You are on page 1of 20

Đặc điểm của nhà nước

Đặc điểm cơ bản của Nhà nước là các yếu tố để phân biệt nhà nước với các tổ chức
khác trong xã hội. Mặc dù mỗi kiểu nhà nước đều có những bản chất riêng, nhưng các
nhà nước đều có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước thiết lập quyền lực công đặc biệt, thực hiện quyền lực
thông qua bộ máy cai trị.
Nhà nước là tổ chức duy nhất có bộ máy gồm một hệ thống các cơ quan ctổ chức chặt
chẽ từ trung ương đến địa phương. Bộ máy nhà nước có chức năng, nhiệm vụ quản lý
hoạt động của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình, nhà nước – thông qua các quy định pháp luật trao cho các cơ quan
nhà nước, nhân viên nhà nước những quyền và nghĩa vụ nhất định. Quyền lực của nhà
nước tác động đến toàn xã hội, được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế. Khi điều
kiện xã hội thay đổi, các quy định về quyền lực của bộ máy nhà nước cũng được điều
chỉnh, tuy nhiên, quyền lực của Nhà nước luôn được củng cố và phát triển.
Thứ hai, Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính và thực hiện
quản lý dân cư theo lãnh thổ
Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính để tổ chức bộ máy nhà nước
một cách chặt chẽ và thống nhất với sự phân công, phân cấp trong việc thực hiện các
hoạt động quản lý nhà nước. Việc quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính không
phụ thuộc vào yếu tố huyết thống, chính kiến, giới tính, độ tuổi hay nghề nghiệp.
Thứ ba, Nhà nước đại diện cho chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao trong đối nội và độc lập trong đối ngoại của Nhà
nước mà không chịu sự áp đặt từ bên ngoài. Với tư cách là đại diện chính thức của
toàn xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất đại diện cho chủ quyền quốc gia, ban hành
các chính sách đối nội và đối ngoại; thực hiện các biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc
gia.
Thứ tư, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật
Pháp luật được xác định là phương tiện quan trọng nhất để tổ chức và quản lý xã hội.
Trong xã hội có nhà nước, chỉ duy nhất nhà nước có quyền ban hành pháp luật. Nhà
nước xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
đồng thời đảm bảo cho các quy phạm đó được thực thi. Pháp luật được áp dụng đối
với mọi chủ thể trong xã hội.
Thứ năm, Nhà nước có quyền đặt ra các loại thuế và thực hiện các chính sách tài
chính
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia dùng để chi trả cho các hoạt động
của bộ máy nhà nước, đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội cũng
như để tích lũy. Việc quy định về các loại thuế và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách
quốc gia là trách nhiệm của nhà nước. Chỉ có nhà nước mới có quyền quy định và thu
các loại thuế, bởi nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội.
Kiểu nhà nước, hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện
bản chất của nhà nước và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định.
Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội có giai cấp, bao gồm:
hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Tương ứng và
phù hợp với mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó là một kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà
nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước trong lịch sử:
Nhà nước chủ nô: Đây là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại, xuất hiện trên cơ sở
sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Về cơ bản, sự ra đời của Nhà nước chủ nô dựa
trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ trong điều kiện xã hội xuất hiện) chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất và phân hóa thành các giai cấp. Nhà nước chủ nô là công cụ bảo vệ chế độ
chiếm hữu nô lệ, dựa trên nền tảng quan hệ bóc lột trực tiếp của chủ nô đối với người nô lệ.
Nhà nước tổ chức thành bộ máy, do giai cấp chủ nô nắm quyền và thực hiện sự trấn áp đối
với người nô lệ và những người lao động khác trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị,
tư tưởng.
Nhà nước phong kiến. Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chế của giai cấp phong kiến
đối với nông dân và các tầng lớp lao động khác. Nhà nước phong kiến tồn tại dựa trên cơ sở
của chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và các tư liệu sản xuất như nông cụ, súc vật. Các
nhà nước phong kiến trên thế giới đã ra đời bằng nhiều con đường nhau. Ở các nước có chế
độ nô lệ tồn tại một cách điển hình, nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế
độ chiếm hữu nô lệ. Ở những nước không có chế độ chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến ra
đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy trong điều kiện chuyển biến dần của
chế độ cộng kiến ra sản nguyên thủy sang chế độ phong kiến.Cơ sở kinh tế của Nhà nước
phong kiến là quan hệ sản xuất phong kiến với đặc trưng là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất (chủ yếu là ruộng đất) và sự bóc của giai cấp phong kiến đối với nông dân (thông
qua chế độ tô, thuế). Vì thế, quyền lực kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội thuộc về giai
cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước tư sản: Nhà nước tư sản có nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so
với nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến. Bản chất của nhà nước tư sản là công cụ thiết
lập và bảo vệ chế độ dân chủ tư sản. Về mặt pháp lý, mọi quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân được thực hiện thông qua cơ quan đại diện hoặc bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp.
Tuy nhiên, trong xã hội đó, giai cấp tư sản có lợi thế hơn giai cấp khác về kinh tế nên họ có
ưu thế hơn trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ sở kinh tế của nhà
nước tư sản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất. Cơ sở xã hội của nhà
nước tư sản: xã hội tư sản gồm hai giai cấp chính là tư sản và công nhân, ngoài ra còn có các
giai cấp, tầng lớp khác: nông dân, tiểu thương, trí thức, thợ thủ công... giai cấp tư sản chỉ
chiếm thiểu số trong dân cư nhưng nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, phần lớn tư liệu sản
xuất của xã hội, là lực lượng nắm giữ quyền lực kinh tế. Người lao động làm thuê mà chủ yếu
là công nhân chiếm đa số dân cư nhưng chỉ nắm giữ phần nhỏ tài sản của xã hội. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác với các
kiểu nhà nước trước đó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nhân dân lao
động – lực lượng chiếm đa số trong xã hội làm chủ. Nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện
công bằng xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai
cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và phương để thực hiện quyền
lực nhà nước. Hình thức nhà nước là khái niệm chung được tạo thành bởi ba yếu tố: hình
thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính trị.
Hình thức chính thể Hình thức chính thể là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao nhất
của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa cơ quan đó với cơ quan cao cấp khác và
với nhân dân. Lịch sử phát triển nhà nước có hai hình thức chính thể là: chính thể quân
chủ và chính thể cộng hòa.
Chính thể quân chủ. Là hình thức chính thể mà ở đó quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế (thế
tập), thường giữ chức vụ suốt đời. Chính thể quân chủ có hai dạng: chính thể quân chủ tuyệt
đối và quân chủ hạn chế. Chính thể quân chủ tuyệt đối: quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ trong tay người đứng đầu nhà nước là nhà vua, gồm cả quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Hình thức chính thể này tồn tại chủ yếu ở các nhà nước chủ nô và nhà nước
phong kiến. Chính thể quân chủ hạn chế: hình thức mà ở đó quyền lực tối cao của nhà nước
nằm một phần trong tay người đứng đầu nhà nước, bên cạnh đó có cơ quan khác cùng chia sẻ
quyền lực.
Trong các nhà nước tư sản ngày nay, ngôi vua có tính chất biểu tượng, vua chỉ được coi là thủ
lĩnh tinh thần đại diện cho dân tộc, vua trị vì mà không cai trị, không có thực quyền, quyền
lực nhà nước chủ yếu được thực hiện bởi Nghị viện, ví dụ như: Anh, Thụy Điển, Nhật Bản,
Thái Lan... được tổ chức theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến.
Chính thể cộng hòa. Là chính thể mà cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được lập ra bởi
nhân dân theo con đường bầu cử, hoạt động theo nhiệm kỳ. Chính thể cộng hòa có hai dạng
cơ bản là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ. Cộng hòa quý tộc: có cơ quan quyền lực cao
nhất được lập ra bởi giới quý tộc; tồn tại trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, ở các thành thị vào
cuối chế độ phong kiến. Cộng hòa dân chủ: có cơ quan quyền lực cao nhất được lập ra bởi
nhân dân; đã từng tồn tại ngay trong nhà nước chủ nô (cộng hòa dân chủ chủ nô ở Athen) và
phát triển hơn ở các nhà nước sau này với các hình thức rất đa dạng, phức tạp.
Hình thức cấu trúc nhà nước Là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo các đơn vị
hành chính – lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chính quyền nhà nước với nhau.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước cơ bản là: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang. Nhà
nước đơn nhất: là nhà nước có chủ quyền chung, có một hệ thống pháp luật, có hệ thống cơ
quan quyền lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Nhà nước liên bang: là
nhà nước do từ hai hay nhiều nước thành viên có chủ quyền hợp lại. Nhà nước liên bang có
hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý: một hệ thống chung cho toàn liên bang và một hệ
thống trong mỗi nước thành viên. Nhà nước liên bang có chủ quyền chung đồng thời, mỗi
nhà nước là thành viên của liên bang cũng có chủ quyền của riêng mình. Các nhà nước liên
bang có thể kể đến là: Hoa Kỳ, Nga, Đức, Canada, Thụy Sĩ, Malaysia...
Chế độ chính trị: Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà giai cấp cầm
quyền sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Trong lịch sử nhân loại, các phương pháp,
thủ đoạn mà các giai cấp thống trị sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước thường ở hai
dạng: dân chủ và phản dân chủ. Phương pháp dân chủ: Là phương pháp tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước phải tuân theo quy định của pháp luật, các chủ thể pháp luật bình đẳng
với nhau khi tham gia vào các công việc của nhà nước.
Phương pháp phản dân chủ là phương pháp thực thi quyền lực nhà nước, quản lý xã hội theo
tư tưởng cực đoan, phản tiến bộ, đi ngược lại các quyền tự do dân chủ của con người, lạm
dụng bạo lực.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam:
Nguyên tắc bảo đảm chủ quyền nhân dân. Nguyên tắc này xuất phát từ nguồn gốc và bản
chất của Nhà nước ta, đó là nhà nước do nhân dân làm chủ. Nhân dân lập ra nhà nước, ủy
quyền cho Nhà nước thực hiện một phần quyền lực nhân dân. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền
lực nhà nước cần thống nhất để bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà
nước cần phải được phân công cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện nhằm mục
đích chuyên môn hóa, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với việc tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảng có vai trò to lớn, quan trọng đối với sự ra đời và phát
triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hệ thống chính trị hiện nay, Đảng
cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị có nhiều ưu việt để thực hiện công việc lãnh đạo
đối với nhà nước và toàn thể xã hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ. Tập trung là sự thể hiện, sự đòi hỏi thống nhất quyền lực về
một môid; trong khi đó dân chủ là sự thể hiện việc tham gia của nhân dân vào việc thực hiện
quyền lực nhà nước. Kết hợp đúng đăn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh tổ
chức và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước ta.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc
tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước phải tiến hành theo đúng quy
định của pháp luật. Mọi cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật
khi thi hành công vụ; giám sát, kiểm tra và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp
luật.
2. Bản chất và chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
2.1. Bản chất của Nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có đầy đủ các thuộc tính thể hiện bản
chất nhà nước và của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Tuy nhiên, do sự ra đời, tồn tại
gắn với những đặc điểm hay điều kiện khác biệt nhất định nên Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam còn có những bản chất và những đặc điểm riêng biệt.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiền thân là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, là kết quả của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, được thành lập ngày 02/09/1945.
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Quốc hội đã quyết định đổi tên thành Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam cũng được thể hiện thông qua bản chất giai cấp và bản chất xã hội. Bản chất giai
cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện là nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước ta là sản phẩm do nhân dân lập ra từ sau thành
công của Cách mạng tháng Tám vẫn được duy trì và phát triển. Nhân dân thường kỳ, theo
pháp luật bầu cử, thực hiện quyền bầu cử phổ thông để lập ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp. Trên cơ sở đó, hình thành bộ máy nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước. Nhà nước được nhân dân lập ra, nên cũng do Nhân dân làm chủ và hoạt động
vì mục đích bảo vệ địa vị, quyền lợi của Nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cũng thể hiện tính xã hội một cách rộng rãi và sâu sắc. Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
đến việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội như: Việc làm, thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo,
chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ côi... Nhà nước coi việc
giải quyết các vấn đề an sinh xã hội là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước trong bối cảnh
phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay.
2.2. Chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Chức năng đối nội
Từ khi hòa bình, thống nhất đất nước, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế trở thành chức
năng đối nội quan trọng nhất của nhà nước. Thực hiện được chức năng này, nhà nước phải
xây dựng những chính sách và tiến hành các hoạt động phù hớp để phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống của nhân dân. Ngoài ra, chức năng đối nội của NN CHXHCN Việt Nam còn thể
hiện ở các phương diện hoạt động chủ yếu như: bảo vệ đất nước; giữ vững an ninh chính trị,
ổn định trật tự xã hội; xây dựng nền văn hóa mới; tổ chức và quản lý giáo dục; phát triển y tế,
chăm lo sức khỏe của nhân dân; phát triển khoa học và công nghệ; tăng cường khối đoàn kết
dân tộc; bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó thảm họa...Mục đích của chức
năng này là mang lại lợi ích cho đại bộ phận nhân dân lao động trong xã hội.
Chức năng đối ngoại
Nhà nước thực hiện chính sách hòa bình, hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc
lập, hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, các bên bình đẳng cùng có lợi. Hiện
nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác với hơn các quốc gia và vùng lãnh thổ, không
phân biệt về chế độ chính trị xã hội. Quan hệ hợp tác quốc tế diễn ra trên mọi lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, an ninh, môi trường...
3. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước Việt Nam
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp 2013 và các luật về tổ chức các cơ quan (như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ
chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương). Các cơ quan chủ yếu bao gồm:
3.1. Cơ quan quyền lực nhà nước
Quốc hội
Vị trí pháp lý của Quốc hội được quy định tại Điều 69 Hiến pháp 2013 nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quốc hội là cơ “Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nh quan đại biểu cao nhất của Nhân dân vì Quốc
hội là cơ quan duy nhất do cử cả nước bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất vì Quốc hội nơi tập trung thống nhất những quyền lực được nhân dân cả nước giao phó.
Quốc hội có các chức năng cơ bản sau: Thực hiện quyền lập hiến, lập pháp quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước (như: chính sách cơ bản về đố nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước); giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Chức năng của Quốc hội được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể được quy định tại Điều 70 Hiến pháp 2013.
Tổ chức, hoạt động của Quốc hội: (Xem Luật tổ chức Quốc hội 2014)
Hội đồng nhân dân
“Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý nguyện vọng và quyền làm chủ của
Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. (Điều
6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015).
Hội đồng nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Nhiệm kỳ của mỗi khóa Hội đồng nhân dân là 05 năm. Việc rút ngắn hoặc
kéo dài nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân do Quốc hội quyết định theo đề nghị của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
3.2. Chủ tịch nước
Theo Điều 86 Hiến pháp 2013: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Chủ tịch nước có chức năng
thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Về đối nội, Chủ tịch nước có quyền công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh; thống lĩnh các lực
lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức các chức vụ cao cấp của nhà nước; công bố quyết định tuyên bố tình
trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp...
Về đối ngoại, Chủ tịch nước có quyền tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài;
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; phong hàm,
cấp đại sứ; đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh nhà nước; quyết định cho nhập
quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam...
Chức năng của Chủ tịch nước được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ và quyền hạn, được quy
định ở Điều 88 Hiến pháp 2013.
Chức danh Chủ tịch nước do Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội bầu trong số các
đại biểu Quốc hội. Sau khi được bầu, Chủ tịch nước phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc,
Nhân dân và Hiến pháp. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chủ tịch
nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
3.3. Cơ quan quản lý Nhà nước (Cơ quan hành chính Nhà nước)
Chính phủ
Vị trí pháp lý của Chính phủ được quy định tại Điều 94 Hiến pháp 2013: “Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ thống nhất quản lý các lĩnh vực của đời
sống xã hội; bảo đảm hiệu lực bộ máy nhà nước từ trung đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng
và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân.
Là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ có trách nhiệm tổ chức thực hiện Hiến
pháp, Luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước.
Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ do Quốc hội thành lập, thực hiện các nhiệm
vụ do Quốc hội giao, báo cáo công tác với Quốc hội, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao trước Quốc hội.
Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 96 Hiến pháp 2013. Chính
phủ do Quốc hội lập ra và có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chính phủ làm việc theo
chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Ủy ban nhân dân
“Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương, Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”.
Ủy ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên, số lượng cụ thể Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các cấp do Chính phủ quy định. Nhiệm kỳ của ủy ban nhân dân theo nhiệm
kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

3.4. Tòa án nhân dân


Theo Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án nhân danh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của
pháp luật.
Là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Hệ thống Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân cấp cao, tòa
án nhân dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân cấp huyện, tòa án quân sự.
3.5. Viện kiểm sát nhân dân
Theo Điều 107 Hiến pháp 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp”.
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để
thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện,
Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Các thiết chế hiến định độc lập: Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Trước Hiến pháp năm 2013, các vấn đề như bầu cử, kiểm toán, phòng chống tham nhũng, bảo
vệ Hiến pháp... tùy tính chất sẽ được giao cho các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực
hiện mà không có cơ quan giám sát độc lập. Đến Hiến pháp năm 2013 các nhà lập hiến, lập
pháp đã thiết kế và bổ sung các thiết chế mới nhằm kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước bao gồm: Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
Điều 117 Hiến pháp 2013: “Hội đồng Bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có
nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp”.
Điều 118 Hiến pháp 2013: “Kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản
công”.
4. Nhà nước trong hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các bộ phận cấu thành là các thiết chế
chính trị có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình
tham gia thực hiện quyền lực nhà nước. Ở nước ta, hệ thống chính trị gồm: Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam,
Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn TNCS HCM, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến
binh Việt Nam và các tổ chức xã hội khác (Điều 4, Điều 9 Hiến pháp 2013). Đảng Cộng sản
Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước” một cách toàn diện từ tổ chức đến các hoạt động
của nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng việc vạch ra đường lối, chiến lược để Nhà nước thể chế
hóa bằng pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong hệ thống chính trị Việt
Nam, Nhà nước có vị trí, vai trò rất quan trọng.
Xét về vị trí thì Nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, có hệ với tất cả các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị. Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị giữ vai trò hỗ
trợ Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng quản lý xã hội.
Xét về vai trò thì Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong hệ
thống chính trị. Nhà nước quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống chính trị;
quyết định bản chất, đặc trưng, vai trò của hệ thống chính trị. Nhà nước chi phối tất cả các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị, cho phép thành lập hoặc xóa bỏ một thành tố nào đó trong
hệ thống chính trị.
 Nhà nước điều hoà các mối quan hệ giữa các lực lượng chính trị trong xã hội. Nhà
nước có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị là vì:
Nhà nước là tổ chức có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất; Nhà nước có một hệ
thống cơ cơ quan quản lý và cưỡng chế từ trung ương tới địa phương; Nhà nước có hệ thống
pháp luật là công cụ hữu hiệu để quản lý và duy trì trật tự xã hội, đảm bảo lợi ích của tất cả cá
nhân, tổ chức trong xã hội; Nhà nước đại diện chính thức cho toàn xã hội thực hiện chủ
quyền quốc gia nên có đủ khả năng huy động mọi tiềm lực trong nước, mọi sự trợ giúp và
hợp tác quốc tế vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, để có thể đáp ứng tốt nhất
cho việc thực hiện quyền lực nhân dân; Nhà nước có quyền phát hành tiền, quyền thu thuế và
là chủ sở hữu toàn bộ tài nguyên thiên nhiên nên Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn,
không chỉ đảm bảo cho các hoạt động của Nhà nước và của xã hội mà còn hỗ trợ phần lớn
kinh phí hoạt động cho các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác có mối quan hệ tương hỗ, tác động qua
lại với nhau. Đó là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi chủ thể trên
cơ sở Hiến pháp, pháp luật và quy chế phối hợp giữa các bên.
Nguồn gốc, đặc điểm, bản chất của pháp luật
Nguồn gốc của pháp luật
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng là
những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Pháp luật chỉ xuất hiện khi cơ sở kinh tế, xã hội
đã đạt đến trình độ nhất định. Pháp luật từng bước được hoàn thiện phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội và khả năng nhận thức của con người. Pháp luật được hình thành bằng các con
đường sau:
Một là, giai cấp thống trị thống qua nhà nước chọn lọc, thừa nhận các quy tắc xử sự thông
thường phổ biến trong xã hội (như các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán...) nâng lên thành
các quy định pháp luật.
Hai là, nhà nước thông qua các cơ quan của mình ban hành các quy phạm mới.
Ba là, nhà nước thừa nhận các cách xử lý đã được đặt ra trong quá trình xử lý các sự kiện
thực tế, thông qua các quyết định áp dụng pháp luật (của tòa án hoặc cơ quan hành chính)
như những quy định chung (pháp luật) để áp dụng cho các trường hợp tương tự sau đó.
Khái niệm pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhiệt nước đặt ra hoặc
thừa nhận và bảo đảm thực hiện thằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục đích, định
hướng của nhà nước. Pháp luật chứa đựng những quy tắc ứng xử, khi được thực hiện rộng rãi
và lâu dài sẽ trở thành chuẩn mực xã hội, thước đo hành vi của con người. Pháp luật là hiện
tượng lịch sử có nguồn gốc từ xã hội và là nhân tố trật tự hóa các quan hệ xã hội. Đó là công
cụ mà giai cấp cầm quyền sử dụng để thực hiện chức năng quản lý và hợp pháp quan hệ
thống trị đối với xã hội.
Đặc điểm của pháp luật
Pháp luật có tính quy phạm phổ biến: Các quy định của pháp luật là các khuôn mẫu, chuẩn
mực để hướng dẫn cách xử sự cho mọi chủ thể của xã hội. Bất kỳ ai, ở vào điều kiện, hoàn
cảnh pháp luật đã dự liệu đều xử sự theo cách thức mà pháp luật đã nêu ra. Dựa trên cơ sở
các quy định của pháp luật, các chủ thể trong xã hội biết được làm gì, không được làm gì
hoặc làm như thế nào khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã dự liệu. Pháp luật luôn là
tiêu chuẩn, khuôn mẫu để đánh giá hành vi của con người là hợp pháp hay bất hợp pháp.
Pháp luật mang tính quyền lực nhà nước (tính cưỡng chế): Pháp luật do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị xã hội thể
hiện và hợp pháp hóa ý chí của mình một cách chính thống trên thực tế. Việc pháp luật được
đảm bảo thực thi trong đời sống xã hội chính là việc đảm bảo cho quyền lực nhà nước được
tác động đến mọi thành viên của xã hội. Pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện đối với mọi
chủ thể trong xã hội, bất kỳ chủ thể nào khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh quy phạm đã dự liệu
đều phải thực hiện theo đúng yêu cầu của pháp luật, nếu không, hành vi của chủ thể bị coi là
vi phạm pháp luật.
Pháp luật có tính hệ thống: Pháp luật là một hệ thống gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
có mối liên hệ nội tại thống nhất và chặt chẽ với nhau, được phân định thành các chế định
pháp luật, ngành luật và được thể hiện trong các hình thức pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay,
pháp luật chủ yếu được thể hiện trong một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp lý, văn bản
có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm
pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp
trên ban hành và đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp. Nội dung các quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm pháp luật phải nhất quán, phù hợp, không
mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
Pháp luật có tính xác định về hình thức: Pháp luật thường được thể hiện trong những hình
thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. Trong
đó, các văn bản quy phạm pháp luật lại có những hình thức cụ thể như Hiến pháp luật, nghị
định, nghị quyết... Mỗi loại văn bản do những cơ quan có thẩm quyền ban hành theo những
trình tự, thủ tục nhất định được quy định chặt chẽ trong luật.
Bản chất của PL
Bản chất của pháp luật là tổng thể những mặt, những thuộc tỉnh, những mối liên hệ bên
trong tương đối ổn định và có tính quy định đối với sự ra đời, phát triển cũng như nội dung
của pháp luật. Cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ của giai cấp nắm giữ quyền lực nhà
nước, để thực hiện và bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp đó. Đồng thời, pháp
luật là công cụ của nhà nước để điều hành và quản lý xã hội, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự
xã hội vì sự phát triển chung của toàn xã hội, cộng đồng. Do vậy, xét về bản chất, pháp luật
mang những thuộc tính thể hiện bản chất của nó là tính giai cấp và tính xã hội.
Bản chất giai cấp: Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là công cụ
điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo về quyền và
lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật là sự thể chế hóa nhằm đảm bảo thực hiện các mục
tiêu, chính sách, đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền, giúp cho lực lượng này thực
hiện được quyền lãnh đạo của nó đối với toàn xã hội. Mức độ thể hiện tính giai cấp của pháp
luật phụ thuộc vào tương quan lực lượng, mâu thuẫn giai cấp, đặc điểm kinh tế, truyền thống,
tôn giáo, đạo đức, bối cảnh quốc tế, lịch sử hay thậm chí là các điều kiện tự nhiên, ý chí của
giai cấp nắm giữ quyền lực nhà nước.
Bản chất xã hội: Xã hội gồm nhiều thành phần, giai cấp, tầng lớp khác nhau, do vậy, pháp
luật ngoài việc chú trọng phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị còn phải phản
ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho các giai tầng khác trong xã hội ở một mức độ nhất định. Pháp
luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập và củng cố và bảo vệ trật tự
chung trong các lĩnh vực của đời sống, bảo vệ lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, vì sự phát
triển chung của toàn xã hội. Do vậy, lực lượng cầm quyền trong xã hội muốn củng cố và giữ
gìn quyền lực của mình trong xã hội một cách bền vững thì bên cạnh việc quan tâm tới lợi ích
riêng của mình còn phải quan tâm đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội, xây dựng và
giữ gìn trật tự xã hội.
Pháp luật là một trong những công cụ hiệu quả nhất để huy động sức mạnh chung của cộng
đồng cho công cuộc xây dựng và ổn định trật tự xã hội, do vậy, pháp luật phản ánh và thể
hiện ý chí chung của xã hội.
Để đảm bảo tính khả thi, pháp luật cũng cần phù hợp với điều kiện thực tế của xã hội, khi xã
hội thay đổi, Nhà nước cũng phải điều chỉnh các quy định pháp luật.
Pháp luật trong xã hội hiện đại có nhiều nội dung thể hiện tính xã hội của nó, chẳng hạn như
việc thừa nhận một cách rộng rãi các quyền cơ bản của con người với tư cách là các quyền tự
nhiên bẩm sinh của con người đồng thời quy định các phương thức bảo vệ các quyền đó.
Giữa hai thuộc tính xã hội và giai cấp có quan hệ qua lại với nhau. Nếu pháp luật nào mang
tính giai cấp sâu sắc thì tính xã hội sẽ mờ nhạt và ngược lại.
Khuynh hướng vận động của pháp luật là ngày càng tiến bộ hơn do tính xã hội ngày càng
được mở rộng qua các kiểu pháp luật trong lịch sử.

Kiểu pháp luật và hình thức pháp luật


Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu, đặc thù cơ bản của pháp luật thể hiện bản
chất giai cấp và điều kiện tồn tại của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định.
Các kiểu pháp luật:
Theo quan điểm của Học thuyết Mác – Lênin, tương tứng với các hình thái kinh tế –
xã hội, trong lịch sử có 4 kiểu pháp luật là: kiểu pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật
phong kiến, kiểu pháp luật tư sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khi xem xét kiểu
pháp luật, cần làm rõ các vấn đề: điều kiện kinh tế - xã hội làm tiền đề cho sự tồn tại
của kiểu pháp luật; bản chất và đặc trưng của kiểu pháp luật.
Kiểu pháp luật chủ nô: Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật ra đời sớm nhất trong lịch
sử, cùng với sự ra đời của nhà nước chủ nô. Kiểu pháp luật chủ nô được xây dựng trên
cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và mâu thuẫn đối kháng gay gắt giữa chủ nô
với nô lệ. Pháp luật chủ nô được hình thành bằng con đường thừa nhận các phong tục,
tập quán, quy tắc đạo đức và tín điều tôn giáo trong xã hội.
Pháp luật chủ nô có đặc trưng:
- Pháp luật chủ nô tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố và bảo vệ quan hệ sản xuất
chiếm hữu nô lệ, hợp pháp hóa sự bóc lột của chủ nô đối với nô lệ.
- Pháp luật chủ nô quy định một hệ thống hình phạt và phương thức thi hành hình phạt
hết sức dã man.
- Pháp luật chủ nô ghi nhận tình trạng bất bình đẳng trong xã hội và gia đình.
- Pháp luật chủ nô có tính tản mạn, thiếu thống nhất.
Kiểu pháp luật phong kiến: Pháp luật phong kiến được xây dựng trên cơ sở chế độ
sở hữu tư nhân của địa chủ, quý tộc, phong kiến về tư liệu sản xuất mà chủ yếu là
ruộng đất với co sở xã hội là mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến với nông dân.
Pháp luật phong kiến có các đặc trưng cơ bản sau:
- Pháp luật phong kiến xác lập và bảo vệ trật tự đẳng cấp, đồng thời bảo vệ những đặc
quyền của các đẳng cấp trên trong xã hội.
-Pháp luật phong kiến dung túng cho việc tùy tiện sử dụng bạo lực của những kẻ nắm
quyền trong xã hội.
- Pháp luật phong kiến quy định hệ thống hình phạt và cách thức thi hành hình phạt
một cách dã man, hà khắc.
- Pháp luật phong kiến chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo, phong tục, đạo đức
phong kiến và không có tính thống nhất.
Tương tự như pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến chưa có sự phân định rõ ràng
giữa các lĩnh vực pháp luật. Hầu hết các bộ luật phong kiến đều quy định về biện pháp
trừng phạt (hình phạt) của nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
Kiểu pháp luật tư sản: Pháp luật tư sản được xây dựng trên cơ sở kinh tế là chế độ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, với cơ sở xã hội dựa trên quan hệ giữa giai cấp tư
sản và giai cấp công nhân,
Pháp luật tư sản có các đặc trưng sau:
- Pháp luật tư sản ghi nhận và bảo vệ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa.
- Pháp luật tư sản mang tính dân chủ, thừa nhận về mặt pháp lý quyền tự do, bình
đẳng của công dân.
- Pháp luật tư sản bảo vệ sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp tư sản trong
xã hội.
- So với các kiểu pháp luật trước đó, pháp luật tư sản có nhiều điểm tiến bộ vượt bậc,
đặc biệt là tính nhân đạo của hệ thống pháp luật đã được đề cao. Ngày quy định của
pháp luật tư sản có ảnh hưởng đến pháp luật quốc tế.
Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa: Pháp luật xã hội chủ nghĩa ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ
sở kinh tế là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội là sự liên minh giữa các
giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
lãnh đạo.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa đang ngày một hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh
xã hội.
- Pháp luật xã hội chủ nghĩa phản ánh các chuẩn mực đạo đức xã hội đồng thời góp
phần củng cố, bảo vệ các chuẩn mực đó.
Hình thức pháp luật
Hình thức của pháp luật là cách thức thể hiện ý chí của nhà nước, là cách thức mà
nhà nước sử dụng để thể hiện ý chí của mình thành pháp luật. Pháp luật có ba hình
thức cơ bản là: tập quán pháp, tiền lệ pháp (hay án lệ) và văn bản quy phạm pháp
Tập quán pháp: Tập quán pháp là các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới dạng
phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nhà
nước nên được nhà nước thừa nhận thành pháp luật.
Tiền lệ pháp hay án lệ: Tiền lệ pháp hay án lệ là những bản án, quyết định của chủ
thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận làm
khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác tương tự. Tiền lệ pháp hay án lệ là kết quả
từ hoạt động của cơ quan xét xử (Tòa án hoặc trọng tài) và cơ quan nhà nước khác.
Ví dụ: bản án do Tòa án nhân tối cao đưa ra khi giải quyết một vụ án tranh chấp đất
đai đã được Nhà nước thừa nhận làm mẫu để các tòa án khác phải tuân theo khi giải
quyết các vụ tranh chấp đất đai xảy ra sau đó có nội dung tương tự.
Văn bản quy phạm pháp luật: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan
nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức do
pháp luật quy định trong đó có các quy phạm được nhà nước bảo đảm thực hiện hay
các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước.
Đây là hình thức pháp luật quan trọng nhất vì đảm bảo tính chính xác, rõ ràng, minh
bạch, dễ thống nhất, được cập nhật thường xuyên theo sự thay đổi của đời sống xã hội.
Quan hệ pháp luật
1. Khái niệm, đặc điểm của quan hệ pháp luật
Khi quan hệ xã hội chịu sự tác động của quy phạm pháp luật thì buộc các bên tham
gia quan hệ phải tuân thủ cách xử sự mà quy phạm pháp luật đã đề ra. Những quan hệ
xã hội chịu sự tác động của quy phạm pháp luật chính là các quan hệ pháp luật.
Như vậy, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật điều chỉnh
trong đó các bên tham gia quan hệ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được nhà nước
đảm bảo thực hiện.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật:
Quan hệ pháp luật mang tính ý chí
Lựa chọn các quan hệ xã hội để điều chỉnh, và cách thức điều chỉnh quan hệ xã hội đó
như thế nào là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước (cơ quan ban hành văn bản quy phạm
pháp luật). Mặt khác, quan hệ pháp luật được hình thành, thay đổi, chấm dứt còn phụ
thuộc vào ý chí, các bên tham gia.
Quan hệ pháp luật xuất hiện và tồn tại trên cơ sở các quy phạm pháp luật
Một quan hệ xã hội nếu không được điều chỉnh bởi pháp luật thì chỉ là hệ xã hội đơn
thuần mà không thể trở thành quan hệ pháp luật. Vì vậy, quy phạm pháp luật là một
trong những điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Vì pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phổ biến, cơ bản, có ảnh hưởng rộng
đến đời sống xã hội nên trong đời sống xã hội, vẫn tồn tại nhiều quan hệ xã hội không
chịu sự tác động của quy phạm pháp luật mà thực hiện theo các quy tác xã hội khác
như: đạo đức, tôn giáo, quy chế của tổ chức, đoàn thể…
Nội dung của quan hệ pháp luật bao biểu hiện thành quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể
của các bên tham gia quan hệ:
Quan hệ pháp luật được hình thành bởi ít nhất 2 chủ thể (gọi là các bên của quan hệ
pháp luật), quan hệ giữa các chủ thể nhằm đạt được những lợi ích nhất cho các quan
hệ pháp luật diễn đúng theo ý chí của Nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ của các bên cũng có thể do các bên thỏa thuận trong khuôn khổ
pháp luật (ví dụ như trong quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, lao động), hoặc được xác
định bởi nhà nước (như trong quan hệ pháp luật hình sự, hành chính).
Quyền và nghĩa vụ của các bên được bảo đảm bởi nhà nước với nhiều hình thức, tính
chất khác nhau: có những biện pháp bảo đảm mang tính bắt buộc, cưỡng chế, nhưng
cũng có những biện pháp bảo đảm mang tính cho phép, tùy nghi.
Cấu thành của quan hệ pháp luật
Cấu thành của quan hệ pháp luật là các bộ phận hợp thành quan hệ pháp luật. Một
quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các bộ phận: chủ thể, khách thể và nội dung.
Chủ thể của quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các cá nhân và tổ chức tham gia quan hệ pháp luật
với những quyền và nghĩa vụ pháp lý xác định.
Tuy nhiên, để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật, cá nhân và tổ chức phải có
năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi
pháp luật.

Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ
pháp lý khi tham gia quan hệ pháp luật. Mỗi chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp
luật khác nhau sẽ có khả năng hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ khác nhau do pháp
luật quy định.
Năng lực pháp luật là yếu tố mang tính chất thụ động, phụ thuộc vào ý chí của nhà
nước – thể hiện qua các quy định của pháp luật.
Năng lực hành vi pháp luật, là khả năng mà các chủ thể bằng hành vi của mình xác lập
và thực hiện quyền và nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật cụ thể.
Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi pháp luật không mang tính thụ động mà
mang tính chủ động. Theo đó, các chủ thể của quan hệ pháp luật tư bản thân mình
(bằng hành vi của mình) thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật quy định.
Khi một chủ thể có năng lực hành vi pháp luật, chủ thể được tự mình tham gia quan hệ
pháp luật để hưởng quyền hoặc làm nghĩa vụ trong quan hệ đó.
Một cá nhân chỉ có đầy đủ năng lực hành vi pháp luật khi đạt đến một độ tuổi nhất
định, có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Một tổ chức, ngay từ khi
được thành lập hoặc được cấp giấy phép hoạt động, năng lực pháp luật và năng lực
hành vi pháp luật của pháp nhân đã xuất hiện.
Các loại chủ thể của quan hệ pháp luật:
Cá nhân
Cá nhân bao gồm: công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
Công dân là cá nhân mang quốc tịch của một nước và có các quyền, nghĩa vụ pháp lý
theo quy định của pháp luật nước đó. Công dân là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp
luật.
Người nước ngoài là cá nhân sinh sống tại một quốc gia nhưng lại mang quốc tịch của
quốc gia khác.
Người không quốc tịch là cá nhân không mang quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào.
Người không quốc tịch là thực trạng pháp lý của một cá nhân có thể do nhiều nguyên
nhân: cá nhân xin thôi quốc tịch nước này để gia nhập quốc tịch nước khác, trong thời
gian chờ gia nhập quốc tịch nước mới, họ là người không quốc tịch; cá nhân được sinh
ra do sự xung đột pháp luật quốc tịch giữa các quốc gia; công bị tước quốc tịch theo
quyết định có tính chất chế tài của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. ...
Tổ chức
Tổ chức phải có đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia hệ pháp luật.
Trong các tổ chức, có nhóm tổ chức là pháp nhân khi thỏa mãn các điều kiện được
quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể là: (1) Được thành lập theo quy định
của pháp luật; (2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp
nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (4) Nhân danh mình tham gia
quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân gồm có: pháp nhân thương mại và
pháp nhân phi thương mại.

Khách thể của quan hệ pháp luật


Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật hướng tới khi tham gia quan hệ đó.
Khách thể của quan hệ pháp luật rất đa dạng, có thể là những lợi ích vật chất (như:
tiền, nhà, đất đai, phương tiện vận chuyển, tư liệu sản xuất...) hoặc lợi ích phi vật chất
thỏa mãn các nhu cầu về tinh thần (như: quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, uy tín,
danh tiếng...); hoặc thỏa mãn nhu cầu sử dụng dịch vụ của một chủ thể (chăm sóc sức
khỏe, dịch vụ vận chuyển...).
Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
Quyền của chủ thể là khả năng của chủ thể được xử sự theo cách thức mà pháp luật
cho phép.
Quyền pháp lý của chủ thể bao gồm: (i) chủ thể có thể tự thực hiện những hi du học
tập, hành vi nhất định (tự xử sự), bằng hành vi của mình, chủ thể tự tiến hành cách xử
sự mà pháp luật cho phép; (ii) có thể yêu cầu chủ thể có nghĩa vụ của quan hệ phải
thực hiện những hành động cụ thể để đảm bảo quyền của mình trong quan hệ, yêu cầu
chủ thể phía bên kia chấm dứt việc thực hiện hành vi trái pháp luật xâm hại quyền khi
tới quyền và lợi ích chính đáng của mình; (iii) có thể yêu cầu nhà nước can thiệp để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi quyền và lợi ích đó bị xâm hại.
Nghĩa vụ pháp lý chủ thể là các xử sự mà các chủ thể của quan hệ pháp luật bắt buộc
phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của chủ thể phía bên kia trong quan hệ.
Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể bao gồm: nghĩa vụ phải thực hiện một hoặc một số hoạt
động nhất định; nghĩa vụ không được thực hiện một hoặc một số hoạt động nhất định;
phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với phía bên
kia.
Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
Một quan hệ pháp luật cụ thể sẽ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt khi có quy phạm
pháp luật, chủ thể có đủ năng lực chủ thể và có sự kiện pháp lý. Trong đó: quy phạm
pháp luật là cơ sở pháp lý, chủ thể là yếu tố trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ pháp luật, sự kiện pháp lý chính thức làm quan hệ xã hội chịu sự tác
động trong thực tế.
Sự kiện pháp lý là sự kiện, sự việc thực tế xảy ra trong cuộc sống được pháp luật gắn
với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý gồm: hành vi pháp lý và sự biến pháp lý.
Hành vi pháp lý (sự kiện ý chí) là xử sự của con người có điều khiển của lý trí được
pháp luật gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc kiểm soát và chấm dứt quan hệ
pháp luật.
Sự biến pháp lý (sự kiện phi ý chí) là kết quả của một hiện tượng, sự việc hoặc hành vi
xảy ra trong tự nhiên nhưng được pháp luật gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ pháp luật. Ví dụ: sự kiện sóng thần, động đất xảy ra gây chết người,
thiệt hại về tài sản có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật
như: phát sinh quan hệ pháp luật bảo hiểm, quan hệ pháp luật về thừa kế tài sản; chấm
dứt quan hệ pháp luật về quyền sở hữu tài sản...

Thực hiện PL
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) thực tế hợp pháp của chủ
thể có năng lực hành vi pháp luật.
Đặc điểm của thực hiện pháp luật
- Thực hiện pháp luật phải là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người. Pháp luật chỉ
điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng
của họ. Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể có thể được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động. Hành động thực hiện pháp luật thể hiện bằng những lời nói, cử
chỉ, động tác nhất định. Ví dụ: khi tham gia giao thông bằng xe gắn máy, người điểu khiển xe
“đội mũ bảo hiểm) hoặc không hành động (không thực hiện những cử chỉ, động tác, lời nói
nhất định mà pháp luật cấm. Ví dụ: không “dừng xe, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở
giao thông”; không “sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh” khi đang điều khiển
xe).
- Thực hiện pháp luật phải là hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn phủ với yêu cầu của
pháp luật. Thực hiện pháp luật là sự hiện thực hoá các quy định của pháp luật, tức là biến các
quy định của pháp luật trong văn bản trở thành xử sự thực tế của các chủ thể khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật. Hành vi thực hiện pháp luật phải nằm trong khuôn khổ các quy định
của pháp luật.
-Thực hiện pháp luật phải là xử sự của các chủ thể có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi, có năng lực hành vi pháp luật
-Thực hiện pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Thực hiện
pháp luật trước hết là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo đảm một trật tự
xã hội cũng như bảo đảm quyền và lợi ích của mọi thành viên trong xã hội.
Các hình thức thực hiện pháp
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế không tiến hành những hành vi mà pháp luật cấm. Ví dụ: Điều 8 Luật an ninh
mạng năm 2018 quy định cấm sử dụng không thực hiện hành vi “thông tin sai sự thật gây
hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho
hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”. Thi hành (chấp hành) pháp luật: Là hình
thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình
bằng các hành động tích cực. Ví dụ: Người có bệnh truyền nhiễm phải khai báo trung thực
diễn biến bệnh; tuân thủ chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc, nhân viên y tế và nội quy, quy
chế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Sử dụng (vận dụng) pháp luật: Là hình thức thực hiện
pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp
luật. Vì đây là hình thức thực hiện các quyền mà pháp luật cho phép, nên chủ thể có thể thực
hiện hoặc không thực hiện quyền của mình. Ví dụ: Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề pháp luật không cấm (Điều 33, Hiến pháp 2013). Đây là quy phạm
pháp luật trao quyền cho mọi người, nên cá nhân có quyền tự quyết định có thực hiện hay
không thực hiện quyền này. Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó
nhà nước thông qua các cơ nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền, tổ chức cho các chủ
thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ: khi một người lái xe ô tô
tham gia giao thông mà “Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông” thì sẽ bị
các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt vì đây là hình thức thực hiện
pháp luật của chính nhà nước (hay hình thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện
các quy định của pháp luật).
Vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
1. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
- Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người. Những gì còn nằm trong ý nghĩ, tư
tưởng của con người mà chưa thể hiện ra bên ngoài thì không thể làm biến đổi thế giới khách
quan, không có khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội nên không thể coi là vi phạm
pháp luật được. Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật. Vi phạm pháp luật là xử sự trái
với các yêu cầu của pháp luật. Hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện dưới các hình thức:
chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm, chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ
mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện. Vi phạm pháp luật là hành vi của chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý. Một hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng chủ thể không có năng lực
trách nhiệm pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi
của chủ thể. Một hành vì chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chủ thể điều khiển được hành vi
của mình và nhận thức được hậu quả của hành vi đó. Như vậy, chỉ những hành vi trái pháp
luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành của vi phạm pháp luật được hiểu là những yếu tố hợp thành một vi phạm pháp luật
cụ thể. Cấu thành vi phạm pháp luật bao gồm bốn yếu tố: Mặt khách quan: là những dấu
hiệu biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quanlà chánh thiết hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương
tiện vi phạm. Mặt chủ quan: là thái độ hay trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi thực
hiện hành vi trái pháp luật, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật. Lỗi là thái độ
hay trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật và đối với hậu quả của hành vi
đó. Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (do
quá tự tin hoặc do cẩu thả). Động cơ vi phạm pháp luật là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy
chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Ví dụ, do động cơ vụ lợi mà một công chức nhà nước
đã nhận hối lộ. Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả trong ý thức chủ quan mà chủ thể đặt
ra phải đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Ví dụ, với mục đích chiếm đoạt tài sản
của người khác, chủ thể đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Chủ thể: là cá nhân, tổ chức
có năng lực trách nhiệm pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật, có lỗi. Ví dụ, công ty
A bán thực phẩm không đủ tiêu chuẩn chất lượng thì công ty A là tổ chức vi phạm pháp luật;
một người vi phạm Luật Giao thông thì đó là cá nhân VPPL Khách thể: là quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại. Ví dụ, hành vi trộm cắp tài
sản xâm phạm quan hệ sở hữu.
2. Các loại vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật hình sự (còn gọi là tội phạm): tội phạm là loại vi phạm pháp luật có tính
nguy hiểm cho xã hội cao nhất.
Vi phạm hành chính: Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm dân sự: Là hành vi trái pháp luật và cố lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm dân
sự xâm hại tới các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản
Vi phạm kỷ luật: Là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế, quy tắc xác lập trật tự
trong nội bộ cơ quan, tổ chức, tức là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, công tác
hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ cơ quan, tổ chức đó.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
Tập thể chính phủ mới có quyền quyết định mọi việc trong Chính phủ
Nhà nước phong kiến là hình thức nhà nước chính thể và kiểu chính thể quân
chủ
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực cao
nhất của nước CHXHCN VN do cử tri bầu ra có quyền lập hiến, lập pháp, quyết
định những vấn đề quan trọng của nhà nước và giám sát tối cao các hoạt động
các cơ quan trong bộ máy nhà nước
Nhà nước tư sản mang bản chất giai cấp và bản chất xã hội
Văn bản vi phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
cá nhân có thẩm quyền ban hành
1. Năng lực pháp luật của công dân của mỗi quốc gia là do pháp luật quy
định mà mỗi quốc gia lại ban hành pháp luật khác nhau.
2. Năng lực hành vi không phụ thuộc và quốc tịch mà phụ thuộc vào tình
trạng sức khoẻ, độ tuổi
Hành vi vi phạm pháp luật có những dấu hiệu cơ bản: là hành vi trái pháp luật,
gây thiệt hại,hoặc đe doạ gây thiệt hại cho xã hội, do người có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện
Pháp luật chưa xuất hiện trong hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỷ
Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện quyền tư pháp
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp
Phải xem người đó có năng lực trách nhiệm pháp lý hay không
Người từ đủ 14 tuổi trở nên đã có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Nhà nước XHCNVN mang bản chất giai cấp công nhân
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc cá nhân có thẩm quyển ban hành
Nó cũng có thể là quy phạm xã hôi ( quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo..)
Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách
nhiệm pháp lý hoặc pháp nhân thương mại thực hiện do cố ý hay vô ý
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước CHXHCNVN, thực hiện
quyền hành pháp là cơ quan chấp hành của Quốc hội
Đủ 14 đến 16 bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý
Đủ 16 bị phạt về mọi vi phạm hành chính
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước thực hiện quyền hành
pháp là cơ quan chấp hành của Quốc hội
Cơ quan hành chính của nhà nước là Chính phủ là Uỷ ban nhân dân các cấp
Hình thực PL ( nguồn pháp luật): tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
pham PL
Ngoài độ tuổi thì còn phải là người có thể làm chủ hành vi của mình
Chủ thể của pháp luật là các cá nhân tổ chức tham gia quan hệ Pl với những
quyền và nghĩa vị pháp lý xác định. Phải có năng lực chủ thể
Đủ độ tuổi + tâm sinh lý bình thương
Năng lực pháp luật dân sự đã có từ khi sinh ra và là thuộc tính được pháp luật
công nhận
Từ khi sinh ra và là thuộc tính được pháp luật công nhận
Nghiện ma tuý làm phá tài sản gia đình và có quyết định từ toà án là người hạn
chế năng lực hành vi dân sự
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà
nước trao quyền
AP pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà
nước do cơ quan nàh nước có thẩm quyền, nhà chức trách
Ap pl là nhà nước thông qua các cơ quan tổ chức có thẩm quyền
Nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền
Bộ và các cơ quan ngang bộ thuộc hệ thống cơ quan chấp hành của quốc hội và
hành chính chứ không phải cơ quan quyền lực
Bộ và các cơ quan của bộ thuộc hệ thống cơ quan chấp hành của quốc hội và
hành chính
Bộ và các cơ quan của bộ thuộc hệ thống cơ quan chấp hành của quốc hội và
hành chính
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của NN, cơ quan chấp hành của
Quốc hội
Từ khi sinh ra
Vật chất và phi vật chất
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của nhà nước là do mâu thuẫn xã hội
không thể điều hoà được
Quốc hội do cử tri cả nước bầu ra
Chính phủ do Quốc hội thành lập, là cơ quan chấp hành quốc hội
Quyền lực công cộng đặc biệt chỉ ra đời kho có nhà nước mà trong xã hội cộng
sản nguyên thuỷ chưa xuất hiện nàh nước
Dù đủ tuổi nhưng mất hành vi dân sự vân xkhoong có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ

You might also like