You are on page 1of 20

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP GIỮA KÌ PLDC

I. Đặc điểm nhà nước:


-Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người
ta được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý
xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng
cầm quyền trong xã hội.
-Đặc điểm cơ bản của Nhà nước là các yếu tố để phân biệt Nhà nước với các tổ
chức khác trong xã hội. Mặc dù mỗi kiểu Nhà nước đều có những bản chất
riêng, nhưng các nhà nước đều có những đặc điểm cơ bản sau đây:
+Thứ nhất, Nhà nước thiết lập quyền lực công đặc biệt, thực hiện quyền lực
thông qua bộ máy quản lý. Nhà nước là tổ chức duy nhất có bộ máy gồm một
hệ thống các cơ quan có tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Bộ
máy nhà nước có chức năng, nhiệm vụ quản lý hoạt động của tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà
nước – thông qua các quy định pháp luật trao cho các cơ quan nhà nước, nhân
viên nhà nước những quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền lực của nhà nước tác
động đến toàn xã hội, được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế. Khi điều
kiện xã hội thay đổi, các quy định về quyền lực của bộ máy nhà nước cũng
được điều chỉnh, tuy nhiên, quyền lực của nhà nước luôn được củng cố và phát
triển.
+Thứ hai, Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực
hiện quản lý dân cư theo lãnh thổ. Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn
vị hành chính để tổ chức bộ máy nhà nước một cách chặt chẽ và thống nhất với
sự phân công, phân cấp trong việc thựuc hiện các hoạt động quản lý nhà nước.
Việc quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính không phục vào yếu tố huyết
thống, chính kiến, giới tính, độ tuổi hay nghề nghiệp.
+Thứ ba, Nhà nước đại diện cho chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là
quyền tối cao trong đối nội và độc lập trong đối ngoại của Nhà nước mà không
chịu sự áp đặt từ bên ngoài. Với tư cách là đại diện chính thức của toàn xã hội,
nhà nước là tổ chức duy nhất đại diện cho chủ quyền quốc gia, ban hành các
chính sách đối nội và đối ngoại, thực hiện các biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc
gia.
+Thứ tư, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được xác định là
phương tiện quan trọng nhất để tổ chức và quản lý xã hội. Trong xã hội có nhà
nước, chỉ duy nhất nhà nước có quyền ban hành pháp luật. Nhà nước xây dựng
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đồng thời,
đảm bảo cho các quy phạm đó được thực thi. Pháp luật được áp dụng đối với
mọi chủ thể trong xã hội.
+Thứ năm, Nhà nước có quyền đặt ra các loại thuế và thực hiện các chính sách
tài chính. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia dùng để chi trả
cho các hoạt động của bộ máy nhà nước, đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giải quyết
các vấn đề xã hội cũng như để tích lũy. Việc quy định về các loại thuế và đảm
bảo nguồn thu cho ngân sách quốc gia là trách nhiệm của nhà nước. Chỉ có nhà
nước mới có quyền quy định và thu các loại thuế, bởi nhà nước là đại diện
chính thức của toàn xã hội.
II. Kiểu nhà nước, hình thức nhà nước:
-Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội,bao gồm một lớp người
được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý
xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng
cầm quyền trong xã hội.
 Kiểu nhà nước:
-Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu ( đặc điểm) cơ bản, đặc thù của nhà
nước, thể hiện bản chất của nhà nước và những điều kiện tồn tại và phát triển
của nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
-Tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội có giai cấp, bao gồm: hình thái kinh tế - xã
hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Tương ứng
với mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó là một kiểu nhà nước:
+Nhà nước chủ nô: Đây là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại, xuất
hiện trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Về cơ bản, sự ra đời
của Nhà nước chủ nô dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ trong điều kiện xã
hội xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và phân hóa thành các giai
cấp. Nhà nước chủ nô là công cụ bảo vệ chiếm hữu nô lệ, dựa trên nền tảng
quan hệ bóc lột trực tiếp của chủ nô đối với người nô lệ.
+Nhà nước phong kiến: là công cụ chuyên chế của giai cấp phong kiến đối với
nông dân và các tầng lớp lao động khác. Nhà nước phong kiến tồn tại dựa trên
cơ sở của chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và các tư liệu sản xuất như
nông cụ, súc vật. Ở các nước có chế độ nô lệ tồn tại một cách điển hình, nhà
nước phong kiến ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ. Ở
những nước không có chế độ chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến ra đời dựa
trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy trong điều kiện chuyển
biến dần của chế độ cộng sản nguyên thủy sang chế độ phong kiến. Quyền lực,
kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến
( chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự bóc lột của giai cấp phong
kiến với nông dân).
+Nhà nước tư sản: là công cụ thiết lập và bảo vệ chế độ dân chủ tư sản. Trong
xã hội đó, giai cấp tư sản có lợi thế hơn giai cấp khác về kinh tế nên họ có ưu
thế hơn trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ sở kinh
tế của nhà nước tư sản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản
xuất. Cơ sở xã hội bao gồm giai cấp tư sản chỉ chiếm thiểu số nhưng nắm giữ
phần lớn tài sản quốc gia, tư liệu sản xuất, quyền lực kinh tế; và còn lại là
người lao động làm thuê chủ yếu là công nhân chiếm đa số nhưng chỉ năm giữ
phần nhỏ tài sản của xã hội.
+Nhà nước xã hội chủ nghĩa: là kiểu nhà nước mới, do giai cấp công nhân và
nhân dân lao động – lựuc lượng chiếm đa số trong xã hội làm chủ. Nhiệm cụ
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước xhcn ra
đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
 Hình thức nhà nước:
+Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và phương pháp để
thực hiện quyền lực nhà nước, là khái niệm được tạo thành bởi ba yếu tố: chính
thể, cấu trúc và chính trị
+Hình thức chính thể là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất của
quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa cơ quan đó với cơ quan cao cấp
khác và với nhân dân. Lịch sử phát triển nhà nước có hai hình thức chính thể:
1.Chính thể quân chủ là hình thức chính thể mà ở đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo
nguyên tắc thừa kế giữ chức vụ suốt đời. Chính thể quân chủ có hai dạng: một
là, chính thể quân chủ tuyệt đối là quyền lực tối cao của nhà nước tập trung
toàn bộ trong tay người đứng đầu nhà nước là nhà vua, gồm cả quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Hình thức chính thể nay tồn tại chủ yếu ở các nhà nước
chủ nô và nhà nước phong kiến. Hai là, chính thể quân chủ hạn chế là quyền
lực tối cao của nhà nước nằm một phần trong tay người đứng đầu nhà nước,
bên cạnh đó có cơ quan khác cùng chia sẻ quyền lực.
2.Chính thể cộng hòa: là chính thể mà cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
được lập ra bởi nhân dân theo con đường bầu cử, hoạt động theo nhiệm kỳ.
Chính thể cộng hòa có hai dạng:
Một làcoong hòa quý tộc có cơ quan quyền lực cao nhất được thiết lập ra bởi
giới quý tộc, tồn tại trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, ở các thành thị vào cuối chế
độ phong kiến. Hai là, công hòa dân chủ có cơ quan quyển lực cao nhất được
lập ra bởi nhân dân; đã từng tồn tại ngay trong nhà nước chủ nô và phát triển
hơn ở các nhà nước sau này với các hình thức rất đa dạng và phức tạp.
+Hình thức cấu trúc nhà nước: là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo
các đơn vị hành chính – lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền nhà nước với nhau. Hai hình thức cấu trúc nhà nước cơ bản: một là, Nhà
nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có một hệ thống pháp luật, có
hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Hai là, Nhà nước liên bang là nhà nước do từ hai hay nhiều nước
thành viên có chủ quyền hợp lại. Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan
quyền lực và quản lý.
+Hình thức chế độ chính trị: là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà giai cấp
cầm quyền sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Hai phương pháp, thủ
đoạn mà các giai cấp thống trị sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước: một là
phương pháp dân chủ là phương pháp tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
phải tuân theo quy định của pháp luật, các chủ thể pháp luật bình đẳng với nhau
khi tham gia vào các công việc của nhà nước. Hai là, phương pháp phản dân
chủ là phương pháp thực thi quyền lực nhà nước, quản lý xã hội theo tư tưởng
cực đoan, phản tiến bộ, đi ngược lại các quyền tự do dân chủ của con người,
lạm dụng bạo lực.
III. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
a.Bản chất và chức năng
Bản chất: Nhà nước CHXHCN VNAM là nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước trực tiếp tổ chức và quản lý
hầu hết các mặt của đời sống xã hội. Là nhà nước dân chủ, là một công cụ thực
hiện dân chủ ở XHCN Việt nam. Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng
sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước luôn đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân đôngf thời là
Đội tiên phong của Nhân dân lao động của dân tộc ta. Nhà nước CHXHCN
VNAM là nhà nước của thời kỳ quá độ lên CNXH.
-Chức năng:
+Chức năng đối nội: chức năng tổ chức và quản lý trở thành chức năng đối nội
quan trọng nhất. Nhà nước phải xây dựng những chính sách phát triển và tiến
hành các hoạt động phù hợp để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân
dân. Ngoài ra còn có chức năng quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, công
nghệ và xã hội; cnang bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích công dân
+Chức năng đối ngoại: Nhà nước thực hiện chính sách hòa bình, hợp tác với tát
cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, các bên bình đẳng cùng có lợi. Ngoài ra, còn thiết lập, củng cố và
phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
-Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước: thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo quyền
của nhân dân, nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thứ hai, Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự
thể hiện, sự đòi hỏi thống nhất quyền lực về một mối, trong khi đó dân chủ là
sự thể hiện việc tham gia của nhân dân vào việc thực hiện quyền lực của nhà
nước. Thứ ba, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước phải tiến hành theo đúng qui
định của pháp luật.
-Bộ máy nhà nước:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam.( cao nhất vì là cơ quan cao nhất
do cử tri cả nước bầu ra).
Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương
bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt
Nam về đối nội và đối ngoại.
Cơ quan quản lý nhà nước(cơ quan hành chính nhà nước) bao gồm: chính phủ
(ở Trung ương) và Uỷ ban nhân dân các cấp ( ở địa phương)
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Kiểm sát
hoặt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sat nhân dân để kiểm sát tính
hợp pháp của hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức.
Các thiết chế hiến định độc lập gồm: Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán
nhà nước. Hội đồng Bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có
nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Kiểm toán nhà nước là cơ quan do
Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện
kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
b.Nhà nước trong hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam:
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các bộ phận cấu thành là
các thiết chế chính trị có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết
với nhau trong quá trình tham gia thực hiện quyền lực nhà nước.
IV. Nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của pháp luật
a. Nguồn gốc của pháp luật
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước
cũng là những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật.
Pháp luật chỉ xuất hiện khi cơ sở kinh tế, xã hội đã đạt đến trình độ nhất định. Pháp
luật từng bước được hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và khả năng
nhận thức của con người. Pháp luật được hình thành bằng các con đường sau:
Một là, giai cấp thống trị thông qua nhà nước chọn lọc, thừa nhận các quy tắc xử
sự thông thường phổ biến trong xã hội (như các quy tắc đạo đức, phong tục, tập
quán...) nâng lên thành các quy định pháp luật.
Hai là, nhà nước thừa nhận các cách xử lý đã được đặt ra trong quá trình xử lý các
sự kiện thực tế, thông qua các quyết định áp dụng pháp luật (của tòa án hoặc cơ
quan hành chính) như những quy định chung (pháp luật) để áp dụng cho các trường
hợp tương tự sau đó.
Ba là, nhà nước thông qua các cơ quan để ban hành các quy phạm pháp luật mới.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà nước đặt
ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các mỗi quan hệ xã hội
theo mục đích, định hưởng của nhà nước.
Pháp luật chứa đựng những quy tắc ứng xử, khi được thực hiện rộng rãi và lâu dài
sẽ trở thành chuẩn mực xã hội, thước đo hành vi của con người. Pháp luật là hiện
tượng lịch sử có nguồn gốc từ xã hội và là nhân tố trật tự hóa các quan hệ xã hội.
Đó là công cụ mà giai cấp cầm quyền sử dụng để thực hiện chức năng quản lý và
hợp pháp quan hệ thống trị đối với xã hội.
b. Đặc điểm của pháp luật
Đặc điểm (thuộc tính, đặc trưng) của pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng, riêng
có của pháp luật, là tiêu chi để phân biệt pháp luật với các loại quy phạm xã hội
khác như đạo đức, tập quán, tôn giáo, quy phạm của tổ chức chính trị - xã hội.
Pháp luật có một số đặc điểm sau:

 Pháp luật có tính quy phạm phổ biến

Các quy định của pháp luật là các khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử sự
cho mọi chủ thể của xã hội. Bất kỳ ai, ở vào điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã dự
liệu đều xử sự theo cách thức mà pháp luật đã nêu ra. Dựa trên cơ sở các quy định
của pháp luật, các chủ thể trong xã hội biết được làm gì, không được làm gì hoặc
làm như thế nào khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã dự liệu. Pháp luật luôn
là tiêu chuẩn, khuôn mẫu để đánh giá hành vi của con người là hợp pháp hay bất
hợp pháp.

 Pháp luật mang tính quyền lực nhà nước (tính cưỡng chế)

Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Thông qua
nhà nước, giai cấp thống trị xã hội thể hiện và hợp pháp hóa ý chí của mình một
cách chính thống trên thực tế. Việc pháp luật được đảm bảo thực thi trong đời sống
xã hội chính là việc đảm bảo cho quyền lực nhà nước được tác động đến mọi thành
viên của xã hội.
Pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện đối với mọi chủ thể trong xã hội, bất kỳ chủ
thể nào khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh quy phạm đã dự liệu đều phải thực hiện theo
đúng yêu cầu của pháp luật, nếu không, hành vi của chủ thể bị coi là vi phạm pháp
luật.
 Pháp luật có tính hệ thống
Pháp luật là một hệ thống gồm tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội
tại thống nhất và chặt chẽ với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật,
ngành luật và được thể hiện trong các hình thức pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chủ yếu được thể hiện trong một hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình
thức nhất định. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản
khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp lý, văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù
hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm pháp luật do cơ quan cấp
dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban hành
và đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm
pháp luật phải nhất quán, phù hợp, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
 Pháp luật có tính xác định về hình thứ
Pháp luật thường được thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán
pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, các văn bản quy
phạm pháp luật lại có những hình thức cụ thể như Hiến pháp, luật, nghị định, nghị
quyết... Mỗi loại văn bản do những cơ quan có thẩm quyền ban hành theo những
trình tự, thủ tục nhất định được quy định chặt chẽ trong luật.
 Pháp luật có tinh ý chí
Mặc dù ra đời do nhu cầu tất yếu của xã hội, chịu sự quy định của các điều kiện
kinh tế - xã hội nhưng pháp luật là sản phẩm trực tiếp của Nhà nước – một bộ máy
với quyền lực thuộc về giai cấp thống trị. Vì vậy, các quy phạm pháp luật dù thể
hiện dưới hình thức nào thì cũng do ý chí Nhà nước quyết định, nếu ý chí Nhà nước
phù hợp với lợi ích của đa số, phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của xã hội
thì pháp luật sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, và ngược lại.
c, Bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật là tổng thể những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
bên trong tương đối ổn định và có tính quy định đối với sự ra đời, phát triển cũng
như nội dung của pháp luật.
Cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ của giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước,
để thực hiện và bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp đó. Đồng thời,
pháp luật là công cụ của nhà nước để điều hành và quản lý xã hội, nhằm thiết lập và
giữ gìn trật tự xã hội vì sự phát triển chung của toàn xã hội, cộng đồng. Do vậy, xét
về bản chất, pháp luật mang những thuộc tính thể hiện bản chất của nó là tính giai
cấp và tính xã hội.
 Bản chất giai cấp
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là công cụ điều chỉnh
quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo vệ quyền và
lợi ích của giai cấp thống trị.
Pháp luật là sự thể chế hóa nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu, chính sách,
đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền, giúp cho lực lượng này thực hiện
được quyền lãnh đạo của nó đối với toàn xã hội.
Mức độ thể hiện tính giai cấp của pháp luật phụ thuộc vào tương quan lực lượng,
mâu thuẫn giai cấp, đặc điểm kinh tế, truyền thống, tôn giáo, đạo đức, bối cảnh
quốc tế, lịch sử hay thậm chí là các điều kiện tự nhiên, ý chí của giai cấp nắm giữ
quyền lực nhà nước.
 Bản chất xã hội
Xã hội gồm nhiều thành phần, giai cấp, tầng lớp khác nhau, do vậy, pháp luật ngoài
việc chú trọng phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị còn phải phản
ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho các giai tầng khác trong xã hội ở một mức độ nhất
định.
Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và củng cố và
bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống, bảo vệ lợi ích chung của quốc
gia, dân tộc, vì sự phát triển chung của toàn xã hội. Do vậy, lực lượng cầm quyền
trong xã hội muốn củng cố và giữ gìn quyền lực của mình trong xã hội một cách
bền vững thì bên cạnh việc quan tâm tới lợi ích riêng của mình còn phải quan tâm
đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội, xây dựng và giữ gìn trật tự xã hội.
Pháp luật là một trong những công cụ hiệu quả nhất để huy động sức mạnh chung
của cộng đồng cho công cuộc xây dựng và ổn định trật tự xã hội, do vậy, pháp luật
phản ánh và thể hiện ý chí chung của xã hội.
Để đảm bảo tính khả thi, pháp luật cũng cần phù hợp với điều kiện thực tế của xã
hội, khi xã hội thay đổi, Nhà nước cũng phải điều chỉnh các quy định pháp luật.
Pháp luật trong xã hội hiện đại có nhiều nội dung thể hiện tính xã hội của nó, chẳng
hạn như việc thừa nhận một cách rộng rãi các quyền cơ bản của con người với tư
cách là các quyền tự nhiên bẩm sinh của con người đồng thời quy định các phương
thức bảo vệ các quyền đó.
Giữa hai thuộc tính xã hội và giai cấp có quan hệ qua lại với nhau. Nếu pháp luật
nào mang tính giai cấp sâu sắc thì tính xã hội sẽ mờ nhạt và ngược lại. Khuynh
hướng vận động của pháp luật là ngày càng tiến bộ hơn do tính xã hội ngày càng
được mở rộng qua các kiểu pháp luật trong lịch sử.
V. Kiểu pháp luật và hình thức pháp luật
a. Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu, đặc thù cơ bản của pháp luật thể hiện
bản chất giai cấp và điều kiện tồn tại của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định.
Các kiểu pháp luật:
Theo quan điểm của Học thuyết Mác – Lênin, tương ứng với các hình thái kinh tế –
xã hội, trong lịch sử có 4 kiểu pháp luật là: kiểu pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật
phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Khi nghiên cứu các kiểu pháp luật trong lịch sử cần lưu ý những vấn đề cốt lõi sau:
Thứ nhất, sự thay thế kiểu pháp luật này bằng kiểu pháp luật khác là tất yếu, khách
quan, kiểu pháp luật sau bao giờ cũng tiến bộ, hoàn thiện hơn kiểu pháp luật trước.
Thứ hai, phương thức cơ bản để thực hiện sự thay thế các kiểu pháp luật là cách
mạng xã hội. Thứ ba, xem xét các kiểu pháp luật phải làm rõ những điều kiện kinh
tế, xã hội mà kiểu pháp luật đó tồn tại, bản chất của kiểu pháp luật. Trong đó, cần
làm rõ sự khác biệt của kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa so với ba kiểu pháp luật tồn
tại trước đó (pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến và pháp luật tư sản).
 Kiểu pháp luật chủ nô
Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật ra đời sớm nhất trong lịch sử, cùng với sự ra đời
của nhà nước chủ nô. Kiểu pháp luật chủ nô được xây dựng trên cơ sở chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất và mâu thuẫn đối kháng gay gắt giữa chủ nô với nô lệ. Pháp
luật chủ nô được hình thành bằng con đường thừa nhận các phong tục, tập quán,
quy tắc đạo đức và tín điều tôn giáo trong xã hội.
Pháp luật chủ nô có đặc trưng:
Pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản xuất
chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hóa sự bóc lột của chủ nô đối với nô lệ.
- Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và phương thức thi hành hình
phạt hết sức dã man.
- Pháp luật chủ nô ghi nhận tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và gia đình.
- Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất.
 Kiểu pháp luật phong kiến
Pháp luật phong kiến được xây dựng trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân của địa chủ,
quý tộc, phong kiến về tư liệu sản xuất mà chủ yếu là ruộng đất. với cơ sở xã hội là
mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến với nông dân.
Pháp luật phong kiến có các đặc trưng sau:
- Pháp luật phong kiến xác lập và bảo vệ trật tự đẳng cấp, đồng thời bảo vệ những
đặc quyền của các đẳng cấp trên trong xã hội.
- Pháp luật phong kiến dung túng cho việc tùy tiện sử dụng bạo lực của những kẻ
nắm quyền trong xã hội.
- Pháp luật phong kiến quy định hệ thống hình phạt và cách thức thi hành hình phạt
một cách dã man, hà khắc.
- Pháp luật phong kiến chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo, phong tục, đạo đức
phong kiến và không có tính thống nhất.
Tương tự như pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến chưa có sự phân định rõ ràng
giữa các lĩnh vực pháp luật. Hầu hết các bộ luật phong kiến đều quy định về biện
pháp trừng phạt (hình phạt) của nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
 Kiểu pháp luật tư sản
Pháp luật tư sản được xây dựng trên cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa, với cơ sở xã hội dựa trên quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân.
Pháp luật tư sản có các đặc trưng sau:
- Pháp luật tư sản ghi nhận và bảo vệ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa.
- Pháp luật tư sản mang tính dân chủ, thừa nhận về mặt pháp lý quyền tự do, bình
đẳng của công dân.
- Pháp luật tư sản bảo vệ sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp tư sản
trong xã hội.
- So với các kiểu pháp luật trước đó, pháp luật tư sản có nhiều điểm tiến bộ vượt
bậc, đặc biệt là tính nhân đạo của hệ thống pháp luật đã được đề cao. Ngày nay,
nhiều quy định của pháp luật tư sản có ảnh hưởng đến pháp luật quốc tế.
 Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa
Pháp luật xã hội chủ nghĩa ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội là sự liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao
động.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng lãnh đạo.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa đang ngày một hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu điều
chỉnh xã hội.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa phản ánh các chuẩn mực đạo đức xã hội đồng thời góp
phần củng cố, bảo vệ các chuẩn mực đó.
b. Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật được xem xét dưới hai phương diện cơ bản: hình thức bên
trong (nội tại) và hình thức bên ngoài.
Hình thức bên trong của pháp luật là cấu trúc (kết cấu) bao gồm các yếu tố hợp
thành hệ thống pháp luật sau: ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp
luật.
Hình thức bên ngoài là sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, có chứa đựng
những quy tắc pháp luật để điều chỉnh hành vi của con người. Một số giáo trình lý
luận về Nhà nước và pháp luật, đều cho rằng hình thức bên ngoài của pháp luật còn
được gọi là nguồn pháp luật. Theo đó, hình thức bên ngoài (nguồn) của pháp luật
bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật.
 Tập quán pháp
( ý thêm: để đáp ứng nhu cầu nhà nc/ điều kiện: k trái đạo đức, xâm phạm lợi ích,
phù hợp vs đời sống xã hội, ý chí nhà nc)
Tập quán pháp là các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới dạng phong tục tập
quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nhà nước nên
được nhà nước thừa nhận thành pháp luật..
 Tiền lệ pháp hay án lệ
Tiền lệ pháp hay án lệ là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi
giải quyết các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận làm khuôn mẫu để giải
quyết các vụ việc khác tương tự.,(note thêm: tồn tại ở nhiều quốc gia, bản án mang
t/c(?), điển hình, mẫu mực,.)
Tiền lệ pháp hay án lệ là kết quả từ hoạt động của cơ quan xét xử (Tòa án hoặc
trọng tài) và cơ quan nhà nước khác. Ví dụ, bản án do Tòa án nhân tối cao đưa ra
khi giải quyết một vụ án tranh chấp đất đai đã được Nhà nước thừa nhận làm mẫu
để các tòa án khác phải tuân theo khi giải quyết các tranh chấp đất đai xảy ra sau đó
có nội dung tương tự.
 Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định, trong đó
có các quy phạm được nhà nước bảo đảm thực hiện hay các quy phạm pháp luật để
điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước.
Đây là hình thức pháp luật quan trọng nhất vì đảm bảo tính chính xác, rõ ràng,
minh bạch, dễ thống nhất, được cập nhật thường xuyên theo sự thay đổi của đời
sống xã hội, chứa đựng khuôn mẫu xử sự chung.
VI. Quan hệ pháp luật
a. Khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật
 Khái niệm
Khi quan hệ xã hội chịu sự tác động của quy phạm pháp luật thì buộc các bên tham
gia quan hệ phải tuân thủ cách xử sự mà quy phạm pháp luật đã đề ra. Những quan
hệ xã hội chịu sự tác động của quy phạm pháp luật chính là các quan hệ pháp luật.
Như vậy, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh
trong đó các bên tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước
đảm bảo thực hiện.
 Đặc điểm của quan hệ pháp luật:
Quan hệ pháp luật mang tính ý chí
Lựa chọn các quan hệ xã hội để điều chỉnh, và cách thức điều chỉnh quan hệ xã hội
đó như thế nào là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước (cơ quan ban hành văn bản quy
phạm pháp luật). Mặt khác, quan hệ pháp luật được hình thành, thay đổi, chấm dứt
còn phụ thuộc vào ý chí, các bên tham gia.
Quan hệ pháp luật xuất hiện và tồn tại trên cơ sở các quy phạm pháp luật
Một quan hệ xã hội nêu không được điều chỉnh bởi pháp luật thì chỉ là quan hệ xã
hội đơn thuần mà không thể trở thành quan hệ pháp luật. Vì vậy, quy phạm pháp
luật là một trong những điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp
luật.
Vì pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phổ biến, cơ bản, có ảnh hưởng rộng
đến đời sống xã hội nên trong đời sống xã hội, vẫn tồn tại nhiều quan hệ xã hội
không chịu sự tác động của quy phạm pháp luật mà thực hiện theo các quy tắc xã
hội khác như: đạo đức, tôn giáo, quy chế của tổ chức, đoàn thể...
Nội dung của quan hệ pháp luật biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể
của các bên tham gia quan hệ
Quan hệ pháp luật được hình thành bởi ít nhất 2 chủ thể (gọi là các bên của quan hệ
pháp luật), quan hệ giữa các chủ thể nhằm đạt được những lợi ích nhất định, vì vậy,
pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo cho các quan hệ
pháp luật diễn đúng theo ý chí của Nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ của các bên cũng có thể do các bên thỏa thuận trong khuôn khổ
pháp luật (ví dụ như trong quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, lao động), hoặc được
xác định bởi nhà nước (như trong quan hệ pháp luật hình sự, hành chính).
Quyền và nghĩa vụ của các bên được bảo đảm bởi nhà nước với nhiều hình thức,
tính chất khác nhau: có những biện pháp bảo đảm mang tính bắt buộc, cưỡng chế,
nhưng cũng có những biện pháp bảo đảm mang tính cho phép, tùy nghi.
c. Cấu thành của quan hệ pháp luật (trong sách đoé có ý b nên yên tâm)
Cấu thành của quan hệ pháp luật là các bộ phận hợp thành quan hệ pháp luật. Một
quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các bộ phận: chủ thể, khách thể và nội dung.
 Chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các cá nhân và tổ chức tham gia quan hệ pháp luật
với những quyền và nghĩa vụ pháp lý xác định.
Tuy nhiên, để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật, cá nhân và tổ chức phải có
năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi
pháp luật.
Năng lực pháp luật: là khả năng của chủ thể được hưởng quyền và thực hiện nghĩa
vụ pháp lý khi tham gia quan hệ pháp luật. Mỗi chủ thể khi tham gia các quan hệ
pháp luật khác nhau sẽ có khả năng hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ khác nhau
do pháp luật quy định. Năng lực pháp luật là yếu tố mang tính chất thụ động, phụ
thuộc vào ý chí của nhà nước – thể hiện qua các quy định của pháp luật.
Năng lực hành vi pháp luật: là khả năng mà các chủ thể bằng hành vi của mình xác
lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật cụ thể.
Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi pháp luật không mang tính thụ động
mà mang tính chủ động. Theo đó, các chủ thể của quan hệ pháp luật tự bản thân
mình (bằng hành vi của mình) thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật
quy định. Khi một chủ thể có năng lực hành vi pháp luật, chủ thể được tự mình
tham gia quan hệ pháp luật để hưởng quyền hoặc làm nghĩa vụ trong quan hệ đó.
Một cá nhân chỉ có đầy đủ năng lực hành vi pháp luật khi đạt đến một độ tuổi nhất
định, có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Một tổ chức, ngay từ khi
được thành lập hoặc được cấp giấy phép hoạt động, năng lực pháp luật và năng lực
hành vi pháp luật của pháp nhân đã xuất hiện.
Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật:
Cá nhân, gồm: công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
Trong đó, công dân là cá nhân mang quốc tịch của một nước và có các quyền,
nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật nước đó; công dân là chủ thể phổ biến
của quan hệ pháp luật. Người nước ngoài là cá nhân sinh sống tại một quốc gia
nhưng lại mang quốc tịch của quốc gia khác. Người không quốc tịch là cá nhân
không mang quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào. Người không quốc tịch là thực
trạng pháp lý của một cá nhân có thể do nhiều nguyên nhân: cá nhân xin thôi quốc
tịch nước này để gia nhập quốc tịch nước khác, trong thời gian chờ gia nhập quốc
tịch nước mới, họ là người không quốc tịch; cá nhân được sinh ra do sự xung đột
pháp luật quốc tịch giữa các quốc gia; công bị tước quốc tịch theo quyết định có
tính chất chế tài của cơ quan nhà nước có thẩm quyền….
Tổ chức: Tổ chức phải có đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia
quan hệ pháp luật.
Trong các tổ chức, có nhóm tổ chức là pháp nhân khi thỏa mãn các điều kiện được
quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể là: (1) Được thành lập theo quy
định của pháp luật; (2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với cá
nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (4) Nhân danh
mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân gồm có: pháp nhân
thương mại và pháp nhân phi thương
mai.
 Khách thể của quan hệ pháp luật
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật hướng tới khi tham gia quan hệ đó.
Khách thể của quan hệ pháp luật rất đa dạng, có thể là những lợi ích vật chất (như:
tiền, nhà, đất đai, phương tiện vận chuyển, tư liệu sản xuất...) hoặc lợi ích phi vật
chất thỏa mãn các nhu cầu về tinh thần (như: quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, uy
tín, danh tiếng...); hoặc thỏa mãn nhu cầu sử dụng dịch vụ của một chủ thể (chăm
sóc sức khỏe, dịch vụ vận chuyển...).
 Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Quyền của chủ thể:
Là khả năng của chủ thể được xử sự theo cách thức mà pháp luật cho phép. Quyền
pháp lý của chủ thể bao gồm: (i) chủ thể có thể tự thực hiện những hành vi nhất
định (tự xử sự), bằng hành vi của mình, chủ thể tự tiến hành cách xử sự mà pháp
luật cho phép; (ii) có thể yêu cầu chủ thể có nghĩa vụ của quan hệ phải thực hiện
những hành động cụ thể để đảm bảo quyền của mình trong quan hệ, yêu cầu chủ
thể phía bên kia chấm dứt việc thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại tới quyền
và lợi ích chính đáng của mình; (iii) có thể yêu cầu nhà nước can thiệp để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khi quyền và lợi ích đó bị xâm hại.
Nghĩa vụ pháp lý chủ thể:
Là các xử sự mà các chủ thể của quan hệ pháp luật bắt buộc phải thực hiện nhằm
đáp ứng quyền của chủ thể phía bên kia trong quan hệ. Nghĩa vụ pháp lý của chủ
thể bao gồm: nghĩa vụ phải thực hiện một hoặc một số hoạt động nhất định; nghĩa
vụ không được thực hiện một hoặc một số hoạt động nhất định; phải chịu trách
nhiệm khi không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với phía bên kia.
d. Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
Một quan hệ pháp luật cụ thể sẽ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt khi có quy phạm
pháp luật điều chỉnh, chủ thể có đủ năng lực chủ thể và có sự kiện pháp lý. Trong
đó: quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý, chủ thể là yếu tố trực tiếp thực hiện quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật, sự kiện pháp lý chính thức làm quan hệ xã hội
chịu sự tác động trong thực tế.
Sự kiện pháp lý là sự kiện, sự việc thực tế xảy ra trong cuộc sống được pháp luật
gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý gồm: hành vi pháp lý và sự biến pháp lý.
Hành vi pháp lý (sự kiện ý chí) là xử sự của con người có sự kiểm soát và điều
khiển của lý trí được pháp luật gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quan hệ pháp luật.
Sự biến pháp lý (sự kiện phi ý chí) là kết quả của một hiện tượng, sự việc hoặc
hành vi xảy ra trong tự nhiên nhưng được pháp luật gắn với việc làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ: sự kiện sóng thần, động đất xảy
ra gây chết người, thiệt hại về tài sản có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt nhiều
quan hệ pháp luật như: phát sinh quan hệ pháp luật bảo hiểm, quan hệ pháp luật về
thừa kế tài sản; chấm dứt quan hệ pháp luật về quyền sở hữu tài sản...
VII. Thực hiện pháp luật
a. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật
 Khái niệm
Gắn liền với việc xây dựng hệ thống QPPL (quy phạm pháp luật) là quá trình phổ
biến, tổ chức THPL (thực hiện pháp luật) và bằng hành vi thực tế thực hiện theo
các QPPL. Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động)
thực tế hợp pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật.
Hiểu một cách đơn giản, THPL là việc chủ thể thực hiện hành vi mà pháp luật yêu
cầu, không thực hiện những hành vi pháp luật cấm, lựa chọn những cách xử sự mà
pháp luật cho phép. Chủ thể THPL có thể là cá nhân, nhà nước, tổ chức xã hội ...
Thông qua quá trình THPL, các quy định pháp luật đi vào đời sống, được kiểm
nghiệm về tính khả thi và hiệu quả tác động trong thực tế. Vì vậy, xem xét quá
trình THPL không chỉ giúp cho các chủ thể biết cách xử sự phù hợp với các chuẩn
mực pháp lý mà còn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước điều chỉnh, hoàn thiện các
QPPL.
 Đặc điểm của thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật phải là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người:
Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể điều chỉnh
suy nghĩ hay tư tưởng của họ. Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể có thể
được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động . Hành động thực hiện
pháp luật thể hiện bằng những lời nói, cử chỉ, động tác nhất định (Ví dụ: khi tham
gia giao thông bằng xe gắn máy, người điều khiển xe “đội mũ bảo hiểm) hoặc
không hành động (không thực hiện những cử chỉ, động tác, lời nói nhất định mà
pháp luật cấm. Ví dụ: không “dừng xe, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao
thông”; không “sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh” khi đang điều
khiển xe).
Thực hiện pháp luật phải là hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phù hợp
với yêu cầu của pháp luật: Thực hiện pháp luật là sự hiện thực hóa các quy định
của pháp luật, tức là biến các quy định của pháp luật trong văn bản trở thành xử sự
thực tế của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Hành vi thực hiện
pháp luật phải nằm trong khuôn khổ các quy
định của pháp luật.
Thực hiện pháp luật phải là xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi, có năng lực hành vi pháp luật.
Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của cá nhân, tổ chức trong xã hội:
Thực hiện pháp luật trước hết là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội để
bảo đảm một trật tự xã hội cũng như bảo đảm quyền và lợi ích của mọi thành viên
trong xã hội.
b. Các hình thức thực hiện pháp luật
 Tuân theo (tuân thủ) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không
tiến hành những hành vi mà pháp luật cấm.
Ví dụ: Điều 8 Luật an ninh mạng năm 2018 quy định cấm sử dụng không gian
mạng để thực hiện hành vi “thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân,
gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ
quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”
 Thi hành (chấp hành) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ
pháp lý của mình bằng các hành động tích cực.
Ví dụ: Người có bệnh truyền nhiễm phải khai báo trung thực diễn biến bệnh; tuân
thủ chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc, nhân viên y tế và nội quy, quy chế của cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh. (Theo Điều 34, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm
2008)
 Sử dụng (vận dụng) pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền
của mình theo quy định của pháp luật. Vì đây là hình thức thực hiện các quyền mà
pháp luật cho phép, nên chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của
mình.
Ví dụ: Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật
không cấm (Điều 33, Hiến pháp 2013)
 Áp dụng pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà
nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền, tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện những quy định của pháp luật hoặc ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Ví dụ, khi một người lái xe ô tô tham gia giao thông mà “Không chấp hành hiệu
lệnh của đèn tín hiệu giao thông” thì sẽ bị các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử
lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt vì đây là hình thức
thực hiện pháp luật của chính nhà nước (hay hình thức nhà nước tổ chức cho các
chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật).
VIII. Vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
a. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu sau:
- Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người. Những gì còn nằm trong ý
nghĩ, tư tưởng của con người mà chưa thể hiện ra bên ngoài thì không thể làm biến
đổi thế giới khách quan, không có khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội
nên không thể coi là vi phạm pháp luật được
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật. Vi phạm pháp luật là xử trái với các
yêu cầu của pháp luật. Hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện dưới các hình thức:
chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm, chủ thể không thực hiện những
nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện.
- Vi phạm pháp luật là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý. Một
hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không có năng lực trách nhiệm
pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể. Một hành vi chỉ bị coi là vi phạm
pháp luật khi chủ thể điều khiển được hành vi của mình và nhận thức được hậu quả
của hành vi đó. Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì
mới bị coi là vi phạm pháp luật.
b. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành của vi phạm pháp luật được hiểu là những yếu tố hợp thành một vi phạm
pháp luật cụ thể. Cấu thành vi phạm pháp luật bao gồm bốn yếu tố:
Mặt khách quan: là những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan
của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật gây hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.
Mặt chủ quan: là thái độ hay trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện
hành vi trái pháp luật, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật.
Lỗi là thái độ hay trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật và đối
với hậu quả của hành vi đó. Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý (trực tiếp
hoặc gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (do quá tự tin hoặc do cẩu thả) .
Động cơ vi phạm pháp luật là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi trái pháp luật. Ví dụ, do động cơ vụ lợi mà một công chức nhà nước đã
nhận hối lộ.
Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả trong ý thức chủ quan mà chủ thể đặt ra phải
đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Ví dụ, với mục đích chiếm đoạt tài
sản của người khác, chủ thể đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Chủ thể: là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành
vi trái pháp luật, có lỗi. Ví dụ, công ty A bán thực phẩm không đủ tiêu chuẩn chất
lượng thì công ty A là tổ chức vi phạm pháp luật; một người vi phạm Luật Giao
thông thì đó là cá nhân vi phạm pháp luật.
Khách thể: là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật
xâm hại. Ví dụ, hành vi trộm cắp tài sản xâm phạm quan hệ sở hữu.
c. Phân loại vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật được chia thành các loại sau:
Vi phạm pháp luật hình sự (còn gọi là tội phạm): tội phạm là loại vi phạm pháp
luật có tính nguy hiểm cho xã hội cao nhất.
Vi phạm hành chính: Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực
hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm dân sự: Là hành vi trái pháp luật và có lỗi của chủ thể có năng lực trách
nhiệm dân sự xâm hại tới các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản.
Ví dụ, một người bán hàng cho người khác nhưng lại giao vật không đúng số
lượng, chủng loại theo hợp đồng; một người mua hàng của người khác nhưng lại
không trả đủ tiền hay không trả đúng thời hạn theo hợp đồng... là các vi phạm dân
sự.
Vi phạm kỷ luật: Là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế, quy tắc xác lập
trật tự trong nội bộ cơ quan, tổ chức, tức là không thực hiện đúng kỷ luật lao động,
học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó.

You might also like