You are on page 1of 24

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

BÀI TẬP NHÓM


HỌC PHẦN: CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG

BÁO CÁO: ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Văn Nguyên


Lớp: CTHĐC-49-QHQT.2_LT
Nhóm: 02
Nhóm trưởng: Nguyễn Thu Ngân

1
MỤC LỤC

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3

PHẦN II: NỘI DUNG ........................................................................................................................ 4

1. Sự xuất hiện đảng phái chính trị và vai trò của các đảng phái trong đAời sống chính trị của quốc gia..................... 4
1.1. Sự xuất hiện đảng phái chính trị .............................................................................................................................. 4
1.2. Định nghĩa Đảng phái chính trị................................................................................................................................. 5
1.3. Các yếu tố cấu thành một đảng ............................................................................................................................... 5
1.4. Vai trò của các đảng phái trong đời sống chính trị của quốc gia ............................................................................ 6

2. Phân loại các chính đảng ......................................................................................................................................... 8


2.1. Hệ thống đa đảng ..................................................................................................................................................... 8
2.2. Chế độ lưỡng đảng ................................................................................................................................................... 8
2.3. Chế độ một đảng cầm quyền ................................................................................................................................... 9

3. Cơ cấu tổ chức của các chính đảng.......................................................................................................................... 9


3.1. Cơ cấu tổ chức đảng trong nghị viện ....................................................................................................................... 9
3.2. Cơ cấu tổ chức đảng ngoài nghị viện ..................................................................................................................... 10

4. Đảng phái chính trị ở một số quốc gia ................................................................................................................... 11


4.1. Hệ thống đa đảng ở Pháp ...................................................................................................................................... 11
4.2. Hệ thống lưỡng đảng ở Mỹ.................................................................................................................................... 12
4.3. Chế độ một đảng cầm quyền tại Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam ................................................................ 15

PHẦN III: LIÊN HỆ ........................................................................................................................ 18

PHẦN IV: KẾT LUẬN .................................................................................................................... 22

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 22

DANH SÁCH THÀNH VIÊN .......................................................................................................... 24

2
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trong đời sống chính trị của các quốc gia, đảng phái chính trị đóng một
vai trò hết sức quan trọng. Việc nghiên cứu các đảng phái có ý nghĩa rất lớn trong khoa
học xã hội nói chung và trong chính trị học nói riêng. Để làm rõ về chủ đề đảng phái chính
trị, nhóm 02 đã tập trung trình bày những nội dung chính như sau: Làm rõ sự xuất hiện và
vai trò của các đảng phái trong đời sống chính trị của quốc gia, trong đó có trình bày định
nghĩa “đảng phái chính trị”, chỉ ra các yếu tố cấu thành một đảng; Phân loại các chính
đảng (có giải thích khái niệm và phân tích ưu, nhược điểm của từng loại); Phân tích cơ
cấu tổ chức của các chính đảng; Liên hệ, phân tích các đảng phái ở một số quốc gia. Bên
cạnh đó, nhóm cũng đã liên hệ, mở rộng tới vấn đề một đảng cầm quyền ở Việt Nam.

3
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Sự xuất hiện đảng phái chính trị và vai trò của các đảng phái trong đời sống chính
trị của quốc gia
1.1. Sự xuất hiện đảng phái chính trị
Đảng chính trị là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp. Sự tồn tại của đảng
chính trị gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự không đồng nhất của các
giai cấp đó. Nhưng lịch sử thực sự của đảng chính trị chỉ bắt đầu trong điều kiện đấu tranh
giai cấp đã phát triển đến trình độ nhất định của đấu tranh chính trị, khi mục tiêu giành
chính quyền được đặt ra trực tiếp.
Lịch sử của đảng chính trị bắt đầu từ thời kì cách mạng tư sản. Các quốc gia có
đảng chính trị xuất hiện sớm như là Anh, Pháp. Từ thế kỉ XIX, nhiều đảng phái chính trị
hình thành và hoạt động mạnh mẽ.
Sự xuất hiện của các đảng phái chính trị được nhiều học giả giải thích như sau:
Thứ nhất, các đảng phái chính trị xuất hiện từ những nỗ lực của các tác nhân chính
trị, nhằm xây dựng những liên minh và điều phối các hoạt động mang tính tập thể, cần
thiết cho sự giành quyền kiểm soát và sử dụng bộ máy chính quyền. Những đảng phái này
xuất phát từ quyền liên kết và tự hiệp hội của các cá nhân.
Trong điều kiện lịch sử mới, việc thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước được
tiến hành bằng phương pháp bầu cử, dân chủ. Khi sự lựa chọn tập thể được thực hiện
thông qua những lá phiếu thì tổ chức bao giờ cũng có lợi thế. Khi một hành động hay một
quyết định đòi hỏi đa số các thành viên tham gia đồng ý, thì tổ chức là hết sức thiết yếu.
Điều đó đã khiến cho việc xây dựng các liên minh nhân dân, các đảng phái trở nên hết sức
quan trọng.
Thứ hai, một giai cấp hay một giai tầng nào đó muốn cầm quyền thì giai cấp, giai
tầng đó phải bằng cách thức nào đó tập trung ý chí của mình lại. Việc tập trung tất yếu
dẫn đến sự ra đời các tổ chức của những người tiên tiến nhất, đại diện cho giai cấp hay
giai tầng. Các tổ chức đó chính là những đảng phái chính trị.
Việc thành lập các đảng phái chính trị của các nước tư bản thường gắn liền với hoạt
động nghị viện. Nhằm tập hợp ý chí chung của các nghị sĩ, để biến những ý chí chung ấy
thành các quyết định của nghị viện, các nghị sĩ đã tập hợp nhau thành các nhóm. Chính
những nhóm đó trở thành cơ sở cho các đảng phái chính trị sau này.
Một số người lại cho rằng, sự phát triển và xuất hiện của các đảng phái là thể hiện
trình độ phát triển của xã hội. Trình độ phát triển xã hội đòi hỏi phải có những lực lượng

4
cải cách xã hội. Chính những đòi hỏi đó là tiền đề cho việc xuất hiện các đảng phái chính
trị.
1.2. Định nghĩa Đảng phái chính trị
Từ trước đến nay, trên thế giới đã có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về
đảng chính trị, có thể nêu ra một số quan niệm tiêu biểu như sau:
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Đảng chính trị là một tổ chức chính
trị của một giai cấp, đại biểu lợi ích cho giai cấp đó. Đảng chính trị ra đời nhằm mục đích
đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Đảng chính trị lãnh đạo giai cấp đấu
tranh giành chính quyền bằng phương pháp cách mạng và bạo lực cách mạng”.
Nhà triết học chính trị Xô viết Anatoli Butenko cho rằng: “Chính đảng là tổ chức
chính trị đoàn kết những đại biểu tích cực nhất của một giai cấp và xã hội nhất định (hay
một nhóm xã hội) và thể hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp đó”.
Nhà khoa học chính trị người Mỹ Anthony Downs định nghĩa: “Một đảng chính trị
là một đội ngũ, gồm nhiều người, tìm kiếm việc kiểm soát chính quyền một cách chính
danh, thông qua việc thực hiện một cuộc bầu cử hợp lệ”.
Nhà Đảng học người Pháp M. Duverger cho rằng: “Đảng chính trị là tổ chức của
những người tự nguyện, được lập ra để tranh cử vào các cơ quan công quyền”.
Từ những quan niệm trên, có thể rút ra định nghĩa chung nhất về Đảng phái chính
trị: “Đảng phái chính trị (thường được gọi tắt là chính đảng hay đảng) là một tổ chức chính
trị tự nguyện với mục tiêu có được một quyền lực chính trị nhất định trong chính quyền,
thường là bằng cách tham gia các chiến dịch bầu cử.”
Các đảng thường có một hệ tư tưởng hay một đường lối nhất định, nhưng cũng có
thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi ích riêng rẽ. Các đảng thường có mục tiêu thực
hiện một nhiệm vụ, lý tưởng của một tầng lớp, giai cấp, quốc gia để bảo vệ quyền lợi của
tầng lớp, giai cấp hay quốc gia đó.
1.3. Các yếu tố cấu thành một đảng
Muốn trở thành một đảng phái chính trị thì đảng đó phải đạt được một số tiêu chuẩn
nhất định. J. Lapalombara người Mỹ, một trong những chuyên gia có uy tín nhất về đảng
phái học đã nêu bốn yếu tố cấu thành đảng:
Thứ nhất, đảng đó phải có hệ tư tưởng - mọi đảng phái về bản chất là người đại
diện cho hệ tư tưởng hoặc ít nhất cũng phải thể hiện một định hướng nhất định về thế giới
quan hoặc nhân sinh quan.

5
Thứ hai, đảng là một tổ chức, nghĩa là có một sự liên kết con người tương đối lâu
dài theo thời gian thành các thành viên (đảng viên) hợp thành là một thiết chế mà nhờ đó
đảng khác với các tập hợp người khác.
Thứ ba, mục tiêu của đảng là giành và thực hiện quyền lực nhà nước. Muốn trở
thành đảng cầm quyền, đảng đó phải có chương trình vận động tranh cử, phải được nhân
dân tín nhiệm.
Thứ tư, mỗi đảng phải cố gắng bảo đảm cho mình một sự ủng hộ rộng rãi của nhân
dân.
1.4. Vai trò của các đảng phái trong đời sống chính trị của quốc gia
a. Đối với nhà nước tư sản
Thứ nhất, hoạt động của các đảng phái đã làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động
không theo quy định của pháp luật và trở nên hình thức. Đây cũng là nguyên nhân làm
cho hiến pháp, pháp luật của nhà nước tư bản mang tính giả tượng, không có hiệu lực
pháp lý trên thực tế.
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật nhà nước Anh, Nữ hoàng được quyền bổ nhiệm
Thủ tướng – người đứng đầu bộ máy hành pháp. Song, Nữ hoàng Anh không thể bổ nhiệm
một người nào khác nếu như người đó không phải là thủ lĩnh của đảng cầm quyền (đảng
chiếm đa số ghế trong nghị viện). Các đảng viên trong Nghị viện Anh không thể biêu
quyết theo ý chí của bản thân, mà buộc phải theo ý chí của đảng mình. Vì vậy, trong nhà
nước tư sản không thể có sự phân chia quyền lực nhà nước theo lý thuyết phân quyền giữa
lập pháp, hành pháp, tư pháp mà thực tế chỉ là phân chia quyền lực giữa các đảng phái.
Thứ hai, vai trò tổ chức để vạch ra “ý chí chung”, tiến hành một cuộc đấu tranh
bằng nhiều biện pháp để giành được chính quyền nhà nước. Các chính đảng phải hành
động như những cơ quan xúc tác phối hợp những nguyện vọng, hệ thống hoá những tiềm
vọng, những ý kiến khác nhau, thậm chí có nhiều khi còn mâu thuẫn lẫn nhau, thành một
chương trình hành động cụ thể, một chính sách nhất định.
Vạch ra một chương trình chung giành chính quyền là một chức năng quan trọng
nhất của các đảng phái chính trị. Ngoài ra, còn có một số chức năng nữa như giáo dục tư
tưởng, tuyên truyền phổ biến tư tưởng của mình cho quần chúng.
Thứ ba, vai trò của đảng phái với bầu cử. Vận động tranh cử là một chức năng quan
trọng của đảng phái. Để thực hiện chức năng này, các đảng phái có nhiệm vụ giới thiệu
ứng cử viên. Các đảng phái chính trị giới thiệu ứng cử viên vào quốc hội cũng như vào

6
các chức danh quan trọng khác của nhà nước theo các thể thức khác nhau, tùy theo quy
định, thông lệ của từng đảng phái và của từng nước.
Thứ tư, vai trò đứng ra thành lập chính phủ của đảng cầm quyền. Đảng chiếm đa số
ghế trong nghị viện, đảng mà ứng cử viên của mình thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống,
có quyền đứng ra thành lập chính phủ. Đảng cầm quyền đề ra đường lối, định hướng phát
triển kinh tế - xã hội thông qua cương lĩnh chính trị, đào tạo, bố trí tuyển lựa thành viên
của đảng vào các cương vị chủ chốt của chính quyền, chuẩn bị các chính sách, chiến lược
hoạt động của nhà nước.
Thứ năm, vai trò đối lập của đảng không cầm quyền. Đảng không cầm quyền kiềm
chế, đối trọng, giám sát đảng cầm quyền, là “cái van” điều chỉnh hoạt động của đảng cầm
quyền. Nhiệm vụ cụ thể thể hiện chức năng đối lập của đảng không cầm quyền là tìm ra
những khiếm khuyết trong chính sách của đảng cẩm quyền, canh chừng cẩn thận những
người đang thi hành nhiệm vụ cai trị đất nước. Chính sự đối lập này đã có tác dụng nhất
định trong việc thận trọng hơn khi nhà nước tư sản đưa những quyết định của mình ra
thực hiện.
Ở Anh, Mỹ và những nơi có hệ thống lưỡng đảng, một trong hai đảng này thay nhau
cầm quyền. Còn những nước có hệ thống đa đảng, không có đảng nào chiếm đa số ghế
trong quốc hội, thì buộc phải thành lập chính phủ liên minh các đảng phái. Vì vậy, nhiệm
vụ chủ yếu của các đảng phái chính trị là phấn đấu trở thành đảng cầm quyền. Và muốn
trở thành một đảng cầm quyền, thì trước hết chính đảng phải có vai trò tổ chức để vạch ra
“ý chí chung”, tiến hành một cuộc đấu tranh bằng nhiều biện pháp để giành được chính
quyền nhà nước. Tất cả những vai trò khác sẽ đi từ vai trò này một cách tự nhiên.
b. Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa
Ở các nước xã hội chủ nghĩa với chế độ “nhất nguyên chính trị” chỉ tồn tại duy nhất
một đảng là Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản là đội tiên phong, là đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Khi đã trở thành lực lượng cầm quyền,
Đảng Cộng sản có vai trò to lớn, trách nhiệm nặng nề đối với giai cấp và vận mệnh dân
tộc; là lực lượng lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân” và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

7
2. Phân loại các chính đảng
2.1. Hệ thống đa đảng
Khái niệm: là hệ thống của các nước có nhiều đảng phái tồn tại, các đảng phái này
buộc phải liên minh với nhau để thành lập chính phủ, không có đảng nào chiếm đa số
tuyệt đối trong nghị viện. Ví dụ: Pháp, Italia, Cộng hoà Liên bang Đức.
Trong một nước đa đảng, chính phủ được thành lập là một chính phủ liên hiệp vì
không có một đảng nào chiếm được đa số ghế trong quốc hội.
Ưu điểm: Đa đảng đưa lại một số tác động tích cực nhất định cho các đảng tư sản
và chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho họ khả năng tránh nguy cơ độc quyền, độc
đoán, hạn chế sự lạm quyền, tuỳ tiện sử dụng quyền lực.
Nhược điểm: số đảng quá nhiều là một trở ngại cho việc điều hành chính phủ. Chính
phủ khó thi hành được những chính sách có chương trình quy mô và liên tục, dễ xảy ra
những trường hợp bất ổn định chính trị. Thực tế đã và đang diễn ra ở không ít các quốc
gia đa đảng tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau, gây ra rối loạn an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội.
2.2. Chế độ lưỡng đảng
Khái niệm: hệ thống ở các nước có 2 đảng thay phiên nhau cầm quyền. Một đảng
cầm quyền và một đảng đối trọng với đảng cầm quyền. Ví dụ: Anh, Mĩ
Đảng cầm quyền sẽ đứng ra thành lập chính phủ. Thủ lĩnh của đảng cầm quyền là
người đứng đầu hành pháp. Ở chế độ tổng thống, đảng cầm quyền là đảng có người thắng
cử trong cuộc bầu cử tổng thống, thường là thủ lĩnh của đảng đó hoặc ít nhất cũng được
tính là nhân vật số một của đảng. Sau đó sẽ lựa chọn các thành viên thân cận trong đảng
của mình vào các chức vụ chủ chốt của nhà nước.
Đảng không cầm quyền có vai trò đối lập. Có trách nhiệm giúp đảm bảo rằng đảng
cầm quyền đang điều hành đất nước một cách đúng đắn, phù hợp với pháp luật của quốc
gia và sẵn sàng thay thế đảng cầm quyền. Ví dụ: Pháp luật Anh cho phép thành lập “Nội
các trong bóng tối” của đảng phái đối lập và được nhà nước trả lương để thực hiện nhiệm
vụ đảng đối lập của mình.
Ưu điểm: ít bị bế tắc hoạt động chính trị, phù hợp cho các quốc gia bị chia rẽ dân
tộc, chủng tộc.

8
Nhược điểm: dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục bộ chỉ biết phản
đối tất cả chính sách của đảng cầm quyền, bất chấp phải-trái, đúng-sai, không tôn trọng
những lợi ích chính đáng của nhân dân.
2.3. Chế độ một đảng cầm quyền
Khái niệm: là chế độ luôn luôn chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, hay còn được
gọi là hệ thống chính trị nhất nguyên. Ví dụ: Trung Quốc, Việt Nam.
Chế độ này có ưu điểm là dễ ổn định chế độ chính trị, nhưng nhược điểm là cũng
dễ rơi vào tình trạng toàn trị, làm cho bầu cử và hoạt động của nghị viện rất dễ rơi vào
tình trạng hình thức. Các chính khách có thể được thay đổi qua các cuộc bầu cử quốc hội
nhưng rất ít. Ngoài ra trong hệ thống chính trị một đảng rất dễ rơi vào tình trạng đảng trị.
Hình thành bộ máy của đảng song song với bộ máy của chính quyền (bộ máy hành pháp).
3. Cơ cấu tổ chức của các chính đảng
3.1. Cơ cấu tổ chức đảng trong nghị viện
Nhóm đảng phái nghị viện là tập hợp các nghị sĩ trực thuộc một đảng. Hoạt động
của nhóm đảng phái này ảnh hưởng rất lớn đến nghị viện. Thông qua các đảng viên nghị
sĩ mà đảng phải thực hiện sự ảnh hưởng của mình đối với nhà nước và đối với xã hội. Đối
với đảng cầm quyền, thông qua nghị sĩ mà lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội.
Về số lượng thành viên, theo quy định của quy chế nhiều nghị viện, một nhóm đảng
phái trong nghị viện phải có một số lượng thành viên – nghị sĩ nhất định, tùy theo quy
định của mỗi nước. Ví dụ: ở Công hòa Liên bang Đức là 15, Thụy Điển là 5. Nếu đảng
nào không đủ số lượng mà quy chế nghị viện quy định thì có thể liên kết với các đảng
phái khác (Italia).
Về thành phần, trong thành phần của mỗi nhóm đảng phái có chủ tịch, có thể có
phó chủ tịch, thư ký và các nghị sĩ (đảng viên). Chủ tịch, phó chủ tịch thường có trách
nhiệm lãnh đạo và gìn giữ kỷ luật đảng đối với đảng viên. Để quyết định của các nhóm
đảng viên – nghị sĩ không mâu thuẫn với cơ quan lãnh đạo toàn đảng, ở đa số các nước tư
bản chủ tịch đảng phái nghị viện thường là người lãnh đạo cơ quan trung ương của đảng.
Ví dụ: Cơ cấu tổ chức đảng trong nghị viện Anh: ở nghị viện Anh có hai nhóm đảng
phái chính: nhóm Công đảng và nhóm Đảng Bảo Thủ:
Nhóm Công đảng: bao gồm tất cả các nghị sĩ là đảng viên Công đảng. Những nghị
sĩ này bầu ra chủ tịch, đồng thời là thủ lĩnh toàn bộ Công đảng. Nếu đảng này giành được
chính quyền thì vị chủ tịch sẽ là thủ tướng nước Anh. Bên cạnh chủ tịch, các nghị sĩ Công
đảng còn bầu ra phó chủ tịch, có nhiệm vụ thay mặt chủ tịch giải quyết các công việc có

9
liên quan đến đảng viên là đại biểu và cả công việc khác của đảng viên ngoài nghị viện.
Ngoài hai vị trí quan trọng trên, các đảng viên nghị sĩ Công đảng còn bầu Chief Whip (cái
roi chính) có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ kỷ luật đảng của các đảng viên nghị sĩ trong
việc tham dự và biểu quyết ở các phiên họp theo sự chỉ dẫn của đảng. Nghị sĩ nào biểu
quyết trái với chỉ dẫn của đảng, thì phải tuyên bố từ bỏ đảng mà mình trực thuộc.
Nhóm Đảng Bảo thủ: tổ chức các nhóm đảng viên nghị sĩ tập trung hơn. Thủ lĩnh
Đảng Bảo thủ sau lần bầu có nhiệm kỳ suốt đời, trừ trường hợp tự nguyện từ chức hoặc
mệnh chung. Trường hợp khuyết, thì thường hạ nghị sĩ nhóm họp lại bầu thủ lĩnh. Chức
năng của thủ lĩnh Đảng Bảo thủ giống như của Công Đảng. Trong thành phần ban lãnh
đạo của đảng viên – nghị sĩ Bảo thủ cũng có Chief Whip để theo dõi việc biểu quyết của
các đảng viên của Đảng Bảo thủ theo sự chỉ dẫn của thủ lĩnh. Thông qua việc lãnh đạo
các đảng viên nghị viện của đảng mà thủ lĩnh lãnh đạo hoạt động của toàn bộ đảng trong
và ngoài nghị viện.
3.2. Cơ cấu tổ chức đảng ngoài nghị viện
Các đảng phái chính trị tư sản không những chỉ được tổ chức trong nghị viện, mà
còn được tổ chức ngoài nghị viện. Về tổ chức, các đảng phái thường được phân làm: các
tổ chức cơ quan đảng ở trung ương và các tổ chức cơ quan ở địa phương.
Cơ sở tổ chức đảng là các đảng bộ được tổ chức theo đơn vị hành chính nhà nước.
Cơ quan đảng của đơn vị hành chính cấp trên có quyền lãnh đạo cơ quan đảng của đơn vị
hành chính cấp trực thuộc. Toàn bộ hoạt động của các cơ quan đảng địa phương phải đặt
dưới sự lãnh đạo của cơ quan đảng trung ương.
Ví dụ: Tổ chức cơ sở của Đảng Bảo thủ ở Anh là các hiệp hội cấp quận. Để lãnh
đạo hoạt động, hiệp hội đảng cấp quận bầu ra một văn phòng gồm: một chủ tịch, ba phó
chủ tịch và một thư ký. Nhiệm vụ chính của hiệp hội cấp quận là tuyển mộ đảng viên,
tuyên truyền cho liên hiệp, chuẩn bị cho các cuộc vận động tranh cử. Cơ quan cấp trên
của hiệp hội cấp quận là liên hiệp cấp miền gồm một hội đồng đại diện các hiệp hội cấp
quận, một ủy ban chấp hành và một số ủy ban chuyên môn. Nhiệm vụ của các liên hiệp
cấp miền là phối hợp hoạt động giữa các hiệp hội cấp quận trong chung một miền.
Song song với các cơ quan tổ chức đảng, còn có các tổ chức bao gồm các nhân viên
đứng ngoài hệ thống tổ chức, trực thuộc trực tiếp vị lãnh đạo đảng, đóng vai trò quan trọng
trong việc điều khiển chung của đảng. Trước hết phải nói đến văn phòng trung ương.
Chính văn phòng này có nhiệm vụ hướng dẫn, phối hợp mọi công tác của đảng trong toàn
quốc. Các nhân viên của văn phòng được gửi đến bên cạnh các hội đồng cấp quận, hội

10
đồng cấp miền và có bổn phận phổ biến các chỉ thị, bảo đảm kỷ luật chung của đảng ở
mọi cấp.
4. Đảng phái chính trị ở một số quốc gia
4.1. Hệ thống đa đảng ở Pháp
Pháp là nước điển hình cho chế độ chính trị đa đảng thực sự vì có nhiều đảng có cơ
hội trở thành đảng cầm quyền. Giải thích cho việc tồn tại chế độ đa đảng ở Pháp có nhiều
nguyên nhân như: lịch sử phát triển của các đảng phái, xã hội Pháp đa dạng và có nhiều
lợi ích khác nhau cần nhiều đảng để dung hòa lợi ích, truyền thống dân chủ,... Nhưng lý
do quan trọng nằm chính trong hệ thống bầu cử của nước Pháp mà đặc biệt là bầu cử tổng
thống Pháp.
- Vòng 1: thực hiện phương thức đa số tương đối
- Vòng 2: thực hiện phương thức đa số tuyệt đối
Chính cơ chế bầu cử vòng 1 đã kích thích sự phát triển của các đảng và tạo cơ hội
cho tất cả các đảng cơ hội cầm quyền. Phương thức tổ chức nhà nước theo thể chế tổng
thống bán phần (lưỡng tính) cũng tạo ra khả năng tồn tại chế độ đa đảng ở Pháp.
Đặc điểm lớn nhất của chế độ đảng phái ở Pháp là đảng chính trị và các nhóm chính
trị khi tham gia vào đời sống chính trị thường tập hợp nhau lại thành 2 phe rất rõ ràng:
Phe tả và Phe hữu.
Nguyên nhân khiến các đảng liên kết với nhau:
- Chế độ bầu cử tổng thống buộc các đảng ít có hi vọng thắng cử phải liên kết
với đảng lớn để giành thắng lợi cho ứng cử viên chung của họ và tránh bị gạt
khỏi thị trường sau này vì tỉ lệ phiếu bầu quá ít.
- Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các thể chế nhà nước cũng buộc
đảng phái tập hợp với nhau lại để bảo vệ quyền lợi của mình (đối với phe đa số
nắm quyền) hoặc để chống đối, gây cản trở hoạt động của chính quyền (phe
đối lập).
Một số nét về 5 đảng lớn của Pháp:
(1) Đảng Cộng hoà:
Là một chính đảng cánh hữu theo chủ nghĩa bảo thủ tự do ở Pháp. Đảng được thành
lập vào ngày 30 tháng 5 năm 2015 từ việc đổi tên và tái thành lập “Liên minh vì một
phong trào bình dân (UMP)”, được thành lập vào năm 2002 dưới sự lãnh đạo của cựu
Tổng thống Pháp Jacques Chirac.

11
(2) Đảng Xã hội:
Là một đảng chính trị cánh tả hoạt động tại Pháp. Đảng Xã hội Pháp có nguồn gốc
từ phong trào tư tưởng Xã hội chủ nghĩa mà đại diện là Chi bộ Pháp của Quốc tế Công
nhân (Section française de l’Internationale ouvrière) thành lập năm 1905. Từ đại hội
Alfortville tổ chức năm 1969, đảng với tên Đảng Xã hội chính thức được thành lập. Lãnh
tụ nổi bật của Đảng Xã hội Pháp là François Mitterrand, tổng thống Pháp giai đoạn 1981-
1995.
(3) Đảng Mặt trận Quốc gia Pháp:
Là một đảng chính trị theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu và chủ nghĩa dân tộc, được
thành lập vào năm 1972 để thống nhất một loạt các phong trào dân tộc Pháp. Jean-Marie
Le Pen là lãnh tụ đầu tiên của đảng từ lúc bắt đầu cho đến khi ông từ chức vào năm 2011,
sau đó chuyển giao quyền lực cho Marine Le Pen-con gái của mình. Trong khi đảng phải
vật lộn như một lực lượng ngoài lề trong mười năm đầu, kể từ năm 1984 nó trở thành lực
lượng chính của chủ nghĩa dân tộc Pháp.
(4) Đảng nước Pháp bất khuất:
Là một đảng cánh tả, được thành lập vào 2016. Sự ra đời của đảng này đã là thách
thức lớn đối với các đảng cánh tả khác, đặc biệt là đảng Xã hội. Nhà sáng lập và lãnh đạo
của đảng là Jean-Luc Mélenchon- nhân vật chính trị nổi bật nhất của đảng này.
(5) Đảng Phục hưng (Cộng hoà Tiến bước):
Đảng Cộng hòa Tiến bước do Tổng thống Pháp đương nhiệm Emmanuel Macron
thành lập năm 2016, trước chiến dịch tranh cử tổng thống đầu tiên của ông. Điều này đã
giúp đảng trở thành một trong những đảng chính trị trẻ nhất của nước Pháp.
4.2. Hệ thống lưỡng đảng ở Mỹ
Mỹ là một đất nước có rất nhiều đảng như: Đảng Xanh, Đảng Tự do, Đảng Hiến
pháp… nhưng ứng viên tranh cử tổng thống trong 167 năm qua luôn là đại diện của hai
Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa. Hai đảng này luôn chiếm ưu thế ở mọi cấp độ chính
quyền và luôn khống chế nền chính trị Mỹ.
Hệ thống lưỡng đảng đã bắt rễ sâu trong nền chính trị Mỹ và cho dù có đảng thứ ba
xuất hiện trong các cuộc bầu cử Tổng thống, thì cũng chưa bao giờ giành được chiến thắng.
Các đảng thiểu số đôi khi cũng giành được một số chức vụ trong chính quyền cấp dưới,
nhưng hầu như không có vai trò gì quan trọng trong nền chính trị Mỹ. Cuộc ganh đua giữa
hai đảng Dân chủ và Cộng hoà là một trong những đặc điểm nổi bật và lâu đời nhất của

12
nền chính trị Mỹ kể từ những năm 1860, phản ánh những đặc trưng về mặt cơ cấu của hệ
thống chính trị Mỹ và sự khác biệt về mặt đảng phái của Mỹ so với các nước khác.
Sự khác biệt của Đảng Cộng hoà và Đảng Dân chủ:
Đảng Cộng hoà Đảng Dân chủ
Thành Năm 1854 bởi những người theo Năm 1828 bởi Andrew Jackson
lập chủ nghĩa bãi nô và một số thành
viên cũ của đảng Whigs
Ý thức hệ Truyền thống (cánh hữu): duy trì các Tự do cấp tiến (cánh tả):
giá trị truyền thống, gia đình, văn - Giải phóng nhân tính, loại bỏ các
hoá, lối sống. ràng buộc về giá trị truyền thống lâu
đời, loại bỏ các ước thúc đạo đức,
thúc đẩy tự do cá nhân theo bản
năng.
- Tư tưởng phe cấp tiến cực tả:
hướng tới chủ nghĩa Marx.
Biểu
tượng

Con voi Con lừa


Quy mô, Chính phủ nhỏ: tối thiểu hoá trong Chính phủ lớn: can thiệp vào các
can dự can thiệp hay điều hành tới người chính sách lớn nhỏ, muốn tăng vai
của chính dân, ít thủ tục hành chính. Trao trò trong việc giám sát người dân
phủ nhiều tự do cho người dân. trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,…
Kinh tế - Ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do - Kinh tế có sự điều hành can thiệp
và hạn chế sự can thiệp của chính của chính phủ. Phe cực tả cấp tiến
phủ vào nền kinh tế. muốn tiến đến nền kinh tế xã hội chủ
- Thuế: mức thuế thấp để khuyến nghĩa.
khích làm việc thu hút đầu tư - Thuế: mức thuế cao. Phân phối lại
- Trợ cấp: tối thiểu hoá việc trợ cấp thu nhập trong xã hội, người giàu
với quan điểm công dân cần có trách chịu thuế cao.
nhiệm với chính mình. Muốn công - Trợ cấp: ủng hộ chi nhiều cho các
dân phải tự tìm việc làm, thay vì dựa dịch vụ xã hội, trợ cấp.
vào chính phủ.
Vấn đề xã
hội:
- Nạo phá Phản đối, vì trái với đạo đức. Quan Ủng hộ. Vì theo tư tưởng tự do, gạt
thai điểm: trẻ em chưa sinh ra vẫn là trẻ bỏ vấn đề đạo đức. Quan điểm: cơ
em. thể tôi, tôi có quyền.

13
- Hôn
nhân Phản đối Ủng hộ
đồng tính

- Sở hữu Tôn trọng quyền sở hữu súng của Hạn chế qua những quy định chặt
súng người dân được ghi trong Hiến chẽ.
pháp. Người dân có quyền sở hữu vũ
khí để bảo vệ mình và gia đình mình.

- Nhập cư Phản đối nhập cư bất hợp pháp. Ủng Ủng hộ nhập cư. Lý do đằng sau là
hộ nhập cư hợp pháp dưới hình thức phiếu bầu vì cộng đồng nhập cư
thu hút người tài và lao động tay chiếm tỉ trọng lớn của đảng này.
nghề cao. Phe cực tả cấp tiến đề xuất cho
Quan điểm: nhập cư bất hợp pháp những người nhập cư bất hợp pháp
gây ra các vấn đề về xã hội, mất việc được bảo hiểm y tế và thậm chí có
làm, buôn bán ma tuý. quyền bầu cử.
Chính Cứng rắn và quyết đoán Ôn hoà và thoả hiệp
sách đối
ngoại
Tổng - Abraham Lincoln, Ronald Reagan - Andrew Jackson, John Kennedy
thống nổi - Có 20 vị Tổng thống - Có 16 vị Tổng thống
bật - Người gần nhất nắm chức Tổng - Người hiện tại đang là Tổng thống:
thống: Donald Trump Joe Biden

Đảng phái chính trị đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị Mỹ. Từ động
viên quần chúng tham gia sinh hoạt chính trị đến chi phối phần nào đường lối chính sách
của Nhà nước; từ bầu cử đến chi phối nhất định về mặt tổ chức, hoạt động của các cơ quan
nhà nước, đặc biệt là cơ quan lập pháp.
Trong lĩnh vực bầu cử, đảng phái chính trị cung cấp ứng cử viên cho các cuộc bầu
cử. Các đảng tổ chức luân phiên các chương trình nhằm bầu ra ứng cử viên, để giúp các
cử tri không phải đối mặt với sự lựa chọn giữa rất nhiều cá nhân mà người nào cũng đảm
bảo đưa ra một chương trình tốt nhất. Chính vì vậy, các đảng đóng vai trò như những tổ
chức trung gian trong quá trình bầu cử, bằng cách điều hành đằng sau những vấn đề lớn
và sàng lọc các ứng cử viên. Có thể nói các đảng phái chính trị ở Mỹ đóng vai trò như các
tổ chức quản lý nhân sự, giới thiệu người của mình tham gia các cuộc hành cử và tiến cử

14
người của mình vào các vị trí trong chính quyền. Thông qua vận động tranh cử, các đảng
này còn đóng vai trò xã hội hoá các vấn đề chính trị.
Trong bộ máy lập pháp, ở cả hai viện của Quốc hội, cơ cấu tổ chức, thủ tục thông
qua các điều luật đều được thực hiện trên cơ sở phân chia về mặt đảng phái. Bên cạnh đó,
các đảng cũng tạo ra một sự liên kết quan trọng giữa bộ máy hành pháp và lập pháp khi
các Tổng thống kêu gọi sự hợp tác của các nhà lãnh đạo đảng của họ tại Quốc hội. Trong
trường hợp đó, các bộ phận của đảng đã tạo nên một chiếc cầu nối liền “tam quyền phân
lập” với mục tiêu chung là giành lợi thế về chính trị, chẳng hạn như giành quyền kiểm
soát Nhà Trắng hay Quốc hội. Do đó, các đảng đối lập luôn cố gắng chứng minh rằng họ
có đủ phẩm chất hơn Chính phủ đương nhiệm trong việc điều hành đất nước và sẵn sàng
gánh vác trách nhiệm ngay khi nào cử tri trao cho họ cơ hội và thường xuyên chỉ trích
chính sách của đảng khác, nhằm nâng cao uy tín của đảng mình, nhất là trong các kỳ bầu
cử.
Các ủy ban trong Quốc hội cũng chịu sự tác động không nhỏ của các đảng phái
chính trị. Việc phân chia tỷ lệ thành viên các uỷ ban và tiểu ban của Quốc hội tương ứng
với số ghế của đảng đó trong Quốc hội đã hàm chứa tính đảng phái. Đảng chiếm đa số
trong Quốc hội được quyền chỉ định 2/3 số nhân viên trong các ủy ban và tiểu ban. Tỷ lệ
này làm cho việc thông qua những dự luật phù hợp với chương trình hành động của đảng
đang nắm đa số tại Quốc hội sẽ dễ dàng hơn. Trong những vấn đề mà hai đảng Cộng hoà
và Dân chủ có bất đồng, việc bỏ phiếu theo đảng phái được thể hiện rất rõ. Các nghị sỹ
Cộng hoà và Dân chủ cũng thường bị phân liệt trong những vấn đề đang chia rẽ hai bên ở
bên ngoài nghị trường. Ví dụ trong nhiều năm, phần lớn các nghị sỹ thuộc đảng Dân chủ
tại Hạ viện đã ủng hộ việc Chính phủ can thiệp vào các hoạt động của nền kinh tế và tăng
phúc lợi xã hội, trong khi các nghị sỹ Cộng hoà lại phản đối.
4.3. Chế độ một đảng cầm quyền tại Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam
Khái quát: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất
được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Ra đời ngày 3/2/1930 do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Đảng là đội tiên phong, là đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; lấy chủ nghĩa
Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Mục tiêu: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.
Nguyên tắc hoạt động: lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản; thực
hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh. Đồng
thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh

15
chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
Hệ thống tổ chức: Điều lệ Đảng quy định: Hệ thống tổ chức của Đảng được thành
lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Hệ thống tổ chức Đảng
thành lập theo cấp hành chính lãnh thổ là hệ thống cơ bản, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện
của Đảng ở mỗi cấp và của toàn Đảng. Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay
gồm:
• Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện, cơ sở,
chi bộ)
• Cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp uỷ)
• Cơ quan tham mưu giúp việc cấp uỷ (các ban đảng, đơn vị sự nghiệp của Đảng)
• Tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị xã hội
(ban cán sự đảng, đảng đoàn)

Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị:
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng Cộng sản lên Nhà nước và xã hội: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân,

16
nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Marx – Lenin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Thứ nhất, Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Trong hệ thống chính trị
của Việt Nam, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo trong từng
lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành. Sự lãnh đạo
của Đảng của đảng là lãnh đạo về chính trị và tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn
khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân
thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của
pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
Thứ hai, Đảng là thành viên trong hệ thống chính trị và đảm bảo sự ổn định của hệ
thống chính trị. Đảng cũng là một bộ phận trong hệ thống chính trị, làm việc và tuân thủ
nghiêm cũng như chịu trách nhiệm theo Hiến pháp và pháp luật. Đảng phối hợp trong các
mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội
giúp hệ thống chính trị tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó phương thức lãnh đạo của Đảng
có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, với đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể để đáp ứng hệ tống chính trị. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng luôn là một yêu cầu có tính khách quan, một nhiệm vụ
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Yêu
cầu khách quan này luôn được Đảng ta quán triệt và nhấn mạnh trong các văn kiện của
Đảng.

17
PHẦN III: LIÊN HỆ
PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM: Chế độ một đảng cầm quyền ở Việt Nam – Đảng Cộng
sản Việt Nam là độc tài, độc đoán, mất dân chủ
Vấn đề một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo, cầm quyền không phải là vấn đề mới và
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, vấn đề này phụ thuộc
vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mỗi đảng khi lên lãnh đạo, cầm quyền.
Về chủ quan, nó phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các bộ phận
trong một xã hội, mà mỗi nước có thể có một đảng hoặc nhiều đảng.
Lâu nay, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối luôn cho rằng, Việt Nam không có
dân chủ vì thực hiện chế độ nhất nguyên, nhất đảng nên “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và vì
thế dẫn đến dân chủ hình thức hoặc mất dân chủ. Trong khi đó, các tổ chức nhân danh dân
chủ phương Tây đã và đang tìm cách cổ xuý “tiêu chuẩn nhân quyền” kiểu phương Tây
vào Việt Nam, đồng thời tung tin bịa đặt với các luận điệu cho rằng: “Việt Nam thiếu văn
hóa dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân”, “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng
quyền con người”, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là
theo chế độ đảng trị, bằng “đảng chủ”; hay “một đảng cầm quyền thì không thể có dân
chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc đoán”.
Từ những luận điệu trên, có thể thấy: 1- Đây là điều phản khoa học, bởi nó cố tình
đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển; 2- Những luận điệu
trên che giấu âm mưu nham hiểm, phản động, vì thông qua đó các thế lực thù địch lợi
dụng để cổ xúy cho việc ra đời và công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị đối
lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ vai trò cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối cùng, mục tiêu của họ là xóa bỏ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để phản bác quan điểm, luận điệu trên, nhóm xin đưa ra ba ý sau đây:
Thứ nhất, địa vị cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là ý chí chủ
quan của một cá nhân hay của một lực lượng chính trị nào, mà đó là kết quả quá trình sàng
lọc khắc nghiệt của lịch sử, sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam.
Sự thực, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là lực lượng chính trị có đủ khả năng
dẫn dắt nhân dân giành được độc lập cho dân tộc, tự do. Trước khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng chính trị khác nhau, nhưng cuối cùng đều thất bại. Nhiều đảng phái thuộc mọi
khuynh hướng chính trị đã ra đời, như Đảng Lập hiến (năm 1923),Việt Nam Quốc dân
đảng (năm 1927), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách), nhưng các tổ chức

18
này đã không hoàn thành được sứ mệnh giành độc lập cho dân tộc, thậm chí nhiều đảng
phái ngày càng thoái hóa, biến chất, đi ngược lại lợi ích dân tộc, làm tay sai cho ngoại
bang. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đối với Việt Nam, không có lực lượng chính trị
nào ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ năng lực trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, uy tín để
lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng đất nước hùng cường,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được kiểm
nghiệm bởi quá trình lịch sử lâu dài, đầy khó khăn, thách thức và sự sàng lọc nghiệt ngã.
Thứ hai, từ khi trở thành đảng cầm quyền duy nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
bảo đảm phát huy dân chủ.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta xác định nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là:
Thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước, nhân dân có
quyền là chủ và làm chủ đất nước, chính quyền các cấp do nhân dân lập ra, phục vụ cho
lợi ích số đông nhân dân lao động. Ngay Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 đã quy định:
“Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước những năm trước
đổi mới. Sau khi thống nhất đất nước về mặt nhà nước (năm 1976), Đảng ta xác định:
“Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân”. Hiến pháp năm 1980 đã hiến định: Tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa là bảo đảm để nhân
dân làm chủ tập thể và bảo vệ quyền làm chủ hợp pháp của nhân dân.
Từ giai đoạn đổi mới đất nước đến nay, Đại hội VI của Đảng (12-1986) nêu rõ:
“làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa cần
được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống” và xác định cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân
dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.
Cơ chế bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân đã được Hiến pháp năm 1992 ghi
nhận rõ ràng: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Đại hội VIII của Đảng xác định: Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước.

19
Đại hội X của Đảng đánh dấu bước phát triển mới của đất nước sau 20 năm thực
hiện công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng ta về dân chủ và thực hành dân chủ đã phát
triển vượt bậc về chất, đó là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới,... Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân”.
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Hiến pháp năm 2013 nhằm cụ
thể hóa đường lối, chiến lược phát triển đất nước trong điều kiện mới. Quá trình soạn thảo,
lấy ý kiến rộng rãi của toàn thể nhân dân về dự thảo Hiến pháp 2013 đã thể hiện đây thực
sự là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn. Trong đợt lấy ý kiến cả nước về sửa đổi Hiến pháp
đã tổ chức được 28.000 cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm và thu được 26 triệu lượt ý kiến
góp ý về nội dung Hiến pháp.
Đại hội XIII của Đảng (2021) khẳng định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận
xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội”.
Thực tế này và sự ghi nhận của quốc tế đã cho thấy, ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước
luôn chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt chính sách phúc lợi và an sinh xã
hội, thúc đẩy nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Điều này còn được
minh chứng rõ hơn trong thời gian bùng phát đại dịch COVID-19, nhiều nước phát triển
châu Âu, châu Mỹ có điều kiện kinh tế cao hơn so với Việt Nam, nhưng số ca lây nhiễm
và tử vong ở các quốc gia này cao hơn Việt Nam gấp nhiều lần. Có thể hệ thống y tế công
cộng của các quốc gia này khác với Việt Nam, nhưng sự vào cuộc quyết liệt và quyết tâm
của cả hệ thống chính trị cùng sự hưởng ứng tích cực, có trách nhiệm của nhân dân trong
đại dịch khiến chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào khẳng định rằng: “Việc chúng ta ngăn
chặn và kiểm soát được đại dịch là một minh chứng hùng hồn khẳng định bản chất tốt đẹp
của chế độ ta, của hệ thống chính trị ở nước ta”. Điều này càng chứng minh rõ ràng rằng,
dù thể chế chính trị dưới hình thức nào, nhưng khi đảng cầm quyền bảo vệ, phục vụ nhân
dân ngày càng tốt hơn, vì nhân dân mà cống hiến, thì cũng có nghĩa là trong chế độ này,
dân chủ vẫn đang được bảo đảm và ngày càng phát huy sâu rộng, tính chính đáng của
đảng cầm quyền được khẳng định.
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí Ấn Độ nhân chuyến thăm quốc gia này,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân
chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác
nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống

20
ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không?
Đó là tiêu chí quan trọng nhất”.
Thứ ba, dân chủ và sự phát triển của một nước không tỷ lệ thuận với số lượng các
đảng mà quốc gia đó có. Vì thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, đa đảng nhưng
vẫn không thực sự dân chủ. Điển hình như ở Mỹ, mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai
đảng luân phiên cầm quyền là Đảng Cộng hoà và Đảng Dân chủ. Những đảng này đại
diện cho giai cấp tư sản thì tất yếu phải hướng đến phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản
chứ không thể là một “chính quyền của tất cả mọi người” như các nhà lý luận của họ đã
và đang rêu rao.
Thêm vào đó, cái gọi là “nền dân chủ Mỹ” thực chất là nền dân chủ của nhà giàu.
Tờ Thời báo tài chính (Anh) ngày 25/11/2000 đã viết: “Cuộc bầu cử năm 2000 đã cho
thấy rõ nền dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả giá cao nhất”. Có thể gọi đấy là
nền dân chủ đấu giá. Tờ Thế giới (Tây Ban Nha) cũng đã ví thói mê tiền như là “căn bệnh
ung thư của nền dân chủ Mỹ”. Sự dối trá của nền dân chủ tư sản đã bị chính cử tri của họ
lột trần bằng hành động tẩy chay các cuộc bầu cử ngày càng gia tăng. Cuộc bầu cử tổng
thống ở Mỹ các năm 1996 và 2000 chỉ có khoảng 50% cử tri tham gia.
Không thể phủ nhận, trong lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam có lúc phạm sai lầm,
khuyết điểm. Đảng đã nghiêm túc phê bình, tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm trên tinh
thần “tự soi, tự sửa”, tự đổi mới để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức
chiến đấu. Trong quá trình phát triển, cũng như ở các quốc gia đa đảng, không tránh khỏi
những tồn tại, hạn chế, nhất là vấn đề tham nhũng, tiêu cực, suy thoái nhưng vấn đề quan
trọng là Đảng ta luôn nhìn thẳng vào sự thật để chỉnh đốn, để xây dựng Đảng ngày càng
vững mạnh.
Như vậy, có thể thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của
chế độ ta không ngừng được củng cố và mở rộng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Thành tựu
về xây dựng và phát huy dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng thời gian qua là một trong
những tiền đề quan trọng, góp phần xây dựng nền tảng chính trị vững chắc cho thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc hiện thực
hóa mục tiêu xây dựng xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

21
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu, phân tích, làm rõ, liên hệ những nội dung liên quan đến đảng
phái chính trị, có thể thấy đảng phái chính trị thể hiện vai trò chi phối lên toàn bộ hệ thống
chính trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước, bằng nhà nước và thông qua nhà nước để
thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình, giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Vì
vậy, việc nhận thức đúng đắn nội hàm của phạm trù này có ý nghĩa cơ bản và là tiền đề
của nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính trị. Đồng thời, là cơ sở của đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng ta – một yêu cầu trực
tiếp của công cuộc đổi mới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Nguyễn Đăng Dung, Chính trị học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2021.
2. Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn Đính, Giáo trình Chính trị học đại cương, Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, 2012.
3. Cù Văn Trung, “Đảng chính trị, Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền và Đảng Cộng sản
cầm quyền”, Nhân lực Khoa học xã hội, số 1, 2021.
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/314982/CVv439S01202
1068.pdf
4. Nguyễn Quốc Văn, “Đảng phái chính trị và Quốc hội Mỹ”, Nghiên cứu Lập pháp,
ngày 1/12/2010.
http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/207371/dang-phai-chinh-tri-va-Quoc-hoi-My.html
5. Khánh An, “Tổng thống Mỹ, Cộng hoà hay Dân chủ?”, Báo Thanh niên, ngày
26/10/2020.
https://thanhnien.vn/tong-thong-my-cong-hoa-hay-dan-chu-1851004086.htm
6. Đặng Viết Đạt, “Luận điệu thù địch, xuyên tạc “không có dân chủ trong chế độ một
Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền” hay trò bịp cổ xúy cho nền dân chủ đa nguyên”,
Tạp chí Cộng sản, ngày 6/6/2021.
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-
/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/luan-dieu-thu-dich-xuyen-tac-khong-co-
dan-chu-trong-che-do-mot-dang-cong-san-duy-nhat-cam-quyen-hay-tro-bip-co-xuy-
cho-nen-dan-chu-da-nguyen
7. Tô Huy Rứa, “Phải chăng chế độ một đảng cầm quyền là mất dân chủ?”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, ngày 4/12/2021. http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-
in/phai-chang-che-do-mot-dang-cam-quyen-la-mat-dan-chu/2646.html
8. “Phản bác luận điệu “Không thể có dân chủ trong chế độ một Đảng duy nhất cầm
quyền ở Việt Nam””, Học viện Chính trị khu vực II, ngày 7/10/2020.

22
https://hcma2.hcma.vn/nghiencuukhoahoc/Pages/bao-ve-nen-tang-tu-
tuong.aspx?CateID=334&ItemID=11217
9. “Dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng”, Báo Dân tộc và Phát triển, ngày
27/12/2021.https://baodantoc.vn/dan-chu-khong-dong-nghia-voi-da-nguyen-da-dang-
1640577586702.htm
10. Lê Thế Cương, “Tái diễn luận điệu vu cáo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam”, Báo Công an Nhân dân, ngày 6/2/2023. https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-
hoa-binh/tai-dien-luan-dieu-vu-cao-vai-tro-lanh-dao-cua-dang-cong-san-viet-nam-
i682605/
11. Thuỳ Linh, “Các Đảng chính trị ở Cộng hòa Pháp hiện nay”, Tạp chí điện tử Lý luận
Chính trị, ngày 24/10/2016.
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tin-tuc/item/1677-chuyen-
de-%E2%80%9Ccac-dang-chinh-tri-o-cong-hoa-phap-hien-nay%E2%80%9D.html
12. “5 French political parties you need to know”. https://blog.lingoda.com/en/5-
important-french-political-parties/
13. Minh Dũng, “Sự khác biệt giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ trong chính trị Hoa
Kỳ”, ngày 9/3/2023. https://www.ntdvn.net/the-gioi/su-khac-biet-giua-dang-cong-
hoa-va-dang-dan-chu-trong-chinh-tri-hoa-ky-69756.html

23
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

1. Nguyễn Thu Ngân QHQT49C41335


(nhóm trưởng)

2. Đỗ Thị Thanh Huyền QHQT49A41232

3. Vũ Thị Ninh Nhi QHQT49A41363

4. Lê Khánh Chi QHQT49B11144

5. Miêu Khả Tú QHQT49A41476

6. Tô Bích Ngọc QHQT49A41343

7. Lê Thị Thu Hiền QHQT49A41202

8. Nguyễn Ngọc Tuệ Minh QHQT49A41313

9. Hà Thị Diệu Linh QHQT49A41284

10. Lê Ánh Quỳnh Dương QHQT49A41174

24

You might also like