You are on page 1of 191

Bài 5.

Viết một bài văn


học thuật
1. Lên kế hoạch và viết nháp
- Khi đã tạo lập được một luận điểm rồi, cần phải lên kế hoạch
viết. Một kế hoạch viết tốt giúp ta tổ chức được các thành phần
của một luận điểm một cách cố kết và thuyết phục; từ đó, ta có
thể triển khai toàn bài viết dựa trên luận điểm.
1. Lên kế hoạch và viết nháp
- Một số ngành học quy định một kế hoạch viết rõ ràng. Chẳng
hạn, với các khoa học thực nghiệm, người đọc yêu cầu một văn
bản học thuật được lên kế hoạch như sau:
Mở đầu – Phương pháp nghiên cứu và tư liệu – Kết quả -
Bàn luận – Kết luận

+ Nếu ngành học yêu cầu một dạng bản kế hoạch viết cụ
thể, hỏi giáo viên hoặc học theo cách làm của một nguồn
thứ cấp.

+ Trong phần lớn các ngành học, ta phải tự lên kế hoạch


viết.
1.1. Lên kế hoạch viết
- Mỗi bài viết có ba phần chính:
+ Phần mở đầu
+ Phần thân bài
+ Phần kết luận
(mỗi phần nên dùng một trang để lên kế hoạch)
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Người viết thường được khuyên viết phần mở đầu cuối cùng,
nhưng phần lớn chúng ta cần một đoạn mở đầu tạm thời để
định hướng toàn bài luận. Ta nên viết phần mở đầu hai lần, một
lần tạm thời cho riêng ta, một lần là hoàn chỉnh cho độc giả.
Một phần mở đầu nên có:
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Một phần mở đầu nên có:
+ Điểm qua ngắn gọn các ý tưởng chính chỉ ở các nguồn
tham khảo liên quan nhất tới luận điểm của người viết. Những
nguồn tham khảo ít liên quan không nên đưa vào phần mở đầu.
Chỉ tóm tắt những nguồn mà người viết muốn phản bác, điều
chỉnh, hay mở rộng. Sắp xếp các nguồn để người đọc dễ theo
dõi: theo thời gian, theo chất lượng, theo tầm quan trọng, theo
quan điểm… (không phải theo thứ tự đọc của người viết)
+ Sau khi tóm tắt các nguồn tham khảo, diễn tả lại vấn đề
học thuật như một sai lầm hoặc một thiếu sót mà người viết
nhận ra.
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
VD: Tại sao câu chuyện về Alamo lại quan trọng trong kho
tàng thần thoại nước Mỹ
=> Rất ít sử gia lý giải tại sao câu chuyện về Alamo lại trở
nên quan trọng trong kho tàng thần thoại nước Mỹ

+ Giải đáp việc Nếu không tìm ra được câu trả lời thì sao?
Tầm quan trọng của câu trả lời.

Nếu ta biết làm thế nào những câu chuyện như vậy trở
thành những huyền thoại dân tộc, ta sẽ hiểu thêm về hệ
giá trị của dân tộc, và có thể, cả những điều khiến chúng
ta khác biệt.
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
+ Trình bày câu trả lời cho vấn đề như một nhận định, hoặc hứa
hẹn một câu trả lời. Có hai lựa chọn:
(+) Trình bày ngay nhận định ở phần cuối của mở đầu để
định hình những gì sẽ viết sau đó và nhắc lại ở phần đầu
của kết luận.

(+) Chỉ trình bày nhận định ở kết luận như một cao trào
của lập luận
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Đây là một lựa chọn quan trọng vì nó tạo ra một “khế ước” với
người đọc. Nếu trình bày nhận định chính ở phần cuối mở đầu,
người viết đặt người đọc ở vị thế quan trọng hơn: Người đọc
quyết định sẽ đọc văn bản theo cách nào. Người đọc biết rõ vấn
đề, giải pháp, và nhận định của người viết. Người đọc quyết
định việc đọc thế nào, hoặc đọc tiếp hay không. Không có bất
ngờ nào cả. Trái lại, nếu người viết đợi đến phần kết luận mới
nêu lên nhận định chính, người viết làm chủ quá trình đọc hơn:
Người đọc phải đi theo người viết từ đầu đến cuối khi người viết
hé lộ nhận định của mình.
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Đa số người đọc muốn thấy nhận định được trình bày ở phần
cuồi phần mởi đầu hơn vì nó giúp người đọc dễ dàng theo dõi
hơn, hiểu các mối liên hệ rõ ràng hơn, và nhớ lâu hơn. Trình bày
nhận định sớm cũng giúp định hướng cho người viết.

- Những người mới nghiên cứu thường sợ rằng nếu mình trình
bày nhận định quá sớm, người đọc sẽ thấy chán và không muốn
đọc. Những người khác thì sợ lặp lại chính mính. Những lo lắng
này là vô căn cứ. Nếu người viết đặt ra được một câu hỏi thú vị,
người đọc sẽ vẫn muốn xem người viết giải đáp nó thế nào.
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Nếu quyết định sẽ chỉ đưa ra nhận định của mình ở kết luận,
người viết vẫn cần một câu văn ở cuối mở đầu để dẫn dắt người
đọc vào phần thân bài. Câu văn đó nên đưa ra các khái niệm sẽ
được sử dụng suốt bài viết.

- Một số người viết sẽ thêm vào một “chỉ dẫn” ở cuối phần mở
đầu: Trong phần 1, tôi sẽ bàn luận về vấn đề… Phần 2 bàn về…
Phần 3 khảo sát…
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Một ví dụ về bản kế hoạch phần mở đầu:
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các vận động viên nữ dưới 18 tuổi
gặp phải gấp đôi nguy cơ bị chấn thương não vĩnh viễn so với các
nam vận động viên cùng lứa tuổi chơi cùng môn thể thao (bối
cảnh). [Tóm tắt các nguồn tham khảo chính]
Nhưng nghiên cứu này ít làm sáng tỏ được các nguyên nhân
của sự khác biệt này (câu hỏi được diễn tả như một thiếu sót).
Chỉ khi chúng ta biết tại sao các nữ vận động viên gặp phải
nhiều chấn thương não hơn hẳn các vận động viên nam, chúng ta
mới biết cách để bảo vệ họ tốt nhất (hệ quả của vấn đề).
Sự khác biệt này có vẻ xuất phát một phần từ sự khác biệt
về các dụng cụ bảo vệ của các vận động viên nam và nữ cũng như
một phần từ sự khác biệt trong quá trình theo dõi, báo cáo, và
chăm sóc khi gặp chấn thương (nhận định chính tạm thời)
1.1.1. Lập dàn ý cho phần mở
đầu tạm thời
- Một dàn ý như vậy sẽ giúp cho phần mở đầu định hướng được
cho toàn bài viết. Người viết sẽ sửa chữa để hoàn thiện hơn
trong bản thảo cuối cùng.
1.1.2. Xác định những khái
niệm chính trong toàn bài luận
- Để bài viết được cố kết, người đọc phải thấy được những khái
niệm chính trong từng phần của bài viết. Các khái niệm này
thường nằm trong câu văn trình bày nhận định của toàn bài viết.
Tập trung vào những khái niệm cụ thể và liên quan tới vấn đề
được đề cập, chứ không phải chủ đề chung chung. Ghi chú lại
trong kế hoạch viết các khái niệm đó để ghi nhớ không bỏ sót
trong quá trình viết. Bài viết cần bao gồm đầy đủ các khái niệm
cần thiết đó.
1.1.3. Lên kế hoạch phần thân
bài viết
- Trình bày rõ ràng hơn bối cảnh. Người viết sẽ phải định nghĩa
các khái niệm, trình bày rõ ràng vấn đề hoặc điểm qua các
nghiên cứu một cách chi tiết hơn, đặt giới hạn cho nghiên cứu,
đặt vấn đề vào hoàn cảnh lịch sử và xã hội… Cố gắng viết ngắn
gọn.

- Lên dàn ý cho từng phần lớn trong bài viết. Với mỗi dàn ý, viết
ra điểm chính/ý chính cả phần đó cùng các củng cố, phát triển,
hay mở rộng. Thông thường, đó sẽ là một lý do và các bằng
chứng để củng cố nhận định chính.
1.1.3. Lên kế hoạch phần thân
bài viết
- Tìm một trật tự phù hợp. Khi xây dựng một luận điểm, ta sắp
xếp các thành phần theo một cách rõ ràng với bản thân mình
nhưng khi lên kế hoạch cho bản thảo, người viết cần sắp xếp
chúng để thuận tiện cho độc giả theo dõi. Có thể tham khảo một
số cách sắp xếp sau.
1.1.3. Lên kế hoạch phần thân
bài viết
- Cách sắp xếp phần thân bài viết
+ Hai cách đầu dựa vào chủ đề:
(+) Từng phần một (part-by-part). Người viết có thể chia
nhỏ chủ đề thành từng phần nhỏ. Trình bày từng phần một
nhưng vẫn phải sắp xếp theo một trình tự mà người đọc có thể
hiểu được (bằng quan hệ chức năng, thứ bậc…)
(+) Theo trình tự thời gian. Là cách đơn giản nhất. Từ
trước đến sau, hay từ nguyên nhân tới kết quả.
1.1.3. Lên kế hoạch phần thân
bài viết
- Cách sắp xếp phần thân bài viết
+ Sáu cách sau dựa trên kiến thức và hiểu biết của độc
giả:
(+) Từ ngắn đến dài, từ đơn giản đến phức tạp. Đa số các
độc giả muốn đọc các vấn đề đơn giản trước, phức tạp
sau.
(+) Từ quen thuộc tới ít quen thuộc. Đa số các độc giả
muốn đọc các vấn đề từ quen thuộc trước, các vấn đề
mới mẻ sau.
(+) Ít tranh cãi tới nhiều tranh cãi. Đa số độc giả muốn
đọc những gì họ đồng ý trước, những gì họ không đồng ý
sau.
1.1.3. Lên kế hoạch phần thân
bài viết
- Cách sắp xếp phần thân bài viết
+ Sáu cách sau dựa trên kiến thức và hiểu biết của độc
giả:
(+) Từ quan trọng đến ít quan trọng (hoặc ngược lại). Đa
số độc giả muốn đọc các lý do quan trọng trước (nhưng các lý do
thường gây tác động mạnh hơn nếu được trình bày cuối cùng)
(+) Hiểu biết trước chuẩn bị cho hiểu biết sau. Độc giả
phải hiểu một số sự kiện, nguyên lý, định nghĩa trước khi hiểu
những thứ khác.
(+) Phân tích chung trước áp dụng cụ thể sau. Độc giả
phải hiểu những điều cơ bản về quan điểm tổng quát trước khi
theo dõi những áp dụng trong từng văn bản, sự kiện, tình huống
cụ thể.
1.1.3. Lên kế hoạch phần thân
bài viết
- Khi sắp xếp các phần của thân bài cần phải thuận tiện và hợp lý
để giúp độc giả theo dõi, không phải từ trật tự của các tư liệu,
hay thuận tiện và hợp lý cho người viết.

- Cần làm rõ các trật tự bằng cách dùng các từ ngữ tương ứng:
Thứ nhất…, thứ hai…; Sau đó…, cuối cùng; Quan trọng hơn…;
Vấn đề phức tạp hơn là…; Do đó… Các từ này trong bản lên kế
hoạch sẽ giúp ích cho người viết ghi nhớ rõ trật tự. Khi hoàn
thiện bản thảo có thể bỏ bớt đi.
1.1.4. Lên kế hoạch từng phần
và phần nhỏ
- Nhấn mạnh các khái niệm trong từng phần và từng phần nhỏ.
Nếu toàn bài viết cần phần mở đầu thì từng phần của bài viết
cũng như vậy. Sau khi trình bày điểm chính/ý chính của từng
phần, lựa chọn các khái niệm chính sẽ sử dụng trong từng phần.
Các khái niệm này thường nằm trong câu văn trình bày điểm
chính/ý chính của phần viết. Ghi chú các khái niệm này để khi
viết không bỏ sót.

- Xác định vị trí đưa vào các bằng chứng, xác nhận và hồi đáp,
logic đảm bảo, và tóm lược. Đưa các yếu tố này vào bản lên kế
hoạch từng phần viết. Các yếu tố này, đến lượt nó, có thể phải
được củng cố bằng các luận điểm riêng.
1.1.4. Lên kế hoạch từng phần
và phần nhỏ
+ Bằng chứng: Đa số các phần viết thường bao gồm các
bằng chứng củng cố cho các lý do. Nếu có nhiều dạng bằng
chứng củng cố cho cùng một luận điểm, hãy nhóm và sắp xếp
chúng theo cách để độc giả có thể hiểu được. Chú ý tới những
chỗ mà người viết phải giải thích rõ bằng chứng (bằng chứng lấy
từ đâu, tại sao nó đáng tin cậy, nó củng cố lý do như thế nào)

+ Xác nhận và hồi đáp: Hình dung ra những gì người đọc


sẽ phản đối và lên dàn ý sự hồi đáp. Những hồi đáp có thể là
những luận điểm nhỏ với một nhận định, các lý do, bằng chứng
và cả một hồi đáp khác cho hồi đáp có thể có với hồi đáp của
người viết.
1.1.4. Lên kế hoạch từng phần
và phần nhỏ
+ Logic đảm bảo: Nói chung, nếu cần một logic đảm bảo,
người viết hãy trình bày nó trước khi đưa ra nhận định và các lý
do củng cố. Chẳng hạn, nhận định sau đây cần tới một logic đảm
bảo nếu nó được viết cho những người không có nhiều hiểu biết
về lịch sử xã hội thời Elizabeth ở Anh:
1.1.4. Lên kế hoạch từng phần
và phần nhỏ
Vì hầu hết các sinh viên đại học Oxford năm 1580 kí các
văn bản chỉ với tên riêng và họ của mình lý do nên đa số họ đều
xuất phát từ giới bình dân nhận định.

Nhận định này sẽ rõ ràng hơn với mọi người nếu được
thêm vào một logic đảm bảo:

Vào thế kỷ 16 ở Anh, khi một người không phải quý tộc
mà là xuất thân từ giới bình dân, người đó sẽ không thêm các từ
như “Mr.” hay “Esq.” vào chữ kí của mình logic đảm bảo. Hầu hết các
sinh viên đại học Oxford năm 1580 kí các văn bản chỉ với tên
riêng và họ của mình lý do nên đa số họ đều xuất phát từ giới
bình dân nhận định.
1.1.4. Lên kế hoạch từng phần
và phần nhỏ
- Nếu cho rằng người đọc có thể chất vấn logic đảm bảo của
mình, người viết có thể thêm vào một luận điểm để củng cố nó.

- Nếu bài viết dài và nặng về những thông tin như ngày tháng,
tên gọi, sự kiện, số liệu, người viết có thể kết luận mỗi phần viết
lớn bằng cách tóm lược lại diễn tiến của luận điểm (một tiểu
kết). Điều gì đã được trình bày trong phần này? Luận điểm được
làm sáng tỏ như thế nào? Nếu trong bản thảo cuối cùng những
phần tóm tắt này cồng kềnh, có thể cắt bỏ.
1.1.5. Lên dàn ý một kết luận
tạm thời
- Nêu rõ lại nhận định một lần nữa (ở đầu trang giấy), sau đó
nếu có thể, trình bày tầm quan trọng của nó.

- Đến bước này (sau khi đã làm xong việc lên kế hoạch cho cả bài
viết), ta có thể nhận ra rằng ta sẽ không dùng hết các phần
chuẩn bị, nhưng điều đó không có nghĩa là ta đã phí thời gian.
Việc nghiên cứu và viết lách giống như đãi vàng: đào thật nhiều,
nhặt ra thật ít, vứt bỏ phần thừa. Ernest Hemingway từng nói:
một người biết mình đang viết tốt khi bỏ đi chính những gì vốn
đã tốt rồi nhưng không đủ tốt để giữ lại.
1.2. Tránh ba lỗi phổ biến khi
lên kế hoạch viết
- Không phải bản lên kế hoạch nào cũng tốt. Thông thường ta
thường lên kế hoạch dựa trên quá trình tư duy và các hoạt động
nghiên cứu chứ không mấy chú ý tới trải nghiệm của người đọc.
1.2.1. Đừng tổ chức bài viết như một cách
trình bày quá trình tư duy của mình
- Ít người đọc muốn biết người viết đã tìm ra những gì, đã vật
lộn hay bế tắc thế nào, đã vượt qua các vấn đề trở ngại ra sao.
Người đọc sẽ rất khó chịu nếu phải theo dõi cả quá trình nghiên
cứu của người viết đã diễn ra thế nào để đến với một nhận định
cuối cùng.

- Tìm ra những câu văn không trình bày kết quả nghiên cứu mà
nói về cách thức tìm ra kết quả đó hay về suy nghĩ của người
viết. Nếu thấy nhiều câu văn kiểu này, rất có thể người viết
không phải đang củng cố một nhận định mà đang kể một câu
chuyện về việc đã khám phá ra nó thế nào.
1.2.2. Đừng tổ chức bài viết như một văn
bản chắp vá các nguồn tham khảo
- Người đọc muốn thấy các phân tích của người viết, chứ không
phải một văn bản tóm lược lại các nguồn tham khảo. Những
người mới nghiên cứu thường sai lầm khi chỉ kết hợp lại những
trính dẫn, tóm lược, diễn đạt lại các nguồn tham khảo mà đưa ra
quá ít những suy nghĩ của người viết. Những “bài viết chắp vá”
đó đều chỉ là tóm lược, không phải phân tích. Nguy hiểm hơn
nếu người viết chỉ làm những nghiên cứu trên mạng vì rất dễ
cắt-dán từ các nguồn tham khảo. Người đọc có kinh nghiệm sẽ
nhận ra ngay một văn bản chắp vá và người viết có thể bị kết án
đạo văn.
1.2.2. Đừng tổ chức bài viết như một văn
bản chắp vá các nguồn tham khảo
- Những người nghiên cứu nhiều kinh nghiệm thường ít đưa ra
một văn bản chắp vá nhưng cũng có thể dựa dẫm quá nhiều vào
một nguồn tài liệu. Người viết có thể tổ chức bài viết dựa theo
một nguồn tham khảo chính thay vì đưa ra một đường hướng
mới để thể hiện luận điểm rõ ràng hơn. Nếu các khái niệm
xuyên suốt trong bài viết của người viết giống hệt với một hay
nhiều nguồn tham khảo, cần lưu ý xem người viết đang tạo lập
luận điểm của mình hay bắt chước lại luận điểm của người khác.
1.2.3. Đừng dùng ngôn ngữ của
bài tập trong bài viết
- Nếu người viết dùng ngôn ngữ của bài tập trong bài viết trong
đoạn mở đầu, người đọc có thể cho rằng người viết chẳng đóng
góp được ý tưởng nào của mình.
VD:
Bài tập: Những lý thuyết khác nhau về tri giác đánh giá
khác nhau về tầm quan trọng của nhận thức trung gian trong
quá trình xử lý các cảm giác đầu vào. Một số lý thuyết cho rằng
các cảm giác đầu vào truyền thẳng tới não không qua trung gian;
một số lý thuyết khác cho rằng các cơ quan tiếp nhận chịu tác
động bởi nhận thức. Hãy so sánh hai khuynh hướng lý thuyết
khác biệt về tri giác thị giác, thính giác, và xúc giác về vấn đề này.
1.2.3. Đừng dùng ngôn ngữ của
bài tập trong bài viết
Đoạn mở đầu bài viết: Những lý thuyết gia về tri giác thị
giác đánh giá khác nhau tầm quan trọng của nhận thức trung
gian trong quá trình xử lý các cảm giác đầu vào. Trong bài viết
này, người viết sẽ so sánh hai khuynh hướng lý thuyết về tri giác
thị giác…
1.2.3. Đừng dùng ngôn ngữ của
bài tập trong bài viết
- Cách tránh: Nếu trong bài tập liệt kê ra một số các đối tượng
cần quan tâm, đừng trình bày chúng theo thứ tự cho sẵn.

Chẳng hạn, nếu được yêu cầu “so sánh và chỉ ra khác biệt
trong quan điểm của Freud và Jung về trí tưởng tượng và vô
thức”, người viết không cần tổ chức bài viết thành hai phần,
phần đầu về Freud, phần sau về Jung. Cách tổ chức như vậy
thường dẫn đến hai phần tóm lược không mấy liên hệ tới nhau.
Trái lại, hãy cố gắng chia chủ đề thành các khái niệm bộ phận,
chẳng hạn như các thành phần của vô thức và trí tưởng tượng,
định nghĩa của chúng…; rồi tổ chức các phần đó theo cách mà
độc giả dễ theo dõi.
1.3. Chuyển bản kế hoạch viết thành
bản viết nháp (bản thảo)
- Một số người viết cho rằng khi đã có một dàn ý rồi thì có thể
viết cả bài luận từ đầu tới cuối. Những người nhiều kinh nghiệm
hơn biết rằng viết nháp có thể là một quá trình khám phá mà
việc lên kế hoạch viết không thay thế được vì chúng ta thường
trải nghiệm được những giấy phút hứng khởi nhất trong quá
trình nghiên cứu: ta phát hiện được những ý tưởng mà chúng ta
không nghĩ tới khi ta diễn đạt được chúng ra. Nhưng như mọi
bước trong một quá trình, ngay cả những phát hiện bất ngờ
cũng bắt đầu từ một bản kế hoạch tốt.
1.3.1. Viết nháp theo cách mà
người viết thấy thoải mái
- Nhiều người viết có kinh nghiệm bắt đầu viết trước khi có một
bản kế hoạch hoàn chỉnh. Họ lập ra một bản kế hoạch tạm thời,
dùng nó để khám phá những suy tư của mình, và hoàn thiện
một bản kế hoạch cuối cùng dựa trên những gì được phát hiện.
Họ biết rằng phần lớn những gì mình viết từ sớm như vậy ít khi
được giữ lại, nên họ bắt đầu viết từ sớm. Quá trình viết nháp để
khám phá như vậy có thể giúp người viết tìm ra được những ý
tưởng mà mình không hề nghĩ tới. Nhưng cách làm này chỉ hiệu
quả khi người viết có nhiều thời gian (distant deadline). Nếu
người viết chưa có nhiều hiểu biết với một chủ đề và có ít thời
gian (short deadline), hãy viết nháp khi có một bản kế hoạch viết
rõ ràng.
1.3.1. Viết nháp theo cách mà
người viết thấy thoải mái
- Khi đã có một bản kế hoạch viết rồi, một số người viết nháp rất
nhanh: để cho câu từ tuôn ra, bỏ qua các trích dẫn và dữ liệu sẽ
được thêm vào sau, cứ viết tiếp phần sau khi gặp bế tắc. Nếu
không nhớ một chi tiểt, người viết đó có thể thêm vào một chú
thích [?] và viết tiếp cho đến khi hết mạch sau đó mới trở lại để
tra cứu. Nhưng những người viết nháp nhanh cần nhiều thời
gian để sửa chữa. Nên nếu bạn viết nháp nhanh, hãy bắt đầu
viết từ sớm.
1.3.1. Viết nháp theo cách mà
người viết thấy thoải mái
- Một số người viết nháp chỉ có thể viết một cách thật chậm và
cẩn thận: họ cần phải viết đúng từng câu trước khi sang câu tiếp
theo. Để làm được vậy, họ cần một bản kế hoạch tỉ mỉ. Nên nếu
bạn viết chậm, hãy làm một bản dàn ý thật chi tiết.

- Đa số người viết làm viết hiệu quả nhất khi viết nháp nhanh,
sửa chữa lại kĩ càng, và lược bỏ những phần không liên quan.
Nhưng hãy viết nháp theo cách mà mình thấy phù hợp nhất.
1.3.1. Viết nháp theo cách mà
người viết thấy thoải mái
- Lưu ý: Hãy bắt đầu viết nháp càng sớm càng tốt. Các thời hạn
(deadlines) thường đến rất sớm, chúng ta đều mong muốn sẽ có
thêm một tháng, một tuần, hay thậm chí chỉ một ngày. Thực tế,
có nhiều nhà nghiên cứu cảm thấy dường như mình không thể
hoàn thành được, nghĩ rằng họ phải cố gắng cho đến khi mà bài
viết, luận văn, cuốn sách của họ thật hoàn hảo. Nhưng sẽ chẳng
bao giờ có một văn bản hoàn hảo cả. Chúng ta chỉ có thể làm tốt
nhất trong thời gian cho phép.
1.3.2. Dùng các từ khóa (keywords)
để định hướng quá trình viết
- Một vấn đề gặp phải khi viết nháp là không bị lạc đề. Một dàn ý
tốt sẽ giúp chúng ta trong quá trình viết, nhưng chúng ta cũng
cần luôn lưu ý tới các từ khóa. Hãy kiểm tra ta dùng chúng
thường xuyên không, có bỏ sót chúng hay không, đặc biệt là
những từ khóa nổi bật trong mỗi phần viết. Khi viết nháp nếu
thấy mình đang lan man cứ viết tiếp đến khi hết mạch, ta có thể
sẽ tìm được một ý tưởng hay.
1.3.2. Dùng các từ khóa (keywords)
để định hướng quá trình viết
- Ngay cả khi các bài viết trong ngành học của mình không sử
dụng các đầu đề hay đầu đề nhỏ, hãy sử dụng chúng trong khi
viết nháp. Tạo ra một đầu đề từ những từ ngữ riêng biệt với mỗi
phần viết hoặc mỗi phần viết nhỏ.
Các đầu đề này sẽ thể hiện cấu trúc của bài viết một cách
rõ ràng và dễ nhận biết (các đầu đề được đánh số thường phổ
biến trong khoa học xã hội và ít phổ biến hơn trong các ngành
nhân văn). Nếu ngành học của mình không dùng các đầu đề, xóa
chúng đi trong bản thảo hoàn thiện.
(*)Vượt qua sự trì hoãn (procastination)
và sự bế tắc (writer’s block)
- Nếu không thể bắt đầu viết ngay cả một vài từ đầu tiên, người
viết đang gặp phải một sự bế tắc. Viết mãi cũng không được
khiến cho người viết trôi vào sự trì hoãn: sao nhãng làm những
việc khác, né tránh việc phải bắt đầu viết…
- Có thể vượt qua sự bế tắc và trì hoãn bằng một số cách sau:
+ Chia nhỏ quá trình viết thành từng phần nhỏ, tập trung
vào từng phần một.
+ Đặt ra một lịch trình cụ thể cho quá trình viết với
những mục tiêu rõ ràng. Theo dõi việc hoàn thành các
mục tiêu theo lịch trình đã đề ra. Sự đều đặn làm cho
việc viết dễ dàng hơn.
+ Không nên quá cầu toàn, không cần thiết mọi câu văn,
mọi đoạn văn phải hoàn hảo.
(*) Tóm tắt (abstract)
- Tóm tắt là một đoạn văn giúp cho người đọc biết họ sẽ tìm
thấy gì trong bài viết. Đoạn văn này nên ngắn hơn phần mở đầu
bài viết, nhưng có ba điểm giống với phần mở đầu:
+ Nêu rõ vấn đề nghiên cứu
+ Trình bày các chủ đề chính
+ Nêu ra nhận định chính hoặc một khởi điểm dẫn đến
nhận định chính
(*) Tóm tắt
- Tóm tắt ở mỗi lĩnh vực mỗi khác, có những ngành còn không sử
dụng tóm tắt. Nhưng đa số các tóm tắt thường theo một trong
ba dạng sau. Người viết nên xác định dạng nào phù hợp với
ngành của mình (có thể hỏi giảng viên hoặc xem trong các tạp
chí chuyên ngành).
(*) Tóm tắt
+ Dạng 1: Văn cảnh + Vấn đề + Nhận định chính (Context +
Problem + Main Point)

Dạng tóm tắt này là một phần mở đầu được rút gọn. Nó
bắt đầu bằng một hoặc hai câu văn trình bày văn cảnh của các
nghiên cứu trước đó, tiếp tục với một hay hai câu để nêu lên
vấn đề, và kết lại bằng kết quả chính của nghiên cứu.
(*) Tóm tắt
VD:
Các học giả từ lâu khẳng định rằng dân chủ làm tăng chất
lượng cuộc sống của người dân (văn cảnh). Tuy nhiên, nghiên
cứu gần đây đã chất vấn quan điểm chính thống này khi chứng
minh rằng có ít hoặc không có mối liên hệ nào giữa kiểu chế độ
chính trị của một quốc gia và mức độ phát triển con người của
quốc gia đó (vấn đề). Trong bài viết này, chúng tôi chỉ ra dân chủ
có thể thúc đẩy sự phát triển con người, nhưng chỉ khi được
xem như một hiện tượng lịch sử (nhận định chính).
(*) Tóm tắt
+ Dạng 2: Văn cảnh + Vấn đề + Khởi điểm (Context + Problem +
Launching Point)

Dạng tóm tắt này cũng giống dạng trước chỉ trừ việc
không nêu rõ các kết quả cụ thể mà chỉ đề cập tới tính chất
chung của chúng.
(*) Tóm tắt
VD:
Các học giả từ lâu khẳng định rằng dân chủ làm tăng chất
lượng cuộc sống của người dân (văn cảnh), nhưng nghiên cứu
gần đây đã chất vấn quan điểm chính thống này khi chứng minh
rằng có ít hoặc không có mối liên hệ nào giữa kiểu chế độ chính
trị của một quốc gia và mức độ phát triển con người của quốc
gia đó (vấn đề). Trong bài viết này, chúng tôi điểm qua các công
trình nghiên cứu này, vạch ra các đường hướng thông thường
mà dân chủ có thể thúc đẩy phúc lợi xã hội, và kiểm tra hai giả
thuyết: (a) mức độ dân chủ của một quốc gia trong một năm cụ
thể ảnh hưởng tới mức độ phát triển con người và (b) quá trình
phát triển của dân chủ của một quốc gia trong thế kỷ vừa qua
tác động đến mức độ phát triển con người (khởi điểm).
(*) Tóm tắt
+ Dạng 3: Tổng thuật (Summary)
Một tổng thuật cũng nêu lên văn cảnh và vấn đề; nhưng
trước khi trình bày kết quả, nó tóm lược lại phần còn lại của luận
điểm, tập trung vào bằng chứng củng cố cho kết quả hoặc các
quy trình và phương pháp được sử dụng để đạt được kết quả.

VD:
(*) Tóm tắt
Liệu rằng dân chủ có làm tăng chất lượng cuộc sống của
người dân hay không? Các học giả từ lâu khẳng định là có văn cảnh,
nhưng nghiên cứu gần đây đã chất vấn quan điểm chính thống này
vấn đề. Bài viết này điểm qua các công trình nghiên cứu này, vạch ra
các đường hướng thông thường mà dân chủ có thể thúc đẩy phúc
lợi xã hội, và kiểm tra hai giả thuyết: (a) mức độ dân chủ của một
quốc gia trong một năm cụ thể ảnh hưởng tới mức độ phát triển
con người và (b) quá trình phát triển của dân chủ của một quốc gia
trong thế kỷ vừa qua tác động đến mức độ phát triển con người
khởi điểm. Sử dụng tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh như một thước đo
chính cho sự phát triển con người, chúng tôi tiến hành một loạt các
trắc nghiệm thống kê xuyên quốc gia theo từng thời đoạn để kiểm
tra hai giả thuyết. Chúng tôi chỉ tìm thấy chút ít bằng chứng cho giả
định thứ nhất, nhưng nhiều củng cố cho giả định thứ hai tổng thuật.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng cách tốt nhất để hình dung về mối quan
hệ giữa dân chủ và phát triển là xem nó như một hiện tượng lịch
sử phụ thuộc vào từng thời đoạn nhận định chính.
(*) Tóm tắt
Dạng tóm tắt này đã bao gồm một tổng thuật, sự phát
biểu vấn đề được rút gọn. Hãy chú ý đến câu mở đầu, thay vì
nên lên văn cảnh theo cách chuẩn mực, tóm tắt này bắt đầu
bằng một câu hỏi tu từ: Liệu rằng dân chủ có làm tăng chất
lượng cuộc sống của người dân hay không? – để sau đó kết thúc
bằng một câu trả lời.
(*) Tóm tắt
(*) Tip: Tưởng tượng rằng mình đang tìm chính bài viết của mình
trên một hệ thống dữ liệu. Những từ khóa nào mình sẽ dùng để
tìm kiếm? Hãy cho những từ những từ khóa này vào nhan đề và
câu đầu tiên trong tóm tắt của bài viết.
2. Viết phần mở đầu và phần
kết luận
- Một phần mở đầu tốt khiến cho độc giả có hứng thú đọc và
giúp họ hiểu toàn bộ bài viết dễ dàng hơn. Một phần kết luận
tốt đưa ra một phát biểu rõ ràng về quan điểm của người viết.
Hai phần mở đầu và kết luận này có thể là quan trọng nhất trong
bài viết và phải dành nhiều thời gian để sửa chữa hơn cả.
2.1. Viết phần mở đầu
- Một phần mở đầu tốt khiến cho độc giả có hứng thú đọc và
giúp họ hiểu toàn bộ bài viết dễ dàng hơn.
2.1.1. Cấu trúc thường gặp của
phần mở đầu
- Mỗi cộng đồng nghiên cứu có cách viết phần mở đầu của một
bài viết học thuật khác nhau. Hãy thử xem xét ba ví dụ từ các
lĩnh vực như nghiên cứu văn hóa, thiết kế máy tính, và lịch sử
pháp lý. Mặc dù khác biệt nhau về nội dung, cả ba phần mở đầu
này có cùng cấu trúc.
VD1:
Tại sao máy móc không thể giống con người? Trong gần
như toàn bộ các tập phim Star Trek: Thế hệ tiếp theo, người máy
Data thắc mắc điều gì làm cho một con người trở thành một con
người. Trong phim Star Trek nguyên bản, những câu hỏi tương
tự được đặt ra bởi Mr. Spock, một người Vulcan lai, nhưng suy
nghĩ với logic giống máy móc và thiếu vắng cảm xúc. Thực tế,
Data và Spock chỉ là những “cá thể giống người” gần đây nhất
muốn tìm kiếm bản chất của nhân tính. Câu hỏi tương tự đã
được đặt ra bởi những thực thể từ quái vật của Frankenstein
cho đến Kẻ hủy diệt. Nhưng câu hỏi thực sự là tại sao những
nhân vật này luôn luôn cố gắng trở thành những người đàn ông
da trắng. Là nhưng người thông diễn văn hóa, có phải họ đã
ngấm ngầm thắt chặt thêm những định kiến về một con người
“bình thường”? Một mẫu người, thực tế, được định nghĩa bởi
các tiêu chí của phương Tây và loại trừ phần lớn nhân loại.
VD2:
Là một phần của chương trình Từng Bước Nâng Cao Chất
Lượng, công ty máy tính Motodyne lên kế hoạch thiết kế lại giao
diện người dùng để phù hợp với hệ thống hỗ trợ trực tuyến
Unidyne. Bản thiết kế yêu cầu những biểu tượng dễ hiểu giúp
cho người sử dụng biết được chức năng của chúng mà không
cần ngôn từ. Motodyne đã có ba năm kinh nghiệm với hệ thống
biểu tượng hiện tại, nhưng lại không có dữ liệu cho thấy biểu
tượng nào là dễ hiểu. Thiếu đi những dữ liệu đó, chúng ta không
thể xác định được biểu tượng nào cần được thiết kế lại. Báo cáo
này đưa ra những dữ liệu về 11 biểu tượng, chỉ ra rằng 5 trong
số chúng không dễ hiểu.
VD3:
Trong xã hội ngày nay, liệu rằng thiếu tá John Andre, một
điệp viên người Anh trong lốt thường dân bị phát hiện bên chiến
tuyến phía Mỹ, có bị treo cổ? Dù được xem như một người yêu
nước cao cả, ông đã bị trừng phạt theo luật nhà binh. Theo thời
gian những truyền thống của chúng ta đã thay đổi, nhưng sự
trừng phạt cho tội gián điệp thì không. Đó là tội duy nhất chắc
chắn phải xử tử. Tuy nhiên, Tòa Án Tối Cao gần đây đã bãi bỏ án
tử hình bắt buộc với dân thường, tạo ra một sự mập mờ trong
việc áp dụng điều khoản này với các trường hợp quân sự. Nếu
phán quyết của Tòa Án Tối Cao áp dụng cho quân sự, liệu rằng
Quốc Hội có phải sửa lại Bộ Luật Quân Sự? Bài viết này kết luận
là có.
2.1.1. Cấu trúc thường gặp của
phần mở đầu
- Cũng như đối tượng độc giả hướng đến, chủ đề và vấn đề
trong ba phần mở đầu trên rất khác biệt, nhưng đằng sau chúng
là những mô thức tương tự. Cấu trúc chung đó bao gồm ba
thành phần:
+ Bối cảnh ổn định
+ Phát biểu vấn đề
+ Giải đáp vấn đề
(*) Không phải phần mở đầu nào cũng bao gồm ba thành phần
trên nhưng đa số là như vậy.
2.1.1. Cấu trúc thường gặp của
phần mở đầu
- Đây là mô thức: Bối cảnh + Vấn đề + Giải đáp trong cả ba ví dụ.

+ VD1:
Bối cảnh: Tại sao máy móc không thể giống con người? …
Câu hỏi tương tự đã được đặt ra bởi những thực thể từ quái vật
của Frankenstein cho đến Kẻ hủy diệt.
Vấn đề: Nhưng câu hỏi thực sự là … có phải họ đã ngấm
ngầm thắt chặt thêm những định kiến về một con người “bình
thường”?
Giải đáp: Một mẫu người, thực tế, được định nghĩa bởi
các tiêu chí của phương Tây và loại trừ phần lớn nhân loại.
2.1.1. Cấu trúc thường gặp của
phần mở đầu
- Đây là mô thức: Bối cảnh + Vấn đề + Giải đáp
+ VD2:
Bối cảnh: Là một phần của chương trình Từng Bước Nâng
Cao Chất Lượng, công ty máy tính Motodyne lên kế hoạch thiết
kế lại giao diện người dùng… Motodyne đã có ba năm kinh
nghiệm với hệ thống biểu tượng hiện tại…
Vấn đề: nhưng lại không có dữ liệu cho thấy biểu tượng
nào là dễ hiểu. Thiếu đi những dữ liệu đó, chúng ta không thể
xác định được biểu tượng nào cần được thiết kế lại.
Giải đáp: Báo cáo này đưa ra những dữ liệu về 11 biểu
tượng, chỉ ra rằng 5 trong số chúng không dễ hiểu.
2.1.1. Cấu trúc thường gặp của
phần mở đầu
- Đây là mô thức: Bối cảnh + Vấn đề + Giải đáp
VD3:
Bối cảnh: Trong xã hội ngày nay, liệu rằng thiếu tá John
Andre ... có bị treo cổ [vì làm gián điệp]? … Đó là tội duy nhất
chắc chắn phải xử tử.
Vấn đề: Tuy nhiên, Tòa Án Tối Cao gần đây đã bác bỏ án
tử hình bắt buộc với dân thường, tạo ra một sự mập mở trong
việc áp dụng điều này với các trường hợp quân sự … liệu rằng
Quốc Hội có phải sửa lại Bộ Luật Quân Sự?
Giải pháp: Bài viết này kết luận là có.

(*) Mỗi một yếu tố trên không chỉ kích thích người đọc theo dõi
bài viết mà còn giúp họ hiểu rõ hơn.
2.1.2. Các bước viết phần mở
đầu
- Có ba bước chính để viết một phần mở đầu tốt:
+ Thiết lập một bối cảnh
+ Nêu ra vấn đề
+ Nêu ra câu trả lời
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Bối cảnh mở đầu thiết lập một nền tảng chung (common
ground), một hiểu biết được chia sẻ giữa người đọc và người
viết về vấn đề lớn hơn mà người viết sẽ đề cập. Đa số các phần
mở đầu sẽ theo chiến lược chung như sau. Mở đầu bằng một
bối cảnh ổn định (stable context) với một nền tảng chung
(common ground) – một vài mảng nghiên cứu đã biết không có
vấn đề gì. Sau đó người viết làm đảo lộn bối cảnh đó bằng việc
nêu ra một vấn đề: Người đọc, bạn tưởng rằng mình đã biết
điều này, nhưng sự biết của bạn bị sai lầm hoặc chưa đầy đủ.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
VD3:
Bối cảnh ổn định: Trong xã hội ngày nay, liệu rằng thiếu
tá John Andre ... có bị treo cổ? … [Gián điệp] là tội duy
nhất chắc chắn phải xử tử.
Vấn đề làm đảo lộn: Tuy nhiên, Tòa Án Tối Cao gần đây
đã bác bỏ án tử hình bắt buộc với dân thường…
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Không phải bài viết nghiên cứu nào cũng bắt đầu bằng một nền
tảng chung. Bài này mở đầu trực tiếp bằng một vấn đề:

Gần đây, các quá trình hóa học làm mỏng tầng ozone
tưởng đã được hiểu rõ nhưng hóa ra không phải. Chúng
ta có lẽ đã nhầm khi xác định là hydrofluorocarbon là
nguyên nhân chính.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Một số người đọc có thể cho rằng vấn đề gây đảo lộn đủ để
kích thích họ đọc tiếp, nhưng chúng ta có thể làm tăng thêm tác
động bằng việc giới thiệu một bối cảnh nghiên cứu trước đó
dường như không có vấn đề gì, để rồi sau đó chúng ta làm đảo
lộn nó:
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
VD:
Khi chúng ta khảo sát những nguy cơ môi trường, hiểu
biết của chúng ta về các quá trình hóa học trong mưa a-xít và sự
gia tăng của carbon dioxide đã có nhiều tiến bộ, cho phép chúng
ta hiểu rõ hơn về những hệ quả của chúng đối với sinh quyển bối
cảnh ổn định. Nhưng gần đây, các quá trình làm mỏng tầng ozone
tưởng đã được hiểu rõ nhưng hóa ra không phải vậy tình trạng bất ổn.
Chúng ta có lẽ đã nhầm khi xác định là hydrofluorocarbon là
nguyên nhân chính hệ quả.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
(*) Một phần mở đầu được viết tốt giống như một “cú đấm”
khiến người đọc choáng váng vì một vấn đề mới mẻ họ chưa
nghĩ tới.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
(*) Một phần mở đầu được viết tốt giống như một “cú đấm”
khiến người đọc choáng váng vì một vấn đề mới mẻ họ chưa
nghĩ tới.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Người đọc giờ đây có hai lợi ích khi đọc bài viết: không chỉ là
vấn đề, mà cả hiểu biết chưa đầy đủ của bản thân họ.

- Bối cảnh cũng thế miêu tả một sự hiểu biết nhầm lẫn:

Các Cuộc Thánh Chiến thường được cho rằng có động cơ


là sự cuồng tín tôn giáo nhằm giành lại Đất Thánh cho
Thiên Chúa Giáo bối cảnh ổn định. Thực tế, các động cơ ít nhất
một phần, nếu không phải phần lớn, mang tính chính trị.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Bối cảnh cũng có thể điểm qua một nghiên cứu sai lầm:

Ít có khái niệm xã hội học nào đánh mất sự quan tâm


nhanh như tác động ngăn chặn tự sát của Thiên Chúa
Giáo. Từng là một tín điều cơ bản của ngành xã hội học,
nó đã bị chất vấn bởi một loạt các nghiên cứu ở châu Âu
và Bắc Mỹ… bối cảnh ổn định. Tuy nhiên, một số nghiên cứu
vẫn tìm thấy ảnh hưởng của tôn giáo…
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Bối cảnh cũng có thể chỉ ra một sự hiểu nhầm về vấn đề:

Giáo dục Mỹ tập trung vào dạy trẻ em cách tư duy phản
biện, đặt ra các câu hỏi và kiểm chứng các câu trả lời bối
cảnh ổn định. Nhưng lĩnh vực tư duy phản biện đã bị biến
tướng bởi những nồng nhiệt thái quá và những lợi ích
chuyên biệt.
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Những người nghiên cứu ít kinh nghiệm thường vội vàng trong
việc thiết lập một nền tảng chung giữa người viết và người đọc,
họ mở đầu một bài viết như đang trao đổi trong lớp học. Phần
mở đầu của họ quá vắn tắt khiến cho chỉ người cùng trong lớp
học hiểu được họ:

Với quan điểm rằng Hofstader thất bại trong việc tôn
trọng sự khác biệt giữa toán học, âm nhạc, và mỹ thuật,
không ngạc nhiên khi sự phản đối công trình Tâm trí thân
thể rất dữ dội. Điều gì gây ra những tranh luận ít rõ ràng
hơn. Tôi khẳng định rằng bất cứ sự miêu tả tâm trí con
người nào cũng cần mang tính liên ngành…
a) Bước 1: Thiết lập một bối cảnh
- Khi viết phần mở đầu, người viết hãy hình dung rằng mình
đang viết cho một người đã đọc các nguồn tài liệu giống mình và
có cùng hứng thú với các vấn đề mình quan tâm, nhưng không
thực sự rõ những gì diễn ra cụ thể trong lớp học của người viết.

- Những người khác mắc phải sai lầm trái ngược khi cho rằng họ
phải liệt kê tất cả cả các nguồn mình đọc có liên quan dù ít tới
chủ đề. Hãy chỉ điểm qua những nguồn tài liệu mà người viết
trực tiếp sử dụng, và chỉ những nguồn cần thiết để định vị vấn
đề trong một bối cảnh rộng hơn.
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Sau khi đã thiết lập được một bối cảnh ổn định hay một nền
tảng chung, hãy làm đảo lộn nó bằng một vấn đề. Như đã nói,
một phát biểu nêu ra một vấn đề nghiên cứu có hai phần:
+ Một tình trạng về kiến thức và sự hiểu biết chưa đầy đủ
+ Những hệ quả của tình trạng đó, một khoảng trống
đáng kể hơn trong sự hiểu biết
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Người viết có thể nêu ra trực tiếp tình trạng:
…nhưng Motodyne không có dữ liệu cho thấy biểu tượng
nào là dễ hiểu.
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Hoặc người viết có thể ngụ ý vấn đề trong một câu hỏi gián
tiếp:
Câu hỏi thực sự là tại sao những nhân vật này luôn luôn
cố gắng trở thành những người đàn ông da trắng.
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Người viết khiến cho tình trạng của sự thiếu hiểu biết hay hiểu
biết sai lầm này trở thành một phần của một vấn đề nghiên cứu
hoàn chỉnh chỉ khi tưởng tượng ra một ai đó đặt câu hỏi, Vậy thì
sao? (So what?), và sau đó đưa ra một câu trả lời như hệ quả
của sự hiều biết sai lầm đó. Người viết có thể nêu ra hệ quả như
một phí tổn (cost) trực tiếp:
Thiếu đi những dữ liệu đó, chúng ta không thể xác định
được biểu tượng nào cần được thiết kế lại phí tổn.
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Hoặc người viết có thể biến đổi phí tổn thành một lợi ích
(benefit):
Với dữ liệu này, chúng ta có thể xác định những biểu
tượng nào cần thiết kế lại lợi ích.
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Lựa chọn giữa việc nêu ra phí tổn và nêu ra lợi ích không chỉ là
vấn đề phong cách. Một số nghiên cứu cho thấy người đọc bị
kích thích bởi một phí tổn thực tế hơn là một lợi ích tiềm năng.
Lời khuyên: nêu ra phí tổn hay hệ quả khi trình bày vấn đề; nêu
ra lợi ích khi nhấn mạnh lời giải.
b) Bước 2: Nêu ra vấn đề
- Những người viết thành công biết cách tìm thấy và giải quyết
các vấn đề thú vị, và họ cũng biết cách làm cho người đọc cảm
thấy hứng thú với vấn đề họ giải quyết. Với những sinh viên mới
nghiên cứu, các giáo viên sẽ không quá kì vọng sinh viên sẽ nêu
ra được chi tiết những hệ quả của vấn đề nghiên cứu, vì sinh
viên chưa biết được tại sao các nhà nghiên coi trọng một vấn đề
nào đó. Nhưng sẽ là một bước tiến lớn nếu sinh viên có thể nêu
rõ kiến thức chưa đầy đủ hoặc hiểu biết sai lầm của chính bản
thân mình và thể hiện rằng mình đang nỗ lực để cải thiện điều
đó. Sinh viên có một bước tiến nữa khi chỉ ra được rằng nếu
hiểu rõ hơn về một điều nào đó giúp cho sinh viên hiểu rõ hơn
một điều quan trọng hơn.
c) Bước 3: Nêu ra câu trả lời
- Sau khi đã đảo lộn bối cảnh ổn định của độc giả bằng một vấn
đề, họ sẽ kì vọng người viết giải quyết vấn đề đó theo một trong
hai cách: bằng việc nêu ra câu trả lời hoặc quan điểm chính;
hoặc bằng việc hứa hẹn sẽ làm việc đó tiếp sau. Người đọc sẽ
chờ đợi phát biểu (nêu ra câu trả lời) hoặc hứa hẹn này ở những
câu văn cuối của phần mở đầu.
c) Bước 3: Nêu ra câu trả lời
- Nêu ra điểm cốt yếu của câu trả lời:
Khi chúng ta khảo sát những nguy cơ môi trường, hiểu
biết của chúng ta về các quá trình hóa học trong mưa a-xít và sự
gia tăng của carbon dioxide đã có nhiều tiến bộ, cho phép chúng
ta hiểu rõ hơn về những hệ quả của chúng đối với sinh quyển bối
cảnh ổn định. Nhưng gần đây, các quá trình làm mỏng tầng ozone
tưởng đã được hiểu rõ nhưng hóa ra không phải vậy tình trạng gây bất
ổn. Chúng ta có lẽ đã nhầm khi xác định là hydrofluorocarbon là
nguyên nhân chính hệ quả. Chúng tôi đã tìm ra một liên kết của
carbon điểm cốt yếu của câu trả lời/quan điểm chính
c) Bước 3: Nêu ra câu trả lời
- Hứa hẹn một câu trả lời:
Khi chúng ta khảo sát những nguy cơ môi trường, hiểu
biết của chúng ta … đã có nhiều tiến bộ ... Nhưng gần đây, các
quá trình … tưởng đã được hiểu rõ nhưng hóa ra không phải
[Vậy thì sao?]. Chúng ta có lẽ đã nhầm khi xác định là
hydrofluorocarbon là nguyên nhân chính [Bạn đã tìm thấy gì?].
Trong báo cáo này, chúng tôi miêu tả một liên kết hóa học bất
ngờ giữa... hứa hẹn sẽ đưa ra một quan điểm
=> Mở đầu này đưa người đọc vào bài viết, không phải
với một quan điểm chính mà bằng một hứa hẹn sẽ đưa ra sau
đó.
c) Bước 3: Nêu ra câu trả lời
Nếu dùng cách này, người viết phải đưa ra một phác thảo của
câu trả lời hoặc một kế hoạch triển khai luận điểm (hoặc cả hai).

- Nhìn chung, nên nêu rõ câu trả lời cho vấn đề ngay ở cuối phần
mở đầu. Câu trả lời đó thường tương ứng với nhận định/luận đề
trong luận điểm (có thể kèm theo các lý do).

- Tóm lại, một phần mở đầu nên tuân theo công thức:
Bối cảnh + Vấn đề + Giải đáp
d) Viết những từ đầu tiên
- Nhiều người viết cảm thấy một hoặc hai câu đầu tiên rất khó
viết. Để tránh sự nhàm chán, người viết không nên mở đầu bằng
những cách sau:
+ Đừng lặp lại ngôn ngữ trong bài tập được giao. Nếu
cảm thấy quá khó để bắt đầu thì hãy diễn đạt lại yêu cầu của bài
tập, nhưng khi sửa chữa hãy viết lại nó.
+ Đừng bắt đầu với một định nghĩa trong từ điển: “Từ
điển tiếng Việt định nghĩa đạo đức là…”. Nếu một từ quan trọng
đến mức phải định nghĩa, một định nghĩa từ điển sẽ không đủ
(phải diễn giải nó trọn vẹn hơn).
+ Đừng mở đầu quá to tát: “Những triết gia thâm trầm
nhất trong nhiều thế kỷ đã vật lộn với câu hỏi quan trọng về…”.
Nếu chủ đề viết thực sự to tát, tự nó sẽ thể hiện tầm quan trọng
của nó.
d) Viết những từ đầu tiên
- Ba cách mở đầu trên đều cố gắng thiết lập một bối cảnh hoặc
nền tảng chung với một cộng đồng độc giả. Tuy nhiên, vấn đề
trong cả ba trường hợp là cộng đồng độc giả bị chọn nhầm.
+ Ở ví dụ đầu tiên, cộng đồng độc giả quá hẹp: chỉ là
giảng viên của sinh viên.
+ Ở ví dụ các ví dụ sau, cộng đồng độc giả quá rộng:
người viết muốn tìm kiếm một bối cảnh đồng thuận của cả nhân
loại.

Để tránh những cách sai lầm trên, hãy mở đầu theo cách sẽ gây
hấp dẫn cho một cộng đồng độc giả nhất định mà mình muốn
họ quan tâm.
d) Viết những từ đầu tiên
- Có ba cách mở đầu chuẩn mực cho một hai câu văn đầu để có
thể gây ấn tượng với người đọc.
+ Mở đầu bằng một thực tế ấn tượng về vấn đề
VD:
Những người cho rằng việc giảm thuế cho người giàu sẽ
kích thích nền kinh tế nên suy nghĩ về thực tế rằng 1%
người giàu nhất ở Mỹ đang kiểm soát 1/3 tổng tài sản
toàn bộ quốc gia.
d) Viết những từ đầu tiên
- Ba cách mở đầu chuẩn mực cho một hai câu văn đầu để có thể
gây ấn tượng với người đọc.
+ Mở đầu bằng một trích dẫn ấn tượng: Chỉ dùng cách
này khi những từ ngữ trong trích dẫn báo hiệu trước những khái
niệm chủ chốt trong phần còn lại của mở đầu.
VD:
“Từ vẻ đẹp gợi cảm của một bức tranh thật của Jan van
Eyck tỏa ra một niềm đam mê kì lạ giống với những gì chúng ta
trải nghiệm khi cho phép mình bị thôi miên bởi những viên đá
quý”. Edwin Panofsky cho rằng có điều gì đó kì diệu lạ lùng trong
những tác phẩm của Jan van Eyck. Những hình ảnh ông vẽ toát
ra một niềm đam mê châu ngọc…
d) Viết những từ đầu tiên
- Ba cách mở đầu chuẩn mực cho một hai câu văn đầu để có thể
gây ấn tượng với người đọc.
+ Mở đầu bằng một giai thoại có liên quan: Chỉ dùng cách
này khi giai thoại báo hiệu chủ đề và minh họa rõ ràng cho vấn
đề.
Sau đây là những câu mở đầu trong một bài báo tường
thuật lại sự trỗi dậy và suy tàn của các băng đảng đường phố ở
Chicago:
Trên chiếc ghế bành công viên vào tháng 7 năm 1996,
Cynthia, Laurie, và vài đàn chị khác của Liên Minh Gái Đen – liên
minh các “băng đảng nữ” lớn nhất ở Chicago – suy nghĩ về nỗ
lực của họ nhằm duy trì một tổ chức đại diện và hành động vì
những phụ nữ trẻ Mỹ gốc Phi trong thành phố. “Chúng tôi đã
suýt làm được!” Cynthia nói với một nỗi buồn sâu thẳm, ngồi
thẳng và nhìn quanh xem có ai đang lắng nghe mình hay không.
d) Viết những từ đầu tiên
- Thông thường, một phần mở đầu không cần thiết phải quá cầu
kì hay ấn tượng, điều quan trọng là người viết tuân theo một
quy cách đầy đủ và rõ ràng:
Bối cảnh + Vấn đề + Giải đáp
2.2. Viết phần kết luận
- Phần kết luận tổng hợp lại luận điểm và các ý chính trong bài
viết. Nhưng cũng quan trọng không kém, phần kết luận là cơ hội
để mở rộng các trao đổi của cộng đồng nghiên cứu bằng cách
gợi dẫn ra những câu hỏi mới mà nghiên cứu chỉ ra.
a) Mở đầu bằng quan điểm
chính
- Nêu lên quan điểm chính ở mở đầu của phần kết luận. Nếu đã
nêu quan điểm chính ở phần mở đầu rồi, nêu lại nó ở đây nhưng
đầy đủ hơn; đừng lặp lại từng từ một.
b) Thêm vào một tầm quan trọng
mới hoặc một áp dụng mới
- Sau quan điểm chính, hãy nói rõ tại sao nó quan trọng, tốt nhất
là một câu trả lời mới cho câu hỏi Vậy thì sao? (So what).

Chẳng hạn, người viết kết luận này trình bày thêm một
hệ quả của phán quyết của Tòa Án Tối Cao về án tử hình quân
sự:
b) Thêm vào một tầm quan trọng
mới hoặc một áp dụng mới
Từ quan điểm của phán quyết của Tòa Án Tối Cao bãi bỏ
án tử hình bắt buộc, án tử hình bắt buộc vì tội phản bội rõ ràng
là vi hiến và phải được Quốc Hội thay đổi. Quan trọng hơn, nếu
Bộ Luật Quân Sự được thay đổi, nó sẽ thách thức giá trị căn
cốt của văn hóa quân sự khi sự phản bội tuyệt đối sẽ phải chịu
hình phạt tuyệt đối. Quốc Hội sẽ phải đương đầu với công lý
của quân đội.

- Những nhận định này nằm ở phần kết luận thay vì phần mở
đầu bởi nó gợi ra nhiều câu hỏi: Quân đội sẽ phản ứng thế nào
với sự thách thức những giá trị của họ? Quốc Hội sẽ đáp trả thế
nào?
b) Thêm vào một tầm quan trọng
mới hoặc một áp dụng mới
- Cũng giống như ở phần mở đầu người viết có thể làm tăng sự
ấn tượng của vấn đề bằng cách nêu ra những hệ quả của nó; ở
phần kết luận, người viết cũng có thể làm tăng tầm quan trọng
của giải pháp bằng cách chỉ ra những ý nghĩa mới của nó.
c) Đề xuất những nghiên cứu tiếp
theo
- Cũng giống như bối cảnh mở đầu điểm qua những nghiên cứu
đã thực hiện, phần kết luận có thể đề xuất những nghiên cứu
tiếp theo:
c) Đề xuất những nghiên cứu tiếp
theo
Những điểm khác biệt giữa những người chuẩn đoán mới
vào nghề và chuyên gia nằm ở sự trưởng thành về chuyên môn
và khả năng tiến bộ. Nhưng nếu như chúng ta biết những người
mới vào nghề và chuyên gia suy nghĩ khác nhau, chúng ta chưa
biết được những yếu tố nào trong trải nghiệm xã hội của
những người ít kinh nghiệm đóng góp cho khả năng tiến bộ và
như thế nào. Chúng ta cần thêm những nghiên cứu dài hơi về
việc sự truyền dạy và huấn luyện tác động tới kết quả như thế
nào và liệu rằng sự giảng giải chủ động và phê bình có giúp ích
cho những người chuẩn đoán mới vào nghề trở thành chuyên
gia nhanh hơn không.

- Khi nêu rõ những việc cần tiếp tục phải làm, người viết giúp
cho cuộc đối thoại học thuật được tiếp diễn.
[Quick Tip] Đặt nhan đề cho bài viết
- Cái đầu tiên người đọc đọc – và cái cuối cùng người viết nên
viết – là nhan đề bài viết. Người mới bắt đầu học viết thường chỉ
dùng vài từ ngữ để thông báo chủ đề của bài viết. Đây là một sai
lầm: một nhan đề chỉ hữu ích khi nó giúp cho độc giả hiểu rõ nội
dung cụ thể trong bài viết.
[Quick Tip] Đặt nhan đề cho bài viết
- So sánh ba nhan đề sau:
Tài chính vi mô
Tài chính vi mô và sự phát triển kinh tế
Tài chính vi mô như một chiến lược phát triển kinh tế:
Hiện thực hóa những tiềm năng nhằm tăng cường vị thế
của phụ nữ

- Người viết cần đưa vào trong nhan đề bài viết các khái niệm
chính trong quan điểm chính được triển khai trong toàn bộ bài
viết.
3. Tích hợp các nguồn tham
khảo
- Không gì phân biệt một nhà nghiên cứu có kinh nghiệm với
người mới bắt đầu hơn là khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn
tài liệu. Nhưng ngay cả một người mới bắt đầu nghiên cứu cũng
có thể thể hiện sự tin cậy học thuật bằng cách tuân theo một số
nguyên tắc tôn trọng các nguồn tài liệu.
3.1. Trích nguyên văn, diễn đạt lại, và
tóm lược một cách hợp lý
- Người viết phải xây dựng bài viết bằng những từ ngữ phản ánh
suy nghĩ của chính mình. Nhưng người viết sẽ phải củng cố suy
nghĩ đó bằng những trích dẫn, những đoạn diễn đạt lại, và
những đoạn tóm lược. Mỗi ngành học lại sử dụng chúng theo
những cách khác nhau: trong những ngành nhân văn, trích dẫn
thường được sử dụng nhiều hơn trong các ngành khoa học xã
hội hay tự nhiên, những ngành mà thông thường người viết chỉ
diễn đạt lại và tóm lược. Nhưng người viết phải tự quyết định
từng trường hợp dựa vào cách sử dụng thông tin của mình. Sau
đây là một vài nguyên tắc:
3.1. Trích nguyên văn, diễn đạt lại, và
tóm lược một cách hợp lý
+ Tóm lược (summarize) khi những các chi tiết không liên
quan lắm hay nguồn tham khảo không đủ quan trọng để
chiếm nhiều chỗ trong bài viết.

+ Diễn đạt lại (paraphrase) khi người viết có thể nêu lên
nội dung của nguồn tham khảo một cách rõ ràng và ngắn
gọn hơn hoặc khi luận điểm của người viết dựa trên một
số chi tiết trong một nguồn tham khảo nhưng không phải
từng từ từng chữ cụ thể.
3.1. Trích nguyên văn, diễn đạt lại, và
tóm lược một cách hợp lý
+ Trích nguyên văn (quote) với các mục đích sau:
(+) Các từ ngữ trong nguồn tham khảo là bằng chứng
để củng cố các lý do.
(+) Các từ ngữ từ một nguồn thẩm quyền củng cố cho
nhận định.
(+) Các từ ngữ rất độc đáo hoặc diễn đạt các khái niệm
chính một cách quá hấp dẫn, đến mức là trích dẫn có thể
tạo thêm cả một phần bàn luận.
(+) Một đoạn nêu lên một quan điểm mà người viết
không đồng tình, và để công bằng, người viết muốn trích
lại nguyên văn và chính xác đoạn đó.
3.1. Trích nguyên văn, diễn đạt lại, và
tóm lược một cách hợp lý
- Đối với tất cả các dạng tóm lược, diễn đạt lại, trích nguyên văn
đều phải thêm các nguồn vào phần tài liệu tham khảo theo đúng
cách (sẽ học sau). Đừng bao giờ copy những đoạn viết trên
mạng và chỉ thêm vào một vài câu của mình.
3.2. Thêm các trích dẫn trực tiếp vào
văn bản
- Có chỉ dấu cho các trích dẫn trực tiếp theo một trong hai cách
sau:
+ Với các trích dẫn có độ dài bốn dòng hoặc ít hơn, trích l
iền vào văn bản và đặt trước và sau đoạn trích dấu ngoặc
kép (“”).
+ Các trích dẫn dài năm dòng trở lên, hãy đặt chúng
thành một khối riêng.
3.2. Thêm các trích dẫn trực tiếp vào
văn bản
- Ba cách để thêm trích dẫn vào văn bản:
+ Thêm vào trích dẫn một vài từ ngữ xác định (Tác giả
cho rằng, Theo Tác giả, Như Tác giả đã trình bày…).
VD:
Diamond cho rằng, “Lịch sử của vùng Trung Cận Đông và
Trung Quốc… cho chúng ta những bài học quý giá cho thế
giới hiện đại: các hoàn cảnh sẽ thay đổi, và sự ưu trội
trong quá khứ không đảm bảo cho sự ưu trội tương lai”
(417).
3.2. Thêm các trích dẫn trực tiếp vào
văn bản
- Ba cách để thêm trích dẫn vào văn bản:
+ Mở đầu trích dẫn bằng một câu văn diễn giải hoặc định
tính đoạn trích:
VD:
Diamond đề xuất rằng chúng ta có thể học hỏi từ quá
khứ: “Lịch sử của vùng Trung Cận Đông và Trung Quốc…
cho chúng ta những bài học quý giá cho thế giới hiện
đại…” (417)
3.2. Thêm các trích dẫn trực tiếp vào
văn bản
- Ba cách để thêm trích dẫn vào văn bản:
+ Đan cài trích dẫn vào câu văn của mình:
VD:
Diamond đề xuất rằng “những bài học cho thế giới hiện
đại” quan trọng nhất trong lịch sử của vùng Trung Cận
Đông và Trung Quốc là “các hoàn cảnh sẽ thay đổi, và sự
ưu trội trong quá khứ không đảm bảo cho sự ưu trội
tương lai” (417)
3.2. Thêm các trích dẫn trực tiếp vào
văn bản
- Chúng ta có thể điều chỉnh các trích dẫn miễn sao không làm
thay đổi ý nghĩa của nó. Những đoạn tỉnh lược cần phải được chỉ
rõ bằng dấu ba chấm (…) và những điều chỉnh được chỉ rõ bằng
dấu ngoặc vuông [].
3.2. Thêm các trích dẫn trực tiếp vào
văn bản
+ Đoạn sau đây là trích nguyên văn:
Posner chú tâm vào tôn giáo không phải vì tính tâm linh
của nó và vì các chức năng xã hội: “Một đặc điểm nổi bật của xã
hội Mỹ là tính đa nguyên tôn giáo, và chúng ta nên xem xét điều
này liên hệ như thế nào với tính hiệu quả của chính quyền qua
những quy ước xã hội với quan điểm rằng tầm quan trọng lịch
sử của tôn giáo như một nguồn gốc và sự thắt chặt những quy
ước này” (299).
3.2. Thêm các trích dẫn trực
tiếp vào văn bản
+ Đoạn sau đây điều chỉnh các trích dẫn để phù hợp với câu văn
của người viết:
Trong khi thảo luận về đa nguyên tôn giáo, Posner cho
rằng “Một đặc điểm nổi bật của xã hội Mỹ là tính đa nguyên tôn
giáo [của chúng ta]” và ghi nhận cách thức các quy ước xã hội
tác động tới “tính hiệu quả của chính quyền… với quan điểm
rằng tầm quan trọng lịch sử của tôn giáo như một nguồn gốc và
sự thắt chặt những quy ước này” (299)
3.3. Cho độc giả thấy các bằng
chứng có liên quan thế nào
- Bằng chứng không tự nó nói lên điều gì cả, đặc biệt là trích dẫn
dài hay các tập hợp số liệu phức tạp. Người viết phải trình bày
bằng chứng đó nói lên điều gì bằng cách giới thuyết về nó qua
một câu văn nói rõ điều người viết muốn người đọc thu nhận
được. Chẳng hạn đoạn sau đặt một nhận định về Hamlet trên
bằng chứng là một trích dẫn:
3.3. Cho độc giả thấy các bằng
chứng có liên quan thế nào
Khi Hamlet đến gần cha dượng của mình, lúc Claudius
đang cầu nguyện, anh ta thể hiện một toan tính lạnh lùng nhận
định:
Giờ nếu ta muốn làm việc đó [giết hắn], khi hắn đang cầu
nguyện
Và nếu giờ ta làm việc đó. Vậy hắn sẽ được lên thiên
đường
Và ta sẽ trả được thù… [Hamlet dừng lại để suy nghĩ]
[Nhưng kẻ] gian ác này đã giết chết cha ta, và vì vậy,
Ta, người con trai độc nhất của người, cũng làm vậy và
đưa tên gian ác này
Tới thiên đường
Như vậy sao, vậy thì quá tốt cho hắn, không phải là báo
thù bằng chứng
3.3. Cho độc giả thấy các bằng
chứng có liên quan thế nào
Ở đây không rõ rằng trích dẫn đã củng cố cho nhận định
thế nào, không có gì liên hệ trực tiếp đến toan tính của Hamlet
cả. Ngược lại, hãy so sánh với đoạn sau:
Khi Hamlet đến gần cha dượng của mình, lúc Claudius
đang cầu nguyện, anh ta thể hiện một toan tính lạnh lùng nhận
định. Chàng ngay lập tức muốn giết Claudius nhưng đã dừng lại
để suy nghĩ: nếu giết Claudis lúc hắn đang cầu nguyện, linh hồn
của hắn sẽ được lên thiên đường, nhưng chàng muốn Claudius
bị nguyền rủa dưới địa ngục, vậy nên chàng đã lạnh lùng quyết
định sẽ giết hắn sau lý do:
Giờ nếu ta muốn làm việc đó [giết hắn],… bằng chứng
3.3. Cho độc giả thấy các bằng
chứng có liên quan thế nào
=> Giờ thì ta đã thấy được sự liên hệ. Thiếu đi lý do để giải thích
bằng chứng, người đọc có thể sẽ không hiểu ý nghĩa của bằng
chứng. Bởi vậy, hãy giới thuyết về một bằng chứng phức tạp
bằng một câu văn giải thích nó.
3.4. Tầm quan trọng mang tính xã
hội của việc trích dẫn các nguồn
- Trích dẫn nguồn là một trong những quy ước quan trọng nhất
của bất kì cộng đồng học thuật nào.
3.4.1. Trích dẫn nguồn có lợi
cho người viết
- Việc trích dẫn nguồn giúp người viết không bị kết tội đạo văn,
đồng thời cũng làm tăng uy tín của người viết. Đầu tiên, người
đọc không tin các nguồn mà họ không tìm thấy được. Nếu người
đọc không tìm thấy các nguồn tham khảo vì người viết không ghi
chú lại đầy đủ, họ sẽ không tin các bằng chứng; và nếu họ không
tin các bằng chứng, họ sẽ không tin bài viết hoặc người viết. Thứ
hai, những người nghiên cứu có kinh nghiệm sẽ cho rằng nếu
người viết không thể làm những thứ nhỏ chuẩn xác, thì cũng
không tin được những thứ lớn. Việc ghi chú lại chính xác các chi
tiết về dẫn nguồn cho thấy người viết không cẩu thả. Cuối cùng,
các giảng viên thường đưa ra các bài tập viết để giúp sinh viên
có thể tích hợp nghiên cứu của những người khác với tư duy của
bản thân mình. Dẫn nguồn đúng cách cho thấy sinh viên đã nắm
được một phần quan trọng của quá trình đó.
3.4.2. Trích dẫn nguồn giúp ích
cho người đọc
- Người đọc sử dụng các trích dẫn nguồn trước, trong, và sau khi
đọc bài viết. Trước khi đọc, những người đọc có kinh nghiệm sẽ
duyệt qua bài viết bằng cách đọc lướt danh sách các nguồn
tham khảo để xem người viết đã đọc những ai và không đọc
những ai. Trong khi đọc, người đọc sẽ dùng các trích dẫn nguồn
để xác định tính tin cậy, tính cập nhật, và tính đầy đủ của bằng
chứng. Các bài viết với các trích dẫn nguồn quá cũ hay mới được
tìm thấy trên Internet có thể khiến người đọc nghi ngờ. Nhưng
các bài viết thể hiện khả năng tiếp cận các nguồn trích một cách
sâu rộng sẽ làm người đọc tin tưởng hơn. Cuối cùng, cũng như
việc người viết dựa vào các nguồn trích để lần theo các danh
mục tham khảo, người đọc cũng dựa trên danh mục tham khảo
của người viết để bắt đầu tìm các nguồn.
3.4.3. Trích dẫn nguồn tôn vinh
nguồn tham khảo
- Cuối cùng, việc trích dẫn nguồn tôn vinh nguồn tham khảo. Rất
ít học giả có thể trở nên giàu có nhờ nghiên cứu một chủ đề nào
đó. Phần thưởng của họ không phải tiền bạc mà là danh tiếng
họ có được nhờ công trình của mình và niềm vui khi các đồng
nghiệp đủ trân trọng thành quả đó để trích dẫn nó, ngay cả khi
không đồng tình. Những người mà bạn tham khảo có thể không
bao giờ biết bạn đã trích dẫn họ, nhưng điều đó không quan
trọng. Khi trích dẫn nguồn, bạn tôn vinh những người được trích
dẫn bằng việc thừa nhận một món nợ tri thức.

=> Tóm lại, khi trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác, người viết
duy trì và làm giàu có thêm cho một cộng đồng nghiên cứu mà ở
đó các công trình viết có được giá trị học thuật và xã hội.
3.5. Các cách trích dẫn nguồn thông
dụng
- Tình trạng bất nhất trong quy cách trích dẫn nguồn tham khảo
ở Việt Nam. Nhiều khi trong một tạp chí, một xuất bản phẩm
cũng không thống nhất trong quy cách trích dẫn. Một thực tế
cho thấy sự thiếu chuyên nghiệp trong nghiên cứu và xuất bản
khoa học.. Bài học này giới thiệu cho sinh viên một cách trích
dẫn nguồn thông dụng. Trong thực tế, tùy theo yêu cầu của môn
học hay của từng tạp chí, nhà xuất bản, có thể sẽ có những cách
trích dẫn được quy định khác.
3.5. Các cách trích dẫn nguồn thông
dụng
- Trích dẫn một tài liệu tham khảo là sách:
Tên tác giả (năm in), Tên sách (lần tái bản nếu có), Tên
NXB, Nơi in

VD:
Lê Quân (2016), Lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam (tái
bản lần thứ hai), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
3.5. Các cách trích dẫn nguồn thông
dụng
- Trích dẫn một tài liệu tham khảo là sách dịch:
Tên tác giả (Tên người dịch) (năm in), Tên sách, Tên NXB,
Nơi in
VD:
Malcolm Gladwell (Diệu Ngọc Huyền Trang dịch) (2016),
Chú chó nhìn thấy gì?, NXB Thế giới, Hà Nội
3.5. Các cách trích dẫn nguồn thông
dụng
- Trích dẫn một tài liệu tham khảo là bài báo khoa học:
Tên tác giả (năm xuất bản), “Tên bài báo”, Tên tạp chí, Tập
tạp chí, Số tạp chí, Trang đầu-Trang cuối (phần xuất hiện
bài báo)

VD:
Nguyễn Thu Giang (2015), “Truyền hình bình dân ở Việt
Nam: Giữa dân chủ và thị trường hóa”, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3,
tr.23-36
3.5. Các cách trích dẫn nguồn thông
dụng
- Lập danh mục tài liệu tham khảo ở phần “Tài liệu tham khảo”
cuối bài viết. Đánh số các tài liệu tham khảo theo thứ tự xuất
hiện.
+ Nếu trích nguyên văn thì theo mẫu sau: [số tài liệu, số
trang]
+ Nếu diễn đạt lại hay tóm lược thì theo mẫu sau: [số tài
liệu]
3.6. Tránh việc vô ý đạo văn
- Trong khi soạn thảo một văn bản, người viết có nguy cơ mắc
phải một sai lầm tệ hại nhất: người viết làm cho người đọc nghĩ
rằng người viết đang biến công trình của người khác thành của
mình. Nếu làm như vậy, người viết có nguy cơ bị kết án đạo văn,
một bản án sẽ hủy hoại danh tiếng một người viết chuyên
nghiệp, hoặc khiến cho sinh viên bị điểm kém hoặc bị dừng học.
Đa số các sinh viên biết họ đang gian lận khi lấy các văn bản trên
mạng hoặc lấy một phần viết của người khác biến thành của
mình. Với những trường hợp này, lời khuyên đơn giản là: đừng
bao giờ làm như vậy.
3.6. Tránh việc vô ý đạo văn
- Nhưng nhiều người viết còn non nớt (ít kinh nghiệm) không
nhận ra họ đang có nguy cơ đạo văn vì họ bất cẩn hoặc không
được dậy dỗ tử tế. Người viết có nguy cơ đạo văn khi:
+ Người viết trích dẫn, diễn đạt lại, tóm lược từ một
nguồn mà không trích dẫn nó
+ Người viết sử dụng các ý tưởng và phương pháp từ một
nguồn nhưng không trích dẫn nó
+ Người viết sử dụng lại y nguyên các từ ngữ trong một
nguồn và đã trích dẫn nó, nhưng lại không để những từ ngữ đó
vào trong dấu trích dẫn (ngoặc kép) hoặc trong một khối trích
dẫn
+ Người viết diễn đạt lại một nguồn và trích dẫn nó,
nhưng dùng những từ ngữ quá giống với nguồn, lặp lại theo
nguồn từng từ từng chữ
3.6.1. Trích dẫn nguồn đoạn trích nguyên
văn, diễn đạt lại, hay tóm lược
- Người viết cần phải trích dẫn nguồn bất cứ khi nào sử dụng từ
ngữ trong đó, kể cả khi diễn đạt hay tóm lược lại nó. Nếu các
đoạn trích nguyên văn, diễn đạt lại, hay tóm lược xuất phát từ
những trang khác nhau trong các nguồn, cần trích dẫn riêng
từng cái một. Nếu một đoạn diễn đạt lại hoặc tóm lược trải dài
nhiều đoạn văn, chỉ trích dẫn nó một lần ở cuối.
3.6.1. Trích dẫn nguồn đoạn trích nguyên
văn, diễn đạt lại, hay tóm lược
- Một vấn đề phổ biến là không phải sinh viên không biết trích
dẫn một nguồn, mà là sinh viên không phân biệt rõ được đâu là
những từ ngữ của mình và đâu là những từ ngữ đi mượn. Luôn
luôn thêm vào trích dẫn nguồn ngay khi dùng một đoạn trích
nguyên văn vì có thể sẽ quên mất. Cẩn trọng với những đoạn
diễn đạt lại hay tóm lược vì có thể quên chúng xuất phát từ
nguồn nào.
3.6.2. Có chỉ dấu cho mọi đoạn trích nguyên
văn, ngay cả khi đã trích dẫn nguồn
- Ngay cả khi đã trích dẫn nguồn, người đọc vẫn muốn biết
những từ ngữ nào không phải của người viết, ngay cả khi đó chỉ
là một dòng ngắn. Mọi chuyện sẽ phức tạp hơn nếu người viết
sao chép ít hơn một dòng. Hãy đọc đoạn sau:
“Vì công nghệ sản sinh ra nhiều công nghệ hơn, tầm
quan trọng của việc phổ biến một phát minh còn quan trọng
hơn tầm quan trọng của phát minh ban đầu. Lịch sử công nghệ
cho thấy nhiều ví dụ của cái gọi là quá trình xúc tiến tự động: đó
là, quá trình làm tăng tốc ngày càng mau chóng, bởi vì quá trình
tự nó xúc tiến bản thân nó” (Diamond 1998, 301)
3.6.2. Có chỉ dấu cho mọi đoạn trích nguyên
văn, ngay cả khi đã trích dẫn nguồn
- Nếu viết về các ý tưởng của Jared Diamond, người viết sẽ phải
dùng một vài từ ngữ của ông, chẳng hạn “tầm quan trọng của
một phát minh”. Nhưng người viết sẽ không cho cụm từ đó vào
trong dấu ngoặc kép vì nó không phải là một ý tưởng hay cách
diễn đạt độc đáo.
Ngược lại, hai cụm từ của ông , thực sự rất ấn tượng và
cần dấu ngoặc kép: công nghệ sản sinh ra nhiều công nghệ hơn
và quá trình tự xúc tiến. Chẳng hạn:
Sức mạnh của công nghệ vượt ra ngoài các phát minh
đơn lẻ vì “công nghệ sản sinh ra nhiều công nghệ hơn”. Đó là,
như Diamond đã chỉ ra, một “quá trình tự xúc tiến” (301).
Sau khi đã trích dẫn rồi, người viết có thể sử dụng lại các
từ ngữ này mà không cần dùng dấu ngoặc kép hay trích dẫn
nguồn nữa.
3.6.2. Có chỉ dấu cho mọi đoạn trích nguyên
văn, ngay cả khi đã trích dẫn nguồn
- Ở đây có một điểm mập mờ: những từ ngữ có thể gây ấn
tượng với người này những không phải với người khác. Nếu
dùng dấu ngoặc kép cho quá nhiều từ ngữ bình thường, người
đọc sẽ cảm thấy người viết “ngây thơ”, nhưng nếu không dùng
trong những lúc cần, người đọc lại có thể nghi ngại người viết
đạo văn. Vì vậy, thà bị xem như ngây thơ còn hơn là bị xem như
thiếu trung thực, đặc biệt khi mới bắt đầu nghiên cứu, hãy dùng
những dấu ngoặc kép thoải mái. Cũng cần lưu ý đến những
thông lệ của từng ngành học.
3.6.3. Đừng diễn đạt lại quá sát
- Diễn đạt lại phù hợp trong trường hợp người viết sử dụng từ
ngữ của mình để diễn tả các ý tưởng một cách rõ ràng và mạch
lạc hơn nguồn tham khảo.
Chẳng hạn, đây là một đoạn trong cuốn Những kẻ xuất
chúng: Câu chuyện về thành công của Malcolm Gladwell:
“Thành tựu là tài năng cộng thêm sự chuẩn bị. Vấn đề với
quan điểm này là khi các nhà tâm lý học càng khảo sát kĩ sự
nghiệp của những người tài năng, thì tài năng thiên bẩm có vẻ
như càng đóng vai trò nhỏ còn sự chuẩn bị lại có vẻ càng đóng
vai trò lớn” (38).
3.6.3. Đừng diễn đạt lại quá sát
- Đoạn diễn đạt lại quá sát sau đây có thể bị xem như đạo văn:
Thành công có vẻ như phụ thuộc vào sự tổng hợp của tài
năng và sự chuẩn bị. Tuy nhiên, khi các nhà tâm lý học khảo sát
kĩ những người tài năng và sự nghiệp của họ, họ phát hiện ra
rằng tài năng thiên bẩm đóng vai trò nhỏ hơn nhiều so với sự
chuẩn bị (Gladwell 38).
3.6.3. Đừng diễn đạt lại quá sát
- Đoạn diễn đạt lại sau thì không phải đạo văn:
Như Gladwell đã nhận ra, tổng hợp những nghiên cứu về
những trường hợp thành công đặc biệt, chúng ta thường đánh
giá quá cao vai trò của tài năng và thường đánh giá thấp vai trò
của sự chuẩn bị (38).
Đoạn diễn đạt lại này không quá gần với nguyên gốc. Và
người viết cũng không cho những từ như tài năng hay sự chuẩn
bị vào ngoặc kép vì những từ này đủ thông dụng để dùng như
của chính mình.
3.6.3. Đừng diễn đạt lại quá sát
- Để tránh bị xem như đạo văn, đọc một đoạn văn, thử không
nhìn mà nghĩ về nó; sau đó không nhìn lại và diễn đạt lại đoạn
đó bằng từ ngữ của mình. Kiểm tra xem khi đọc các câu văn có
thể tìm được những từ đồng nghĩa diễn tả các ý tưởng trùng lặp
theo một trật tự giống với nguồn hay không. Nếu có, hãy thử
diễn đạt lại.
3.6.4. Hãy trích dẫn một nguồn tham khảo
đối với các ý tưởng không phải của mình
- Đa số các ý tưởng của chúng ta đều dựa trên các nguồn ở đâu
đó trong quá khứ. Nhưng người đọc sẽ không cần người viết
phải trích dẫn một ý tưởng về trái đất hình tròn. Người đọc cần
người viết trích dẫn nguồn khi (1) ý tưởng đó gắn liền với một
người cụ thể và (2) ý tưởng đó đủ mới để không phải một phần
tri thức phổ thông của một lĩnh vực. Chẳng hạn, các nhà tâm lý
học cho rằng chúng ta suy nghĩ và xúc cảm ở những phần khác
nhau trong não bộ. Nhưng người đọc sẽ không yêu cầu người
viết trích dẫn lại ý tưởng đó, vì nó quá quen thuộc đến mức
không ai cho rằng người viết đang ngấm ngầm xem ý tưởng là
của mình. Ngược lại, một số nhà tâm lý học cho rằng các cảm
xúc rất quan trọng đối với việc đưa ra các quyết định lý tính. Ý
tưởng này rất mới và gắn liền với một số nhà nghiên cứu cụ thể,
vì vậy người viết cần phải trích dẫn nó.
3.6.5. Đừng kêu mình không biết, hiểu
nhầm, hay có ý định trong sáng

- Một số sinh viên tin thật lòng rằng họ không cần trích dẫn các
tài liệu tải về từ mạng vì chúng miễn phí và công khai. Họ hoàn
toàn nhầm. Một số sinh viên khác biện minh khi cho rằng họ
không cố tình làm sai. Nhưng chúng ta sẽ chỉ đọc câu chữ, chứ
không đọc ý định trong đầu. Hãy nghĩ như thế này: nếu người
mà bạn mượn (các ý tưởng, câu chữ) đọc bài viết của bạn,
người đó có nhận ra các từ ngữ hay ý tưởng của họ không, bao
gồm cả những đoạn diễn đạt lại, những đoạn tóm lược, và cả
những ý tưởng chung và phương pháp? Nó có, bạn phải trích
dẫn nguồn và cho tất cả các từ ngữ nguyên văn của họ vào trong
dấu ngoặc kép hoặc trong một khối trích dẫn riêng. Không có
ngoại lệ, không có lý do.
(*) Tại sao phải quá lo lắng vì những
lầm lỗi về tính trung thực?
- Nhiều sinh viên thắc mắc tại sao các giảng viên không khoan
nhượng vì những lỗi thiếu trung thực. Có gì nguy hại?

- Thứ nhất, những lỗi này làm tổn hại tới uy tín của bạn. Việc
không xác nhận một nguồn tham khảo sẽ khiến người đọc nghi
ngờ tính trung thực của bạn, một bản án đồng nghĩa với việc
chấm dứt sự nghiệp đối với một học viên cao cấp. Nhưng nó
quan trọng ngay đối với những người mới bắt đầu. Giảng viên sẽ
dạy bạn cách viết cho không chỉ họ mà cả những người khác,
những người sẽ đánh giá bạn chỉ qua những gì bạn viết. Giảng
viên cần phải thấy được rằng bạn không những sử dụng các
nguồn tham khảo một cách chú tâm, mà phải xác nhận đã sử
dụng chúng một cách cẩn thận và đầy đủ.
(*) Tại sao phải quá lo lắng vì những
lầm lỗi về tính trung thực?
- Các sinh viên khác nghĩ rằng đạo văn là một bản án không có
nạn nhân. Hoàn toàn không phải. Những học giả đi trước bị đạo
văn hoặc không được trích dẫn cẩn trọng và đầy đủ là những
người bị hại. Ngoài ra, sự liêm chính và uy tín của cả cộng đồng
khoa học cũng bị tổn hại.
4. Trình bày các bằng chứng
bằng đồ hình
- Đa số người đọc sẽ dễ dàng tiếp nhận các bằng chứng định
lượng dưới dạng bảng biểu (tables), biểu đồ (charts), và đồ thị
(graphs) hơn là dạng ngôn từ. Nhưng mỗi kiểu dữ liệu và thông
điệp lại phù hợp với một dạng đồ hình nhất định. Phần học này
giúp người viết lựa chọn được dạng đồ hình hiệu quả nhất để
thể hiện những bằng chứng củng cố cho luận điểm và giúp
người đọc tiếp nhận được dữ liệu.
4.1. Lựa chọn trình bày bằng chứng
bằng đồ hình hay bằng ngôn từ
- Khi dữ liệu ít và đơn giản, người đọc có thể dễ dàng tiếp nhận
như nhau với một câu văn hay một bảng biểu:
4.1. Lựa chọn trình bày bằng chứng
bằng đồ hình hay bằng ngôn từ
Năm 2013, nam giới có thu nhập trung bình là 50.033$ một năm
còn phụ nữ là 39.157$, chênh lệch nhau 10.876$.
4.1. Lựa chọn trình bày bằng chứng
bằng đồ hình hay bằng ngôn từ
- Nhưng nếu người viết đưa ra nhiều số liệu hơn, người đọc sẽ
thấy khó khăn trong việc tiếp nhận chúng.
Từ năm 1970 đến năm 2010, cấu trúc của gia đình thay
đổi theo hai hướng. Trong năm 1970, 85% các hộ gia đình có đủ
hai bố mẹ, nhưng năm 1980, con số đó giảm xuống 77%, xuống
73% vào năm 1990, xuống 68% vào năm 2000, và xuống 64%
vào năm 2010. Số lượng các gia đình đơn thân gia tăng, đặc biệt
là các gia đình với mẹ đơn thân. Năm 1980, con số này tăng lên
18%, năm 1990 lên 22%, và lên 23% vào năm 2000. Số lượng các
gia đình có bố đơn thân ít thay đổi (1% vào năm 1970, 2% vào
năm 1980, 3% vào năm 1990, và 4% vào năm 2000). Các gia đình
không có cả bố và mẹ giữ nguyên ở mức 3-4%.
4.2. Lựa chọn đồ hình hiệu quả nhất
để trình bày
- Khi thể hiện dữ liệu phức tạp bằng đồ hình, các lựa chọn thông
dụng nhất là sử dụng bảng biểu (tables), biểu đồ cột (bar
charts), và đồ thị đường (line graphs), mỗi dạng có một hiệu quả
riêng.
4.2. Lựa chọn đồ hình hiệu quả nhất
để trình bày
4.2. Lựa chọn đồ hình hiệu quả nhất
để trình bày
- Một bảng biểu thường có vẻ chính xác và khách quan. Nó nhấn
mạnh những con số cụ thể và để cho người đọc tự suy luận về
những mối quan hệ và xu hướng (trừ khi người viết giới thuyết
bằng các câu từ cụ thể).

- Các biểu đồ (cột) và đồ thị (đường) trình bày một hình ảnh thể
hiện các giá trị không chính xác như những con số cụ thể ở bảng
biểu nhưng lại có nhiều tác động tới người đọc hơn. Biểu đồ và
đồ thị cũng khác nhau.
4.2. Lựa chọn đồ hình hiệu quả nhất
để trình bày
- Biểu đồ cột nhấn mạnh tới những khác biệt của các số liệu.
4.2. Lựa chọn đồ hình hiệu quả nhất
để trình bày
- Đồ thị đường thể hiện sự thay đổi liên tục theo thời gian:
4.2. Lựa chọn đồ hình hiệu quả nhất
để trình bày
- Lựa chọn dạng thức đồ hình phù hợp nhất để đạt được hiệu
quả mà người viết muốn, không phải cái nghĩ đến đầu tiên.

- Người viết càng nhiều kinh nghiệm thì càng có nhiều lựa chọn.
Nếu mới bắt đầu nghiên cứu định lượng, nên giới hạn các lựa
chọn trong những bảng biểu, biểu đồ, đồ thị đơn giản. Nếu đã
quen thuộc với các nghiên cứu nâng cao, có thể sử dụng các
dạng thức biểu hiện bằng đồ hình quen thuộc trong ngành của
mình. Để thể hiện những mối quan hệ phức tạp và tập dữ liệu
lớn, người viết có thể sử dụng các đồ hình sáng tạo hơn.

- Ở đây, chúng ta sẽ học những kiến thức cơ bản về bảng biểu,


biểu đồ, và đồ thị.
4.3. Thiết kế bảng biểu, biểu đồ,
đồ thị
- Các chương trình máy tính hiện nay có thể tạo lập các đồ hình
biểu hiện rất tốt khiến cho người viết nhiều người viết để cho
máy tính thiết kế luôn cho mình. Đây là một sai lầm. Người viết
không quan tâm đồ hình đẹp đẽ thế nào mà quan trọng là nó có
thể hiện quan điểm của người viết rõ ràng hay không. Có một số
nguyên tắc để thiết kế một đồ hình biểu hiện hiệu quả. Và để
làm theo các nguyên tắc này, người viết có thể sẽ phải thay đổi
những mặc định trong phần mềm tạo đồ hình.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
- Một đồ hình thể hiện một số liệu phức tạp thường tự nó không
nói lên điều gì. Người viết phải thiết định cho nó để giúp người
đọc biết trong đó có gì và hiểu được nó liên quan thế nào tới
luận điểm. Các bước để thiết định cho một đồ hình:
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
(1) Đặt tên cho mỗi đồ hình để mô tả dữ liệu trong đó. Các tiêu
đề cần ngắn gọn nhưng đầy đủ để có thể phân biệt đồ hình này
với đồ hình khác.
+ Tránh đặt tiêu đề là một chủ đề chung chung
Không phải: Người đứng đầu mỗi hộ gia đình
Mà là: Những thay đổi trong các hộ gia đình một hoặc hai
bố mẹ đứng đầu, 1970-2010
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
(1) Đặt tên cho mỗi đồ hình để mô tả dữ liệu trong đó. Các tiêu
đề cần ngắn gọn nhưng đầy đủ để có thể phân biệt đồ hình này
với đồ hình khác.
+ Đừng cho vào các thông tin bối cảnh hoặc xác định
những gì dữ liệu hàm ẩn
Không phải: Hiệu quả yếu ớt của việc tư vấn cho trẻ em
bị trầm cảm trước khi ngành tư vấn được chuyên nghiệp
hóa, 1995-2004
Mà là: Hiểu của việc tư vấn cho trẻ em bị trầm cảm,
1995-2004
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
(1) Đặt tên cho mỗi đồ hình để mô tả dữ liệu trong đó. Các tiêu
đề cần ngắn gọn nhưng đầy đủ để có thể phân biệt đồ hình này
với đồ hình khác.
+ Chắc chắn rằng việc đặt tên phân biệt được các đồ hình
diễn tả cùng một dạng dữ liệu
Không phải: Các yếu tố nguy cơ của bệnh cao huyết áp
Mà là: Các yếu tố nguy cơ của bệnh cao huyết áp đối với
nam giới ở Cairo, Illinois
Hoặc là: Các yếu tố nguy cơ của bệnh cao huyết áp đối
với nam giới ở St. Louis, Missouri
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
(1) Đặt tên cho mỗi đồ hình để mô tả dữ liệu trong đó. Các tiêu
đề cần ngắn gọn nhưng đầy đủ để có thể phân biệt đồ hình này
với đồ hình khác.
+ Chắc chắn rằng việc đặt tên phân biệt được các đồ hình
diễn tả cùng một dạng dữ liệu
Không phải: Các yếu tố nguy cơ của bệnh cao huyết áp
Mà là: Các yếu tố nguy cơ của bệnh cao huyết áp đối với
nam giới ở Cairo, Illinois
Hoặc là: Các yếu tố nguy cơ của bệnh cao huyết áp đối
với nam giới ở St. Louis, Missouri
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
(2) Thêm vào các đồ hình các thông tin giúp cho người đọc thấy
được cách thức dữ liệu củng cố luận điểm. Chẳng hạn, nếu số
liệu trong một bảng biểu cho thấy một xu hướng và mức độ của
xu hướng đó, hãy nói rõ sự thay đổi đó ở cột cuối của bảng biểu.
Nếu một đường trong một đồ thị thay đổi do tác động của một
yếu tố không được thể hiện trong đồ thị đó, hãy thêm một đoạn
chữ vào đồ hình để giải thích nó.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
VD:
Mặc dù điểm đọc hiểu và toán giảm gần 100 điểm sau khi phân
chia khu vực học, xu hướng này đảo ngược khi các chương trình
học bổ sung về toán và đọc hiểu được triển khai.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
(3) Giới thuyết về đồ hình bằng một câu văn giải thích cách diễn
giải nó. Sau đó nhấn mạnh điểm trong đồ hình mà người viết
muốn người đọc tập trung vào, cụ thể là bất kì số liệu hay mối
quan hệ nào được đề cập đến trong câu văn giới thuyết trên.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
Chẳng hạn, chúng ta phải xem bảng biểu 15.3 để hiểu nó củng
cố cho nhận định sau như thế nào: Đa số các dự đoán về sự gia
tăng tiêu thụ xăng đều sai.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
- Chúng ta cần một câu văn để làm rõ số liệu củng cố hay giải
thích cho nhận định, một tiêu đề nhiều thông tin hơn, và một đồ
hình nhấn mạnh vào những gì cần được chú ý trong bảng biểu:

Tiêu thụ xăng đã không tăng như dự đoán. Mặc dù người Mỹ đã


di chuyển nhiều hơn 23% (tính theo miles) trong năm 2000 so
với năm 1970, nhưng họ sử dụng ít hơn 32% số nguyên liệu.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
Tiêu thụ xăng đã không tăng như dự đoán. Mặc dù người Mỹ đã
di chuyển nhiều hơn 23% (tính theo miles) trong năm 2000 so
với năm 1970, nhưng họ sử dụng ít hơn 32% số nguyên liệu.
4.3.1. Thiết định cho mỗi đồ hình để giúp
người đọc hiểu được
Câu văn được thêm vào đã giúp chúng ta hiểu được cách diễn
giải các số liệu chính yếu ở Bảng biểu 15.4, và đoạn nhấn mạnh
(bôi đen) cho chúng ta biết tìm chúng ở đâu.
4.3.2. Các đồ hình cần phải đơn giản
tương ứng với nội dung
- Đừng cho quá nhiều thông tin vào một đồ hình. Người đọc chỉ
muốn thấy các dữ liệu liên quan tới luận điểm, không muốn bị
sao nhãng. Đối với mọi đồ hình:
(1) Chỉ cho vào đồ hình các dữ liệu có liên quan. Nếu chỉ
để ghi nhận lại dữ liệu, đặt tên cho đồ hình và đưa nó
vào phần phụ lục (appendix)
(2) Hãy làm cho hiệu ứng của đồ hình thật đơn giản
+ Kẻ bảng chỉ khi gộp hai đồ hình lại làm một
+ Đừng tô màu hoặc bôi đen phần nền
4.3.2. Các đồ hình cần phải đơn giản
tương ứng với nội dung
- Đối với mọi đồ hình:
(3) Sử dụng các tiêu đề rõ ràng
+ Đặt tên cho các dòng và cột trong bảng biểu, và
các trục trong biểu đồ và đồ thị
+ Dùng các dấu hiệu để thể hiện các khoảng cách
(đơn vị) ở trục tung của đồ hình
+ Khi có một con số cụ thể quan trọng, hãy thêm nó vào
các cột hoặc đoạn với biểu đồ, hoặc các chấm trên các
đường với đồ thị
4.4. Hướng dẫn chi tiết cho bảng biểu,
biểu đồ cột, và đồ thị đường
4.4.1. Với bảng biểu
- Bảng biểu với quá nhiều dữ liệu có thể quá dày đặc, hãy sắp
xếp sao cho người đọc dễ dàng tiếp nhận.
+ Sắp xếp các dòng và cột theo một nguyên tắc giúp
người đọc nhanh chóng tìm được thông tin cần thiết.
Đừng tự động lựa chọn thứ tự theo bảng chữ cái.
+ Làm tròn các số liệu một cách phù hợp. Nếu sự khác
biệt đến dưới hàng nghìn không quan trọng thì con số
sau đây: 2.123.499 là quá chính xác, không cần thiết.
+ Các tổng số cần đặt ở đáy của cột hoặc cuối của dòng,
không phải ở trên cùng hay bên trái.
4.4.1. Với bảng biểu
- So sánh hai Bảng biểu 15.5. và 15.6.
4.4.1. Với bảng biểu
- So sánh hai Bảng biểu 15.5. và 15.6.
4.4.1. Với bảng biểu
Bảng biểu 15.5. trông có vẻ rối rắm và không được sắp xếp
thuận tiện. Trái lại, bảng biểu 15.6. rõ ràng hơn bởi vì nó có một
tiêu đề đủ thông tin, ít hình ảnh rối, và các thành phần được sắp
xếp để việc tiếp nhận dễ dàng hơn.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Các biểu đồ cột có thể gây ấn tượng thị giác giống như các con
số cụ thể. Nhưng các cột nếu không có trật tự sẽ chẳng nói lên
điều gì. Nếu có thể, hãy nhóm hoặc sắp xếp các cột để tạo ra
một hình ảnh tương ứng với thông điệp muốn truyền tải. Chẳng
hạn, hãy xem Hình 15.4., với văn cảnh là câu văn giải thích ở
trước nó. Các thành phần được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ
cái, một thứ tự không giúp ích gì cho người đọc cho việc nhận ra
luận điểm.
4.4.2. Với biểu đồ cột
Phần lớn các sa mạc của thế giới được phân bố tập trung ở Bắc
Phi và Trung Đông.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Ngược lại, Hình 15.5. củng cố cho nhận định bằng một hình
ảnh tương ứng.
Phần lớn các sa mạc của thế giới được phân bố tập trung ở Bắc
Phi và Trung Đông.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Ở các biểu đồ cột chuẩn, mỗi cột biểu thị 100% của một tổng
thể. Nhưng đôi lúc người đọc cần thấy được con số cụ thể cho
từng bộ phận của tông thể. Người viết có thể làm theo một
trong hai cách sau:
+ Chia mỗi cột thành các phần nhỏ, tạo ra một cột “xếp
chồng”
+ Cho mỗi bộ phận của tổng thể thành một cột riêng, và
gộp các cột cùng một tổng thể thành một nhóm
+ Sắp xếp các phần nhỏ theo thứ tự logic. Nếu có thể hãy
cho phần lớn nhất ở dưới cùng với màu đậm nhất.
+ Đặt tên các phần nhỏ với các con số cụ thể để tiện so
sánh; kết nối các phần có liên quan bằng các đoạn mờ.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Hãy so sánh Hình 15.6. và Hình 15.7.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Hãy so sánh Hình 15.6. và Hình 15.7.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Hãy so sánh Hình 15.6. và Hình 15.7.
4.4.2. Với biểu đồ cột
- Đa số các dự liệu phù hợp với biểu đồ cột đề có thể biểu hiện
qua biểu đồ tròn (pie chart). Các biểu đồ tròn thường phổ biến
trong các tạp chí, báo phổ thông, và các báo cáo thường niên.
Biểu đồ tròn khó đọc hơn so với biểu đồ cột. Người đọc nếu
muốn so sánh các thành phần thì dùng biểu đồ tròn rất khó để
nhận biết. Nhưng biểu đồ tròn vẫn đắc dụng nếu muốn tạo ra ấn
tượng về sự so sánh giữa các thành phần, hoặc thể hiện rằng
một thành phần lớn hơn hẳn so với những phần còn lại, hoặc khi
dữ liệu được chia thành quá nhiều phần nhỏ. Nên tránh dùng
biểu đồ tròn khi biểu hiện một dữ liệu định tính, hãy dùng các
biểu đồ cột.
4.4.3. Đồ thị đường
- Vì một đồ thị đường nhấn mạnh các xu hướng (trends), người đọc
phải được nhìn thấy một hình ảnh rõ ràng để có thể diễn giải đúng.
Hãy làm như sau:
+ Chọn một thông số được thể hiện bằng một đường theo
một hướng, lên hoặc xuống, để củng cố cho luận điểm. Nếu muốn
tạo hiệu ứng tích cực, hãy thể hiện bằng các đường có xu hướng đi
lên. Nếu muốn tạo hiệu ứng tiêu cực, hãy thể hiện bằng các đường
có xu hướng đi xuống.
+ Nên hạn chế dùng nhiều hơn 6 đường trong một đồ thị,
trừ khi không còn cách nào khác.
+ Nếu có ít hơn 10 điểm dữ liệu, hãy biểu thị chúng bằng các
dấu chấm đậm. Nếu chỉ có một số ít điểm liên quan (đến luận
điểm), hãy thêm vào con số chính xác.
+ Đừng chỉ dựa vào các sắc thái khác nhau để phân biệt các
đường.
4.4.3. Đồ thị đường
- Hãy so sánh Hình 15.8. và 15.9.
4.4.3. Đồ thị đường
- Hãy so sánh Hình 15.8. và 15.9.
4.4.3. Đồ thị đường
- Hình 15.8. khó đọc hơn vì các sắc thái không phân biệt rõ các
đường trên nền, và người đọc phải đảo mắt quá nhiều để kết nối
các đường với tên gọi. Hình 15.9. thể hiện các mối liên hệ đó rõ nét
hơn.

- Những cách khác nhau để thể hiện cùng một dữ liệu có thể làm rối
người viết. Để không bị rối, hãy thử các cách khác nhau để thể hiện
cùng một dữ liệu đó. Nhờ người khác đọc thử xem họ thấy đồ hình
nào ấn tượng và rõ ràng hơn. Nhớ giới thuyết các đồ hình bằng một
câu văn nêu rõ nhận định mà đồ hình củng cố
4.5. Trình bày dữ liệu một cách
trung thực
- Đồ hình không chỉ cần rõ ràng và chính xác, mà còn cần trung
thực. Đừng bóp méo hình ảnh của dữ liệu để vừa vặn với luận
điểm của mình.

- Chẳng hạn, hai biểu đồ dưới đây thể hiện cùng một dữ liệu
giống nhau, nhưng lại hàm ý hai thông điệp khác nhau:
4.5. Trình bày dữ liệu một cách
trung thực
4.5. Trình bày dữ liệu một cách
trung thực
- Tỉ lệ 0-100 trong hình bên trái tạo ra một đường trồi sụt gần
như phẳng, khiến cho việc giảm ô nhiễm có vẻ không đáng kể.
Trục thẳng đứng của hình bên phải không bắt đầu từ 0 mà từ 80.
Khi tỉ lệ được thu nhỏ lại, đường trồi sụt được thể hiện rõ ràng
hơn và làm nổi bật hơn những khác biệt nhỏ.
4.5. Trình bày dữ liệu một cách
trung thực
- Các đồ hình còn có thể bị bóp méo qua việc thể hiện một mối
liên hệ giả.

- Một người có thể cho rằng số thất nghiệp giảm xuống khi số
thành viên của liên hiệp giảm (như ở Hình 15.11.) là một bằng
chứng. Quả thực, trong đồ hình này, số thành viên của liên hiệp
có vẻ như tương ứng sát sao với nhau khiến cho người đọc có
thể suy ra một mối quan hệ nhân quả:
4.5. Trình bày dữ liệu một
cách trung thực
4.5. Trình bày dữ liệu một cách
trung thực
- Nhưng tỉ lệ trục bên trái (số lượng thành viên liên hiệp) khác
với tỉ lệ trục bên phải (số thất nghiệp) khiến cho hai xu hướng có
vẻ có liên hệ nhân quả với nhau. Chúng có thể có liên hệ thật,
nhưng hình ảnh bị bóp méo này không chứng minh điều đó.

- Các đồ hình cũng có thể bị bóp méo khiến cho người đọc đánh
giá nhầm các giá trị. Hai đồ thị trong hình 15.12. thể hiện cùng
một dữ liệu nhưng có vẻ như truyền tải hai thông điệp khác
nhau:
4.5. Trình bày dữ liệu một
cách trung thực
4.5. Trình bày dữ liệu một
cách trung thực
- Cả hai đồ thị trong hình 15.12. đều cùng một dạng đồ thị diện
(area chart). Mặc dù khác nhau về mặt hình ảnh, cả hai cùng thể
hiện một bộ dữ liệu. Các đồ thị diện này thể hiện các thay đổi về
giá trị không phải ở góc nghiêng của các đường, mà bằng các
diện tích giữa chúng. Trong cả hai đồ thị, các dải Nam, Đông, và
Tây gần tương đương nhau, thể hiện không có nhiều thay đổi về
giá trị. Còn dải Bắc được mở rộng đáng kể thể hiện một sự gia
tăng lớn. Trong đồ thị bên trái, người đọc có thể dễ dàng đánh
giá nhầm về ba dải phía trên, vì chúng được đặt bên trên dải
tăng lên của Bắc, làm cho những dải này có vẻ cũng tăng lên.
Trong đồ thị bên phải, ngược lại, ba dải này không tăng lên vì
chúng được đặt ở đưới. Ở đây, chỉ có dải Bắc tăng lên.
4.5. Trình bày dữ liệu một cách
trung thực
- Dưới đây là bốn hướng dẫn để tránh việc thể hiện nhầm một
đồ hình:
+ Đừng điều chỉnh tỉ lệ để tăng hoặc giảm sự khác biệt.
+ Đừng dùng những hình ảnh với các giá trị bị bóp méo.
+ Đừng tạo những hình ảnh phức tạp không cần thiết
hoặc đơn giản gây nhầm lẫn.
+ Nếu đồ hình củng cố một luận điểm, hãy nói rõ ra nó
củng cố như thế nào.

You might also like