ GQTCLĐ có nhiều hơn các tỉnh khác (6-7
vụ/năm). Số vụ được hòa giải thành chiếm tỷ lệ 60%, số vụ hòa giải không thành
chiếm tỷ 40%, nguyên nhân của việc hòa giải không thành là NSDLĐ thiếu thiện chí,
vắng mặt trong buổi hòa giải. Nhìn chung, công tác hòa giải của hòa giải viên lao động
ở các địa phương chưa có những nét nổi bật do số lượng vụ việc phát sinh không
nhiều; mặt khác các kênh tiếp cận giữa NLĐ, NSDLĐ với hòa giải viên lao động ở địa
phương còn hạn chế. NLĐ vẫn thiên về khiếu nại lên cơ quan quản lý nhà nước nhiều
hơn so với việc đưa ra giải quyết tranh chấp theo con đường hòa giải. Mặt khác vai trò
của tổ công đoàn trong việc giám sát thực thi pháp luật lao động chưa được phát huy,
do vậy chưa có tranh chấp lao động tập thể về quyền được kiến nghị giải quyết theo
quy định của pháp luật. (Bộ Lao động-thương binh và xã hội báo cáo quan hệ lao động
2017 tại Hà nội năm 2018)
2.2. Vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường
thuận lợi cho các hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế
Sau nhiều năm đổi mới nước ta đã thành công chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ nền kinh tế lạc hậu kế hoạch hóa tập trung quan
liêu trước đây. Vai trò quản lý của nhà nước đã đạt được bước tiến lớn trong nền kinh
tế thị trường, vừa bảo vệ lợi ích hợp pháp chủ thể kinh tế vừa tạo được môi trường
thuận lợi, rộng mở cho các hoạt động kinh tế sau này, thể hiện ở một số điểm sau:
13
Thứ nhất: Nền kinh tế thị trường đã được nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa quản lý. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở định hướng xã hội chủ
nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để tạo nên một xã hội
mà dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Với mục tiêu như vậy thì
phương tiện và công cụ chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng theo xã hội chủ
nghĩa và một nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhu cầu
hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách pháp luật, cải cách
hành chính Nhà nước, phải luôn đảm bảo cho Nhà nước không ngừng phát triển vững
mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội,
thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc
tế.
Thứ hai: Phân bố các nguồn lực do nhà Nước quản lý phải theo chiến lược, kế
hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ ba: Vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế tạo môi
trường cạnh tranh công băng minh bạch được nhà nước đảm nhiệm. Dân giàu, nước
mạnh, ổn định trong tăng trưởng và công bằng xã hội là mục tiêu mà kinh tế Nhà nước
hướng tới. Nhà nước định hướng nền kinh tế bằng cách thực hiện thông qua xây dựng,
quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong một thời hạn (ngắn
hạn, trung hạn, dài hạn). Với môi trường thuận lợi được tạo ra như: hệ thống luật pháp
đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản hướng dẫn,
các định chế, các chính sách phát triển kinh tế …đã giảm thiểu được nhiều rủi ro tranh
chấp của các chủ thể kinh tế. Các hệ thống pháp lý để chống gian lận gồm: hệ thống có
liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán,
hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho
việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.Từ đó có thể thấy nhà
nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng
trưởng kinh tế, thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và
người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất
nước.

14
2.3 Vai trò Nhà nước trong điều hoà lợi ích cá nhân doanh nghiệp, xã hội
Lợi ích là một trong những động lực của các hoạt động của con người, thay đổi
xã hội, một trong những vấn đề cơ bản và quyết định bản chất của các mối quan hệ xã
hội. trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội, sự tương tác giữa các bên liên quan để
đáp ứng một mối quan hệ lợi ích cần được hình thành. mối quan hệ giữa các lợi ích,
đặc biệt là sự khác biệt giữa lợi ích tư nhân và lợi ích xã hội tạo ra các động lực các
hoạt động của con người và các phong trào xã hội theo các chiều khác nhau phương
hướng khác nhau, lực lượng khác nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ về lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội luôn tạo ra những vấn đề phức tạp vì lợi ích luôn thay đổi theo nhu cầu
thay đổi của xã hội. Cho đến nay, tất cả các vấn đề lợi ích chung và lợi ích cá nhân,
đặc biệt là lợi ích xã hội vẫn còn những vấn đề cần được nghiên cứu, đặc biệt là trong
bối cảnh kinh tế kinh tế thị trường, các loại lợi ích hoạt động theo một cách cụ thể,
khác với các điều kiện xã hội khác.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ổn định, phương
hướng của chủ nghĩa xã hội, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn động lực của tiến bộ
xã hội. Tuy nhiên, vào khoảng 20 năm gần đây, khi chúng ta đi sâu vào nền kinh tế thị
trường,các vấn đề về lợi ích cá nhân và xã hội đã trở nên phức tạp, tạo ra những “điểm
nóng” cần giải quyết, xuất hiện sự mất cân bằng và sai lệch trong mối quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và xã hội.Một lực lượng xã hội nào đó đã lạm dụng lợi ích xã hội, mưu cầu
lợi ích cá nhân trái pháp luật, xâm phạm lợi ích xã hội.Những vấn đề tham nhũng,
tham ô, lãng phí, thất thoát tài sản nhà nước, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, gian lận,lợi
ích nhóm tiêu cực chi phối quản lý, điều hành và phân phối Nói chung ...đó là việc đặt
quá lợi ích cá nhân lên trên tất cả bất chấp luật pháp và đạo đức để đạt được mục đích
cá nhân.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, lợi ích cá nhân không đơn thuần tồn tại ở mỗi cá
nhân cụ thể, nó có thể tồn tại ở một chủ thể khi chúng ta coi lợi ích của một chủ thể là
một thực thể riêng biệt và độc lập. Trong bài viết, chủ đề về lợi ích cá nhân chỉ được
xem xét dưới góc độ tồn tại trong mỗi cá nhân. Cơ quan chính của đời sống xã hội
thường là đảng và nhà nước, có thể thể hiện ở nhà nước trung ương hoặc chính quyền
địa phương. Trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, mối quan hệ chủ

15
yếu giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chủ yếu là quan hệ lợi ích giữa cá nhân và
nhà nước.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội vừa thống nhất vừa mâu
thuẫn; trong trường hợp này, nó thường được biểu hiện ở trạng thái mất cân bằng, vì
các tác nhân quan tâm đôi khi thúc đẩy lợi ích này và đôi khi thúc đẩy lợi ích khác.
Điều này cho thấy sự phức tạp của mối quan hệ lợi ích trong một hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Trong quá trình thực hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể luôn có xu hướng bảo vệ
lợi ích sống còn của mình, khó chấp nhận từ bỏ lợi ích của mình, thậm chí có thể gây
ra mâu thuẫn, xung đột với các bên liên quan và lợi ích khác. Thực chất của việc giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế Việt
Nam hiện nay là tác động đến nhận thức và thực hiện lợi ích cá nhân và xã hội, tạo sự
hài hòa, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.4. Vai trò nhà nước trong kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh
hưởng tiêu cực tới sự phát triển xã hội
“Nhóm lợi ích” hoạt động mạnh đã gây ảnh hưởng đến nhiều ngành, lĩnh vực,
gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước và xã hội. Kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi
ích” đã trở thành nhiệm vụ cấp bách và quan trọng đối với sự tồn vong của đảng và
chế độ. Đó là một công việc khó khăn và phức tạp vì nó liên quan đến những người có
địa vị, quyền lực và tiền bạc. Vì vậy, cần có quan điểm và phương châm hoạt động
đúng đắn để kiểm soát và ngăn chặn có hiệu quả các “nhóm lợi ích” ở Việt Nam hiện
nay.
Đảng vẫn chưa đưa ra nghị quyết chuyên đề về kiểm soát và ngăn chặn “nhóm
lợi ích”. Tuy nhiên, thông qua một số nghị quyết đặc biệt về công tác xây dựng đảng
và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế
tư nhân đã trở thành một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Để nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước ..., có thể tóm tắt một số quan điểm, phương hướng và tinh
thần chung của Đảng trong việc kiểm soát, ngăn chặn "nhóm lợi ích":
-Một là kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” là yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết
trong tình hình hiện nay, liên quan đến sự phát triển bền vững của đất nước và sự
thành bại của quá trình đổi mới; hiện nay, “nhóm lợi ích “đã được hình thành, ăn sâu
vào lòng dân, có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực, lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất là trong hoạch định chính sách, chủ trương. thực hiện. Các “nhóm lợi ích” cấu kết
16
với nhau hoạt động ngầm, xảo quyệt để tham ô, bóc lột, bóc lột tài sản nhà nước. Mặc
dù Đảng và nước ta đã có nhiều nỗ lực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng
thực tế xã hội cho thấy, nguy cơ tham nhũng, tiêu cực chuyển dần sang “tư bản thân
hữu” do hoạt động của “lợi ích nhóm” là đáng lo ngại. Vì vậy, quản lý và ngăn chặn
“nhóm lợi ích” là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của đảng và đất nước.
-Hai là kiểm soát, đề phòng “nhóm lợi ích” là công việc khó khăn, phức tạp vì
liên quan đến những người có địa vị, quyền lực, tiền bạc nhưng không có chiến tuyến
rõ ràng. Hoạt động của nhóm này rất tinh vi, bí mật, có tổ chức chặt chẽ, thường nhân
danh lợi ích tập thể, cộng đồng, nhân dân, trá hình, ẩn dưới bản chất con người và lời
nói, việc làm của con người. Khó xác định và phát hiện. Ngày 9/12/2016, tại hội nghị
cán bộ toàn quốc tuyên truyền, tìm hiểu sâu và triển khai thực hiện nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 (khóa XII), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây là
cuộc chiến gian nan, nhưng được không thể không làm điều đó., bởi vì nó liên quan
đến số phận của đảng và chế độ của chúng ta. "
-Ba là phải có bản lĩnh chính trị cao, có ý chí quyết tâm, kiên trì. “Nhóm lợi
ích” đã ăn sâu vào tư tưởng của nhiều cán bộ, đảng viên và doanh nghiệp. Trên thực tế,
nó tồn tại ở mọi cấp, mọi ngành, trong mối quan hệ với những người có chức vụ,
quyền hạn. Vì vậy, để kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả “nhóm lợi ích”, chúng ta phải
có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực cao, làm một cách kiên quyết, kiên trì, bài bản và
khoa học. Cần phải giải quyết tình hình một cách dứt khoát, kịp thời và tạo ra những
chuyển biến rõ rệt, đồng thời có những biện pháp lâu dài để ngăn ngừa những vấn đề
xảy ra trước khi chúng xảy ra. Ngày 26/3/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2015 và triển
khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2016: Chúng ta phải có dũng khí, dám làm dám chịu,
biết ác chống lại cái ác. Không bị danh lợi dụ dỗ, không bị quan hệ cá nhân chi phối,
không bị người quen ô uế chi phối.
-Bốn là phải sử dụng đồng thời nhiều nhóm giải pháp, dựa vào sức dân, huy
động toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc. Đó là những giải pháp về chính trị, tư tưởng,
tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, trách nhiệm, nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền,
cơ quan, đơn vị; giải pháp về cơ chế, chính sách; vấn đề kiểm tra, giám sát, kỷ luật

17
đảng về công tác tổ chức, cán bộ; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và vai trò của
các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí, truyền thông ... Nhóm giải pháp cần tiến hành
đồng thời. , kiên quyết và kiên trì, từ trên xuống dưới, từ trên xuống dưới. Từ trong ra
ngoài; đồng thời lựa chọn các giải pháp đột phá, phù hợp với từng thời điểm, tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo triệt để.
-Năm là rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện toàn diện các quy định, văn bản
quy phạm pháp luật về kiểm soát, phòng chống “nhóm lợi ích”, nhất là kiểm soát, ngăn
chặn “nhóm lợi ích” trong hoạch định và thực thi chính sách công; chú trọng nghiên
cứu, ban hành. , bổ sung, điều chỉnh cơ chế kiểm soát quyền lực; thiết lập cơ chế quản
lý, điều hành và thực thi chính sách công khai, minh bạch, khắc phục tình trạng “xin -
cho”, “cấp phép”, độc quyền; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, “sân sau”, quản lý
trong lĩnh vực nhạy cảm. Dễ xảy ra tham nhũng về đất đai, phát triển tài nguyên, tài
chính - ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, sở hữu vốn cổ phần của doanh nghiệp nhà
nước, v.v.
2.5. Vai trò của Nhà nước trong việc giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ
lợi ích kinh tế
Khi chúng ta nói về giải quyết mâu thuẫn và các xung đột xã hội, tức là chúng
ta nói đến vai trò quyết định của nhà nước, của chính quyền, sự tham gia của các tổ
chức xã hội chỉ có vai trò hỗ trợ. Các mâu thuẫn và xung đột xã hội đều xuất phát từ
những nguyên nhân sâu xa, do đó các mâu thuẫn và xung đột xã hội chỉ có thể được
giải quyết triệt để khi xử lý được vấn đề sâu xa của nó. Do đó cần phải có cách tiếp
cận, các công cụ giải quyết, những phương pháp phù hợp với từng loại mâu thuẫn và
xung đột xã hội cụ thể.Chúng ta cần phải tạo lập một quy phạm pháp lý chặt chẽ được
tôn trọng, đồng thời nâng cao năng lực ,một hệ thống chuẩn mực đạo đức được thực
hành rộng khắp và và nâng cao hiệu quả bộ máy nhà nước trong việc tạo lập và thực
hiện những nguyên tắc đạo đức và pháp luật.Thực thi đạo đức công vụ, văn hóa trong
chính trị, văn hóa trong kinh tế và đảm bảo tính bắt buộc của luật pháp. Xây dựng đạo
đức và pháp luật phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc. Khi giải quyết, hạn chế, giảm
nhẹ mâu thuẫn, xung đột xã hội cần phải thực hiện đúng nguyên tắc tiến bộ và công
bằng xã hội đã thiết lập. Xây dựng một hệ thống kiểm soát quyền lực và phát hiện
xung đột lợi ích hoạt động tốt và hiệu quả, chủ nghĩa tập thể, tránh chủ nghĩa hình
thức. Quy định trách nhiệm về cá nhân khi xử lý các mâu thẫn và xung đột xã hội.
18
Không hình sự hoá quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự và làm tốt công tác dự báo
nguy cơ xuất hiện xung đột xã hội để sớm hóa giải những vấn đề những mầm mống có
thể gây xung đột xã hội.

PHẦN 3: KẾT LUẬN


Trong nền kinh tế thị trường, cả nhà nước lẫn thị trường đều có vai trò và chức
năng riêng. Bản thân thị trường luôn vận hành, biến đổi theo các quy luật vốn có khách
quan và trên thực tế cơ chế thị trường là cơ chế hiệu quả trong phân bổ, khai thác các
nguồn lực đã có. Tuy nhiên, thị trường vận động tự do luôn có xu hướng đẩy nền kinh
tế vào tình trạng không ổn định và khủng hoảng. Thị trường có những khiếm khuyết
cố hữu, đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc phục những
khuyết điểm đó. Tuy nhiên, nhà nước sẽ có hạn chế và thất bại khi can thiệp quá mức
cần thiết. Chính sự hạn chế của nhà nước và khiếm khuyết của thị trường cho thấy:
Không thể phát triển khi thiếu sự can thiệp của nhà nước, cũng như không thể phát
triển nếu thiếu thị trường. Để phát triển đòi hỏi nhà nước và thị trường cần phải hỗ trợ,
tương tác với nhau, khắc phục các khiếm khuyết bổ sung những thứ cần thiết cho
nhau. Trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi được những mâu thuẫn từ
những quan hệ lợi ích kinh tế, và để giải quyết những mâu thuẫn này, cũng như đảm
bảo được sự hài hòa giữa các quan hệ lợi ích kinh tế, thì nhà nước đóng vai trò không
thể thiếu, góp phần cân bằng lại xã hội, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh hơn, nhân
dân được ấm no, hạnh phúc, đảm bảo công bằng, dân chủ, văn minh.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb: Bộ Chính trị Quốc gia Sự Thật,
Hà Nội.
2. Diệu Nhi. Lợi ích kinh tế (Economic benefits) trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là gì.
Tại:https://vietnambiz.vn/loi-ich-kinh-te-economic-advantage-trong-thoi-ki-qua-do-
len-chu-nghia-xa-hoi-la-gi-20191026085755146.htm
3. ThS. Đào Quang Vinh. Giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội hiện nay (2020).
Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận trung ương.
Tại:http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/giai-quyet-mau-thuan-xung-dot-xa-hoi-
hiennay.html
4. ThS. Đoàn Thị Vân Thúy. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (2020). Tạp chí Lý luận
chính trị điện tử.
Tại:http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3081-
giaiquyet-hai-hoa-quan-he-giua-loi-ich-ca-nhan-va-loi-ich-xa-hoi-trong-dieu-kien-
kinh-te-thitruong-o-viet-nam-hien-nay.html
5. ThS. Hoàng Văn Khải và ThS Trần Văn Thắng. Vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (2017). Trang thông
tin điện tử Trường chính trị Hoàng Đình Giong tỉnh Cao Bằng. Tại:
http://truongchinhtri.caobang.gov.vn/index.php/news/Nghien-cuu-khoa-hoc/Vai-tro-
cuanha-nuoc-trong-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-nuoc-ta-
hien-nay-247/
6. Nguyễn Ngọc Tương. Nhận diện "lợi ích nhóm", "nhóm lợi ích" và biện pháp
phòng, chống (2020). Truy cập tại: https://www.qdnd.vn/phong-chong-tu-dien-bien-tu-
chuyenhoa/nhan-dien-loi- ich-nhom-nhom-loi-ich-va-bien-phap-phong-chong-624853
7. Tổ chức Lao động Quốc tế và Viện Lao động Xã hội. Báo cáo quan hệ lao động. Tại
https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/---ilohanoi/
documents/publication/wcms_677744.pdf

20
8. PGS, ThS. Vũ Thanh Sơn. Thực hiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng (2021). Tạp chí
Cộng sản.
Tại:
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-
/2018/824089/thuc-hien-quan-he-phan-phoi-trong-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-
xahoi-chu-nghia-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
9. Hoàng Văn Khải - Trần Văn Thắng (2019), “Giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Lý luận Chính trị, (12).

21

You might also like