You are on page 1of 11

Bếp lửa mẫu 2

Quê hương trong tâm tưởng của mỗi con người bao giờ cũng giản dị, bình
yên, nên thơ, nhất là khi quê hương thân thuộc được đặt trong miền ký ức
tuổi nhỏ cùng với những người bà. Xuân Quỳnh đã từng nghe tiếng gà
trên đường hành quân để rồi nhớ da diết đến người bà. Nguyễn Duy kể về
tuổi thơ nghịch ngợm của mình trong những ngày ngây dại để rồi cùng
lớn lên. Đến với Bằng Việt, nhà thơ đã dành một tình cảm nồng ấm, âm ỉ
cho bà như chính sự ấm nồng của bếp lửa mà người bà đã nhóm lên suốt
khoảng thời gian thơ ấu. Bài thơ Bếp Lửa chính là nỗi lòng của đứa cháu
xa nhà vẫn luôn đau đáu nhớ đến kỷ niệm cùng bà, luôn trân trọng miền
ký ức tươi đẹp đã qua để từ đó bộc lộ được tình cảm sâu nặng với quê
hương, đất nước.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

….

Sáng mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Bài thơ Bếp lửa được viết năm 1963 khi nhà thơ còn là sinh viên học
ngành luật.Tác phẩm in trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu
tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng lối thơ tự do, chan chứa cảm
xúc, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà
và là điểm tựa khơi nguồn cho các tầng ý nghĩa của bài thơ.Mặc dù cùng
là nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ nhưng thơ
của Bằng Việt không cay nòng thuốc súng, cũng không ầm ầm tiếng mưa
bom, thơ Bằng Việt mang “âm hưởng thính phòng”, phảng phất tâm hồn
của một cậu học trò tài hoa, theo nghiệp bút nghiên và để tâm hồn mình
lộng gió thời đại mới. Vì thế mà dù bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cuộc
chiến cam go, đôi lần nhắc về chiến tranh nhưng Bằng Việt lại hướng
người đọc đến những dung dị của đời thường thông qua hình ảnh bếp lửa
và người bà thân thương.

Bếp lửa là hình ảnh quen thuộc của mỗi nhà, gắn liền với những bữa cơm
gia đình đầm ấm, gợi một buổi sinh hoạt văn nghệ giữa đêm khuya, ghi
dấu chén trà thơm mỗi sớm tinh mơ toả ra từ hiên trước. Không chỉ dừng
lại ở vai trò đun nấu, sưởi ấm hoặc soi sáng, bếp lửa, ngọn lửa còn mang
nhiều ý nghĩa văn chương mà mỗi tác giả lại chọn cho mình một khía
cạnh để bộc lộ cảm xúc. Với Bằng Việt, bếp lửa chính là một phần ký ức
tuổi thơ gắn với hình ảnh người bà mỗi ngày nhóm lửa nấu nồi khoai, nồi
cháo. Bếp lửa còn là sự quan tâm, thương yêu, chăm sóc của bà dành cho
cháu và niềm mong mỏi, hi vọng của cháu vào cuộc đời này. Bếp lửa thôi
thúc cháu lên đường lập nghiệp và cũng là động lực để cháu nghĩ về cội
nguồn, nhớ về quê hương, thêm yêu đất nước.

Bếp lửa xuất hiện xuyên suốt trong bài thơ và trở thành hình ảnh trung
tâm, biểu tượng cho tình bà cháu, ngay những câu thơ đầu tiên hình ảnh
ấy đã song hành với phép điệp ngữ để nhấn mạnh được vai trò chủ đạo
của bếp lửa trong bài thơ.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

“Một bếp lửa” mà nhà thơ đang nhắc đến được xác định rõ ấy là bếp lửa
của bà, bếp lửa đã từng gắn với hình bóng bà kính yêu. Bếp lửa ấy xuất
hiện trong tiềm thức của cháu và trở đi trở lại bằng những cung bậc tình
cảm đong đầy. Từ láy “chờn vờn”vừa diễn tả được trạng thái của khói
bếp lúc nào cũng vô hình, chập chờn, như không như có nhưng quanh
quẩn không rời. Cũng chỉ “chờn vờn” mới có thể diễn tả được nỗi nhớ
của cháu về bà và bếp lửa. Với người cháu, những ký ức bếp lửa tỏa khói
lam hồng cùng với bà lưng còng trong sương sớm đâu chỉ là mảng kỉ
niệm khó quên mà còn là một phần của tiềm thức, âm thầm mà dai dẳng
ghi vào lòng cháu khoảng thời gian tuổi nhỏ cùng bà. Ký ức ấy vốn khó
nắm bắt như làn khói tỏa, như bóng bà in trên vách lá nhưng chưa một
phút nào cháu quên lãng đôi bàn tay “ấp iu, nồng đượm” của bà.

Chỉ bằng một từ ghép mang âm hưởng của từ láy “ấm iu”, nhà thơ đã gợi
cho chúng ta về đôi bàn tay gầy guộc của bà bên bếp lửa. Bà ấp ủ từng
ngọn lửa, chăm chút từng cây củi để nhóm bếp mỗi ngày. Sự “nồng
đượm” không chỉ là ngọn lửa cháy bừng, tỏa sáng mà còn là tình yêu
thương của bà dành cho cháu lúc nào cũng ấm áp, đong đầy. Đoạn thơ
không quá nhiều hình ảnh nhưng lại ấn tượng khi nhà thơ sử dụng phép
sóng đôi “chờn vờn sương sớm” và “ấp iu nồng đượm” vừa tạo sự hoà
phối âm thanh khiến cho câu thơ nhịp nhàng, bay bổng tựa khói mơ hồ
nhưng cũng bền chặt theo thời gian. Nghĩ về bếp lửa, cháu lại nhớ đến bà,
Và mỗi lúc bóng dáng thân thuộc xuất hiện trong lòng cháu, cháu không
thể nào giấu đi cảm xúc dâng trào của mình để rồi cháu thốt lên “cháu
thương bà biết mấy nắng mưa”. “Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc
đời vất vả của bà, cho những tháng ngày ngược xuôi, cơ cực. Quãng thời
gian ấy cứ như dài vô hạn.
Cháu theo làn khói, lần tìm lại những tháng ngày mưa nắng mà cháu đã
cùng bà, theo dòng hồi tưởng cháu trở về năm bốn tuổi khi mà ký ức của
cháu bắt đầu ghi tạc nỗi lam lũ của đời bà.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.

Một đứa trẻ lên bốn hầu như không thể nhớ được những gì diễn ra trong
đời mình trừ khi đó là mảng ký ức đặc biệt ấn tượng, có sức bám riết và
lay động. Với cháu, bếp lửa và mùi khói đâu chỉ mới xuất hiện năm cháu
lên bốn mà đó còn là nỗi ám ảnh day dứt suốt những năm tháng tuổi thơ.
Cháu quên làm sao được khi mùi khói bếp trở thành điều thân quen như
cánh cò trong lời ru của mẹ, như vạt nắng đậu giữa đồng xa, nó thấm vào
máu xương, vào trí nhớ non nớt của cháu. Cái năm ấy, năm mà “có lẽ đến
năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng
mình”. Bằng Việt sử dụng cách chiết tự kết hợp với điệp từ “đói” để diễn
tả được sự khủng khiếp của nạn đói năm 1945. “Đói mòn đói mỏi”, cái
đói dai dẳng không phải lần đầu tiên người nông dân phải gánh chịu, Mấy
thế kỷ sống trong sưu cao, thuế nặng, dẫu có quanh năm vất vả làm lụng
thì nghèo đói vẫn bám riết quanh năm. Tuy nhiên khoảng thời gian ấy đến
cả lúa còn không được trồng do chính sách khắc nghiệt, bạo tàn của kẻ
thống trị đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Vẫn còn nhớ trong
Tuyên Ngôn Độc Lập, Bác Hồ đã từng nhắc đến tội ác này “từ Quảng Trị
đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào bị chết đói”. Cái chết đói trở thành nỗi
ám ảnh trong văn chương một thời, Kim Lân đã từng thổn thức khi viết
về những con người chạy nạn dắt díu, bồng bế nhau đi tứ xứ mà vẫn
“chết như ngả rạ”. Bằng Việt tái hiện lại thời kỳ đau thương ấy bằng hình
ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Cái đói không chừa một ai, len lỏi
từ nông thôn đến thành thị. Cả con ngựa ăn cỏ, rơm cũng đói dài mà khô
rạc đừng nói chi là con người.

Nhà thơ không dùng nhiều hình ảnh hay cách diễn tả dài dòng, chỉ cần
qua vài chi tiết nhỏ cũng đủ gợi cảnh tang thương, làng mạc bỏ hoang,
thôn xóm tiêu điều, con người phải vật lộn với cuộc mưu sinh trong chật
vật. “Khói hun nhèm” như minh chứng cho tuổi thơ vất vả, thiếu thốn
trăm bề, chỉ một bếp củi mùn, khói bay mù mịt, bay vào cả tâm hồn,
quyện lại thành nỗi nhớ dai dẳng, khôn nguôi. Nghĩ đến làm sao mà
không khỏi dòng cảm xúc “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Phải
chăng khói bếp đã xộc vào mắt cháu, mũi cháu để cháu thấy sống mũi cay
xè hay chính vì cháu xúc động mỗi lần nhớ đến. Thương cho bà tảo tần,
thương bố cơ cực, thương cho những kiếp đời lay lắt chịu chung phận số
hẩm hiu. Chỉ một câu thơ mà có cả sự hiện diện của quá khứ và hiện tại
để thấy rằng với cháu quá khứ không chỉ để lãng quên mà là để giữ gìn,
nó cũng là một phần của hiện tại, một phần của cuộc sống.

Khói bếp dẫn cháu miên man về lại khoảng thời gian nhóm lửa cùng bà,
như một quyển sách đầy hình ảnh từng trang lật ngược, cứ lần lượt hiện
ra trước mắt.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

Tuổi thơ của mỗi con người đâu được mấy năm, vậy mà cháu ở cùng bà
“tám năm ròng”, thời gian ấy đủ dài đối với một đứa trẻ và cũng vừa đủ
để gọi là cả tuổi thơ. Tám năm cháu cùng bà mỗi sáng sớm dậy nhóm lửa,
chờ đợi những bếp than hồng để nướng củ khoai, củ sắn. Cũng khoảng
thời gian ấy, cháu xem mùi khói là mùi vị thân thương. Nhưng ký ức của
cháu đâu chỉ riêng mùi khói mà còn có cả âm thanh của tiếng chim tu hú.
Hình ảnh tiếng chim tu hú, tu hú kêu gợi ra một miền liên tưởng sâu xa.
Âm thanh quen thuộc của loài chim này đâu chỉ lần đầu xuất hiện trong
văn học. Tu hú đã từng gọi mùa hè trên xứ Huế để Tố Hữu nghe nao nức
hương vị của cuộc sống quê mình

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần”

Tu hú đi vào văn chương như một hình ảnh báo hiệu vụ mùa đang về.
Đâu chỉ thế, tiếng kêu của loài chim đơn độc này cứ khắc khoải, cứ ám
ảnh về một nỗi niềm chưa trọn vẹn, một sự trông đợi dường như vô vọng.
Bằng Việt nghe tiếng chim nhớ đến câu chuyện bà từng kể, nhớ đến
những cánh đồng rộng mênh mông mà chỉ mỗi bà đội mưa, đội nắng bắt
từng cái tôm, con tép về cho cháu bữa cơm no.

“Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan


Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.

(Đò Lèn – Nguyễn Duy)

Có lẽ thế mà tiếng tu hú với cháu là âm thanh tha thiết như chan chứa một
nỗi niềm. Cả khổ thơ điệp ngữ “tu hú” xuất hiện bốn lần khiến cho âm
điệu thêm da diết, dồn dập giống như tiếng tu hú hoang hoải trên đồng và
cũng như nỗi nhớ trùng điệp nối tiếp nhau. Đọc khổ thơ, ta như nghe
văng vẳng cả thanh âm quấn quýt, bịn rịn, đan cài vào nhau để chẳng thể
nào tan ra mà đọng lại thành tình thương thăm thẳm, nỗi mong chờ vời
vợi. Có thể nói cùng với hình tượng bếp lửa, tiếng chim tu hú trong bài
thơ cũng là nhịp cầu tiềm thức nối liền giữa hiện tại và quá khứ vẫn sẽ
tiếp tục ở tương lai. Tiếng gọi đồng vọng như xa như gần, nới rộng khung
trời ký ức và nhân nỗi nhớ thương càng rộng mở. Như một con sông chở
đầy nỗi nhớ, dù trôi xuôi hay ngược dòng cũng thấm ướt tình bà cháu.

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

Những năm tháng chiến tranh ập đến trên quê hương, vì trách nhiệm với
đất nước mà biết bao thế hệ đã đã lên đường nhập ngũ “khi tổ quốc cần
họ biết sống xa nhau”. Cháu xa cha mẹ, chỉ thui thủi cùng bà. Bếp lửa
cũng từ đấy mà trở thành người bạn tâm tình, nhân chứng sống còn cho
mối quan hệ khăng khít của bà và cháu. Mỗi một phép liệt kê “bà bảo, bà
dạy, bà chăm” như khắc sâu hơn hình ảnh bà trong tâm trí cháu. Cả tuổi
thơ cháu chỉ biết mỗi bà, gắn bó với bà như hình bóng cũng bởi vì bà
dành hết sự quan tâm, yêu thương cho cháu. Bà thương cháu bằng tình
cảm trìu mến của người bà, lo lắng, chỉ bảo cháu cả phần người cha, bảo
bọc, chăm sóc cháu luôn phần mẹ. Tuổi cháu còn quá nhỏ, cần được dạy
bảo từng chút một, bà đảm đương cả vai trò của một người thầy cần mẫn.
Bà là điểm tựa, là niềm tin, là cội nguồn của tình thương vô tận. Nhớ bà,
cháu nhớ những lời dạy bảo, đó là bài học đầu tiên trong gói hành trang
để cháu bước vào cuộc sống. Đoạn thơ giàu cảm xúc với hai từ “bà”,
“cháu” cứ đi thành từng cặp, quấn quýt không rời như bước chân của đứa
trẻ năm nào theo sau bà ra chợ, lên chùa, vào bếp. Dù ở đâu, cháu vẫn chỉ
có bà, bà là tất cả thế giới tuổi thơ, bà như thánh thần tiên phật bước ra từ
cổ tích.
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực

Giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần”

(Đò lèn – Nguyễn Duy)

Nghĩ đến bà, cháu vừa yêu kính vừa biết ơn “thương bà khó nhọc” vì hơn
ai hết, cháu hiểu được những nỗi khó nhọc không sao kể xiết khi bà phải
một mình lo liệu hết mọi thứ trong nhà, chu toàn trong ngoài lại còn hai
vai gầy gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng đứa cháu nên người. Thêm một
lần nữa, tiếng chim tu hú trở về trên cánh đồng xa như chính lời tự nhắc
của cháu.

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Hoà trong thanh âm tha thiết của tu hú, cháu nghe đâu đây như tiếng lòng
mình vượt chặng đường dài để trở về bên bà trong tâm tưởng. Dù chỉ là
tâm tưởng thôi cũng khiến cháu phần nào xoa dịu được nỗi day dứt bao
ngày xa bà. Câu cảm thán ” tu hú ơi!” kết hợp với câu hỏi tu từ “kêu chi
hoài trên những cánh đồng xa?” như từng đợt sóng cuộn trào vọng về từ
nơi xa thẳm của ký ức. Ở nơi đấy, có bà đang một mình nhóm bếp. Bà
sớm hôm vào trông ra ngóng cháu. Cháu không thể trở về thăm bà lúc
này, cháu có khác gì con chim tu hú vô tâm kia, không thể làm gì khác
được ngoài cất tiếng kêu xót dạ. Nhà thơ hỏi tu hú hay là hỏi chính mình,
trách tu hú cũng như trách bản thân đã không thể ở lại cùng bà san sẻ, đỡ
đần bà mỗi lúc nắng mưa. Tu hú thì mãi trên cánh đồng xa, còn cháu
cũng ở nơi xa xôi đất khách.

Cũng giọng kể mộc mạc, ngôn ngữ giản dị nhưng chính lời tâm tình, thủ
thỉ của đứa cháu xa quê đã dần vẽ thêm những nét bút để bức chân dung
về người bà giàu đức hi sinh hiện lên.

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,


Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Không nhằm khắc họa chiến tranh nhưng đoạn thơ lại giàu sức gợi tả đã
tái hiện lại hiện thực của những năm tháng đau thương mà oanh liệt. Sự
tàn phá của chiến tranh đã viết nên bao nhiêu câu chuyện. Mãi sau này
chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh cái làng Chợ Dầu cháy rụi,
nỗi đau của người dân buộc phải xa quê. Cũng không thể xóa đi hình ảnh
chiếc lược ngà trong tay người cha trước lúc hi sinh. Kể sao cho xiết bao
nhiêu mất mát, vợ mất chồng, con sớm lìa cha, xóm làng đói nghèo, nhân
dân lao đao theo từng tiếng súng. Bất chấp mọi sự rào cản, dây thép gai
đâm nát trời chiều, thực dân, đế quốc có dùng xiềng xích cũng không
khoá được lòng yêu nhà thương nước của nhân dân, không gian giữ được
lòng người hướng đến tự do. Để tách dân ra khỏi quân, để tỏ rõ sức mạnh
quân sự, chúng bắn phá, đốt làng, bắt người. Tuy vậy, nhân dân vẫn kiên
cường đứng lên, vẫn cùng nhau vượt qua tháng ngày gian khổ ấy. Câu thơ
với sự lặp lại của động từ “cháy” xen vào từ ghép “tàn lụi”đã nhấn mạnh
nỗi mất mát của nhân dân và tội ác của chiến tranh. Cũng từ đó nhà thơ
muốn ca ngợi những con người đầy nghị lực, sức sống, bước ra từ trong
khói lửa.

“Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

Từ láy “lầm lụi”gợi tả dáng dấp những kiếp đời lam lũ. Họ bước ra từ
trong khói lửa của chiến tranh, từ trong những đau thương, mất mát.
Từng nét mặt, từng ánh mắt hằn lên dòng lịch sử một giai đoạn bi thương
mà chẳng ai có thể nhẹ nhàng khi nhắc đến.Trong gian khổ, tinh thần
tương thân tương ái lên ngôi. Chính sức mạnh đoàn kết xuất phát từ
những con người khao khát sống mãnh liệt đã thúc đẩy cuộc chiến tranh
vệ quốc đến ngày thắng lợi. Những kiếp người ấy, những nỗi đau ấy gọi
tên bà. Bà trong ký ức của cháu không chỉ là một người bà tảo tần mà còn
là một người phụ nữ kiên cường, đầy bản lĩnh. Dù cho một thân một mình
gồng gánh, tuổi thì già, cháu còn thơ dại nhưng đứng trước biến cố bà vẫn
bình tâm để mà dặn cháu “cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Từ láy “đinh
ninh” đã bộc lộ được nỗi lòng của người bà người mẹ hậu phương. Bà
sẵn lòng ở lại, gom hết vất vả, cơ cực của đời thường để con cháu có thể
yên tâm mà lo trọng trách đối với đất nước. Bà hiểu rằng đứa cháu ngây
dại của mình rồi sẽ kể lể, tỉ tê những chuyện ở nhà. Bà không muốn cháu
kể cho bố mẹ nghe cũng vì không muốn để những chuyện phiền toái nhỏ
nhặt làm ảnh hưởng đến tâm lý của người ra trận. So với đắng cay đời bà
thì chuyện nhà cháy rụi hay dắt dìu đứa cháu đi tránh bom đạn chỉ là
những chuyện bình thường. Thế nên không có gì để mà than thở với cháu
con. Lòng bà vẫn vững vàng, son sắt với quê hương, thuỷ chung với cách
mạng như tre bao đời bám chặt rễ mình giữ đất. Giặc đốt nhà thì di tản,
đến khi giặc đi rồi sẽ lại trở về. Căn nhà tuy có quan trọng với con người
nhưng tinh thần vẫn là điều cần phải giữ. Đặc biệt là tinh thần yêu nước,
lòng tin vào tiền tuyến đang ngày đêm đấu tranh chống kẻ thù.

Đọc những dòng thơ, ta như nhìn thấy gương mặt những bà mẹ anh hùng.
Bà mẹ của cán bộ, chiến sĩ và của đất nước Việt Nam. Những người phụ
nữ lùi lại phía sau, ôm hết đau khổ, đắng cay, thiệt thòi về bản thân để
làm hậu phương vững chắc. Chân dung người bà chu đáo, lo toan của nhà
thơ lần duy nhất xuất hiện trực tiếp thông qua lời nói. “mày có viết thư
chứ kể này kể nọ”. Cách xưng hô, cách dùng từ ngữ đều đời thường đúng
như lời ăn tiếng nói hằng ngày. Không cần trau chuốt, tỉa gọt, không cầu
kỳ, bóng bẩy, Bằng Việt làm ta nhớ đến những người bà của riêng ta, bà
hay mắng yêu cháu, thậm chí là gọi cháu bằng “mày” nhưng đó là cách
gọi của tình thâm, của tấm lòng bà giản dị, bao dung.

Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ nâng lên thành ngọn lửa, ngọn lửa của lòng
bà âm ỉ qua năm tháng.

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Bếp lửa của bà sống mãi cùng năm tháng, bên cháu vượt qua những
chặng đường dài ở mọi miền đất nước. “Rồi sớm rồi chiều”thời gian đâu
dừng lại một ngày mà là cả một đời âm thầm của bà nhóm bếp. Lửa trong
lòng bà truyền cho cháu, lửa trong tâm tưởng cháu cháy rực một nỗi nhớ
về bà. Không chỉ là bếp lửa mỗi ngày bà nhóm lên khói cay xè mắt cháu.
Đâu chỉ là bếp lửa sưởi ấm đôi tay bé nhỏ của cháu trong những mùa gió
lạnh mà bếp lửa kia hoá thân thành ngọn lửa sưởi ấm cả tâm hồn ngây dại
của cháu. Nhà thơ gọi đó là ngọn lửa “chứa niềm tin dai dẳng”, ngọn lửa
của tình bà nồng ấm, tình cảm gia đình thiêng liêng. Với nhà thơ, đó còn
là ngọn lửa của niềm tin yêu, hy vọng. Phép điệp “một ngọn lửa” như sức
lan tỏa của tình yêu qua từng thế hệ. Tình cảm gia đình đâu chỉ ẩn mình
nơi chái bếp, trong ô cửa mà còn âm ỉ cháy trong tim mỗi con người để từ
tình yêu bà, cháu yêu cả xóm làng thân thuộc, yêu từng bờ tre, gốc chuối
và lớn hơn nữa cháu yêu mảnh đất quê hương mình. Ngọn lửa trong tim
bà là cội nguồn của mọi sự yêu thương, đức hi sinh không bao giờ tắt. Từ
láy “dai dẳng”chính là sức sống thần kỳ của tình bà cháu. Không chỉ hôm
qua, không phải khi cháu còn bé dại, hôm nay và mãi sau này ngọn lửa bà
nhen luôn là điều tuyệt vời nhất mà cháu mang theo từ tấm bé đến lúc
trưởng thành. Ngọn lửa trong tay bà nhóm như một hạt mầm gieo vào
miền đất cháu một tình cảm lớn để từ ngọn lửa cháu có thêm vô vàn
những bài học quý về cuộc sống. Thế nên cháu đâu thể nào dùng lời để
diễn tả hết lòng mình. Dấu chấm lửng như muốn nói rằng có những điều
thiêng liêng vượt qua giới hạn của ngôn từ. Bà trong lòng cháu cũng thế,
ngoài là nhịp cầu kết nối thế hệ, bà còn là người giữ lửa, truyền lửa cho
con cháu mai sau.

Với lòng yêu thương, kính trọng, nhà thơ mở ra những suy ngẫm về cuộc
đời bà.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

Chỉ bằng một từ láy “lận đận” kết hợp với phép ẩn dụ “nắng mưa” nhà
thơ đã có cái nhìn xuyên suốt về quãng đời nhiều lo toan, vất vả của bà.
Không lận đận làm sao được khi bao năm thay con nuôi cháu, một mình
đồng sâu ruộng cạn lại còn bảo vệ cháu trước mưa bom. Cuộc đời bà trải
qua bao nắng mưa, nhiều thăng trầm nhưng chẳng bao giờ lùi bước. Bà
như gốc cổ thụ vững vàng trong giông bão, càng già càng rắn rỏi, bám rễ
sâu chắt nước cho đời. “Mấy chục năm rồi” mà vẫn như hôm nào bà vẫn
không thể tách rời bếp lửa, vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm để nhóm
bếp hồng. Tuy bên ngoài lời thơ là lời kể về cuộc đời bình dị của bà
nhưng thật ra bên trong vẫn chan chứa nỗi xúc động của cháu và đặc biệt
là chất nghị luận thấm đẫm từng câu chữ. Thói quen dậy sớm của bà dù
những tháng ngày vất vả đã qua, dù cháu không còn bé, nó đã trở thành
tính cách, nếp sống của bà. Cuộc đời có đổi thay nhưng sự tảo tần, đức hi
sinh trong bà vẫn vẹn nguyên. Bà vẫn tiếp tục “nhóm” bếp lửa, tiếp tục
dùng đôi tay cần mẫn để chăm chút yêu thương. Điệp ngữ “nhóm” vang
lên như từng sợi dây đàn rung cảm trong lòng cháu, nhắc nhở cháu đừng
quên những tháng ngày thiếu thốn cùng nồi xôi, củ sắn. Chính thời gian
khó nhọc ấy mới tạo nên chiếc rễ khoẻ mạnh, bám chặt, ăn sâu vào đời
sống. Trên hết, câu thơ ấm áp tình làng nghĩa xóm, tình cảm giữa con
người với nhau không phải được đo bằng vật chất mà quý nhau ở tấm
chân tình. Sống phải biết san sẻ, gắn bó, cho đi để thấy lòng thanh thản.
Một bếp lửa, một ngọn lửa bình dị thế kia nhưng lại là nguồn cảm hứng
bất tận của nhà thơ. Hơn mười lần hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa xuất hiện
cũng là từng ấy lần nhà thơ bồi hồi nhớ về bà để rồi phải bật lên thành
câu cảm thán.

“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa”

Với cháu, bếp lửa đâu chỉ có lửa và khói mà còn có hình ảnh thân yêu của
bà, còn có bao nhiêu điều hay lẽ phải. Thế nên sức mạnh kỳ diệu mà cháu
nói là sức mạnh nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ để khi nơi đất khách cháu
vẫn trân trọng giá trị bình dị của quê nhà yêu quý những điều rất riêng
của tuổi thơ. Câu thơ đặc biệt hơn bởi dấu gạch ngang đứng trước hai từ
Bếp lửanhư một dấu lặng nghệ thuật, phía sau ấy là những điều khó mà
giải bày bằng ngôn ngữ như thanh âm không cần lời vẫn khiến lòng xao
xuyến. Càng đến cuối bài thơ, chúng ta càng cảm nhận được hết vẻ đẹp
“thiêng liêng” của bếp lửa.

Sự kết hợp giữa chất trữ tình và suy ngẫm đã làm nền để cuối bài thơ
Bằng Việt khép lại hình tượng bếp lửa bằng những chiêm nghiệm về bà
khi cháu đã trưởng thành.

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :

– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Hôm nay cháu không còn là đứa trẻ lên bốn mắt mũi lấm lem khói bếp,
bà cũng không còn phải lặn lội đồng xa nhưng ngọn lửa, bếp lửa kết nối
giữa bà và cháu không bao giờ nguội lạnh. Ở nơi đất khách, có “khói
trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” cũng không sao thay thế được
bếp lửa nồng hậu bà nhen. Phép liệt kê này như mở ra trước mắt người
đọc những chân trời cháu đi qua đi, cuộc sống rộng mở phía trước, đời đã
đi lên và còn nhiều điều hy vọng đang chờ đón. Tuy vậy cháu vẫn nhớ
đến quá khứ, nhớ về bếp lửa như một thói quen để tự nhắc nhở bản thân
ghi khắc những lời bà dạy bảo. Những vui buồn ngày hôm nay, những
thành công hiện tại cháu có được cũng đều ươm mầm từ bàn tay bà chăm
chút. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã từng bộc bạch động lực để cháu trở nên
can đảm, kiên cường hôm nay cũng xuất phát từ tình yêu thương của bà.

“Cháu chiến đấu hôm nay

Vì lòng yêu tổ quốc


Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi cũng vì bà!”

Có những người phụ nữ tuyệt vời như thế mỗi gia đình mới có thể bình
yên. Người bà, người mẹ Việt Nam với dáng vẻ chân quê, lam lũ bên
trong họ là sự cần mẫn, tấm lòng rộng mở, nhân hậu bao dung. Họ là hiện
thân cho quê hương, đất nước cho những con người sống trong cơ cực mà
vẫn chắt lọc trái ngọt cho đời.

Đọc thơ Bằng Việt, ta bắt gặp một phong cách rất riêng giàu suy tưởng
của trí tuệ và cũng nhiều rung động tinh tế. Lời thơ bình dị nhưng vẫn
chan chứa chiều sâu suy tưởng. Bếp lửa đã xây dựng một hình tượng
nhiều tầng ý nghĩa thông qua đó nói lên được thái độ biết ơn của nhà thơ
đối với người bà của mình và cũng là lời cảm ơn chân thành đối với
những bà mẹ quê hương. Nhà thơ đã từng chia sẻ “Trong cả hai cuộc
Kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ, có lẽ vai trò của những người bà,
người mẹ, người chị… như thế là không có gì thay thế nổi. Và có thể nói
không ngoa rằng chính những con người hiền hoà, nhân hậu, khiêm
nhường ấy đã cùng nhau gánh cả cuộc kháng chiến lên trên đôi vai gầy
guộc, bé nhỏ của mình. Tôi tự hào dù chỉ làm được một chút gì an ủi
những năm đằng đẵng vất vả, dài dằng dặc ấy của bà, như tiếng chim tu
hú cộng hưởng với nỗi cô đơn lo toan của bà, gắng làm cho bà được nhẹ
nhõm hơn, bớt cảm giác cô đơn, lận đận hơn”.

Qua dòng hồi tưởng của người cháu hình tượng người bà và bếp lửa hiện
ra chân thật, sống động và chan chứa ân tình. Yêu thương bà, nhà thơ trân
trọng cả những giá trị tinh thần mà quê hương đem đến. Bài thơ còn là
tiếng nói của thái độ sống ân nghĩa thuỷ chung. Thật may mắn làm sao
khi sống trong tình thương mến của gia đình, được là thế hệ sau của một
dân tộc giàu lòng nhân ái, trọng tình nghĩa, vẹn thuỷ chung. Có như thế
mới thấy được những điều giản đơn nhất bên cạnh chúng ta mỗi ngày đều
có sức nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

You might also like