You are on page 1of 34

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP NHÓM CHỦ ĐỀ:


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO
XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Hải Yến

Nhóm lớp: 222PLT06A17

Họ và tên Mã sinh viên


1 Trịnh Thị Minh Anh 24A4010055
2 Nguyễn Lê Dung Nhi 24A4010415
3 Đỗ Hoài An 24A4012300
4 Nguyễn Hoàng Hiệp 24A4011825
5 Lê Thị Dung 24A4012924
6 Lê Thị Huyền Trang 24a4052267
7 Nguyễn Thị Phương Thảo 24A4011620
8 Phạm Kiều Trang 24A4022593
9 Lê Vy 24A4052295

Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2023


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU__________________________________________________________3
NỘI DUNG________________________________________________________4
I. Phần lý luận___________________________________________________4
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức______________________4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức_______________________________5
2.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng._______5
2.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng____________6
2.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng____8
II. Giá trị và vận dụng___________________________________________10
1. Giá trị______________________________________________________10
2. Vận dụng___________________________________________________14
2.1. Bối cảnh hiện nay_________________________________________14
2.2. Thực trạng hiện nay_______________________________________17
3. Bài học và liên hệ thực tiễn____________________________________21
3.1. Nhận thức_______________________________________________22
3.2. Trách nhiệm_____________________________________________23
KẾT LUẬN_______________________________________________________27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO________________________________28
BẢNG CHIA ĐIỂM NHÓM 8

Mã sinh
Họ tên Công việc Điểm số
viên
Giá trị lý luận +
24A401005
Trịnh Thị Minh Anh chỉnh sửa word +
5
dẫn trò chơi
24A401041
Nguyễn Lê Dung Nhi Vận dụng
5
Phần lý luận +
24A401230
Đỗ Hoài An chỉnh sửa word +
0
thuyết trình
24A401182 Phần mở đầu + kết
Nguyễn Hoàng Hiệp
5 luận + thuyết trình
24A401292 Slide + chỉnh sửa
Lê Thị Dung
4 word
Bài học và liên hệ
Lê Thị Huyền Trang 24a4052267
thực tiễn
Nguyễn Thị Phương 24A401162
Vận dụng
Thảo 0
24A402259 Bài học và liên hệ
Phạm Kiều Trang
3 thực tiễn
24A405229
Lê Vy Giá trị lý luận
5

2 tt + mở đầu và kết luận

1 trò chơi: tìm trò chơi và câu hỏi

2 slide + word

4 nd: Lý luận :1, Giá trị:1, vận dụng: 1, bài học và liên hệ: 1
MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới. Người
đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cũng như là vai trò của
đạo đức trong công cuộc cách mạng, xa hơn nữa là công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Bởi vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh rất sâu sắc, phong phú
về cả mặt lý luận và thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã trở
thành bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc, một sức mạnh to lớn làm nên
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cả cuộc đời của mình, Người đã tự thực
hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức
cách mạng Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh
của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng, và đi được xa. Hồ Chí
Minh có nói : "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu
sa vào chủ nghĩa cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh rằng cán
bộ đảng phải thấm nhuần tư tưởng đạo đức, giữ gìn đảng ta thật trong sạch
phải vừa hồng vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải có sự trung
với nước, và hiếu với dân. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, công chức đối
với Bác kính yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt
qua mọi không gian và thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn
minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
NỘI DUNG

I. Phần lý luận.
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, đã được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa tư tưởng
đạo đức phương Đông, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của Mác,
Ăngghen, Lênin, cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà các ông đã để
lại. Điều này đã được thể hiện qua những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi
Lênin mất: Lênin là người "đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ
đại và sự khiêm tốn cao độ". "Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính
coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm
lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc
châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì ngăn nổi". Đây
không phải chỉ là tình cảm của Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà còn là tình
cảm của tất cả các dân tộc thuộc địa đối với Lênin vĩ đại.
Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của
các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo. Nếu từ đó lại cho
rằng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức Nho giáo thì hoàn toàn
sai lầm. Những khái niệm, phạm trù đánh dấu những bậc thang nhận thức của loài
người. Qua các thời đại lịch sử, những khái niệm, phạm trù đã trở thành tài sản
chung của nhân loại, nhưng nội dung đã có nhiều thay đổi. Những khái niệm như
trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính ... đã có trong Nho giáo từ mấy trăm
năm trước Công nguyên; dân chủ, tự do. công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ
đại Hy Lạp - La Mã. Nhưng trong hai thiên niên kỷ vừa qua, các giai cấp, các dân
tộc đã hiểu những khái niệm đó rất khác nhau, thậm chí có những điểm trái ngược
nhau. Điều đó là do những lợi ích khác nhau của các giai cấp, các dân tộc khác nhau
quy định.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen
thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời bổ
sung những khái niệm, những phạm. trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà
những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. Hơn nữa, những giá trị
đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho Người thực hiện được
việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp thu những tinh hoa đạo đức của
nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được đông đảo
những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam trong nhân loại, cũng
như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân
tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn Việt Nam
thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo đức của quá
khứ, đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt
Nam trong thời đại mới.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
2.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng.
2.1.1. Đạo đức là gốc của người cách mạng.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là cái gốc, là nền tảng của
một người làm cách mạng. Người có đạo đức cách mạng có hành động đúng đắn, có
ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Hồ
Chí Minh khẳng định: làm cách mạng là một nhiệm vụ nặng nề, phức tạp, lâu dài và
gian khổ. Chính vì vậy, trở thành người làm cách mạng cần phải có đạo đức cách
mạng để vượt qua khi khó khăn, thất bại; giữ vững tinh thần, không kiêu ngạo, quan
liêu khi gặp thuận lợi, thành công.
2.1.2. Đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người lãnh đạo trong điều kiện đảng cầm
quyền.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, là cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không
phải cứ “viết lên trán chữ “cộng sản” là được họ yêu mến. Quần chúng nhân dân chỉ
yêu mến những người có tư cách, đạo đức”. Đạo đức trở thành yếu tố quyết định
thành bại trong công việc, phẩm chất, “Mọi việc thành hay bại là do người cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”.
Trong bài “Đạo đức cách mạng” năm 1958, Hồ Chí Minh khái quát: “Nói tóm tắt thì
đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là
điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động
lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ Nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức
học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư
tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
2.1.3. Đạo đức là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn của Chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của Chủ nghĩa xã hội nằm ở giá trị đạo
đức của nó, phẩm chất đạo đức của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương
sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Người
quan niệm rằng phẩm chất đạo đức cao quý đã giúp cho phong trào cộng sản công
nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người, làm chủ nghĩa
cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch
Người đã nói: “ Đối với phương Đông, một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100
bài diễn văn tuyên truyền”. Và chính người cũng là một tấm gương đạo đức trong
sáng, là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân
loại tiến bộ đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2.1.4. Đạo đức cách mạng là mẫu số chung, là thước đo lòng cao thượng của mỗi con
người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế
làm thước đo. Người luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi
đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Nhấn mạnh điều đó, Hồ Chí Minh không
hề coi nhẹ tài năng, với Người nếu đức là tiêu chuẩn cho mục đích hành động thì tài
là phương tiện thực hiện mục đích đó. Chính vì vậy mà Người kuoon coi trọng giáo
dục, rèn luyện đạo đức con người, đặc biệt là các cán bộ, đảng viên.
Đạo đức với Hồ Chí Minh còn là thước đo lòng cao thượng của một con người.
Trong bài “Đạo đức cách mạng” (1955), Người viết: “Tuy năng lực và công việc của
mỗi người khác nhau,...nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng. Đạo
đức các nhân tôn vinh giá trị của mỗi cá nhân, cũng như tạo ra sức mạnh giúp con
người vượt qua khó khăn, thử thách.
2.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và
chi phối các phẩm chất khác.
Từ xưa, quan niệm về “Trung” và “Hiếu” đã có tồn tại, tuy nhiên quan niệm còn
rất hạn hẹp, đó là: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Cũng với “Trung” và “Hiếu”,
quan điểm của Hồ Chí Minh có sự mở rộng hơn: “Trung với nước, hiếu với dân”.
Trong đó, “ Trung với nước” là: trung thành với sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết; quyết tâm thực hiện
mục tiêu cách mạng và chủ trương, chính sách của nhà nước. Còn “Hiếu với dân”,
đó là: gần gũi, gắn bó với nhân dân, lấy dân làm gốc; khẳng định vai trò, sức mạnh
của nhân dân; tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực
tốt chủ trương của Đảng và nhà nước; cũng như chăm lo tới đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân.
Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
2.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Trước kia, Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính,
ông cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên,
khi vận dụng những khái niệm này, Hồ Chí Minh lại cho rằng cần, kiệm, liêm, chính
không phải do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, Người đã khẳng định:
đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà
nên. Theo Người, cần, kiệm, liêm, chính là tứ đức không thể thiếu được đối với mỗi
con người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Cụ thể ở đây, “Cần, kiệm,
liêm, chính” là:
“Cần” là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, là nguồn hạnh phúc của con
người.
“Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân,
của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ, không
hoang phí, không bừa bãi”.
“Liêm” là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một
đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch không tham lam địa
vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng, không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ.
“Chính” là không tà, thẳng thắn đứng đắn đối với mình, với người với việc.
Còn với quan điểm về “Chí công vô tư” thì theo Hồ Chí Minh, “Chí công vô tư” là
công bằng công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm bất cứ việc gì cũng biết vì Đảng,
vì tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”. Chí công vô tư nêu cao chủ nghĩa tập thể từ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
2.2.3. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa.
Quan niệm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lòng yêu thương con
người rất toàn diện và độc đáo. Người xác định tình yêu thương con người là một
trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Người luôn luôn dành tình yêu thương rộng
lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Người viết:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”. Ở Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí của
Người rất bao la, rộng lớn và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai,
gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của
Người. Tình yêu thương của Hồ Chí Minh còn thể hiện tấm lòng bao dung cao cả,
đặc biệt, đối với những người phạm sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người
cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc
và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong
con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời. Và trong Di
chúc để lại cho muôn đời sau, Người cũng căn dặn Đảng: phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người.
2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một
mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị
áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng
hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của
cả dân tộc, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ
trên toàn thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức và là yêu cầu đạo đức nhằm
vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Không phải đối với
bất cứ ai, bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế đó trong sáng hay không
trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng và rèn luyện của cá nhân mỗi một người
về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ.
2.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
2.3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đây là hành động cơ bản thể hiện phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán
bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh khẳng định: nói phải đi đôi với làm và cao hơn là làm
rồi mới nói, làm nhiều nói ít và thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà không nói,
không tự phô trương. Những người nói mà không làm hoặc nói một đằng làm một
nẻo là những kẻ đạo đức giả. Người cho rằng những kẻ đó làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng. Người cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo,quản lý
muốn thu phục quần chúng, muốn quần chúng tin theo phải thực sự mẫu mực về
phương pháp, tác phong làm việc, lời nói gắn với việc làm; giữ nghiêm nguyên tắc
và kỷ luật, cẩn trọng và tỉ mỉ trong mọi công việc.Việc gì có lợi cho Đảng, cho dân
kể cả những việc khó khăn, nguy hiểm người cán bộ, đảng viên phải xông pha đi đầu và
phải làm cho bằng được, việc gì có hại cho Đảng, cho dân phải hết sức tránh, tuyên truyền
cho quần chúng tránh xa.
2.3.2. Xây đi đôi với chống.
Xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất định phải
chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Xây
dựng đạo đức cách mạng, trước hết là tuyên truyền giáo dục phẩm chất chuẩn mực
đạo đức cho mỗi người, trong từng gia đình, trong từng tập thể, cộng đồng. Xây
dựng đạo đức bằng việc khơi dậy ý thức tự nguyện vươn lên của con người tới chân,
thiện, mỹ, từ đó tạo ra năng lực tự trau dồi đạo đức trong mỗi con người, loại bỏ cái
ác, cái xấu, cái vô đạo đức. Cùng với xây, nhiệm vụ chống có vị trí vô cùng quan
trọng, xây phải gắn liền với chống, trong xây có chống và ngược lại. Theo đó, việc
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở cơ quan, đơn
vị phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp tuyên
truyền, giáo dục với biện pháp hành chính, xử lý kỷ luật nghiêm minh, tăng cường
đấu tranh chống lại những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây đi đôi với
chống, yêu cầu mỗi đảng viên, viên chức cần phải thường xuyên tự soi mình, tự sửa,
tự đánh giá đúng những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân và tìm biện pháp khắc
phục, sửa chữa. Coi đó là công việc như “rửa mặt hàng ngày” để gột rửa, làm sạch
những hạn chế, thiếu sót, chủ động rèn luyện đạo đức của người đảng viên, viên
chức trường đảng.
2.3.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Đây là yêu cầu cốt lõi trong rèn luyện đạo đức bởi theo Hồ Chí Minh: đạo đức
cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người khẳng định: “Đạo
đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. Việc giáo dục đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Người cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao càng phải
tích cực, liên tục học tập, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Khi gặp việc thuận
lợi không tự cao, tự đại, khi gặp việc khổ, việc khó thì không chùn bước, dám nghĩ,
dám làm. Thực tiễn cho thấy, có nhiều cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo,
quản lý cấp cao trong lúc gian khổ thì không sợ nguy hiểm, cực khổ, có công với
cách mạng song đến khi có quyền hạn trong tay lại nảy sinh kiêu ngạo, xa xỉ, quan
liêu, trở thành người có tội với cách mạng.
II. Giá trị và vận dụng.
1. Giá trị.
- Ngay từ đầu Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của đạo đức trong sự nghiệp cách
mạng. Người cho rằng: Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó xoá đi những
gì là lỗi thời và phát huy mạnh mẽ những tiềm năng tinh thần, những phẩm chất đạo
đức đang tồn tại. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có Con người cách mạng với
Tinh thần cách mạng. Do vậy, đạo đức cách mạng là bước ngoặt lớn nhất, bước
ngoặt căn bản của lịch sử đạo đức Việt Nam trong truyền thống văn hóa đạo đức
Việt Nam. Đạo đức cách mạng không chỉ phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và bản
thân nó cũng tạo cho mình một chuyển biến cách mạng.
- Đạo đức cách mạng thực chất là của những người làm cách mạng. Đạo đức cách
mạng là để thay cho đạo đức cũ; đạo đức cách mạng là đạo đức của cán bộ, của
những người phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Nhưng đạo đức cách mạng của
người cán bộ, công chức chỉ có thể được thể hiện thông qua những hành vi hoạt
động của họ vì cách mạng, vì sự nghiệp chung của nhà nước xã hội. Đạo đức cách
mạng khác hẳn với đạo đức cũ. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người
cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo
đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngẩng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu cần, kiệm, liêm, chính nhưng
không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho
chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính là cho cán bộ thực hiện làm gương cho
nhân dân theo để cho nước, cho dân”.
- Đạo đức Hồ Chí Minh - nền tảng cho sự phát triển của xã hội hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của đạo đức, Hồ Chí Minh đã tự rèn
luyện để có phẩm chất đạo đức cao quý của người cộng sản. Bằng lời nói và việc
làm, bằng giảng giải và nêu gương, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho mọi người thấy thế
nào là một đạo đức cao đẹp, một cuộc sống đáng sống. Người nâng cao tâm hồn và
tình cảm của nhân dân, khiến mọi người đều cảm thấy mình luôn luôn lớn lên và đầy
niềm tự hào trước sự nghiệp vĩ đại và trước tấm gương đạo đức sáng ngời của
Người. Bản thân Hồ Chí Minh đã suốt đời không ngừng tự tu dưỡng, tự rèn luyện
mình về đạo đức để trở thành “tấm gương tuyệt vời về con người mới”, thành hình
ảnh mẫu mực về “người lãnh đạo và người đày tớ thật trung thành của nhân dân”,
chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc, mà còn
ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Nhiều lãnh tụ chính trị, học giả, nhà văn, nhà
báo có tiếng đã viết về sức cổ vũ kỳ diệu của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối
với nhân dân nước mình và chứng minh rằng: Do ngưỡng mộ một nhân cách vĩ đại
như vậy, có biết bao lớp người trẻ tuổi đã đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cộng sản,
tình nguyện hiến dâng đời mình cho cuộc đấu tranh vì tự do độc lập, vì tiến bộ xã
hội và hạnh phúc của nhân dân.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một phần quý báu nhất trong di sản tư tưởng
của Người, giống như những hạt kim cương đa diện, nhiều màu sắc. Cho dù chặng
đường cách mạng mới có thể và nhất định sẽ hình thành những giá trị đạo đức mới,
thì những giá trị đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là nền tảng vững
chắc cho các quan hệ xã hội mới.
Đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
nói riêng và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung hiện nay.
Hiện nay, trong xã hội đang tồn tại tình trạng một bộ phận dân cư xem nhẹ các giá trị
đạo đức, chạy theo tiền tài, địa vị, bất chấp đạo lý, coi thường pháp luật và tình
nghĩa con người. Với ý nghĩa là nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng nền đạo đức
mới, thực hành theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực sự là giải pháp quan trọng
nhất, giúp xác lập lại vị trí, vai trò của đạo đức - yếu tố gốc rễ, nền tảng tinh thần của
mỗi con người. Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh đến đạo đức của người cán bộ, đảng viên.
Những vấn đề đạo đức mà Người đặt ra với cán bộ, đảng viên chính là nhằm ngăn
chặn, khắc phục những hiện tượng tha hóa có thể hoặc đã xảy ra, nhất là để chống lại
những khuynh hướng sai lệch về quyền lực như quan liêu, cậy thế, cậy quyền, lợi
dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh
giành quyền lực, tham quyền, cố vị... những tệ nạn có thể trở thành nguy cơ làm sụp
đổ sự nghiệp của một người, thậm chí của cả một Đảng Cộng sản.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng những chuẩn mực đạo đức cơ bản của
con người Việt Nam hiện tại và tương lai. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ, muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa.
Đó là những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Riêng về
khía cạnh đạo đức, đó trước hết là những người có tinh thần yêu nước, thương dân,
đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Sự phát triển đất nước
hiện nay đòi hỏi những con người trong xã hội, trước hết là cán bộ nắm giữ các
cương vị trong hệ thống chính trị, phải là những người không để các căn bệnh tiêu
cực, như quan liêu, tham nhũng... xâm nhập, khống chế, đồng thời dám đấu tranh
chống các căn bệnh, tiêu cực đó. Đó là những chuẩn mực đạo đức được Chủ tịch Hồ
Chí Minh chú trọng chỉ ra và quan trọng hơn là nêu gương thực hành trong thực tiễn
đời sống. Trước hết là phẩm chất “Trung với nước”, “Hiếu với dân”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, người cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết và
trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng phẩm chất: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư. Người chỉ ra rằng cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của “đời
sống mới”, nền tảng của thi đua ái quốc; là chuẩn mực đạo đức cần phải có của con
người, là tiêu chí xác định “chất người” của mỗi người, bởi “Thiếu một đức, thì
không thành người Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm, chú trọng đến các chuẩn
mực đạo đức khác là tình thương yêu con người và tinh thần quốc tế trong sáng trên
lập trường của giai cấp công nhân.
Đạo đức Hồ Chí Minh nền tảng trong công cuộc xây dựng đời sống tinh thần của
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đang góp phần quan trọng điều chỉnh hành vi
của mỗi người Việt Nam theo hướng chân, thiện, mỹ - một trong những điều kiện
quan trọng để hình thành xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người sống với
nhau nhân ái. Trong tầm nhìn của nhân loại tiến bộ, Hồ Chí Minh là một trong
những tấm gương sáng nhất về cuộc đời của một con người “đầy tình yêu nhân dân,
đầy yêu thương con trẻ, dạt dào tình yêu Tổ quốc, yêu những người lao động, yêu
Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa”.
Đạo đức là nền móng cho các đường lối của Đảng ta. Đạo đức là một trong
những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh. Người không chỉ để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là
hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một
cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam.
Nhờ tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh, đảng ta đã chỉ ra các đường lối đúng đắn
về vấn đề giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc giáo dục, đào tạo ra
các thế hệ công dân ưu tú cho đất nước. Để làm được điều đó, Người chỉ ra, phải
thực hiện giáo dục toàn diện trên nhiều mặt như: giáo dục đạo đức (đức dục), giáo
dục tri thức, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ... (trí dục), giáo dục thể chất, nâng cao
sức khỏe (thể dục), giáo dục về cái đẹp, biết nhận thức và hướng tới cái đẹp (mỹ
dục)... Trong đó, Người đặc biệt coi trọng giáo dục đạo đức: “Trong giáo dục không
những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức.
Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước”. Theo Hồ Chí Minh, phẩm
chất đạo đức tốt là cơ sở nền tảng hình thành con người có ích cho xã hội, có đóng
góp cho quê hương đất nước, nếu có tài mà không có đức thì cũng là người vô dụng.
Người luôn quan tâm nhắc nhở việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
Tư tưởng Hồ Chí minh còn đưa ra các đường lối đúng đắn về giáo dục đạo đức
vào nâng cao đạo đức cách mạng ở nước ta hiện nay
Theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" trong đó đạo đức là "gốc",
vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Đạo đức chính là nhân tố
tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Đạo đức là nền móng cho các đường lối
của Đảng ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân vẫn còn những hạn chế nhất định: “Giáo
dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ”. Chính vì giáo dục đạo đức
chưa được coi trọng đúng mức, nên tình trạng vi phạm chuẩn mực đạo đức, suy thoái
đạo đức, lối sống vẫn còn diễn ra, trong cán bộ, đảng viên.
Một là, thống nhất nhận thức và quán triệt sâu sắc về tầm quan trọng và nội dung
của giáo dục đạo đức trong toàn Đảng, toàn dân
Cần nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức, đặc biệt là trong bối cảnh có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân như hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, cùng với giáo dục đạo đức, phải không ngừng đấu tranh chống lại chủ
nghĩa cá nhân.
Hai là, chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng trong đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là chủ trương đúng đắn của Đảng
nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay. Vì đạo đức là gốc, là cơ sở,
nền tảng để hình thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, nên trong quá trình đổi
mới giáo dục và đào tạo, cần coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng. “Chú trọng hơn
giáo dục đạo đức, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần
yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục
tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc
con người Việt Nam. Trong quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào
tạo, phải chú ý việc tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục nói chung, giáo dục đạo
đức nói riêng.
Ba là, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đặc biệt là đội
ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng, nhằm tạo điều kiện, tiền đề, động lực thúc đẩy công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho quần chúng nhân dân đạt hiệu quả
Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhân dân, trước
hết phải nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Đảng viên đi
trước, làng nước theo sau”; cán bộ, đảng viên phải chuẩn mực, gương mẫu để quần
chúng nhân dân noi theo.Cần đặc biệt quan tâm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ làm công tác giáo dục như giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý trong
các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng.
Như vậy, cùng với giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên, phải đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
phải xây dựng cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành
nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, suy thoái, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân.
2. Vận dụng.
2.1. Bối cảnh hiện nay.
Trong nhịp sống của thời đại 4.0, chúng ta vui mừng được chứng kiến sự
chuyển mình, phát triển của quê hương đất nước, song cũng không khó để nhận
thấy trong gia đình, xã hội, văn hoá ứng xử, nền nếp gia phong, chuẩn mực đạo
đức đang có sự biến đổi mạnh mẽ trog cuộc sống hiện đại. Hiện nay, do tác
động của nền kinh tế thị trường, sự biến đổi của xã hội đã ảnh hưởng đến lối
sống, đạo đức của một bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay. Bên cạnh sự phát
triển mang tính dấu mốc lớn, đạo đức, lối sống có những biến đổi theo thời gian
và những điều kiện nhất định. Sự biến đổi về đạo đức, lối sống do tác động của
những nhân tố chủ yếu sau:
Một là, sự tác động hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp của kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
Kinh tế thị trường đặt mọi đối tượng, mọi mối quan hệ trong xã hội dưới quan
niệm hàng hoá hoặc tính chất hàng hoá, kể cả sức lao động, tình cảm của con
người. Mối quan hệ đạo đức, lối sống cũng bị chi phối bởi quan niệm đó. Việt
Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là con người chứ không
phải là hàng hoá. Tuy nhiên, dù muốn hay không thì các quan hệ thị trường
cũng sẽ làm cho con người thay đổi đạo đức, lẽ sống cùng với sự cải thiện mức
sống và môi trường sống.
Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường có xu hướng vận động tự
phát dưới sự tác động của các quy luật thị trường nên dễ nảy sinh những hiện
tượng tiêu cực. Sự phân hóa xã hội diễn ra một cách nhanh chóng, sâu sắc, từ
đó làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội. Mặt khác, cơ chế thị trường đề
cao giá trị đồng tiền, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân… đã và sẽ gây hệ
lụy tiêu cực đến đạo đức của xã hội.
Hai là, sự hội nhập, giao lưu văn hóa.
Hội nhập, giao lưu về văn hóa là quá trình trao đổi, chia sẻ, hợp tác những
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Quá trình này có thể làm biến đổi, loại bỏ những cái cũ, lạc hậu, lỗi thời để thay
thế bằng các giá trị mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mặt khác, nó
cũng tạo ra không ít sự thách thức đối với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Những giá trị truyền thống văn hóa trong xã hội Việt Nam được
hình thành hàng ngàn năm như: Ý thức tự cường, tinh thần đoàn kết dân tộc,
lòng nhân ái, khoan dung, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế
trong ứng xử,… vừa là cơ sở vừa là thành tố cơ bản hình thành nên bản sắc văn
hóa của dân tộc và luôn phát huy có hiệu quả trong suốt chiều dài lịch sử người
Việt. Tuy nhiên, quá trình giao lưu, hội nhập văn hóa đã và sẽ làm mai một dần
đi một số giá trị văn hóa dân tộc và xác lập một số giá trị mới. Trong sự tiếp
biến văn hóa, các chuẩn mực hành vi, những giá trị xã hội bị xáo trộn và gây
nên xung đột giữa các giai tầng xã hội. Người lớn tuổi ngày càng suy giảm khả
năng thích nghi với cái hiện đại. Trong khi đó, tuổi trẻ vốn năng động, nhạy
cảm với cái mới, cái lạ, có khả năng và hào hứng tiếp thu nhanh chóng những
quan niệm mới, lối sống mới.
Cùng với các yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan được đề cập dưới đây sẽ
làm cho quá trình biến đổi đạo đức, lối sống theo hướng “thuận - nghịch” và sẽ
diễn ra nhanh hay chậm.
Ba là, sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá định hướng XHCN.
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xét về mặt vật chất thì công
nghiệp, dịch vụ, đô thị và người làm công ăn lương sẽ chiếm địa vị áp đảo so
với nông nghiệp, nông thôn và nông dân; xét về mặt tinh thần – văn hoá, nhất là
khi Việt Nam gia nhập WTO, quá trình đa dạng hoá, đa phương hoá liên kết và
hợp tác quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các giá trị nước ngoài tác động mạnh vào
lối sống, đạo đức của một bộ phận thanh, thiếu niên Việt Nam. Về mặt sinh
hoạt và tổ chức đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, nhiều thanh thiếu niên sẽ
hướng theo lối sống công nghiệp, lối sống cá nhân, và mối quan hệ sòng phẳng.
Về mặt tâm lý, nhiều thanh thiếu niên sẽ thiên về lối sống bình đẳng, thiết thực,
kể cả thực dụng và ngại sống chung tam – tứ đại đồng đường, hàm ơn, đẳng
cấp. Tâm lý tự chủ để lập thân, lập nghiệp trong điều kiện cạnh tranh và hội
nhập sẽ làm cho một bộ phận thanh, thiếu niên có lối sống tự do và tôn thờ chủ
nghĩa cá nhân.
Bốn là, sự tác động của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Với Nhà nước pháp quyền, các quan hệ pháp lý sẽ đẩy quan hệ tình cảm
xuống hàng thứ yếu. Cả trong gia đình, trẻ em cũng sẽ hiểu các quyền của mình
và thể hiện lẽ sống và lối sống công dân. Cha mẹ và con cái đều bình đẳng
trước pháp luật. Thanh, thiếu niên hướng vào các giá trị “lập thân, lập nghiệp”
và không bị ràng buộc bởi gia đình.
Năm là, sự tác động của đạo đức, nếp sống và giá trị truyền thống dân tộc,
truyền thống cách mạng.
Việt Nam có lịch sử hàng ngàn năm văn hiến, anh dũng, kiên cường, bất
khuất chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Con người Việt Nam thông minh,
cần cù, chịu khó, có nếp sống cộng đồng, tình nghĩa.
Ý thức tự hào, tôn vinh quốc gia, dân tộc là cốt cách, truyền thống của con
người Việt Nam. Lẽ sống “không có gì quý hơn độc lập tự do” là biểu hiện cao
nhất của ý thức tự hào dân tộc Việt Nam. Truyền thống dân tộc, truyền thống
cách mạng đã và đang tác động tích cực, mạnh mẽ đến lối sống, đạo đức của
thanh, thiếu niên hiện nay.
Tuy nhiên hiện nay có một câu nói khá phổ biến phản ánh rất thực sự xuống
cấp của đạo đức của nhiều người chúng ta: “Mong kinh tế như hôm nay, còn
đạo đức trở lại như ngày xưa”. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng đó là điều có thực,
như nhiều vị cao niên thường tâm sự: “Thời chiến tranh, thời bao cấp mình
thiếu thốn đủ thứ, nhưng rất giàu có về lý tưởng, nhân cách, tình nghĩa, sống
thanh thản chứ đâu nhiều bức xúc như thời nay”. Nói ngắn gọn là đạo đức xã
hội nước ta đang xuống cấp - điều làm mọi người không bằng lòng và thường
xuyên lo ngại. Sự xuống cấp của đạo đức xã hội có thể định lượng như gần đây
một số trí giả phát biểu: Đạo đức xuống cấp ở mức nguy hiểm, đáng báo động.
Trong vòng một vài năm nay, các phương tiện truyền thông đã nêu lên khá nhiều
biểu hiện “chưa từng có” so với trước đây ở xã hội chúng ta - về của sự xuống
cấp đạo đức, với chiều hướng ngày càng gia tăng, mức độ ngày càng nghiêm
trọng.
Trước tiên là lĩnh vực kinh tế. Nhờ vận động theo cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ bao năm nay, nước ta đạt được nhiều thành tựu to
lớn về kinh tế và an sinh xã hội, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể
so với trước. Nhưng sự xuống cấp về đạo đức thể hiện rất rõ trong lĩnh vực này
qua những đại án hình sự và nhiều vụ án kinh tế mà nhiều người chịu sự trừng
phạt của pháp luật lại nằm trong “bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.
Đạo đức xã hội xuống cấp còn thể hiện ở những hành vi bạo lực trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, từ bạo lực gia đình, bạo lực học đường... đến bạo lực nơi
công cộng. Có những người sẵn sàng dùng vũ khí “nóng”, vũ khí “lạnh” để giải
quyết các mâu thuẫn trong mọi quan hệ giữa cha mẹ và con, anh chị em, vợ
chồng, hàng xóm láng giềng, bạn bè… Nhiều trường hợp dẫn đến kết cục thật
thương tâm.
Thói tham lam, ích kỷ, thói vô cảm lan rộng gây nhiều tác hại cho cộng đồng,
phản lại thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi người đều tìm cách kiếm được nhiều tiền,
điều này là chính đáng, tuy nhiên một số người đã tôn sùng đồng tiền một cách
mù quáng, coi “tiền là trên hết” và tìm mọi thủ đoạn để có nhiều tiền, tạo mọi
điều kiện để mặt trái của đồng tiền phát huy. Khi đồng tiền lên ngôi cũng chính
là lúc đạo đức xuống cấp.
2.2. Thực trạng hiện nay.
2.2.1 Ưu điểm.
Sinh viên là những con người năng động và sáng tạo. Đã có nhiều sinh viên
nhận được bằng phát minh, sáng chế; và không ít trong số những phát minh ấy
được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Với
thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Sự năng động của sinh
viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế,
từ thiện… Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh
viên Việt Nam thời đại mới.
Thanh niên đã kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. Phần lớn
sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch;
khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập
thân, lập nghiệp. Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang xuất hiện
những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà hoạt động nghệ thuật
có đức, có tài trong độ tuổi thanh niên. Nét nổi bật của thanh niên nước ta là ý
chí vươn lên, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, ham mê nghiên
cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm
giàu cho bản thân, gia đình và XH.
2.2.2. Nhược điểm.
Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn tồn tại những mặt tiêu cực trong lối sống
đạo đức của học sinh, sinh viên hiện nay.
Tư tưởng của một bộ phận sinh viên còn lệch lạc. Dưới sự tác động ồ ạt của
nền kinh tế thị trường, dường như giới trẻ ngày nay luôn nhìn sự vật dưới con
mắt của người tư bản. Họ còn nghi ngờ vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiều sinh
viên đã đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.
Nét tiêu cực trong lối sống của sinh viên còn thể hiện trong việc nhìn nhận
một cách sai lầm về giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng sùng bái giá trị vật chất.
Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá trị trong cuộc sống. Đó là
thang giá trị của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội ấy, kẻ có tiền là kẻ
mạnh. Chính vì thế, không ít sinh viên đã sử dụng đồng tiền gây ra nhiều
chuyện sai trái: mua điểm, chèn ép bạn bè…Lối sống hưởng thụ dẫn đến nhiều
vấn đề tiêu cực khác trong sinh viên. Tệ nạn xã hội như trộm cắp, nghiện hút
ma túy,… thái độ không đúng đắn đối với lao động xảy ra nhiều trong sinh
viên.
Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Nhiều người
chỉ quan tâm tới những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên mất lợi ích tập thể,
thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân,
một số thanh niên còn bất chấp tất cả: luật pháp, gia đình, bạn bè… Một số khác
sống không động chạm đến ai, nhưng cũng không quan tâm đến ai, chỉ cần biết
đến mình.
 Nguyên nhân
Dưới đây là một số nguyên nhân tiêu biểu được đặt ra cho tình trạng này:
Một là, do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế; thanh niên, học sinh, sinh viên không giữ vững được lập trường, bị cuốn
theo lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực khác.
Hai là, do tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh
cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ công chức diễn ra nghiêm trọng.
Ba là, do tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một số cơ
quan trực tiếp giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp chậm được khắc
phục. Điều đó đã làm mất lòng tin của nhân dân nói chung và thế hệ trẻ nói
riêng vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra còn xuất phát từ nguyên nhân các ban ngành, đoàn thể chưa thật sự
quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trước những biến đổi to lớn
của đất nước. Nội dung giáo dục đạo đức,lối sống còn thiếu chiều sâu, chưa
thiết thực. Hình thức giáo dục đạo đức, lối sống còn sơ sài, chưa có sức hấp
dẫn, lôi cuốn thanh niên. Sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng, giữa nhà
trường, gia đình, xã hội còn nhiều hạn chế.
Thực trạng này đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải có những biện pháp xây
dựng lối sống, đạo đức mới trong học sinh, sinh viên, thanh niên trí thức.
 Giải pháp
1. Đối với xã hội, các ban ngành, đoàn thể, nhà trường.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên hiện nay là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Trước hết, tập trung thực hiện
có hiệu quả các giải pháp dưới dây:
Một là, thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống
trong sạch, lành mạnh cho thanh niên. Đây là giải pháp cơ bản nhằm xây dựng,
hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa cho thanh niên nói chung
và học sinh, sinh viên nói riêng. Trước hết cần quan tâm giáo dục những vấn đề
cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí
Minh, nhằm xây dựng cho thanh niên thế giới quan, phương pháp luận đúng
đắn.
Chú trọng giáo dục làm cho thanh niên nhận thức đúng các giá trị chân, thiện,
mỹ, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc: tình yêu quê hương, đất
nước: “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, “thương người như thể thương
thân”,… Từ đó hình thành cho họ lối sống trong sạch, lành mạnh, những hành
vi đạo đức trong sáng phù hợp với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và thời đại.
Hai là, phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Đây là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức,
các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh
niên trí thức, hình thành phẩm chất cao đẹp của con người mới XHCN.
Trước hết, trong gia đình, ông bà, cha mẹ phải thật sự mẫu mực, làm gương về
đạo đức, yêu thương, chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Để giáo dục đạo đức cho
thanh niên, mỗi gia đình cần giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong, phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống, làm cho các giá trị đó ngày càng tỏa sáng, góp
phần bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cao đẹp cho thế hệ con cháu. Nhà trường
không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà còn là nơi dạy người. Giáo dục lý tưởng, đạo
lý làm người là nội dung giáo dục hàng đầu trong nhà trường hiện nay và phải
đặc biệt coi trọng.
Phải nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Hồ Chí Minh cho rằng, hơn
bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo
đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”. Để làm được như vậy,
mỗi cán bộ Đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hết lòng phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ
quốc, gia đình phải thật sự mẫu mực,… Có như vậy, học sinh, sinh viên, thanh
niên mới trông vào đó làm gương để phấn đấu, cố gắng, rèn luyện. Bên cạnh đó
cũng cần phải chú ý, phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất
gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động, sản xuất, trong chiến
đấu, trong học tập,… Đồng thời dư luận xã hội cũng cần lên án, phê phán
chống lại những biểu hiện tiêu cực, lối sống không lành mạnh, những hành vi
trái pháp luật và trái đạo đức.
Ba là, phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của thanh niên. Phát huy vai trò của thanh niên trong tự học tập, tự tu
dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng tiến bộ,
trưởng thành. Đó còn là điều kiện quyết định kết quả rèn luyện của mỗi cá
nhân. Trước hết phải hình thành cho thanh niên nhu cầu, động cơ phấn đấu, rèn
luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến
bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để thanh niên
phấn đấu, rèn luyện.
2. Tự tu dưỡng đạo đức, lối sống mới trong học sinh- sinh viên.
Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ
trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trong nhân
dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và
nhân hậu với con người.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm
vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. Cụ thể:
Mỗi thanh niên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống
có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ, “không phải là
hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước
nhà?”
Trong học tập, rèn luyện phải kết hợp giữa lý luận với thực hành, học tập
với lao động; bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ
trở nên vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ
bản kìm hãm sự phát triển.
Bản thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những
cám dỗ và tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực
dụng; cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống.
Phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo
danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng xa xỉ. chống
cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”.
Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh, phải là khiêm tốn, giản dị, chừng mực,
ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về
vật chất, về chức-quyền-danh-lợi.
Học tập, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, những tư tưởng tiến bộ, khoa học
kỹ thuật hiện đại,.. Tuy nhiên phải tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với bản sắc
văn hóa của Việt Nam; đồng thời phải phát huy tích cực những nét đẹp văn hóa
truyền thống đã được lưu giữ ngàn đời của dân tộc, đó là tinh thần yêu nước, là
tình thương yêu con người, là nét đẹp trong văn hóa ứng xử giữa người với
người, là đức tính cần cù, sáng tạo, yêu lao động, là lòng quyết tâm, ý chí vượt
qua thử thách, vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Bác Hồ đã dạy: “gian nan
rèn luyện mới thành công”.
Thực hiện tốt một số giải pháp giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho
thanh niên trong thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới. Điều này sẽ góp
phần đào tạo, giáo dục thế hệ thanh niên vừa "hồng", vừa "chuyên", chủ nhân
tương lai đưa nước nhà vững bước tiến cùng các dân tộc tiên tiến, xứng đáng
với mong ước của Bác Hồ kính yêu.
3. Bài học và liên hệ thực tiễn.
3.1. Nhận thức.
Theo Hồ Chí Minh, muốn thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, toàn diện nhất, chúng ta
phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu; phải tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Một trong những bài giảng đầu tiên cho lớp
thanh niên trí thức yêu nước đầu tiên của Việt Nam từ những năm 1920 là bài
giảng về "tư cách của một người cách mạng". Đến khi viết Di chúc, Người vẫn
dành một phần trang trọng để bàn về vấn đề đạo đức, yêu cầu mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, Đảng phải quan tâm chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Về
mặt lý luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn
diện về đạo đức. Về thực tiễn, Người luôn coi thực hành đạo đức là một mặt
không thể thiếu của cán bộ, đảng viên. Cũng như V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đào
tạo các chiến sĩ cách mạng không chỉ bằng chiến lược, sách lược mà còn bằng
chính tấm gương đạo đức trong sáng của mình.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là
nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông suối. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì"
1. Người so sánh: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"
2. Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh
trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy
thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm quyền, lãnh đạo
toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu
dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con
người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải "là đạo đức, là văn minh".
Người thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Người nói, cán bộ, đảng viên muốn
cho dân tin, dân yêu, dân phục thì không phải "viết lên trán chữ cộng sản là
được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách
đạo đức".
Vai trò của đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ đó là thước đo lòng cao
thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi người có công
việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai
giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức không phải một chiều phụ thuộc vào
tồn tại xã hội, vào những điều kiện vật chất kinh tế. Nó có khả năng tác động
tích cực trở lại, cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần một khi được
con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất.
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không lùi
bước, chán nản...; khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm
tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", không kèn cựa về mặt hưởng thụ,
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, v.v..
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, nhưng phải nhận thức đức và tài có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Có đức phải có tài, nếu không sẽ không mang
lại lợi ích gì mà còn có hại cho dân. Mặt khác, phải thấy trong đức có tài. Tài
càng lớn thì đức phải càng cao, vì đức tài là nhằm phục vụ nhân dân và đưa
cách mạng đến thắng lợi.
3.2. Trách nhiệm.
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất tích cực đối với việc nâng
cao lý tưởng và nhận thức của thanh niên và sinh viên hiện nay.
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội.
Hồ Chí Minh không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo
đức cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ, trong xã hội mỗi người có công
việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng
ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ giúp cho sinh viên nâng cao thế giới quan,
nhân sinh quan mà còn có lý tưởng, nhận thức, lối sống phù hợp. Đối với thanh
niên, sinh viên đang trong quá trình hoàn thiện nhân cách thì đạo đức Bác Hồ là
chuẩn mực để noi theo. Thực hiện những tiêu chuẩn về đạo đức và nguyên tắc
rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tạo ra phong trào thi đua rèn
luyện đạo đức mới, là một biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình
hiện nay.
Một số giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, sinh viên theo tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về việc “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” sâu rộng trong thanh niên, sinh viên,
nhất là tạo thành các phong trào mạnh mẽ vào những ngày lễ như kỷ niệm giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4; ngày sinh nhật Bác 19/5; ngày
Quốc khánh 2/9; ngày Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 ( m lịch)..., gắn với các nội
dung, chuyên đề.
Thực hiện tốt vấn đề trên nhằm làm cho toàn thể cán bộ, giáo viên và thanh
niên, sinh viên nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, thúc đẩy mạnh mẽ việc làm theo tư
tưởng đạo đức của Người. Việc tuyên truyền phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục, thiết thực và có những đợt cao điểm hợp lý.
Cần đẩy mạnh tuyên truyền thông qua các website của nhà trường, xã hội,
thông qua phát thanh, qua bản tin nội bộ… Cần kết hợp giữa giáo dục những
phẩm chất truyền thống như yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần,
kiệm,... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng tạo, tự lập, vượt khó.
Kết hợp giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh với giáo dục truyền thống, bản sắc văn
hóa Việt Nam cho thanh niên, sinh viên Việt Nam. Đặc biệt, giáo dục cho thanh
niên, sinh viên có thái độ sống tích cực; đam mê, khát vọng và nhiệt huyết; có
lòng trắc ẩn, lòng biết ơn, lòng vị tha, yêu thương, nhân ái với mọi người:
Thông qua các hoạt động giáo dục để chứng tỏ những giá trị đạo đức trên là
“nguyên tắc vàng: “là kim chỉ nam” cho bản thân cho sinh viên trong những
trải nghiệm sống.
Đa dạng hóa các phương pháp và hình thức giáo dục thanh niên, sinh viên theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
Tổ chức các hoạt động ngoại khóa hướng tới chủ đề giáo dục đạo đức và kĩ
năng sống cho sinh viên. Những buổi nghee khách mời nói chuyện về đạo đức
Hồ Chí Minh, về bộ đội cụ Hồ…
Thực hiện công tác tuyên truyền về cuộc vận động thông qua các buổi sinh hoạt
ngoại khóa của nhà trường, băng rôn, khẩu hiệu, bảng tin tại các địa điểm của
nhà trường, thông qua các cuộc thi “Học và làm theo lời Bác”, viết bài cảm
nhận, các cuộc thi sáng tác báo tường, vẽ tranh, văn nghệ hoặc qua buổi phát
thanh của nhà trường.
Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc và chú trọng công tác khen thưởng, kỷ
luật để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức thanh niên, sinh viên.
Một trong những nguyên tắc hoạt động đảm bảo tính hiệu quả đó là sau khi chỉ
đạo, giao việc cần có kiểm tra, đôn đốc chặt chẽ, kịp thời. Có như vậy mới nắm
bắt được thanh niên, sinh viên đang nhận thức vấn đề; xử lý công việc như thế
nào; có khó khăn, vướng mắc gì không để kịp thời động viên, nhắc nhở, giải
quyết.
Để tạo được động lực cho thanh niên, sinh viên tích cực học tập, các địa
phương và nhà trường cần có biện pháp khích lệ, động viên thanh niên, sinh
viên kịp thời, khuyến khích các em tích cực, tự giác trong mọi hoạt động. Biểu
dương, khen thưởng các điển hình tiên tiến, những gương tốt người tốt, việc tốt để
tạo sức lan tỏa.
Đồng thời cũng xử lý kỷ luật nghiêm, kịp thời những trường hợp vi phạm để
răn đe. Việc kỷ luật thanh niên, sinh viên phải mang tính răn đe nhưng quan
trọng nhất là mang tính giáo dục, tính hướng thiện và phục thiện.
Những tấm gương sáng trong học tập, rèn luyện và hoạt động phong trào của
thanh niên, sinh viên được nêu gương, khen thưởng kịp thời sẽ khuyến khích,
giúp các em có thêm động lực để tiếp tục học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
Tiếp tục nâng cao chất lượng phối hợp giữa giảng viên, nhà trường, gia đình và
xã hội.
Để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục nói chung,
giáo dục cho thanh niên, sinh viên nói riêng phải có sự kết hợp giáo dục của gia
đình của nhà trường, và của xã hội thành một quá trình thống nhất, liên tục và
hoàn chỉnh.
Thực tế cho thấy, những câu chuyện thanh niên, sinh viên có hành động vô lễ
với thầy cô giáo thường bắt nguồn từ giáo dục trong gia đình, bắt chước những
hành vi ngoài xã hội. Cho nên, giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần
có sự giáo dục ngoài xã hội và của chính gia đình; có như như thế việc giáo dục
trong nhà trường được tốt hơn và ngược lại giáo dục trong nhà trường dù tốt
đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không được như mong muốn.
Phát huy vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong đơn vị địa
phương và nhà trường
Để giáo dục đạo đức cho thanh niên, sinh viên, chúng ta phải tiến hành đồng bộ
nhiều giải pháp với sự tham gia của toàn xã hội, song vai trò quan trọng nhất
vẫn là cán bộ, giảng viên.
Hồ Chí Minh đã nói “một tấm gương sáng sống có giá trị hơn một trăm bài diễn
văn tuyên truyền”. Vì vậy, mỗi cán bộ, giảng viên trong các đơn vị địa phương
và nhà trường cần xác định bản thân phải là một tấm gương sáng. Cùng với
việc thực hiện cuộc vận động “Mỗi cán bộ, thầy cô giáo là một tấm gương tự
học, tự rèn luyện” do Công đoàn phát động, các cán bộ, thầy cô giáo phải nhận
thức rõ trách nhiệm nêu gương, tự giác đi đầu trong học tập và làm theo Bác.
Vì vậy, hiện nay trong các tổ chức xã hội, các trường học, công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức không thể thiếu việc giáo dục cho thanh niên, sinh
viên học tập và thực hành tư tưởng, đạo đức theo tấm gương Hồ Chí Minh.
Việc đưa ra từng chủ đề theo từng năm học, từng tháng trở nên cấp thiết và có ý
nghĩa cụ thể. Chỉ trên cơ sở làm tốt công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên,
sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng ta mới đào tạo được lớp người
mới có trí tuệ, giàu lòng yêu nước, phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một
lãnh tụ cách mạng, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm
gương đạo đức của một người Việt Nam chân chính, bình thường, gần gũi, ai
cũng có thể học theo, làm theo, để trở thành một người cách mạng, một thanh
niên, một sinh viên., một người công dân tốt hơn trong xã hội.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là tư tưởng đi trước thời đại, là tư tưởng
của một bậc vĩ nhân, một vị lãnh tụ, một người cộng sản ưu tú nhưng lại bình dị
gần gũi, ai cũng có thể học theo để trở thành một công dân tốt, có ích cho xã
hội. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là học tấm gương về chủ nghĩa yêu
nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Việc tu dưỡng đạo đức
là vô cùng quan trọng đối với con người Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng,
nhất là với thế hệ trẻ. Vì vậy, cần phải chú trọng, chăm lo giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống, văn hóa cho sinh viên. Hình thành thế hệ thanh
niên mới có những phẩm chất tốt đẹp có khí phách và quyết tâm hành động, có
trách nhiệm với tổ quốc, với nhân dân. Tư tưởng đạo đức mà Người để lại cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta có ý nghĩa và giá trị vô cùng to lớn. Đặc biệt
là đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn nước nhà
bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế toàn cầu
hóa, đã và đang mang lại những cơ hội, thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách
thức, khó khăn cần được giải quyết, đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết tự “xoá đói
về thông tin, về trí tuệ”, phải biết tự “xoá nghèo về nhân cách và đạo đức làm
người” để thực sự trở thành những công dân vừa “hồng” vừa “chuyên” nhằm
xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ đã từng mong
đợi.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thắng, G. M. (06/2021). Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia sự thật.

2. Biết, N. V. (02/07/2021). Những đặc điểm mới của sự biến đổi về đạo đức,
lối sống ở Việt Nam hiện nay.
3. Dung, P. T. (19/05/2015). Đạo đức Hồ Chí Minh - nền tảng sự phát triển
của xã hội Việt Nam hiện nay.
4. Thụy, T. Đ. (24/10/2020). Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức vào nâng cao đạo đức cách mạng hiện nay.
5. TS. Hoàng Mạnh Đoàn, H. v.-H.–H. (2/5/2009). Những yếu tố ảnh hưởng,
tác động đến lối sống, đạo đức của thanh, thiếu niên hiện nay.
6. TT&VH, T. Đ.–T. (17/02/2020). Nhịp sống thời đại 4.0 và Đôi điều suy nghĩ
về thực trạng đạo đức xã hội hiện nay.
7. (27/03/2018). Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - nền tảng tinh thần cho xây
dựng nền đạo đức mới trong hiện tại và tương lai ở Việt Nam.
8. Tuệ, T. N. (21/10/2019). Suy nghĩ về thực trạng đạo đức xã hội hiện nay.
Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương.
9. Việt, N. V. (2021). Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hà Nội: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
NỘI DUNG CÂU HỎI ÔN TẬP

Câu 1: Câu nói "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" là của ai?
A. Lê Duẩn
B. Hồ Chí Minh
C. Trường Chinh
D. Lê-nin
Câu 2: Theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức có bao nhiêu chuẩn
mực đạo đức?
A. 3
B. 4
C. 5
D. 6
Câu 3: “… Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết
tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê
bình và thật thà tự phê bình. Không chịu nghe phê bình và không tự phê bình
thì nhất định lạc hậu, thoái bộ. Lạc hậu và thoái bộ thì sẽ bị quần chúng bỏ rơi.
Đó là kết quả tất nhiên của chủ nghĩa cá nhân". Câu nói trên của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được dẫn từ tác phẩm nào của Người?
A. Đạo đức cách mạng (12/1958)
B. Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu
(5/1952)
C. Cần tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh (9/1951)
D. Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa các nhân (3/2/1969)
Câu 4: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có bao nhiêu nguyên tắc xây dựng đạo
đức mới?
A. 2
B. 3
C. 4
D. 5
Câu 5: Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định yếu tô nào là nền tảng để xây dựng đội
ngũ cán bộ, Đảng viên của Đảng?
A. Tài năng
B. Phẩm chất chính trị
C. Đạo đức
D. Cả 3 đáp án trên
Câu 6: Trong các phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong
thời đại mở, phẩm chất đạo đức nào là quan trọng nhất, bao trùm nhất?
A. Trung với nước, hiếu với dân
B. Yêu thương con người
C. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
D. Tinh thần quốc tế trong sáng
Câu 7: Hồ Chí Minh quan niệm như thế nào về tầm quan trọng của hai yếu tố
tài và đức?
A. Coi trọng mặt đức và xem nhẹ mặt tài
B. Coi trọng mặt tài và xem nhẹ mặt đức
C. Đức và tài phải gắn liền với nhau
D. Tuyệt đối mặt đức
Câu 8: Theo Hồ Chí Minh, việc tu dưỡng đạo đức ở mỗi người phải thực hiện
trong
A. Mọi hoạt động thực tiễn, mọi mối quan hệ xã hội
B. Mọi hoạt động thực tiễn
C. Mọi mối quan hệ xã hội
D. Tất cả mọi mặt đời sống
Câu 9: Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi nào?
A. Những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh
B. Những giá trị cốt lõi trong đạo đức Hồ Chí Minh
C. Những giá trị cốt lõi trong hành động Hồ Chí Minh
D. Những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
Câu 10: Theo Hồ Chí Minh, cùng với việc xây dựng và bồi dưỡng những
phẩm chất đạo đức mới nhất thiết phải đấu tranh chống?
A. Những tệ nạn xã hội
B. Những tiêu cực, thoái hóa, biến chất
C. Thói hư, tật xấu
D. Những biểu hiện sai trái, xấu xa, những tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến
chất

You might also like