You are on page 1of 37

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, CHÍNH KHÁCH VÀ CÔNG

CHỨC

CHƯƠNG VI: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, CHÍNH KHÁCH VÀ CÔNG CHỨC

PHẦN I: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

I. Các quan niệm về hệ thống chính trị


Hệ thống chính trị là khái niệm của khoa học chính trị đương đại - là một trong
những khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền lực chính trị cũng như
các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình, quy trình chính trị trong thể chế
chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản chủ nghĩa). Liên
quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau:
Quan niệm thứ nhất, hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội
được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã
hội đó. Hệ thống này bao gồm nhà nước, các chính đảng, các nghiệp đoàn và các tổ
chức chính trị khác - trong đó nhà nước là yếu tố cơ bản trung tâm.
Quan niệm thứ hai, hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó
giai cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội.
Quan niệm thứ ba, hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái
chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi ích giai
cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó.
Quan niệm thứ tư, hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai
cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Hệ thống chính trị là một cơ
cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn
tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế
định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bvệ và phát triển xã
hội đó.
Quan niệm thứ năm, hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong
xã hội bao gồm nhà nước, các đảng chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt của đời
sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với lợi
ích của chủ thể cầm quyền.

Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về hệ thống chính trị nhưng về cơ bản có
hai cách hiểu: Hiểu theo nghĩa hẹp: đồng nhất hệ thống chính trị với các yếu tố thực
thể (tổ chức) của hệ thống chính trị của giai cấp cầm quyền. Theo quan niệm này hệ
thống chính trị có nội dung trùng khớp với nội dung hệ thống chuyên chính của giai
cấp cầm quyền. Hiểu theo nghĩa rộng: ngoài các yếu tố thực thể người ta còn tính tới
cả yếu tố tinh thần của hệ thống chính trị bao gồm các quan điểm lý luận chính trị,
hoạt động chính trị, quan hệ chính trị, tư tưởng chính trị, văn hóa chính trị, các chuẩn
mực chính trị và pháp luật… tức là tất cả những gì có nội dung liên quan đến chính trị.

Trên quan điểm hệ thống cấu trúc như trên có thể xem hệ thống chính trị là khái
niệm dùng để chỉ một chính thể bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp; với những quan hệ tác động qua lại của các nhân tố đó
trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị
nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền, đồng thời đáp ứng
nhu cầu ổn định và phát triển xã hội.

II. Các yếu tố cấu thành nên hệ thống chính trị


Bất kì một chế độ chính trị nào cũng tồn tại một hệ thống chính trị, hệ thống tập
hợp các thiết chế thực thi quyền lực chính trị và có kết cấu riêng của nó.
Hệ thống chính trị được tạo thành bởi nhiều bộ phận chức năng khác nhau, bao
gồm: Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội (hợp pháp) và các nhóm
lợi ích.
1. Đảng chính trị

Đảng chính trị, hay còn gọi là đảng cầm quyền, được coi là yếu tố cơ bản của hệ
thống chính trị. Đảng chính trị là một tổ chức xã hội tự nguyện, là liên minh của
những người cùng tư tưởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định, ra sức
giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng chính trị cho phát triển xã hội.
Hiện nay trên thế giới có 2 nhóm nước với 2 hệ thống chính trị khác nhau:

2
Các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại với hệ thống “đa đảng đối lập, đa nguyên
chính trị”

Hệ thống nhiều đảng không có sự độc quyền của đảng tư sản thống trị - các Đảng
phái liên minh để lập ra chính phủ liên hiệp (Italia, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch…); hệ
thống đa đảng có đảng tư sản độc quyền - số ghế đa số trong Nghị viện thuộc về một
đảng và đảng này lập ra chính phủ một đảng (Pháp, Nhật Bản…); Hệ thống 2 đảng -
bao gồm hai đảng thuần tuý là đảng của giai cấp tư sản thay nhau cầm quyền (Hoa Kỳ)

Đặc trưng cơ bản ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại là hệ thống “đa đảng đối
lập, đa nguyên chính trị”. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa chế độ “đa nguyên chính trị”
bề ngoài thì có vẻ dân chủ - các đảng đều có quyền tự do tranh cử, liên minh… nhưng
về thực chất thì đều là “nhất nguyên chính trị”. Ngay cả trường hợp có một số đảng
liên minh cầm quyền; trong thực tế vẫn chỉ có đảng lớn nhất, có thế lực nhất nắm
quyền quyết định, và suy đến cùng là bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Ví dụ như ở nước Anh, nước có nhiều Đảng; trong đó Đảng Lao động (LP) trên
danh nghĩa bảo vệ quyền lợi cho quần chúng lao động; đại diện cho giai cấp công
nhân, tầng lớp trung lưu dưới - Đảng Lao động thường đề ra mục tiêu đòi mở rộng
chương trình phúc lợi xã hội, quan tâm đến người nghèo và giai cấp công nhân, đòi
thu thuế cao đối với người giàu. Tuy nhiên, trên thực tế Đảng Lao động thực chất là
Đảng tư sản, họ vẫn đặt lợi ích của giai cấp tư sản lên hàng đầu và bảo vệ chế độ Tư
bản chủ nghĩa.
Các nước Xã hội chủ nghĩa với chủ trương “nhất nguyên chính trị”
“Nhất nguyên chính trị” có thể hiểu là thừa nhận một hệ tư tưởng, một đường lối
của một đảng phái đại diện cho một giai cấp về thể chế chính trị. Gắn liền với “nhất
nguyên chính trị” là một đảng, một nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, quản lý xã hội. Đây
là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản chống lại giai cấp tư sản.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản là tổ chức tiên phong, là đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân và cũng là lực lượng lãnh

3
đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Hiện nay, ở một số quốc gia xã hội chủ nghĩa, tùy theo điều kiện đặc thù của mình
đã thực hiện chế độ đa đảng, nhưng vẫn do Đảng Cộng sản lãnh đạo và chế độ “nhất
nguyên chính trị”.
Ví dụ như hệ thống hợp tác đa đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo là:
Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng cầm quyền duy nhất của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và tám đảng dân chủ, dưới tiền đề chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Trung Quốc, có tư cách là bên tham gia, hợp tác với Đảng Cộng sản
Trung Quốc và tham gia quản trị.1

2. Nhà nước

Nhà nước được coi là trung tâm của hệ thống chính trị, nó thể hiện bản chất chính
trị của hệ thống chính trị và chế độ xã hội. Trên thế giới tồn tại nhiều hình thức thể chế
nhà nước, song có 2 thể chế cơ bản là Quân chủ và Cộng hòa.
2.1 Thể chế quân chủ
Thể chế quân chủ được chia thành hai loại: Quân chủ tuyệt đối (Absolute
Monarchy) và quân chủ lập hiến (Constitutional Monarchy)
a) Thể chế quân chủ tuyệt đối: Thể chế chính trị mà toàn bộ quyền lực đều thuộc
về nhà vua và được chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế “cha truyền - con nối”. Trong
xã hội ngày nay, thể chế này hầu như không còn tổn tại.
b) Thể chế quân chủ lập hiến: Loại hình thể chế mà vẫn còn tồn tại ngôi vua
nhưng nhà nước vận hành theo hiến pháp do nghị viện ban hành. Hình thức này tồn tại
ở những nước mà cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến kết thúc bằng
sự thỏa hiệp; hình thức chính thể quân chủ lập hiến vẫn còn tồn tại đến ngày nay, song
dần dần thích ứng với lợi ích của giai cấp tư sản nắm quyền.

Thể chế Quân chủ lập hiến được chia thành hai loại hình Quân chủ nhị nguyên và
Quân chủ đại nghị.

1 Theo 中国的政治制度- Hệ thống chính trị nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

4
+ Thể chế quân chủ nhị nguyên (Dualistic monarchy): Là thể chế chính trị mà
quyền lực được chia đều cho Vua và Nghị viện - tuy nhiên có khi quyền lực nhà Vua
thường lấn át Nghị viện và trong nhiều trường hợp nhà Vua có thể giải tán Nghị viện
vô thời hạn. Hình thức thể chế này hiện nay chỉ còn tồn tại ở một số ít nước như
Brunei, Arập Xêút, Tiểu Vương quốc Ả Rập, Jordan…
+ Thể chế quân chủ đại nghị (Parliamentary Monarchy): Là thể chế mà ở đó vua
đứng đầu nhà nước nhưng quyền lực tập trung trong tay nghị viện, quyền lực nhà vua
chủ yếu chỉ mang tính hình thức. Vua là biểu tượng của sự thống nhất phi chính trị và
không thiên vị; nhưng trên thực tế thì vua vẫn chịu ảnh hưởng của Đảng cầm quyền.
Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao do nhân dân bầu, nghị viện có quyền thành
lập và giải tán chính phủ. Quyền lực chủ yếu tập trung vào người đứng đầu cơ quan
hành pháp là thủ tướng. Tiêu biểu cho hình thức thể chế này là Vương quốc Anh, Nhật
Bản, Úc, Thái Lan, Campuchia…

2.2 Thể chế cộng hòa

Ở các nước tư bản chủ nghĩa và một số nước đang phát triển, hình thức thể chế
này có ba loại: Cộng hòa Tổng thống, Cộng hòa Đại nghị, Cộng hòa hỗn hợp. Ở các
nước xã hội chủ nghĩa phổ biến là mô hình Cộng hòa Xô Viết; Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa.

+ Thể chế Cộng hòa Tổng thống (Presidentic Republic): Thể chế mà tổng thống là
nguyên thủ quốc gia và là người đứng đầu cơ quan hành pháp với quyền hạn vô cùng
lớn. Tổng thống lập ra chính phủ, các thành viên Chính phủ do Tổng thống cử ra và
chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Một số quốc gia theo thể chế này hiện nay điển
hình là Mỹ, các nước Châu Mỹ La-tinh, Liên Bang Nga…

+ Thể chế Cộng hòa đại nghị (Parliamentary Republic): Đây được xem là mô
hình dân chủ nhất trong mô hình chính thể tư sản với đặc trưng tiêu biểu là quyền lực
tập trung vào Nghị viện.

5
+ Thể chế Cộng hòa hỗn hợp (Republic of mixtures): Đặc điểm của thể chế này là
Tổng thống và Nghị viện đều do nhân dân bầu ra. Một số quốc gia theo thể chế này
tiêu biểu là Pháp, Phần Lan, Hàn Quốc, Mông Cổ…

+ Thể chế chính trị Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Socialist Republic): Quyền lực
nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân nhưng vẫn có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quyền lực tối cao thuộc về Quốc hội. Khác với thể chế cộng hòa, trong hệ thống tư
pháp của thể chế chính trị Cộng hòa xã hội chủ nghĩa có cơ quan Viện Kiểm sát.

3 Các tổ chức chính trị xã hội (hợp pháp) và các Nhóm lợi ích

Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm các tổ chức mà hoạt động của chúng vừa
mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội. Đây là các tổ chức của công dân, vì bảo vệ
lợi ích của tổ chức và lợi ích của các thành viên mà tìm cách gây tác động, ảnh hưởng
đối với chính quyền và đảng phái chính trị.

Ở các nước tư bản chủ nghĩa, trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị bên cạnh
Đảng cầm quyền, Nhà nước, còn có các Nhóm lợi ích chính trị. Các nhóm này tác
động vào việc hoạch định chính sách của các đảng chính trị và chính quyền. Các nhóm
lợi ích chính trị, ở một khía cạnh nào đó có thể hiểu là các đoàn thể nhân dân (các tổ
chức chính trị - xã hội). Tuy nhiên, các đoàn thể nhân dân (các tổ chức chính trị - xã
hội) là các tổ chức nằm ngoài nhà nước; còn Nhóm lợi ích chính trị thì có thể tồn tại
ngay bên trong nhà nước.

Các Nhóm lợi ích chính trị là một loại thể chế chính trị (tổ chức) không thể thiếu
trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản. Về mặt lý thuyết, các
nhóm lợi ích chính trị có vai trò trong việc đấu tranh để đảm bảo lợi ích của quần
chúng; nhưng trên thực tế nó cũng chỉ là thiết chế của tầng lớp thượng lưu và trung
lưu có xu hướng thỏa hiệp với nhà nước vì lợi ích của giới thượng lưu và nội bộ giai
cấp tư sản. Do đó, xét đến cùng, nó cũng chỉ là công cụ để giai cấp tư sản thực hiện
quyền lực chính trị của mình.

6
Một số nhóm lợi ích chính trị tiêu biểu ở các nước tư bản chủ nghĩa:
Ở Anh: Nhóm lợi ích có tính thể chế (như Hội những quan chức thủ đô, Hội của
những người đồng tỉnh ở Nghị viện); Các tổ chức quốc gia (như Hiệp hội thương mại;
Các tổ chức công đoàn Anh (Liên đoàn công nghiệp Anh; Liên hiệp công nhân Anh,
Liên hiệp công đoàn, Hội các thành viên thương mại Anh).

Ở Mỹ: Các nhóm thảo luận chính sách (Hội thống đốc toàn quốc, Hiệp hội toàn
quốc các chủ xưởng , Liên hiệp dân sự toàn quốc, Uỷ ban Đại hội, Ban Hội thảo; Uỷ
ban phát triển kinh tế; Hiệp hội các nhà sản xuất quốc gia, Phòng Thương mại Hoa kỳ,
Viện Doanh nghiệp Mỹ); Các tổ chức Công đoàn (Liên đoàn lao động và đại hội các
tổ chức công nghiệp Mỹ, gọi tắt là AFL - CIO); Các tổ chức phi chính phủ (NGO -
hoạt động vì mục đích nhân đạo, cứu trợ, từ thiện, trao đổi văn hoá - kỹ thuật).

Ở nước ta có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội của
nhân dân lao động: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là “tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.”2 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ
thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

III. Chức năng, vai trò của hệ thống chính trị


1. Chức năng của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị chính là cơ chế thực thi quyền lực thống trị của giai cấp cầm
quyền; là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị thực hiện quyền lực
chính trị trong xã hội.
Quyền làm chủ của nhân dân lao động được thực hiện thông qua hệ thống chính
trị. Xét theo khía cạnh này, hệ thống chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa về bản chất là
thống nhất.Trong hệ thống chính trị ở nước ta: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và
2 Điều 9 - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

7
bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành
mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng,
quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà
nước3.

2. Vai trò của hệ thống chính trị


Đầu tiên, hệ thống chính trị nắm vai trò duy trì, bảo vệ và phát triển xã hội. Thông
qua hệ thống chính trị, giai cấp thống trị duy trì an ninh chính trị, đảm bảo trật tự, an
toàn xã hội. Đồng thời qua hệ thống các cơ quan an ninh, tổ chức và phối hợp với hệ
thống quân sự từ trung ương đến địa phương, vấn đề an ninh quốc gia được đảm bảo.
Từ chỗ an ninh chính trị được đảm bảo, hệ thống chính trị điều khiển nền sản xuất xã
hội thông qua quan hệ sản xuất do giai cấp thống trị thiết lập với các giai cấp, giai tầng
khác. Bên cạnh đó, đời sống xã hội bao gồm rất nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau
chẳng hạn như: kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng,.. Mỗi ngành, lĩnh vực
đó đều phải được quản lý để duy trì sự ổn định, trật tự trong vòng kiềm tỏa do giai cấp
thống trị đặt ra. Vì vậy vai trò quản lý xã hội của hệ thống chính trị được thiết lập trên
các mặt của đời sống xã hội thông qua các thiết chế hành pháp.
Thứ hai, hệ thống chính trị giúp giai cấp thống trị thực hiện quyền lực chính trị
trong xã hội. Quyền lực chính trị là công cụ, phương tiện để giai cấp thống trị sử dụng
nhằm đạt mục đích thống trị của mình. Muốn sử dụng quyền lực đó, giai cấp thống trị
phải lập ra các thiết chế sử dụng đó là hệ thống chính trị. Mỗi một bộ phận cấu thành
hệ thống có sự phân chia quyền lực khác nhau để cùng thực hiện mục tiêu thống trị
của giai cấp nắm quyền. Đảng chính trị sử dụng quyền lực chính trị thông qua các biện
pháp định hướng, lãnh đạo. Nghị viện sử dụng quyền lập pháp, Chính phủ sử dụng
quyền hành pháp và các cơ quan Tòa án, công tố, kiểm sát thì sử dụng quyền tư pháp.
Thứ ba, hệ thống chính trị giúp củng cố, duy trì, phát triển chế độ xã hội đương
thời phù hợp với lợi ích của chủ thể cầm quyền. Bất cứ một hệ thống chính trị nào
cũng mang bản chất của giai cấp thống trị lập ra hệ thống đó. Đồng thời, quá trình tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị không nhằm mục đích nào khác là bảo vệ
quyền lợi, bảo vệ sự thống trị của giai cấp nắm quyền. Hệ thống chính trị chính là hiện

3 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. Hà Nội 2011, tr
84,85,86.

8
hữu của sự thống trị mà giai cấp nắm quyền đặt ra, và đến lượt mình hệ thống chính trị
đó bảo vệ và đem lại lợi ích cho chính giai cấp đặt ra nó.

IV. Giới thiệu hệ thống chính trị Việt Nam

1. Khái quát về hệ thống chính trị ở Việt Nam


1.1 Cấu trúc hệ thống chính trị ở Việt Nam
Hệ thống chính trị của chúng ta gồm ba “tiểu hệ thống”:4

Đảng Cộng sản Việt Nam

Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội: Công đoàn Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội
hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân.

Ba “tiểu hệ thống” ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống chính trị
thống nhất, vận hành theo quan hệ chức năng có tính nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Hệ thống chính trị nước ta nắm giữ toàn bộ hệ thống các quyền lực xã hội trên
thực tế, từ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác trong xã
hội, trong đó có các quyền lực về xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực thi, kiểm sát việc
thực thi hệ thống thể chế phát triển. Chính vì thế, việc hoàn thiện và thực thi có hiệu
quả thể chế phát triển chỉ có thể xảy ra khi có một tổ chức bộ máy hệ thống chính trị
tốt, hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

4 Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị - vấn đề trung tâm trong xây dựng thể chế phát triển nhanh, bền vững ở
Việt Nam (Bộ Nội vụ)

9
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một tổ chức
thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt nhân
của hệ thống chính trị; Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị.

Thuật ngữ “hệ thống chính trị” được chính thức sử dụng ở Việt Nam từ Nghị
quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1989). Việc
chuyển từ “hệ thống chuyên chính vô sản” sang “hệ thống chính trị” có ý nghĩa nhấn
mạnh đến sự tương tác, hợp tác của các chủ thể trong đời sống chính trị - xã hội, nhằm
tạo nên sức mạnh hợp lực của toàn hệ thống và khả năng thích nghi của hệ thống với
những thay đổi của môi trường xã hội.

1.1. Bản chất và đặc điểm ở hệ thống chính trị Việt Nam

1.1.1. Bản chất


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ
chức ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản
chất sau:
Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, nghĩa
là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điểm của
giai cấp công nhân. Từ đó đã quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động
của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước hết ở chỗ:
Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự
thống trị của đa số nhân dân với thiểu số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta. Bản
chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất
giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân
tộc.

10
1.1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều
được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của
từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò lãnh đạo các tổ
chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất
của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc; do truyền
thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực
tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành
Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực
hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước
ta thực hiện. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ
bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động
nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong
hệ thống chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ thống
chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như cả
dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

11
2.Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
2.1 Đảng Cộng Sản
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, đồng thời là hạt nhân lãnh đạo của toàn
bộ hệ thống chính trị.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Chức
năng lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương phát triển kinh
tế, xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường
lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hóa cụ
thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì
vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng
thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối,
chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ ưu tú có đủ năng lực và phẩm
chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương,
làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ…
Quá trình Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo:
Thực tế, từ khi thành lập năm 1930 đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức
và lãnh đạo xã hội thực hiện mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Năm 1945, Đảng
Cộng Sản lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc Cách mạng tháng 8 chấm dứt ách đô hộ
của chủ nghĩa thực dân Pháp, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (là nước
Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay)
Năm 1954, sau 9 năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thắng lợi,
Đảng đã giành sự kiểm soát hành chính trên một nửa nước Việt Nam. Từ năm 1954
đến 1975 Đảng Cộng Sản đã lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ mới ở miền Bắc,

12
thực hiện cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ trên cả nước và giải phóng hoàn toàn
miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước năm 1976.
Năm 1986 Đảng Cộng Sản đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới đạt
được nhiều thắng lợi to lớn, sau 10 năm đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh
tế, xã hội, bước vào thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đảng Cộng
Sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan quyền lực cao nhất
là Đại hội toàn quốc 5 năm một lần. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương. Ban
chỉ huy Trung ương bầu ra Bộ chính trị và Tổng Bí thư.
Trước đây chức vụ cao nhất trong Đảng là Chủ tịch Đảng (do Hồ Chí Minh đảm
nhận). Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam là ông Trần Phú. Tổng Bí
thư hiện nay là ông Nông Đức Mạnh. Mọi công dân Việt Nam nếu tự nguyện gia nhập
Đảng Cộng Sản và nếu tổ chức Đảng thấy có đủ tiêu chuẩn thì sẽ làm lễ kết nạp. Tuy
nhiên, người Đảng viên mới đó phải trải qua một thời kỳ thử thách, ít nhất là một
năm, mới có quyền biểu quyết, bầu cử và ứng cử trong Đảng. Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã trải qua 10 lần đại hội. Đại hội lần thứ X diễn ra vào tháng 4/2006. Hiện nay
Đảng có hơn hai triệu đảng viên.

2.2 Nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện
ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân
để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực
hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước gồm các có các cơ
quan trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân
và chính quyền địa phương.5

5 Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị - vấn đề trung tâm trong xây dựng thể chế phát triển nhanh, bền vững ở
Việt Nam (Bộ Nội vụ)

13
Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị,
hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2.2.1 Quốc hội


Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.6
Nhiệm vụ: Lập hiến, lập pháp; giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về
đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên
tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Nhiệm kỳ của Quốc hội: 5 năm, hoạt động thông qua kỳ họp 1 năm 2 lần. Ngoài
ra, nếu ủy ban Thường vụ Quốc hội xét thấy cần thiết hoặc do yêu cầu của Chủ tịch
nước, Thủ tướng hoặc 1/3 tổng số đại biểu thì Quốc hội sẽ họp đột xuất.
Đại biểu Quốc hội: Là công dân Việt Nam, từ 21 tuổi trở lên, có phẩm chất, trình
độ, năng lực, được cử tri tín nhiệm bầu ra.
Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp Quốc hội, có quyền trình dự
án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, có quyền chất
vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và các thành viên Chính phủ, Chánh
án Toà án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri.
Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội: Là đại biểu Quốc hội do Quốc hội bầu ra vào
kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội là người giúp
việc cho Chủ tịch theo sự phân công của Chủ tịch.
Ủy ban thường vụ Quốc hội: Là cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp của Quốc
hội, có quyền về hoạt động giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động
của Chính phủ, Tòa án Tối cao, Viện Kiểm sát tối cao; chuyên ban hành Pháp lệnh,
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Hai hội đồng của Quốc hội là:

6 Political system, vietnam.gov.vn

14
1. Hội đồng Quốc phòng - An ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch, Thủ tướng
làm Phó chủ tịch và o4 ủy viên.
2. Hội đồng Dân tộc gồm 1 Chủ tịch và 38 thành viên.
Ủy ban chức năng của Quốc hội: Gồm các ủy ban Pháp luật; ủy ban Kinh tế và
Ngân sách; ủy ban Quốc phòng và An ninh; ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên,
Thiếu niên và Nhi đồng; ủy ban Các vấn đề xã hội; ủy ban Khoa học, Công nghệ và
Môi trường; ủy ban Đối ngoại.
Chủ tịch nước: Là người đứng đầu Nhà nước, được Quốc hội bầu từ các đại biểu
Quốc hội để thay mặt nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về mặt đối nội và
đối ngoại.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ghi rõ Chủ tịch nước có 12 quyền hạn, trong
đó quan trọng nhất là:
1. Công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh.
2. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng
Quốc phòng và An ninh.
3. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án
Tòa án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao.Giúp việc Chủ tịch nước có: Phó
Chủ tịch nước, Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Văn phòng Chủ tịch nước.
Phó Chủ tịch nước: Do Chủ tịch đề nghị, Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc
hội; Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch ủy quyền
làm một số nhiệm vụ hoặc làm quyền Chủ tịch.
Hội đồng Quốc phòng và An ninh: Có nhiệm vụ động viên mọi lực lượng và khả
năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Hội đồng Quốc phòng và An ninh do Chủ tịch
nước đứng đầu gồm Phó Chủ tịch nước và các thành viên do Chủ tịch nước giới thiệu
và Quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

15
2.2.2 Chính Phủ
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan
chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội.
Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp, “tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước”, thống nhất quản lý về các lĩnh vực, ngành và nền hành
chính quốc gia.
Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Chính phủ bao gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ.
Thủ tướng do Chủ tịch nước giới thiệu, Quốc hội bầu ra và bãi miễn trong số các
đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 5 năm. Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc
hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi
Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang B9ộ do Thủ tướng đề
nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà Nước đối với ngành
hoặc lĩnh vực công tác được giao.

2.2.3 Tòa án
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà
nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là
cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bao
gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án.
Cơ cấu của tòa án gồm: Hội đồng Thẩm phán, Ủy ban Thẩm phán, Toà án Quân
sự Trung ương và các tòa Hình sự, toà Dân sự, tòa Phúc thẩm, bộ máy giúp việc. Tòa
án có nhiệm kỳ là 5 năm.

16
Chánh án Toà án Nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn; Phó Chánh án,
Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chánh án. Hội
thẩm nhân dân Tòa án tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu
của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm.

2.2.4 Viện Kiểm sát


Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng
người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống
nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà
nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý
nghĩa đó, các tổ chức Tòa án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao gồm:
Viện trưởng: do Chủ tịch nước đề nghị, Quốc hội bầu và bãi miễn.
Các Viện phó, các kiểm sát viên và các điều tra viên: do Chủ tịch nước bổ nhiệm
và bãi miễn theo đề nghị của Viện trưởng.

2.2.5 Tổ chức bộ máy cấp địa phương


Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Cấp chính quyền
địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với
đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật
định.
Hội đồng nhân dân:
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Nhiệm
kỳ của Hội đồng nhân dân là 05 năm.

17
Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản là: (1) quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định; (2) giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương
và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Ủy ban nhân dân:
“Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên”[3].
Ủy ban nhân dân có 3 chức năng chính: (1) Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; (2) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân; (3)
Thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

2.3 Mặt trận tổ quốc Việt Nam


Đây là những tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi
các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của
nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tùy theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của
mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có tên gọi ban đầu là Mặt trận Dân tộc thống nhất
Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo,
được thành lập ngày 18/11/1930.
Từ khi được thành lập đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và cùng trải qua các
thời kỳ hoạt động cách mạng với những tên gọi khác nhau, Mặt trận là tổ chức tập
hợp, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc của Việt Nam - một
nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư
tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần
thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân
dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng
cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và

18
thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Kế tục và phát huy vai trò lịch sử của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam các
thời kỳ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục đại diện cho lợi ích, tiếng
nói rộng rãi của các nhóm xã hội, các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tạo sự đoàn kết,
đồng thuận xã hội, huy động nguồn lực, sức mạnh của toàn thể nhân dân vào xây dựng
đảng, chính quyền, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp
thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam có vai trò tập hợp, thu hút các tầng lớp Nhân dân, các tổ chức chính trị
- xã hội; tuyên truyền động viên Nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; phản biện xã
hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của Nhân dân để phản
ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền với lợi ích chính đáng của Nhân dân;
tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa Nhân dân Việt Nam với Nhân dân các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt
Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên, tổ chức của mình; cùng
các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam”[4].
Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một bộ phận của hệ thống chính trị, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống

19
nhất hành động của các thành viên. Ðảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là
tổ chức lãnh đạo Mặt trận.

2.4 Công đoàn


Công đoàn Việt Nam được thành lập ngày 28/7/1929. Trải qua quá trình hình
thành và phát triển, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng
vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Hiến pháp 2013 quy định: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của
giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại
diện cho người dân lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động, tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội: tham gia
kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên
truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp,
chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ chức chính trị
- xã hội và các tổ chức xã hội khác; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2.5 Các tổ chức chính trị - xã hội khác


Ngoài Mặt trận Tổ quốc và Công đoàn, ở Việt Nam hiện đang tồn tại một số tổ
chức chính trị, xã hội khác như: Hội Liên hiệp Phụ Nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu
chiến binh, các hiệp hội theo ngành nghề. Các tổ chức này đã đóng vai trò quan trọng
trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong công cuộc Đổi mới và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, các tổ chức xã hội này đang góp phần quan trọng đưa các chính sách của
Đảng và Chính phủ Việt Nam vào cuộc sống.

20
PHẦN II: CHÍNH KHÁCH VÀ CÔNG CHỨC

I.Vị trí, vai trò của chính khách và công chức


1. Chính khách

Thực hiện nhiệm vụ với một nhiệm kỳ nhất định. Họ có thể là các nghị sĩ, đại biểu
quốc hội, các bộ trưởng do quốc hội bổ nhiệm, các tỉnh trưởng. Những người này
không cần quá giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, thậm chí không cần chuyên môn. Chính
khách cần là người nhạy bén, thông minh, thậm chí có thể chống lại hay đi ngược lại
cả những chính sách và pháp luật đang hiện hành.
Các chính khách có vai trò trong việc xây dựng, điều phối và quyết định chính
sách phát triển của một quốc gia, phải có trách nhiệm đưa ra các chính sách mới khác
hẳn so với những người đảm nhiệm kỳ trước, hay chí ít cũng là chỉnh sửa lại những gì
thái quá hay lệch lạc của nhiệm kỳ trước. Bằng những chính sách mới kế tiếp nhau
như vậy sẽ giúp các tổ chức nói riêng, các cơ quan nhà nước và nhà nước nói chung đi
đúng hướng hơn.
2. Công chức

Công chức là nhân viên trong cơ quan nhà nước, được tuyển dụng và bổ nhiệm
vào bộ máy nhà nước để thực thi công vụ, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, với tư
cách là những chủ thể thực sự tiến hành các công vụ cụ thể họ là hạt nhân của nền
công vụ và cũng chính là yếu tố bảo đảm cho nền công vụ hiệu lực, hiệu quả. Công
chức cần phải có năng lực chuyên môn cao, tinh thông nghiệp vụ, cần mẫn và phải có
trách nhiệm trong công vụ.
Công chức có vai trò trong việc trực tiếp thực thi chính sách, pháp luật, quản lý
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước.
Các công chức thường được làm việc cho các cơ quan bộ và ngang bộ dưới sự lãnh
đạo của bộ trưởng. Sử dụng năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình để thực thi
công vụ, phải am tường các guồng máy của bộ, phải nắm rõ được những trở ngại mà
bộ trưởng cần phải đối phó để đưa ra đóng góp có chuyên môn cao giúp đỡ trợ lực cho
bộ trưởng.

21
II. Trách nhiệm chính trị của chính khách và công chức
1. Trách nhiệm chính trị

Chế độ dân chủ chỉ được hình thành trong một điều kiện luôn luôn kìm chế được
quyền hành của người lãnh đạo, trong khi vẫn cho phép các cá nhân có thiên tài chính
trị được biểu hiện tài năng lãnh đạo của chính khách. Khi quyền hành được sử dụng
luôn luôn có nguy cơ của sự lạm dụng. Do đó, trong mối quan hệ giữa lãnh đạo và
quần chúng nhân dân luôn luôn có những nghi vấn: Làm cách nào để có thể kiểm soát
được lãnh đạo và trách nhiệm chính trị của chính khách và công chức là gì?

Khi bàn về trách nhiệm chính trị, ta nhận thấy trong hoạt động của các chính
khách hiện đại khó có một chức danh nào mà nhiệm vụ và quyền hạn cũng như trách
nhiệm nặng nề bằng người đứng đầu hành pháp của mỗi quốc gia. Đó là chức danh thủ
tướng chính phủ của các nhà nước được tổ chức theo mô hình tổng thống cộng hòa.
Mặc dù về cơ cấu tổ chức chính phủ - hành pháp của các nhà nước phụ thuộc vào
chính thể và được quy định rất khác nhau trong hiến pháp của mỗi quốc gia, nhưng
trên thực tế cách thức điều hành chính phủ phụ thuộc vào cá nhân người lãnh đạo –
người đứng đầu hành pháp. Khởi đầu nguồn quyền uy của người đứng đầu hành pháp
được tạo nên từ: đức tính cá biệt của chính khách; thực lực của đảng mà chính khách
phụ thuộc; và các quy định của hiến pháp.

Khi các chính trị gia được đảng giới thiệu ra ứng cử viên chức vụ tổng thống cũng
như thủ tướng, thì cũng là giai đoạn vận động tranh cử bắt đầu trở nên sôi động.
Những hệ thống truyền thông tạo nên dư luận chung về tính cách, nhân phẩm của
người đó. Bên cạnh tiếng đồn về sự ủng hộ những cái tốt là sự chê bai tất cả những
khiếm khuyết mà ứng cử viên có thể có. Một khi được đại hội đảng lựa chọn là lãnh tụ
của đảng thì trên danh nghĩa chính trị gia phải tỏ rõ là một nhân vật có khả năng đại
diện quyền lợi cho đảng và cho cả những người ủng hộ đảng, tạo nên cơ sở thành công
của đảng trong bầu cử.

Sự thủ đắc chức vụ người đứng đầu hành pháp một cách hợp pháp và việc hành xử
chúng một cách thận trọng và khôn ngoan sẽ tạo nên uy quyền căn bản cho chính trị
gia. Sự thành công hay thất bại ở cương vị quan trọng nhất quốc gia này phụ thuộc vào
năng lực và tính cách của họ. Bên cạnh đó, một chính trị gia muốn thành công thì phải

22
vận dụng các bài học kinh nghiệm của những người đi trước và những bài học khác
của các triết gia chính trị.

Nhiệm vụ trách nhiệm của người đứng đầu hành pháp hiện nay ngày càng phức
tạp và khó khăn, và khó có một người nào bình thường có thể tự làm được tất cả. Tổng
thống của chế độ tổng thống cộng hòa, cũng như thủ tướng của chế độ đại nghị là
người đứng đầu hành pháp, nhà làm luật chính, tư lệnh tối cao quân đội, là người chịu
trách nhiệm chính về các mối quan hệ với các quốc gia khác… Ngày nay, qua trải
nghiệm thực tế, người đứng đầu hành pháp của mỗi quốc gia phải tập trung sức lực
vào hai phẩm chất: tài điều khiển quốc nội và sự thành công trong quan hệ hợp tác với
nước ngoài. Một số trách nhiệm chính trị cụ thể chúng ta có thể kể đến như: đảm bảo
quyền và lợi ích của nhân dân, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách của
quốc gia, xây dựng và giữ gìn hòa bình, ổn định, an ninh quốc gia, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội và văn hóa, tôn trọng pháp luật và quy định, thể hiện sự trung thực
và minh bạch, giải quyết các vấn đề khó khăn của đất nước và nhân dân … Đôi khi
trong mối quan hệ với quốc nội, người đứng đầu hành pháp đã nhường bước trước ý
chí của quốc nội, dù vẫn có sự quân bình giữa lập pháp và hành pháp. Chức vụ thủ
tướng và tổng thống hiện nay rất khác với trước đây. Một trong những điểm khác là sự
can thiệp rất sâu sắc vào hoạt động lập pháp của hành pháp.

Theo truyền thống, người ta nhận thức rằng tổng thống của chế độ tổng thống
cũng như thủ tướng của chế độ đại nghị chỉ đơn giản theo lý thuyết là người đứng đầu
hành pháp, có trách nhiệm áp dụng các quy định của ngành lập pháp. Thực tế những
thập niên gần đây, từ cuối thế kỉ XX sang đầu thế kỉ XXI cho thấy, càng ngày người
đứng đầu hành pháp càng can thiệp rất sâu vào quá trình lập pháp của cơ quan nghị
viện. Cho dù có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với cơ quan lập pháp bằng cách phát
biểu hay im lặng trước nghị trường, thì tổng thống hay thủ tướng, tức là người đứng
đầu hành pháp của mỗi quốc gia vẫn bị người dân theo dõi và phán xét các hành vi của
họ

Trách nhiệm chính trị của chính khách tập trung vào người đứng đầu hành pháp
rất nặng nề, mà nếu họ không đảm nhiệm được thì phải từ chức. Thường thường thủ
lĩnh của đảng cầm quyền phải là người đứng đầu hành pháp, ở chính thể đại nghị thủ

23
tướng chính phủ phải là thủ lĩnh của đảng cầm quyền – đảng chiếm đa số ở hạ viện và
phải chịu trách nhiệm trước hạ viện, phải được đa số hạ nghị sĩ ủng hộ (đảng của thủ
tướng luôn luôn chiếm đa số trong hạ viện). Mất thủ tướng mất thủ lĩnh, và ngược lại,
mất thủ lĩnh mất thủ tướng. Trong trường hợp không còn sự tín nhiệm của hạ viện thì
phải từ chức. Sự từ chức của thủ tướng bao giờ cũng kéo theo cả nội các từ chức. Ở
chính thể tổng thống cộng hòa, người đứng đầu hành pháp vừa là nguyên thủ quốc gia
phải được nhân dân bỏ phiếu một cách trực tiếp như Pháp quốc hoặc gián tiếp qua đại
cử tri của Hoa Kỳ - người dân bỏ phiếu bầu ra đại cử tri, đại cử tri đến lượt mình bỏ
phiếu bầu ra tổng thống. Giữa nhiệm kỳ tổng thống Mỹ có thể bị Hạ viện buộc tội,
Thượng viện luận tội theo thủ tục đàn hạch.

Nội dung tính chịu trách nhiệm của hành pháp mà người đứng đầu là thủ tướng
chính phủ của chế độ đại nghị và của tổng thống của chính thể tổng thống các nước
phát triển được đảm bảo rằng:

Thứ nhất, sự độc lập của hành pháp trước lập pháp. Trong một chính thể hiện đại,
nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền của quốc gia nói chung đều phải do hai cơ quan lập
pháp và hành pháp cùng quyết định. Trong nhiều trường hợp ngành hành pháp cũng
không nền hoàn toàn chiều theo ý muốn của lập pháp. Có nhiều trường hợp tổng thống
và quốc hội có những ý kiến trái ngược nhau, trong khi đa số nhân dân có một thái độ
trung lập. Trong trường hợp nào cũng vậy, ngành hành pháp cũng nên can đảm và
cương quyết hành động theo ý của mình, theo kiểu dám làm, dám chịu. Việc Tổng
thống Mỹ và Thủ tướng Anh cùng có quyết định đánh Iraq trong khi dân chúng và cả
các thành viên của Nghị viện phản đối gay gắt là một minh chứng rõ ràng nhất cho
nhận định trên. Tính cương quyết của Tổng thống Mỹ được nhiều người đo bằng số
lần phủ quyết các đạo luật đã được Quốc hội Mỹ thông qua.

Thứ hai, quyền hành pháp tối cao chỉ được giao cho một người đảm nhiệm, với
một nhiệm kỳ vừa đủ và người đó phải chịu trách nhiệm trước nhân dân hoặc nghị
viện do dân bầu ra. Những yêu cầu quyền hành pháp nói trên giải thích cho chúng ta
rõ tại sao hành pháp phải và nên thi hành theo chế độ một thủ trưởng và phải chịu
trách nhiệm cá nhân trước nhân dân như tổng thống của các nhà nước được tổ chức
theo mô hình của chế độ tổng thống, hoặc trước một cơ quan do nhân dân bầu ra, như

24
của thủ tướng theo mô hình của chế độ đại nghị. Vì một lẽ đơn giản rằng, nhiều người
cùng điều hành, thì sẽ dẫn đến tình trạng ngưng trệ và tê liệt, làm mất tác dụng phần
lớn các biện pháp của chính quyền, nhất là trong các trường hợp khẩn cấp quan trọng
của đất nước.

Bản tính quyết đoán luôn luôn đi kèm theo với bản tính dám chịu trách nhiệm, cho
dù có tổ chức ra một nhân vật thứ hai giúp việc cho người đứng đầu hành pháp đi
chăng nữa, thì người đứng đầu hành pháp vẫn phải chịu trách nhiệm. Ví dụ như, trong
chế độ lưỡng tính của Cộng hòa Pháp hiện hành (Hiến pháp năm 1958), Thủ tướng
chính là Phó Tổng thống. Trong trường hợp thuộc hai đảng khác nhau, mối quan hệ
giữa hai chức danh này sẽ hết sức phức tạp, rất dễ đến tình trạng mâu thuẫn. Về
nguyên tắc thì Tổng thống đảm trách lĩnh vực bang giao quốc tế, còn Thủ tướng chi
làm công việc đối nội và quốc phòng theo quy định của Hiến pháp, nhưng việc điều
hành các phiên họp chính thức của Chính phủ để hoạch định chính sách quốc gia, cũng
theo quy định của Hiến pháp vẫn phải dưới sự chủ tọa của Tổng thống. Tổng thống có
quyền lãnh đạo hành pháp, nhưng hành pháp vẫn có người đứng đầu là Thủ tướng theo
quy định Hiến pháp 1958. Việc Tổng thống chủ tọa các phiên họp chính thức của
Chính phủ, Thủ tướng chỉ được quyền chủ tọa các phiên họp trù bị đã làm cho vị trí
vai trò của Tổng thống Pháp hiện nay khác hoàn toàn với của Hiến pháp năm 1946 và
gần giống như của Tổng thống Mỹ. Phó Tổng thống Mỹ theo quy định của Hiến pháp
là Chủ tịch Thượng Viện, trên thực tế chỉ là người chờ để thay Tổng thống, trong
trường hợp Tổng thống bị bãi chức hoặc bị mệnh chung giữa nhiệm kỳ.

Ở chế độ đại nghị, hành pháp được chia ra làm hai phần: hành pháp tượng trưng
và hành pháp thực quyền. Hành pháp tượng trưng do nhà vua nắm giữa và hành pháp
thực quyền do thủ tướng đảm nhiệm. Cho dù có được quy định hay không quy định
trong hiến pháp thì quyền hành pháp của các nước phát triển vẫn và luôn luôn nằm
trong tay một cá nhân, thủ lĩnh của đảng cầm quyền. Các đảng phái chính trị của các
nhà nước này ganh đua để giành chức vị đứng đầu hành pháp chứ không phải người
chủ tọa các phiên họp của nghị viện – cơ quan lập pháp. Trong trường hợp được cả hai
thì điều đó lại càng trở nên tốt hơn. Sự hình thành này được củng cố dần dần trong

25
thực tế hàng trăm năm theo đầu óc thực dụng của người Anh mà không theo một lý
thuyết nào cho trước.

Sự cương quyết của hành pháp phải được bảo đảm bằng nhiệm kỳ vừa đủ để hành
pháp có đủ thời gian thực hiện những chính sách cương quyết của mình. Nếu một
người chỉ giữ chức vụ trong một thời gian quá ngắn, thì người đó sẽ không mong
muốn và cũng không có khả năng chăm chút tới chức vụ của mình và càng không bao
giờ muốn vì chức vụ ngắn ngủi đó mà phải liên lụy vào thân khi cần đến một sự quyết
đoán. Các nhà lập Hiến Hoa Kỳ cho rằng, nhiệm kỳ của Tổng thống Mỹ 4 năm là vừa
đủ cho việc Tổng thống tổ chức thực hiện cương quyết một chính sách tốt, đồng thời
cũng là không đủ cho việc lợi dụng nhiệm kỳ này làm những điều thể hiện sự đàn áp
hoặc xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công dân. Trong trường hợp có những
chính sách cương quyết tốt phù hợp với lòng dân, họ có thể được tái cử ở nhiệm kỳ
thứ hai, nhưng với một nhiệm kỳ thứ ba thì lại không được Hiến pháp cho phép.

Thứ ba, thủ lĩnh của đảng cầm quyền luôn luôn là người đứng đầu hành pháp.
Trong chế độ đại nghị kể cả quân chủ lẫn cộng hòa, đảng chiếm số đông trong cuộc
bầu cử luôn luôn là thủ tướng chính phủ. Mất thủ tướng cũng đồng nghĩa với mất thủ
lĩnh của đảng cầm quyền, và ngược lại cũng vậy. Trong trường hợp cuộc bầu cử hạ
viện không tìm được đảng chiếm đa số ghế, thì liên minh nào chiếm được đa số sẽ
đứng ra thành lập chính phủ, thủ lĩnh của liên minh này sẽ là thủ tướng - người đứng
đầu hành pháp. Như vậy, trong chế độ này người dân không chỉ giản đơn đi bỏ phiếu
bầu ra hạ nghị viện, mà còn có mục tiêu tìm ra cho đất nước một người có khả năng
đứng đầu một cơ quan quan trọng nhất của quốc gia- người đứng đầu hành pháp.
Trong chế độ tổng thống, điển hình là Mỹ, mặc dù thủ lĩnh của đảng không được
xác định rõ ràng, với một chế độ sinh hoạt đảng lỏng lẻo, nhưng qua các đợt tranh cử
tổng thống, ứng cử viên nào trứng cử tổng thống cũng được các định là nhân vật số
một của đảng, và đảng đó trở thành đảng cầm quyền, chứ không phải đảng chiếm đa
số trong hạ nghị viện. Đảng cầm quyền là đảng nắm được người đứng đầu hành pháp.
Thứ tư, chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của các vị bộ trưởng trước người đứng
đầu hành pháp. Rất ít có hiến pháp nào quy định vấn đề này, xong thực tế của đất nước
nào cũng diễn ra như vậy. Hiến pháp của Mỹ là bản hiến pháp thành văn lâu đời nhất

26
không quy định việc tổ chức chính phủ và các thành viên của chính phủ, nhưng trên
thực tế các bộ trưởng vẫn được hình thành và chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng thống,
mà không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chính điểm này tạo nên đặc điểm
quan trọng của chế độ tổng thống cộng hòa. Trong chế độ đại nghị điển hình của Anh
quốc, các bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện, nhưng trên thực tế
trước khi chịu trách nhiệm trước Nghị viện phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, vì
bộ trưởng phải do Thủ tướng đề cử.
Tất cả những đảm bảo này được hình thành dần dần trong thực tế, phần nhiều
không được quy định trong hiến pháp của các nước phát triển, nhưng đều có tác dụng
tạo nên tính quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của hành pháp - một bộ phận quan
trọng nhất có tính nền tảng và cơ sở cho sự phát triển của các nhà nước này.

2. Liên hệ trách nhiệm chính trị: Hồ Chí Minh - nhà cách mạng và
chính khách Việt Nam

Không phải đợi đến hôm nay mà trong quá khứ, trong những trang sử hào hùng
của chúng ta đã chứng minh rằng một chính khách tài ba phải hội tụ đủ năng lực điều
hành công việc đối nội đồng thời đề ra những đường lối đối ngoại sáng suốt, thoả đáng
để đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc không bị tổn hại. Và nhà chính khách vĩ đại, thiên
tài, đầy cao quý đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính Hồ Chủ tịch đã tận hiến
cuộc đời Người để thực hiện vẹn toàn trách nhiệm chính trị của một chính khách mẫu
mực của dân tộc Việt Nam.
Vào những năm 1945-1946, hoạt động đối ngoại nhân dân của người đầy sáng tạo
và sôi nổi được khái quát bằng những điểm sau: Xây dựng và củng cố Nhà nước cách
mạng, xây dựng và mở rộng khối đoàn kết toàn dân; thi hành chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc: tranh thủ các nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ (kể cả Bảo Đại và hoàng tộc)
để họ tin tưởng và hợp tác với chính quyền mới; chủ tọa Hội nghị đại biểu các dân tộc
thiểu số ở miền Bắc. Để từ đó, xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
tạo sức mạnh tổng hợp chuẩn bị bước vào kháng chiến.
Trong sự nghiệp Cách mạng tháng Tám 1945 thành công do sự lãnh đạo tài tình
của Đảng đã giành được chính quyền về tay nhân dân sau hơn 80 năm bị thực dân
Pháp xâm lược chiếm đóng và cai trị đất nước ta. Nhưng liền sau đó, thực dân Pháp

27
với sự giúp sức của quân Anh đã quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, vào giữa
đêm 23-9-1945 chỉ sau Tổng khởi nghĩa chưa đầy một tháng. Rồi, chưa đầy nửa năm
sau, chúng chuyển thêm quân từ Trung Quốc sang đánh Lạng Sơn, đổ bộ Hải Phòng
rồi tấn công thủ đô Hà Nội vào đêm 19-12-1946, đúng như tiên đoán của Trung ương
Đảng ta trong Chỉ thị toàn dân kháng chiến (ngày 12-12-1946). Ngay lúc này đây, tài
năng đối ngoại nhân dân của Người đã phát huy toàn lực, kịp thời và hợp lòng dân qua
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12. Cuộc kháng chiến toàn quốc là một
nghệ thuật vận động kháng chiến tài tình, khéo léo và có chính nghĩa thể hiện ý chí sắt
đá quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện. Khi đã đến
giới hạn mà chúng ta không thể “nhân nhượng” được nữa, bởi vì kẻ thù càng ngày
càng “lấn tới”, thì chúng ta buộc phải cầm súng và sẵn sàng đương đầu chống xâm
lược, quyết bảo vệ độc lập tự do và cuộc sống của mình. Hồ Chủ tịch tuyên cáo:
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”. Rõ ràng, Bác phải là một chính khách nhạy bén trong công tác đối nội.
Chắc chắn là người thấu rõ tường tận tâm thế của người dân một nước đang đứng
trước nguy cơ làm nô lệ, bị tước đoạt độc lập tự do mới có thể kịp thời nắm bắt và
khơi dậy lòng cương quyết đấu tranh đến cháy bỏng bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc
"quyết không sợ", quyết đứng lên chiến đấu đến cùng, dù biết rằng chiến tranh là có
tổn thất, là có mất mát, hy sinh, là tàn phá.
Trước vô vàn khó khăn, thách thức đó, lại là cơ hội để Người tỏa sáng phẩm cách
của một nhà lãnh đạo có đường lối ngoại giao sáng suốt, hoà bình và đầy nhân văn. Vì
yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh nên Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ
thị “Hòa để tiến”. Nổi bật trong những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thời kỳ này là việc ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 giữa Chính phủ Việt
Nam với đại diện Pháp ở Hà Nội và chuyến đi thăm chính thức nước Pháp nhân dịp
Hội nghị Fontainebleau nhóm họp, nhằm giương cao ngọn cờ độc lập và thiện chí hoà
bình của nước Việt Nam mới. Để có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến,
Người đã kí với Pháp bản Tạm ước 14-9-1946. Chính phủ ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngay từ đầu đã cố gắng xúc tiến và tham dự nhiều hội nghị với thực dân Pháp khi nhận

28
ra dã tâm gây hấn âm mưu chiếm lại Việt Nam. Hơn thế nữa, Người cũng đã viết hàng
loạt bức thư cho nhân dân Pháp, cho chính Phủ và Quốc hội Pháp, thư gửi Tổng thống
Pháp Vincent Auriol hay cả tướng Leclerc đang cầm đầu chiến tranh ở Nam bộ. Thậm
chí, một tuần trước khi nổ ra sự kiện Toàn quốc kháng chiến, trong lá thư gửi Chính
phủ Pháp, Người viết: "Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi
không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi
cách…Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi
sẽ làm"7. Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà cách mạng và chính khách vĩ đại của dân tộc.
Phong cách ứng xử nhân văn ấy còn được nhà nghiên cứu Mỹ David Halberstam ghi
nhận: “Toàn thể con người của Ông toát lên một phong thái bình dị và tế nhị bẩm
sinh... Ông là tiêu biểu cho một nền văn hóa, không phải là nền văn hóa châu Âu mà
có lẽ tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai” 8. Với tư tưởng Ngoại giao hoà hiếu, nhân
văn cùng với tài năng đối nội sâu sắc và thấu hiểu nhân dân, Người đã thực sự là một
chính khách hoàn thành trọn vẹn trách nhiệm chính trị của mình.
III. Bộ máy công chức
1. Bộ máy công chức

Những người làm việc trong bộ máy hành pháp, bộ máy tư pháp của nhà nước đều
được gọi là bộ máy công chức. Họ đảm nhiệm các chức năng hành chính và tư pháp
(xét xử) của nhà nước, vì vậy phải có chuyên môn. Về nguyên tắc họ phải thực hiện
các quyết định của chính khách trong khuôn khổ đã được quy định từ trước của hệ
thống pháp luật quốc gia.
Cái mới về mặt thể chế của các quốc gia dân chủ không nằm ở chế độ bầu cử hoặc
lập pháp, mà là sự mở rộng quyền hành pháp làm xuất hiện “chế độ quan liêu" hiện
đại khoảng từ thế kỷ XIX trở đi, và đến thế kỷ XX chiếm một vị trí quan trọng trong
xã hội phương Tây.
Quá trình mở rộng chức năng của nhà nước dẫn tới hai chức năng chủ yếu của
hành pháp xuất hiện: chức năng lập quy và chức năng thi hành. Nhằm khống chế
quyền lực ngày càng gia tăng của ngành công nghiệp, phải áp dụng các đạo luật bảo
vệ, kiểm soát giao thông, ngăn cấm việc xây dựng một cách tuỳ tiện; đồng thời với ý

7 Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chính phủ Pháp


8 Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2010, tr.223

29
thức tổ chức rất nhiều phương diện khác nhau của đời sống xã hội, Nhà nước đã phải
quy định rất nhiều luật lệ và thành lập bộ máy hành chính có trách nhiệm thi hành
những luật lệ ấy. Chính vì tầm quan trọng đó của bộ máy hành chính, mà nhiều người
đã cho rằng: Trách nhiệm của chính quyền - tức là nghĩa vụ của các công chức phải
báo cáo về các hoạt động của mình cho các công dân, và quyền của các công dân được
hành động chống lại các quan chức có các hành vi mà các công dân coi là không
chuẩn mực - là một yếu tố thiết yếu của dân chủ.
Một trong những kết quả của vấn đề trên là quyền hành chính trở nên rất quan
trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Cho dù là thu thuế nông nghiệp hay thuế
thu nhập, thể lệ xây dựng, kiểm soát hối đoái, phụ cấp bảo hiểm xã hội, trợ giúp kinh
tế hay cầu cứu các cơ quan nhà nước, mọi người dân đều phải đối mặt với những
quyết định của các viên chức vô danh của các cơ quan nhà nước. Những người này áp
đặt thủ tục, cách lý giải sự việc và pháp luật theo cách hiểu của riêng họ và giải quyết
công việc với một quyền lực gần như của các thẩm phán toà án, mà không cần phải
tôn trọng theo một thủ tục nào hết.
Các công chức thường được làm việc cho các cơ quan bộ và ngang bộ dưới sự
lãnh đạo của bộ trưởng. Chính khách - bộ trưởng chỉ là chức vụ “tạm thời" thường
thay đổi theo nhiệm kỳ của nội các. Vì vậy các bộ trưởng phải dựa vào ý kiến và trợ
lực của các công chức - những người hoạt động thường xuyên trong bộ, đặc biệt là các
quan chức cao cấp để điều hành bộ và hoạch định chính sách. Ở các nước trên thế giới,
những bộ máy công chức hoạt động tốt có thể thúc đẩy sự tăng trưởng và giảm đói
nghèo. Nếu có bộ máy công chức tốt lành nghề, thì chính bộ máy viên chức này có thể
cung cấp những đầu vào tốt về chính sách và cung cấp những hàng hoá dịch vụ công
cộng với giá thấp nhất.
Xây dựng bộ máy viên chức chuyên nghiệp dựa vào các quy tắc phải tốn rất nhiều
thời gian và sức lực. Trong khi đó có thể thi hành một số biện pháp khác một cách
nhanh chóng hơn và đưa lại điều có ích. Sử dụng thị trường cung cấp những dịch vụ
có cạnh tranh, giảm bớt các dịch vụ chính phủ hiện đang nắm độc quyền để có thể
giảm bớt chi phí và cải tiến chất lượng dịch vụ; ký hợp đồng về các hoạt động có thể
xác định rõ ràng thông qua đấu thầu có cạnh tranh giảm bớt gánh nặng đối với khả

30
năng quá tải của nhà nước và xây dựng mối quan hệ hợp tác với các thị trường và các
tổ chức phi chính phủ để tăng hiệu quả phục vụ.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp “công chức làm hư chính sách". Những khích lệ
cho tham nhũng phát sinh ở bất cứ nơi nào mà các công chức có nhiều quyền tự quyết
định rộng rãi, mà ít hoặc không phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Các
công chức có thể bị lôi kéo vào việc sử dụng vị trí quyền hạn của họ để kiếm lợi riêng
bằng cách nhận hối lộ; ngược lại các cá nhân muốn thanh toán một cách bất hợp pháp
để có được những điều mà họ mong muốn ở nhà nước. Bất kỳ một chính sách nào tạo
ra khoảng cách giả tạo giữa cung và cầu cũng tạo ra cơ hội cho người trung gian lợi
dụng, làm phát sinh ra nạn tham nhũng của quan chức nhà nước. Tham nhũng có thể
dai dẳng tồn tại nếu trong nhà nước ít có những quyết định độc lập của tư pháp (toà
án). Tham nhũng cũng có thể phát triển mạnh khi những hậu quả của việc xét xử thấp
hơn so với lợi lộc mà tham nhũng đem lại.
Việc kiềm chế tham nhũng đòi hỏi phải có sự hiểu biết về những lợi ích và chi phí
dưới sự kiểm soát của công chức. Về phương diện này thì ở ngành hành pháp cũng có
những đòi hỏi tương tự, các công chức đảm nhiệm các công việc cho hành pháp phải
đặt trên căn bản của sự bổ nhiệm và thăng thưởng của các ngạch bậc. Sự phức tạp của
công việc hành chính, tính chất rộng lớn, nội dung kỹ thuật, và thủ tục rắc rối, các cơ
hội làm việc chuyên nghiệp, và hệ thống tuyển chọn dựa trên tài năng,...
Công chức có ba loại:
1. Công chức nghị viện: công chức giúp việc cho quốc hội/nghị viện
2. Công chức hành chính: làm việc ở các cơ quan hành chính.
3. Công chức tư pháp: làm việc ở các toà án xét xử.
Tổ chức hoạt động của nhà nước thông qua hoạt động của các cá nhân thực hiện
công việc của nhà nước gồm hai hoạt động của hai cơ cấu thành tạo nên là: chính
khách và công chức. Chính khách - bộ trưởng là chức vụ “tạm thời' thường thay đổi
theo nhiệm kỳ. Công chức hành chính cao cấp phải có trách nhiệm làm cho bộ trưởng
hiểu về quan niệm chính sách của bộ trưởng trước đây và hiện nay.
Công chức ngạch hành chính có những nhiệm vụ sau:
1. Giám sát đôn đốc công việc thường nhật của ngành, giải quyết các công việc
khó khăn do cấp dưới trệ đình, và phải biết khi nào đặc biệt khó khăn không thuộc

31
thẩm quyền cần đưa lên cấp trên giải quyết. Để giải quyết vấn đề thuộc nhiệm vụ
quyền hạn của mình phải có trách nhiệm trao đổi với các đồng sự trong bộ, với bộ
khác, với chức trách địa phương, với nhóm quyền lợi có liên quan,...
2. Phát biểu quan điểm riêng của mình để đề cao chính sách của bộ. Ngoài việc
tính toán chính xác đến chi phí, nhân lực và vật lực, phải còn tiên liệu trước các phản
ứng của quốc hội, báo chí và các nhóm áp lực quyền lợi.
3. Giúp bộ trưởng soạn thảo các luật lệ và các văn bản pháp quy thuộc lĩnh vực
hoạt động của bộ, nhất là việc soạn thảo các văn bản chi tiết để thi hành các đạo luật
thuộc trách nhiệm của bộ
4. Giúp bộ trưởng giải trình trước quốc hội
Qua những công việc này giúp công chức tham dự vào việc hoạch định chính
sách. Địa vị pháp lý của công chức là phải bảo vệ và thi hành các chính sách của bộ.
Hành pháp kiểm soát trực tiếp các hoạt động và phương pháp hành chính; phối
hợp vô số các hoạt động hành chính và chỉ thị hành chính cách thức thực thi luật, bổ
nhiệm các cá nhân vào các chức vụ hành chính chính yếu. Đồng thời, hành pháp có
trách nhiệm duy trì kỷ luật và đòi hỏi sự cộng tác của các công chức trong công vụ và
nâng cao tinh thần, lòng tự hào trong nghề nghiệp của hành chính.
Hành pháp không đơn thuần chỉ là bộ phận được tổ chức ra để thực thi một cách
thụ động các quyết định luật của luật pháp, theo cách đề xướng của học thuyết phân
quyền, cũng như được ghi nhận lại trong các văn bản hiến pháp - luật căn bản của mỗi
quốc gia, là cơ quan hành chính cao nhất, là nền tảng cho sự phát triển và hoàn thành
các chức năng lập pháp và tư pháp. Hành pháp là nơi ban hành các văn bản pháp quy,
là nơi soạn thảo ra các văn bản luật, lập ra chính sách huy động nguồn nhân lực, vật
lực của xã hội.

2. Bộ máy công chức Việt Nam

Là tổ chức các cơ quan, đơn vị và nhân viên làm việc trong lĩnh vực công vụ nhà
nước. Cụ thể, bộ máy công chức Việt Nam bao gồm các cơ quan hành chính, cơ quan
tư pháp, cơ quan kiểm toán, cơ quan quản lý nhà nước về thuế, bộ ngành địa phương,
đơn vị sự nghiệp công lập và các cơ quan đơn vị khác thành lập và hoạt động theo quy
định của pháp luật.

32
Các nhân viên công chức được tuyển dụng và bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật và phải tuân thủ các quy định và nguyên tắc về đạo đức, kỉ luật, công tác, năng lực
và trách nhiệm công vụ. Các nhân viên công chức được hưởng các quyền và nghĩa vụ
được quy định bởi pháp luật và đảm bảo về mặt lương bổng, chế độ đãi ngộ và an sinh
xã hội.
Bộ máy công chức là một phần quan trọng của hệ thống chính trị và quản lý của
một quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của
đất nước.
Bộ máy công chức ở Việt Nam mang những đặc điểm sau:
1. Quy trình tuyển dụng khá phức tạp: Để trở thành công chức, người ta phải
tham gia kỳ thi tuyển dụng, kiểm tra sức khoẻ và thực tập. Thậm chí có những ngành
nghề yêu cầu tốt nghiệp đại học, thạc sỹ, tiến sỹ,...
2. Cơ cấu tổ chức hệ thống bộ máy công chức: Hệ thống bộ máy công chức ở Việt
Nam được chia thành các cấp quản lý từ trung ương, địa phương cho đến các đơn vị
cơ sở.
Nhược điểm:
1. Chế độ lương thưởng và phúc lợi chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân viên
công chức: Ở Việt Nam còn thấp so với nhiều nước khác đặc biệt là những nước có
nền kinh tế phát triển.
2. Thái độ làm việc của nhân viên công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của
người dân: Có nhiều phản ánh về thái độ làm việc của nhân viên công chức ở Việt
Nam, chủ yếu là chậm chạp, lãng phí thời gian và thờ ơ đối với người dân
3. Độ tuổi và kinh nghiệm làm việc của nhân viên công chức còn trẻ và chưa đủ:
Một số đơn vị có nhiều nhân viên công chức còn trẻ, chưa tích lũy đủ kinh nghiệm làm
việc và chưa có đủ kiến thức chuyên môn để giải quyết các vấn đề phức tạp của công
việc.
Ưu điểm:
1. Có số lượng lớn nhân viên công chức: Số lượng nhân viên công chức ở Việt
Nam đáp ứng nhu cầu quản lý và cung cấp dịch vụ cho người dân.
2. Được đào tạo chuyên môn tốt: Nhân viên công chức ở Việt Nam được đào tạo
chuyên môn để giải quyết liên quan.

33
3. Có cơ chế đánh giá, kiểm tra và phân công việc rõ ràng, đảm bảo tính minh
bạch của bộ máy công chức.
4. Thực hiện công tác phát triển kinh tế - xã hội tốt: tham gia rất tích cực vào việc
thực hiện các chính sách phát triển kinh tế.
3. So sánh bộ máy công chức của các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa

Giống nhau:
1. Cả Việt Nam và Mỹ đều có bộ máy công chức là một phần quan trọng của hệ
thống chính trị và quản lý nhà nước.
2. Cả hai nước đều tuyển dụng nhân viên ưu tiên năng lực và kinh nghiệm của họ,
thông qua các kỳ thi và xét tuyển.
3. Cả Mỹ và Việt Nam đều tổ chức bộ máy công chức thành các cơ quan, đơn vị,
phòng ban tương ứng với chức năng, nhiệm vụ của chính phủ hoặc tổ chức cộng đồng
đó.
4. Cả hai nước đều có chế độ lương, phúc lợi và quyền khác nhau tùy thuộc vào
quy định của từng nước.
Khác nhau:
1. Tổ chức của Việt Nam và Mỹ khác nhau. Trong khi Mỹ có chính phủ liên bang
và các bang độc lập có quyền tự trị cao thì Việt Nam có chính phủ đơn nguyên và các
tỉnh thành phố thuộc trung ương.
2. Điều kiện và quy trình tuyển dụng nhân viên công chức cũng khác nhau.
Trong khi Mỹ có nhiều cơ hội cho người dân ứng cử và làm việc trong
chính phủ thì tuyển dụng nhân viên công chức ở Việt Nam thường có nhiều thủ
tục hơn.Quy định về lương, phúc lợi và quyền lợi của nhân viên công chức
cũng khác nhau giữa các nước.
3. Lương của nhân viên công chức ở Mỹ thường cao hơn so với Việt Nam trong
khi các quyền lợi và chế độ phúc lợi khác nhau. Bộ máy công chức ở Mỹ thường có
tính chất dân chủ hơn và người dân tham gia nhiều hơn vào quá trình đưa ra quyết
định của chính phủ. Trong khi đó bộ máy công chức ở Việt Nam có tính chất quyết
định từ trên xuống hơn và người dân có ít cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định
của chính phủ.

34
35
4. So sánh bộ máy công chức trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa
(Việt Nam - Trung Quốc)

Giống nhau:
1. Cả hai đều là bộ máy nhà nước quan trọng trong việc quản lý và thực hiện
chính sách của chính phủ.
2. Cả hai đều có cơ cấu tổ chức tương tự với các cấp quản lý tương đương, bao
gồm trung ương, địa phương và các cơ quan thuộc các ban ngành khác.
Khác nhau:
1. Cơ cấu tổ chức khác nhau: Trung Quốc có bộ máy phức tạp hơn và nhiều hơn
các cơ quan tư pháp và các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau, trong khi đó bộ máy
công chức Việt Nam tập trung hơn vào các cơ quan hành chính và quản lý địa phương.
2. Thực hiện chính sách khác nhau: Cả hai quốc gia đều có chính sách khác nhau
về phát triển kinh tế, xã hội do bộ máy công chức của từng nước có những nhiệm vụ
và chức năng khác nhau.
3. Quy định và nguyên tắc khác nhau: Cả hai nước có các quy định và nguyên tắc
khác nhau về đạo đức, kỷ luật, năng lực công và đối với các nhân viên công chức.
4. Các vấn đề đang đối mặt khác nhau: Hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với
nhiều hình thức tham nhũng, lãng phí, thừa nhân viên trong khi Trung Quốc đang đối
mặt với các vấn đề như quy mô bộ máy công chức quá lớn và việc giảm bớt biên chế
nhân viên công chức.
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau:
Sự khác nhau trong bộ máy công chức của các nước có thể phụ thuộc nhiều vào
các yếu tố như lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế và xã hội của từng quốc gia. Các yếu
tố này ảnh hưởng đến cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, vai trò của các cơ quan và
nhân viên công chức, quy trình tuyển dụng và bổ nhiệm, chế độ phúc lợi và các quy
trình đạo đức, kỷ luật.
Ví dụ: Một số quốc gia có bộ máy công chức lớn hơn do đối phó với các vấn đề
chính trị, kinh tế và xã hội phức tạp hơn. Những quốc gia này có thể có nhiều cơ quan
quản lý nhà nước, đòi hỏi có sự phân cấp chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả và quản lý tốt

36
nhất. Trong khi một số quốc gia khác có bộ máy công chức đơn giản vì chính phủ của
họ đang thực hiện chính sách đơn giản hoá hoặc có nền kinh tế phát triển hơn.
Ngoài ra yếu tố văn hoá địa lý cũng có thể ảnh hưởng đến cách tổ chức bộ máy
công chức của các quốc gia.
Ví dụ: Ở một số quốc gia, tuyển dụng và bổ nhiệm nhân viên công chức thể chế
dựa vào mối quan hệ cá nhân và gia đình trong khi ở các quốc gia khác quá trình này
phải tuân thủ nghiêm khắc bảo đảm tính công bằng, minh bạch.
Do đó, sự khác nhau trong bộ máy công chức phụ thuộc vào các yếu tố và được
quy định bởi các tình huống cụ thể của mỗi quốc gia.

37

You might also like