You are on page 1of 463

THỰC HÀNH SẢN SINH

HẠT NĂNG LƯỢNG

1
2
HOÀNG VĂN TRƯỜNG
(Nhật Sư Hoàn Đạo)

THỰC HÀNH SẢN SINH


HẠT NĂNG LƯỢNG
(THỰC HÀNH CƠ CHẾ SẢN SINH HẠT NĂNG
LƯỢNG TẬN CÙNG – HẠT NHÂN QUẢ)

3
4
GIỚI THIỆU:

Cuốn “Thực Hành Sản Sinh Hạt Năng Lượng” là kết


tinh từ trí tuệ siêu việt của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác
ngộ. Những tri thức siêu việt của hai Chân lý sẽ giúp cho Tuệ
linh và con người dễ dàng thực hành sản sinh được hạt năng
lượng tận cùng, hay còn gọi là hạt năng lượng nhân quả. Hạt
năng lượng tận cùng có sự phức tạp trong mã sóng trí tuệ
khác nhau, từ hạt năng lượng giản đơn cho tới hạt năng
lượng phức tạp, hạt năng lượng siêu phức tạp và siêu hạt
năng lượng. Những hạt năng lượng tận cùng này, mắt thường
con người không thể nhìn thấy, chúng ta có thể nhìn thấy
thông qua thiền định hoặc thông qua trải nghiệm thực tế
trong bốn hình tướng Đạo.
Để thực hành được cơ chế sản sinh hạt năng lượng tận
cùng – Hạt năng lượng nhân quả, chúng ta phải thấu hiểu
được những tri thức trong cuốn “Hai Chân Lý Với Bát Không
Hoàn Đạo" và cuốn “Hạt Năng Lượng Tận Cùng Và Những Cơ
Chế, Bản Chất Vận Hành Vạn Vật Vũ Trụ". Đó là những tri
thức biện chứng logic, là những cơ chế vận hành, là những
bản chất về hạt năng lượng tận cùng. Việc thấu hiểu những
tri thức đó sẽ giúp cho chúng ta dễ dàng thực hành sản sinh
hạt năng lượng tận cùng một cách kỳ diệu.
Cuốn “Thực Hành Sản Sinh Hạt Năng Lượng" bao gồm
những nội dung sau:
- Quy luật Nhân quả và cơ chế vận hành;
- Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng;
- Thiền định theo hai Chân lý.
************
5
6
PHẦN 1
QUY LUẬT NHÂN QUẢ VÀ
CƠ CHẾ VẬN HÀNH

7
8
Giới thiệu:

Nhân quả! Hết thảy nhân loại tưởng rằng hiểu về nhân
quả, tưởng rằng hiểu về nó khi được nghe hai từ “Nhân Quả”.
Tưởng dễ nhưng thực ra vô cùng khó và phức tạp để hiểu về
Nhân quả, nó không đơn giản như hết thảy nhân loại hay
những bậc tu hành nghĩ, nó vô cùng phức tạp và kỳ diệu bởi
nó được vận hành rất tinh tế từ hạt năng lượng tận cùng cho
tới toàn bộ Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Vậy cái gì vận hành
Nhân quả? Cái gì làm cho Nhân quả tưởng dễ hiểu mà khó vô
cùng? Cái gì làm cho Nhân quả được vận hành tinh tế và bao
trùm toàn bộ Vũ trụ, Tuệ linh và con người? – Đó chính là cơ
chế “Phân tách và liên kết dây”, đây là cơ chế vận hành Nhân
quả. Khi hiểu cơ chế này, ta mới thật sự thấy rằng Nhân quả
là sự kỳ diệu của vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh, con người, ta mới
thấy rằng để hiểu Nhân quả là không có gì khó khăn cả, ta
mới thấy sự vận hành của Nhân quả vô cùng tinh tế.
***************

9
10
Bài 1:
Quy luật Nhân quả là gì?


Quy luật Nhân quả là mối quan hệ biện chứng cho quá
trình từ sinh khởi gieo duyên, hành động, cho đến đón nhận
kết quả của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người.
Ta thấy như sau:

I. Quy luật
Quy luật chính là mối quan hệ biện chứng giữa bản
chất và biểu hiện của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

II. Nhân quả


Nhân quả là một quá trình. Quá trình chính là thời
gian. Quá trình có thể ngắn trong một tích tắc, trong một
khoảnh khắc cho đến nhiều năm, thậm chí là nhiều kiếp
người, nhiều vòng quay của cả Vũ trụ.
Nhân quả là quá trình sinh khởi. Sinh khởi tức là sự
rung động do sự tương tác giữa các giả tướng với nhau, đó là
giữa con người với con người, giữa con người với vạn vật,
giữa con người với Chư vị Tuệ linh, giữa con người với
muông thú, giữa vạn vật với vạn vật, giữa Tuệ linh với Tuệ
linh, giữa Tuệ linh với vạn vật… Quá trình sinh khởi chính là
11
quá trình nội hành trong chính nội tại (mã sóng trí tuệ) của
các chỉnh thể (giả tướng) với nhau. Quá trình sinh khởi này
sẽ tạo ra các mã sóng rung động cho việc hình thành hạt
năng lượng, tướng, pháp, quả về sau. Kết thúc sinh khởi
chính là hình thành hệ tư tưởng để chuyển sang quá trình
gieo duyên.
Nhân quả là quá trình gieo duyên. Gieo duyên tức là
ngoại hành của các chỉnh thể với nhau. Nó được biểu hiện
qua hành động của giả tướng để đạt được hệ tư tưởng sinh
khởi của các chỉnh thể. Gieo duyên chính là sự hợp lại của các
giả tướng: đó là hợp lại của vạn vật, sự việc, hiện tượng, Tuệ
linh và con người thông qua ngoại hành.
Nhân quả là quá trình hành động sau khi đã gieo duyên
hợp lại giữa các giả tướng (chỉnh thể), đó là những hành
động, là chuỗi hành động liên tiếp hay gián đoạn để đạt được
mục đích từ khi sinh khởi sóng rung động của chỉnh thể.
Nhân quả là kết quả, kết quả của quá trình sinh khởi,
gieo duyên và hành động. Kết quả chính là phản ánh, phản
chiếu cho quá trình sinh khởi gieo duyên và hành động. Kết
quả cũng là giả tướng, là hình tướng, là pháp, là duyên mới
của cơ chế phân tách liên kết dây.

III. Nhân quả sẽ cho ta thấy hai hướng


Các giả tướng (các chỉnh thể, vạn vật, Tuệ linh, con
người) gieo duyên và hành động ở hiện tại để đón nhận
thành quả là các giả tướng mới trong tương lai.
Phân tích thành quả của các giả tướng (các chỉnh thể,
vạn vật, Tuệ linh, con người) ở hiện tại để thấy sự phản chiếu

12
của quá trình gieo duyên và hành động của các giả tướng
trong quá khứ.

Như vậy:
Khi nhắc đến Nhân quả thì ta phải hiểu đó là “Quy luật
Nhân quả" và không thể bỏ đi cụm từ “Quy luật". Nếu bỏ đi
cụm từ "Quy luật" thì nhân quả là mơ hồ, là không hiểu cội
nguồn, bản chất, cơ chế vận hành. Tuy nhiên nếu hợp nhất
cụm từ “Quy luật" với “Nhân quả" sẽ tạo thành “Quy luật
Nhân quả”. Khi đó ta sẽ truy tìm được bản chất, cội nguồn, cơ
chế vận hành của Nhân quả.
Quy luật Nhân quả bao trùm toàn bộ vạn vật, sự việc,
hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Do
đó, Quy luật Nhân quả không thuộc của ai hay của tôn giáo,
tín ngưỡng nào cả.
***************

13
14
Bài 2:
Bản chất của Quy luật Nhân quả


Bản chất của Quy luật Nhân quả chính là bản chất của
Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ và mối quan hệ hợp nhất
giữa hai Chân lý trong Quy luật Nhân quả.
Tại sao bản chất của Quy luật Nhân quả lại chính là bản
chất của Chân lý Vạn vật? – Vì Chân lý Vạn vật là truy tìm
“Duyên trong Duyên”, tức là truy tìm cội nguồn của vạn vật,
sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người; bởi vì Chân lý Vạn vật là truy tìm “Duyên ngoại
Duyên”, tức là thấu hiểu tương lai của vạn vật, sự việc, hiện
tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Duyên
trong Duyên và Duyên ngoại Duyên chính là chữ Duyên.
Duyên sinh khởi gieo duyên là Nhân, kết quả của quá trình
hành động sau khi gieo duyên cũng là Duyên. Đó là truy tìm
bản chất, cội nguồn của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Chính vì vậy, bản chất
của Chân lý Vạn vật chính là bản chất của Quy luật Nhân quả,
bởi cả hai đều do cơ chế “Phân tách, liên kết dây” của hạt
năng lượng vận hành.
Tại sao bản chất của Quy luật Nhân quả lại chính là bản
chất của Chân lý Giác ngộ? – Vì Chân lý Giác ngộ là con đường
nhận diện được u mê hoại diệt và giác ngộ giải thoát của vạn
vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người. U mê hoại diệt và giác ngộ giải thoát là hai thái cực
15
tượng trưng cho âm và dương, tượng trưng cho hoại diệt và
an lạc của niết bàn, tượng trưng cho ác báo và phước báo,
tượng trưng cho thất bại và thành tựu. Sự giác ngộ hay
không giác ngộ của Tuệ linh và con người sẽ cho ta thấy
Duyên (chỉnh thể, giả tướng) đó đã đi về hướng giác ngộ hay
hướng u mê hoại diệt. Bản chất này giống với bản chất của
Quy luật Nhân quả là việc sinh khởi gieo duyên, hành động sẽ
cho đến kết quả là thành tựu hay thất bại, tốt hay xấu, được
hay mất… Chính vì vậy, bản chất của Quy luật Nhân quả
chính là bản chất của Chân lý Giác ngộ. Nói cách khác, bản
chất Chân lý Giác ngộ chính là bản chất của Quy luật Nhân
quả, bởi cả hai đều do cơ chế “Phân tách, liên kết dây” của
hạt năng lượng vận hành.
Có thể nói, Quy luật Nhân quả chính là tinh hoa, là kết
tinh của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, hai Chân lý này
biện chứng với nhau tạo ra tinh hoa của Quy luật Nhân quả.
Tinh hoa của Quy luật Nhân quả được cơ chế “Phân tách, liên
kết dây” của hạt năng lượng vận hành.

I. Bản chất của Chân lý Vạn vật


Chân lý Vạn vật là: “Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong
và ngoài Vũ trụ không tự nó sinh ra, không tự nó mất đi, khổ
đau không tự đến, khổ đau không tự đi, tất cả do duyên và
nghiệp, hay còn gọi là nhân và quả. Cơ chế vận hành là phân
tách và liên kết dây của hạt năng lượng tận cùng”.
Trước tiên, ta phải hiểu bản chất của Chân lý: Chân lý
chính là lý luận gốc nhất, lý luận chân thật nhất, là sự thật
không thể sai.

16
Vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ: đó là từ các yếu
tố cấu tạo thành hạt năng lượng tận cùng (hạt sóng, hạt năng
lượng tận cùng, các cấu trúc lớn hơn hạt năng lượng tận
cùng, môi trường sóng điện, sự vận động và tương tác) cho
đến sự hiện hữu của tất cả vật chất bao trùm trong và ngoài
Vũ trụ; đó là nhóm vật chất cội nguồn, nhóm vật chất hoại
diệt, nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm
siêu vật chất.
Chân lý Vạn vật còn được gọi là Chân lý Nhân quả.
Chân lý Vạn vật chính là lý luận gốc nhất, thật nhất, đúng
nhất của tất cả vạn vật bao trùm bên trong và bên ngoài Vũ
trụ, tức là không có đơn vị vật chất nào dù bên trong hay bên
ngoài Vũ trụ nằm ngoài Chân lý Vạn vật, tất cả đều nằm trong
Chân lý Vạn vật. Hay có thể nói, Chân lý Vạn vật nằm trong
chính mỗi đơn vị vật chất của tất cả vạn vật, trong mỗi sự
việc của tất cả sự việc, trong mỗi hiện tượng của tất cả hiện
tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Chân lý Vạn vật là của vạn vật chứ không phải của một
ai hay của tôn giáo nào, cũng như của kinh kệ nào. Chân lý
Vạn vật là cái có sẵn, là cơ chế, bản chất vận hành của vạn vật
bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Do đó, chỉ có Tuệ linh hay con
người thấu hiểu cơ chế, bản chất vận hành trong vạn vật, sự
việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ mà phân tách,
liên kết, tổng hợp thành Chân lý. Chân lý luôn luôn phải đúng
khi áp dụng và kiểm chứng với mỗi vật trong vạn vật, với mỗi
sự việc trong tất cả sự việc, với mỗi hiện tượng trong tất cả
hiện tượng của bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Chân lý Vạn vật cho thấy tất cả vạn vật, sự việc, hiện
tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ đều không tự nó sinh ra,
mà là do cơ chế phân tách, liên kết dây để sinh ra vạn vật, sự
17
việc, hiện tượng mới. Phải có điều kiện môi trường cho quá
trình phân tách, liên kết để sinh ra vạn vật, sự việc, hiện
tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Đó là điều kiện môi
trường có sự tương tác giữa các chỉnh thể, có áp lực, sức nén
của năng lượng từ các chỉnh thể, có sự truyền dẫn dinh
dưỡng (năng lượng) vào chỉnh thể, có liên kết dây giữa các
chỉnh thể bằng sợi mã sóng trí tuệ, phải có môi trường sinh
nhiệt (sóng điện âm hay dương hay trung tính có liên kết
dây). Như vậy, vạn vật, sự việc, hiện tượng không tự nó sinh
ra, mà phải có cơ chế phân tách, liên kết dây và điều kiện môi
trường tương tác giữa các chỉnh thể.
Vạn vật, sự việc, hiện tượng cũng không tự nó mất đi.
Sự mất đi cần phải được hiểu là từ sự chuyển hóa từ hình
tướng này sang hình tướng khác (chuyển hóa này không gọi
là chết, vì nó vẫn còn mã sóng trí tuệ trong chỉnh thể) cho
đến cái chết vĩnh viễn của chỉnh thể là không còn mã sóng trí
tuệ trong hạt năng lượng. Chỉnh thể mất đi là do quá trình
đứt liên kết dây và phân rã của vạn vật, sự việc, hiện tượng
trong quá trình tương tác. Vạn vật, sự việc, hiện tượng chỉ
hoại diệt (chết vĩnh viễn) khi bị số lượng hạt năng lượng hoại
diệt xâm nhập gây nổ hủy diệt hoàn toàn và không còn mã
sóng trí tuệ. Vạn vật, sự việc, hiện tượng, chuyển hóa hình
tướng mà vẫn còn mã sóng trí tuệ thì chưa được gọi là cái
chết.
Bản chất về khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng
bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người là quá
trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại của mã
sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ
và trạng thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết
vĩnh viễn là không còn sự tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là
18
hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi không còn mã sóng
trí tuệ do bị nổ tan.
Khổ đau đến là do thực hành cơ chế phân tách và liên
kết theo hướng phân rã hoại diệt. Khổ đau đi là do thực hành
cơ chế phân tách và liên kết theo hướng chuyển sinh bền
vững của Tuệ linh, con người, vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
Bản chất của Duyên – Nghiệp, Nhân – Quả hay bản chất
chung của Chân lý Vạn vật được kết tinh gọn thành một chữ,
đó là chữ “Duyên”. Cơ chế vận hành chữ Duyên (Chân lý Vạn
vật) chính là cơ chế phân tách, liên kết dây. Duyên có Duyên
trong Duyên, Duyên ngoại Duyên.

1. Duyên là gì?
Duyên chính là sự hợp mà thành.
Duyên là quá trình hợp nhất của các yếu tố để cấu tạo
thành chỉnh thể từ hạt năng lượng tận cùng cho đến vạn vật,
sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người.
Sự hợp chính là bản chất Tam hợp và cơ chế phân tách,
liên kết dây. Hợp chính là khả năng liên kết dây giữa các
chỉnh thể có cùng sóng điện (sóng điện âm với sóng điện âm,
sóng điện dương với sóng điện dương, sóng điện trung tính
với sóng điện trung tính) và không cùng sóng điện (sóng điện
âm với sóng điện dương, sóng điện âm với sóng điện trung
tính, sóng điện dương với sóng điện trung tính). Hợp còn là
sự cấu tạo thành hạt năng lượng hoại diệt, dù hạt năng lượng
hoại diệt không có liên kết dây để cấu tạo thành vật chất lớn
hơn, nhưng có cơ chế phân tách và được vận hành bởi sóng
rung và chỉnh thể hạt năng lượng hoại diệt cũng là sự hợp
19
bởi 3 yếu tố mà cấu tạo thành nó. Như vậy, hợp chính là bản
chất Tam hợp và cơ chế phân tách, liên kết dây.

2. Duyên trong Duyên


Duyên trong Duyên là việc ta biết vạn vật ở hiện tại,
chỉnh thể hiện tại, sự việc hiện tại, hiện tượng hiện tại, con
người hiện tại, bên trong và bên ngoài Vũ trụ hiện tại. Khi
biết cái hiện tại rồi, ta sẽ đi tìm cái ở quá khứ, đó là những cái
gì đã cấu tạo thành cái hiện tại. Ta lại tiếp tục truy tìm những
cái ở quá khứ của quá khứ cho đến tận cùng. Để tìm được
Duyên trong Duyên thì trước tiên ta phải thấu hiểu bản chất
của cái hiện tại, bản chất hiện tại sẽ biểu hiện ra các hiện
tượng, thấu hiểu các hiện tượng cũng chính là thấu hiểu bản
chất hiện tại. Tiếp đến là ta phải thấu hiểu cơ chế phân tách
liên kết dây, cơ chế Quay tròn, bản chất Tam hợp và nếu có
khả năng thiền định nữa thì sẽ khám phá và thấu hiểu thế
giới quan Vũ trụ, Tuệ linh, con người từ tận cùng sự hình
thành cho đến nay.
Ví dụ: Ta thấy ta, ta chính là một người, ta là hiện tại.
Ta sẽ tìm hiểu cái gì sinh ra ta, ta tìm hiểu và ta biết là cha mẹ
ta sinh ra ta, ta tìm hiểu cha mẹ sinh ra ta như thế nào và ta
biết được điều đó. Ta lại tìm hiểu ta là ai? Tâm ta như thế
nào? Kiếp trước ta là ai? Muốn biết được thì ta phải thấu hiểu
bản chất của ta thông qua những biểu hiện và hành động
hiện tại để thấy tâm ta, ta phải thấu hiểu cơ chế phân tách
liên kết dây, thiền quán được thì ta sẽ thấu hiểu ta là ai, kiếp
trước ta là ai. Cứ áp dụng phân tích chữ Duyên bằng cơ chế
phân tách liên kết dây, cơ chế Quay tròn, bản chất Tam hợp,

20
ta sẽ thấu hiểu Duyên trong Duyên của ta. Đó chính là thấu
hiểu cái hiện tại để biết cái quá khứ của cái hiện tại.
Tất cả vạn vật, sự việc, hiện tượng, cần thông qua cơ
chế phân tách liên kết dây, bản chất Tam hợp, cơ chế Quay
tròn sẽ thấu hiểu được tận cùng về quá khứ.

3. Duyên ngoại Duyên


Duyên ngoại Duyên là việc ta biết, thấu hiểu bản chất
thông qua hiện tượng được biểu hiện ra và quá trình đang
hành động tương tác của vạn vật, sự việc, hiện tượng, Tuệ
linh và con người, trong và ngoài Vũ trụ tại hiện tại; khi ta
thấu hiểu cái hiện tại thì ta sẽ thấy cái tương lai, đó là biết cái
Duyên tương lai của cái Duyên hiện tại. Cái Duyên chính là
chỉnh thể của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Cái Duyên tương
lai là cái hình tướng mới, chỉnh thể mới, vạn vật mới, hiện
tượng mới, sự việc mới thông qua cơ chế phân tách liên kết
dây, Tam hợp, Quay tròn.
Như vậy, bản chất của Chân lý Vạn vật là đi truy tìm
quá khứ và tương lai của vạn vật, sự việc, hiện tượng thông
qua việc giải mã cơ chế vận hành của nó. Đó là dùng cơ chế
“Phân tách, liên kết dây”, bản chất Tam hợp, cơ chế Quay
tròn để giải mã tận cùng vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, từ hiện tại về tới quá khứ và cho đến tương lai.
Đây chính là giác ngộ về vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Vận hành Chân lý Vạn vật chính là cơ chế Phân tách và
liên kết dây. Trong cơ chế Phân tách và liên kết dây của Chân
lý Vạn vật có hai con đường chuyển sinh: đó là chuyển sinh

21
theo hướng phân rã hoại diệt và chuyển sinh theo hướng bền
vững an lạc.

II. Bản chất của Chân lý Giác ngộ


Chân lý Giác ngộ là: “À, đời là bể khổ. Chúng sinh, Tuệ
linh và con người phải dùng chân tâm đối mặt, giác ngộ, giải
thoát hết tất cả các khổ đau trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
con người. Cơ chế vận hành là phân tách và liên kết dây”.
Chân lý Giác ngộ là lý luận thật nhất, đúng nhất, là con
đường duy nhất để giải thoát hết tất cả các khổ đau của vạn
vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ
linh và con người.
Giác ngộ chính là quá trình tự thân vận động để thấu
hiểu tất cả khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong
và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người; thấu hiểu nguyên
nhân của khổ đau; tìm kiếm để thấu hiểu và hành theo
phương pháp diệt khổ; thấu cảnh giới sau khi diệt được khổ;
tiếp tục đoàn kết và lan tỏa các thấu hiểu đó đến Tuệ linh và
con người. Đó là quá trình giác ngộ.
Bản chất của khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng
bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người là quá
trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại của mã
sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ
và trạng thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết
vĩnh viễn là không còn sự tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là
hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi không còn mã sóng
trí tuệ do bị nổ tan.
Trong Chân lý Giác ngộ, ta thấy đời là bể khổ, tức là sự
hiện hữu của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên
22
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người có mã sóng trí tuệ đều là
bể khổ. Sẽ không có gì là không khổ, không khổ chỉ tồn tại khi
không còn sự hiện hữu của mã sóng trí tuệ từ hạt năng lượng
tận cùng cho đến Vũ trụ và Tuệ linh, con người, đó là hoại
diệt vĩnh viễn thì sẽ không có khổ.
Đã là bể khổ rồi, khổ luôn luôn tồn tại, hiện hữu trong
tất cả Tuệ linh và con người, toàn bộ bên trong và ngoài Vũ
trụ bởi sự tồn tại của mã sóng trí tuệ. Vậy cần giác ngộ, giải
thoát khổ để làm gì trong khi chỉ có hoại diệt thật sự mới
không khổ?
- Không có khổ trong trường hợp không tồn tại chỉnh
thể có mã sóng trí tuệ, hay không tồn tại ở hạt sóng thì chính
là không tồn tại sự sống. Không tồn tại sự sống thì không còn
ý niệm, không còn sự giới hạn, không còn sự ràng buộc bởi
không gian và thời gian. Đã là không còn tồn tại sự sống thì
đó không phải là con đường để giác ngộ, không phải là sự giải
thoát khổ đau, mà đó chỉ là sự hoại diệt, là sự buông xuôi bỏ
chạy, là chấp nhận cái hoại diệt.
- Giác ngộ, giải thoát khổ chính là con đường, phương
pháp duy trì sự tồn tại của sự sống. Sự sống phải có ý nghĩa.
Ý nghĩa của sự sống chính là sự an lạc, hạnh phúc trong việc
lan tỏa, đoàn kết giúp vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người cùng duy trì sự sống có ý nghĩa. Bản
chất của sự sống có ý nghĩa chính là duy trì và phát triển cấu
trúc mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng trong tất cả
chỉnh thể của bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người trở nên bền vững trong sự đoàn kết và lan tỏa giá trị
lợi ích mà không màng đến chỉnh thể của ta.

23
Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải được hiểu là
tất cả sự sống có mã sóng trí tuệ ở bên trong và bên ngoài Vũ
trụ. Tiên phong sẽ là các Tuệ linh và con người.
Phải giác ngộ hết tất cả các khổ đau. Các khổ đau là các
hình tướng biểu hiện khác nhau do sự thay đổi cấu trúc mã
sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng. Đó có thể được hiểu là
con người khổ đau, muông thú khổ đau, cỏ cây khổ đau, Tuệ
linh khổ đau, hành tinh khổ đau, Vũ trụ khổ đau, năng lượng
hoại diệt cũng khổ đau. Dù tồn tại trong hình tướng nào thì
cũng phải tạo ra được cấu trúc mã sóng trí tuệ sinh phát ra
năng lượng tạo ra được lợi ích cho hình tướng khác và toàn
bộ Tuệ linh, con người, bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Do đó
phải giác ngộ hết các khổ đau cho chính ta và vạn vật Vũ trụ,
Tuệ linh và con người bằng việc tương tác, lan tỏa giá trị, lợi
ích của sự sống có ý nghĩa.
Để giác ngộ, giải thoát khổ đau phải dùng chân tâm.
Chân tâm được hiểu là trạng thái năng lượng có sóng điện
trung tính có liên kết dây. Phải là sóng điện trung tính có liên
kết dây vì trạng thái năng lượng của sóng điện trung tính
mới có thể trung hòa được tất cả các trạng thái năng lượng
có sóng điện dương và sóng điện âm của vạn vật, sự việc,
hiện tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người, thậm chí cả năng lượng hoại diệt để đồng cảm, thấu
hiểu, và lan tỏa giá trị lợi ích ý nghĩa của sự sống. Từ chân
tâm ban đầu trải qua quá trình thấu hiểu, vận hành Chân lý
Nhân quả và Chân lý Giác ngộ, lan tỏa, dẫn dắt chúng sinh,
Tuệ linh và con người, bên trong và bên ngoài Vũ trụ thấu và
hành theo thì sẽ chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng viên
mãn trong Trụ linh của Tuệ linh, con người.

24
Như vậy sứ mệnh của Tuệ linh và con người phải là
tiên phong, quyết định cho sự tồn tại, duy trì, phát triển sự
sống bền vững và có ý nghĩa của chúng sinh, Tuệ linh và con
người, vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Chân lý Giác ngộ cho thấy, chỉ có hai con đường trong
sự tồn tại và phát triển của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người, đó là giác ngộ hoặc u
mê hoại diệt. Đó là hai sự lựa chọn cho quá trình sinh khởi
rung động để gieo duyên, hành theo hướng nào để mà đón
nhận kết quả của Tuệ linh và con người. Trong hai con
đường lựa chọn đó thì con đường giác ngộ là con đường duy
nhất để tồn tại, phát triển bền vững, là con đường hành thiện,
là con đường để an lạc, là con đường để đắc niết bàn, là con
đường đắc bộ lọc năng lượng, là con đường bất tử của Tuệ
linh. Con đường u mê chính là con đường đi đến khổ đau, con
đường đi đến những nghiệp ác, là con đường đi đến hoại diệt
của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Vận hành Chân lý Giác ngộ chính là cơ chế Phân tách
và liên kết dây theo hướng chuyển sinh bền vững và an lạc.
Thực hành và quyết tâm đi trên con đường giác ngộ sẽ giúp
cho mỗi Tuệ linh, con người nhanh chóng đắc được bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh, đó là đắc được Đạo hợp nhất của
Vũ trụ.

III. Sự hợp nhất giữa hai Chân lý trong Quy luật


Nhân quả
Để thấy được sự hợp nhất giữa hai Chân lý trong Quy
luật Nhân quả, ta phải hiểu được kết tinh của Quy luật Nhân
quả trong cả hai Chân lý, đó là:
25
- Kết tinh của Quy luật Nhân quả trong Chân lý Vạn
vật: đó là giác ngộ về vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người; đó là giác ngộ về cội
nguồn, bản chất của quá trình sinh khởi rung động, gieo
duyên, hành động và kết quả của các giả tướng (vạn vật, sự
việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người) khi tương tác với nhau.
- Kết tinh của Quy luật Nhân quả trong Chân lý Giác
ngộ: đó là cho thấy chỉ có hai con đường trong sự tồn tại và
phát triển của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ
trụ, Tuệ linh và con người; đó là giác ngộ hoặc u mê hoại diệt;
đó là hai sự lựa chọn cho quá trình sinh khởi rung động để
gieo duyên, hành theo hướng nào để mà đón nhận kết quả.
Trong hai con đường lựa chọn, con đường giác ngộ là con
đường duy nhất để tồn tại, là phát triển bền vững, là con
đường hành thiện, là con đường để an lạc, là con đường để
đắc niết bàn, là con đường đắc bộ lọc năng lượng, là con
đường bất tử của Tuệ linh. Con đường u mê chính là con
đường đi đến khổ đau, con đường đi đến những nghiệp ác, là
con đường đi đến hoại diệt của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người.
Từ kết tinh của Quy luật Nhân quả trong hai Chân lý, ta
thấy Chân lý Giác ngộ luôn luôn tồn tại trong chính Chân lý
Vạn vật, đồng thời Chân lý Vạn vật luôn luôn tồn tại trong
chính Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý luôn tồn tại, hợp nhất
trong nhau mà không thể tách rời trong từng quá trình cho
đến toàn bộ quá trình của Quy luật Nhân quả. Hai Chân lý đã
tạo thành sự hợp nhất, thống nhất vĩ đại của trong Quy luật
Nhân quả.

26
Quy luật Nhân quả thể hiện sự hợp nhất của hai Chân
lý như sau:

1. Giai đoạn sinh khởi rung động


Giai đoạn sinh khởi rung động chính là giai đoạn tạo ra
“Nhân” cho Quy luật Nhân quả.
Giai đoạn sinh khởi rung động là quá trình sinh khởi
rung động của các giả tướng. Các giả tướng bao gồm từ hạt
năng lượng tận cùng cho đến vạn vật, sự việc, hiện tượng
trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Sự rung động
được hình thành khi các giả tướng tương tác với nhau. Sự
tương tác của các giả tướng ở giai đoạn rung động mới chỉ là
nhìn thấy, nghe thấy, bắt được tín hiệu. Sau khi các giả tướng
tương tác với nhau trong khoảng thời gian và không gian
nhất định, trí tuệ của các giả tướng bắt đầu rung động. Quá
trình rung động cũng chính là quá trình nội hành (đấu tranh,
xung đột giữa trí tuệ và Tâm) của nội tại chỉnh thể giả tướng
để giải mã các giả tướng. Quá trình đấu tranh giữa trí tuệ và
Tâm sẽ kết thúc thành sự sinh khởi để dẫn đến hành động.
Sự sinh khởi chính là hệ tư tưởng đã được tạo ra bởi quá
trình đấu tranh giữa trí tuệ và Tâm.
Sự hợp nhất của hai Chân lý trong giai đoạn sinh khởi
rung động của Quy luật Nhân quả như sau:
- Chân lý Vạn vật ở giai đoạn này chính là các giả tướng
tương tác với nhau, là bản chất của từng giả tướng được biểu
hiện trong quá trình tương tác, là quá trình rung động bởi trí
tuệ của các giả tướng tương tác với nhau, là hệ tư tưởng
được hình thành. Quá trình tương tác sinh khởi rung động
này đã khiến các giả tưởng nhận biết, thấu hiểu về nhau.
27
- Chân lý Giác ngộ ở giai đoạn này chính là khi các
chỉnh thể giả tướng bắt đầu tương tác và có sự rung động bởi
đang giải mã về nhau thì cũng là lúc bắt đầu hình thành hai
hướng trong giác ngộ, đó là theo chiều hướng tích cực (giác
ngộ) là mang lại lợi ích phát triển bền vững cho vạn vật, Tuệ
linh, con người; hoặc là theo chiều hướng u mê phá huỷ sự
phát triển bền vững của vạn vật, Tuệ linh, con người. Khi hệ
tư tưởng được đưa ra thì chính là đã lựa chọn được hướng
giác ngộ hay u mê trong mối quan hệ tương tác sinh khởi
rung động của các giả tướng.
Sự hiện hữu, bản chất, sự rung động của các giả tướng
chính là Chân lý Vạn vật. Hệ tư tưởng và quyết định được
đưa ra là u mê hay giác ngộ chính là Chân lý Giác ngộ. Vì vậy,
trong giai đoạn này đã là sự hợp nhất của hai Chân lý. Nếu
không có sự hợp nhất của hai Chân lý thì sẽ không thể hoàn
thành quá trình sinh khởi rung động của các giả tướng.

2. Giai đoạn gieo duyên


Gieo duyên trong Quy luật Nhân quả chính là “Gieo
nhân” để tạo ra các Tướng mới, pháp mới, Duyên mới, chỉnh
thể mới, giả tướng mới.
Gieo duyên tức là ngoại hành của các chỉnh thể với
nhau. Nó biểu hiện qua hành động của giả tướng để đạt được
mục đích của hệ tư tưởng đã sinh khởi của các chỉnh thể.
Gieo duyên chính là sự hợp lại của các giả tướng: đó là hợp
lại của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ
linh và con người thông qua ngoại hành.
Sự hợp nhất của hai Chân lý trong giai đoạn gieo
duyên của Quy luật Nhân quả như sau:
28
- Chân lý Vạn vật ở giai đoạn này chính là việc gieo ra,
tức là hành động để thể hiện việc muốn đạt được mục đích
của hệ tư tưởng đã được sinh ra ở giai đoạn sinh khởi rung
động.
- Chân lý Giác ngộ trong giai đoạn này chính là hành
động giác ngộ hay hành động u mê. Nếu hành động giác ngộ
thì đó là hành động vì lợi ích của vạn vật, Tuệ linh, con người
mà không ích kỷ về mình. Nếu hành động u mê thì đó là vì ích
kỷ của mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
Như vậy, hai Chân lý trong giai đoạn gieo duyên hợp
nhất với nhau trong hành trình của Quy luật Nhân quả. Hành
động là Chân lý Vạn vật, hành động theo hướng u mê hay giác
ngộ là Chân lý Giác ngộ.

3. Giai đoạn hành động


Hành động trong Quy luật Nhân quả chính là quá trình
chăm sóc, phát triển Duyên (Nhân) đã được gieo ra.
Giai đoạn hành động là quá trình hành động sau khi đã
gieo duyên hợp lại giữa các giả tướng (chỉnh thể). Đó là
những hành động, là chuỗi hành động liên tiếp hay gián đoạn
để đạt được mục đích từ khi sinh khởi sóng rung động của
chỉnh thể.
Sự hợp nhất của hai Chân lý trong giai đoạn hành động
của Quy luật Nhân quả như sau:
- Chân lý Vạn vật trong giai đoạn này chính là những
hành động đơn lẻ hoặc chuỗi hành động liên tục của chỉnh
thể giả tướng sau khi đã gieo duyên.

29
- Chân lý Giác ngộ trong giai đoạn này chính là hành
động giác ngộ hay hành động u mê trong những hành động
đơn lẻ hay trong những chuỗi hành động liên tục của các
chỉnh thể giả tướng sau khi đã gieo duyên.
Như vậy, giai đoạn hành động của Quy luật Nhân quả
vẫn là sự hợp nhất của hai Chân lý. Những hành động là Chân
lý Vạn vật, hành động u mê hay hành động giác ngộ là Chân lý
Giác ngộ.

4. Giai đoạn kết quả


Quả hay còn gọi là kết quả trong Quy luật Nhân quả,
chính là giai đoạn kết thúc cho một quy trình của Quy luật
Nhân quả.
Quả là kết quả cho quá trình sinh khởi, gieo duyên và
hành động. Kết quả chính là phản ánh, phản chiếu cho quá
trình sinh khởi gieo duyên và hành động. Kết quả cũng là giả
tướng, là hình tướng, là pháp, là Duyên mới của cơ chế phân
tách liên kết dây.
Sự hợp nhất của hai Chân lý trong giai đoạn kết quả
(kết thúc) của Quy luật Nhân quả như sau:
- Chân lý Vạn vật trong giai đoạn này chính là kết quả
của cả quá trình sinh khởi, gieo duyên, hành động. Kết quả
chính là pháp, Tướng, Duyên, giả tướng, chỉnh thể.
- Chân lý Giác ngộ trong giai đoạn này chính là kết quả
của giác ngộ hay kết quả của u mê. Kết quả chính là Tướng,
pháp, Duyên, giả tướng, chỉnh thể u mê hay giác ngộ.
Như vậy, giai đoạn kết quả của Quy luật Nhân quả cũng
là sự hợp nhất không thể tách rời của Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ.
30
Tất cả các giai đoạn trong quy trình của Quy luật Nhân
quả đều có sự hợp nhất, thống nhất của cả hai Chân lý. Điều
dễ dàng nhận thấy là: Chân lý Vạn vật cho ta thấy cội nguồn,
bản chất, biểu hiện của quá trình rung động, quá trình gieo
duyên, quá trình hành động, quá trình tạo ra kết quả của các
giả tướng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người; Chân
lý Giác ngộ cho ta thấy các quá trình sinh khởi, gieo duyên,
hành động, kết quả của các giả tướng trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người theo hướng giác ngộ hay u mê hoại
diệt. Điều này cho thấy, hai Chân lý là một Quy luật Nhân quả,
một Quy luật Nhân quả là hai Chân lý.

IV. Quy luật Nhân quả là hành trình vòng tròn


bất tận và là sự phản chiếu giữa gieo nhân và
nhận kết quả
Một quy trình của Quy luật Nhân quả được bắt đầu bởi
sự tương tác của các chỉnh thể cho đến sinh khởi rung động
để gieo duyên, tiếp đến là hành động để đạt được kết quả.
Kết quả của quy trình Quy luật Nhân quả sẽ lại là Duyên mới
(giả tướng mới) để tiếp tục một quy trình Quy luật Nhân quả
tiếp theo. Mỗi một quy trình Quy luật Nhân quả kết thúc
chính là sự khởi đầu cho quy trình mới của Quy luật Nhân
quả. Như vậy, Quy luật Nhân quả là hành trình chạy trên
vòng tròn bất tận, không có điểm dừng của từ hạt năng lượng
tận cùng cho đến vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài
Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Quy luật Nhân quả là những hành trình vòng tròn bất
tận. Chính vì điều này, khi ta nhìn chỉnh thể giả tướng hiện
tại thì ta sẽ hiểu được giả tướng đó được hình thành từ
31
những Duyên và hành động nào trong quá khứ. Khi ta thấy
các giả tướng đang tương tác bởi duyên được gieo và những
hành động chăm sóc thì ta sẽ biết được thành quả trong
tương lai của nó. Có thể nói, Quả là kết quả phản chiếu cho
quá trình gieo duyên và hành động trong quá khứ; gieo
duyên (nhân) và hành động ở hiện tại là tạo ra kết quả (Quả)
trong tương lai. Đây chính là mối quan hệ biện chứng cho
Quy luật Nhân quả. Sự phản ánh giữa gieo duyên và nhận kết
quả phải dựa vào Chân lý Giác ngộ trong quy trình Nhân quả,
đó là: nếu sinh khởi gieo duyên, hành động bằng giác ngộ thì
sẽ đón nhận được kết quả là giác ngộ; nếu sinh khởi gieo
duyên, hành động bằng u mê thì sẽ đón nhận được kết quả là
u mê.
Những quy trình của Quy luật Nhân quả có đơn vị thời
gian khác nhau, nó không giống nhau. Có thể là đơn vị đo
lường thời gian bởi phút, giờ, ngày, tháng, năm; dài hơn sẽ là
cả một kiếp người; dài hơn nữa sẽ là nhiều kiếp người; thậm
chí là cả nhiều cho đến vô tận vòng quay của cả Vũ trụ. Chính
vì một quy trình của Quy luật Nhân quả kéo dài có khi là
nhiều kiếp người, mà con người chúng ta lại bị chi phối bởi
trí tuệ u mê, không thấu hiểu bản chất Tam hợp nhân, không
biết những Duyên và hành động ở kiếp quá khứ, nên khi
nhận thành quả ở hiện kiếp sẽ không tin đó là Nhân quả. Tuy
nhiên, việc tin hay không tin Nhân quả thì nó vẫn là quy luật
của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, nó vẫn vận hành bởi cơ
chế kỳ diệu của nó mà không phụ thuộc vào niềm tin hay ý
chí chủ quan của con người áp đặt cho nó.
***************

32
Bài 3:
Cội nguồn của Quy luật Nhân quả


Quy luật Nhân quả không phải do Tuệ linh hay con
người sáng lập ra, nó là quy luật vận hành của từ hạt sóng
xanh (tổ tiên, cội nguồn của hạt năng lượng tận cùng) cho
đến hạt năng lượng tận cùng, vạn vật, sự việc, hiện tượng
trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Việc giải mã về cội nguồn Quy luật Nhân quả của tất cả
các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người sẽ
giúp nhân loại thấu hiểu tận cùng và biết cách tu hành dựa
trên cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả để đạt được
thành tựu đắc bộ lọc năng lượng trong Tâm (Tuệ linh) nhanh
nhất.
Bản chất của Quy luật Nhân quả chính là bản chất của
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, hai Chân lý này được
vận hành bởi cơ chế “Phân tách, liên kết dây”. Vì vậy, để xác
định được cội nguồn của Quy luật Nhân quả phải dựa vào cơ
chế “Phân tách, liên kết dây”.
Cội nguồn Quy luật Nhân quả của các dạng sống trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người:

I. Cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống


Hạt sóng xanh nõn chuối

33
Thời kỳ chưa xuất hiện hạt năng lượng tận cùng cũng
như chưa xuất hiện sự khởi đầu cho sự hình thành của Vũ
trụ, đó là thời kỳ của những hạt sóng màu xanh nõn chuối.
Đây là một dạng sống được coi là tổ tiên của dạng sống năng
lượng hoại diệt và tất cả các dạng sống trong Vũ trụ.
Hạt sóng xanh nõn chuối là những hạt tròn nhỏ màu
xanh chứa đựng năng lượng rất lớn chưa được chuyển hóa
thành hạt năng lượng, tức chưa sinh phát ra trạng thái năng
lượng. Trong không gian vô tận, vô định, chỉ có những điểm
phân tách ra các hạt sóng xanh nõn chuối, khi đó, các hạt
sóng xanh sẽ di chuyển trong không gian môi trường trung
tính (không có nhiệt lượng). Quá trình đó, chúng phân tách
thành những hạt sóng xanh nõn chuối khác dựa trên sự di
chuyển sinh ra nhiệt vừa đủ cho quá trình phân tách.
Quy luật Nhân quả của hạt sóng xanh là chúng được
sinh ra từ những điểm bí ẩn. Việc được sinh ra đó là quá
trình sinh khởi, gieo duyên, hành động và kết quả là sinh ra
dạng sống hạt sóng xanh. Tiếp đến, các hạt sóng xanh di
chuyển và rung động để phân tách ra các hạt sóng xanh khác.
Đó là quá trình sinh khởi gieo duyên, phân tách và tạo ra kết
quả là những hạt sóng xanh khác được hình thành.
Như vậy, ta thấy dạng sống của hạt sóng xanh đã thực
hiện cơ chế phân tách hạt sóng từ nơi nó sinh ra cho đến tự
thân nó phân tách ra những hạt sóng xanh khác, đó là Quy
luật Nhân quả đã được hình thành ở dạng sống hạt sóng xanh
nõn chuối. Việc xuất hiện và được sinh ra từ những điểm bí
ẩn của hạt sóng xanh chính là Chân lý Vạn vật, việc chúng di
chuyển và phân tách ra các hạt sóng xanh khác là Chân lý
Giác ngộ, vì Chân lý Giác ngộ chính là hướng đi mà chúng
quyết định.
34
II. Cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
năng lượng hoại diệt
Dạng sống năng lượng hoại diệt là dạng sống xuất hiện
sau dạng sống hạt sóng xanh nõn chuối. Khi đó, chưa xuất
hiện sự sống của Vũ trụ.
Dạng sống năng lượng hoại diệt có thể gọi là dạng sống
con của dạng sống hạt sóng xanh nõn chuối, bởi dạng sống
năng lượng hoại diệt do dạng sống hạt sóng xanh nõn chuối
sinh ra. Khi các hạt sóng xanh nõn chuối được sinh ra, chúng
di chuyển trong môi trường trung tính (không có nhiệt
lượng), nên không thể quay tròn thuận hay ngược. Việc
không quay tròn khiến cho hạt sóng xanh nõn chuối không
giải phóng được hết năng lượng trong hạt nên bị thối hóa
trạng thái năng lượng mà biến thành màu nâu, chúng biến
đổi và chuyển hóa thành hạt năng lượng hoại diệt. Dạng sống
hạt năng lượng hoại diệt trở nên đông đúc và gia tăng lớn về
số lượng, chúng vẫn di chuyển thẳng mà không quay tròn. Vì
chưa giải phóng hết sóng điện trong hạt nên khi các hạt năng
lượng hoại diệt di chuyển liên tục hoặc với mật độ dày đặc sẽ
khiến chúng bị sinh nhiệt nhanh và tự kích nổ.
Như vậy, cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
năng lượng hoại diệt là do hạt sóng xanh phân tách và
chuyển hóa thành.
Chân lý Vạn vật trong hạt năng lượng hoại diệt chính là
cội nguồn được sinh ra từ hạt sóng xanh, chính là bản chất
không quay tròn mà di chuyển thẳng, chính là di chuyển liên
tục hoặc với mật độ dày đặc sẽ bị kích nổ. Chân lý Giác ngộ
trong hạt năng lượng hoại diệt chính là việc chúng lựa chọn
di chuyển liên tục hay tụ tập mật độ dày để bị kích nổ hoặc di
35
chuyển chậm và truyền tải bỏ sóng điện dư thừa trong hạt để
tồn tại.

III. Cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
trong Vũ trụ
Dạng sống trong Vũ trụ được bắt đầu từ hai hạt năng
lượng âm và dương hợp lại tạo thành phôi năng lượng âm
dương. Phôi năng lượng âm dương này trưởng thành và tạo
thành tinh cầu năng lượng khổng lồ. Phôi năng lượng này
kích nổ, sau đó Vũ trụ được hình thành với vô số dải thiên hà
như ngày nay.
Hai hạt năng lượng âm và dương tạo thành vụ nổ siêu
năng lượng hình thành Vũ trụ, Tuệ linh và con người chính là
hai hạt sóng xanh nõn chuối biến đổi thành. Khi dạng sống
năng lượng hoại diệt gia tăng về số lượng và mật độ, chúng
hay bị kích nổ do di chuyển thẳng hoặc tập trung đông tại
một điểm. Tại những điểm mà năng lượng hoại diệt bị nổ sẽ
sinh ra nhiệt lượng dương và gần đó sẽ sinh ra nhiệt lượng
âm. Hạt sóng xanh nõn chuối di chuyển vào môi trường có
sóng điện dương sẽ cấu tạo thành hạt năng lượng dương. Hạt
sóng xanh nõn chuối di chuyển vào môi trường có sóng điện
âm sẽ chuyển hóa thành hạt năng lượng âm. Việc hình thành
các hạt năng lượng có sóng điện âm hoặc dương đã bị những
hạt năng lượng hoại diệt tiếp cận để truyền sóng điện dư
thừa trong chính hạt năng lượng hoại diệt, khiến cho các hạt
năng lượng có sóng điện âm dương bị kích nổ hoặc bị đồng
hóa thành năng lượng hoại diệt. Phải là sự kỳ diệu mới xuất
hiện hai hạt năng lượng âm và dương gặp nhau để tạo nên
sức mạnh kỳ diệu của cơ chế liên kết dây trong hạt năng
36
lượng âm và dương, đó là sự xuất hiện của phôi năng lượng
âm dương tạo ra vụ nổ lớn để hình thành Vũ trụ với những
dạng sống kỳ diệu. Khi vụ nổ siêu năng lượng xảy ra, trong
không gian Vũ trụ rộng lớn chỉ có năm nhóm hạt năng lượng
có sóng điện âm hoặc dương hoặc trung tính có liên kết dây.
Năm nhóm năng lượng cấu tạo thành vạn vật, các hành tinh,
Tuệ linh, và con người. Tất nhiên sự cấu tạo đó đều có sự can
thiệp của vị Tuệ linh đầu tiên.
Như vậy, cội nguồn Quy luật Nhân quả của Vũ trụ được
sinh ra là do hạt sóng xanh biến đổi thành hạt năng lượng âm
dương. Sau đó hạt năng lượng âm dương liên kết với nhau để
tạo thành tinh cầu năng lượng khổng lồ trong thời gian dài.
Và sau vụ nổ là quá trình hình thành Vũ trụ như ngày nay.
Chân lý Vạn vật trong cội nguồn Quy luật Nhân quả của
Vũ trụ là sự chuyển hóa của hạt sóng xanh nõn chuối thành
các hạt năng lượng âm dương, tiếp đó là sự liên kết của hạt
năng lượng âm và hạt năng lượng dương để tạo thành phôi
năng lượng âm dương cho sự xuất hiện của Vũ trụ. Chân lý
Giác ngộ chính là quyết định liên kết để hợp nhất giữa hạt
năng lượng âm và hạt năng lượng dương tạo thành phôi
năng lượng âm dương. Hai Chân lý tiếp tục tuần hoàn trong
quá trình phôi năng lượng âm dương đó trở thành tinh cầu
năng lượng khổng lồ và hình thành Vũ trụ sau khi nổ.

IV. Cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
Tuệ linh
Dạng sống Tuệ linh là dạng sống có trí tuệ siêu việt
nhất trong Vũ trụ. Dạng sống Tuệ linh được bắt đầu từ khi vị
Tuệ linh đầu tiên được sinh ra, đó là vị Tuệ linh được hình
37
thành từ hạt sóng xanh biến đổi thành hạt năng lượng âm
dương để rồi chúng hợp nhất tạo thành phôi năng lượng,
phôi năng lượng đó chính là tinh cầu năng lượng của vụ nổ
siêu năng lượng tạo ra Vũ trụ. Khi tinh cầu năng lượng được
hình thành, phát triển thì cũng là lúc vị Tuệ linh đầu tiên
được hình thành bởi Trụ linh (phôi gốc) là hai hạt năng
lượng gốc. Sau vụ nổ siêu năng lượng, vị Tuệ linh đầu tiên đã
gieo duyên cho những hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ
phức tạp nhất trong năm nhóm năng lượng hợp lại để tạo ra
các Tuệ linh. Các Tuệ linh hình thành và tạo ra dạng sống Tuệ
linh. Dạng sống Tuệ linh hình thành và gia tăng về số lượng.
Dạng sống Tuệ linh có sinh và có diệt, sinh là do các hạt năng
lượng âm và dương hợp lại để tạo thành phôi năng lượng và
chuyển hóa thành Tuệ linh, diệt là do năng lượng hoại diệt đi
đồng hóa mà phân rã Tuệ linh trở thành năng lượng hoại
diệt.
Như vậy, cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
Tuệ linh chính là cội nguồn của dạng sống Vũ trụ, bởi dạng
sống Tuệ linh được hình thành chung từ quá trình biến đổi
của hai hạt sóng xanh nõn chuối thành hai hạt năng lượng
âm dương, để sau đó hình thành phôi âm dương và tinh cầu
năng lượng khổng lồ.
Chân lý Vạn vật trong Quy luật Nhân quả của dạng
sống Tuệ linh chính là hai hạt năng lượng âm và dương được
biến đổi từ hạt sóng xanh, là phôi năng lượng được hợp nhất
từ hai hạt năng lượng âm dương. Chân lý Giác ngộ là hai hạt
âm và dương chọn con đường hợp nhất để trở thành cấu tạo
bền vững và tạo ra dạng sống Tuệ linh cũng như các dạng
sống trong Vũ trụ.

38
V. Cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
muông thú
Muông thú là dạng sống tại Trái đất, là dạng sống xuất
hiện trước dạng sống của con người, và xuất hiện sau sự
sống cỏ cây ở Trái đất.
Dạng sống muông thú được hình thành từ quá trình
gieo duyên bởi các phôi năng lượng âm dương có mã sóng trí
tuệ phức tạp từ Hội đồng Tuệ linh, nhằm tạo ra môi trường
tu hành cho dạng sống con người xuất hiện.
Muông thú là dạng sống được tạo ra nhằm làm môi
trường và mô phỏng trước mô hình dạng sống con người sẽ
sống và phát triển bởi Hội đồng Tuệ linh. Chính vì điều này,
cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống muông thú có sự
can thiệp và xây dựng từ Hội đồng Tuệ linh. Hội đồng Tuệ
linh sẽ can thiệp vào quá trình luân hồi và xây dựng các quy
tắc trong quan hệ của sự tồn tại và phát triển của muông thú.
Các muông thú đều sống trong sự tuân thủ quy tắc đã
được xây dựng từ cơ chế phân tách, liên kết dây. Chân lý Vạn
vật trong Quy luật Nhân quả của dạng sống muông thú vẫn là
cội nguồn, bản chất, sự sinh, tồn tại, sự hoại diệt của muông
thú. Chân lý Giác ngộ trong Quy luật Nhân quả được nâng cao
đó là: những lựa chọn hành động theo tính thiện và mang lại
lợi ích cho muông thú khác, cho con người sẽ giúp cho linh
hồn muông thú đó được chuyển sinh làm người; những hành
động giết hại hoặc gây tổn hại nhau sẽ khiến cho linh hồn
muông thú không được chuyển sinh làm người.

VI. Cội nguồn Quy luật Nhân quả của dạng sống
con người (Nhân loại)
39
Dạng sống con người là hóa thân của dạng sống Tuệ
linh. Dạng sống con người xuất hiện sau dạng sống của
muông thú ở Trái đất. Vị Tuệ linh đầu tiên thông qua thành
tựu trong hành trình chuyển sinh của muông thú để xây
dựng thành bộ quy tắc sống cho con người. Có thể nói, dạng
sống con người là trường học, là môi trường tu hành mà
dạng sống Tuệ linh phải hóa thân xuống để tìm con đường,
phương thuốc cứu dạng sống Tuệ linh trước sự tấn công huỷ
diệt của dạng sống năng lượng hoại diệt.
Môi trường của dạng sống con người là kết tinh của tất
cả các dạng sống mà tạo thành. Dạng sống Tuệ linh đã xây
dựng dạng sống con người với sự hội tụ tất cả các dạng sống
trong và ngoài Vũ trụ.
Quy luật Nhân quả của nhân loại là sự kết hợp giữa cơ
chế phân tách liên kết dây của hạt năng lượng (cơ chế vận
hành Quy luật Nhân quả của tất cả các dạng sống) với bộ quy
tắc vị Tuệ linh đầu tiên đã truyền dạy cho con người và
muông thú tại các cuộc tập kết xuất hiện nhân loại ở Trái đất.
Cội nguồn Quy luật Nhân quả của nhân loại chính là
thời khắc mà dạng sống Tuệ linh hóa thân thành con người
xuống nhân gian, đó là tại các cuộc tập kết lịch sử ở Trái đất
để khởi đầu cho sự xuất hiện của loài người. Tại các điểm tập
kết đó, vị Tuệ linh đầu tiên đã truyền dạy các quy tắc tu hành
ở nhân gian cho dạng sống con người, đó là những quy tắc
được thể hiện thông qua bốn hình tướng Đạo. Các Tuệ linh
hóa thân làm người phải làm được những quy tắc đó để đắc
được bộ lọc năng lượng trong Tuệ linh, đó là con đường để
thành đạo mà trở về. Tất nhiên, khi đó cả dạng sống Tuệ linh
và con người đều chưa thấu hiểu Quy luật Nhân quả cũng
như cơ chế vận hành của nó. Tuy vậy, cội nguồn Quy luật
40
Nhân quả của nhân loại chính là thời điểm các Tuệ linh hóa
thân làm người với những quy tắc được vị Tuệ linh đầu tiên
truyền dạy.
Như vậy, Quy luật Nhân quả của nhân loại là đặc biệt
nhất trong và ngoài Vũ trụ. Nó được nâng cao bởi sự vận
hành của bộ quy tắc và có sự kết hợp với cơ chế phân tách,
liên kết dây của hạt năng lượng để tạo thành các “Cây Nhân
quả kỳ diệu” cho mỗi chỉnh thể con người đến gia đình, xã
hội và cả nhân loại. Do đó, Quy luật Nhân quả của nhân loại
chính là cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng có
sự nâng cấp, vận hành của Hội đồng Tuệ linh, đứng đầu là vị
Tuệ linh đầu tiên.
Chân lý Vạn vật trong Quy luật Nhân quả của nhân loại
chính là cội nguồn nhân loại, sự hiện hữu, sứ mệnh, sinh, tử,
khổ đau. Chân lý Giác ngộ chính là việc lựa chọn theo hướng
u mê để hoại diệt hay giác ngộ để thành đạo. Quy luật Nhân
quả được cụ thể hóa thành những điều luật thông qua bốn
biểu hiện hình tướng Đạo.
***************

41
42
Bài 4:
Cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả


Cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của tất cả các dạng
sống trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người chính là cơ
chế “Phân tách, liên kết dây” của hạt năng lượng.
Con người là trung tâm của Vũ trụ, là hóa thân của
dạng sống Tuệ linh (với trí tuệ siêu việt nhất Vũ trụ) trong
thân tướng vật chất giản đơn. Quy luật Nhân quả của con
người không những là sự hội tụ Quy luật Nhân quả của tất cả
các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, mà còn được nâng cấp
cao hơn bởi những quy tắc tu hành nơi nhân gian. Chính vì
vậy, Quy luật Nhân quả của con người là Quy luật Nhân quả
lớn nhất, bao trùm toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
con người. Thấu hiểu tận cùng cơ chế vận hành Quy luật
Nhân quả của con người chính là thấu hiểu tận cùng Quy luật
Nhân quả của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ
trụ, Tuệ linh và con người. Bởi Quy luật Nhân quả của các
dạng sống, hay còn gọi là của vạn vật, sự việc, hiện tượng
trong và ngoài Vũ trụ đều có trong Quy luật Nhân quả của
con người.
Việc phân tích cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của
nhân loại sẽ giải mã và cho thấy rõ sự kỳ diệu của các dạng
“Phân tách, liên kết hạt năng lượng” trong Quy luật Nhân
quả. Từ đó, Tuệ linh và con người sẽ biết cách gia tăng tốc độ

43
tu hành nơi nhân gian để đắc được bộ lọc năng lượng viên
mãn nhanh nhất.

I. Cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng


trong Quy luật Nhân quả
1. Giới thiệu cơ chế Phân tách và liên kết dây
của hạt năng lượng tận cùng

1.1. Cơ chế phân tách hạt năng lượng tận cùng


Cơ chế phân tách ra hạt năng lượng tận cùng chính là
phân tách hạt năng lượng nhân quả.
Chỉnh thể đảm bảo phân tách ra được hạt năng lượng
tận cùng:
- Phôi năng lượng âm dương: đó là chỉnh thể được hợp
nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng với một hạt năng
lượng dương tận cùng để tạo thành cơ chế tuần hoàn sóng
điện thu và phát nhiệt lượng trong phôi. Nếu là một hạt năng
lượng tận cùng độc lập sẽ không xảy ra cơ chế phân tách
nhân đôi.
- Trụ linh của các cấu trúc vật chất, của Tuệ linh, của
con người, của muông thú: Trụ linh là cấu trúc năng lượng
lớn hơn cấu trúc phôi năng lượng âm dương; Trụ linh có sự
tuần hoàn sóng điện để thu và phát nhiệt lượng nên sẽ đảm
bảo được khả năng phân tách hạt năng lượng khi có nhiệt
lượng.
Khi chỉnh thể có phôi năng lượng hoặc có Trụ linh
tương tác với nhau, tương tác trong môi trường có nhiệt
lượng, có cường độ, có áp lực sẽ khiến cho phôi năng lượng
44
âm dương hoặc Trụ linh phân tách ra một hạt năng lượng tận
cùng mới. Hạt năng lượng tận cùng mới này sẽ có cơ chế liên
kết dây với chỉnh thể sinh ra nó, điều này tạo thành sự liên
kết của cơ chế phân tách và liên kết.
Hạt năng lượng tận cùng được phân tách ra sẽ lưu giữ
toàn bộ thông tin, hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ, sóng rung
động, nhiệt lượng, môi trường, hành động của các chỉnh thể
phân tách ra nó.
Sau khi hạt năng lượng tận cùng được phân tách ra
trong môi trường có nhiệt lượng sẽ xảy ra luôn cơ chế liên
kết với chính chỉnh thể sinh ra nó hoặc với các hạt năng
lượng tận cùng khác, bởi bản chất sóng điện âm và dương sẽ
liên kết lại với nhau khi có sóng rung động tương hợp. Khi cơ
chế liên kết xảy ra sẽ tiếp tục xảy ra cơ chế phân tách. Hai cơ
chế này diễn ra liên tục là bản chất giúp cho vạn vật Vũ trụ,
Tuệ linh và con người ngày càng phát triển.

1.2. Cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng tận
cùng
Cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng tận cùng chính
là liên kết dây của hạt năng lượng nhân quả.
Chỉnh thể đảm bảo xảy ra cơ chế liên kết dây của hạt
năng lượng tận cùng là phải có ít nhất một hạt năng lượng
tận cùng liên kết với từ hạt năng lượng tận cùng cho tới vạn
vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Tất cả sự liên kết phải đảm
bảo có sự tuần hoàn sóng điện giữa các hạt năng lượng khi
được liên kết.
Các hạt năng lượng tận cùng có sóng điện âm dương
khác nhau, khi tương tác trong điều kiện có nhiệt lượng sẽ
45
xảy ra cơ chế liên kết giữa chúng, đó là liên kết tạo phôi âm
dương để phát triển.
Các hạt năng lượng âm tận cùng liên kết với nhau, các
hạt năng lượng dương tận cùng liên kết với nhau, các hạt
năng lượng dương và trung tính tận cùng liên kết với nhau,
sự liên kết này là bởi có sự tương hợp về nội dung mã sóng
rung động. Điều này tạo thành sự gắn kết, phát triển của các
cấu trúc vật chất, Tuệ linh và con người.
Khi các hạt năng lượng tận cùng được liên kết với
nhau tạo thành phôi năng lượng âm dương hoặc nâng cấp
thành các cấu trúc vật chất lớn hơn, sau đó sẽ xảy ra luôn quá
trình phân tách hạt năng lượng tận cùng. Quá trình liên kết
và phân tách hạt năng lượng tận cùng sẽ luôn tuần hoàn và
biện chứng với nhau.
Các hạt năng lượng tận cùng liên kết với nhau sẽ lưu
giữ toàn bộ thông tin, hình ảnh, âm thanh, ngôn ngữ, sóng
rung động, nhiệt lượng, môi trường, hành động của các chỉnh
thể đã liên kết với nhau.
Sau khi các hạt năng lượng tận cùng liên kết với nhau
bởi cùng khớp về nội dung mã sóng rung động (âm với âm,
dương với dương, dương với trung tính) hoặc giữa hạt năng
lượng âm tận cùng với dương tận cùng, sẽ tiếp tục xảy ra quá
trình phân tách. Quá trình phân tách và liên kết liên tục diễn
ra thành vòng tròn vô tận không ngừng nghỉ để nâng cấp các
cấu trúc vật chất Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

2. Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy


luật Nhân quả của con người

46
2.1. Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy
luật Nhân quả của con người vừa là một Quy
luật Nhân quả hoàn chỉnh, vừa chỉ là Nhân trong
Quy luật Nhân quả
Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân
quả là cả một quy trình của Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh:
Đó là quá trình khi chỉnh thể con người tương tác với con
người, muông thú, Tuệ linh, vạn vật sẽ khiến cho Trụ linh của
Tâm (Tuệ linh) rung động mà phân tách (tạo mới) một sợi
mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Quá trình chỉnh thể con người
đó gieo duyên, hành động, kết thúc hành động thì sợi mã
sóng đó đã tạo thành một hạt năng lượng. Hạt năng lượng đó
sau khi được hoàn thành sẽ phân tách ra từ nhiều hơn 3 hạt
năng lượng và bắn vào 3 vùng chứa đựng hạt năng lượng
tương ứng. Việc hạt năng lượng được hoàn thành hoàn chỉnh
sau quá trình tương tác, rung động sinh khởi, gieo duyên,
hành động, kết thúc hành động đã tạo ra kết quả là những
hạt năng lượng của Quy luật Nhân quả. Đó là quá trình phân
tách, tạo ra thành quả là những hạt năng lượng từ quá trình
sinh khởi, gieo duyên, hành động. Như vậy, cơ chế phân tách
hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả đã là một diễn biến
hoàn chỉnh của một quy trình Quy luật Nhân quả. Tuy nhiên,
một quy trình hoàn chỉnh của Quy luật Nhân quả của cơ chế
phân tách hạt năng lượng mới chỉ là một nửa của quy trình
Quy luật Nhân quả của con người, bởi quy trình hoàn chỉnh
của Quy luật Nhân quả của con người phải bao gồm cả quá
trình diễn biến của cơ chế liên kết hạt năng lượng.
Ví dụ: Tôi giảng giáo lý về nhân quả, hai Chân lý tới
một người. Quá trình tôi giảng giáo lý, từ trong Trụ linh của
47
tôi phân tách ra nhiều hạt năng lượng di chuyển vào không
gian Vũ trụ, nhiều hạt năng lượng di chuyển vào người đang
nghe, nhiều hạt năng lượng được lưu giữ trong Trụ linh tôi.
Đây mới chỉ là quá trình phân tách hạt năng lượng, và đó là
hoàn chỉnh của quá trình từ không có mà tạo ra được nhiều
hạt năng lượng để tạo thành một quy trình nhân quả hoàn
chỉnh của hạt năng lượng. Tuy nhiên, nó vẫn chưa được gọi
là Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh mà tôi đang thực hiện đối
với người được tôi giảng. Nhân quả chỉ hoàn thành khi người
đó tin tưởng tuyệt đối vào giáo lý tôi giảng, sau đó sống và
hành theo giáo lý đó thì mới gọi là Quy luật Nhân quả hoàn
chỉnh mà tôi đã tạo và vận hành. Vì người đó mới chỉ là đang
nghe, phân tích những tri thức mà chưa chắc đã tin và sống
theo giáo lý nên chưa tạo được liên kết hạt năng lượng từ
Tâm họ tới Tâm tôi, do đó trong Tâm họ mới chỉ có nhiệt
lượng, thông tin từ những tri thức tôi truyền tải tới.
Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy luật Nhân
quả là Nhân, là một nửa của một quy trình Quy luật Nhân
quả: Nó mới chỉ là quá trình tương tác rung động sinh khởi,
gieo duyên, hành động của các giả tướng với nhau. Quá trình
này mới chỉ là tạo ra hạt năng lượng được bắn vào và lưu giữ
ở 3 vùng mà chưa diễn biến quá trình vận hành của cơ chế
liên kết hạt năng lượng nên mới chỉ là quá trình gieo Nhân.
Quá trình gieo nhân là quá trình tạo ra, phân tách ra các hạt
năng lượng mà chưa có sự liên kết của các hạt đã tạo ra.
Ví dụ: Tiếp ví dụ tôi giảng giáo lý Nhân quả, hai Chân
lý cho người khác. Việc tôi giảng giáo lý Nhân quả, hai Chân
lý đến người khác chính là quá trình tôi đang gieo duyên và
hành động sau một quá trình rung động sinh khởi là giảng
giải cho người đó nghe. Việc tôi đang giảng chưa biết có
48
thành công hay không, chưa biết là có kết quả hay không, bởi
nó còn phụ thuộc khả năng thuyết phục hợp lý và dẫn chứng
đúng từ tôi, phụ thuộc vào sự trải nghiệm trong cuộc sống để
người đó tin hoặc không tin. Khi người đó không tin hay
đang trong quá trình xây dựng niềm tin, thì vẫn chưa thể gọi
đó là kết quả, thành quả mà tôi đã đạt được, tôi chưa nhận
được kết quả từ việc tôi gieo duyên và hành động. Chỉ khi
người đó tin và sống theo giáo lý tôi giảng dạy thì mới tạo
thành cơ chế liên kết dây của hạt năng lượng, khi đó mới gọi
là hoàn chỉnh của một quy trình Quy luật Nhân quả. Tức là
cần phải có diễn biến của cơ chế liên kết để tạo thành thành
quả, kết quả của toàn bộ quá trình Quy luật Nhân quả.

2.2. Cơ chế phân tách hạt năng lượng trong Quy


luật Nhân quả của con người chính là cơ chế
phân tách, bắn và lưu giữ hạt năng lượng vào 3
vùng
Trong quá trình con người tương tác với vạn vật, con
người, Tuệ linh, sẽ diễn ra quá trình đấu tranh nội tâm, đó là
sự dao động sóng điện từ Trụ linh trong Tâm với não bộ
(trạm thu phát sóng điện) nhằm giải mã mã sóng trí tuệ của
vạn vật, sự việc, hiện tượng. Quá trình đó gọi là rung động để
chuẩn bị sinh khởi (hệ tư tưởng) và gieo duyên, là quá trình
mà Trụ linh bắt đầu phân tách ra đoạn mã sóng trí tuệ. Tiếp
tục gieo duyên cho đến khi kết thúc hành động thì sợi mã
sóng trí tuệ đó được cấu tạo hoàn chỉnh và hình thành hạt
năng lượng mới. Có thể có từ một cho đến nhiều duyên và
nhiều hành động, sẽ phân tách từ một cho đến nhiều hạt
năng lượng. Từ Trụ linh, các hạt năng lượng gốc được phân
49
tách ra sẽ tiếp tục phân tách thành nhiều hạt để bắn và lưu
giữ tại 3 vùng chứa đựng hạt năng lượng.
Quá trình rung động, sinh khởi gieo duyên, hành động
của con người sẽ được lưu giữ tất cả những trạng thái cảm
xúc, ý nghĩ, hình ảnh, nội dung vào trong sợi mã sóng trí tuệ
của hạt năng lượng gốc được phân tách ra trong Trụ linh. Hạt
năng lượng gốc đó phân tách ra thành nhiều hạt để bắn và
lưu giữ ở 3 vùng, những hạt đó đều là bản sao của hạt năng
lượng gốc, những hạt đó có cùng sóng rung động, ý nghĩ,
trạng thái cảm xúc, nội dung, hình ảnh với hạt gốc.
Hạt năng lượng được phân tách, bắn và lưu giữ ở 3
vùng trong Quy luật Nhân quả đó là:
- Vùng thứ 1: là vùng lưu giữ hạt năng lượng gốc của
Quy luật Nhân quả do chỉnh thể con người tạo ra, đó chính là
Trụ linh trong Tâm (Tuệ linh), nơi lưu giữ sợi mã sóng trí tuệ
gốc, sau đó phân tách ra một hạt năng lượng để cấu tạo
thành hạt tổng hợp bên ngoài Trụ linh. Từ sợi mã sóng trí tuệ
gốc cũng sẽ phân tách ra một hạt y nguyên hạt gốc bắn ra
não bộ để tạo thành tư duy trí tuệ. Có thể hiểu là từ Trụ linh
phân tách ra sợi mã sóng trí tuệ chứa đựng nội dung, hình
ảnh, cảm xúc để phát triển cấu trúc Tuệ linh; để lưu giữ tại
não bộ, nhằm tạo kinh nghiệm sống cho chỉnh thể con người
đó. Hạt gốc được phân tách ở Trụ linh sẽ được lưu giữ và hòa
quyện vào tổng mã sóng trí tuệ của Trụ linh. Việc hòa quyện
đó nhằm tạo đủ số lượng mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng, đó là quá trình trau dồi kinh
nghiệm tu hành, trau dồi tình yêu thương, trau dồi đạo đức
và trí tuệ cho Trụ linh của Tâm (Tuệ linh). Việc trau dồi là
con đường duy nhất để Trụ linh có đủ chất và lượng mã sóng
trí tuệ cho việc chuyển hóa, cấu tạo Trụ linh trở thành bộ lọc,
50
vận hành được tất cả năng lượng trở nên bền vững, trong đó
có khả năng chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành các siêu
năng lượng.
- Vùng thứ 2: đó là không gian Vũ trụ chứa tầng năng
lượng tương ứng với hạt năng lượng được phân tách từ Trụ
linh. Nếu từ Trụ linh phân tách ra các hạt năng lượng tiêu
cực, tức là những hạt năng lượng có sóng điện âm từ nhẹ đến
siêu mạnh (là những hạt năng lượng của kết quả gieo duyên
và hành động tiêu cực gây tổn thương vạn vật, Tuệ linh và
con người): những hạt này sẽ được bắn và lưu giữ tại nơi
chứa đựng những hạt năng lượng tiêu cực tương ứng trong
không gian Vũ trụ. Nếu từ Trụ linh phân tách ra những hạt
năng lượng tích cực, là những hạt năng lượng mang sóng
điện dương từ nhẹ tới siêu mạnh (là kết quả của quá trình
gieo duyên và hành động tích cực, đó là hành động vì lợi ích
vạn vật, Tuệ linh và con người): những hạt năng lượng này sẽ
được phân tách, bắn vào và lưu giữ ở không gian Vũ trụ có
tầng năng lượng tích cực tương ứng. Ngoài ra còn có những
hạt chân tâm, những siêu hạt cũng được phân tách và bắn
vào không gian Vũ trụ tương ứng khi Trụ linh của con người
phân tách ra, những hạt năng lượng này y nguyên và giống
hệt hạt năng lượng gốc.
- Vùng thứ 3: là những đối tượng chỉnh thể giả tướng
mà con người tương tác khi gieo duyên và hành động. Từ hạt
gốc được phân tách lưu giữ ở Trụ linh sẽ tiếp tục phân tách
ra một cho đến nhiều hạt năng lượng bắn vào các chỉnh thể
mà người đó tương tác gieo duyên, hành động. Những hạt
năng lượng được phân tách, bắn vào các chỉnh thể giả tướng
(con người, vạn vật, sự việc) có thể được lưu giữ trong chỉnh
thể đó nếu họ đón nhận; nếu không đón nhận thì những hạt
51
năng lượng đó sẽ tan biến và không còn tồn tại. Những hạt
này đều y nguyên và giống hệt với hạt năng lượng gốc lưu
giữ ở Trụ linh của người phân tách ra.
Những ví dụ về phân tách hạt năng lượng trong Quy
luật Nhân quả:
Ví dụ 1: Người A giết chết người B sau quá trình xung
đột lợi ích giữa hai người. Trong trường hợp này, mỗi bên
đều phân tách ra rất nhiều hạt năng lượng vào 3 vùng. Người
A giết người B là hành động thú tính, hành động của quá
trình sân hận. Quá trình từ lúc xung đột đến khi kết thúc sự
giết hại, trong Trụ linh của người A sẽ phân tách ra rất nhiều
hạt năng lượng màu xám (u mê), màu đen (hành động giết
hại), màu đỏ máu (tư tưởng oán hận). Từ các hạt đó sẽ phân
tách ra cấu trúc Tuệ linh, phân tách ra não bộ của người A,
tiếp đến là phân tách ra những hạt năng lượng y hệt hạt gốc
bắn vào Trụ linh người B và tiếp tục phân tách những hạt
năng lượng y hệt hạt gốc bắn vào Vũ trụ, nơi chứa đựng
những hạt năng lượng có sóng điện âm (tiêu cực). Những hạt
năng lượng được bắn vào Vũ trụ và Trụ linh của người B đều
là bản sao của những hạt năng lượng gốc được phân tách
trong Trụ linh của người A. Người B bị giết chết sẽ phân tách
ra hạt năng lượng đỏ máu, đó là năng lượng oán hận. Hạt
năng lượng oán hận này sẽ phân tách làm 3, một hạt lưu giữ
ở Trụ linh của người B, một hạt bắn vào Vũ trụ, một hạt bắn
vào Trụ linh người A. Tất cả các hạt năng lượng của cả người
A và B đều chứa đựng sóng rung động, nội dung, ý nghĩ, hình
ảnh của vụ giết hại đó. Đây có thể coi là tang chứng, vật
chứng trong Quy luật Nhân quả được vận hành bởi cơ chế
phân tách hạt năng lượng. Trong ví dụ này là quá trình phân

52
tách ra các hạt năng lượng tiêu cực, đó là những hạt năng
lượng ác nghiệp.
Ví dụ 2: Người A cứu người B khỏi chết đuối. Khi
người B đang bị đuối nước, sự kêu cứu của người B đã khiến
người A nghe thấy và quyết định xả thân cứu người B. Quá
trình kêu cứu của người B và xả thân cứu người của người A
sẽ tạo ra những hạt năng lượng. Khi hoảng loạn trong cơn
tuyệt vọng của sinh tử và được người A cứu, trong Trụ linh
của người B sẽ phân tách ra hạt năng lượng tích cực tri ân sự
cứu giúp của người A, đó là hạt năng lượng màu vàng của sự
đoàn kết cứu giúp. Hạt năng lượng này sẽ phân tách một hạt
vào não bộ của người B để tri ân trong kiếp người đó, một
hạt bắn vào Vũ trụ, một hạt bắn vào Trụ linh của người A.
Người A vì xả thân cứu giúp người B thoát khỏi cái chết nên
cũng phân tách ra hạt năng lượng màu vàng tích cực của sự
đoàn kết cứu giúp trong Trụ linh, từ Trụ linh phân tách một
hạt ra não bộ, một hạt được phân tách bắn vào Vũ trụ, một
hạt được phân tách bắn vào Trụ linh của người B. Tất cả các
hạt năng lượng này đều có sóng rung động, nội dung, hình
ảnh, ý nghĩ của quá trình sự việc cứu người và tri ân. Đây
chính là tang chứng của Quy luật Nhân quả bởi cơ chế phân
tách hạt năng lượng, đây là phân tách hạt năng lượng thiện
phước.
Ví dụ 3: Người A thuyết giảng Quy luật Nhân quả và
hai Chân lý tới người B. Hai Chân lý và Quy luật Nhân quả là
vô lượng mã sóng trí tuệ cấu tạo thành ánh sáng dẫn đường
tu luyện cho chúng sinh nơi nhân gian của Tuệ linh và con
người, nên khi người A thuyết cho người B, từ Trụ linh của
người A sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng siêu vàng óng
ánh, siêu hạt xanh ngọc lưu ly. Các siêu hạt năng lượng được
53
phân tách ra bởi người A thấu hiểu hai Chân lý, Quy luật
Nhân quả. Khi người A thuyết giảng, vô số hạt được phân
tách từ Trụ linh sẽ lưu giữ trong Trụ linh của người A, vô số
hạt đó sẽ phân tách ra các bản sao của hạt và lưu giữ ở não
bộ của người A tạo thành kinh nghiệm thuyết pháp. Tiếp đến,
từ những hạt trong Trụ linh người A sẽ lại phân tách ra vô số
hạt giống các hạt gốc, những hạt này bắn và lưu giữ ở Vũ trụ,
bắn vào Trụ linh người B. Lúc này, tùy thuộc người B tin và
đón nhận bao nhiêu thì bấy nhiêu hạt sẽ được lưu giữ ở Trụ
linh của người B, nếu người B không tin thì sẽ không có hạt
nào được lưu giữ, nó sẽ tan biến.
Trong 3 ví dụ về cơ chế phân tách hạt năng lượng vào
3 vùng của Quy luật Nhân quả, ta thấy hành động cứu giúp
bởi chân tay sẽ tạo ra số lượng ít hạt năng lượng và nó không
phải siêu hạt năng lượng. Những hành động thuyết giảng, chỉ
dẫn bởi vô số tri thức mới tạo ra vô số hạt năng lượng, và đó
là các siêu hạt được tạo ra dựa trên trí tuệ thấu hiểu của
người thuyết pháp. Đây chính là sự kỳ diệu của Quy luật
Nhân quả.

3. Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật


Nhân quả của con người

3.1. Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy


luật Nhân quả của con người vừa là một Quy
luật Nhân quả hoàn chỉnh, vừa chỉ là Quả trong
Quy luật Nhân quả

54
Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân
quả của con người là một vòng, một quy trình Quy luật Nhân
quả hoàn chỉnh. Nó là quy trình hoàn chỉnh bởi: nó là quá
trình mà các chỉnh thể tương tác với nhau, rung động với
nhau, sinh khởi tư tưởng, gieo duyên và hành động để các
hạt năng lượng đã được tạo ra ở quá trình phân tách trước
đó liên kết mã sóng trí tuệ lại với nhau; quá trình liên kết mã
sóng trí tuệ giữa các hạt năng lượng với nhau chính là quá
trình truyền tải sóng điện chứa đựng sóng rung động, trạng
thái cảm xúc, ý nghĩ, hình ảnh, nội dung chứa đựng trong các
hạt năng lượng đã được phân tách trước đó. Việc liên kết đó
chính là toàn bộ diễn biến của một quy trình Quy luật Nhân
quả của hạt năng lượng đã được tạo ra bởi cơ chế phân tách
trước đó. Quá trình liên kết hạt năng lượng đó diễn ra như
sau: khi chỉnh thể con người đã phân tách ra các hạt năng
lượng, đến một thời điểm sau khi phân tách (có thể trong
một kiếp người, hoặc sau đó một cho đến nhiều kiếp người),
người đó tương tác với những chỉnh thể khác. Quá trình
tương tác có những rung động giống với sóng rung động
trong hạt năng lượng đã được phân tách trước đó, việc rung
động đó đã kích hoạt sóng rung động trong chính hạt năng
lượng đã phân tách lưu giữ ở Tuệ linh. Khi hạt năng lượng ở
Tuệ linh rung động, nó sẽ kích thích hạt năng lượng trong Vũ
trụ đã được phân tách trước đó cũng rung động theo, hạt từ
trong Vũ trụ đó sẽ di chuyển vào Trụ linh để hợp nhất với hạt
gốc trong Trụ linh. Có thể hạt năng lượng của những người
mà trước đó cũng được nhận bởi sự phân tách làm thành 3
vùng (có thể là hạt tri ân hoặc hạt oán hận) sẽ bắt được sóng
rung động và di chuyển vào Trụ linh để hợp nhất, đó là liên
kết dây của hạt năng lượng. Khi hợp nhất các hạt năng lượng
55
đã được phân tách trước đó từ 3 vùng, Trụ linh sẽ chiếu lại
diễn biến của quá khứ tạo ra các hạt đó. Việc liên kết và chiếu
ra như vậy sẽ chi phối toàn bộ tâm trí của người đó, khiến
người đó khó có thể kiểm soát được nếu đó là các hạt năng
lượng tiêu cực, và sẽ giúp cho người đó đạt được những
thành tựu kỳ diệu nếu đó là những hạt năng lượng tích cực
và các siêu hạt năng lượng. Việc liên kết các hạt năng lượng
sẽ lại tiếp diễn cho quá trình phân tách tiếp theo. Như vậy,
quá trình tương tác để rung động, sinh khởi, gieo duyên,
hành động đã giúp cho Trụ linh nhận được kết quả là sự liên
kết của các hạt năng lượng đã được phân tách từ trước để
hợp lại tạo thành một trải nghiệm khổ đau hay an vui, hay
hạnh phúc hay chướng ngại mới. Đó chính là một quy trình
Quy luật Nhân quả hoàn chỉnh của hạt năng lượng.
Ví dụ: Tôi giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả cho
một người. Khi tôi giảng xong cũng là lúc những hạt năng
lượng được phân tách và bắn vào 3 vùng lưu giữ. Đến một
ngày nào đó, tôi gặp một người khác, quá trình trò chuyện,
tôi thấy người này chú ý và thích thú khi tôi gieo duyên nói
về Nhân quả. Quá trình tôi tương tác rung động về Quy luật
Nhân quả với người đó sẽ khiến các hạt năng lượng được tạo
ra từ lần trước tôi giảng về Quy luật Nhân quả và hai Chân lý
rung động theo, từ Trụ linh tôi sẽ rung động trước, kế tiếp là
các hạt trong Vũ trụ cũng rung động, chúng sẽ liên kết lại và
chiếu đến não bộ tôi những hình ảnh tôi đã từng giảng về hai
Chân lý và Quy luật Nhân quả. Khi đó tôi được hội tụ sức
mạnh bởi kinh nghiệm từ những hạt năng lượng đã được
phân tách trước đó. Khi chúng liên kết lại sẽ giúp cho người
nghe có được niềm tin bởi sự thuyết phục đúng từ tôi. Đây
chính là thành tựu, kết quả mới dựa trên quá trình phân tách
56
trước đó. Nó là cả quá trình Quy luật Nhân quả từ rung động,
sinh khởi gieo duyên, hành động để tạo ra sự liên kết của hạt
năng lượng là thành quả mới.
Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân
quả của con người là Quả trong Quy luật Nhân quả, đó là một
nửa của quy trình Quy luật Nhân quả. Đó là những kết quả
của toàn bộ quá trình rung động sinh khởi, gieo duyên, hành
động để phân tách trước đó. Quả trong quy trình của Quy
luật Nhân quả chính là kết quả, dù nó là tích cực hay tiêu cực.
Quả là thể hiện sự kết thúc cho một quy trình Quy luật Nhân
quả, đồng thời nó mở ra một vòng quy trình Quy luật Nhân
quả tiếp theo. Cơ chế liên kết hạt năng lượng của Quy luật
Nhân quả là liên kết của những hạt năng lượng đã tạo ra bởi
cơ chế phân tách trước đó, bởi nó có cùng mã sóng rung
động. Nó không liên kết với những hạt năng lượng không
cùng mã sóng. Điều này cho thấy, cơ chế liên kết là kết quả
hợp nhất của các hạt năng lượng được tạo ra bởi cơ chế phân
tách trong Quy luật Nhân quả.
Ví dụ: Tôi giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả cho
một người. Khi tôi giảng, người đó chưa tin ngay, nhưng
những thông tin tôi giảng đã được Trụ linh của họ hấp thụ.
Sau quá trình trải nghiệm cuộc sống, người đó tin và hành
theo hai Chân lý và giáo lý, người đó lại giảng cho người
khác. Lúc này, Trụ linh họ thông qua thông tin đã được lưu
giữ sẽ liên kết với hạt năng lượng tôi đã bắn vào Vũ trụ khi
tôi giảng cho họ trước kia. Do đó, họ có kinh nghiệm giảng
bởi những thông tin mà họ đã hấp thụ từ tôi, cũng như
những hạt năng lượng của tôi trong Vũ trụ liên kết về họ. Đây
chính là thành quả của tôi cũng như của người đó sau quá
trình người đó sinh khởi rung động, gieo duyên, hành động
57
giảng cho người khác để nhận được kết quả là sự liên kết hạt
năng lượng của tôi và người đó. Khi người đó giảng cho
người khác thì lại tiếp diễn luôn cơ chế phân tách hạt năng
lượng vào 3 vùng. Như vậy, cơ chế liên kết xong sẽ xuất hiện
phân tách, phân tách xong sẽ xuất hiện liên kết lại, cứ thế tạo
thành vòng tròn Quy luật Nhân quả vô tận. Và tất nhiên, đây
là kết quả tích cực, là thành quả ngọt ngào mà tôi đã nhận
được bởi quá trình tôi phân tách hạt trước đó đã được liên
kết lại với nhau và nó lại tiếp tục phân tách bởi chính người
đã được tôi thuyết giảng.

3.2. Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy


luật Nhân quả của con người chính là cơ chế
liên kết hạt năng lượng từ 3 vùng
Cơ chế liên kết hạt năng lượng trong Quy luật Nhân
quả chính là quá trình liên kết, hợp nhất các hạt năng lượng
đã được phân tách ở quá trình phân tách (đã bắn và lưu giữ
ở 3 vùng).
Điều kiện để xảy ra cơ chế liên kết hạt năng lượng
trong Quy luật Nhân quả:
- Phải đã diễn ra quá trình phân tách hạt năng lượng
trước đó, tức là phải có hạt năng lượng từ 3 vùng để liên kết.
- Phải có quá trình tương tác, rung động, gieo duyên,
hành động để các hạt năng lượng đã phân tách từ 3 vùng liên
kết lại, hợp nhất lại với nhau.
Quá trình liên kết hạt năng lượng trong quy trình Quy
luật Nhân quả diễn ra như sau: Khi chỉnh thể con người
tương tác với các giả tướng sẽ tạo ra sóng rung động trong
Trụ linh. Nếu trong Trụ linh cũng có sợi mã sóng trí tuệ trùng
58
với sóng rung động mới đang diễn ra, sợi mã sóng trí tuệ
trong hạt đó sẽ nhận diện và được kích hoạt. Hạt năng lượng
đó sẽ rung động mạnh, kích hoạt hạt năng lượng trong Vũ trụ
và hạt năng lượng nó đã phân tách vào các giả tướng khác
cùng rung động theo. Cả 3 hạt ở 3 vùng cùng rung động là vì
nó giống nhau, nó đều từ Trụ linh của người đó đã phân tách
trước đó. Tiếp theo, người đó sinh khởi tư tưởng gieo duyên
thì 3 hạt năng lượng sẽ hợp nhất tại Trụ linh và chi phối
hành động của người đó. Nếu đó là những hạt năng lượng
tiêu cực thì người đó khó mà kiểm soát được sự chi phối của
liên kết hạt, nó sẽ làm cho người đó tiếp tục gieo duyên và
hành động tiêu cực. Nếu là liên kết của các hạt năng lượng
tích cực, sẽ là thúc đẩy cho những gieo duyên và hành động
tích cực tiếp theo. Quá trình gieo duyên, hành động tiếp theo
chính là vòng tròn Quy luật Nhân quả mới được vận hành và
hình thành.
Những ví dụ về cơ chế liên kết hạt năng lượng trong
Quy luật Nhân quả:
Ví dụ 1: Kiếp trước do xung đột lợi ích mà người A đã
giết chết người B, người A đã phân tách ra các hạt năng
lượng tiêu cực là xám, đen, đỏ máu và đón nhận cả năng
lượng đỏ máu oán hận của người bị giết. Kiếp này, trong cuộc
sống lại có xung đột lợi ích, việc xung đột lợi ích chính là sóng
rung động trùng với mã sóng rung động trong các hạt năng
lượng đã tạo ra ở kiếp quá khứ. Khi đó, lần lượt các hạt năng
lượng màu xám, màu đen, màu đỏ máu trong Trụ linh người
A rung động; tiếp đến những hạt năng lượng xám, đen, đỏ
máu trong Vũ trụ cũng rung động và truyền vào Trụ linh
người A; những hạt năng lượng oán hận của người bị giết
kiếp trước (được phân tách vào không gian Vũ trụ) cũng bắt
59
được sóng rung động và di chuyển vào Trụ linh người A.
Người A sẽ bị liên kết của các hạt năng lượng tiêu cực chi
phối, dẫn đến mất kiểm soát và trở nên sân hận. Từ việc sân
hận đó người A có thể vi phạm pháp luật mà bị xử tội tử hình,
hay tù chung thân, có thể là tai nạn mà chết, có thể bị người
khác giết hại. Thật khó để người A hóa giải và chuyển hóa
những hạt năng lượng tiêu cực ác nghiệp đó. Để làm được,
người A phải thấu hiểu và vận hành được cơ chế Vòng tròn
sản sinh năng lượng.
Ví dụ 2: Người A kiếp trước cứu người chết đuối, kiếp
này được người khác cứu khi gặp nạn (có thể cũng là bị đuối
nước hoặc tai nạn nào đó). Khi người A kiếp này gặp nạn, sự
hoảng sợ bởi lúc sinh tử khiến người A kêu cứu. Khi đó từ
Trụ linh người A sẽ rung động mã sóng trí tuệ và kích hoạt
những hạt năng lượng đã từng xả thân cứu người trong Trụ
linh rung động. Sự rung động đó sẽ kích thích các hạt trong
Vũ trụ mà người A phân tách ra do cứu người kiếp trước
rung động, kích thích hạt năng lượng tri ân của người được
cứu kiếp trước cũng rung động theo, các hạt năng lượng đó
sẽ di chuyển vào Trụ linh của người A đang kêu cứu. Vì đó là
những hạt năng lượng tích cực mang sóng điện dương nên
khi đó nó sẽ liên kết đến với những con người có sự tri ân sự
cứu giúp họ đã nhận ở các kiếp quá khứ hoặc những người
nghĩa hiệp. Những người đó sẽ bắt được tín hiệu kêu cứu và
họ xả thân cứu giúp người A. Đây chính là kết quả thiện
nghiệp được nhận lại do kiếp trước đã gieo những duyên cứu
giúp người khác. Nói đúng theo cơ chế, chính là liên kết của
những hạt năng lượng tích cực sẽ hóa giải những nguy hiểm
bởi mã sóng rung động tương đồng và trùng nhau. Đó là

60
thành tựu kế thừa dựa trên việc phân tách ra các hạt năng
lượng tốt trước đó.
Ví dụ 3: Kiếp trước tôi thuyết giảng hai Chân lý và Quy
luật Nhân quả nên đã phân tách được vô số siêu hạt năng
lượng và được bắn, lưu giữ ở 3 vùng. Kiếp này, tôi lại là
người thuyết giảng hai Chân lý và Quy luật Nhân quả. Khi tôi
thuyết giảng, gặp từng trường hợp khác nhau, sẽ tạo ra các
dạng rung động khác nhau. Vì những rung động đó trùng hợp
với các rung động của các hạt năng lượng đã được phân tách
từ kiếp quá khứ, nên sẽ khiến các hạt năng lượng được lưu
giữ ở 3 vùng liên kết hợp nhất lại với nhau. Khi đó tôi có trí
tuệ, hình ảnh, nội dung đã từng thuyết ở kiếp quá khứ do sự
rung động tương tác giống nhau, tôi sẽ thuyết giảng được tất
cả những điều mà người bình thường phải tu học cả đời,
thậm chí nhiều đời cũng không thể làm được. Quá trình tôi
thuyết giảng kiếp này, sẽ được vô số các siêu hạt trong quá
khứ ở 3 vùng liên kết về hợp nhất để bảo vệ tôi vượt qua các
chướng ngại, nguy hiểm, thử thách của một kiếp người dễ
dàng và hiệu quả; đồng thời giúp tôi có được thành tựu kế
thừa dựa trên những thành tựu đã đạt được ở kiếp quá khứ.
Như vậy, cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng
trong Quy luật Nhân quả của con người nó diễn biến theo
dòng thời gian trong hiện kiếp hoặc có thể đến nhiều kiếp.
Việc diễn biến nhanh hay lâu phụ thuộc vào sự rung động do
tương tác của con người với con người và vạn vật, sự việc.
Đặc biệt nó còn phụ thuộc vào sự gieo duyên, sắp xếp cây
Nhân quả của Hội đồng Tuệ linh (để giúp chân tu của các Tuệ
linh nơi nhân gian trải nghiệm, vượt qua các khổ đau,
chướng ngại, thử thách để tổng hòa hết thảy các mã sóng trí
tuệ cấu tạo lại Trụ linh thành bộ lọc năng lượng).
61
Sự kỳ diệu trong Quy luật Nhân quả của con người
chính là sự kết hợp của cơ chế phân tách, liên kết hạt năng
lượng và sự sắp xếp, trợ duyên của Hội đồng Tuệ linh với bộ
quy tắc tu hành, được vận hành một cách tinh tế và kỳ diệu
không thể diễn tả. Chính vì vậy, không có gì là tự nhiên diễn
ra, tất cả đều do Quy luật Nhân quả vận hành dựa trên đại
nguyện của Tuệ linh cũng như sự sắp xếp từ Hội đồng Tuệ
linh.

II. Các hạt năng lượng được hình thành trong


cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả
Cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của con người sẽ
phân tách, tạo ra những loại hạt năng lượng khác nhau, mỗi
loại hạt có đặc tính sóng điện khác nhau, từ đó cấu tạo thành
sự đa dạng cuộc sống của nhân loại và Vũ trụ. Hạt năng
lượng được hình thành trong cơ chế vận hành của Quy luật
Nhân quả gồm có từ hạt đơn (năm nhóm hạt năng lượng
đơn) cho đến siêu hạt năng lượng.

1. Năm nhóm hạt năng lượng đơn

1.1. Nhóm hạt năng lượng tiêu cực


Hạt năng lượng tiêu cực được hình thành dựa trên cơ
chế vận hành của Quy luật Nhân quả chính là kết quả của quá
trình rung động sinh khởi gieo duyên tiêu cực, hành động
tiêu cực. Sinh khởi gieo duyên và hành động tiêu cực chính là
gây tổn hại đến lợi ích của vạn vật, Tuệ linh và con người.

62
Nhóm hạt năng lượng tiêu cực là loại hạt năng lượng
đơn, tức trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ. Trong sợi
mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá trình rung
động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động của các chỉnh
thể phân tách ra nó.
Nhóm hạt năng lượng tiêu cực được chia ra thành 3
nhóm, mỗi nhóm tượng trưng cho sức mạnh sóng điện khác
nhau. Sức mạnh sóng điện trong hạt năng lượng tiêu cực
khác nhau là do mức độ gây tổn hại đến vạn vật, Tuệ linh và
con người khác nhau cấu tạo thành. Hạt năng lượng tiêu cực
bao gồm:

Hình: Hạt năng lượng tiêu cực màu xám

+ Hạt năng lượng tiêu cực màu xám: Hạt năng lượng
tiêu cực màu xám là hạt năng lượng tượng trưng cho sự u mê
của con người, của chỉnh thể. Sự u mê đó là ích kỷ cho bản
63
thân mà gây tổn thương cho Tuệ linh, con người, vạn vật ở
mức nhẹ, tức là chưa gây giết hại muông thú, con người, chỉ
là sự u mê và lan tỏa u mê. Do đó hạt năng lượng tiêu cực
màu xám có sóng điện âm nhẹ, lực và tốc độ quay ngược
chiều kim đồng hồ không mạnh. Trong hạt năng lượng màu
xám có chứa đựng toàn bộ quá trình rung động sinh khởi
gieo duyên, hành động u mê.

Hình: Hạt năng lượng tiêu cực màu đen

+ Hạt năng lượng tiêu cực màu đen: Hạt năng lượng
tiêu cực màu đen là hạt năng lượng tượng trưng cho hành
động thú tính, đó là những hành động giết hại muông thú,
giết hại con người, hành động gây tổn thương bốn hình
tướng Đạo, gây tổn thương đến vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và
con người. Hạt năng lượng tiêu cực màu đen có sức mạnh
hơn hạt năng lượng tiêu cực màu xám. Trong hạt màu đen
64
vừa kế thừa sự u mê như hạt màu xám và nó lại phát triển
thành hành động gây tổn hại bốn hình tướng Đạo, tổn hại
đến Tuệ linh và con người. Hạt năng lượng tiêu cực màu đen
có sóng điện âm mạnh, quay ngược chiều kim đồng hồ với
tốc độ lớn và mạnh, trong hạt chứa đựng toàn bộ quá trình
rung động sinh khởi gieo duyên, hành động gây tổn hại bốn
hình tướng Đạo và Tuệ linh, con người của chỉnh thể con
người phân tách ra nó.

Hình: Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu

+ Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu: Hạt năng


lượng tiêu cực màu đỏ máu là hạt năng lượng tượng trưng
cho hệ tư tưởng tiêu cực và hành động gây tổn hại nghiêm
trọng đến bốn hình tướng Đạo, đó là tư tưởng đi ngược Quy
luật Nhân quả, đi ngược quy luật tự nhiên, tư tưởng cầu
cúng, tụng niệm để được hưởng bình an, hưởng cực lạc, được
65
vãng sinh, được tài lộc, được giải hạn, và những tư tưởng phá
vỡ đánh hỏng bốn hình tướng Đạo. Tư tưởng tiêu cực và lan
tỏa nó chính là những hành động gây tổn hại nghiêm trọng
đến vạn vật, Tuệ linh và con người. Hạt năng lượng đỏ máu
có sức mạnh gấp bội lần so với hạt năng lượng màu đen và
màu xám. Hạt năng lượng đỏ máu là kết quả của quá trình
sinh khởi rung động u mê tạo thành hệ tư tưởng tiêu cực,
dẫn đến hành động tiêu cực với kết quả là chứa đựng sân hận
trong hạt. Hạt năng lượng tiêu cực màu đỏ máu có sóng điện
âm cực mạnh, nó quay ngược chiều kim đồng hồ rất mạnh,
trong hạt chứa đựng toàn bộ sóng rung động, sinh khởi hệ tư
tưởng u mê, hành động tiêu cực của chỉnh thể tạo ra nó.
Nhóm hạt năng lượng tiêu cực hay còn được gọi là
năng lượng ác nghiệp. Thông qua cơ chế phân tách và liên
kết của quy trình Quy luật Nhân quả, sức mạnh sóng điện âm
sẽ khống chế tâm trí và khiến cho con người không thể kiểm
soát được ý nghĩ cho đến hành động, đó là sức mạnh huỷ diệt
của năng lượng tiêu cực. Khi đó, con người không hiểu tại
sao cuộc đời họ lại khổ đau cùng cực. Cơ chế vận hành Quy
luật Nhân quả sẽ giải mã cho nhân loại hiểu được tại sao.

1.2. Nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển


Nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển trong Quy
luật Nhân quả của con người là nhóm hạt năng lượng màu
xanh lá, có sóng điện dương mạnh, hạt năng lượng quay
thuận chiều kim đồng hồ. Hạt năng lượng tích cực phát triển
chính là kết quả của quá trình tương tác rung động sinh khởi
tích cực, gieo duyên tích cực, hành động tích cực để phát

66
triển vạn vật, giá trị đạo đức cho nhân loại, Tuệ linh và con
người mà không màng gì đến bản thân.

Hình: Hạt năng lượng tích cực phát triển màu xanh lá

Nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển là loại hạt
năng lượng đơn, tức trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ.
Trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá
trình rung động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động
của các chỉnh thể phân tách ra nó. Hạt năng lượng phát triển
mang tính kích thích sự phát triển tới vạn vật, Tuệ linh và
con người trở nên bền vững. Đây là loại hạt năng lượng thiện
nghiệp.

1.3. Nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa


67
Nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa trong Quy luật
Nhân quả của con người là nhóm hạt năng lượng màu đỏ lửa,
có sóng điện dương rất mạnh, hạt năng lượng quay thuận
chiều kim đồng hồ. Hạt năng lượng tích cực lan tỏa chính là
kết quả của quá trình tương tác rung động sinh khởi tích cực,
gieo duyên tích cực, hành động tích cực để lan tỏa giá trị phát
triển vạn vật, giá trị đạo đức cho nhân loại, Tuệ linh và con
người mà không màng gì đến bản thân. Hạt năng lượng lan
tỏa mang tính rực rỡ, chói lòa, thẳng thắn bởi ánh sáng chân
thật của hạt cũng như sự chân thật, thẳng thắn của con người
phân tách ra nó.
Nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa là loại hạt năng
lượng đơn, trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ. Trong
sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá trình rung
động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động của các chỉnh
thể phân tách ra nó. Đây là loại hạt năng lượng thiện nghiệp.

Hình: Hạt năng lượng tích cực lan tỏa màu đỏ lửa

68
1.4. Nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết
Nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết trong Quy luật
Nhân quả của con người là nhóm hạt năng lượng màu vàng,
có sóng điện dương siêu mạnh, hạt năng lượng quay thuận
chiều kim đồng hồ. Hạt năng lượng tích cực đoàn kết chính là
kết quả của quá trình tương tác rung động sinh khởi tích cực,
gieo duyên tích cực, hành động tích cực để gắn kết tất cả các
chỉnh thể (tiêu cực, phát triển, lan tỏa, chân tâm) cùng đoàn
kết, lan tỏa, các giá trị phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ
linh và con người trong sự không phân biệt. Sự nhẫn nhịn,
chịu thiệt, hy sinh để gắn kết các chỉnh thể con người lại là
đức tính của những con người phân tách ra hạt năng lượng
đoàn kết.

Hình: Hạt năng lượng tích cực đoàn kết màu vàng

69
Nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết là loại hạt
năng lượng đơn, trong hạt chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ.
Trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt sẽ lưu giữ toàn bộ quá
trình rung động, hệ tư tưởng, hình ảnh, ý nghĩ, hành động
của các chỉnh thể phân tách ra nó. Đây là loại hạt năng lượng
thiện nghiệp.

1.5. Nhóm hạt năng lượng tích cực chân tâm

Hình: Hạt năng lượng tích cực chân tâm màu trắng sáng

Nhóm hạt năng lượng tích cực chân tâm trong Quy luật
Nhân quả khác với năng lượng chân tâm ban đầu. Nhóm hạt
này là kết quả của quá trình rung động sinh khởi gieo duyên,
hành động tích cực phát triển, lan tỏa, đoàn kết tạo ra các hạt

70
dương cho đến các siêu hạt. Khi các hạt năng lượng tích cực
và siêu hạt được hình thành thì cũng phân tách ra hạt năng
lượng tích cực chân tâm. Hạt năng lượng tích cực chân tâm
này khác với hạt năng lượng chân tâm ban đầu. Hạt năng
lượng chân tâm ban đầu có trạng thái trắng trong, còn hạt
năng lượng chân tâm tích cực có trạng thái là ánh sáng trắng
chói lòa từ nhẹ đến sáng rực rỡ.
Các hạt năng lượng tích cực trong năm nhóm hạt năng
lượng được tạo ra từ cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả
là kết quả của toàn bộ quá trình rung động sinh khởi, gieo
duyên, hành động mang tính phạm vi nhỏ lẻ cho đến rộng
lớn. Tuy nhiên, nó chưa đạt đến hạt năng lượng của sự thấu
hiểu về Chân lý Vạn vật và Giác ngộ, nên nó chưa phải là
những hạt năng lượng kỳ diệu nhất để phát triển bền vững
Vũ trụ, Tuệ linh, con người, nó vẫn là những hạt năng lượng
của thiện nghiệp.

2. Hai siêu hạt năng lượng


Hai siêu hạt năng lượng được phân tách từ cơ chế vận
hành của Quy luật Nhân quả, đó là siêu hạt năng lượng vàng
óng ánh và xanh ngọc lưu ly. Hai siêu hạt năng lượng này đều
có một sợi mã sóng trí tuệ được tôi luyện cấu tạo thành từ vô
số những sợi mã sóng trí tuệ của năm nhóm hạt năng lượng
và năng lượng hoại diệt. Để sản sinh được hai siêu hạt năng
lượng này từ cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả, người tu
luyện phải thấu hai Chân lý, vận hành hai Chân lý cải tạo
được Trụ linh của mình thành bộ lọc năng lượng. Từ bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh mới phân tách ra được hai siêu
hạt năng lượng.

71
Tuệ linh phải tu hành nơi nhân gian rất nhiều kiếp,
thông qua trạng thái cảm xúc từ khổ cùng cực tới an vui cùng
cực nhằm hấp thụ và phân tách ra vô lượng sợi mã sóng trí
tuệ trong năm nhóm hạt năng lượng, kết hợp với năng lượng
hoại diệt để cấu tạo thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.
Khi Trụ linh hình thành được bộ lọc, để phân tách ra
các siêu hạt xanh ngọc lưu ly và vàng óng ánh thì Tuệ linh và
chân tu phải lan tỏa, thuyết giảng hai Chân lý, Quy luật Nhân
quả, giá trị đạo đức, con đường giác ngộ viên mãn tới hết
thảy Tuệ linh và con người. Việc thuyết pháp chính là quá
trình sản sinh ra vô số các siêu hạt năng lượng.
Hai siêu hạt năng lượng đều lưu giữ quá trình rung
động sinh khởi, gieo duyên, hành động thuyết giảng của
người phân tách ra nó. Tùy vào trí tuệ giác ngộ và mức độ
thuyết giảng mà người đó sẽ phân tách ra siêu hạt vàng óng
ánh hay xanh ngọc lưu ly. Cả hai siêu hạt đều có sóng điện
âm, dương, trung tính nên chúng có thể quay thuận hay quay
ngược chiều kim đồng hồ theo từng nhiệm vụ chúng làm.
Trong phần “Vòng tròn sản sinh năng lượng” tôi sẽ phân tích
kỹ về cơ chế luyện thành cũng như sản sinh ra hai siêu hạt
này. Đây là loại siêu hạt năng lượng siêu thiện nghiệp.

III. Các dạng phân tách, liên kết hạt năng lượng
trong Quy luật Nhân quả
Các dạng phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy
luật Nhân quả là tính cho một quy trình hoàn chỉnh của Quy
luật Nhân quả. Đó là một quy trình từ sinh khởi rung động
gieo duyên, hành động, cho đến kết quả của các chỉnh thể, các
giả tướng tương tác với nhau. Một quy trình của Quy luật
72
Nhân quả chính là toàn bộ quá trình phân tách và liên kết của
hạt năng lượng.
Các dạng phân tách, liên kết hạt năng lượng trong Quy
luật Nhân quả gồm có:

1. Dạng phân tách, liên kết đơn


Dạng phân tách, liên kết đơn là trong Trụ linh của Tâm
(Tuệ linh) chỉ phân tách ra một hạt năng lượng sau quá trình
hoàn chỉnh một quy trình Quy luật Nhân quả; sau đó từ hạt
đó phân tách ra Tuệ linh một hạt, ra não bộ một hạt, Vũ trụ
một hạt, đối tượng một hạt; sau đó các hạt được phân tách ra
sẽ liên kết với hạt gốc đã được phân tách ở Trụ linh.
Do chỉ có một hạt năng lượng được phân tách từ Trụ
linh của chỉnh thể con người sau một quy trình Quy luật
Nhân quả nên được gọi là dạng phân tách, liên kết đơn trong
Quy luật Nhân quả.
Nhận diện dạng phân tách, liên kết đơn trong quy trình
Quy luật Nhân quả: Đó là mọi sinh khởi gieo duyên, mọi hành
động, cho đến kết quả của chỉnh thể con người mà không
phải là giảng dạy lan tỏa về hệ tư tưởng, về phương pháp, về
tri thức.
Vì không phải là truyền dạy về hệ tư tưởng, về phương
pháp, về tri thức nên sẽ không có sự phân tách, liên kết nhiều
hạt năng lượng trong cùng một quy trình Quy luật Nhân quả.
Trụ linh chỉ phân tách một hạt và hạt đó không có tính liên
kết với các hạt được phân tách ra trước hoặc phân tách ra
sau.
Ví dụ: Ngày hôm nay ta gặp một người tai nạn, ta xả
thân cứu giúp họ. Quá trình sinh khởi rung động gieo duyên
73
cho đến hành động và kết quả đó chỉ giúp ta sinh ra một hạt
năng lượng đoàn kết màu vàng. Ngày mai ta giúp một người
đang đói khát một bữa ăn, quá trình này cũng chỉ phân tách
trong Trụ linh một hạt năng lượng màu vàng. Ngày sau ta
giết một con thú để ăn uống, quá trình này cho ta một hạt
năng lượng màu đen được phân tách và liên kết. Như vậy, các
hạt năng lượng được phân tách ra trong cả 3 quy trình Quy
luật Nhân quả không có liên kết với nhau, nó độc lập, cô đơn
trong mối quan hệ giữa 3 ngày. Tất nhiên là nó không phân
tách ra đa hạt năng lượng trong một quy trình Quy luật Nhân
quả, vì các quy trình trên không phải là truyền dạy về hệ tư
tưởng, về phương pháp, về tri thức.
Dạng phân tách, liên kết đơn chỉ tồn tại ở năm nhóm
hạt năng lượng, bao gồm tiêu cực, chân tâm tích cực, phát
triển, lan tỏa, đoàn kết.

2. Dạng phân tách, liên kết đa hạt


Dạng phân tách, liên kết đa hạt là trong Trụ linh của
Tâm (Tuệ linh) sẽ phân tách ra nhiều hạt năng lượng sau quá
trình hoàn chỉnh một quy trình Quy luật Nhân quả; sau đó từ
nhiều hạt đó phân tách ra Tuệ linh, ra não bộ nhiều hạt, Vũ
trụ nhiều hạt, đối tượng nhiều hạt; sau đó các hạt được phân
tách ra sẽ liên kết với những hạt gốc đã được phân tách ở
Trụ linh.
Do có nhiều hạt năng lượng được phân tách từ Trụ
linh của chỉnh thể con người sau một quy trình Quy luật
Nhân quả nên được gọi là dạng phân tách, liên kết đa hạt
trong Quy luật Nhân quả.

74
Nhận diện dạng phân tách, liên kết đa hạt trong quy
trình Quy luật Nhân quả: Đó là mọi sinh khởi gieo duyên, mọi
hành động đều là truyền dạy, lan tỏa tri thức, hệ tư tưởng,
phương pháp tới những chỉnh thể giả tướng khác.
Ví dụ 1: Một người lãnh đạo đưa ra một quyết định
chiến tranh xâm lược hay đàn áp dân chúng. Quyết định đó
chính là hệ tư tưởng và mệnh lệnh, nó là một quy trình Quy
luật Nhân quả của người ra quyết định. Từ Trụ linh của
người đó sẽ phân tách ra đa hạt (vô số hạt) năng lượng tiêu
cực. Số hạt của của một quy trình Quy luật Nhân quả đó phụ
thuộc vào số lượng người thương vong, tổn thương bởi
quyết định đó.
Ví dụ 2: Một thầy giáo đứng trên một lớp học, giảng
dạy trong một ngày. Một ngày đó, thầy giáo giảng cho một
lớp học với vô số tri thức, phương pháp, giá trị đạo đức. Một
ngày giảng là một quy trình nhân quả mà người thầy giáo đã
thực hiện. Vì nó là hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp, giá trị
đạo đức nên trong Trụ linh thầy giáo đã phân tách ra vô số
hạt năng lượng, và mỗi học sinh cũng nhận được vô số hạt
năng lượng từ thầy giáo.
Như vậy, việc lan tỏa, truyền dạy về hệ tư tưởng, tri
thức, phương pháp sẽ giúp cho Trụ linh phân tách và liên kết
với vô số hạt năng lượng từ 3 vùng (Trụ linh người phân
tách, trong Vũ trụ, người đón nhận) trong một quy trình Quy
luật Nhân quả. Những hạt năng lượng được tạo ra từ cùng
một hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp sẽ liên kết với nhau
trong Trụ linh của người phân tách (bởi nó có cùng trí tuệ
được truyền tải), dù nó được phân tách ở các quy trình Quy
luật Nhân quả khác nhau. Hơn thế nữa, nếu những tri thức
đó, hệ tư tưởng đó, phương pháp đó được những người tiếp
75
nhận lại lan tỏa, truyền dạy đến với những người khác thì nó
sẽ liên kết theo các cấp tiếp nhận. Khi đó nó không dừng lại ở
đa hạt nữa mà chuyển thành liên kết đa cấp đa hạt.
Dạng phân tách, liên kết đa hạt tồn tại ở năm nhóm hạt
năng lượng và tồn tại ở cả các siêu hạt.

3. Dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt


Dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt trong một quy
trình nhân quả bao gồm 2 yếu tố, đó là đa cấp và đa hạt. Cụ
thể như sau:
- Dạng phân tách, liên kết đa hạt là trong Trụ linh của
Tâm (Tuệ linh) sẽ phân tách ra nhiều hạt năng lượng sau quá
trình hoàn chỉnh một quy trình Quy luật Nhân quả; sau đó từ
nhiều hạt đó phân tách ra Tuệ linh, ra não bộ nhiều hạt, Vũ
trụ nhiều hạt, đối tượng nhiều hạt; các hạt được phân tách ra
sẽ liên kết với những hạt gốc đã được phân tách ở Trụ linh.
- Dạng phân tách, liên kết đa cấp là có nhiều giả tướng
con người được đón nhận tri thức, hệ tư tưởng, phương
pháp theo thứ tự từ cấp 1 đến cấp 2, 3, 4… Trong đó, cấp 1 là
người khai sáng, người khai sinh, xây dựng được hệ tư
tưởng, phương pháp, tri thức, ta gọi là A. Cấp 2 là những
người được đón nhận tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp từ
cấp 1 (người A), ta gọi là B, C, D, E… Cấp 3 là những người
đón nhận hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp từ những
người cấp 2, ta gọi là B’, C’, D’, E’… Cấp 4 là những người
được đón nhận tri thức từ những người cấp 3, ta gọi là B”, C”,
D”, E”… Và cứ thế cho đến vô số cấp người nhận phía sau.

76
Như vậy, dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt chính
là dạng phân tách, liên kết đa hạt và có sự tiếp nhận cũng
như truyền dạy đến những người khác.
Nhận diện dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt trong
quy trình Quy luật Nhân quả: Các cấp truyền dạy, lan tỏa hệ
tư tưởng, tri thức, phương pháp cho nhau đều phải đúng với
hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp của người khai sinh, khai
sáng ra nó.
Trong dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt này,
người cấp 1 (người khai sáng, khai sinh ra hệ tư tưởng, tri
thức, phương pháp) truyền dạy cho một đến nhiều người cấp
2 bởi hệ thống tri thức, hệ tư tưởng, phương pháp mà người
cấp 1 khai sinh ra. Khi đó từ Trụ linh người cấp 1 sẽ phân
tách ra vô số hạt năng lượng (có thể là hạt đơn hoặc siêu hạt)
ra Trụ linh, phân tách vô số hạt năng lượng đến những người
cấp 2, phân tách vô số hạt năng lượng vào Vũ trụ, sau đó sẽ
liên kết giữa vô số hạt năng lượng từ Trụ linh người cấp 1
với năng lượng đã phân tách ở Vũ trụ và những người cấp 2.
Khi một hoặc nhiều người cấp 2 truyền dạy những hệ tư
tưởng, tri thức, phương pháp đã học được từ người cấp 1
đến với một hay nhiều người cấp 3, từ Trụ linh người cấp 2
sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng trong Trụ linh, vô số hạt
vào Vũ trụ, vô số hạt vào người cấp 3, những hạt đó sẽ liên
kết từ Trụ linh người cấp 2 đến với người cấp 1, liên kết đến
với những người cấp 3 và cả vùng lưu giữ trong Vũ trụ.
Những người cấp 3 lại truyền dạy hệ tư tưởng, phương pháp,
tri thức đó đến một hay nhiều người ở cấp 4. Khi đó, Trụ linh
của những người cấp 3 sẽ phân tách ra vô số hạt và nó sẽ liên
kết với những người cấp 4, liên kết với những người cấp 2 và
cấp 1 và vùng lưu giữ trong Vũ trụ. Cứ như vậy, những cấp
77
sau sau khi được học những tri thức, hệ tư tưởng, phương
pháp sẽ phân tách vô số hạt năng lượng và nó sẽ liên kết đến
với tất cả các cấp trên cho đến người khai sinh, liên kết vào
cả Vũ trụ. Do đó, đây gọi là liên kết đa cấp đa hạt.
Mỗi một cấp trong dạng phân tách, liên kết đa cấp đa
hạt mà truyền dạy cho nhiều con người thì số hạt năng lượng
trong Trụ linh được phân tách ra là vô số và sẽ tạo thành mối
liên kết đa điểm vĩ đại như liên kết của mạng nhện. Khi đó,
người khai sáng là tâm vòng tròn đầu tiên trong cùng của
mạng nhện, các cấp tiếp theo sẽ là những vòng tròn bên
ngoài. Những vòng tròn bên ngoài sẽ có nhiều điểm, tức là có
vô số người được tiếp nhận tri thức, hệ tư tưởng, phương
pháp.
Dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt này gồm có cả
hạt trong năm nhóm năng lượng và các siêu hạt năng lượng.
Có hai trường hợp phân tách, liên kết đa cấp đa hạt:
- Phân tách, liên kết đa cấp đa hạt theo hướng hoại
diệt: đó là khai sinh ra và truyền dạy hệ tư tưởng, tri thức,
phương pháp tiêu cực để hình thành và liên kết các hạt năng
lượng xám, đen, đỏ máu. Nếu tạo ra vô số hạt năng lượng
tiêu cực chính là đang đánh vỡ cấu trúc bản thể Linh hồn,
Tuệ linh, vì đa âm sẽ khiến năng lượng hoại diệt di chuyển
vào và làm phân rã Trụ linh, Tuệ linh. Đó là con đường đi đến
hoại diệt nhanh nhất. Cụ thể, những người phát động chiến
tranh, truyền bá mê tín dị đoan, truyền bá cầu cúng tụng
niệm đi ngược Quy luật Nhân quả sẽ là nhanh hoại diệt bởi
họ đang tạo ra và đang vận hành dạng phân tách, liên kết đa
cấp đa hạt tiêu cực.
- Phân tách, liên kết đa cấp đa hạt theo hướng cấu tạo
thành bộ lọc năng lượng bất tử của Tuệ linh: đó là khai sinh
78
ra và truyền dạy hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp tích cực
để hình thành và liên kết các hạt năng lượng tích cực, các
siêu hạt năng lượng. Nếu tạo ra vô số các hạt năng lượng tích
cực và siêu hạt năng lượng chính là con đường cấu tạo Trụ
linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng, là bất tử của Tuệ
linh. Khi đó Tuệ linh sẽ vận hành được cả năng lượng tiêu
cực và năng lượng hoại diệt để cấu tạo vạn vật, Vũ trụ trở
nên bền vững. Cụ thể, đó là người khai sáng, những người
cùng truyền dạy hệ tư tưởng, phương pháp, tri thức giác ngộ
đúng dựa trên cơ chế vận hành của vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ, Tuệ linh và con người.
Chỉ cần thực hiện một quy trình Quy luật Nhân quả của
dạng phân tách, liên kết đa cấp đa hạt sẽ tạo ra sự phân tách
vô số hạt và liên kết với tất cả các cấp. Do đó, nếu là hệ tư
tưởng, tri thức, phương pháp tiêu cực thì phải dừng lại và
truy tìm hệ tư tưởng, tri thức, phương pháp tích cực để thực
hiện phân tách, liên kết hạt năng lượng tích cực, thì mới có
thể chuyển hóa được những hạt năng lượng tiêu cực đã phân
tách và liên kết trước đó.
Như vậy, thông qua cơ chế vận hành các hạt năng
lượng trong Quy luật Nhân quả, chúng ta sẽ tường tận, thấu
rõ về Quy luật Nhân quả được vận hành ra sao, biết được
dạng phân tách, liên kết nào nhanh đạt được thành tựu tu
hành nơi nhân gian. Chúng ta sẽ hiểu rằng, chính mỗi người
mới vận hành cải tạo Quy luật Nhân quả của chính mình
thông qua cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả. Sẽ không
có Tuệ linh nào, Ngài nào, Đấng nào, ai đó thay đổi được Quy
luật Nhân quả của mọi người.
***************

79
80
Bài 5:
Những quy tắc trong
Quy luật Nhân quả của nhân loại


Những quy tắc trong Quy luật Nhân quả của nhân loại
chính là những quy định, những điều luật mà mỗi người tu
hành nơi nhân gian phải tuân thủ để hoàn thành việc cải tạo
Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng. Nó bao gồm
những quy tắc không được phép vi phạm và những quy tắc
phải đạt được.
Những quy tắc gắn liền với bốn hình tướng Đạo đã
được vị Tuệ linh đầu tiên truyền dạy cho con người và
muông thú ở các cuộc tập kết xây dựng nhân loại. Vị Tuệ linh
đầu tiên đã xây dựng được bộ quy tắc Quy luật Nhân quả
hoàn chỉnh cho nhân loại dựa trên hai Chân lý với cơ chế
phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng. Điều này sẽ giúp
cho Tuệ linh và con người tu hành ở nhân gian có khuôn mẫu
đạo đức, con đường soi sáng để nhanh chóng hoàn thành
việc cải tạo Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng.
Việc có những quy tắc không được phép vi phạm và
những quy tắc phải đạt được là điều tuyệt vời, là luật công
bằng cho mỗi Tuệ linh tu hành nơi nhân gian. Nó răn dạy
cũng như thúc đẩy mỗi con người, mỗi Tuệ linh, mỗi muông
thú phải có trách nhiệm, ý thức với những ý nghĩ và hành
động trên con đường tu hành này.

81
Những quy tắc này đều là kết tinh của hai Chân lý với
cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng. Do đó, nó
không thiên vị hay kìm nén bất cứ bản thể Tuệ linh, con
người hay muông thú nào. Nó là luật công bằng cho môi
trường tu hành nơi nhân gian, là chỉ dẫn để các Tuệ linh và
con người nhanh chóng cải tạo Trụ linh của mình thành bộ
lọc năng lượng.

I. Những quy tắc không được phép vi phạm


trong Quy luật Nhân quả của nhân loại
Bộ quy tắc không được phép vi phạm trong quy luật
nhân quả khi con người tương tác với bốn hình tướng Đạo sẽ
giúp cho mỗi con người giải mã và có trí tuệ thấu hiểu về khổ
đau cũng như độc Tâm của mình. Tiếp đến là mỗi người thực
hành kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm trong tất cả các kịch
bản tương tác với bốn hình tướng Đạo. Việc thấu hiểu để
kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm sẽ giúp cho chúng ta
thấu hiểu chính chúng ta cũng như tất cả con người, vạn vật,
Tuệ linh trong quá trình tương tác đó.

1. Hình tướng Đạo lễ


Hình tướng Đạo lễ là mối quan hệ tương tác trong gia
đình, dòng họ, giữa vợ chồng, con cái, anh em, cha mẹ, tổ tiên,
người sống với người đã mất. Đó là:
- Con người không được phép bất hiếu với tổ tiên loài
người: phỉ báng, chửi rủa Thiên Địa, xúc phạm những người
có công xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

82
- Con cháu không được phép bất hiếu với tổ tiên: chửi
rủa, phá mồ mả, đập phá nơi thờ tự và tri ân gia tiên.
- Con cái không được phép bất hiếu, bất nhân với cha
mẹ: chửi rủa, chà đạp, đánh đập, bỏ mặc, giết hại cha mẹ và
người nuôi dưỡng.
- Vợ chồng không được phép bất nghĩa, bất nhân:
ngoại tình, thông dâm, tà dâm, đánh đập, chà đạp nhân phẩm
của nhau, bỏ nhau, giết hại nhau.
- Anh em không được phép bất nghĩa, bất nhân: tranh
giành lợi ích, đánh đập, chà đạp, giết hại nhau.
- Cha mẹ không được phép bất nghĩa, bất nhân với con
cái: bỏ rơi con cái, giết hại con cái, chà đạp đánh đập con cái,
dạy con cái làm điều ác hại người.
- Không được nạo phá thai nhi.
- Không được sống độc thân.
- Không được bỏ bố, bỏ mẹ, bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con cái
để sống cuộc sống ích kỷ.

2. Hình tướng Đạo đời


Hình tướng Đạo đời là đối nhân xử thế, mưu sinh, lao
động sản xuất, tương tác với vạn vật. Cụ thể:
- Không được sát sinh: giết hại muông thú, hành nghề
sát sinh.
- Không được thông dâm, tà dâm: khi đã lập gia đình
và đang chung sống với nhau dưới sự bảo hộ của luật pháp
quốc gia thì không được phản bội lại vợ chồng mà đi lấy
thêm vợ, chồng hoặc thông dâm với người khác; không được

83
hiếp dâm, không được lạm dụng tình cảm của người khác để
thỏa mãn dục vọng.
- Không được chửi rủa, chà đạp nhân phẩm người
khác, không được đánh đập người khác.
- Không được giết hại người khác và giết hại chính
mình.
- Không được buôn người: trẻ em, phụ nữ, nô lệ.
- Không được hành nghề mại dâm.
- Không được dối trên lừa dưới, không được lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Không được trộm cắp, cướp của.
- Không được phép sản xuất buôn bán những thứ gây
tổn hại cho con người và muông thú, không được buôn bán
và sản xuất những thứ mà pháp luật quốc gia không cho
phép.
- Không được lười lao động.
- Người chủ lao động không được bóc lột sức lao động
của người lao động, không được chửi rủa, không được chà
đạp nhân phẩm, không được đánh đập và giết hại người lao
động.

3. Hình tướng Đạo đường


Hình tướng Đạo đường là con đường truyền dạy tri
thức, trí tuệ của người thầy đối với người trò. Cụ thể:
- Học trò không được phép bất kính, bất nhân với thầy:
chửi rủa, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, giết hại thầy.
- Các học trò, các môn sinh không được gây mất đoàn
kết, không được hãm hại nhau, không được chia rẽ xung đột.
84
- Các môn sinh không được nói dối nhau, không được
nói dối thầy.
- Thầy không được phép bất nhân, bất nghĩa với trò:
chửi rủa, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, giết hại trò, dạy trò
làm những điều ác, truyền dạy cho học trò đi ngược nhân
quả vạn vật.
- Thầy không được phép lợi dụng học trò để thỏa mãn
ái dục và tà dâm.
- Không được dùng tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo để
lừa đảo hại người, trục lợi về mình, phá hủy giá trị đạo đức
nhân văn của dân tộc và nhân loại.
- Không được hành nghề mê tín dị đoan, bói toán, cúng
cầu đi ngược Quy luật Nhân quả.
- Không được tuyên truyền những mê tín dị đoan,
những hệ tư tưởng tiêu cực, hệ tư tưởng cúng bái cầu xin, hệ
tư tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.
- Không được kích động, xung đột tôn giáo, không
được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền giáo lý sai khiến cho
con người đánh mất giá trị đạo đức nhân văn tốt, khiến cho
nhân loại u mê mà lừa hại hoại diệt lẫn nhau.

4. Hình tướng Đạo Đế vương


Hình tướng Đạo Đế vương là mối quan hệ giữa những
người lãnh đạo quốc gia và dân chúng đối với quốc gia dân
tộc. Trong đó, dân tộc, lãnh thổ là chủ; vua quan, lãnh đạo và
nhân dân là bề tôi. Cụ thể:
- Vua, quan không được phép bất trung với quốc gia,
dân tộc: kích động chiến tranh, đi chiến tranh xâm lược,

85
tham ô tham nhũng, bán nước hại dân, đàn áp giết hại dân
chúng, để người dân đói nghèo dịch bệnh.
- Người dân không được phép bất trung với quốc gia:
lười lao động, hành nghề mê tín dị đoan, xúi giục kích động
phản động chia rẽ dân tộc, phản bội Tổ quốc, chạy trốn khi
quốc gia lâm nguy.
Những quy tắc không được phép vi phạm trong bốn
biểu hiện hình tướng Đạo chính là luật Nhân quả. Luật Nhân
quả là luật công bằng, là sự phản chiếu lại nghiệp ác của
chúng sinh đã tạo ra. Nếu chúng sinh nào vi phạm vào những
quy tắc của bốn biểu hiện hình tướng Đạo thì sẽ phải chịu
quả nghiệp ở nhiều kiếp sau, thậm chí sẽ phải chịu quả
nghiệp nhãn tiền trước mắt, và sau khi thoát tục cõi trần
nhân sinh sẽ phải đọa vào các cửa ngục ngã quỷ.
Vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng bộ quy tắc không
được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo, còn gọi là
nhân quả là để giúp con người và Tuệ linh nhận diện và triệt
bỏ được độc tâm, cũng như không thực hành con đường
chuyển sinh phân rã hoại diệt. Nếu con người và Tuệ linh vi
phạm vào tức là sản sinh năng lượng âm, đó là con đường
chuyển sinh theo hướng hoại diệt Tuệ linh.

II. Những quy tắc phải đạt được trong Quy luật
Nhân quả của nhân loại
Bộ quy tắc phải làm được trong tương tác của mỗi con
người với bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho mỗi con người mã
hóa và có trí tuệ thấu hiểu về phương pháp diệt khổ cũng
như thiện Tâm của mình. Tiếp đến là mỗi người thực hành
kích hoạt thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với
86
bốn hình tướng Đạo. Việc thấu hiểu để kích hoạt được thiện
Tâm sẽ giúp cho chúng ta chuyển hóa được Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng.

1. Hình tướng Đạo lễ


Hình tướng Đạo lễ là mối quan hệ tương tác trong gia
đình, dòng họ, giữa vợ chồng, con cái, anh em, cha mẹ, tổ tiên,
người sống với người đã mất. Đó là:
- Con người phải thấu hiểu Thiên Địa, thấu hiểu về vị
Tuệ linh đầu tiên là Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và
con người. Do đó phải tri ân đối với Thiên Địa.
- Con cháu phải tưởng nhớ, tri ân với những vị anh
hùng dân tộc đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải
tưởng nhớ và tri ân với cha ông đã hy sinh thân xác để xây
dựng và bảo vệ quốc gia mình đang sinh sống.
- Con cái phải báo hiếu cha mẹ: phụng dưỡng, chăm
sóc, thậm chí hy sinh thân xác để bảo vệ cha mẹ.
- Vợ chồng phải chung thủy tuyệt đối: yêu thương
nhau, hy sinh vì nhau.
- Anh em phải nghĩa tình viên mãn: đoàn kết, chia sẻ,
giúp đỡ nhau.
- Cha mẹ phải trả nghĩa con cái: dạy con cái thành
người tốt, thấu hiểu đạo lý làm người, hy sinh vì con cái.
- Phải kết hôn lập gia đình và chăm sóc gia đình hạnh
phúc để duy trì phát triển nhân loại.

2. Hình tướng Đạo đời

87
Hình tướng Đạo đời là đối nhân xử thế, mưu sinh, lao
động sản xuất, tương tác với vạn vật. Cụ thể:
- Phải thương yêu muông thú, bảo vệ muông thú, cứu
giúp muông thú và vạn vật, bảo vệ thiên nhiên.
- Phải tôn trọng những người khác giới, giữ các mỗi
quan hệ khác giới trong sáng.
- Phải giúp đỡ người khó khăn, khổ đau, hoạn nạn,
nghèo khó.
- Phải hy sinh lợi ích của mình để bảo vệ nhân loại,
mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân loại.
- Phải sống có nghĩa tình, phải giữ chữ tín đối với nhau.
- Phải quan tâm chăm sóc người già, trẻ em, phụ nữ.
- Kinh doanh, sản xuất phải tuân thủ pháp luật quốc
gia và phải mang lại được lợi ích cho mọi người.
- Phải chăm chỉ lao động, hăng say lao động sản xuất.
- Người chủ lao động phải quan tâm, thương yêu và
giúp đỡ người lao động.

3. Hình tướng Đạo đường


Hình tướng Đạo đường là con đường truyền dạy tri
thức, trí tuệ của người thầy đối với người trò. Cụ thể:
- Học trò phải kính trọng thầy dạy.
- Các học trò, các môn sinh phải đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ nhau.
- Các môn sinh phải nói lời thật tâm, phải chia sẻ thật.

88
- Thầy phải yêu thương trò và phải truyền dạy cho trò
thấu hiểu đạo lý làm người để cải tạo thế giới quan tốt đẹp
hơn.
- Thầy phải tôn trọng phẩm hạnh của học trò, tôn trọng
và giữ gìn mối quan hệ trong sáng.
- Phải tôn tạo và bảo tồn những giá trị trong sáng của
tín ngưỡng văn hóa, của các dòng đạo.
- Phải bài trừ mê tín, u mê lạc lối trong các tín ngưỡng,
trong các tôn giáo bởi sự cúng cầu trái Quy luật Nhân quả.
- Phải thấu hiểu Thiên – Địa – Nhân, thấu hiểu Người
Cha vĩ đại của Tuệ linh, con người. Phải thấu hiểu các dòng
đạo đều là con dân của Ngài, do đó nhân loại phải đoàn kết,
đoàn kết tôn giáo để cùng nhau cải tạo thế giới quan tốt đẹp
hơn.
- Thầy và trò phải phổ độ và truyền dạy những tri thức
chuẩn mực của hai Chân lý để nhân loại cùng đón nhận và
thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ linh.

4. Hình tướng Đạo Đế vương


Hình tướng Đạo Đế vương là mối quan hệ giữa những
người lãnh đạo quốc gia và dân chúng đối với quốc gia dân
tộc. Trong đó, dân tộc, lãnh thổ là chủ; vua quan lãnh đạo và
nhân dân là bề tôi. Cụ thể:
- Vua, quan phải xây dựng được quốc thái dân an, đời
sống nhân dân ấm no, hòa bình, hạnh phúc, phải hy sinh lợi
ích của mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ lợi ích của dân
tộc.

89
- Người dân phải đoàn kết dân tộc, hăng say lao động
sản xuất, hy sinh trí tuệ và thân xác để bảo vệ dân tộc, phát
triển quốc gia ngày càng cường thịnh.
- Phải đoàn kết nhân loại, phải bài trừ sự kích động
dân tộc, bài trừ chiến tranh.
Những quy tắc phải làm được trong bốn biểu hiện hình
tướng Đạo chính là luật giác ngộ. Thực hành được luật giác
ngộ chính là thực hành được cơ chế phân tách và liên kết hạt
năng lượng bền vững cho Tâm. Khi Trụ linh phân tách ra vô
số những hạt năng lượng của sự hi sinh và cống hiến thì
trong tương lai, trong các kiếp sau sẽ được liên kết lại để kế
thừa thành tựu và tiếp tục hành trình chuyển sinh bền vững.
Những quy tắc phải làm được trong bốn hình tướng
Đạo chính là để giúp con người và Tuệ linh mã hóa được
thông tin chân thật và kích hoạt thiện Tâm. Nếu vị Tuệ linh
đầu tiên không xây dựng thành bộ quy tắc cũng như gọi là
luật giác ngộ thì con người và Tuệ linh sẽ không thể tìm ra
con đường siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.
Như vậy, bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ
quy tắc phải thực hiện được của con người và Tuệ linh trong
tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo chính
là con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Con đường này được bảo vệ bởi những quy tắc kiểm soát độc
tâm và lực đẩy để nhanh tới đích là những quy tắc phải làm
được. Có thể nói, hai bộ quy tắc này chính là sự cứu giúp Tuệ
linh, con người, đó là động lực để Tuệ linh và con người
nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ tu học ở nhân gian để trở
về bảo vệ và phát triển bền vững trong và ngoài Vũ trụ.

90
III. Những quy tắc phải đạt được trong Quy luật
Nhân quả để đắc Đạo Giác Ngộ viên mãn
Những quy tắc không được phép vi phạm và phải đạt
được gắn liền với bốn biểu hiện hình tướng Đạo chính là
khuôn mẫu đạo đức phải xây dựng được của mỗi con người.
Đó là nền móng cho việc thành đạo, cho việc cải tạo được bộ
lọc năng lượng viên mãn.
Tuy nhiên, cuộc sống nhân sinh đầy rẫy mê lầm với
những quy tắc bị vi phạm và chưa đạt được. Đó chính là rào
cản chướng ngại vô cùng lớn để chúng sinh đạt được tới đích
của con đường tu hành nơi nhân gian.
Vậy làm gì để gỡ đi được những khiếm khuyết và
chướng ngại đó? Đó là thực hiện những quy tắc phải đạt
được trong Quy luật Nhân quả để đắc Đạo Giác Ngộ viên
mãn. Làm được những quy tắc này sẽ hóa giải được những
nghiệp ác đã tạo trong vô lượng kiếp, sẽ giúp cấu tạo lại Trụ
linh trong Tuệ linh một cách kỳ diệu chỉ trong một kiếp
người. Đó là con đường kỳ diệu để thành đạo nhanh nhất, để
trở thành vĩ nhân của nhân loại và Vũ trụ.

Những quy tắc đó bao gồm:


- Dừng ngay lập tức và không tái diễn lại việc vi phạm
những quy tắc không được phép vi phạm trong bốn biểu hiện
hình tướng Đạo.
- Phải tiếp tục thực hiện những quy tắc phải làm được
trong bốn biểu hiện hình tướng Đạo.

91
- Thấu hiểu triệt để hai Chân lý, Quy luật Nhân quả, cơ
chế phân tách liên kết hạt năng lượng, các học thuyết, cơ chế,
bản chất vận hành của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
- Phổ độ đến hết thảy chúng sinh, Tuệ linh và con
người (người đang sống, linh hồn muông thú, linh hồn sau
khi thoát tục, Tuệ linh). Đây là quy tắc vàng, là chìa khóa để
hóa giải hết thảy nghiệp ác vô lượng kiếp, là chìa khóa để đắc
đạo. Việc thuyết giảng về Quy luật Nhân quả, hai Chân lý, Bát
Không Hoàn Đạo, cội nguồn nhân loại, con đường để đắc đạo
đến hết thảy mọi người chính là phân tách, liên kết đa cấp đa
hạt năng lượng trong Quy luật Nhân quả để cấu tạo Trụ linh
nhanh nhất.
Sẽ không có quy tắc nào là chỉ ngồi chơi để chờ đợi
thành quả. Quy tắc phổ độ chính là dùng tri thức, hệ tư
tưởng, phương pháp tu tập tích cực nhất để thúc đẩy lan tỏa
giá trị đạo đức đến nhanh nhất với hết thảy Tuệ linh và con
người. Quy tắc phổ độ sẽ giúp chuyển hóa hết tất cả các hạt
năng lượng của nghiệp ác thành những hạt năng lượng của
phước báo. Do đó, quy tắc này chính là chìa khóa cho việc
hóa giải nghiệp ác và vượt qua được hết tất cả những điều
trong quy tắc phải làm nếu chưa hoàn thành.
Như vậy, những quy tắc trong Quy luật Nhân quả của
nhân loại có 3 cấp độ. Cấp độ thấp nhất là không vi phạm bốn
hình tướng Đạo để không bị nghiệp ác hoại diệt bản thể Tuệ
linh. Cấp độ cao hơn là phải hoàn thành, đạt được những quy
tắc trong bốn hình tướng Đạo để tiến nhanh tới đích con
đường tu hành nơi nhân gian. Cấp độ cao nhất chính là Phổ
độ, đó là truyền dạy tri thức đúng đắn theo quy luật tự nhiên
bởi cơ chế vận hành tới hết thảy Tuệ linh và con người. Cấp
độ cao nhất chính là khó nhất, vì nó đòi hỏi sự hy sinh của
92
bản thể con người đối với chúng sinh, Tuệ linh và con người
lớn nhất. Sự hy sinh cao cả sẽ mang lại thành tựu vô lượng
nhất, đó chính là kết quả của quá trình gieo duyên và hành
động.
***************

93
94
Bài 6:
Các mức độ chuyển hóa trong
Quy luật Nhân quả của nhân loại


Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của
nhân loại được coi là bản đồ, là con đường soi sáng cho Tuệ
linh và con người xác định được phương hướng để chuyển
hóa năng lượng trong Trụ linh của Tuệ linh. Con đường đó,
bản đồ đó chính là kết quả của việc giải mã về hai Chân lý, về
bản chất, cơ chế vận hành, những quy tắc trong Quy luật
Nhân quả của nhân loại.
Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của
nhân loại sẽ chỉ rõ cho Tuệ linh và con người thấy con đường
hoại diệt nhanh nhất; đồng thời cũng chỉ rõ cho Tuệ linh và
con người thấy con đường cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng nhanh nhất, duy nhất.
Chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của con người
chính là thay đổi cấu trúc năng lượng trong Trụ linh. Sự thay
đổi đó có thể là từ cấu trúc năng lượng Trụ linh cân bằng
thành cấu trúc năng lượng bị phân rã và hoại diệt; có thể là
từ cấu trúc năng lượng cân bằng trong Trụ linh chuyển thành
cấu trúc bền vững; cũng có thể từ cấu trúc năng lượng trong
Trụ linh mất cân bằng chuyển thành cân bằng và bền vững
hoặc ngược lại.

95
Có 3 mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của
nhân loại:

I. Mức độ không thiện cũng không ác


Không thiện cũng không ác bao gồm từ ý nghĩ cho tới
hành động đều không thiện và không ác, cụ thể như sau:
- Ý nghĩ không thiện: là trong trí tuệ đã sinh khởi hệ tư
tưởng không hành thiện giúp đỡ ai, không giúp đỡ vạn vật và
muông thú, chỉ biết quan tâm, bồi đắp cho bản thân và gia
đình của mình.
- Hành động không thiện: là những hành động được
thực hiện nhưng không giúp đỡ hay cứu giúp ai, không cứu
giúp vạn vật và muông thú, chỉ là hành động để mang lại lợi
ích cho bản thân và gia đình mình. Hành động không thiện là
biểu hiện và là ngoại hành của hệ tư tưởng không thiện trong
ý nghĩ.
- Ý nghĩ không ác: là trong trí tuệ đã sinh khởi hệ tư
tưởng không hành nghiệp ác với bất cứ ai, với muông thú và
vạn vật; đó là không gây tổn hại đến lợi ích, sinh mạng, giá trị
của người khác, muông thú, vạn vật.
- Hành động không ác: là những hành động được thực
hiện không gây tổn thương hay làm hại đến ai, đến muông
thú và vạn vật. Hành động không ác là biểu hiện và là ngoại
hành của hệ tư tưởng không ác trong ý nghĩ.
Ý nghĩ và hành động không thiện cũng không ác chính
là trạng thái chân tâm ban đầu, nó giống như một cốc nước
tinh khiết, giống như một hạt giống được bảo quản. Tuy
nhiên, cốc nước tinh khiết hay hạt giống đều do cơ chế phân

96
tách, liên kết vận hành nên nó sẽ cạn và không còn tồn tại là
cốc nước nữa, hạt cây thì cũng sẽ chết bởi sự chuyển hóa.
Vô số người lầm tưởng rằng chân tâm trong cảnh giới
không thiện cũng không ác là sự an lạc, là sự tự tại của niết
bàn. Họ lầm tưởng về với chân tâm là tìm được về với bản
tính để thành đạo, họ lại tiếp tục lầm tưởng việc duy trì bản
tính chân tâm đó đến cuối đời là họ sẽ đắc đạo. Thực tế, bản
tính của chân tâm chính là trạng thái ban đầu của sự sống, nó
chưa phải là thành đạo, chưa phải là thành tựu, chưa phải là
chuyển hóa. Chỉ có chân tâm mới ở cảnh giới cứu độ, phổ độ,
hóa độ mới là an lạc, mới là niết bàn, mới là thành đạo. Chân
tâm mới đó phải gắn liền với hành thiện vô lượng.
Trong bản chất của vạn vật, sự việc, hiện tượng thì
năng lượng chân tâm chính là sóng điện trung tính, nó có giá
trị gắn kết để cân bằng giữa năng lượng âm với năng lượng
dương. Năng lượng chân tâm ban đầu sẽ luôn chuyển hóa
theo hai hướng: thành năng lượng tiêu cực hoặc thành năng
lượng tích cực. Nếu thành năng lượng tiêu cực thì nó sẽ hoại
diệt, nếu thành năng lượng tích cực thì nó sẽ tồn tại và nâng
cao thành năng lượng chân tâm mới bền vững và rực sáng
hơn. Vì bản chất năng lượng chân tâm ban đầu luôn phải
chuyển hóa theo hai hướng là tiêu cực hoặc tích cực, nên nếu
cứ duy trì trạng thái năng lượng chân tâm ban đầu thì nó
cũng sẽ tự tiêu và tự diệt.
Xét theo sứ mệnh tu hành ở nhân gian của nhân loại
thì con người phải trải nghiệm hết tất cả các kiếp nạn khổ
đau (năng lượng tiêu cực) và an vui hạnh phúc (năng lượng
tích cực) thì mới chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng, khi đó mới hoàn thành con đường tu hành để trở về
nơi cội nguồn, nơi đã ra đi. Con người phải trải nghiệm để gia
97
tăng trí tuệ mới cấu tạo lại được Trụ linh. Nếu không thiện
cũng không ác tức là không có trải nghiệm, không gia tăng
được trí tuệ để hoàn thành kế hoạch tu hành. Khi đó, con
đường tu hành nơi nhân gian là vô lượng, thậm chí là hoại
diệt bởi không có năng lượng tốt (năng lượng dương) được
phân tách ra để bảo vệ Tuệ linh trước sự tấn công của năng
lượng hoại diệt.
Như vậy, mức độ chuyển hóa của không thiện cũng
không ác trong Quy luật Nhân quả chính là con đường hoại
diệt phía sau. Ban đầu tưởng là an lành tự tại và hạnh phúc
nhỏ bên gia đình, trong nội tại, nhưng sự thật đằng sau là sự
hoại diệt, hoại diệt bởi sự suy kiệt năng lượng trong Tuệ linh,
hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt tấn công vào bản thể Tuệ
linh mà không có đủ năng lượng dương hóa giải.

II. Mức độ chuyển hóa của U mê, Hành mê, Phổ



Mức độ chuyển hóa của U mê, Hành mê, Phổ mê trong
Quy luật Nhân quả của nhân loại chính là từ ý nghĩ kết tinh
thành hệ tư tưởng cho đến hành động u mê bám chấp vào
các giả tướng để dẫn đến việc ích kỷ về bản thân mà gây tổn
thương, tổn hại đến chúng sinh, Tuệ linh, con người, vạn vật,
muông thú. Sự u mê từ chính trí tuệ của bản thể con người
lan tỏa thành u mê tới chúng sinh. Đỉnh cao của u mê chính là
phổ mê, tức là lan tỏa, truyền dạy những u mê ích kỷ lợi mình
mà gây tổn hại Tuệ linh, con người và vạn vật, những ích kỷ
và u mê tham cầu đi ngược Quy luật Nhân quả.
Mức độ chuyển hóa của U mê, Hành mê, Phổ mê trong
Quy luật Nhân quả của nhân loại sẽ khiến cho Trụ linh trong
98
Tuệ linh phân tách ra năng lượng tiêu cực (xám, đen, đỏ
máu) cho đến khi bị phân rã và bản thể Tuệ linh sẽ hoại diệt.

1. Mức độ chuyển hóa của U mê


Mức độ chuyển hóa của U mê là mức độ mà trí tuệ của
Tuệ linh, của chân tu (con người) U mê, không tin, không
thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ, không tin Quy
luật Nhân quả, không thấu hiểu cội nguồn nhân loại, kế
hoạch tu hành nơi nhân gian, từ việc không thấu hiểu dẫn
đến trí tuệ bám định vào các giả tướng để ích kỷ về bản thân
mình, gia đình mình. Ở mức độ chuyển hóa của U mê thì bản
thể con người mới chỉ là tham lam, ích kỷ cho bản thân mình
và gia đình mình bởi trí tuệ u mê không thấu hiểu, chưa dẫn
đến hành động gây tổn thương đến vạn vật, Tuệ linh và con
người, hay nói cách khác là chưa tạo ác nghiệp đối với con
người, vạn vật, muông thú.
Ở mức độ chuyển hóa của U mê, Trụ linh trong Tuệ
linh sẽ phân tách ra hạt năng lượng màu xám. Hạt năng
lượng trong Quy luật Nhân quả màu xám chính là hạt năng
lượng sóng điện âm nhẹ, nó quay ngược chiều kim đồng hồ,
do bản thể Tuệ linh, chân tu có trí tuệ u mê dẫn đến hành
động u mê, để rồi Trụ linh phân tách ra nó.
Mức độ chuyển hóa của U mê tuy có sóng điện âm quay
ngược ở mức nhẹ, nhưng nó lại là nền móng vững chắc khiến
cho Tuệ linh và chân tu chuyển hóa thành mức độ nguy hiểm
hơn là Hành mê và Phổ mê.
Mức độ U mê là trí tuệ bám định vào giả tướng sinh,
lão, bệnh, tử, sinh ly, tử biệt, có, không có, yêu thương, thù
ghét, cầu được, cầu không được, có trí tuệ, không có trí tuệ,
99
hành và không hành; để từ đó không tìm hiểu, nghiên cứu
thấu hiểu chân tướng của các giả tướng đó, không thấu hiểu
duyên nghiệp, không thấu hiểu do duyên mà có các giả tướng
và cũng do duyên mà các giả tướng hoại diệt, nên Tuệ linh và
chân tu chỉ biết hưởng thụ ích kỷ, tìm mọi cách để được
hưởng thụ và cầu sự thỏa mãn từ các giả tướng; từ u mê mà
dẫn tới tham lam cho thân tướng được hưởng thụ các giả
tướng mà không biết giúp đỡ hay sẻ chia tới mọi người.
Như vậy, ở mức độ chuyển hóa của U mê mới chỉ là ý
nghĩ và hành động ích kỷ cho bản thân mình mà chưa hành
động gây tổn thương tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Ở
mức độ này, Trụ linh của Tuệ linh đã sản sinh ra những hạt
năng lượng tiêu cực màu xám. Nếu trong Trụ linh có những
hạt năng lượng tiêu cực đạt đến mức độ nhiều sẽ khiến cho
năng lượng hoại diệt di chuyển vào và kiểm soát toàn bộ
hành vi, ý nghĩ của Tuệ linh. Khi đó, việc Tuệ linh và chân tu
chuyển sang mức Hành mê và Phổ mê là rất nhanh và hết sức
nguy hiểm.
Mức độ chuyển hóa của U mê trong Quy luật Nhân quả
tuy là tiêu cực ở mức nhẹ nhất, nhưng nó là nền móng vững
chắc cho những Hành mê và Phổ mê. Nó là nền móng cho sự
tạo ra vô số ác nghiệp và dẫn đến sự hoại diệt của Tuệ linh
mà bản thể Tuệ linh và chân tu khó mà nhận diện được.

2. Mức độ chuyển hóa của Hành mê


Mức độ chuyển hóa của Hành mê là trí tuệ đã chìm
trong mức độ của U mê và đã chuyển hóa thành hành động
gây tổn hại đến lợi ích, giá trị, tính mạng của vạn vật, con
người, Tuệ linh và muông thú.
100
Hành mê là trí tuệ không thấu hiểu hai Chân lý, không
tin Quy luật Nhân quả, không hiểu cội nguồn tu hành. Điều đó
dẫn đến trí tuệ u mê bám định vào các giả tướng như: sinh,
lão, bệnh, tử, sinh ly, tử biệt, có, không có, yêu thương, thù
ghét, cầu được, cầu không được, có trí tuệ, không có trí tuệ,
hành động, không hành động, để từ đó tham lam cho thân
tướng được hưởng thụ, bồi đắp, chìm đắm, mong cầu các giả
tướng. Khi trí tuệ u mê tham lam cho thân tướng, con người
sẽ có những hành động nhằm thỏa mãn cho thân tướng mà
gây tổn hại đến sinh mệnh, giá trị, lợi ích của con người, Tuệ
linh, vạn vật và muông thú.
Hành mê sẽ khiến cho Trụ linh trong Tuệ linh phân
tách ra nhiều hạt năng lượng tiêu cực màu đen, màu đỏ máu
có sóng điện âm và quay ngược chiều kim đồng hồ rất mạnh.
Khi đó, Trụ linh sẽ bị đa âm rất nhanh, hiện tượng phóng xạ
năng lượng âm diễn ra mạnh, năng lượng hoại diệt di chuyển
rất mạnh và ồ ạt vào Trụ linh. Kết quả là Tuệ linh sẽ mất đi ý
thức và không kiểm soát được quá trình hành động tiêu cực
gây hại tới vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh và con người.
Hành mê chính là những hành động vi phạm vào
những quy tắc không được phép vi phạm trong Quy luật
Nhân quả. Hay nói theo cách khác thì con người vi phạm vào
các quy tắc không được vi phạm trong Quy luật Nhân quả
chính là quá trình Hành mê.
Khi con người đang ở mức Hành mê, nó sẽ khiến cho
con người đó dễ dàng chuyển hóa thành Phổ mê, hoặc do
Hành mê nhiều mà Tuệ linh bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn.

3. Mức độ chuyển hóa của Phổ mê


101
Mức độ chuyển hóa của Phổ mê trong Quy luật Nhân
quả là mức độ nguy hiểm nhất, nhanh nhất khiến cho Trụ
linh và Tuệ linh bị phân rã hoàn toàn. Đó là cái chết vĩnh viễn
cho bản thể Tuệ linh.
Phổ mê là sự U mê của trí tuệ con người đã chuyển hóa
thành đại hệ tư tưởng U mê và truyền dạy, lan tỏa đại hệ tư
tưởng U mê đó đến với toàn bộ nhân loại.
Đại hệ tư tưởng U mê của Phổ mê chính là phủ định đi
Quy luật Nhân quả, thậm chí là vẫn rao giảng về nhân quả
nhưng hành động lại đi ngược Quy luật nhân quả; đó là
truyền bá đại hệ tư tưởng cầu xin, tụng niệm, nghi lễ, đàn lễ
hóa giải nghiệp ác, được trở về các cõi trời nhiệm màu, được
an lạc, được bình an, cầu được tài lộc công danh…; đó là đại
hệ tư tưởng mê tín dị đoan. Đại hệ tư tưởng U mê còn là
những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tôn giáo cực
đoan, tư tưởng lợi ích nhóm…
Từ đại hệ tư tưởng U mê, con người sẽ lan tỏa, truyền
dạy, mị dân, huyễn hoặc huyền bí về các hiện tượng siêu
nhiên, về các Đấng, Phật, Thần thánh, để trục lợi về lợi ích cá
nhân cho đến lợi ích nhóm. Đó chính là Hành mê gây tổn hại
đến sinh mạng, giá trị, lợi ích của Tuệ linh, con người và vạn
vật.
Khi con người đang ở mức độ Phổ mê trong Quy luật
Nhân quả thì từ Trụ linh người đó sẽ phân tách ra đa hạt, đa
cấp hạt năng lượng đỏ máu và đen, xám lưu giữ trong Trụ
linh họ, phân tách vào Vũ trụ, vào đối tượng tiếp nhận. Năng
lượng hoại diệt sẽ di chuyển vào những con người đón nhận
và những người truyền dạy Phổ mê. Họ sẽ bị năng lượng hoại
diệt chi phối, phân rã, kiểm soát đến khi hoại diệt toàn bộ

102
Tuệ linh. Khi họ đang trong quá trình Phổ mê, họ sẽ không
nhận thức được sự u mê cũng như hành động của họ.
Phổ mê bao gồm hệ tư tưởng U mê và Hành động vi
phạm các quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình
tướng Đạo và khiến cho con người không thực hiện được các
quy tắc phải thực hiện trong bốn hình tướng Đạo. Họ vi
phạm giá trị đạo đức, rồi chìm đắm trong nghiệp ác và luân
hồi trong vô lượng để mà hoại diệt.
Người Phổ mê không những khiến họ nhanh hoại diệt
bản thể Tuệ linh của chính họ mà còn khiến cho vô số chúng
sinh, Tuệ linh, con người chìm đắm theo và cũng tiến đến với
sự hoại diệt bản thể Tuệ linh nhanh hơn bao giờ hết.

Như vậy, trong 3 mức độ chuyển hóa năng lượng tiêu


cực trong Quy luật Nhân quả thì Phổ mê là mức độ tạo
nghiệp ác nhanh nhất, nhiều nhất. Người Phổ mê không
những tạo ác nghiệp mà họ còn lan tỏa phương pháp, tri
thức, hệ tư tưởng tạo ác nghiệp đến với vô số chúng sinh,
Tuệ linh và con người. Phổ mê là kết tinh và nâng cao từ nền
móng U mê với sự hung hăng, manh động của Hành mê.
Tuy nhiên, dù Tuệ linh hay con người đang ở mức Phổ
mê, tức đang ở mức độ sắp hoại diệt, đều có thể được cứu và
chuyển hóa lại Trụ linh trở về cân bằng. Muốn làm được điều
này, Tuệ linh và chân tu đó phải nghiên cứu, thấu hiểu hai
Chân lý, cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả để thực
hành các mức độ chuyển hóa thành năng lượng tích cực cho
Trụ linh. Không có gì là không thể làm được, chỉ cần sự
nghiêm túc nghiên cứu và phân tích hai Chân lý với cơ chế

103
vận hành của nó sẽ giúp cho mỗi con người phá được u mê
để đi theo con đường giác ngộ.

III. Mức độ chuyển hóa của Cứu độ, Phổ độ, Hóa
độ
Mức độ Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ trong Quy luật Nhân
quả của nhân loại chính là từ ý nghĩ kết tinh thành đại hệ tư
tưởng cho đến hành động, đó là đại hệ tư tưởng và hành
động giác ngộ. Tức là trí tuệ của bản thể Tuệ linh và con
người có niềm tin cho đến thấu triệt để hai Chân lý, Quy luật
Nhân quả, kế hoạch tu hành, và con đường luyện thành bộ
lọc năng lượng trong Trụ linh. Mức độ Cứu độ, Phổ độ, hóa
độ là đại hệ tư tưởng và hành động luôn vì lợi ích của Tuệ
linh và con người, vạn vật, muông thú mà không màng đến
lợi ích của bản thể mình và gia đình mình.
Mức độ chuyển hóa của Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ trong
Quy luật Nhân quả sẽ giúp cho Trụ linh phân tách ra những
hạt năng lượng tích cực mang sóng điện dương và quay
thuận. Đó là năng lượng phát triển màu xanh lá, năng lượng
lan tỏa màu đỏ lửa, năng lượng đoàn kết màu vàng và năng
lượng chân tâm mới có màu trắng sáng chói. Ngoài ra khi
thực hiện ở mức độ Hóa độ sẽ giúp cho Trụ linh phân tách ra
các siêu hạt năng lượng. Các mức độ chuyển hóa năng lượng
tích cực này chính là con đường, là hướng đi để con người đi
theo và tới đích của việc hóa giải hết tất cả năng lượng
nghiệp ác và gia tăng vô lượng hạt năng lượng phước báo (vô
lượng hạt năng lượng mang sóng điện dương và siêu hạt).

1. Mức độ chuyển hóa của Cứu độ


104
Mức độ chuyển hóa của Cứu độ chính là kết tinh của ý
nghĩ (hệ tư tưởng) và hành động cứu giúp mọi người, Tuệ
linh, vạn vật, muông thú mà không ích kỷ vì bản thân mình.
Để có được mức độ Cứu độ thì Tuệ linh, con người đã
và đang trên hành trình tìm hiểu, có niềm tin và thấu hiểu về
hai Chân lý, về Quy luật Nhân quả để dần diệt đi u mê và
không còn bám chấp vào giả tướng. Tuy nhiên do vẫn chưa
phải là giác ngộ viên mãn nên vẫn còn những bám chấp.
Cứu độ luôn luôn còn bám chấp vào giả tướng yêu
thương, thương cảm, thậm chí là bám chấp vào nhiều giả
tướng khác nữa, nên mức độ Cứu độ không phải là mức độ
ưu việt để cứu giúp Tuệ linh, con người, vạn vật, chúng sinh,
bởi cứu mà chẳng phải là cứu, độ mà chẳng phải là độ. Khi
còn bám chấp thì Tuệ linh và con người đó chưa thể giác ngộ
triệt để về Chân lý Vạn vật, cơ chế vận hành của Quy luật
Nhân quả và bản chất của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ; do
đó dẫn đến việc Cứu độ giống như một hạt mưa rơi vào sa
mạc cát và nắng. Giống như thấy một người đói nghèo, ta
thương cảm và giúp đỡ họ một chút tiền, một vài bữa ăn vậy,
tất nhiên là hành động này sẽ sinh ra các hạt năng lượng tích
cực trong Trụ linh, nhưng nó không phải là phương pháp
hữu hiệu để giúp cho họ thoát nghèo. Nếu hiểu bản chất thì
người nghèo cần phương pháp thoát nghèo mới là cứu độ
thực sự, phương pháp đó chính là Phổ độ.
Những người, Tuệ linh thực hiện mức độ Cứu độ, sẽ
giúp cho Trụ linh trong Tuệ linh phân tách ra những hạt năng
lượng đơn màu vàng, màu đỏ lửa, màu xanh lá và màu chân
tâm trắng chói sáng. Điều này sẽ thúc đẩy Trụ linh của Tuệ
linh trau dồi từng bước chậm chạp cho quá trình cải tạo Trụ
linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng. Vì Cứu độ là cứu
105
giúp con người, Tuệ linh, muông thú, vạn vật khổ đau bởi
tình thương (sự bám chấp vào tình thương), trong khi đó sức
lực, tài lực, trí lực có hạn, không thể cứu giúp được nhiều
người, nhiều muông thú, vạn vật, nên Cứu độ mang tính hạn
chế và không có tính lan tỏa trí tuệ cũng như phương pháp.
Thực hiện Cứu độ chính là không vi phạm vào các quy
tắc không được vi phạm trong Quy luật Nhân quả của bốn
hình tướng Đạo, chính là đang thực hiện các quy tắc phải
thực hiện được trong Quy luật Nhân quả của bốn hình tướng
Đạo.
Như vậy, mức độ chuyển hóa Trụ linh thông qua Cứu
độ là rất tốt, nó giúp cho Tuệ linh và chân tu trau dồi trí tuệ
giác ngộ, trau dồi thiện tâm và sự cống hiến vô lượng. Trụ
linh sẽ phân tách ra được những hạt năng lượng đơn tích
cực, những năng lượng tốt mang sóng điện dương quay
thuận đó sẽ giúp Tuệ linh không bị năng lượng hoại diệt di
chuyển vào phân rã Tuệ linh. Tuy nhiên Cứu độ là mức độ
thấp, và chậm trên con đường cải tạo Trụ linh, nếu đi theo
con đường Cứu độ thì cần vô số kiếp tu hành mới hoàn thành
nhiệm vụ tu hành nơi nhân gian.

2. Mức độ chuyển hóa của Phổ độ


Mức độ chuyển hóa của Phổ độ trong Quy luật Nhân
quả chính là kết tinh của đại hệ tư tưởng giác ngộ và truyền
dạy, lan tỏa đại hệ tư tưởng giác ngộ đó đến với Tuệ linh và
con người. Đó là đại hệ tư tưởng về sự giác ngộ hai Chân lý,
Quy luật Nhân quả và cơ chế vận hành, con đường, phương
pháp đắc bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

106
Phổ độ là quá trình con người đang tiếp nhận, nghiên
cứu, trau dồi trải nghiệm để thấu đạt đến gần triệt để về hai
Chân lý, cơ chế vận hành, con đường, phương pháp đắc đạo,
đắc bộ lọc năng lượng. Như vậy, Phổ độ là quá trình tiếp
nhận và lan tỏa để tiến đến sự thấu hiểu, giác ngộ triệt để về
đại hệ tư tưởng tích cực.
Phổ độ ngược với Phổ mê, Phổ độ chính là tiếp nhận và
lan tỏa, truyền dạy đại hệ tư tưởng hy sinh lợi ích của mình
để mang lại lợi ích cho vạn vật, muông thú, Tuệ linh và con
người. Đó là sự hy sinh lớn lao và toàn diện về trí tuệ, thân
xác và tâm lực cho việc lan tỏa, chỉ dẫn, giúp đỡ nhân loại,
Tuệ linh thấu hiểu và hành theo.
Phổ độ có tính lan tỏa rộng lớn, do đó mức độ chuyển
hóa của phổ độ phải là gắn liền với việc lan tỏa Quy luật Nhân
quả, hai Chân lý, cơ chế vận hành, học thuyết, bản chất, con
đường, phương pháp cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Thực hiện điều này là cực kỳ gian truân và hy sinh vì
Tuệ linh, con người và vạn vật.
Thực hiện ở mức Phổ độ sẽ giúp Trụ linh trong Tuệ
linh phân tách ra đa cấp, đa hạt năng lượng đơn, chủ yếu là
năng lượng chân tâm mới, năng lượng phát triển, năng lượng
đoàn kết, năng lượng lan tỏa. Nếu trong Trụ linh có được bộ
lọc năng lượng thì việc Phổ độ của người đó sẽ phân tách ra
các siêu hạt năng lượng như siêu hạt màu vàng óng ánh, siêu
hạt xanh ngọc lưu ly và các siêu hạt năng lượng khác.
Mức độ chuyển hóa của Phổ độ trong Quy luật Nhân
quả sẽ giúp Trụ linh và Tuệ linh chuyển hóa được năng
lượng tiêu cực sóng điện âm và năng lượng hoại diệt thành
vô số các hạt năng lượng tích cực và siêu năng lượng trong
điều kiện riêng. Phổ độ sẽ làm cho Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ
107
sáng suốt và kiểm soát cũng như vận hành được tất cả các
nhóm năng lượng trong Vũ trụ và cả năng lượng hoại diệt.
Phổ độ có giá trị rất lớn và kỳ diệu trong việc cấu tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhanh nhất. Bởi
phổ độ là lan tỏa đại hệ tư tưởng tích cực nên Trụ linh sẽ
phân tách ra vô lượng hạt năng lượng tốt để hóa giải hết vô
lượng hạt năng lượng nghiệp ác đã tạo ra nếu có. Đại hệ tư
tưởng tích cực chính là đại hệ trí tuệ giác ngộ có vô lượng mã
sóng rung động, nó đủ khả năng rung động và liên kết năng
lượng tiêu cực đã tạo, hấp thụ về để Trụ linh làm nhiệm vụ
chuyển hóa.
Phổ độ mới là cứu độ thực sự, bởi vì để thực hiện được
mức độ phổ độ thì trí tuệ không còn sự bám chấp vào bất cứ
giả tướng nào. Lúc đó người thực hiện phổ độ sẽ hy sinh
Thân – Tâm – Trí mình để lan tỏa và truyền dạy các phương
pháp, đại hệ tư tưởng giác ngộ, con đường giúp cho Tuệ linh
và con người học tập theo để tự cứu mình, cứu Tuệ linh mình
và cứu giúp mọi người, Tuệ linh khác. Đó mới là cứu độ thực
sự, cứu độ được bản thể Tuệ linh và cả thân tướng. Cứu độ
đơn thuần là chỉ cứu về thân tướng mà chưa có phương
pháp, đại hệ tư tưởng, con đường để chỉ dẫn cho họ cứu Tuệ
linh họ nên Cứu độ mà không phải là cứu độ. Bởi thân tướng
được gọi là chân tu, là môi trường cho Tuệ linh hóa thân vào
để tu hành, nên việc cứu thân tướng là cứu cái ngọn, cái lá
chứ chưa phải là cứu tận gốc. Cứu tận gốc chính là Phổ độ để
Tuệ linh được cứu và cải tạo thành bộ lọc năng lượng trong
Trụ linh.
Như vậy, Phổ độ là cảnh giới cao, là con đường gột rửa
hết thảy nghiệp ác nhanh nhất; cũng là con đường nhanh
nhất để đắc Đạo Giác Ngộ, đắc bộ lọc năng lượng; là con
108
đường đắc niết bàn cực lạc duy nhất. Đặc biệt, việc Phổ độ và
trải nghiệm trên hành trình phổ độ sẽ giúp trí tuệ đạt đến sự
giác ngộ triệt để về hai Chân lý, về đại hệ tư tưởng tích cực.
Khi đó, Tuệ linh sẽ có bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Khi
có bộ lọc năng lượng chính là thời điểm Tuệ linh và chân tu
đó thực hiện ở mức hóa độ.

3. Mức độ chuyển hóa của Hóa độ


Hóa độ là sự chuyển hóa, thay đổi cấu trúc bản thể Trụ
linh của Tuệ linh, con người, linh hồn muông thú trở nên bền
vững và thành bộ lọc năng lượng thông qua việc Phổ độ.
Tuệ linh, chân tu thực hiện được mức độ Hóa độ chính
là vị Tuệ linh, chân tu đầu tiên đã giác ngộ tận cùng hai Chân
lý, xây dựng hai Chân lý thành đại hệ tư tưởng giác ngộ,
phương pháp, con đường siêu việt để cấu tạo Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng, để đắc Đạo Giác Ngộ. Tiếp đến là những
Tuệ linh, chân tu sau khi tiếp nhận đại hệ tư tưởng giác ngộ
mà trải qua quá trình Phổ độ đạt được đến sự trau dồi đủ mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh sẽ đắc được bộ lọc năng lượng,
cũng là lúc Tuệ linh, chân tu đó cũng chuyển hóa thành mức
độ Hóa độ.
Mức độ Hóa độ chỉ dành cho Tuệ linh, chân tu đã đắc
được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Khi đó, Tuệ linh sẽ
phân tách ra các siêu hạt năng lượng đa cấp, đa hạt vô lượng,
sẽ vận hành được tất cả năng lượng trong Vũ trụ và năng
lượng hoại diệt để đảm bảo sự hòa bình, cân bằng trong sự
phát triển bền vững cho Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Một người thực hiện mức độ Hóa độ sẽ phải làm cả
nhiệm vụ Cứu độ và Phổ độ tới hết thảy chúng sinh, Tuệ linh,
109
con người, muông thú, vạn vật, năng lượng tiêu cực, năng
lượng hoại diệt trong sự không phân biệt.
Vì mức độ Hóa độ là của những Tuệ linh và chân tu đã
đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh nên họ không còn
phải luân hồi trong nhân gian. Họ đã hoàn thành giác ngộ
viên mãn nên họ chỉ hóa thân xuống nhân gian nếu họ phát
nguyện xuống để hóa độ, dẫn dắt chúng sinh, Tuệ linh, con
người đắc được như họ.
Như vậy, trong 3 mức độ chuyển hóa trong Quy luật
Nhân quả thì mức độ không thiện cũng không ác là con
đường tự diệt trong lâu dài. Mức độ U mê, Hành mê, Phổ mê
là con đường hoại diệt nhanh, trong đó Phổ mê là nhanh hoại
diệt Tuệ linh nhất. Mức độ Cứu độ, Phổ độ, Hóa độ là con
đường để gột rửa hết nghiệp ác, con đường giác ngộ viên
mãn, con đường cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
nhanh nhất. Đặc biệt, hóa độ là con đường chuyển hóa Trụ
linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng kỳ diệu nhất. Tất
nhiên, không dễ gì để có nhân duyên được sinh ra cùng thời
với Tuệ linh có bộ lọc năng lượng hóa thân xuống nhân gian,
bởi tất cả vẫn là kế hoạch và sự trải nghiệm cần đủ kiếp nạn
khổ đau của mỗi bản thể Tuệ linh.
Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả đã
cho nhân loại thấy một sự thật, một bản đồ chỉ dẫn chi tiết
con đường bị hoại diệt, con đường lầm tưởng là an lạc nhưng
lại là con đường hoại diệt phía sau; đặc biệt là con đường với
ánh sáng rực rỡ của hai Chân lý để đắc được bộ lọc năng
lượng, Tuệ linh và chân tu sẽ phải thực hiện Cứu độ, Phổ độ
để đạt đến mức độ cao nhất là Hóa độ. Chỉ khi chuyển hóa
được đến mức độ Hóa độ mới là hoàn thành sứ mệnh tu

110
hành nơi nhân gian. Đó mới là niết bàn cực lạc, là bậc đại giác
ngộ viên mãn.
***************

111
112
Bài 7:
Những câu hỏi về Quy luật Nhân quả
đến với Nhật Sư Hoàn Đạo


Câu hỏi 1:
- Thưa Thầy! Vợ tôi đã mất nhiều năm rồi, con cái vẫn
đang còn nhỏ, sống cảnh nuôi con một mình, nhiều khi tôi
thấy buồn lắm. Tôi đã nhiều lần muốn xây dựng gia đình khi
có những cô gái thương cảm hoàn cảnh của tôi. Tôi có được
biết đến giáo lý và hai Chân lý của Thầy. Vậy, nay tôi mạnh
dạn xin hỏi Thầy tôi nên làm như thế nào về việc lấy vợ để
không bị vi phạm nhân quả?

+ Trả lời:
Cuộc sống là bể khổ nơi nhân gian do bản thể Tuệ linh
đã nguyện như vậy. Việc anh mất vợ sớm cũng là nguyện lực
của chính bản thể Tuệ linh anh và người vợ của anh. Đó là
khổ đau, kiếp nạn dồn nén vào anh, đó là áp lực của một
mình nuôi con, là áp lực của sự cô đơn sớm tối không có tri
kỷ bên cạnh. Đặc biệt, nó là chướng ngại và là ngã ba đường
cho anh lựa chọn trong hành trình kiếp người còn lại nơi
nhân gian này. Tại ngã ba đường, anh tiếp tục đi thẳng để cô
đơn và toàn tâm, toàn tình yêu thương nuôi con cái trưởng
thành đến khi anh già và thoát tục cõi trần nhân gian này;
hoặc con đường rẽ cho anh lựa chọn, đó là tìm một cô gái để

113
xây dựng gia đình mới. Tôi sẽ phân tích kỹ cho anh rõ về hai
con đường này:
Con đường anh lấy vợ lần nữa, đây là con đường
không đưa đến sự giác ngộ, vì anh còn bám chấp vào tình
yêu, vào sắc dục, vào thỏa mãn mà khiến cho con cái thiếu đi
tình cảm, thiếu đi sự quan tâm từ anh. Trên con đường này,
nếu anh lấy một người con gái độc thân (chưa có chồng, hoặc
đã ly hôn chồng về mặt pháp luật) thì anh không vi phạm
những quy tắc không được vi phạm trong Quy luật Nhân quả,
nhưng tất nhiên là chưa đạt sự giác ngộ. Nếu anh lấy cô gái
đã mất chồng (góa chồng) hoặc người đang có chồng mà
chưa ly hôn thì anh đã vi phạm quy tắc không được phép vi
phạm trong Quy luật Nhân quả.
Con đường anh ở vậy nuôi con, đây là con đường khó
khăn, cô đơn, đơn độc và sự hy sinh tất cả vì con cái. Đó là sự
hy sinh để buông đi sắc dục ái tình. Nếu đi con đường này,
anh đã giác ngộ và hoàn thành kế hoạch kiếp này về nội dung
kiếp nạn vợ chồng. Con cái sẽ tri ân anh vì sự hy sinh to lớn
của anh, đồng thời khi con cái trưởng thành, anh có thời gian
thực hành phổ độ để chuyển hóa Trụ linh. Tuệ linh anh sẽ
trau dồi được tình yêu thương con cái, không màng ái tình và
vượt qua được kiếp nạn, chuyển hóa được Trụ linh trở nên
bền vững. Sự hy sinh này chính là điều đã làm được trong
những điều phải làm của Quy luật Nhân quả.
- Xin hỏi Thầy là tại sao lấy người phụ nữ góa chồng lại
là vi phạm Quy luật Nhân quả?
+ Khi người phụ nữ góa chồng, trên pháp lý của luật
dương gian quốc gia thì họ vẫn là dâu con của dòng họ nhà
chồng, trong gia tiên đường âm thì họ vẫn là dâu con của nhà
chồng. Việc lấy người góa chồng phải đảm bảo điều kiện là
114
người phụ nữ đó hoàn thành luật dương gian của quốc gia
đó, đó là phải xin phép chính quyền để được đăng ký kết hôn
với anh, đồng thời xin phép nhà chồng cho phép xuất giá. Khi
hai người chưa làm xong thủ tục pháp luật và xin phép gia
đình nhà chồng của cô ấy mà có phát sinh quan hệ sắc dục thì
chính là đã vi phạm Quy luật Nhân quả, đó là thông dâm. Vợ
anh cũng đã mất nhưng anh và vợ vẫn là vợ chồng cả về âm
và dương, do đó anh phải xin gia tiên và cả pháp luật. Đó mới
là danh chính ngôn thuận cho cuộc hôn nhân mới không vi
phạm Quy luật Nhân quả.
Như vậy, câu hỏi của anh có hai con đường để lựa
chọn. Anh chọn con đường rẽ thì nó không phải là con đường
giác ngộ. Trên con đường đó nếu anh không tuân thủ pháp
luật thì anh dễ vi phạm Quy luật Nhân quả. Nếu anh chọn con
đường đi thẳng thì đó là con đường phải hy sinh, nhưng nó là
giác ngộ. Khi anh chọn con đường giác ngộ thì kiếp sau nếu
có ở nhân gian, anh không còn khổ đau của vợ chồng nữa.
Nếu anh chọn con đường rẽ lấy vợ lần nữa thì kiếp sau anh
vẫn còn khổ đau kiếp nạn của vợ chồng. Đó là sự lựa chọn
của anh, tôi chỉ phân tích theo Quy luật Nhân quả bởi cơ chế
vận hành của nó.

Câu hỏi 2:
- Thưa Thầy! Tôi đã đọc giáo lý của Thầy, nhất là bài
Đạo Vô Đạo, trong đó nói rất nhiều về những điều không
được vi phạm và những điều phải làm được trong bốn hình
tướng Đạo. Hiện tại tôi và chồng đã ly hôn với nhau, nguyên
nhân là anh ấy không chung thuỷ, anh ấy ham mê sắc dục, có
nhiều cô gái bên ngoài và thậm chí có cả con riêng. Tôi đã tha

115
thứ và mong anh trở về bên gia đình, nhưng anh ấy không
chịu và vẫn đam mê sắc dục bên ngoài, chính vì thế mà chúng
tôi đã ly hôn. Tôi đang băn khoăn và muốn hỏi Thầy hai điều
sau khi tôi nghiên cứu giáo lý của Thầy: 1 – Chúng tôi ly hôn
như thế thì vi phạm Quy luật Nhân quả như thế nào? 2 – Giờ
anh ấy cũng già rồi, không lấy ai sau khi chúng tôi ly hôn. Nếu
anh ấy quay lại, tôi đón nhận và chúng tôi đoàn tụ lại thành
một gia đình thì như thế nào?

+ Trả lời:
Không phải tự nhiên mà anh chị thành một cặp vợ
chồng, không phải tự nhiên mà có khổ đau và kiếp nạn, cũng
như không phải tự nhiên mà có ly hôn. Tất cả được bắt
nguồn từ nguyện lực của Tuệ linh chị và anh ấy, và phản
chiếu nghiệp lực của cả hai người ở kiếp trước. Nghiệp và
nguyện tại kiếp này để hai người trải nghiệm kiếp nạn đó, từ
đó tìm ra được sự hóa giải. Việc hai người ly hôn chính là sự
thất bại trên hành trình vượt qua kiếp nạn.
1- Vấn đề ly hôn và cuộc sống của anh chị như sau: nếu
ai là người ngoại tình, thông dâm, tà dâm thì người đó vi
phạm Quy luật Nhân quả, khi chết sẽ phải đọa vào cửa ngục
để chuyển hóa Tâm, kiếp sau sẽ bị chồng hoặc vợ cũng không
chung thuỷ. Trong vấn đề ly hôn của anh chị thì anh ấy đã vi
phạm Quy luật Nhân quả vì anh ấy thông dâm, tà dâm. Chị
không vi phạm Quy luật Nhân quả nhưng chị chưa giác ngộ
được, vì chị chưa thấu hiểu anh ấy, chưa dùng tình yêu và trí
tuệ để cảm hóa, chinh phục cho anh ấy không ham muốn sắc
dục bên ngoài. Vì chị chưa giác ngộ được khổ đau kiếp nạn
của vợ chồng kiếp này, nên kiếp sau chị vẫn gặp phải một
người chồng giống chồng chị ở kiếp này, có lẽ khổ đau sẽ nhẹ
116
hơn. Mục đích để chị hoàn thành sự giác ngộ nội dung vợ
chồng.
2- Tuổi già là lúc mỗi người sẽ thấy cô quạnh, sẽ nhận
thức được những điều đúng sai trong một kiếp người, anh ấy
cũng vậy. Nếu anh ấy quay lại, nếu chị mở rộng tình yêu
thương và vị tha để đón nhận anh ấy thì đó là sự giác ngộ chị
đã đạt được. Như vậy là chị đã hoàn thành kiếp nạn này với
trí tuệ và những năng lượng của thiện tâm và vị tha. Còn anh
ấy, vì những nghiệp ác đã tạo ra nên kiếp sau anh ấy vẫn phải
sống trong cảnh bị bội bạc trong hôn nhân, nó giống với
những gì anh ấy đã làm với chị. Còn chị sẽ có cuộc hôn nhân
hạnh phúc viên mãn ở kiếp sau là do chị đã hy sinh lớn trong
hôn nhân và gia đình ở kiếp này.
- Cảm ơn Thầy đã phân tích và chỉ bảo. Tôi sẽ đón nhận
anh ấy quay về và tôi sẽ chủ động nói chuyện với anh ấy.

Câu hỏi 3:
- Thưa Thầy! Thầy cho em hỏi tại sao nhân quả lại kéo
dài từ kiếp trước tới kiếp sau và thậm chí là nhiều kiếp mà
vẫn chưa gột được ác nghiệp?

+ Trả lời:
Trước tiên em phải hiểu là Quy luật Nhân quả được
kết tinh từ Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, cơ chế vận
hành chính là cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng
lượng. Trong hạt năng lượng sẽ lưu giữ hết tất cả hình ảnh,
nội dung, ý nghĩ từ quá trình sinh khởi tới gieo duyên, hành
động và đón nhận kết quả, đó chính là phân tách và liên kết
hạt năng lượng. Tiếp đến, môi trường ở Trái đất với con
117
người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh, là môi trường cho
dạng sống Tuệ linh tu hành trong khổ đau kiếp nạn để cải tạo
bản thể Tuệ linh họ có được bộ lọc năng lượng. Từ hai điều
trên mà tạo thành Quy luật Nhân quả, Quy luật Nhân quả
được vận hành theo cơ chế rõ ràng và được trợ giúp từ Hội
đồng Tuệ linh trong việc gieo duyên, sắp xếp để giúp cho con
người tương tác và đón nhận thành quả trong mối quan hệ
của Quy luật Nhân quả thật tinh tế nhất.
Việc một hành trình của Quy luật Nhân quả có thể diễn
biến trong một ngày, một tháng, một năm, một kiếp người,
cho đến kiếp sau hoặc nhiều kiếp sau nữa, điều này còn phụ
thuộc vào quá trình phân tách ra nhiều hay ít hạt năng lượng,
nghiệp ác nhiều hay ít, mức độ tổn thương đến mọi người
lớn hay nhỏ. Mỗi một kiếp người đều được lập trình bởi cây
Nhân quả với số lượng kiếp nạn tương ứng theo khả năng mà
Tuệ linh có thể đón nhận và xử lý được. Chính vì thế Quy luật
Nhân quả sẽ được kéo giãn sang kiếp sau hoặc nhiều kiếp, để
đảm bảo tính phân bổ đủ để Tuệ linh có sức lực đón nhận và
chuyển hóa nghiệp ác đó.
Đặc biệt, để đón nhận được nghiệp ác hay phước báo
về thì đòi hỏi con người phải có sóng rung động trùng với
nghiệp ác hoặc phước báo trong quá khứ. Khi tương tác với
con người và muông thú cũng như vạn vật mà tạo ra sự rung
động cùng ý nghĩ mới kích hoạt cơ chế liên kết hạt năng
lượng từ Trụ linh người đó với hạt năng lượng được lưu giữ
trong Vũ trụ và đối tượng, khi đó mới là trả nghiệp hay là
đón nhận kết quả. Sự tương tác để rung động sẽ được Hội
đồng Tuệ linh gieo duyên sắp đặt cho cây Nhân quả mỗi
người.

118
Bởi vì tu hành phải là tu trong nhiều kiếp, nên các kiếp
nạn khổ đau sẽ được phân bổ hợp lý giống như các ngã ba
cành cây trong một cây cổ thụ vậy. Con người phải từng bước
đi qua từng ngã ba các cành cây để lấy thành tựu là quả chín
ở cành nào đó, nó là giác ngộ. Do đó sự vi diệu của cây Nhân
quả nằm ở chỗ có Hội đồng Tuệ linh hỗ trợ gieo duyên dựa
trên cơ chế phân tách, liên kết dây của hạt năng lượng.
- Em cảm ơn Thầy rất nhiều.

Câu hỏi 4:
- Thầy ơi! Trước khi biết tới giáo lý và hai Chân lý của
Thầy, em đã tạo rất nhiều nghiệp, em đã hành nghề mê tín,
lấy tâm linh để đưa mọi người vào con đường cầu cúng, lễ
bái, lập đàn lễ xin lộc, xin danh, giải trừ tai ương. Khi càng
lún sâu vào con đường này, gia đình em càng ngày càng khổ
đau, bệnh tật, gia đạo bất hòa giữa vợ chồng và con cái hư
hỏng, em thì đau ốm liên miên. Giờ em đã quyết không hành
nghề u mê đó nữa. Em mới học và nghiên cứu giáo lý của
Thầy chưa được nhiều và hiểu biết còn hạn chế. Em vẫn rất
lo lắng về việc liệu kiếp này em có gột được hết nghiệp ác mà
em đã tạo ra không? Vì em thấy những điều em làm trước đó,
những người mà em dùng tâm linh giải quyết chỉ khiến cho
họ ngày càng trở nên đau khổ và rối bời trong cuộc sống. Em
mong Thầy giúp em trả lời câu hỏi đó với.

+ Trả lời:
Khổ đau, kiếp nạn của em cũng là điều mà bản thể Tuệ
linh của em cần phải trải nghiệm để nhận diện được giá trị
của ánh sáng giác ngộ sau quá trình chìm trong bóng đêm
119
của u mê. Em đừng lo lắng nữa, đừng dằn vặt với những điều
quá khứ nữa. Em đã đến với giáo lý và hai Chân lý, đó là điều
tuyệt vời rồi, điều này chính thức đánh dấu sự quay lưng và
rời bỏ con đường u mê mà em đã đi. Bài học u mê em cũng đã
học được khi em đi trong bóng tối bởi những vọng âm, sợ hãi
bởi những thứ trong bóng tối mà em không thấy. Khi em đi
đến với con đường ánh sáng của hai Chân lý thì em sẽ có
phương pháp để gột rửa hết nghiệp ác đã tạo trong quá khứ.
Em sẽ biết phải làm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình và
giúp đỡ được những người khổ đau khác.
Trong tri thức của “Quy luật Nhân quả” này em cần đọc
kỹ nhiều lần, đặc biệt là hai Chân lý với cơ chế phân tách liên
kết dây, đọc kỹ Bát Không Hoàn Đạo. Nói chung em không
nên bỏ sót bất cứ bài nào trong tri thức của hai Chân lý. Tất
cả đều là những tri thức vàng để giúp em vượt qua được các
kiếp nạn sau này và gột rửa được hết thảy nghiệp ác trong
quá khứ của nhiều kiếp.
Để gột hết nghiệp ác trong vô lượng kiếp và có kinh
nghiệm vượt qua được các kiếp nạn sau này thì em phải làm
được những điều sau: không được để mình vi phạm vào các
quy tắc không được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo;
phải dần thực hiện được hết tất cả các quy tắc phải thực hiện
được trong bốn hình tướng Đạo. Hai điều kiện trên mới chỉ là
giúp em xây dựng được khuôn mẫu đạo đức, xây dựng niềm
tin để mọi người nhìn vào và tin tưởng em. Quan trọng nhất
là em hãy lan tỏa những quy tắc không được phép vi phạm
và những quy tắc phải làm được trong bốn biểu hiện hình
tướng Đạo đến với mọi người. Hãy chia sẻ về hai Chân lý, đó
là con đường gột rửa nghiệp ác nhanh nhất. Bởi vì, khi em
chia sẻ để giúp mọi người diệt mê khai ngộ chính là em đã
120
cứu giúp được rất nhiều người không rơi vào vòng xoáy của
u mê cầu cúng lễ bái đi ngược Quy luật Nhân quả. Khi đó, Trụ
linh em sẽ rung động được các hạt nghiệp ác có mã sóng u
mê vì cầu cúng lễ bái kéo về, và những hạt năng lượng giúp
người được hình thành sẽ hóa giải làm tiêu tan những hạt
năng lượng nghiệp ác. Không dừng lại ở đó, trong Trụ linh
của em sẽ có được những hạt năng lượng thiện phước và nó
được lưu giữ trong đó làm kinh nghiệm và kích hoạt thiện
tâm cho em sau này trên hành trình tu hành.
Tuy nhiên, em hãy lưu ý, vì em đi ra từ bóng tối của u
mê nên độc tâm trong tâm em sẽ trỗi dậy bất cứ lúc nào để
thỏa mãn giả tướng. Vì Trụ linh em đang đa âm nên nó sẽ
diễn biến bất chợt khi em nghĩ tiêu cực và năng lượng hoại
diệt sẽ di chuyển vào và kiểm soát em. Lúc đó em dễ quay lại
con đường u mê hoặc bị giả tướng khác làm cho u mê mới
xuất hiện. Do đó, em phải xây dựng cho mình đại hệ tư tưởng
biết hy sinh ích kỷ của bản thân để mang lại lợi ích tới mọi
người và vạn vật. Hãy cố gắng, em sẽ làm được. Và thành quả
sẽ chờ em ở phía trước.
- Em xin cảm ơn Thầy. Em sẽ quyết tâm đi đến đích
trên con đường hai Chân lý.

Câu hỏi 5:
- Thầy ơi! Em đã quá muộn để có thể tu hành đắc được
giác ngộ và bộ lọc năng lượng rồi Thầy. Có lẽ em không có
duyên sớm với Thầy, nên trước khi biết đến hai Chân lý và
giáo lý của Thầy thì em đã vi phạm vào hình tướng Đạo lễ, đó
là không chung thuỷ với chồng, dẫn đến vợ chồng ly tán rồi ạ.

121
Thầy có cách nào giúp em, chỉ cho em con đường đi đúng để
đạt được giác ngộ với ạ.

+ Trả lời:
Như vậy, Tuệ linh em và em đã trải qua một bài học
kiếp nạn khổ đau. Bài học kiếp nạn đó coi như đã là sự thất
bại. Không sao. Vì em đã nhận ra mình sai nên trí tuệ em đã
và đang trau dồi, tích luỹ lại giá trị của bài học đó để thấu
hiểu được con đường u mê đã qua. Tuy em thất bại trong bài
học kiếp nạn đó, nhưng không có gì là muộn trên hành trình
tu hành nhiều kiếp ở nhân gian để đạt đến sự giác ngộ em à.
Việc em biết tới hai Chân lý là tuyệt vời, hai Chân lý sẽ giúp
em biết cách chuyển hóa nghiệp ác của em và giúp em giác
ngộ thành đạo.
Điều đầu tiên là em hãy dành thật nhiều thời gian để
đọc, nghiền ngẫm toàn bộ tri thức của hai Chân lý. Tiếp đến
là em hãy sống và làm việc tuân thủ các quy tắc trong Quy
luật Nhân quả. Tiếp nữa, em hãy lan tỏa những quy tắc trong
Quy luật Nhân quả cũng như hai Chân lý tới mọi người, nhất
là những bạn trẻ như em và nhỏ hơn em để họ hiểu giá trị
của tình yêu, giá trị của sự thuỷ chung và hạnh phúc gia đình.
Em càng sẻ chia được những giá trị đạo đức đến với nhiều
người thì năng lượng tích cực đó sẽ hóa giải hết những năng
lượng nghiệp ác em đã tạo trong quá khứ.
Việc sống đúng hình tướng Đạo và lan tỏa được giá trị
đạo đức trong hai Chân lý tới mọi người chính là em đang đi
trên con đường giác ngộ. Cố gắng, quyết tâm vì mọi người thì
em sẽ nhanh tới đích của giác ngộ viên mãn thôi. Có thể là
kiếp này sẽ đạt được hoặc phải thêm kiếp nữa, thậm chí

122
thêm nhiều kiếp nữa đều là do em lựa chọn và quyết tâm hay
không.
- Em cảm ơn Thầy, với những chia sẻ của Thầy em thấy
an vui nhiều và có động lực để chọn lựa cho mình con đường
giác ngộ.

Câu hỏi 6:
- Thầy ơi cho em hỏi về vấn đề của các thầy pháp, thầy
cúng, thầy phù thuỷ, thầy phong thuỷ có dùng âm binh, bùa
ngải trấn yểm. Chuyện là sau khi được học từ Thầy về đại hệ
tư tưởng giác ngộ bởi hai Chân lý dẫn đường, em có mấy lần
giúp bà con tháo gỡ những chướng ngại. Trước kia họ nhờ
các thầy phong thuỷ, phù thuỷ, thầy pháp, pháp sư, thầy cúng
lập đàn cúng lễ, lập thờ, trấn yểm để mong muốn làm ăn giàu
có hơn, được thăng quan và có danh tiếng, nhưng kết quả em
thấy họ đều gặp tai ương, khổ đau từ việc nhờ trấn yểm, bùa
ngải, cầu xin đi ngược Quy luật Nhân quả. Đặc biệt có mấy
trường hợp em thấy ông thầy mà họ nhờ bị chết đột tử và
vong hồn của những ông thầy đó cứ hàng đêm hay đi đến
quấy nhiễu những gia đình đã nhờ họ. Em xin Thầy giải thích
rõ việc các thầy trấn yểm, dùng bùa ngải, lập thờ, đàn lễ tại
sao lại có kết quả không tốt đối với những gia đình nhờ làm
việc đó? Và tại sao có những thầy pháp, thầy cúng, thầy phù
thuỷ, thầy phong thuỷ lại đột tử chết và đọa thành cô hồn?
Cũng may là em đã dùng hóa độ để độ cho họ được siêu thoát
rồi Thầy ạ.

+ Trả lời:

123
Em cũng biết rồi đấy, việc cúng lễ lập đàn để xin công
danh, tài lộc, bình an, giải hạn oan gia nghiệp chướng đều là
tư tưởng và hành động u mê. Nó biểu tượng cho sự u mê và
không có sự giác ngộ về Quy luật Nhân quả cũng như kế
hoạch tu hành nơi nhân gian mà con người phải đối mặt để
thông qua đó trau dồi, tích luỹ trí tuệ cho việc chuyển hóa
Trụ linh cũng như chuyển hóa thành thiện tâm và vị tha.
Việc cầu cúng, trấn yểm, lập đàn lễ, dùng bùa ngải, âm
binh chính là dùng một lượng lớn năng lượng tiêu cực để
thực hiện sự điều khiển của các thầy bà và mưu cầu của
người dân. Điều này làm cho những năng lượng tiêu cực
(linh hồn muông thú, linh hồn người chết không được siêu
thoát) bị mắc kẹt và bị khống chế sai khiến, khiến cho họ đau
khổ cùng cực. Họ đã bị đọa cũng là do nghiệp ác khi sống đã
tạo, khi chết lại bị các thầy bà khống chế để thực hiện mưu
đồ trục lợi về cả người dùng và người nhờ. Họ bị khống chế
trong sự bất lực vì năng lượng họ không cân bằng, vì họ do
nghiệp ác mà không đủ sức mạnh để đi vào vòng luân hồi.
Việc những năng lượng tiêu cực đó bùng phát để phản kháng
là chuyện thường tình sau quá trình đau khổ bị dồn nén vào
đường cùng. Khi họ bùng phát với số lượng nhiều thì họ sẽ
khiến những gia đình nhờ thầy làm trấn yểm bị phá phách
cho gia đạo bấn loạn, công việc, sự nghiệp cũng bị tan vỡ.
Điều này là xứng đáng cho hành động u mê của các gia đình
mưu cầu giàu sang, công danh, giải hạn bằng con đường đi
ngược Quy luật Nhân quả, bằng sự khổ đau của những bản
thể linh hồn, Tuệ linh đang mắc kẹt, đó là cái kết quả cho một
quy trình nhân quả ngay tại hiện kiếp. Thậm chí quả báo sẽ
còn trả ở kiếp tiếp theo cho những hành động u mê của
người nhờ và cả người thầy hành nghề u mê đó.
124
Vấn đề các thầy chết đột tử là do chính âm binh của
thầy đánh lại, giết lại thầy vì họ bị khống chế trong cùng cực,
bị bóc lột trong khổ đau. Các thầy bà có các phương pháp
khống chế những linh hồn đau khổ để bắt họ phục vụ hoặc
dẫn dụ sẽ được lợi ích. Khi người thầy hành nghề u mê, mê
tín, trấn yểm, bùa ngải, âm binh thì trong tâm của người thầy
đó sẽ phân tách ra vô số năng lượng sóng điện âm. Những
hành động u mê khiến họ bị phóng xạ âm mạnh, đó là cơ hội
để âm binh, những linh hồn bị khống chế bùng lên và tác
động vào làm cho người thầy đột tử chết hoặc tai nạn chết.
Đó cũng là nghiệp của người hành nghề u mê hại cả người
sống và người đã chết, hại cả linh hồn muông thú chết do
nghiệp mà không được siêu thoát. Vì đã tạo nghiệp khống
chế không cho những linh hồn, âm binh được siêu thoát nên
cái giá phải trả cho linh hồn của những người thầy là sẽ phải
đọa thành cô hồn để thống khổ, để thấu hiểu những nghiệp
ác mình đã tạo. Họ sẽ không được Hội đồng Tuệ linh đưa về
nơi tu tập để luân hồi ngay, họ sẽ bị đọa có khi đến vài trăm
năm, thậm chí cả nghìn năm may ra mới gặp được bậc chân
tu độ cho họ được siêu thoát. Việc em giúp họ được siêu
thoát là điều nên làm, cũng là bài học lớn cho bản thể linh
hồn của những người thầy u mê đó. Về cõi Địa phủ họ sẽ
được giáo hóa cho những nghiệp họ đã tạo và kiếp sau họ sẽ
chụp chiếu và sống trong cảnh khổ đau của việc bị thầy bà
lừa hại, đó là nhân quả phản chiếu ở kiếp tới của họ.
- Em cảm ơn Thầy đã phân tích giải thích rõ. Em sẽ cố
gắng giúp đỡ bà con hơn nữa bằng hai Chân lý Thầy ạ.

Câu hỏi 7:

125
- Xin hỏi Thầy về vấn đề phóng sinh. Phóng sinh như
thế nào là tốt nhất theo Quy luật Nhân quả? Việc mọi người
mua những con chim, con ốc… rồi mang ra chùa, ra đền để
cúng phóng sinh có đúng không?

+ Trả lời:
Trước tiên phải hiểu đúng về phóng sinh, đó là đảm
bảo sự tự do, giải phóng thành sự tự do, cứu giúp để được tự
do cho con người, muông thú, vạn vật. Như vậy, phạm trù
phóng sinh nó rất rộng, từ việc đảm bảo sự tự do cho con
người, muông thú, vạn vật cho đến sự cứu giúp, giải cứu con
người, muông thú, vạn vật khỏi sự giam cầm và nguy hại đến
tính mạng. Không nên hiểu phóng sinh theo nghĩa hẹp chỉ là
giải cứu con vật nào đó được về với tự nhiên.
Phóng sinh tốt nhất là giữ được sự tự do cho con
người, muông thú, vạn vật. Đó là không chà đạp nhân phẩm
của ai, không khống chế ai, không đàn áp ai, không đánh đập
giết hại ai; không giết hại hay giam cầm muông thú để thỏa
mãn việc ăn uống hay ngắm cảnh; không tàn phá thiên nhiên,
tài nguyên nước, đất, cỏ cây. Phóng sinh tốt nhất cũng chính
là dừng hành động giết hại những con vật để phục vụ cho
bữa ăn, thay vào đó ăn rau củ quả thực vật. Tiếp đến, trong
cuộc sống khi gặp những con người, muông thú, vạn vật đang
bị nguy hại đến tính mạng, đến sự tự do, đến phẩm hạnh thì
hãy cứu giúp tận tâm.
Việc mọi người đi mua những con chim, con ốc, con cá,
hoặc con vật nào đó để mang ra chùa, ra đền thực hành nghi
lễ cúng phóng sinh là điều không tốt chút nào. Đó là hành
động của mong cầu, cầu xin phước báo từ Chư thiên, Chư

126
Phật, Thần thánh, giống như một cuộc đánh đổi với Phật,
Thần, Thánh, rằng tôi có làm thiện, tôi có hành động phóng
sinh và các vị hãy độ cho tôi. Đây là sự u mê của con người,
sự u mê vì không hiểu Quy luật Nhân quả được vận hành
theo cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng. Khi họ hành
động phóng sinh xuất phát từ thiện tâm thương yêu muôn
loài thì đều phân tách ra những năng lượng tốt lưu giữ trong
Vũ trụ, trong Trụ linh của họ và của những chúng sinh được
cứu giúp. Sự u mê nhiều khi làm cho những con chim, con ốc,
con cá, con thú bị chết do quá trình chờ đợi được thả tự do,
trong quá trình cúng bị chết. Việc phóng sinh không phải
cúng trình ai hay ngài nào cả, nó nên được thực hiện ngay khi
thấy muôn loài gặp nguy đến tính mạng trong khi ta có khả
năng cứu giúp. Bởi tất cả đều có cơ chế vận hành Quy luật
Nhân quả, nên việc phóng sinh cũng do cơ chế phân tách, liên
kết hạt năng lượng vận hành.
- Xin cảm ơn Thầy đã giảng giải.

Câu hỏi 8:
- Thầy ơi! Xin Thầy phân tích về nghiệp báo của người
làm nghề giết mổ? Người bán thịt lợn, gà, trâu, bò… có bị
nghiệp báo không khi mà họ không trực tiếp giết mổ mà chỉ
mua từ lò giết mổ rồi về bán?

+ Trả lời:
Làm nghề giết mổ muông thú là ác nghiệp rất nặng.
Người làm nghề giết mổ sẽ giết hại, tước đi quyền được sống
của rất nhiều con thú, đó là vi phạm Quy luật Nhân quả hết
sức trầm trọng. Khi loài người được hình thành bởi các cuộc
127
tập kết nhân loại, vị Tuệ linh đầu tiên đã truyền dạy con
người là phải thuần hóa muông thú để chúng cùng làm người
tu hành, Ngài không dạy con người giết hại chúng. Mỗi lần
giết hại một con thú, trong Trụ linh của người giết hạt sẽ
phân tách ra 3 hạt năng lượng màu đen, một hạt lưu giữ ở
Trụ linh của họ, một hạt bay vào Vũ trụ, một hạt bay vào linh
hồn của con thú. Khi con thú bị giết nó sẽ sinh ra 3 hạt năng
lượng màu đỏ máu, một hạt trong Trụ linh của Linh hồn nó,
một hạt bay vào Vũ trụ, một hạt bay vào Trụ linh của người
giết. Vì giết rất nhiều nên dẫn đến đa âm trong Trụ linh
người giết mổ và có quá nhiều năng lượng oán hận của
muông thú được lưu giữ trong Vũ trụ. Đặc biệt, có quá nhiều
muông thú cũng là do Tuệ linh hóa thân thành để trả nghiệp
giết hại muông thú khi họ còn sống, do đó sự oán hận sẽ gia
tăng và mức độ liên kết giữa năng lượng ác nghiệp sẽ rất lớn.
Người hành nghề giết mổ sẽ chịu Quy luật Nhân quả ngay
hiện kiếp khi sẽ phải đối mặt với bệnh tật và cuộc sống gia
đạo không được hạnh phúc. Trụ linh của Tâm (Tuệ linh)
phóng xạ năng lượng âm do liên kết hạt năng lượng nghiệp
ác nhiều sẽ khiến cho cơ thể không cân bằng âm dương mà
sinh nhiều bệnh. Đối với các kiếp sau, họ sẽ phải đọa thành
muông thú trong nhiều kiếp, số kiếp tương ứng với số lượng
con thú bị họ giết. Khi được làm người thì họ sẽ chịu những
căn bệnh, những khổ đau giống như những hành động giết
hại các con thú vậy.
Người bán thịt của những con thú dù không trực tiếp
giết hại cũng đều chịu nghiệp báo của việc hành nghề buôn
bán thân xác những sinh linh bị mất đi quyền sống và tự do.
Tất nhiên, nghiệp báo sẽ không nặng như những người giết
hại nhưng cũng không nhẹ chút nào. Khi những con thú bị
128
giết thì chúng đã oán hận người giết và phân tách ra những
hạt năng lượng tiêu cực sóng điện âm trong Trụ linh của linh
hồn chúng, hạt năng lượng âm đó phân tách thành vô số hạt
và lưu trữ trong cơ thể, trong máu, trong thớ thịt của con thú.
Khi người buôn bán, đứng cạnh, mổ xẻ từng thớ thịt thì cũng
là lúc những hạt năng lượng âm trong từng thớ thịt của con
thú di chuyển vào cơ thể, vào Trụ linh của người buôn bán xẻ
thịt chúng. Hành động của những người đó cũng khiến cho
Trụ linh họ phân tách ra vô số hạt năng lượng màu xám và
màu đen, những hạt năng lượng đó cũng theo cơ chế phân
tách làm 3 vùng. Đó là những hạt năng lượng của U mê và
Hành mê. Người buôn bán thịt lâu cũng sẽ sinh bệnh. Kiếp
sau họ cũng sẽ phải trả lại nghiệp ác là sẽ bị các trọng bệnh,
bị mổ xẻ triền miên, bị tai nạn, bị âm hồn chưa siêu thoát
theo hành hạ.
Người ăn thịt cũng bị hấp thụ những năng lượng tiêu
cực oán hận của muông thú, lâu ngày sẽ sinh nhiều bệnh khó
chữa. Do đó, thay thế việc ăn thịt động vật bằng rau củ quả,
thực vật có đầy đủ dinh dưỡng cũng chính là phóng sinh mà
con người nên làm.
- Xin chân thành cảm ơn Thầy.

Câu hỏi 9:
- Thưa Thầy! Con người không biết những việc đã làm
ở các kiếp quá khứ, họ không biết là đã làm những điều tốt gì
cũng như những ác nghiệp gì. Vậy có phương pháp nào để
mỗi người đều hóa giải được tất cả những nghiệp ác ở các
kiếp quá khứ và gia tăng được thiện phước trong kiếp này?

129
+ Trả lời:
Đúng vậy, việc con người không được biết, không được
nhớ về các kiếp quá khứ là kế hoạch của con đường tu hành
nơi nhân gian. Nếu con người biết về những điều quá khứ thì
họ sẽ chìm đắm, say mê trong quá khứ để sống và vọng
tưởng, nó sẽ rất nguy hiểm cho kế hoạch tu hành. Do đó, việc
không được biết quá khứ chính là để đảm bảo việc sống và tu
hành ở hiện kiếp được đúng theo Quy luật Nhân quả để con
người có thể tu hành cải tạo được Tuệ linh thành đạo.
Việc không biết mình đã làm gì trong quá khứ cũng là
điều khiến cho con người phải tò mò, tìm tòi con đường tu
luyện để có được trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ, khi đó sẽ thấu quá hiểu khứ, hiện tại, tương lai, sẽ
thấu hiểu được những thành tựu hay nghiệp ác trong quá
khứ. Tuy nhiên không phải ai cũng thấu hiểu, bởi nó không
hề dễ dàng chút nào. Để thấu hiểu hai Chân lý thì con người
cần phải trải nghiệm đủ các cung bậc trạng thái cảm xúc
trong nhiều kiếp để trau dồi trí tuệ. Khi trau dồi được trí tuệ
trong nhiều kiếp nạn khổ đau thì con người mới có niềm tin
và thấy sự kỳ diệu từ hai Chân lý.
Có một phương pháp siêu việt nhất để gột rửa, chuyển
hóa được tất cả các nghiệp ác trong các kiếp quá khứ cũng
như gia tăng được năng lượng phước báo tại hiện kiếp, đó
chính là Phổ độ hai Chân lý, Quy luật Nhân quả, cội nguồn
nhân loại, con đường xây dựng giá trị đạo đức trong hệ thống
tri thức của hai Chân lý. Vì trong hệ thống tri thức của hai
Chân lý có vô lượng hạt năng lượng từ loại hạt đơn trong
năm nhóm cho đến các siêu hạt, những kiến thức trong đó
đều là các sóng rung động có trong tất cả năng lượng trong
và ngoài Vũ trụ, nó có khả năng rung động và liên kết về để
130
chuyển hóa cho người học. Việc phổ độ chính là việc mỗi
người thấu hiểu toàn bộ hệ thống giáo lý và dùng nó chia sẻ,
truyền dạy, lan tỏa đến mọi người để mọi người cứu Tuệ linh
của chính mình, giúp đỡ nhiều người cùng cứu giúp Tuệ linh
họ đi đúng con đường tu hành để thành đạo trở về. Thân
tướng trải qua các kiếp với những kế hoạch trong khổ đau,
kiếp nạn cũng là nhằm mục đích giúp cho Tuệ linh nhận diện
được khổ đau và trau dồi trí tuệ trên hành trình tu hành để
thành đạo. Việc phổ độ chính là việc gột rửa nghiệp ác nhanh
nhất, gột rửa hết tất cả nghiệp ác, đồng thời gia tăng được vô
lượng hạt năng lượng thiện nghiệp, vì phổ độ chính là giúp
nhân loại, mọi người, Tuệ linh, Linh hồn có được phương
pháp để cứu cánh cho thân tướng, trí tuệ và Tuệ linh. Nó là
giá trị vô lượng nhất để Tuệ linh cải tạo được Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng.
- Thưa thầy, vậy việc xây dựng trường học, đường xá,
bệnh viện, cứu giúp dân chúng khi thiên tai, dịch bệnh thì sao
ạ?
+ Những việc thiện đó là phước báo vô lượng, là những
hành động gián tiếp lan tỏa tri thức trong giáo dục, trực tiếp
lan tỏa của cải, phương tiện để cứu thân tướng cho con
người. Những việc đó rất tuyệt vời và chúng ta nên làm. Tuy
nhiên đó mới là cứu giúp thân tướng và trí tuệ của chân tu,
nó chưa phải là cứu giúp tổng thể cả Tuệ linh, trí tuệ, thân
tướng như Phổ độ để hướng con người hành thiện gột rửa
hết nghiệp ác và cấu tạo được Trụ linh. Để hóa giải được tất
cả nghiệp ác quá khứ thì cần có tất cả trí tuệ giác ngộ của hai
Chân lý và phổ độ cho những người khác thì mới kích hoạt sự
rung động của hạt năng lượng nghiệp ác đã lưu giữ trong Vũ

131
trụ liên kết đến Trụ linh và chuyển hóa thành năng lượng tốt,
mới cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Do vậy, chỉ duy nhất phổ độ đại hệ tư tưởng của hai
Chân lý, Quy luật Nhân quả, tri thức của hai Chân lý mới gột
rửa hết thảy nghiệp ác trong các kiếp quá khứ và đồng thời
cấu tạo được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.

Trên đây là những câu hỏi về Quy luật Nhân quả để
làm dẫn chứng cách phân tích ứng dụng hai Chân lý với cơ
chế phân tách liên kết dây của hạt năng lượng trong việc giải
mã các vấn đề Quy luật Nhân quả. Từ đó, mỗi người sẽ biết
cách phân tích, giải mã, ứng dụng hai Chân lý và cơ chế vận
hành vào trong Quy luật Nhân quả để xây dựng giá trị đạo
đức cho bản thân cũng như mọi người đạt được viên mãn
nhất.
Như vậy, Quy luật Nhân quả và cơ chế vận hành là một
phần quan trọng trong hệ thống tri thức của hai Chân lý. Nó
đã giải mã được bản chất, cội nguồn, cơ chế vận hành, những
quy tắc, các mức độ chuyển hóa trong mối quan hệ tương tác
trong Quy luật Nhân quả của con người tại nhân gian này, nó
được kết tinh từ hai Chân lý với sự gieo duyên trợ giúp của
Hội đồng Tuệ linh. Quy luật Nhân quả được vận hành bằng
cơ chế và được hỗ trợ gieo duyên từ Hội đồng Tuệ linh, tức là
Hội đồng Tuệ linh chỉ làm nhiệm vụ gieo duyên mà không thể
can thiệp thay đổi nhân quả của bất kỳ ai. Không có một Ngài
nào, Tuệ linh nào có thể thương xót hoặc thù ghét ai mà can
thiệp thay đổi nhân quả của họ. Chính bản thân các Tuệ linh
hay kể cả vị Tuệ linh đầu tiên cũng phải vận hành thông qua
cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả. Do đó, họ không thể
ban phát tài lộc hay hóa giải vận hạn cho bất kỳ ai. Con
132
người, nhân loại phải vận hành theo cơ chế để đổi thay, cải
tạo nhân quả của chính mình.
***************

133
134
PHẦN 2
VÒNG TRÒN SẢN SINH HẠT
NĂNG LƯỢNG
(HẠT NĂNG LƯỢNG TẬN CÙNG – HẠT NHÂN QUẢ)

135
136
Hình: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tận cùng

137
138
Giới thiệu về Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng:

Hạt năng lượng trong Vòng tròn sản sinh hạt là hạt
năng lượng tận cùng, là hạt năng lượng nhân quả.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chính là cơ chế sản
sinh hạt năng lượng từ Trụ linh của Tuệ linh, con người,
muông thú, của hết thảy các cấu trúc Tướng trong Vũ trụ. Đó
là cơ chế sản sinh hạt năng lượng thông qua năm điểm trong
một vòng tròn tuần hoàn viên mãn.
Vòng tròn sản sinh năng lượng là kết tinh, là thành tựu
vô lượng của việc thấu hiểu tận cùng về Tướng Đạo và Tâm
Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đó là thấu hiểu tận cùng về hạt
năng lượng tận cùng, Tam hợp, hai Chân lý với cơ chế Phân
tách và liên kết dây, cơ chế Quay tròn, bản chất mã hóa thông
tin, cấu trúc Trụ linh của hết thảy Tướng, sự sinh và diệt của
hết thảy Tướng, con đường chuyển sinh bền vững cho hết
thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ. Khi thấu hiểu toàn bộ hệ
thống tri thức của hai Chân lý, Tuệ linh và con người sẽ dễ
dàng vận hành Vòng tròn sản sinh năng lượng tận cùng.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tận cùng là kết tinh,
là tinh hoa của Đạo hợp nhất Vũ trụ với hệ thống tri thức siêu
việt của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ được vận hành
bởi cơ chế Phân tách, liên kết dây.
Trong Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng, có 9 vòng
tròn nhỏ, mỗi một vòng tròn nhỏ là sự viên mãn tuần hoàn
của cơ chế sản sinh hạt năng lượng. Đó là Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng chân tâm, Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
139
tiêu cực, Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển, Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa, Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng đoàn kết, Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng
vàng óng ánh (Hóa độ 1), Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly (Hóa độ 2), Vòng tròn sản sinh siêu
hạt bóng hỏa (Hóa độ 3), Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng Nhật Sư (Hóa độ 4).
Chín vòng tròn nhỏ cấu tạo thành Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng viên mãn, để từng bước thực hành chuyển
hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng đơn cho đến bộ lọc
năng lượng kép, khi đó sẽ sản sinh thêm được những siêu
hạt năng lượng kỳ diệu hơn. Như vậy, Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng viên mãn chính là vòng tròn cơ chế chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Trong chín Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng, có vòng
tròn từ số một đến số năm là những vòng tròn sản sinh ra các
hạt năng lượng đơn, Vòng tròn sản sinh năng lượng từ số sáu
đến số chín là Vòng tròn sản sinh ra các siêu hạt năng lượng.
Trong mỗi một Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đều
có năm điểm. Năm điểm này chính là từ khởi đầu quá trình
tương tác rung động giữa các Tướng cho đến hoàn thành việc
sản sinh (phân tách) hạt năng lượng từ Trụ linh vào ba vùng
theo cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả. Trong đó,
xuyên suốt là sự vận hành của Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ với cơ chế phân tách, liên kết dây.
Để thực hành được Vòng tròn sản sinh từ hạt năng
lượng đơn cho tới các siêu hạt năng lượng cũng như chuyển
hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, Tuệ linh, chân tu phải
thấu hiểu thấu đáo cho tới tận cùng toàn bộ hệ thống tri thức
của hai Chân lý. Thấu hiểu tận cùng thì việc thực hành Vòng
140
tròn sản sinh hạt năng lượng mới đạt được sự viên mãn và
kỳ diệu nhất. Đặc biệt, mới chuyển hóa được Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng viên mãn.
***************

141
142
Bài 1:
Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng chân tâm


Hình: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm
143
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm sẽ được
vận hành tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua được điểm số 2,
tiếp tục tới được điểm số 3, tiếp tục vượt qua được điểm số 4
và đạt tới đích ở điểm số 5. Sau khi vận hành được một vòng
tròn từ điểm số 1 đến được điểm số 5, Trụ linh vẫn tiếp tục
vận hành tuần hoàn liên tục để sản sinh ra những hạt năng
lượng chân tâm, đó là vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
chân tâm viên mãn. Cơ chế sản sinh hạt năng lượng chân tâm
viên mãn là do có Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ với cơ
chế vận hành là phân tách và liên kết dây theo hướng chuyển
sinh bền vững và an lạc.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng


chân tâm
Hạt năng lượng chân tâm là loại hạt năng lượng có sợi
mã sóng trí tuệ từ điểm 1 cho tới điểm 2 và điểm 3 đều nằm
trên đường trung tính. Đó là trạng thái cân bằng, an lạc,
thanh tịnh của hạt năng lượng. Hạt năng lượng chân tâm là
loại hạt năng lượng trung hòa được hết thảy các loại hạt
trong nhóm năng lượng sóng điện âm và các loại hạt năng
lượng trong nhóm năng lượng sóng điện dương.
Hạt năng lượng chân tâm có nhiều mức độ, từ nhóm
hạt năng lượng chân tâm ban đầu cho tới nhóm hạt năng
lượng chân tâm cao (gắn liền với các nhóm hạt năng lượng
mang sóng điện dương) và nhóm siêu hạt năng lượng chân
tâm (gắn liền với các loại siêu hạt năng lượng), đó là:

1. Nhóm hạt năng lượng chân tâm ban đầu

144
Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng chân tâm
ban đầu có màu trắng trong.
Màng bọc của hạt năng lượng chân tâm ban đầu mỏng,
không bền và dày như các hạt năng lượng chân tâm ở các
tầng cao hơn.
Sóng điện chân tâm của hạt năng lượng chân tâm ban
đầu dễ dàng chuyển hóa thành sóng điện âm hoặc dương.
Nếu chuyển hóa thành sóng điện âm là do môi trường tương
tác có đa sóng điện âm, nếu chuyển hóa thành sóng điện
dương là do môi trường có đa sóng điện dương.
Nhóm hạt năng lượng chân tâm ban đầu tương ứng
với trí tuệ của những đứa trẻ sơ sinh và tuổi còn nhỏ.
Nhóm hạt năng lượng chân tâm ban đầu tương ứng
với những Tuệ linh còn nhỏ, tương ứng với các Tuệ linh khi
bắt đầu hóa thân làm con người ở nhân gian.
Nhóm hạt năng lượng chân tâm ban đầu tương ứng
với những con người, Tuệ linh không thiện cũng không ác; đó
là giữ trạng thái cân bằng, an lạc, thanh tịnh của bản thể
mình mà không màng, không quan tâm tới các môi trường
sóng điện âm hay dương xung quanh.

2. Nhóm hạt năng lượng chân tâm cao gắn liền


với các nhóm hạt năng lượng mang sóng điện
dương
Nhóm hạt năng lượng chân tâm cao được gắn liền với
các nhóm hạt năng lượng dương: nhóm hạt năng lượng phát
triển, nhóm hạt năng lượng lan tỏa, nhóm hạt năng lượng
đoàn kết. Khi Trụ linh phân tách ra các nhóm hạt năng lượng

145
sóng điện dương sẽ phân tách thêm ra các nhóm hạt năng
lượng chân tâm tương ứng. Các hạt năng lượng chân tâm ở
tầng cao chỉ được phân tách ra khi Trụ linh thực hiện phân
tách ra các hạt năng lượng có sóng điện dương và siêu hạt
năng lượng. Khi Trụ linh phân tách ra các hạt năng lượng âm
sẽ không phân tách kèm theo các hạt năng lượng chân tâm.
Trạng thái năng lượng của các nhóm hạt năng lượng
chân tâm cao sẽ có màu trắng sáng, sáng trắng rực rỡ, trắng
sáng chói lòa.
Các nhóm hạt năng lượng chân tâm cao có màng bọc
rất bền và vững chắc. Chỉ có hạt năng lượng chân tâm cao
mới đủ sức mạnh tạo ra và duy trì sự liên kết, kết dính giữa
các hạt năng lượng dương.
Các hạt năng lượng chân tâm cao sẽ trở thành sợi dây
kết dính để kết nối giữa các hạt năng lượng dương với nhau.
Chính vì sự kết dính, kết nối này mà trong cấu trúc 16 hạt
năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh, các hạt năng lượng
chân tâm cao sẽ làm nhiệm vụ trở thành sợi dây chân tâm để
kết nối giữa các hạt năng lượng dương tổng hợp. Như vậy,
các nhóm hạt năng lượng chân tâm cao vô cùng quan trọng
trong việc kết nối và cấu tạo thành các cấu trúc năng lượng,
Tuệ linh, con người, vạn vật trở nên bền vững.
Các nhóm hạt năng lượng chân tâm cao tương ứng
những Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh đa dương.
Các nhóm hạt năng lượng chân tâm cao tương ứng với
những Tuệ linh, con người đang miệt mài phát triển, nghiên
cứu các cấu trúc bền vững cho Tuệ linh, con người và vạn vật
Vũ trụ; là các Tuệ linh, con người đang miệt mài lan tỏa các
cấu trúc phát triển bền vững cho Tuệ linh, con người và vạn

146
vật Vũ trụ; là các Tuệ linh, con người đang miệt mài đoàn kết
Tuệ linh, con người cùng lan tỏa các cấu trúc phát triển bền
vững cho Tuệ linh, con người và vạn vật Vũ trụ.
Như vậy, các nhóm hạt năng lượng chân tâm ở các
tầng cao là được sản sinh bởi Trụ linh của Tuệ linh, con
người đang thực hiện con đường chuyển sinh theo hướng
bền vững.

3. Nhóm siêu hạt năng lượng chân tâm gắn liền


với các loại siêu hạt năng lượng
Nhóm siêu hạt năng lượng chân tâm được gắn liền với
các siêu hạt năng lượng, đó là: siêu năng lượng dương có
màu vàng óng ánh, siêu năng lượng âm có màu xanh ngọc
lưu ly, siêu hạt năng lượng Nhật Sư với màu vàng óng ánh –
xanh ngọc lưu ly – đỏ than lửa – trắng sáng chói lòa. Khi Trụ
linh phân tách ra các siêu hạt năng lượng sẽ phân tách kèm
theo những siêu hạt năng lượng chân tâm.
Trạng thái năng lượng của các siêu hạt năng lượng
chân tâm có màu trắng sáng chói lòa, đó là cảnh giới tối cao
của chân tâm.
Các siêu hạt năng lượng chân tâm có màng bọc siêu
bền và siêu vững chắc. Chỉ có siêu hạt năng lượng chân tâm
mới đủ sức mạnh tạo ra và duy trì sự liên kết, kết dính giữa
các siêu hạt năng lượng.
Các siêu hạt năng lượng chân tâm sẽ trở thành siêu sợi
dây kết dính để kết nối giữa các siêu hạt năng lượng dương
với nhau. Chính vì sự kết dính, kết nối này mà trong cấu trúc
16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh, các siêu hạt
năng lượng chân tâm sẽ làm nhiệm vụ trở thành siêu sợi dây
147
chân tâm để kết nối giữa các siêu hạt năng lượng dương tổng
hợp. Như vậy, các nhóm siêu hạt năng lượng chân tâm vô
cùng quan trọng trong việc cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng và vận hành bền vững bộ lọc.
Các nhóm siêu hạt năng lượng chân tâm tương ứng với
Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc năng lượng và đã,
đang sản sinh ra các siêu hạt năng lượng.
Các nhóm siêu hạt năng lượng chân tâm tương ứng với
những Tuệ linh, con người đang miệt mài thực hành Phổ độ,
Hóa độ giáo lý giác ngộ của hai Chân lý tới hết thảy Tuệ linh
và con người. Họ đang thực hành sứ mệnh đoàn kết hết thảy
Tuệ linh và con người cùng lan tỏa con đường chuyển sinh
bền vững cho hết thảy Tuệ linh, con người mà không có sự
phân biệt.
Như vậy, các nhóm siêu hạt năng lượng chân tâm cho
thấy kết quả, cho thấy thành tựu của Tuệ linh và con người
đã đắc được bộ lọc năng lượng viên mãn trong Trụ linh.

Trong hành trình mỗi một Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng chân tâm từ ban đầu cho tới các siêu hạt năng lượng
chân tâm, Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ nhận diện được
các độc tâm của các Tướng khác tác động tới và nhận diện
được bản chất độc tâm của chính mình. Hiểu được điều này
để nhận biết và thực hành được việc chuyển hóa độc tâm,
kích hoạt được thiện tâm theo Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ.
Trong hành trình mỗi một vòng sản sinh các loại hạt
năng lượng chân tâm, Trụ linh sẽ bị và được các nhóm
Tướng đa âm, đa dương phân tách những hạt năng lượng
148
âm, những hạt năng lượng dương, những hạt năng lượng
chân tâm bắn vào Trụ linh. Hiểu được điều này để Trụ linh
thực hành được việc chuyển hóa thông qua Chân lý Vạn vật
và Chân lý Giác ngộ.
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) được các loại hạt
năng lượng chân tâm, Tuệ linh, con người phải vận hành
hoàn chỉnh một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ điểm số 1
cho tới điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản sinh năng
lượng chân tâm đạt tới điểm số 5 thì hạt năng lượng chân
tâm mới được phân tách ra. Nếu Tuệ linh, con người vận
hành chưa tới được điểm số 5 thì sẽ không có hạt năng lượng
chân tâm nào được sản sinh ra.
Năng lượng chân tâm là điều kiện, là giá trị vô cùng để
giúp cho Tuệ linh, con người liên tục cân bằng, liên tục thanh
tịnh, liên tục an lạc trong hành trình chuyển sinh Trụ linh trở
thành bộ lọc năng lượng. Năng lượng chân tâm giống như
ngôi nhà để con người ngủ đêm an lành sau mỗi một ngày lao
động vất vả, nó chính là cảnh giới để Tuệ linh, con người liên
tục phải cân bằng và an lạc tự tại.
Với giá trị vô cùng của năng lượng chân tâm, Tuệ linh,
con người cần phải học hỏi sự an nhiên, sự thanh tịnh, sự an
lạc, sự vô tư, không phiền muộn của các Tuệ linh nhỏ, của các
em bé nhỏ tuổi, của những người luôn an vui trong mọi hoàn
cảnh. Cho dù chúng ta là người trưởng thành, dù chúng ta là
người Trí tuệ, dù chúng ta được ca tụng, chúng ta vẫn phải
học, phải học từ các cháu bé, học từ những người thiện tâm,
học từ những người cống hiến tới vạn vật. Phải luôn học hỏi
từ chân tâm để Trụ linh của Tuệ linh, của Ta luôn đứng ở vị
trí Định, Định mới có khả năng thực hành sản sinh các loại
hạt năng lượng dương và các siêu hạt năng lượng.
149
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh các loại hạt năng
lượng chân tâm trong Trụ linh, Tuệ linh, con người sẽ tương
tác với các Tướng khác trong khoảng thời gian nhất định,
trong cường độ tương tác, tốc độ tương tác, mật độ tương
tác, độ nén của tương tác, trong môi trường có sóng điện.
Quá trình tương tác chính là quá trình giải mã các Tướng. Kết
thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước vào vòng
tròn cho quy trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm trong
Trụ linh.
Tất cả quá trình tương tác của Tuệ linh, con người tại
môi trường tu hành ở nhân gian đều nằm trong bốn hình
tướng Đạo, đó là hình tướng Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo
Đế vương. Do đó, để sản sinh hạt năng lượng chân tâm, Trụ
linh của Tuệ linh, con người phải vận hành trong sự tương
tác của bốn hình tướng Đạo.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng


lượng chân tâm
Có nhiều loại Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân
tâm, đó là: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban
đầu, Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển,
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa, Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết và các Vòng
tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm.

1. Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm


ban đầu

150
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu
bao gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý được vận hành bởi cơ chế Phân
tách và liên kết dây.
Hạt năng lượng chân tâm ban đầu là hạt năng lượng
chân tâm rất yếu, nó chưa phân tách được nhiều hơn một hạt
để bắn vào Vũ trụ cũng như đối tượng tương tác, bởi nó chưa
xảy ra hành động tác động tới Tuệ linh, con người và vạn vật.
Hạt năng lượng chân tâm ban đầu chỉ là hạt lưu giữ lượng
thông tin ít ỏi trong sự cân bằng để gia cố Trụ linh.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu
gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

1.1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ bắt đầu từ điểm số
1, đó là điểm Sinh. Đây là điểm bắt đầu sinh khởi cho quá
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu được diễn ra
sau quá trình giải mã các Tướng. Tại điểm số 1, Trụ linh của
Tuệ linh, con người bắt đầu bằng trạng thái chân tâm ban
đầu để sinh khởi rung động cho hành trình Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu, trong hạt năng lượng
thì chính là điểm sinh khởi sóng rung động trong sợi mã sóng
trí tuệ, nó nằm trên đường trung tính. Như vậy, khởi đầu cho
một Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu,
Trụ linh sẽ đứng ở vị trí Định ban đầu, đó là chân tâm ban
đầu.
Từ điểm 1 là Sinh, Trụ linh bắt đầu di chuyển quá trình
rung động để đến được điểm 2 là điểm Triệt.
151
Điểm 2 – Triệt gồm có 2 ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm 2 để tiếp tục hành trình
sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu: đó là độc tâm
(độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực khiến
cho Tuệ linh, con người sinh khởi tư tưởng tạo ác nghiệp; đó
là sự hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng lượng chân
tâm ban đầu tại điểm số 2, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu: trường hợp này gọi là
triệt được những sự u mê, những bám chấp, những sân,
những hận, những tư tưởng tạo ác nghiệp, những sự lôi kéo
của các tư tưởng tiêu cực, không để độc tâm (độc trong Trụ
linh) sinh khởi tư tưởng tiêu cực tạo ác nghiệp. Khi không để
độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được những
môi trường sóng điện âm và tiêu cực, được gọi là Triệt.
Trong đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2, môi trường bên
ngoài tác động vào Trụ linh là rất lớn, đó là: các Tướng mang
sóng điện âm tác động vào; các Tướng mang sóng điện chân
tâm tác động vào; các Tướng mang sóng điện dương tác động
vào; năng lượng hoại diệt tác động vào.
Vì là Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm ban
đầu nên Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ không muốn lắng
nghe, không muốn đón nhận bất cứ những tương tác của các
Tướng, dù là sóng điện âm hay là sóng điện dương hoặc sóng
điện chân tâm. Tuệ linh, con người thể hiện bản lĩnh là mặc
kệ, không quan tâm, tuy nhiên quá trình tương tác sẽ hấp thụ
lượng thông tin ít ỏi vào Trụ linh cho dù Trụ linh không
muốn biến đổi và không muốn phiền muộn. Vì Trụ linh của
Tuệ linh, con người có sẵn tư tưởng ban đầu như điểm số 1 là
152
không thiện cũng không ác, nên sóng rung động của hạt năng
lượng chân tâm từ điểm số 1 tới điểm số 2 là rất nhẹ. Trụ
linh nhẹ nhàng tương tác với nhóm Tướng có sóng điện
dương, nhưng không hấp thụ các hạt năng lượng dương
được truyền vào. Trụ linh nhẹ nhàng tương tác với nhóm
Tướng có sóng điện âm, nhưng không hấp thụ các hạt năng
lượng âm được truyền vào. Trụ linh nhẹ nhàng tương tác với
nhóm Tướng có sóng điện chân tâm, nhưng không hấp thụ
các hạt năng lượng chân tâm vào. Đó là quá trình Trụ linh
tương tác nhẹ nhàng với cả ba nhóm Tướng có ba loại sóng
điện khác nhau để tạo thành sóng rung động nhẹ nhàng
trong Trụ linh, nhẹ nhàng bởi sự hấp thụ lượng ít thông tin
trong sự cân bằng để bảo vệ sự an lạc của chính mình.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 cho thấy, Tuệ linh,
con người không có tri thức, không có kiến thức của Chân lý
Vạn vật. Chính vì không có kiến thức, tri thức của Chân lý Vạn
vật nên tạo ra mã sóng rung động trong sợi trí tuệ của hạt
năng lượng chân tâm ban đầu ở thể trắng trong tinh khiết, đó
là hạt năng lượng không có trí tuệ về vạn vật.
Do không có trí tuệ về Chân lý Vạn vật, do muốn an lạc
thanh tịnh, do không muốn đón nhận bất cứ tư tưởng của bất
kỳ Tướng nào tác động tới, nên Trụ linh dễ dàng vượt qua
điểm số 2 để tới giai đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3.

1.2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Do Trụ linh không sinh khởi độc tâm (bộc phát độc
tâm trong Trụ linh) trong giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số
2, đó là không có tư tưởng tạo ác hay thiện nghiệp, nên Trụ
153
linh vượt qua được điểm 2 để tiếp tục hành trình sản sinh
hạt năng lượng chân tâm ban đầu, tiếp tục giai đoạn từ điểm
số 2 tới điểm số 3.
Điểm số 3 chính là điểm Ngộ, là điểm kết tụ được hệ tư
tưởng giác ngộ. Hệ tư tưởng giác ngộ được kết tụ là kết quả
của hành trình vượt qua giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2.
Giai đoạn này là giai đoạn mà Trụ linh đã trải qua quá
trình tương tác của các Tướng mà không hề muốn đón nhận
tư tưởng nào của các Tướng, chỉ là rung động và không đón
nhận, chỉ muốn bảo vệ sự an lành và thanh tịnh cho mình.
Kết quả của giai đoạn này là Trụ linh kết tụ thành hệ tư
tưởng Ngộ ở điểm cân bằng, đó là điểm nằm trên đường
trung tính trong sợi mã sóng trí tuệ. Điểm Ngộ này không
được gọi là giác ngộ, vì điểm giác ngộ là điểm số 3 phải mang
đặc điểm là vì vạn vật, Tuệ linh và con người mà không vì
mình. Trong khi đó, điểm số 3 của Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng chân tâm ban đầu mang đặc điểm là không vì ai
hay bất kỳ Tướng nào cả, mà đó là sự ngộ nhận rằng đưa ra
được hệ tư tưởng không thiện cũng không ác sau quá trình
tương tác với các Tướng sẽ là an lành, sẽ là thanh tịnh, ngộ
nhận về sự an lạc, sự thanh tịnh để không bị phiền não bởi
bất kỳ Tướng nào tương tác tới.

1.3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Khi có được hệ tư tưởng Ngộ, Trụ linh sẽ chuyển hóa
thành ngoại hành, đó là sinh khởi thành hành động.
Trong đoạn này, có điểm số 4 là Triệt. Triệt có hai ý
nghĩa:
154
- Không vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm: đó là độc tâm (độc
trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực khiến cho
Tuệ linh, con người ngoại hành tạo ác nghiệp; đó là sự hoại
diệt của quá trình hình thành hạt năng lượng chân tâm ban
đầu tại điểm số 4, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm ban đầu: trường hợp này gọi là
triệt được những hành động u mê, những bám chấp, những
sân, những hận, những hành động tạo ác nghiệp, những hành
động lôi kéo của các Tướng tiêu cực, không để độc tâm (độc
trong Trụ linh) và môi trường tiêu cực khiến cho Tuệ linh,
con người sinh khởi thành hành động tiêu cực. Khi không để
độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được môi
trường sóng điện âm, tiêu cực, được gọi là Triệt.
Trong đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4, môi trường bên
ngoài tác động vào Trụ linh rất lớn, đó là: các Tướng mang
sóng điện âm tác động vào; các Tướng mang sóng điện chân
tâm tác động vào; các Tướng mang sóng điện dương tác động
vào; năng lượng hoại diệt tác động vào.
Vì có được tư tưởng Ngộ ở điểm 3, nên trong giai đoạn
từ điểm số 3 tới điểm số 4, Tuệ linh vẫn giữ được Trụ linh ở
trạng thái cân bằng, an lạc và thanh tịnh. Tuệ linh, con người
vượt qua được tất cả các sự tương tác của các Tướng bên
ngoài, đồng thời không bị triệt bởi độc tâm không bộc phát.
Vượt qua đoạn này cũng cho thấy Tuệ linh, con người
không biết, không thấu hiểu gì về Chân lý Vạn vật. Họ không
bị lôi kéo bởi bất cứ Tướng nào cả, họ luôn và duy trì sự an
lạc, sự thanh tịnh, họ không muốn phiền não và phiền muộn.
155
Chính vì vậy, Tuệ linh, con người vượt qua được điểm
số 4 để chuyển sang đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5 của
Vòng tròn sản sinh năng lượng chân tâm ban đầu.

1.4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Khi Tuệ linh, con người vượt qua được điểm số 4 –
Triệt, tức là họ đã duy trì được hệ tư tưởng Ngộ để dẫn tới
giai đoạn ngoại hành và hoàn thiện quá trình sản sinh hạt
năng lượng chân tâm ban đầu.
Do không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, do đã kết tụ
được hệ tư tưởng Ngộ là không thiện cũng không ác, nên Tuệ
linh, con người sẽ không thực hiện hành động tạo ác nghiệp
cũng như không thực hiện hành động nào tạo ra thiện nghiệp
trong quá trình tương tác với các Tướng.
Khi trải qua hết 5 điểm trong Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng chân tâm ban đầu, vì không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật, vì có tư tưởng chỉ là Ngộ nhận, nên Tuệ linh, con
người vận hành Trụ linh từ chân tâm ban đầu là không thiện
cũng không ác, Trụ linh trải qua sự rung động của sự tương
tác với các Tướng để không bị lôi kéo bởi các Tướng và cũng
không để Trụ linh bộc phát độc tâm hay thiện tâm, và kết
thúc vòng tròn tương tác là không hành động gì. Khi kết thúc
chính là trong Trụ linh sẽ phân tách ra hạt năng lượng chân
tâm trắng trong, đó là hạt năng lượng chân tâm ban đầu. Gọi
là hạt năng lượng chân tâm ban đầu vì nó vẫn là trạng thái
năng lượng chân tâm lúc bắt đầu sinh khởi rung động và
tương tác, nó chỉ có thêm một lượng ít thông tin được hấp
thụ vào trong trụ linh trong trạng thái cân bằng.
156
Hạt năng lượng chân tâm ban đầu được sản sinh ra bởi
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm sẽ không bền
vững, không có sức mạnh, nó sẽ nhanh chóng khiến cho Trụ
linh và Tuệ linh, con người chuyển hóa thành Vòng tròn sản
sinh năng lượng tiêu cực hoặc năng lượng tích cực. Để Tuệ
linh, con người chuyển hóa Vòng tròn sản sinh năng lượng
chân tâm ban đầu sang sản sinh năng lượng tiêu cực hoặc
tích cực cần phải có môi trường sóng điện âm hoặc dương
tương tác trong thời gian dài cùng mật độ và cường độ lớn.
Kết thúc hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
chân tâm ban đầu, Trụ linh chỉ sản sinh ra một hạt năng
lượng chân tâm tận cùng duy nhất, đó là trạng thái năng
lượng chân tâm từ ban đầu khi sinh khởi rung động trong
quá trình tương tác, và chỉ có thêm được ít thông tin hấp thụ
vào Trụ linh trong sự cân bằng. Hạt năng lượng chân tâm ban
đầu được sản sinh không được phân tách thành 3 vùng, nó
chỉ là trạng thái năng lượng chân tâm trắng trong được gia
cố trong Trụ linh.
Hạt năng lượng chân tâm ban đầu là nền móng cho
hành trình thực hiện Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân
tâm ở cảnh giới cao hơn.
Điểm số 5 là điểm Tỏa, nhưng do chỉ phân tách được
một hạt năng lượng chân tâm ban đầu và chưa tỏa được năng
lượng vào Vũ trụ và đối tượng Tướng tương tác nên không
được coi là Tỏa, chỉ được coi là gia cố sự tự tại cho Trụ linh.

Ví dụ một người sản sinh hạt năng lượng chân tâm


ban đầu:

157
Một người được nghe nói về tri thức của hai Chân lý.
Người đó được nghe nhiều người ca ngợi giá trị siêu việt của
giáo lý, cũng được nghe nhiều người phản bác nói rằng giáo
lý đi ngược lại tư tưởng các tôn giáo, và cũng nghe nhiều
người nói rằng họ không quan tâm. Khi người đó nghe,
tương tác với nhiều người bàn luận về tri thức của hai Chân
lý, người đó rung động trong Trụ linh và không bị lôi kéo bởi
bất cứ quan điểm nào, người đó vận hành Trụ linh vượt qua
được điểm số 2. Người đó không nghiên cứu cũng như không
hiểu biết về Chân lý Vạn vật nên họ sinh khởi hệ tư tưởng
Ngộ là không quan tâm, không thiện cũng không ác. Người đó
không phản bác cũng không nghiên cứu hay đồng tình ca
ngợi tri thức của hai Chân lý. Người đó ngộ nhận rằng không
màng chuyện của người khác chính là sự an lạc, an lành,
thanh tịnh. Tiếp theo, họ không quan tâm bất cứ ai ngoại
hành phản bác và những ai ngoại hành lan tỏa tri thức của
hai Chân lý. Người này quyết định ngoại hành là mặc kệ tất
cả, không nói những lời phản bác cũng không ca ngợi, cũng
không học hay nghiên cứu hai Chân lý. Tuy nhiên, vì quá
trình tương tác, nghe nhiều người nói về hai Chân lý, nên
trong Trụ linh của họ đã hấp thụ một lượng thông tin trong
sự kiểm soát để được an toàn và an lạc. Quá trình này khiến
Trụ linh của người đó sản sinh ra một hạt năng lượng chân
tâm ban đầu cho cả một hành trình tương tác với nhiều
người bàn luận về tri thức của hai Chân lý, Trụ linh của họ
được gia cố bởi một lượng thông tin đã hấp thụ bị động trong
sự kiểm soát cân bằng.

2. Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm


phát triển
158
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển
bao gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý được vận hành bởi cơ chế Phân
tách và liên kết dây.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển
gắn liền với Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển,
bởi khi hạt năng lượng phát triển được sản sinh, sẽ đồng thời
sản sinh ra hạt năng lượng chân tâm phát triển. Trong Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển sẽ chỉ đề
cập tới năng lượng chân tâm phát triển.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển
gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

2.1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ bắt đầu từ điểm số
1, đó là điểm Sinh. Đây là điểm bắt đầu sinh khởi cho quá
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển được diễn
ra sau quá trình giải mã các Tướng. Tại điểm số 1, Trụ linh
của Tuệ linh, con người bắt đầu bằng trạng thái chân tâm
phát triển để sinh khởi rung động cho hành trình Vòng tròn
sản sinh hạt năng lượng phát triển, trong hạt năng lượng
chính là điểm sinh khởi sóng rung động trong sợi mã sóng trí
tuệ, nó nằm trên đường trung tính. Như vậy, khởi đầu cho
một Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển,
Trụ linh sẽ đứng ở vị trí Định phát triển, đó là chân tâm sinh
khởi phát triển các cấu trúc bền vững trong sáng vì vạn vật,
Tuệ linh và con người.

159
Từ điểm 1 là Sinh, Trụ linh bắt đầu di chuyển quá trình
rung động để đến được điểm 2 là điểm Triệt.
Điểm số 2 – Triệt gồm có 2 ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển: đó là độc
tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực
khiến cho Tuệ linh, con người sinh khởi tư tưởng tạo ác
nghiệp; đó là sự hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng
lượng chân tâm phát triển, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm 2 để tiếp tục hành trình sản sinh
hạt năng lượng chân tâm phát triển: trường hợp này gọi là
triệt được những sự u mê, những bám chấp, những sân,
những hận, những tư tưởng tạo ác nghiệp, những sự lôi kéo
của các tư tưởng tiêu cực, không để độc tâm (độc trong Trụ
linh) sinh khởi tư tưởng tiêu cực tạo ác nghiệp. Khi không để
độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được những
môi trường sóng điện âm và tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì Tuệ linh, con người đang vận hành Trụ linh thực
hiện sản sinh năng lượng phát triển, năng lượng phát triển
mang sóng điện dương, nên Trụ linh quyết tâm chuyển thành
và duy trì trạng thái đa dương mạnh là phát triển. Điều này
có nghĩa là Trụ linh quyết tâm không để độc tâm (độc trong
Trụ linh) sinh khởi mà thay vào đó là cố gắng phát triển đặc
tính thiện tâm và tinh hoa về phát triển bền vững tới vạn vật,
Tuệ linh và con người.
Môi trường bên ngoài Trụ linh có những Tướng đa âm
tác động tới, có những Tướng đa dương tác động tới, có

160
những Tướng chân tâm tác động tới, có năng lượng hoại diệt
tác động tới.
Do Tuệ linh, con người thấu hiểu phần nào đó Chân lý
Vạn vật nên Trụ linh chỉ liên kết, đón nhận những Tướng có
cùng tư tưởng là phát triển tác động tới. Trụ linh không đón
nhận các Tướng đa âm tác động vào, và đón nhận được
những hạt năng lượng phát triển từ những Tướng phát triển
phân tách tới. Trụ linh sẽ hấp thụ năng lượng phát triển để
vượt qua được điểm Triệt số 2 và không để độc tâm trong
Trụ linh bộc phát, không bị năng lượng tiêu cực bên ngoài tác
động vào.
Quá trình Trụ linh rung động do tương tác giữa các
Tướng để tạo thành sự rung động phức tạp cho hạt năng
lượng phát triển cũng chính là tạo ra sự rung động phức tạp
cho năng lượng chân tâm phát triển.
Như vậy, Tuệ linh, con người thông qua sự hiểu biết
phần nào đó về Chân lý Vạn vật đã chọn lọc, hấp thụ được
năng lượng phát triển từ bên ngoài, đồng thời không để độc
tâm sinh khởi, do đó vượt qua được điểm Triệt bằng Chân lý
Vạn vật để tiến tới điểm 3 là Ngộ.

2.2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Do Tuệ linh, con người dùng Trụ linh để đón nhận
được những hạt năng lượng phát triển bên ngoài về và
không để độc tâm sinh khởi trong Trụ linh, nên Tuệ linh, con
người đã có thêm động lực và niềm tin vững chắc để kết tụ
thành hệ tư tưởng, đó là giác ngộ về hệ tư tưởng phát triển.

161
Điểm 3 là điểm Ngộ. Đây là điểm giác ngộ đạt được sau
khi đã có trí tuệ nhất định về Chân lý Vạn vật trong việc sản
sinh năng lượng phát triển, đó là hệ tư tưởng phát triển bền
vững vì vạn vật, Tuệ linh và con người mà không màng tới
bản thể mình.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới
được điểm số 3.

2.3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Khi có được hệ tư tưởng giác ngộ, Trụ linh sẽ chuyển
hóa thành ngoại hành, đó là sinh khởi thành hành động.
Điểm số 4 là Triệt. Triệt có hai ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển: đó là độc
tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực
khiến cho Tuệ linh, con người ngoại hành tạo ác nghiệp; đó là
sự hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng lượng chân
tâm phát triển, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển: trường hợp này gọi
là triệt được những hành động u mê, những bám chấp,
những sân, những hận, những hành động tạo ác nghiệp,
những hành động lôi kéo của các Tướng tiêu cực, không để
độc tâm (độc trong Trụ linh) và môi trường tiêu cực khiến
cho Tuệ linh, con người sinh khởi thành hành động tiêu cực.
Khi không để độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua
được môi trường sóng điện âm, tiêu cực, được gọi là Triệt.
162
Vì có được hệ tư tưởng giác ngộ phát triển nên Tuệ
linh, con người dễ dàng vận dụng Chân lý Vạn vật để vượt
qua được điểm Triệt, đó là không để độc tâm sinh khởi,
không để các Tướng tiêu cực tương tác tới. Do đó, Tuệ linh
vượt qua được điểm Triệt số 4 bằng Chân lý Vạn vật để
chuyển hóa thành hành động ngoại hành sản sinh hạt năng
lượng chân tâm phát triển ở điểm số 5.

2.4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Khi Tuệ linh, con người vượt qua được điểm số 4 –
Triệt, tức là Trụ linh đã duy trì được hệ tư tưởng giác ngộ để
dẫn tới giai đoạn ngoại hành và hoàn thiện quá trình sản sinh
hạt năng lượng chân tâm phát triển.
Do có phần nào đó trí tuệ của Chân lý Vạn vật, do đã
kết tụ được hệ tư tưởng giác ngộ là phát triển vì vạn vật, Tuệ
linh và con người, nên Tuệ linh, con người sẽ thực hiện hành
động phát triển các cấu trúc bền vững vì vạn vật, Tuệ linh và
con người.
Khi hoàn thành điểm số 5 là Tỏa, tức là đã hành động
thành công việc phát triển cấu trúc bền vững tới vạn vật, Tuệ
linh và con người, trong Trụ linh của Tuệ linh, con người
cũng được sản sinh hạt năng lượng chân tâm phát triển trắng
sáng. Hạt năng lượng chân tâm phát triển được sản sinh ra sẽ
phân tách làm 3 vùng: trong Trụ linh sẽ lưu giữ một hạt,
trong Vũ trụ sẽ lưu giữ một hạt, đối tượng Tướng đón nhận
sẽ lưu giữ một hạt.
Như vậy, Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm
phát triển đã Tỏa hạt năng lượng chân tâm phát triển vào Vũ
163
trụ và đối tượng tương tác. Điều này chính là minh chứng
cho việc Tuệ linh khi vượt qua giai đoạn từ điểm số 1 tới
điểm số 2 cũng được các Tướng phát triển phân tách năng
lượng phát triển có kèm hạt năng lượng chân tâm phát triển
tới để tạo thành sự thấu hiểu con đường, phương pháp phát
triển, khi thực hành từ đoạn điểm số 3 tới điểm số 4 cũng
được các Tướng phát triển phân tách năng lượng phát triển
và năng lượng chân tâm phát triển tới. Do đó, việc Tuệ linh
hoàn thành một Vòng tròn sản sinh năng lượng chân tâm
phát triển sẽ tạo thành liên kết thúc đẩy các Tướng khác
cũng phát triển theo. Quá trình đó sẽ nâng cấp thành Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa.
Hạt năng lượng chân tâm phát triển được phân tách ra
là do Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển, hạt năng
lượng chân tâm phát triển có khả năng liên kết, gắn kết hạt
năng lượng dương phát triển mạnh và bền vững. Đây chính
là sợi dây chân tâm làm nhiệm vụ gắn kết giữa các hạt năng
lượng dương trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Hạt năng lượng chân tâm phát triển là hạt
năng lượng chân tâm tận cùng.

3. Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm


lan tỏa
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa
bao gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý được vận hành bởi cơ chế Phân
tách và liên kết dây.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa
gắn liền với Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, bởi khi
164
hạt năng lượng lan tỏa được sản sinh, sẽ đồng thời sản sinh
ra hạt năng lượng chân tâm lan tỏa. Trong Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa sẽ chỉ đề cập tới hạt
năng lượng chân tâm lan tỏa.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa
gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

3.1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ bắt đầu từ điểm số
1, đó là điểm Sinh. Đây là điểm bắt đầu sinh khởi cho quá
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa được diễn ra
sau quá trình giải mã các Tướng. Tại điểm số 1, Trụ linh của
Tuệ linh, con người bắt đầu bằng trạng thái chân tâm lan tỏa
để sinh khởi rung động cho hành trình Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng lan tỏa, trong hạt năng lượng thì chính là
điểm sinh khởi sóng rung động trong sợi mã sóng trí tuệ, nó
nằm trên đường trung tính. Như vậy, khởi đầu cho một Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa, Trụ linh sẽ
đứng ở vị trí Định lan tỏa, đó là chân tâm sinh khởi lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững trong sáng tới vạn vật, Tuệ
linh và con người.
Từ điểm số 1 là Sinh, Trụ linh bắt đầu di chuyển quá
trình rung động để đến được điểm số 2 là điểm Triệt.
Điểm số 2 – Triệt gồm có 2 ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa: đó là độc tâm
(độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực khiến
cho Tuệ linh, con người sinh khởi tư tưởng tạo ác nghiệp; đó
165
là sự hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng lượng chân
tâm lan tỏa, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa: trường hợp này gọi là
triệt được những sự u mê, những bám chấp, những sân,
những hận, những tư tưởng tạo nghiệp, những sự lôi kéo của
các tư tưởng tiêu cực, không để độc tâm (độc trong Trụ linh)
sinh khởi tư tưởng tiêu cực tạo ác nghiệp. Khi không để độc
tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được những môi
trường sóng điện âm và tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì Tuệ linh, con người đang vận hành Trụ linh thực
hiện sản sinh năng lượng lan tỏa, năng lượng lan tỏa mang
sóng điện dương, nên Trụ linh quyết tâm chuyển thành và
duy trì trạng thái đa dương rất mạnh là lan tỏa. Trụ linh
quyết tâm không để độc tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi
mà thay vào đó là cố gắng kích hoạt hết thiện tâm là lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững tới Tuệ linh, con người và
vạn vật.
Môi trường bên ngoài Trụ linh có những Tướng đa âm
tác động tới, có những Tướng đa dương tác động tới, có
những Tướng chân tâm tác động tới, có năng lượng hoại diệt
tác động tới.
Do Tuệ linh, con người thấu hiểu được nhiều về Chân
lý Vạn vật nên Trụ linh chỉ liên kết, đón nhận những Tướng
có cùng tư tưởng là lan tỏa các cấu trúc phát triển tác động
tới, không đón nhận các Tướng đa âm. Trụ linh của Tuệ linh,
con người sẽ đón nhận được những hạt năng lượng lan tỏa
từ những Tướng cũng đang sản sinh năng lượng lan tỏa. Trụ
linh sẽ hấp thụ năng lượng lan tỏa để vượt qua được điểm
166
Triệt số 2, đó là không để độc tâm trong Trụ linh bộc phát,
không bị năng lượng tiêu cực bên ngoài tác động vào.
Quá trình Trụ linh rung động do tương tác giữa các
Tướng để tạo thành sự rung động phức tạp cho hạt năng
lượng lan tỏa cũng chính là tạo ra sự rung động phức tạp cho
năng lượng chân tâm lan tỏa.
Như vậy, Tuệ linh, con người thông qua sự hiểu biết
nhiều về Chân lý Vạn vật đã chọn lọc được năng lượng lan
tỏa các cấu trúc phát triển từ bên ngoài tới, đồng thời không
để độc tâm sinh khởi. Do đó, Trụ linh vượt qua được điểm
Triệt bằng Chân lý Vạn vật để tiến tới điểm 3 là Ngộ.

3.2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Do Tuệ linh, con người dùng Trụ linh để đón nhận
được những năng lượng lan tỏa bên ngoài về và không để
độc tâm sinh khởi trong Trụ linh, nên Tuệ linh, con người đã
có thêm động lực và niềm tin vững chắc để kết tụ thành hệ tư
tưởng, đó là giác ngộ về hệ tư tưởng lan tỏa.
Điểm số 3 là điểm Ngộ. Đây là điểm giác ngộ đạt được
sau khi đã có trí tuệ về Chân lý Vạn vật trong việc sản sinh
năng lượng lan tỏa, đó là hệ tư tưởng lan tỏa các cấu trúc
phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người mà
không màng tới bản thể mình.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới
được điểm số 3.

3.3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


167
Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Khi có được hệ tư tưởng giác ngộ, Trụ linh sẽ chuyển
hóa thành ngoại hành, đó là sinh khởi thành hành động.
Điểm số 4 là Triệt. Triệt có hai ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa: đó là độc tâm
(độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực khiến
cho Tuệ linh, con người ngoại hành tạo ác nghiệp; đó là sự
hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng lượng chân tâm
lan tỏa, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm lan tỏa: trường hợp này gọi là
triệt được những hành động u mê, những bám chấp, những
sân, những hận, những hành động tạo ác nghiệp, những hành
động lôi kéo của các Tướng tiêu cực, không để độc tâm (độc
trong Trụ linh) và môi trường tiêu cực khiến cho Tuệ linh,
con người sinh khởi thành hành động tiêu cực. Khi không để
độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được môi
trường sóng điện âm, tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì có được hệ tư tưởng giác ngộ lan tỏa nên Tuệ linh,
con người dễ dàng vận dụng Chân lý Vạn vật để vượt qua
được điểm Triệt, đó là không để độc tâm sinh khởi, không để
các Tướng tiêu cực tương tác tới. Do đó, Tuệ linh vượt qua
được điểm Triệt số 4 bằng Chân lý Vạn vật để chuyển hóa
thành hành động ngoại hành sản sinh hạt năng lượng chân
tâm lan tỏa ở điểm số 5.

3.4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


168
Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Khi Tuệ linh, con người vượt qua được điểm số 4 –
Triệt, tức là họ đã duy trì được hệ tư tưởng giác ngộ để dẫn
tới giai đoạn ngoại hành và hoàn thiện quá trình sản sinh hạt
năng lượng chân tâm lan tỏa.
Do có sự hiểu biết nhiều về trí tuệ của Chân lý Vạn vật,
do đã kết tụ được hệ tư tưởng giác ngộ là lan tỏa phát triển vì
vạn vật, Tuệ linh và con người, nên Tuệ linh, con người sẽ
thực hiện hành động lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững
tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Khi hoàn thành điểm số 5 là Tỏa, tức là đã hành động
thành công việc lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới
vạn vật, Tuệ linh và con người, trong Trụ linh của Tuệ linh,
con người cũng được sản sinh hạt năng lượng chân tâm lan
tỏa trắng sáng. Hạt năng lượng chân tâm lan tỏa được sản
sinh ra sẽ phân tách làm 3 vùng, đó là trong Trụ linh sẽ lưu
giữ một hạt, trong Vũ trụ sẽ lưu giữ một hạt, đối tượng
Tướng đón nhận sẽ lưu giữ một hạt.
Như vậy, Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm
lan tỏa đã Tỏa hạt năng lượng chân tâm lan tỏa vào Vũ trụ và
đối tượng tương tác. Điều này chính là minh chứng cho việc
Tuệ linh khi vượt qua giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2
cũng được các Tướng lan tỏa phân tách năng lượng lan tỏa
có kèm hạt năng lượng chân tâm lan tỏa tới để tạo thành sự
thấu hiểu con đường, phương pháp lan tỏa, khi thực hành từ
đoạn điểm số 3 tới điểm số 4 cũng được các Tướng lan tỏa
phân tách năng lượng lan tỏa và năng lượng chân tâm lan tỏa
tới. Do đó, việc Tuệ linh hoàn thành một Vòng tròn sản sinh
năng lượng chân tâm lan tỏa là sẽ tạo thành liên kết thúc đẩy

169
các Tướng khác cũng lan tỏa theo. Quá trình đó sẽ nâng cấp
thành Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết.
Hạt năng lượng chân tâm lan tỏa được phân tách là do
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa, nên hạt năng
lượng chân tâm lan tỏa có khả năng liên kết, gắn kết hạt năng
lượng dương lan tỏa rất mạnh và bền vững. Đây chính là sợi
dây chân tâm làm nhiệm vụ gắn kết giữa các hạt năng lượng
dương trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài
Trụ linh.

4. Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm


đoàn kết
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết
bao gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý được vận hành bởi cơ chế Phân
tách và liên kết dây.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết
gắn liền với Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, bởi khi
hạt năng lượng đoàn kết được sản sinh, sẽ đồng thời sản sinh
ra hạt năng lượng chân tâm đoàn kết. Trong Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết sẽ chỉ đề cập tới năng
lượng chân tâm đoàn kết.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết
gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

4.1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.

170
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ bắt đầu từ điểm số
1, đó là điểm Sinh. Đây là điểm bắt đầu sinh khởi cho quá
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết được diễn
ra sau quá trình giải mã các Tướng. Tại điểm số 1, Trụ linh
của Tuệ linh, con người bắt đầu bằng trạng thái chân tâm
đoàn kết để sinh khởi rung động cho hành trình Vòng tròn
sản sinh hạt năng lượng đoàn kết, trong hạt năng lượng thì
chính là điểm sinh khởi sóng rung động trong sợi mã sóng trí
tuệ, nó nằm trên đường trung tính. Như vậy, khởi đầu cho
một Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết,
Trụ linh sẽ đứng ở vị trí Định đoàn kết, đó là chân tâm sinh
khởi đoàn kết hết thảy Tuệ linh và con người cùng lan tỏa các
cấu trúc phát triển bền vững trong sáng tới vạn vật, Tuệ linh
và con người.
Từ điểm số 1 là Sinh, Trụ linh bắt đầu di chuyển quá
trình rung động để đến được điểm số 2 là điểm Triệt.
Điểm số 2 – Triệt gồm có 2 ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết: đó là độc
tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực
khiến cho Tuệ linh, con người sinh khởi tư tưởng tạo ác
nghiệp; đó là sự hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng
lượng chân tâm đoàn kết, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết: trường hợp này gọi
là triệt được những sự u mê, những bám chấp, những sân,
những hận, những tư tưởng tạo nghiệp, những sự lôi kéo của
các tư tưởng tiêu cực, không để độc tâm (độc trong Trụ linh)
sinh khởi tư tưởng tiêu cực tạo ác nghiệp. Khi không để độc
171
tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được những môi
trường sóng điện âm và tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì Tuệ linh, con người đang vận hành Trụ linh thực
hiện sản sinh năng lượng đoàn kết, năng lượng đoàn kết
mang sóng điện dương, nên Trụ linh quyết tâm chuyển thành
và duy trì trạng thái đa dương siêu mạnh là đoàn kết. Trụ
linh quyết tâm không để độc tâm (độc trong Trụ linh) sinh
khởi mà thay vào đó là cố gắng kích hoạt hết thiện tâm là
đoàn kết hết thảy các Tướng cùng lan tỏa các cấu trúc phát
triển bền vững tới Tuệ linh, con người và vạn vật.
Môi trường bên ngoài Trụ linh có những Tướng đa âm
tác động tới, có những Tướng đa dương tác động tới, có
những Tướng chân tâm tác động tới, có năng lượng hoại diệt
tác động tới.
Do Tuệ linh, con người thấu hiểu được rất nhiều về
Chân lý Vạn vật nên Trụ linh liên kết được tất cả các Tướng
tương tác tới. Họ đón nhận những năng lượng dương, năng
lượng chân tâm vào Trụ linh. Họ dùng chính ánh sáng của
chân tâm đoàn kết để chuyển hóa sóng điện của những hạt
năng lượng âm do các Tướng tiêu cực truyền tới và coi đó là
bài học để diệt, để không cho độc tâm trong Trụ linh sinh
khởi.
Quá trình Trụ linh rung động do tương tác giữa các
Tướng để tạo thành sự rung động phức tạp cho hạt năng
lượng đoàn kết cũng chính là tạo ra sự rung động phức tạp
cho hạt năng lượng chân tâm đoàn kết.
Như vậy, Tuệ linh, con người thông qua sự thấu hiểu
rất nhiều về Chân lý Vạn vật đã hấp thụ được hết thảy các hạt
năng lượng của các Tướng khác nhau, đặc biệt là khả năng

172
chuyển hóa và giảm tải sóng điện của các hạt năng lượng âm
bắn tới trở thành những hạt năng lượng có sóng điện âm rất
nhẹ. Những hạt năng lượng âm đó trở thành những bài học
cho chính Tuệ linh, con người không để độc tâm trong Trụ
linh sinh khởi. Do đó, họ vượt qua được điểm Triệt bằng
Chân lý Vạn vật để tiến tới điểm 3 là Ngộ.

4.2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Do Tuệ linh, con người dùng Trụ linh để đón nhận
được hết những hạt năng lượng của hết thảy Tướng về, đặc
biệt là chuyển hóa và giảm tải được sóng điện của những hạt
năng lượng âm, nên Tuệ linh, con người đã có động lực và
niềm tin vững chắc để kết tụ thành hệ tư tưởng, đó là giác
ngộ về hệ tư tưởng đoàn kết.
Điểm 3 là điểm Ngộ. Đây là điểm giác ngộ đạt được sau
khi đã có trí tuệ thấu hiểu rất nhiều về Chân lý Vạn vật trong
việc sản sinh năng lượng đoàn kết, đó là hệ tư tưởng đoàn
kết hết thảy các Tướng cùng lan tỏa các cấu trúc phát triển
bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người mà không màng
tới bản thể mình.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới
được điểm số 3.

4.3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Khi có được hệ tư tưởng giác ngộ, Trụ linh sẽ chuyển
hóa thành ngoại hành, đó là sinh khởi thành hành động.
173
Điểm số 4 là Triệt. Triệt có hai ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành
trình sản sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết: đó là độc
tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực
khiến cho Tuệ linh, con người ngoại hành tạo ác nghiệp; đó là
sự hoại diệt của quá trình hình thành hạt năng lượng chân
tâm đoàn kết, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành trình sản
sinh hạt năng lượng chân tâm đoàn kết: trường hợp này gọi
là triệt được những hành động u mê, những bám chấp,
những sân, những hận, những hành động tạo ác nghiệp,
những hành động lôi kéo của các Tướng tiêu cực, không để
độc tâm (độc trong Trụ linh) và môi trường tiêu cực khiến
cho Tuệ linh, con người sinh khởi thành hành động tiêu cực.
Khi không để độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua
được môi trường sóng điện âm, tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì có được hệ tư tưởng giác ngộ đoàn kết nên Tuệ linh,
con người dễ dàng vận dụng Chân lý Vạn vật để vượt qua
được điểm Triệt, đó là không để độc tâm sinh khởi, không để
các đối tượng Tướng tiêu cực tương tác lôi kéo theo. Do đó,
Tuệ linh vượt qua được điểm Triệt số 4 bằng Chân lý Vạn vật
để chuyển hóa thành hành động ngoại hành sản sinh hạt
năng lượng chân tâm đoàn kết ở điểm số 5.

4.4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Khi Tuệ linh, con người vượt qua được điểm số 4 –
Triệt, tức là họ đã duy trì được hệ tư tưởng giác ngộ để dẫn
174
tới giai đoạn ngoại hành và hoàn thiện quá trình sản sinh hạt
năng lượng chân tâm đoàn kết.
Do có trí tuệ thấu hiểu rất nhiều về Chân lý Vạn vật, do
đã kết tụ được hệ tư tưởng giác ngộ là đoàn kết hết thảy các
Tướng cùng lan tỏa phát triển vì vạn vật, Tuệ linh và con
người, nên Tuệ linh, con người sẽ thực hiện hành động đoàn
kết hết thảy các Tướng cùng lan tỏa các cấu trúc phát triển
bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Khi hoàn thành điểm số 5 là Tỏa, tức là đã hành động
thành công việc đoàn kết các Tướng cùng lan tỏa các cấu trúc
phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người, trong
Trụ linh của Tuệ linh, con người cũng được sản sinh hạt năng
lượng chân tâm đoàn kết trắng sáng. Hạt năng lượng chân
tâm đoàn kết được sản sinh ra sẽ phân tách làm 3 vùng, đó là
trong Trụ linh sẽ lưu giữ một hạt, trong Vũ trụ sẽ lưu giữ một
hạt, đối tượng Tướng đón nhận sẽ lưu giữ một hạt.
Như vậy, ở Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân
tâm đoàn kết đã Tỏa hạt năng lượng chân tâm vào Vũ trụ và
đối tượng tương tác. Điều này chính là minh chứng cho việc
Tuệ linh khi vượt qua giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2
cũng được các Tướng đoàn kết phân tách năng lượng đoàn
kết có kèm hạt năng lượng chân tâm đoàn kết tới để tạo
thành sự thấu hiểu con đường, phương pháp đoàn kết, khi
thực hành từ đoạn điểm số 3 tới điểm số 4 cũng được các
Tướng đoàn kết phân tách năng lượng đoàn kết và năng
lượng chân tâm đoàn kết tới. Do đó, việc Tuệ linh hoàn thành
một Vòng tròn sản sinh năng lượng chân tâm đoàn kết là sẽ
tạo thành liên kết thúc đẩy các Tướng khác cũng đoàn kết
theo. Quá trình đó sẽ nâng cấp thành Vòng tròn sản sinh siêu
hạt năng lượng chân tâm màu vàng óng ánh.
175
Hạt năng lượng chân tâm đoàn kết được phân tách ra
là do Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết, nên hạt
năng lượng chân tâm đoàn kết có khả năng liên kết, gắn kết
hạt năng lượng dương đoàn kết siêu mạnh và bền vững. Đây
chính là sợi dây chân tâm làm nhiệm vụ gắn kết giữa các hạt
năng lượng dương trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng
bên ngoài Trụ linh.

5. Các Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng


lượng chân tâm
Các siêu hạt năng lượng chân tâm gắn liền với các siêu
hạt năng lượng đó là: siêu hạt năng lượng chân tâm màu
vàng óng ánh, siêu hạt năng lượng chân tâm xanh ngọc lưu
ly, siêu hạt năng lượng chân tâm Nhật Sư.
Các Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng chân
tâm đều giống nhau bởi đều phải thấu hiểu triệt để Chân lý
Vạn vật, Chân lý Giác ngộ, tiếp đến là phụ thuộc vào khả năng
thực hành, liên kết đoàn kết được hết thảy cho tới tận cùng
các Tướng trong và ngoài Vũ trụ để sản sinh ra các loại siêu
hạt năng lượng chân tâm khác nhau.
Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm
bao gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý được vận hành bởi cơ chế Phân
tách và liên kết dây.
Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm
gắn liền với các Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng,
bởi khi các siêu hạt năng lượng được sản sinh, sẽ đồng thời
sản sinh ra các siêu hạt năng lượng chân tâm. Trong Vòng

176
tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm sẽ chỉ đề cập
tới các siêu hạt năng lượng chân tâm.
Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm
gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

5.1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ bắt đầu từ điểm số
1, đó là điểm Sinh. Đây là điểm bắt đầu sinh khởi cho quá
trình sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm được diễn ra
sau quá trình giải mã các Tướng. Tại điểm số 1, Trụ linh của
Tuệ linh, con người bắt đầu bằng trạng thái chân tâm siêu
đoàn kết để sinh khởi rung động cho hành trình Vòng tròn
sản sinh các siêu hạt năng lượng, trong siêu hạt năng lượng
thì chính là điểm sinh khởi sóng rung động trong sợi mã sóng
trí tuệ, nó nằm trên đường trung tính. Như vậy, khởi đầu cho
một Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng chân tâm, Trụ
linh sẽ đứng ở vị trí Định siêu đoàn kết, đó là chân tâm sinh
khởi siêu đoàn kết hết thảy Tuệ linh và con người cùng thực
hiện Phổ độ, Hóa độ Tuệ linh và con người thực hành
phương pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Từ điểm 1 là Sinh, Trụ linh bắt đầu di chuyển quá trình
rung động để đến được điểm số 2 là điểm Triệt.
Điểm số 2 – Triệt gồm có 2 ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành
trình sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm: đó là độc
tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực
khiến cho Tuệ linh, con người sinh khởi tư tưởng tạo ác
nghiệp; đó là sự hoại diệt của quá trình hình thành các siêu
177
hạt năng lượng chân tâm, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 2 để tiếp tục hành trình sản
sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm: trường hợp này gọi là
triệt được những sự u mê, những bám chấp, những sân,
những hận, những tư tưởng tạo nghiệp, những sự lôi kéo của
các tư tưởng tiêu cực, không để độc tâm (độc trong Trụ linh)
sinh khởi tư tưởng tiêu cực tạo ác nghiệp. Khi không để độc
tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được những môi
trường sóng điện âm và tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì Tuệ linh, con người đang vận hành Trụ linh thực
hiện sản sinh các siêu hạt năng lượng, các siêu hạt năng
lượng lại dựa trên khả năng siêu liên kết, siêu đoàn kết hết
thảy các Tướng, điều này khiến cho Trụ linh quyết tâm
không để độc tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi mà thay vào
đó là cố gắng kích hoạt hết thiện tâm là siêu đoàn kết hết
thảy các Tướng cùng thực hành Phổ độ, Hóa độ hết thảy Tuệ
linh và con người thực hành chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng.
Môi trường bên ngoài Trụ linh có những Tướng đa âm
tác động tới, có những Tướng đa dương tác động tới, có
những Tướng chân tâm tác động tới, có năng lượng hoại diệt
tác động tới.
Do Tuệ linh, con người thấu hiểu triệt để về Chân lý
Vạn vật nên họ liên kết được hết thảy cho tới tận cùng tất cả
các Tướng trong và ngoài Vũ trụ. Họ đón nhận những năng
lượng dương, năng lượng chân tâm vào Trụ linh. Họ dùng
chính ánh sáng của chân tâm siêu đoàn kết để chuyển hóa
sóng điện của những hạt năng lượng âm do các Tướng tiêu

178
cực truyền tới và coi đó là bài học để diệt không cho độc tâm
trong Trụ linh sinh khởi.
Quá trình Trụ linh rung động do tương tác giữa các
Tướng để tạo thành sự rung động phức tạp cho các siêu hạt
năng lượng cũng chính là tạo ra sự rung động phức tạp cho
các siêu hạt năng lượng chân tâm.
Như vậy, Tuệ linh, con người thông qua sự thấu hiểu
triệt để về Chân lý Vạn vật đã liên kết, hấp thụ được hết thảy
cho tới tận cùng các hạt năng lượng của các Tướng khác
nhau, đặc biệt là khả năng chuyển hóa và giảm tải sóng điện
của các hạt năng lượng âm bắn tới trở thành những hạt năng
lượng có sóng điện âm rất nhẹ. Những hạt năng lượng âm đó
trở thành những bài học cho chính Tuệ linh, con người không
để độc tâm trong Trụ linh sinh khởi. Do đó, họ vượt qua
được điểm Triệt bằng Chân lý Vạn vật để tiến tới điểm 3 là
Ngộ.

5.2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Do Tuệ linh, con người dùng Trụ linh để đón nhận
được hết những hạt năng lượng của hết thảy cho tới tận cùng
các Tướng về, đặc biệt là chuyển hóa và giảm tải được sóng
điện của năng lượng âm, nên Tuệ linh, con người đã có động
lực và niềm tin vững mạnh để kết tụ thành siêu hệ tư tưởng,
đó là trí tuệ giác ngộ về con đường chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng.
Điểm 3 là điểm Ngộ. Đây là điểm giác ngộ đạt được sau
khi đã có trí tuệ thấu hiểu tận cùng về Chân lý Vạn vật trong
việc sản sinh các siêu hạt năng lượng, đó là đại hệ tư tưởng
179
đoàn kết hết thảy Tuệ linh và con người cùng nhau thực
hành phương pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới
được điểm số 3.

5.3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Vạn vật.
Khi có được hệ tư tưởng giác ngộ, Trụ linh sẽ chuyển
hóa thành ngoại hành, đó là sinh khởi thành hành động.
Điểm số 4 là Triệt. Triệt có hai ý nghĩa:
- Không vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành
trình sản sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm: đó là độc
tâm (độc trong Trụ linh) sinh khởi và môi trường tiêu cực
khiến cho Tuệ linh, con người ngoại hành tạo ác nghiệp; đó là
sự hoại diệt của quá trình hình thành siêu hạt năng lượng
chân tâm, nó sẽ trở thành Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
tiêu cực để dẫn tới hoại diệt.
- Vượt qua được điểm số 4 để tiếp tục hành trình sản
sinh các siêu hạt năng lượng chân tâm: trường hợp này gọi là
triệt được những hành động u mê, những bám chấp, những
sân, những hận, những hành động tạo ác nghiệp, những hành
động lôi kéo của các Tướng tiêu cực, không để độc tâm (độc
trong Trụ linh) và môi trường tiêu cực khiến cho Tuệ linh,
con người sinh khởi thành hành động tiêu cực. Khi không để
độc tâm trong Trụ linh sinh khởi và vượt qua được môi
trường sóng điện âm, tiêu cực, được gọi là Triệt.
Vì có được hệ tư tưởng giác ngộ con đường chuyển
hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, nên Tuệ linh, con
180
người dễ dàng vận dụng Chân lý Vạn vật để vượt qua được
điểm Triệt, đó là không để độc tâm sinh khởi, không để các
Tướng tiêu cực tương tác lôi kéo theo. Do đó, Tuệ linh vượt
qua được điểm Triệt số 4 bằng Chân lý Vạn vật để chuyển
hóa thành hành động ngoại hành sản sinh các siêu hạt năng
lượng chân tâm ở điểm số 5.

5.4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với Chân lý Giác ngộ.
Khi Tuệ linh, con người vượt qua được điểm số 4 –
Triệt, tức là họ đã phát triển được trí tuệ giác ngộ để dẫn tới
giai đoạn ngoại hành và hoàn thiện quá trình sản sinh các
siêu hạt năng lượng chân tâm.
Do có trí tuệ thấu hiểu tận cùng về Chân lý Vạn vật, do
đã kết tụ được trí tuệ giác ngộ con đường chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng, nên Tuệ linh, con người sẽ thực
hiện hành động siêu đoàn kết hết thảy các Tướng cùng lan
tỏa phương pháp, con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng.
Khi hoàn thành điểm số 5 là Tỏa, tức là đã hành động
thành công việc đoàn kết các Tướng cùng lan tỏa phương
pháp, con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng tới Tuệ linh và con người, trong Trụ linh của Tuệ linh,
con người cũng được sản sinh vô số các siêu hạt năng lượng
chân tâm trắng sáng chói lòa. Vô số các siêu hạt năng lượng
chân tâm trắng sáng chói lòa được sản sinh ra sẽ phân tách
làm 3 vùng, đó là trong Trụ linh sẽ lưu giữ vô số siêu hạt
năng lượng chân tâm, trong Vũ trụ sẽ lưu giữ vô số siêu hạt

181
năng lượng chân tâm, đối tượng Tướng đón nhận sẽ lưu giữ
vô số siêu hạt năng lượng chân tâm.
Như vậy, các Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng
lượng chân tâm đã Tỏa ra vô số siêu hạt năng lượng chân
tâm vào Vũ trụ và đối tượng tương tác. Điều này chính là
minh chứng cho việc Tuệ linh, con người khi vượt qua giai
đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2, giai đoạn từ điểm số 3 tới
điểm số 4 cũng được các Tướng khác phân tách các siêu hạt
năng lượng chân tâm tới Trụ linh của mình. Điều này giúp
cho Tuệ linh, con người đón nhận những siêu hạt năng lượng
chân tâm có nghị lực, sức mạnh để thực hành con đường
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Các siêu hạt năng lượng chân tâm được phân tách ra là
do các Vòng tròn sản sinh các siêu hạt năng lượng, nên các
siêu hạt năng lượng chân tâm tạo thành siêu liên kết, siêu
gắn kết các siêu hạt năng lượng dương vô cùng bền vững.
Đây chính là siêu sợi dây chân tâm làm nhiệm vụ siêu gắn kết
giữa các siêu hạt năng lượng dương trong cấu trúc 16 hạt
năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh.
***************

182
Bài 2:
Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng tiêu cực


Hình: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực
183
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực sẽ được
vận hành tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua được số 2, tiếp
tục tới được điểm số 3, tiếp tục vượt qua điểm số 4, tiếp tục
tới đích ở điểm số 5. Sau khi vận hành được một vòng tròn từ
điểm số 1 đến được điểm số 5, Trụ linh sản sinh ra những hạt
năng lượng tiêu cực, đó là Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
tiêu cực. Cơ chế sản sinh hạt năng lượng tiêu cực là do Tuệ
linh, con người không thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ, đồng thời thực hành cơ chế phân tách và liên kết
theo hướng phân rã và hoại diệt.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng


tiêu cực
Nhóm hạt năng lượng tiêu cực là các nhóm hạt năng
lượng âm: đó là nhóm hạt năng lượng âm có sóng điện âm
mạnh, đó là nhóm hạt năng lượng âm có sóng điện âm rất
mạnh, đó là nhóm hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu
mạnh.
Hạt năng lượng tiêu cực là loại hạt năng lượng có sợi
mã sóng trí tuệ với điểm 1 nằm ở đường trung tính, điểm 2
và điểm 3 đều nằm ở cực âm trong hạt năng lượng âm. Hạt
năng lượng âm có trạng thái năng lượng mang sóng điện âm.
Hạt năng lượng âm có bản chất là Kết: Kết là rung lắc mạnh,
là hút về mình, vơ vét về mình, tham lam về mình, thỏa mãn
về mình, chìm đắm vào giả tướng, chiếm hữu giả tướng,
hưởng thụ giả tướng, chiếm đoạt giả tướng, giết hại, gây tổn
hại vạn vật chúng sinh; đặc biệt là phát triển, lan tỏa, đoàn
kết những tư tưởng, đại hệ tư tưởng u mê gây tổn hại tới vạn
vật, Tuệ linh và con người để thỏa mãn về bản thể mình.

184
Hạt năng lượng tiêu cực có nhiều mức độ, từ nhóm hạt
năng lượng tiêu cực mạnh cho tới nhóm hạt năng lượng tiêu
cực rất mạnh và nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh, đó
là:
- Nhóm hạt năng lượng tiêu cực mạnh:
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực mạnh là nhóm hạt
năng lượng âm có sóng điện âm mạnh.
+ Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng tiêu cực
mạnh có màu xám.
+ Sóng điện trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng
lượng tiêu cực mạnh có tốc độ rung lắc mạnh, quay ngược
mạnh, hút các năng lượng môi trường bên ngoài về nó mạnh.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực mạnh là những Tuệ
linh, linh hồn còn mắc kẹt ở điền thổ nơi Trái đất.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực mạnh là những Tuệ
linh, linh hồn u mê, sinh khởi, phát triển, lan tỏa, đoàn kết tư
tưởng u mê để thỏa mãn lợi ích về mình và gây tổn hại vạn
vật, Tuệ linh và con người.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực mạnh là những con
người có tư tưởng u mê, phát triển, lan tỏa, đoàn kết những
tư tưởng u mê để thỏa mãn lợi ích về mình mà gây tổn hại tới
vạn vật, Tuệ linh và con người, đó là những con người sống vi
phạm vào bốn hình tướng Đạo.
- Nhóm hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh:
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh là nhóm hạt
năng lượng âm có sóng điện âm rất mạnh.
+ Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng tiêu cực
rất mạnh có màu đen.

185
+ Sóng điện trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng
lượng tiêu cực rất mạnh có tốc độ rung lắc rất mạnh, quay
ngược rất mạnh, hút các năng lượng môi trường bên ngoài
về nó rất mạnh.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh là những
Tuệ linh, linh hồn còn mắc kẹt ở điền thổ nơi Trái đất.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh là những
linh hồn của các con thú dữ. Khi sống, chúng ăn thịt và giết
hại muông thú khác.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh là những
Tuệ linh, linh hồn hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh
và con người để thỏa mãn ích kỷ của bản thể mình.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh là những
con người hành động u mê, phát triển, lan tỏa, đoàn kết
những hành động gây tổn hại, tổn thương tới vạn vật, Tuệ
linh và con người để thỏa mãn ích kỷ của bản thể mình. Đó là
vi phạm vào bốn hình tướng Đạo: tà dâm, sát sinh, lừa người,
hại người, cướp của, trộm cắp, giết người, bất trung, bất hiếu,
bất nghĩa, chà đạp nhân phẩm người khác, đánh đập người
khác…
- Nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh:
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh là nhóm
hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu mạnh.
+ Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng tiêu cực
siêu mạnh có màu đỏ máu.
+ Sóng điện trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng
lượng tiêu cực siêu mạnh có tốc độ rung lắc siêu mạnh, quay
ngược siêu mạnh, hút các năng lượng môi trường bên ngoài
về nó siêu mạnh.
186
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh là những
Tuệ linh, linh hồn còn mắc kẹt ở điền thổ nơi Trái đất.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh là những
Tuệ linh, linh hồn đang chìm đắm trong sân hận. Đó là những
Tuệ linh, linh hồn hành động phổ mê gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người để thỏa mãn ích kỷ của bản thể mình.
+ Nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh là những
con người hành động sinh khởi, phát triển, lan tỏa, đoàn kết
đại hệ tư tưởng u mê gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con
người. Đó là những hành động phổ mê: đoàn kết, lan tỏa,
phát triển đại hệ tư tưởng mê tín dị đoan, đại hệ tư tưởng
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đại hệ tư tưởng lợi ích nhóm mà
gây tổn hại cho chúng sinh, Tuệ linh và con người, đó là phổ
mê khiến cho chúng sinh vi phạm vào bốn hình tướng Đạo.
Năng lượng hoại diệt: trong Vòng tròn sản sinh năng
lượng tiêu cực, năng lượng hoại diệt sẽ bắt được tín hiệu
rung động bởi độc tâm của Trụ linh bộc phát, bởi các hạt
năng lượng âm từ các Tướng bên ngoài di chuyển tới. Khi đó,
năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển từ số lượng ít cho đến vô
số hạt tới Trụ linh để truyền tải bớt sóng điện đang dư thừa
trong chúng. Chúng chỉ được an toàn khi truyền sóng điện dư
thừa vào các hạt năng lượng âm, vào các cấu trúc Trụ linh đa
âm.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh năng lượng tiêu cực, bao gồm: những Tướng có Trụ linh
đa âm, những Tướng có Trụ linh đa dương, những Tướng có
Trụ linh cân bằng, những Tướng có Trụ linh là bộ lọc năng
lượng. Để thấu hiểu được bản chất, biểu hiện của các Tướng
cần phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Nếu không có Chân lý
Vạn vật, Tuệ linh, con người sẽ không thể thấu hiểu được các
187
Tướng. Khi không thấu hiểu bản chất các Tướng, Trụ linh sẽ
dễ dàng bị giải mã sai và sản sinh năng lượng tiêu cực.
Trụ linh của Tuệ linh, con người có những nhóm Trụ
linh đa âm, có những nhóm Trụ linh đa dương, có những Trụ
linh cân bằng. Khi thực hiện Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng, Tuệ linh, con người tương tác với các Tướng sẽ khiến
cho Trụ linh bộc phát độc tâm hoặc kích hoạt được thiện tâm
trong Trụ linh. Để diệt được độc và kích hoạt được thiện
trong Trụ linh cần phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân
lý Giác ngộ.
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) ra các loại hạt năng
lượng tiêu cực, Tuệ linh, con người phải vận hành hoàn chỉnh
một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ điểm số 1 cho tới
điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản sinh năng lượng
tiêu cực đạt tới điểm số 5 thì hạt năng lượng tiêu cực mới
được phân tách ra. Nếu Tuệ linh, con người vận hành chưa
tới được điểm số 5 thì sẽ không có hạt năng lượng tiêu cực
nào được sản sinh ra.
Gọi là nhóm hạt năng lượng tiêu cực, nhưng nếu trong
Vũ trụ mà không có nhóm năng lượng tiêu cực thì Vũ trụ
cũng không thể tồn tại sự sống, bởi vì năng lượng tiêu cực
cùng với năng lượng dương và chân tâm cấu tạo thành cấu
trúc bền vững cho sự tồn tại, phát triển, bền vững của Vũ trụ,
Tuệ linh và con người.
Nhóm hạt năng lượng tiêu cực vô cùng giá trị nếu Tuệ
linh và con người biết cách vận hành. Thông qua sóng rung
động của năng lượng tiêu cực sẽ thực hành được cơ chế rung
lắc, thu hút năng lượng hoại diệt di chuyển tới cấu trúc Trụ
linh của Tuệ linh, con người, vạn vật, sau đó vận hành bộ lọc
năng lượng hoặc sóng điện dương để kích nổ năng lượng
188
hoại diệt trở thành nhiệt lượng rất lớn giúp cho vạn vật
trong Vũ trụ, Tuệ linh và con người hấp thụ nhiệt lượng đó.
Khi hấp thụ được nhiệt lượng từ năng lượng hoại diệt bị kích
nổ sẽ giúp cho cấu trúc Tướng phân tách và liên kết siêu tốc
độ. Vì vậy, năng lượng âm là chất liệu để dẫn năng lượng hoại
diệt vào bên trong Vũ trụ nhằm thực hiện quá trình chuyển
hóa, giúp cho Vũ trụ ngày càng phát triển lớn mạnh và bền
vững.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh các loại hạt năng
lượng tiêu cực trong Trụ linh, Tuệ linh, con người sẽ tương
tác với các Tướng khác trong khoảng thời gian nhất định,
trong cường độ tương tác, tốc độ tương tác, mật độ tương
tác, độ nén của tương tác, trong môi trường có sóng điện.
Quá trình tương tác chính là quá trình giải mã các Tướng. Kết
thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước vào Vòng
tròn quy trình sản sinh hạt năng lượng tiêu cực trong Trụ
linh.
Tất cả quá trình tương tác cho tới Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng của Tuệ linh, con người tại môi trường tu
hành ở nhân gian đều nằm trong bốn hình tướng Đạo, đó là
hình tướng Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Do
đó, các hạt năng lượng tiêu cực đều được Trụ linh của Tuệ
linh, con người tương tác và sản sinh ra trong bốn hình
tướng Đạo.
Thấu hiểu cơ chế sản sinh các loại hạt năng lượng tiêu
cực thông qua Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực
không phải để con người, Tuệ linh thực hành sản sinh năng
lượng tiêu cực. Thông qua cơ chế đó để Tuệ linh, con người
biết cách diệt độc tâm trong Trụ linh, biết cách lợi dụng sóng
rung động của năng lượng âm nhằm thu hút năng lượng hoại
189
diệt tới để thực hiện sản sinh các loại hạt năng lượng tích cực
và các loại siêu hạt năng lượng.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng


lượng tiêu cực
Có 3 nhóm hạt năng lượng tiêu cực: nhóm hạt năng
lượng tiêu cực mạnh (hạt năng lượng âm màu xám), nhóm
hạt năng lượng tiêu cực rất mạnh (hạt năng lượng âm màu
đen), nhóm hạt năng lượng tiêu cực siêu mạnh (hạt năng
lượng âm màu đỏ máu). Tất cả 3 nhóm hạt năng lượng tiêu
cực đều được sản sinh bởi cùng một cơ chế trong Vòng tròn
sản sinh năng lượng tiêu cực.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực gồm có 5
điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người không thấu
hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ. Tuệ linh, con người
thực hành sản sinh năng lượng tiêu cực bằng cơ chế phân
tách, liên kết theo hướng phân rã và hoại diệt.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực bao gồm 5
điểm và được chia làm 4 đoạn:

1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với việc không thấu hiểu và
không có Chân lý Vạn vật để vận hành. Vì không có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật nên Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh
sản sinh năng lượng tiêu cực bởi cơ chế phân tách, liên kết
theo hướng phân rã và hoại diệt.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn Tuệ
linh, con người đang tạo sóng rung động trong Trụ linh.
190
Điểm số 1 là điểm Sinh, đó là điểm sinh khởi, khởi đầu
cho Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực. Trong Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực, Trụ linh của Tuệ linh,
con người sẽ luôn luôn khởi đầu bằng chân tâm. Tuy nhiên,
các loại chân tâm của điểm số 1 cũng khác nhau vì mục đích
tương tác của các Tuệ linh, con người cũng khác nhau. Điểm
Sinh có các loại chân tâm như sau:
- Chân tâm ban đầu, đó là Tuệ linh, con người do tương
tác với các Tướng bằng chân tâm ban đầu rồi sinh khởi thành
Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực do Trụ linh bộc phát
độc tâm, do các Tướng tiêu cực bên ngoài tương tác tới, do
năng lượng hoại diệt tấn công. Đặc biệt là không có trí tuệ
của hai Chân lý nên trở thành sản sinh hạt năng lượng tiêu
cực.
- Các chân tâm cao, đó là Tuệ linh, con người có ý chí
và quyết tâm sản sinh năng lượng phát triển, năng lượng lan
tỏa, năng lượng đoàn kết. Tuy nhiên, do độc tâm bộc phát, lại
hấp thụ những năng lượng tiêu cực bên ngoài về, bị năng
lượng hoại diệt tấn công, đặc biệt là không có trí tuệ của hai
Chân lý, nên bị triệt để chuyển sinh thành sản sinh năng
lượng tiêu cực.
- Các siêu chân tâm, đó là Tuệ linh, con người có ý chí
và quyết tâm sản sinh siêu hạt năng lượng. Tuy nhiên, do độc
tâm bộc phát, lại hấp thụ những năng lượng tiêu cực bên
ngoài về, bị năng lượng hoại diệt tấn công, đặc biệt là không
có trí tuệ của hai Chân lý, nên bị triệt để chuyển sinh thành
sản sinh năng lượng tiêu cực.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Trong Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng tiêu cực, điểm Triệt có hai ý nghĩa, các Tuệ linh,
con người đều bị triệt ở cả hai ý nghĩa đó:
191
- Triệt tiêu những hạt năng lượng tích cực, các hạt siêu
năng lượng bắn tới Trụ linh. Do không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật nên Tuệ linh, con người dễ dàng triệt bỏ đi những giá
trị tốt từ các Tướng bên ngoài tác động tới để đi theo hướng
sản sinh năng lượng tiêu cực.
- Triệt là hoại diệt chính Trụ linh, Tuệ linh, con người
mình, đó là để độc tâm (độc trong Trụ linh) phát tác và kiểm
soát Tuệ linh, con người. Khi để độc tâm sinh khởi sẽ khiến
cho Trụ linh hấp thụ những hạt năng lượng tiêu cực của các
Tướng bên ngoài. Khi đó, năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập ồ
ạt vào chi phối, khống chế toàn bộ Trụ linh và Tuệ linh. Điều
này khiến cho Tuệ linh, con người dễ dàng, vững vàng sản
sinh năng lượng tiêu cực. Việc Trụ linh vận hành sản sinh
năng lượng tiêu cực chính là con đường phân tách, liên kết
hạt năng lượng theo hướng phân rã, hoại diệt. Đó là Triệt
chính Trụ linh và Tuệ linh, con người.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng tiêu cực từ điểm số 1 tới điểm số 2 như
sau:
- Tuệ linh, con người kết thúc quá trình tương tác và
giải mã về các Tướng để sinh khởi Vòng tròn sản sinh năng
lượng tiêu cực.
- Bắt đầu xuất phát tại điểm số 1 – điểm Sinh, Tuệ linh,
con người đặt Trụ linh vào vị trí Sinh, đó là khởi đầu bởi
năng lượng chân tâm. Tùy theo mục đích mong muốn sản
sinh ra loại hạt năng lượng nào mà Trụ linh ở trạng thái chân
tâm đó.
- Trụ linh của Tuệ linh, con người bắt đầu rung động
khi tương tác với những Tướng đa dương, cân bằng. Khi đó,
192
những hạt năng lượng mang sóng điện dương của các Tướng
có cấu trúc Trụ linh đa dương, cân bằng phân tách tới. Do
không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, nên Trụ linh không hấp
thụ, không đón nhận những hạt năng lượng tốt đó, khiến cho
những nhịp suy nghĩ rung động trong Trụ linh đang tương
tác với sóng điện dương của các Tướng đa dương thì lại trở
về thái cực âm.
- Trụ linh của Tuệ linh, con người tiếp tục rung động
khi tương tác với các Tướng tiêu cực, khi đó những Tướng có
cấu trúc Trụ linh đa âm phân tách các hạt năng lượng âm có
tư tưởng cho đến hành động tiêu cực tới. Trụ linh hấp thụ
những hạt năng lượng sóng điện âm mang đặc tính Kết vào
Trụ linh. Vì không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật nên Trụ linh
của Tuệ linh không giải mã đúng về các Tướng, họ dễ dàng
đón nhận năng lượng âm, bởi năng lượng âm là sự thỏa mãn
và vơ vét giả tướng về bản thể mình.
- Khi những hạt năng lượng âm di chuyển tới Trụ linh,
đã khiến độc trong Trụ linh bộc phát, đó là bộc phát những
bản chất tham lam, những mong cầu, những ham muốn vào
giả tướng. Khi đó, Trụ linh sẽ kích động từ hạt âm gốc trong
phôi âm dương cho tới toàn bộ hệ thống hạt năng lượng âm.
Trụ linh đã bị bộc phát độc tâm và lại được những Tướng đa
âm bên ngoài truyền năng lượng âm vào làm cho Trụ linh
sinh khởi Trí tuệ đa âm. Đó là Trí tuệ u mê, không thấu hiểu
gì về giả tướng, đó là Trí tuệ chỉ mong muốn, khát khao
hưởng thụ giả tướng.
- Khi Trụ linh và Tuệ linh đang rung lắc và bộc phát
độc tâm, năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu của những
rung động lớn đó, chúng sẽ di chuyển nhiều cho tới vô số vào
bản thể Tuệ linh và Trụ linh. Các hạt năng lượng hoại diệt di
193
chuyển vào là nhằm mục đích truyền tải bớt sóng điện đang
bị dư thừa trong chính chúng. Do những hạt năng lượng âm
là rung lắc và hút về nên đó là điều kiện phù hợp để năng
lượng hoại diệt truyền tải bớt sóng điện dư thừa.
- Khi năng lượng hoại diệt di chuyển được vào Trụ
linh, chúng bắt đầu truyền sóng điện màu nâu sang các hạt
năng lượng âm. Các hạt năng lượng âm do hút sóng điện màu
nâu của năng lượng hoại diệt nên cũng bị chuyển hóa thành
màu nâu, đó là bị thối hóa hạt năng lượng âm.
- Quá trình thối hóa hạt năng lượng âm trong Trụ linh
sẽ làm cho sóng điện trong Trụ linh bị xung đột mạnh, Trụ
linh sẽ bị mất kiểm soát bởi sóng điện của năng lượng hoại
diệt chi phối, Trụ linh sẽ càng rung động mạnh, càng hút
mạnh, càng mất kiểm soát. Khi đó, Trụ linh sẽ rung động
xung đột giữa sóng điện dương và sóng điện âm liên tục. Do
có năng lượng hoại diệt kiểm soát nên rung động của sợi mã
sóng trí tuệ đang được hình thành sẽ đi tới thái cực âm để
kết tụ hành hệ tư tưởng tiêu cực.
- Đến lúc này, Trụ linh của Tuệ linh coi như là bị Triệt
bởi quá trình hành động tương tác trong bốn hình tướng
Đạo. Tuệ linh, con người không còn khả năng để kiểm soát,
nhận diện được đúng sai, Tuệ linh, con người sẽ buông bỏ
những giá trị tốt đẹp của các Tướng có Trụ linh đa dương,
cân bằng sẻ chia tới họ, họ chìm đắm và có niềm tin vào các
Tướng tiêu cực. Tuệ linh, con người đã bị bộc phát độc tâm
rất mạnh và bị lôi kéo bởi những tư tưởng cho tới hành động
của các Tướng tiêu cực. Năng lượng hoại diệt lại chi phối Trụ
linh, điều này khiến cho Tuệ linh, con người đó càng được
củng cố niềm tin về những giá trị tiêu cực.

194
Như vậy, Trụ linh của Tuệ linh, con người đã vượt qua
được điểm 2 là Triệt để tiếp tục thực hành Vòng tròn sản
sinh năng lượng tiêu cực.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với việc không thấu hiểu và
không có được Chân lý Giác ngộ để vận hành.
Trong giai đoạn này, khi Trụ linh vận hành tới điểm số
3 chính là kết tụ được hệ tư tưởng sau hành trình rung động
bởi các tương tác từ nhiều Tướng trong và ngoài Vũ trụ tác
động vào.
Vì Tuệ linh, con người đã không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật, Trụ linh lại bộc phát độc tâm, lại bị các Tướng tiêu
cực cũng như môi trường sóng điện âm làm cho giải mã sai
về sự thật của vạn vật, Tuệ linh, con người bám định vào giả
tướng để mong muốn, khát khao thỏa mãn cũng như hưởng
thụ nên Tuệ linh, con người đó sẽ dễ dàng kết tụ thành hệ tư
tưởng tiêu cực tại điểm số 3.
Hệ tư tưởng tiêu cực được kết tụ trong Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng tiêu cực là lợi ích về mình mà gây tổn hại
tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Đó là Tuệ linh, con người
có hệ tư tưởng cho tới hành động và thậm chí trở thành đại
hệ tư tưởng thỏa mãn, phát triển, lan tỏa, đoàn kết để bảo vệ
lợi ích của mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con
người; đó là có tư tưởng, hành động từ u mê cho đến phổ mê
trong bốn hình tướng Đạo tới mọi người để thỏa mãn tính
ích kỷ bản thể mình.
Khi hệ tư tưởng được kết tụ, trong Trụ linh sẽ xuất
hiện từ một cho tới vô số sợi mã sóng mang sóng điện âm,
195
chỉ là đoạn mã sóng rung động chứ chưa hoàn thiện thành
sợi mã sóng trí tuệ. Đó là những đoạn mã sóng rung động
mang sóng điện âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu.
Nếu Tuệ linh, con người không chuyển hóa hệ tư
tưởng tiêu cực này thành hành động thì những sợi mã sóng
rung động mang sóng điện âm sẽ tiêu tan, nhưng nếu chuyển
hóa thành hành động sẽ khiến cho những sợi mã sóng trí tuệ
được hoàn thiện và hình thành các hạt năng lượng âm.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực, điểm 3
là điểm Ngộ, đó là ngộ nhận về tư tưởng tiêu cực là giá trị, là
sự thật, là an vui, là hạnh phúc, là bền vững, là tốt đẹp. Điểm
Ngộ trong Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực không
phải là giác ngộ, vì hệ tư tưởng được kết tụ tại thái cực âm
của hạt năng lượng, đó là tư tưởng Kết vạn vật, giả tướng về
bản thể mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với việc không thấu hiểu và
không có Chân lý Vạn vật để vận hành. Chính vì không có trí
tuệ của Chân lý Vạn vật, lại kết tụ hệ tư tưởng tiêu cực, nên
Tuệ linh, con người chuyển từ tư tưởng đã kết tụ được thành
ngoại hành để sản sinh năng lượng tiêu cực.
Điểm số 4 là điểm Triệt. Trong Vòng tròn sản sinh
năng lượng tiêu cực, điểm Triệt số 4 có hai ý nghĩa, Tuệ linh,
con người đều bị triệt ở cả hai ý nghĩa đó:
- Triệt tiêu những hạt năng lượng tích cực, các hạt siêu
năng lượng bắn tới Trụ linh. Do không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật nên Tuệ linh, con người dễ dàng triệt bỏ đi những giá
196
trị tốt từ các Tướng bên ngoài tác động tới để đi theo hướng
sản sinh năng lượng tiêu cực.
- Triệt là hoại diệt chính Trụ linh và Tuệ linh, con
người mình, đó là để độc tâm (độc trong Trụ linh) bộc phát
và kiểm soát Tuệ linh, con người. Khi để độc tâm sinh khởi sẽ
khiến cho Trụ linh hấp thụ những hạt năng lượng tiêu cực
của các Tướng bên ngoài về. Khi đó năng lượng hoại diệt sẽ
xâm nhập ồ ạt vào chi phối, khống chế toàn bộ Trụ linh và
Tuệ linh. Điều này khiến cho Tuệ linh, con người đó dễ dàng,
vững vàng sản sinh năng lượng tiêu cực. Việc Trụ linh vận
hành sản sinh năng lượng tiêu cực chính là con đường phân
tách, liên kết hạt năng lượng theo hướng phân rã, hoại diệt.
Đó là triệt chính Trụ linh và Tuệ linh, con người.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng tiêu cực từ điểm số 3 tới điểm số 4 như
sau:
- Đây là đoạn bắt đầu ngoại hành sau khi kết tụ được
hệ tư tưởng tiêu cực ở điểm số 3.
- Do có hệ tư tưởng tiêu cực là hành động tiêu cực để
thỏa mãn giả tướng về bản thể mình, nên Tuệ linh, con người
sẽ thực hiện thành hành động tiêu cực ở giai đoạn từ điểm số
3 tới điểm số 4.
- Khi bắt đầu thực hành hành động tiêu cực, Tuệ linh,
con người sẽ lại được các Tướng tích cực chia sẻ, giúp đỡ cho
thức tỉnh để không sản sinh năng lượng tiêu cực. Nhưng do
Trụ linh đã và đang rung lắc sóng điện âm rất lớn, lại bị năng
lượng hoại diệt chi phối nên Trụ linh sẽ không hấp thụ, đón
nhận những hạt năng lượng mang sóng điện dương của các
Tướng tích cực chia sẻ, chỉ bảo và giúp đỡ.
197
- Tuệ linh, con người vì đang hành động tiêu cực nên
sẽ lại được các Tướng tiêu cực tác động tới, họ phân tách
những hạt năng lượng âm tới Trụ linh làm cho Trụ linh càng
đa âm mạnh, rất mạnh và siêu mạnh hơn. Đó là những hành
động giúp sinh khởi, phát triển, lan tỏa, đoàn kết, bảo vệ
những hành động tiêu cực mà Tuệ linh, con người đang thực
hiện. Vì có hệ tư tưởng tiêu cực lại được đón nhận các hạt
năng lượng tiêu cực nên Trụ linh dễ dàng hợp nhất để tạo
thành sức mạnh cho quá trình hành động tiêu cực.
- Tuệ linh, con người sau quá trình đón nhận những
năng lượng tiêu cực, Trụ linh lại gia tăng tốc độ rung lắc và
đa âm mạnh hơn. Khi đó sóng rung động và tốc độ rung lắc
của các hạt năng lượng âm và thái cực năng lượng âm cũng
như hạt âm trong Trụ linh là rất mạnh, siêu mạnh. Năng
lượng hoại diệt bắt được tín hiệu, chúng di chuyển nhiều cho
tới vô số vào Trụ linh. Trụ linh và Tuệ linh, con người bấy giờ
có quá nhiều năng lượng hoại diệt đang truyền tải sóng điện
dư thừa, khiến cho mất kiểm soát hoàn toàn sóng điện âm
dương trong bản thể.
- Do sự kết hợp giữa Trụ linh đa âm với năng lượng âm
bên ngoài môi trường bắn đến và bị năng lượng hoại diệt chi
phối, nên Tuệ linh, con người dễ dàng triệt tiêu đi những
năng lượng dương tích cực bắn tới. Do vậy, Tuệ linh, con
người dễ dàng vượt qua điểm Triệt số 4, tức là Tuệ linh, con
người quyết tâm và tiếp tục thực hành những hành động tiêu
cực.

4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5

198
Giai đoạn này gắn liền với việc không thấu hiểu và
không có được Chân lý Giác ngộ để vận hành.
Điểm số 5 chính là điểm Tỏa. Điểm Tỏa là điểm kết
thúc hành động và đồng thời tỏa những hạt năng lượng tiêu
cực đã được sản sinh tới các Tướng khác.
Khi kết thúc hành động tiêu cực, Trụ linh sẽ hoàn thiện
các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và phân tách
thành những hạt năng lượng âm. Hạt năng lượng âm sẽ phân
tách vào 3 vùng, đó là: từ một cho tới nhiều hạt năng lượng
âm được bắn vào Vũ trụ, từ một cho tới nhiều hạt năng lượng
âm bắn vào đối tượng tương tác, từ một cho tới nhiều hạt
năng lượng âm được lưu giữ trong Trụ linh để tạo thành cấu
tạo các hạt năng lượng âm tổng hợp bên ngoài Trụ linh. Điều
này càng làm cho cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh, con người bị
đa năng lượng âm hơn.
Kết thúc Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực ở
điểm số 5 là Tỏa, chính là phân tách các hạt năng lượng âm
tới các Tướng khác. Điều này đã được thể hiện ở việc bản thể
Trụ linh của Tuệ linh, con người cũng từng bị những Tướng
đa âm bắn năng lượng âm tới trong đoạn từ điểm số 1 tới
điểm số 2 và trong đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4.
Như vậy, thực hiện Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu
cực sẽ làm cho Trụ linh trở thành cấu trúc đa âm, Trụ linh và
Tuệ linh sẽ ngày càng bị phân rã và tiến tới đích của sự hoại
diệt toàn bộ Tuệ linh. Nguyên nhân hoại diệt là do năng
lượng hoại diệt di chuyển vào và phân rã toàn bộ Tuệ linh
cũng như Trụ linh. Không những sẽ bị hoại diệt, từ Trụ linh
còn phân tách ra những hạt năng lượng âm bắn tới các
Tướng khác và khiến các Tướng khác bị ảnh hưởng bởi năng
lượng âm đó. Các Tướng khác cũng dễ dàng bị giải mã sai và
199
bị bộc phát độc trong Trụ linh của họ để rồi họ cũng thực
hành Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực. Điều này gọi là
liên kết phóng xạ năng lượng âm do thực hiện Vòng tròn sản
sinh năng lượng âm.
Thực hiện Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng Tiêu cực
chính là thực hành phân tách, liên kết hạt năng lượng theo
hướng phân rã và hoại diệt. Đây là con đường hoại diệt bản
thể Tuệ linh, con người và vạn vật Vũ trụ.
Khi thấu hiểu từng giai đoạn trong Vòng tròn sản sinh
năng lượng tiêu cực, thấu hiểu quá trình Trụ linh bộc phát
độc tâm, thấu hiểu quá trình năng lượng hoại diệt di chuyển
vào Trụ linh khi nào, sẽ giúp cho các Tuệ linh, con người dễ
dàng thực hành Vòng tròn sản sinh các năng lượng dương và
các siêu hạt năng lượng. Trong quá trình thực hiện sản sinh
năng lượng thông qua bốn hình tướng Đạo, Trụ linh sẽ bộc
phát độc tâm, nên khi thấu hiểu, Tuệ linh, con người sẽ dễ
dàng nhận diện, triệt tiêu và kiểm soát được độc tâm, không
để độc tâm trong Trụ linh sinh khởi.
Phân tích rõ về Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực
không phải là vẽ ra con đường cho Tuệ linh và con người
thực hành sản sinh năng lượng tiêu cực. Sản sinh năng lượng
tiêu cực đã và đang là bản chất của Tuệ linh và con người.
Việc phân tích, viết rõ cơ chế, bản chất của từng đoạn trong
vòng tròn là nhằm giúp cho Tuệ linh, con người dễ dàng
nhận diện rằng mình đang sản sinh năng lượng tiêu cực mà
dừng lại, đặc biệt là ứng dụng việc lấy năng lượng hoại diệt
thông qua cơ chế sóng rung động của năng lượng âm để thực
hành chuyển sinh thành năng lượng dương cũng như các
siêu hạt năng lượng ở các Vòng tròn sản sinh năng lượng
dương và siêu hạt năng lượng.
200
III. Các ví dụ thực tế về Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng tiêu cực
Ví dụ 1: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu
xám trong mối quan hệ vợ chồng:
Trong hình tướng Đạo lễ, đó là mối quan hệ giữa vợ và
chồng. Người vợ A thường xuyên nghe được những người
bạn phàn nàn về những người chồng của họ, đó là những lời
chê bai, so sánh với những người đàn ông khác. Trong những
người bạn đó có những người đã bỏ chồng, họ nói những tư
tưởng bất mãn về người đàn ông, họ nói những tư tưởng
rằng không cần phải chịu thiệt thòi với chồng, cứ bùng nổ, cứ
bỏ chồng khi mà cuộc sống hôn nhân không thuận hòa.
Người vợ A cũng được nghe những người phụ nữ khác
nói rằng cuộc sống hôn nhân luôn luôn sẽ phải xảy ra xung
đột, người vợ nên đặt mình vào vị trí của người chồng để
hiểu họ. Khi hiểu họ rồi, người vợ sẽ cảm thông để cùng sẻ
chia những khó khăn trong cuộc sống. Khi có xung đột vợ
chồng, người vợ nên nhẫn nhịn và kìm nén để chờ đợi khi
người chồng vui trở lại rồi hãy trò chuyện nhẹ nhàng, phân
tích đúng sai của cả hai, bởi xung đột nhiều khi đều có
nguyên nhân từ cả hai phía chứ không chỉ là từ một phía.
Thế rồi trong cuộc sống, người vợ A có xảy ra xung đột
với người chồng. Ban đầu người vợ A nhẫn nhịn theo những
lời chia sẻ của những người phụ nữ tư vấn cho là nên nhẫn
nhịn và không để xung đột xảy ra rồi nhẹ nhàng phân tích
đúng sai của cả hai. Tuy nhiên, người phụ nữ A cảm thấy bí
bách khi nghĩ tới những lời nói của những người bạn hay nói
xấu chồng và những người bạn bỏ chồng hay khoe cuộc sống
hạnh phúc khi sống độc thân. Người vợ bắt đầu bộc phát độc
201
tâm là quyết không chịu thiệt với chồng, người vợ có những
hành động mắng chồng, thậm chí đe dọa đòi ly hôn để làm
phương thuốc điều trị chồng, để khiến chồng không dám để
xung đột vợ chồng xảy ra.
Như vậy, cuộc xung đột vợ chồng đã phân tách ra hạt
năng lượng tiêu cực mang sóng điện âm màu xám.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu xám của
người vợ A diễn ra như sau:
- Trước khi diễn ra Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
âm màu xám, người vợ A có tương tác và chơi với nhiều
người bạn, đó là quá trình giải mã về bản chất của những
người bạn.
- Bắt đầu quá trình sản sinh hạt năng lượng âm màu
xám, Trụ linh của người vợ A ở điểm số 1 là Sinh, đó là chân
tâm ban đầu.
- Tiếp đến, người vợ A nghe được những lời nói tiêu
cực về chồng của những người bạn, những lời nói không giữ
gìn phát triển đạo hạnh vợ chồng, những lời nói kích thích sự
u mê mà phá vỡ hạnh phúc vợ chồng từ những người bạn.
Những hạt năng lượng âm màu xám đó bắn vào Trụ linh của
người vợ A, Trụ linh của người vợ A bắt đầu rung động về
trạng thái và thái cực âm. Khi đó, Trụ linh hấp thụ những hạt
năng lượng âm đó để làm trí tuệ nhận thức phản kháng, bất
mãn, ghét những tính cách của người chồng khi không thỏa
mãn với ý mình.
- Tiếp đến người vợ A nghe những lời nói khuyên can
và hướng dẫn cách xây dựng mối quan hệ vợ chồng bền chặt
và hạnh phúc từ những người bạn khác. Trụ linh người vợ A
do đã hấp thụ những hạt năng lượng âm của những người
202
bạn tiêu cực nên dễ dàng không đón nhận và triệt bỏ những
hạt năng lượng dương này.
- Khi đón nhận những hạt năng lượng âm của những
người bạn tiêu cực, Trụ linh lại rung động và giải mã sai về
những lời chia sẻ đó, coi những lời nói đó là đúng, là giá trị, là
hợp lý. Thế nên, năng lượng hoại diệt đã di chuyển tới Trụ
linh của người vợ A, khiến cho Trụ linh bị nhiễm năng lượng
hoại diệt.
- Người vợ A đã vượt qua được điểm số 2 trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng tiêu cực bởi không có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật.
- Vì không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, nên người vợ
A đã kết tụ thành hệ tư tưởng của mình về mối quan hệ vợ
chồng, đó là hệ tư tưởng ngộ nhận chứ không phải giác ngộ.
Người vợ ngộ nhận rằng nếu chồng mà gây xung đột, gây tổn
thương, không chiều chuộng vợ, là sẵn sàng dùng việc bỏ
nhau để làm phương thuốc đe dọa chồng. Như vậy, người vợ
A đã vận hành Trụ linh đến được điểm số 3. Khi đó, trong Trụ
linh của người vợ có những sợi mã sóng rung động mang
sóng điện rung động kết tụ ở thái cực âm để chờ cho hành
trình hành động bùng phát ra ngoài.
- Vì có hệ tư tưởng tiêu cực được kết tụ ở điểm 3, thế
nên khi người vợ có xảy ra xung đột với người chồng, Trụ
linh người vợ rung lắc mạnh, độc tâm trong Trụ linh được
bộc phát, năng lượng hoại diệt lại di chuyển vào bởi sóng
điện âm từ Trụ linh rung lắc. Người vợ lại được những người
bạn động viên không nên chịu đựng và cũng được những
người bạn khuyên nên hóa giải xung đột đừng để xảy ra bất
hòa vợ chồng.

203
- Do Trụ linh bộc phát độc tâm và rung lắc sóng điện
âm mạnh, lại bị năng lượng âm từ những người bạn tiêu cực
bắn tới, lại bị năng lượng hoại diệt di chuyển vào làm Trụ
linh bị phân rã dần, nên những lời khuyên không nên gây bất
hòa từ những người bạn bị triệt bỏ. Do đó, người vợ A vượt
qua được điểm 4 để tiếp tục ngoại hành phản kháng với
chồng.
- Người vợ phản kháng là mắng, nói xấu chồng, yêu cầu
ly hôn với chồng. Khi những lời nói đó được nói ra thì Vòng
tròn sản sinh năng lượng đã đạt tới số 5 là Tỏa, đó là tỏa ra
một hạt năng lượng âm màu xám bắn vào người chồng, đồng
thời trong Vũ trụ cũng lưu giữ một hạt năng lượng âm màu
xám đó, trong Trụ linh của người vợ lưu giữ một hạt năng
lượng âm màu xám gốc.
Như vậy, một Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm
màu xám đã được hoàn thành. Khi kết thúc Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng âm màu xám này, có thể nó sẽ diễn ra
liên tiếp các Vòng tròn sản sinh năng lượng màu xám khác,
màu đen, màu đỏ máu trong mối quan hệ của hai vợ chồng.
Như vậy, do không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật nên
người vợ A dễ dàng bộc phát độc tâm trong Trụ linh, dễ dàng
liên kết năng lượng âm của những người bạn (môi trường)
và kết tụ thành hệ tư tưởng ngộ nhận để rồi hành động gây
tổn thương mối quan hệ vợ chồng. Điều này làm cho nguy cơ
vợ chồng ly tán, khi ly tán người vợ sẽ lại trở thành như
những người bạn tiêu cực kia, sẽ lại trở thành những con
người u mê đi xúi giục phá tan hạnh phúc gia đình của người
khác bởi những xung đột vợ chồng. Trong khi đó, bất cứ xung
đột nào đều hóa giải được nếu có trí tuệ của Chân lý Vạn vật
và Chân lý Giác ngộ.
204
Ví dụ 2: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu
đen trong việc phát triển kinh tế bằng nghề sát sinh giết mổ
lợn:
Có một người thanh niên nghèo, người thanh niên này
không được học hành và không có nghề nghiệp tốt như bao
nhiêu người khác. Người thanh niên này phải trải qua nhiều
công việc vất vả, lao lực để mưu sinh, những công việc đó
không mang lại ấm no và giàu sang cho anh ấy.
Trong những năm tháng lao động mưu sinh với nhiều
công việc khác nhau, anh ấy đã chứng kiến những cuộc sống
xa hoa, giàu sang của những người giàu có, đó là những ông
chủ của các công ty lớn nhỏ, đó là những người thành đạt có
nhiều nhân công làm việc cho họ. Anh thanh niên cũng nhiều
lần mơ ước được trở thành người giàu sang, xa hoa như
những ông chủ đó. Anh ấy nhìn vào bản thân mình và thấy
mình không thể trở thành như những ông chủ ấy được, bởi
anh thấy rằng mình không có học hành gì, không có các mối
quan hệ tốt, không có vốn để phát triển. Anh liên tưởng và so
sánh rồi kết luận là mình không thể thành công được khi đi
theo con đường như những người giàu, như những ông chủ
đó.
Cũng trong những năm tháng mưu sinh đó, người
thanh niên được gặp gỡ vài người có hoàn cảnh giống mình,
cũng không có học hành gì mà họ nhanh chóng giàu có,
nhanh chóng có nhà, có xe, cuộc sống rất thoải mái về tiền
bạc. Khi tìm hiểu, anh biết rằng những người đó phát triển sự
nghiệp bằng nghề giết mổ động vật rồi để người thân bán ở
các chợ hoặc cung cấp cho những người mua về để bán.
Người thanh niên thấy con đường này cũng phù hợp với

205
mình bởi không cần phải học hành và quan hệ rộng hay vốn
đầu tư phải nhiều.
Người thanh niên đó suy nghĩ rất nhiều về chọn lựa
con đường khởi nghiệp phát triển kinh tế. Anh ấy suy nghĩ về
việc giết hại những con vật để xẻ thịt rồi bán chúng, anh ấy
cảm thấy rùng mình và sợ hãi bởi hình ảnh trong suy nghĩ
đó. Anh ấy lại suy nghĩ về sự giàu sang của những người giàu,
sự giàu sang của cả những người làm nghề chủ lò giết mổ kia.
Trải qua thời gian suy nghĩ, anh ấy quyết định và đã
thực hành khởi nghiệp bằng nghề giết mổ những con lợn để
vợ bán ngoài chợ. Chỉ mất vài năm sau, anh ấy đã phát triển
nghề giết mổ lớn mạnh hơn, anh ấy đã có một lò giết mổ.
Những con lợn bị giết mổ xong anh ấy bán buôn cho những
người đến mua mà không phải để vợ bán ngoài chợ nữa. Sau
nhiều năm hành nghề giết mổ và bán buôn thịt lợn, anh ấy đã
trở nên giàu có, có nhà to, có xe cộ, có nhiều đất đai. Nhưng
anh ấy không biết là anh ấy đã sản sinh ra bao nhiêu hạt
năng lượng màu đen và bị bao nhiêu năng lượng đỏ máu oán
hận từ linh hồn những con lợn đó.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu đen của
người thanh niên giết mổ lợn diễn ra như sau:
- Trước khi diễn ra quá trình sản sinh hạt năng lượng
âm màu đen, thông qua thời gian dài trong nhiều năm lao
động mưu sinh, anh thanh niên đã gặp và giải mã về sự giàu
sang của nhiều người.
- Bắt đầu Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực màu
đen của anh thanh niên là quyết định suy tính con đường
khởi nghiệp làm giàu. Khi đó, Trụ linh của anh ấy vận hành ở
điểm số 1 – Sinh, đó là điểm chân tâm phát triển. Bởi vì anh

206
ấy muốn phát triển kinh tế nên Trụ linh khởi đầu là chân tâm
phát triển, đó là sự tinh mơ, sự trắng trong chưa biết con
đường nào để phát triển kinh tế.
- Tiếp đến anh ấy rung động trong Trụ linh để di
chuyển từ điểm số 1 qua điểm số 2. Đoạn này, Trụ linh anh
ấy rung động các mã sóng rung động như sau:
+ Quá trình anh ấy gặp gỡ những người giàu có là
những ông chủ doanh nghiệp, Trụ linh anh ấy rung động
sang thái cực dương, đó là rung động bởi những suy nghĩ làm
giàu bằng con đường tri thức để phát triển kinh tế. Nhưng
anh ấy nhận thấy mình không đủ và không có trí tuệ cũng
như vốn, các mối quan hệ để khởi nghiệp như những người
giàu đó. Thế là Trụ linh triệt đi những suy nghĩ khởi nghiệp
theo hướng phát triển bằng trí tuệ đó.
+ Quá trình anh ấy gặp gỡ những người giàu có mà
cũng không cần phải có trí tuệ học vấn, đó là những người
giàu có bằng nghề kinh doanh lò giết mổ, họ chia sẻ kinh
nghiệm làm giàu từ nghề giết mổ bằng cách là mua hoặc giết
với số lượng ít trước, khi có kinh nghiệm, có mối quan hệ và
vốn lớn thì mở lò giết mổ lớn. Trụ linh anh ấy đón nhận được
những hạt năng lượng âm màu đen kể về kinh nghiệm kinh
doanh giết mổ để giàu có rồi mã hóa và giải mã rằng nghề
nghiệp như vậy là phù hợp với hoàn cảnh, trí tuệ, xuất phát
điểm của anh ấy.
- Trụ linh anh ấy bộc phát độc tâm, đó là rung động
mạnh những hạt năng lượng âm để đón nhận tư tưởng kinh
doanh làm giàu bằng giết mổ, giết hại để làm giàu cho mình
và gia đình mình.

207
- Khi Trụ linh rung lắc sóng điện âm mạnh bởi đã được
tiếp nhận những hạt năng lượng âm màu đen từ những
người giết mổ chia sẻ kinh nghiệm, năng lượng hoại diệt bắt
được tín hiệu nên chúng di chuyển nhiều vào Trụ linh và Tuệ
linh của anh ấy. Trụ linh anh ấy càng rung lắc mạnh và trở
thành khát khao làm giàu bằng con đường khởi nghiệp giết
mổ. Khi đó, những ý nghĩ ám ảnh của việc giết hại các con thú
cũng không làm thay đổi ý chí quyết tâm khởi nghiệp bằng
nghề giết mổ.
- Vì không có trí tuệ về Chân lý Vạn vật nên anh ấy đã
triệt tiêu những ý nghĩ, những con đường khởi nghiệp kinh
doanh khác thánh thiện hơn. Anh ấy đã không khống chế
được độc tâm trong Trụ linh, chính vì vậy, anh ấy vượt qua
điểm số 2 để đi tới điểm số 3 trong Vòng tròn sản sinh năng
lượng tiêu cực âm màu đen.
- Trụ linh của người thanh niên dễ dàng kết tụ hệ tư
tưởng Ngộ ở điểm số 3, đây là ngộ nhận chứ không phải là
giác ngộ. Đó là ngộ nhận con đường khởi nghiệp phát triển
nghề giết mổ là mang lại giàu có và ấm no cho mọi người
trong gia đình. Anh ấy không hiểu được nhân quả vận hành
như thế nào đối với con người thực hiện hành động giết hại
muông thú để thỏa mãn lợi ích về mình.
- Anh thanh niên đã chuyển hóa thành hành động giết
mổ và buôn bán thịt lợn. Những con lợn bị anh ấy giết mổ
ngày càng nhiều, anh ấy phát triển việc giết mổ thành lò giết
mổ, mở rộng, phát triển sự nghiệp giết mổ. Như vậy anh ấy
đã vượt qua được điểm 4 là Triệt, tức là anh ấy đã chính thức
triệt phá Trụ linh của chính mình bởi đã và đang tiến hành
nghề giết mổ. Mỗi lần giết mổ là năng lượng hoại diệt lại di
chuyển vào Trụ linh rất nhiều, điều đó lại càng làm cho ý chí
208
phát triển nghề giết mổ để nhanh giàu càng lớn trong trí tuệ
và Trụ linh của anh ấy.
- Khi vượt qua được điểm số 4, anh ấy dễ dàng tiến tới
điểm số 5, đó là điểm Tỏa. Tỏa chính là anh ấy đã hoàn thành
giết mổ từng con lợn. Khi giết được một con lợn, Trụ linh anh
ấy phân tách ra một sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm
màu đen hoàn chỉnh. Sợi mã sóng đó phân tách ra một hạt
năng lượng màu đen tỏa ra Tuệ linh, phân tách một hạt bắn
vào Vũ trụ, phân tách một hạt bắn vào đối tượng giết mổ là
con lợn. Con lợn vì bị giết nên nó phân tách hạt năng lượng
oán hận vào Vũ trụ, vào anh thanh niên giết mổ, vào trong
chính Trụ linh của linh hồn con lợn. Anh thanh niên giết
nhiều cho tới vô số con lợn thì chính là anh đã thực hiện sản
sinh ra vô số hạt năng lượng âm màu đen của sự giết mổ.
Những hạt năng lượng đó được phân tách làm 3 vùng và
trong Trụ linh anh ấy lưu giữ những sợi mã sóng trí tuệ của
những lần có con lợn bị giết. Ngoài ra, khi anh ấy chia sẻ kinh
nghiệm nghề giết mổ đến với ai đó, tức là từ Trụ linh anh ấy
lại phân tách và bắn những hạt năng lượng âm đó vào Trụ
linh của người đó. Điều này giống với những gì mà Trụ linh
anh nhận được từ những làm người giàu bằng nghề giết mổ
khi họ chia sẻ kinh nghiệm cho anh.
Như vậy, khi làm công việc giết mổ và phát triển nó
thành nghề kinh doanh, anh ấy đã tạo ra quá nhiều Vòng tròn
sản sinh năng lượng tiệu cực màu đen. Điều này khiến cho
Trụ linh bị phân rã và hoại diệt rất nhanh do năng lượng hoại
diệt tấn công và xả sóng điện dư thừa.

Ví dụ 3: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu đỏ


máu thông qua hành động giết người:
209
Trong ví dụ này có rất nhiều Vòng tròn sản sinh các
loại hạt năng lượng âm màu đen và xám, tuy nhiên chỉ đề cập
tới Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu đỏ máu.
Người A cho người B vay tiền để khởi nghiệp kinh
doanh. Người B dùng số tiền đó trong kinh doanh, nhưng
thất bại. Người B đã xin kéo dài khoản nợ đó với người A
trong một khoảng thời gian, khi thời gian thanh toán khoản
nợ đã tới. Lúc này người A đang rất khó khăn nên cũng rất
cần tiền, người A gặp người B và yêu cầu người B bằng mọi
cách phải thanh toán khoản vay đó. Người B hẹn vài ngày sẽ
hoàn trả, tuy nhiên có quá nhiều lần vài ngày đã khiến cho
người A trở nên mất niềm tin vào người B. Người A lúc này
rất nóng giận, đã đến gặp người B và yêu cầu người B phải
hoàn trả. Thế rồi hai người xảy ra xung đột cự cãi nhau,
người B bực bội rồi thách thức với người A là không trả được
thì làm gì được. Sau đó, người A về nhà, người A nói chuyện
với nhiều người về vụ việc đó. Có người nói người A hãy
thông cảm cho người B, họ khó khăn, để họ thêm thời gian
nữa. Có người nói với người A bằng giọng điệu kích động là
hãy dạy cho người B bài học. Người A suy nghĩ nhiều những
lời nói của người B là không trả thì làm gì được. Và rồi, người
A tới gặp người B, khi đi, người A mang theo một con dao
nhỏ trong người. Khi gặp người B, người B vẫn thái độ là
không có tiền trả và nói với giọng điệu thách thức, khi đó,
người A lấy dao đâm chết người B. Khi người B chết, người A
thấy ân hận với hành động của mình nên tới cơ quan chức
năng để tự thú.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng âm màu đỏ máu
của người A với hành động giết người như sau:

210
- Quá trình giải mã của người A với người B bởi họ
quen thân và chơi với nhau, đó là quá trình trước khi diễn ra
sinh khởi hành động vay tiền của người B và hành động
người A giết hại người B.
- Khởi đầu Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực âm
màu đỏ máu: đó là Trụ linh của người A đặt tại vị trí chân
tâm lan tỏa; đó là sẻ chia, lan tỏa giá trị tài chính của mình để
cho người bạn B vay; đó là sự giúp đỡ bằng chân tâm cao, đó
là chân tâm lan tỏa mà không vì bất cứ điều ích kỷ gì. Người
A bắt đầu từ điểm số 1 là Sinh để di chuyển tới và qua điểm
số 2.
- Quá trình đến hạn người B phải thanh toán khoản
vay cho người A nhưng lại không thực hiện, người A không
nhận được khoản nợ đó nên Trụ linh bắt đầu rung động tiêu
cực về người B. Trụ linh người A ngày càng rung động mạnh
về thái cực âm do người B không chịu trả khoản vay lại còn
có những lời thách thức.
- Người A gặp gỡ mọi người và chia sẻ câu chuyện của
mình. Khi đó người A được những người bạn động viên bằng
những hạt năng lượng tích cực mang sóng điện dương là hãy
để cho họ thêm thời gian, Trụ linh của người A đón nhận
những hạt năng lượng tích cực và giảm không rung lắc nữa.
Tuy nhiên khi được những người bạn khác khuyên là dạy cho
người vay bài học, những hạt năng lượng âm bắn vào Trụ
linh làm cho Trụ linh lại rung lắc mạnh ở cực âm.
- Người A lại gặp người B để đòi khoản vay. Người B
nói những lời thách thức và cay đắng làm người A cảm thấy
mình bị tổn thương lớn. Khi đó, Trụ linh của người A rung lắc
thái cực âm và các hạt năng lượng âm rất lớn, nó khiến cho
độc tâm trong Trụ linh bộc phát và rung lắc siêu mạnh.
211
- Năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu và di chuyển
rất nhiều vào Trụ linh, làm cho Trụ linh bắt đầu phân rã. Trụ
linh mất kiểm soát nên người A đã vượt qua điểm số 2 là
Triệt, đó là triệt tiêu đi những lời khuyên ngăn của những
người bạn tích cực. Vì thiếu trí tuệ về Chân lý Vạn vật nên
người A đã để độc tâm trong Trụ linh bộc phát, lại bị năng
lượng hoại diệt tấn công và chi phối.
- Do vượt qua được điểm số 2 là điểm Triệt, nên Trụ
linh của người A đã kết tụ được hệ tư tưởng Ngộ tại điểm 3.
Đó là ngộ nhận chứ không phải là giác ngộ, tức là người A đã
ngộ nhận rằng việc mình dạy cho người B một bài học nếu
không trả tiền mà còn nói những lời thách thức là sự đúng
đắn. Trong Trụ linh người A có những đoạn mã sóng rung
động kết tụ tại thái cực âm với màu đỏ máu.
- Vì có hệ tư tưởng là phải dạy cho người B bài học, lại
bị mất kiểm soát nên người A đã ngoại hành là mang dao và
đi đến gặp người B. Khi gặp người B, người này lại thách thức
và không trả tiền. Những lời thách thức là những hạt năng
lượng tiêu cực bắn vào Trụ linh của người A, khiến cho Trụ
linh càng bộc phát độc tâm, năng lượng hoại diệt lại di
chuyển ồ ạt vào khống chế Trụ linh và trí tuệ người A. Người
A bị mất kiểm soát và ra tay giết hại người B. Như vậy người
A đã vượt qua điểm 4 là Triệt để hoại diệt chính Trụ linh và
bản thể minh.
- Khi hoàn thành giết người xong, Trụ linh người A đã
di chuyển tới điểm số 5 là Tỏa. Tỏa là đã phân tách sợi mã
sóng trí tuệ mang sóng điện âm màu đỏ máu trong Trụ linh
người A. Khi đó, sợi mã sóng trí tuệ này phân tách thành hạt
năng lượng âm đỏ máu bắn vào Vũ trụ một hạt, một hạt bắn

212
vào người bị giết, một hạt được phân tách ra bên ngoài Trụ
linh.
Như vậy, người A đã hoàn thành một Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng tiêu cực mang sóng điện âm màu đỏ
máu, đó là hạt năng lượng của sân hận mà giết hại. Trong vụ
giết hại này có cả những hạt năng lượng xám, đen, tuy nhiên
ta chỉ đề cập tới hạt năng lượng đỏ máu. Cũng trong vụ giết
người, người bị giết cũng phân tách ra các hạt năng lượng đỏ
máu oán hận.
Do không có và không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân
lý Giác ngộ, nên việc con người chìm đắm trong ích kỷ và
tham lam để dẫn tới giết hại là điều không tránh khỏi. Việc
vận hành Vòng tròn sản sinh ra các hạt năng lượng tiêu cực
sẽ làm cho Trụ linh và Tuệ linh nhanh bị hoại diệt.

Ví dụ 4: Vòng tròn sản sinh vô số hạt năng lượng âm


màu xám, màu đen và màu đỏ máu thông qua hành động phổ
mê:
Một người sau khi được tiếp cận với tri thức trong tôn
giáo, tín ngưỡng, người đó học được những lời hay lẽ đẹp
trong kinh kệ, trong tập tục tín ngưỡng. Người đó rất ngưỡng
mộ và mong muốn đoàn kết mọi người để cùng nhau tu tập
theo những lời hay lẽ đẹp đó, đó là những tập tục nghi lễ sám
hối gột rửa nghiệp ác, là những tập tục nghi lễ giải hạn và xin
phước báo, đó là những tri thức khuyên con người cầu xin và
lìa xa thế tục để đi tu tập an lạc nhằm giải thoát khổ đau.
Thế rồi, người đó đã bắt tay vào việc kêu gọi mọi
người cùng tham gia các khóa lễ, nghi lễ cầu xin và hóa giải
nghiệp ác. Người đó khuyên bảo mọi người cùng tu tập, tụng
213
niệm, cầu xin để được giải thoát khỏi cõi nhân gian đau khổ
này.
Vòng tròn sản sinh vô số hạt năng lượng âm màu xám,
màu đen, màu đỏ máu thông qua hành động phổ mê được
diễn ra như sau:
- Người đó trải qua quá trình giải mã những tri thức
trong tín ngưỡng và tôn giáo được một thời gian dài trước
khi sinh khởi Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực là phổ
mê.
- Sau quá trình giải mã những tri thức tôn giáo và các
nghi lễ của tín ngưỡng, người này bắt đầu sinh khởi từ chân
tâm muốn đoàn kết mọi người để cùng tu tập và thực hành
các nghi lễ với mong muốn được giải thoát khỏi khổ đau nơi
nhân gian. Trụ linh đặt tại chân tâm của đoàn kết, khởi đầu
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tại điểm số 1 là điểm Sinh.
- Do môi trường đời sống là tôn giáo, là tín ngưỡng, nơi
đó đã và đang thực hành các nghi lễ, các khóa lễ, khóa tu
hành với hình thức cầu xin để hóa giải ác nghiệp, xin, tụng
niệm để giải thoát khổ đau, để được về với cõi trời thanh tịnh
của các ngài; điều này khiến cho Trụ linh của người đó đón
nhận tất cả những hạt năng lượng đó về mà không nhận diện
được những hạt đó là dương hay là âm. Bởi vì môi trường đã
tồn tại các khóa lễ, nghi thức, cách thức cầu xin từ bao đời,
nên khiến cho Trụ linh của người này giải mã sai sự thật về
các vấn đề đó.
- Trụ linh tương tác trong môi trường đi ngược Quy
luật Nhân quả, không có Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ
để nhận diện được giá trị tốt đẹp hay những giá trị tiêu cực
trong những nghi thức và con đường tu tập đó, khiến Trụ

214
linh của người đó giải mã sai mà hấp thụ hết tất cả những
năng lượng tiêu cực đó. Điều này làm cho độc tâm trong Trụ
linh bị bộc phát rất mạnh ra ngoài.
- Năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu sẽ di chuyển
tới vô số hạt, làm phân rã Trụ linh rất mạnh và siêu mạnh.
Khi đó, người này không kiểm soát và nhận diện được đúng
sai việc mình đang làm.
- Chính vì vậy, người này đã vượt qua được điểm số 2
là điểm Triệt, đó là làm cho Trụ linh của mình bị phân rã
mạnh mẽ và mất kiểm soát vì không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật.
- Trụ linh người này vận hành tới điểm số 3 là điểm
Ngộ, đó là ngộ nhận chứ không phải là giác ngộ. Người này
ngộ nhận rằng những tập tục lễ nghi, những cầu cúng, tụng
niệm bao đời là vô cùng tốt đẹp. Chính vì vậy mà người này
đã xây dựng cho mình hệ tư tưởng đoàn kết để lan tỏa giá trị
đó tới mọi người mà không thấu hiểu sự thật về những giá trị
đó. Bấy giờ, trong Trụ linh người này có vô số các sợi mã
sóng rung động kết tụ ở thái cực âm là màu đỏ máu, màu
đen, màu xám.
- Vì có hệ tư tưởng Ngộ nên người này đã thực hành
hành động đoàn kết mọi người lại và lan tỏa những nghi lễ
cầu cúng, tụng niệm đó để được giải hạn, để được siêu thoát
về cõi trời thanh tịnh sau kiếp người. Khi hành động, Trụ linh
lại bộc phát độc tâm rất mạnh, năng lượng hoại diệt di
chuyển vào rất nhiều làm phân rã Trụ linh nhanh hơn, người
này vận hành qua điểm 4.
- Khi những nghi thức cầu cúng, lễ nghi, tụng niệm đi
ngược Quy luật Nhân quả được thực hiện và lan tỏa đã khiến

215
cho người này hoàn thành điểm 5 trong Vòng tròn sản sinh
năng lượng tiêu cực.
Vì là truyền bá những tri thức mê tín dị đoan, những
tri thức đi ngược Quy luật Nhân quả, đi ngược hai Chân lý,
nên trong Trụ linh của người này sản sinh ra vô số các sợi mã
sóng trí tuệ mang sóng điện âm là màu đỏ máu, màu đen và
màu xám. Tiếp đến là vô số hạt năng lượng đen, đỏ máu, xám
được phân tách ra bên ngoài Trụ linh khiến cho người này
nhanh bị hoại diệt Trụ linh và Tuệ linh. Vô số hạt năng lượng
tiêu cực đó phân tách vào Vũ trụ. Vô số hạt năng lượng đó
phân tách vào những người đi theo nghi lễ và con đường mà
người này đang thực hành.
Không những vậy, những người đi theo người này sẽ
lại thực hiện lan tỏa những tri thức đi ngược Quy luật Nhân
quả đó tới vô số người. Chính vì điều này, phổ mê là Vòng
tròn sản sinh ra vô lượng hạt năng lượng tiêu cực mang sóng
điện âm màu đỏ máu, màu đen, màu xám.
Khi không có trí tuệ của hai Chân lý, những hành động
của con người sẽ trở nên nguy hại tới vạn vật, Tuệ linh và
con người là vô lượng. Vì Trụ linh giải mã sai bởi môi trường
có sóng điện âm quá nhiều, độc trong Trụ linh bộc phát ra, lại
bị năng lượng hoại diệt chi phối, nên sẽ khiến cho Tuệ linh và
con người khó mà phân định được con đường chuyển sinh
nào là bền vững, con đường nào là hoại diệt.
***************

216
Bài 3:
Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng phát triển


Hình: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển
217
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển màu
xanh lá sẽ được vận hành tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua
được điểm số 2, tiếp tục tới được điểm số 3, tiếp tục vượt
qua được điểm số 4 và tới đích ở điểm số 5. Sau khi vận hành
được một vòng tròn từ điểm số 1 đến điểm số 5, Trụ linh sẽ
sản sinh ra những hạt năng lượng phát triển màu xanh lá, đó
là Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển màu xanh lá.
Cơ chế sản sinh hạt năng lượng phát triển màu xanh lá là do
Tuệ linh, con người đã thấu hiểu phần nào đó về trí tuệ của
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, đồng thời thực hành cơ
chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững và an lạc.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng


phát triển
Nhóm hạt năng lượng phát triển là nhóm hạt năng
lượng dương có sóng điện dương mạnh.
Hạt năng lượng phát triển là loại hạt năng lượng có sợi
mã sóng trí tuệ với điểm 1 nằm ở đường trung tính, điểm 2
và điểm 3 đều nằm ở cực dương trong hạt năng lượng dương
phát triển. Hạt năng lượng phát triển có trạng thái năng
lượng là sóng điện dương. Hạt năng lượng dương phát triển
có bản chất là Tỏa. Tỏa là miệt mài sinh khởi, miệt mài
nghiên cứu, miệt mài xây dựng, miệt mài phát triển các cấu
trúc phát triển mang tính bền vững; đó là phát triển những
cấu trúc phát triển bền vững đến với vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không màng tới bản thể của mình.
Bản chất của nhóm hạt năng lượng phát triển là:
- Nhóm hạt năng lượng dương phát triển là nhóm hạt
năng lượng mang sóng điện dương mạnh.
218
- Sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng dương phát
triển quay thuận chiều kim đồng hồ ở mức mạnh và sinh
phát năng lượng màu xanh lá.
- Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng phát
triển có màu xanh lá.
- Hạt năng lượng phát triển màu xanh lá có sóng điện
dương mạnh và tốc độ quay thuận chiều kim đồng hồ mạnh.
Điều này sẽ giúp cho hạt năng lượng tỏa năng lượng xanh lá
tới các cấu trúc Tướng khác để kích thích họ cũng phát triển
bền vững.
- Nhóm hạt năng lượng phát triển là những Tuệ linh đã
và đang miệt mài gieo duyên sinh khởi các cấu trúc năng
lượng trong khắp Vũ trụ để kiến thiết, xây dựng Vũ trụ ngày
càng lớn mạnh và bền vững. Đó cũng là những Tuệ linh
không ngừng nghỉ nghiên cứu các công trình giúp nhân loại
được phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực đời sống của
nhân loại.
- Nhóm hạt năng lượng phát triển là những linh hồn
đang an trụ trong các cấu trúc vật chất như cây cối, muông
thú lành để thúc đẩy sự phát triển môi trường tu hành nơi
nhân gian.
- Nhóm hạt năng lượng phát triển là những con người
đã và đang miệt mài nghiên cứu các công trình, các phát
minh, các sáng kiến để thúc đẩy phát triển các lĩnh vực trong
đời sống nhân loại.
- Đó là những người nông dân đang miệt mài lao động
sản xuất để tạo ra nguồn lương thực phát triển đời sống
nhân loại.

219
- Đó là những người công nhân đang miệt mài lao động
sản xuất để phát triển các sản phẩm phục vụ đời sống nhân
loại.
- Đó là những nhà thương nhân, những doanh nhân,
những người đang miệt mài sinh khởi các cấu trúc phát triển
các lĩnh vực từ khoa học, y học, vật lý, hóa học, không gian,
kinh tế… giúp cho nhân loại phát triển.
- Năng lượng phát triển chính là sự hợp duyên của
người nam và người nữ để sinh con phát triển nhân loại.
Muông thú cũng vậy.
- Là những con người bắt đầu thực hành nghiên cứu và
phát triển sự nghiệp.
- Năng lượng phát triển là những con người sống
không vi phạm vào bốn hình tướng Đạo. Họ sống tuân thủ và
duy trì phát triển bốn hình tướng Đạo được bền vững, góp
phần vào việc tìm ra con đường Tâm Đạo ở nhân gian.
Nguyên tắc cốt lõi, nền móng cho việc sản sinh được
năng lượng phát triển chính là phải có năng lượng chân tâm.
Năng lượng chân tâm phải có từ năng lượng chân tâm ban
đầu cho tới năng lượng chân tâm phát triển và cao hơn. Tức
là Trụ linh của Tuệ linh, con người phải là Trụ linh từ cân
bằng cho tới Trụ linh đa dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh
thì mới thực hành sản sinh được năng lượng phát triển. Nếu
Trụ linh đa âm nhẹ, đa âm mạnh, đa âm rất mạnh, siêu đa âm
sẽ không thể sản sinh được năng lượng phát triển. Nếu Trụ
linh đa âm mà cố thực hiện sản sinh năng lượng phát triển sẽ
dễ dàng bị bộc phát độc tâm, bị năng lượng hoại diệt chi phối
mà trở thành sản sinh năng lượng tiêu cực. Do đó, nguyên tắc
để sản sinh được năng lượng phát triển là Tuệ linh, con

220
người phải có Trụ linh từ cân bằng cho tới đa dương mạnh
và siêu mạnh. Nếu một người có Trụ linh đa âm mà chưa cân
bằng được đã miệt mài đầu tư vào khởi nghiệp phát triển
kinh tế sẽ dễ dàng biến thành sản sinh năng lượng tiêu cực,
sẽ thất bại.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng phát triển, năng
lượng hoại diệt sẽ di chuyển ồ ạt vào Trụ linh để khống chế,
chi phối và phân rã cấu trúc Trụ linh nếu Trụ linh rung lắc
sóng điện âm mạnh. Khi đó, Tuệ linh sẽ chuyển hóa thành
sản sinh năng lượng tiêu cực, sẽ thể hiện bản chất của Vòng
tròn sản sinh năng lượng tiêu cực. Hiểu được bí mật này, Tuệ
linh, con người sẽ dễ dàng kiểm soát được sóng rung động
của thái cực âm trong Trụ linh để điều tiết năng lượng hoại
diệt di chuyển tới với số lượng ít, và Trụ linh đạt được cân
bằng hoặc đa dương sẽ dễ dàng truyền tải sóng điện dương
để kích nổ được năng lượng hoại diệt nhằm tạo ra nhiệt
lượng cho quá trình phân tách ra các hạt năng lượng dương
phát triển màu xanh lá.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh năng lượng phát triển, gồm có: những Tướng có Trụ linh
đa âm, những Tướng có Trụ linh đa dương, những Tướng có
Trụ linh cân bằng, những Tướng có Trụ linh là bộ lọc năng
lượng. Để thấu hiểu được bản chất, biểu hiện của các Tướng
cần phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Để sản sinh được
năng lượng dương phát triển màu xanh lá cần phải có thêm
trí tuệ của Chân lý Giác ngộ. Nếu không có trí tuệ của hai
Chân lý thì sẽ không thể sản sinh được hạt năng lượng
dương phát triển, ngược lại sẽ trở thành sản sinh năng lượng
tiêu cực.

221
Trụ linh của Tuệ linh, con người: không Tuệ linh, con
người nào biết Trụ linh của mình là có ẩn chứa độc hay thiện;
không biết là độc hay thiện, yếu tố nào nhiều hơn; độc tâm và
thiện tâm sẽ luôn có trong bất kỳ các cấu trúc Trụ linh của
hết thảy Tuệ linh, con người và vạn vật trong Vũ trụ. Chỉ duy
nhất khi có được bộ lọc năng lượng thì mới không còn độc
tâm trong Trụ linh. Chính vì vậy, trong quá trình sản sinh
năng lượng thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian, các
Trụ linh sẽ dễ dàng bộc phát được độc tâm. Do vậy, phải có
trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ mới nhận
diện, kiểm soát, triệt được độc tâm trong Trụ linh khi nó bắt
đầu sinh khởi. Triệt được độc tâm mới kích hoạt được thiện
tâm để thực hiện được Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
phát triển.
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) ra nhóm hạt năng
lượng phát triển, Tuệ linh, con người phải vận hành hoàn
chỉnh một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ điểm số 1 cho
tới điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản sinh năng
lượng phát triển đạt tới điểm số 5 thì hạt năng lượng phát
triển mới được phân tách ra. Nếu Tuệ linh, con người vận
hành chưa tới được điểm số 5 thì sẽ không có hạt năng lượng
phát triển nào được sản sinh ra.
Nhóm hạt năng lượng phát triển vô cùng quan trọng
cho sự tồn tại và phát triển của hết thảy các Tướng trong Vũ
trụ, Tuệ linh và con người. Tất cả các Tuệ linh phải xuống tu
hành ở nhân gian để trải nghiệm hết thảy khổ đau nhằm tìm
ra các cơ chế, tìm ra cấu trúc phát triển bền vững cho vạn vật
trong Vũ trụ. Năng lượng phát triển sẽ giúp cho nhân loại,
cho Tuệ linh, cho vạn vật Vũ trụ được phân tách, liên kết theo
hướng bền vững an lạc. Năng lượng phát triển có khả năng
222
kích nổ được năng lượng hoại diệt nếu được vận hành nhịp
nhàng với sóng điện âm của năng lượng âm, tức là cần Trụ
linh có khả năng vận hành được sóng điện dương kích nổ
năng lượng hoại diệt di chuyển tới nếu sóng điện âm của
năng lượng âm tại cực âm rung lắc nhẹ. Để rung lắc nhẹ
nhàng được sóng điện âm và kích nổ được năng lượng hoại
diệt bằng sóng điện dương của năng lượng phát triển cần
phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh nhóm hạt năng
lượng phát triển trong Trụ linh, Tuệ linh, con người sẽ tương
tác với các Tướng khác trong khoảng thời gian nhất định,
trong cường độ tương tác, tốc độ tương tác, mật độ tương
tác, độ nén của tương tác, trong môi trường có sóng điện.
Quá trình tương tác chính là quá trình giải mã các Tướng. Kết
thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước vào Vòng
tròn cho quy trình sản sinh hạt năng lượng phát triển trong
Trụ linh.
Tất cả quá trình tương tác cho tới Vòng tròn sản sinh
năng lượng của Tuệ linh, con người tại môi trường tu hành ở
nhân gian đều nằm trong bốn hình tướng Đạo, đó là hình
tướng Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Do đó, các
hạt năng lượng phát triển đều được Trụ linh của Tuệ linh,
con người tương tác và sản sinh ra trong bốn hình tướng
Đạo.
Để sản sinh được năng lượng phát triển, Tuệ linh, con
người phải có trí tuệ của hai Chân lý, phải thấu hiểu bản chất
và cơ chế vận hành của năng lượng hoại diệt, của Trụ linh,
của các Tướng bên ngoài tác động vào như thế nào. Thấu
hiểu được điều này mới có thể khống chế được độc tâm
trong Trụ linh khi nó sinh khởi, mới có thể không bị nhiễm
223
nhiều năng lượng tiêu cực của các Tướng bên ngoài tác động
vào, mới có thể đón nhận được những năng lượng tốt bên
ngoài vào. Khi thấu hiểu sẽ dễ dàng sản sinh được hạt năng
lượng phát triển, khi sản sinh được hạt năng lượng phát
triển sẽ dễ dàng nâng cấp thành sản sinh hạt năng lượng lan
tỏa, năng lượng đoàn kết và các loại siêu hạt năng lượng.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng


lượng phát triển
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển gồm có 5
điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người đã thấu hiểu
được phần nào đó về trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ. Tuệ linh, con người thực hành sản sinh hạt năng
lượng phát triển bằng cơ chế phân tách, liên kết theo hướng
bền vững và an lạc.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển gồm 5
điểm và được chia làm 4 đoạn:

1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người đã
thấu hiểu được phần nào đó về trí tuệ của Chân lý Vạn vật.
Chính vì có trí tuệ thấu hiểu phần nào đó về Chân lý Vạn vật
nên Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh sản sinh được
năng lượng phát triển với cơ chế vận hành là phân tách và
liên kết theo hướng bền vững an lạc.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn Tuệ
linh, con người đang tạo mã sóng rung động trong Trụ linh,
đó là sự hình thành các nhịp mã sóng rung động trong sợi mã

224
sóng trí tuệ. Các nhịp mã sóng rung động sẽ rung động từ
khởi đầu của chân tâm mong muốn sản sinh năng lượng phát
triển để tới cực dương và lại di chuyển tới cực âm. Các nhịp
mã sóng sóng rung động liên tục di chuyển giữa hai cực năng
lượng để tìm ra được hệ tư tưởng cho việc sản sinh hạt năng
lượng phát triển ở điểm 3 trong Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng phát triển.
Điểm số 1 là điểm Sinh, là điểm xuất phát sau quá trình
Tuệ linh, con người tương tác và giải mã về các Tướng. Trong
Vòng tròn sản sinh năng lượng phát triển, điểm Sinh là chân
tâm của năng lượng phát triển, đó là điểm xuất phát, điểm
bắt đầu để thực hiện Vòng tròn sản sinh năng lượng phát
triển hay bất cứ năng lượng nào khác. Vì là sản sinh năng
lượng phát triển nên Trụ linh phải đạt trạng thái cân bằng
trong sự khát khao, mong muốn, tìm kiếm được phương
pháp, con đường phát triển bền vững và trong sáng. Trụ linh
phải có trạng thái chân tâm phát triển đặt vào Trụ linh để
khởi đầu cho hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng
phát triển.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng phát triển, điểm Triệt có hai ý
nghĩa. Tuệ linh, con người phải vận hành Trụ linh vượt qua
được điểm Triệt để tiếp tục hành trình sản sinh hạt năng
lượng phát triển. Hai ý nghĩa đó là:
- Tuệ linh, con người không vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để sản sinh năng lượng phát triển. Khi
không vượt qua được điểm số 2, Tuệ linh, con người chuyển
thành thực hành Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực.
Triệt vì Trụ linh bộc phát độc tâm và rung lắc mạnh. Do Tuệ
linh, con người không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật để nhìn
225
thấu bản chất của các Tướng nên Trụ linh hấp thụ những
năng lượng âm về mà không hấp thụ năng lượng dương, khi
đó năng lượng hoại diệt di chuyển vào và làm phân rã Trụ
linh. Tuệ linh, con người bị triệt hạ bởi không có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để thực hiện sản sinh năng lượng phát triển
nên chuyển hóa thành sản sinh năng lượng tiêu cực, đó là
chuyển hóa thành con đường chuyển sinh phân rã và hoại
diệt.
- Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm số 2 là Triệt để tiếp tục vận hành sản sinh hạt năng
lượng phát triển. Đó là Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu
hiểu phần nào đó về Chân lý Vạn vật, đó là thấu hiểu về bản
chất độc và thiện trong Trụ linh, thấu hiểu về các Tướng tiêu
cực và các Tướng tích cực. Chính vì vậy, trong quá trình vận
hành Trụ linh sản sinh hạt năng lượng phát triển, Tuệ linh,
con người dễ dàng nhận diện và không tiếp nhận những năng
lượng tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới; Tuệ linh,
con người nhận diện và đón nhận được các hạt năng lượng
tích cực của các Tướng tích cực. Khi đó, Trụ linh của họ kiểm
soát được sóng rung động của hệ thống hạt năng lượng âm ở
mức nhẹ và sóng điện dương dễ dàng kích nổ được năng
lượng hoại diệt di chuyển vào với số lượng ít. Vì có trí tuệ
của Chân lý Vạn vật mà Tuệ linh, con người đã triệt bỏ được
độc tâm trong Trụ linh và những độc trong Trụ linh của các
Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào để tiếp tục hành trình
sản sinh năng lượng phát triển, đó là con đường chuyển hóa
bền vững và an lạc thông qua kích hoạt được thiện tâm. Như
vậy, trong Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển, Tuệ
linh, con người phải thực hiện được ý nghĩa này, phải vượt

226
qua được điểm Triệt để tiếp tục sản sinh hạt năng lượng phát
triển.
Trong đoạn từ điểm số 1 tới số 2, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Đó là Tuệ linh, con
người phải phân tích được những bản chất của các Tướng
tiêu cực, các Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những chia
sẻ, những năng lượng tiêu cực của các Tướng tiêu cực bắn
vào và đón nhận năng lượng dương của các Tướng tích cực,
đặc biệt là phải đón nhận được các năng lượng phát triển về
Trụ linh. Bởi vì sản sinh năng lượng phát triển, nên cần phải
đón nhận, hấp thụ được các cấu trúc phát triển bền vững từ
các Tướng phát triển, lấy kinh nghiệm và giá trị của các cấu
trúc phát triển bền vững mà các Tướng phát triển đang thực
hành để làm động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt
qua được điểm số 2 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những
Tướng tiêu cực tác động đến, không để các Tướng tiêu cực
ảnh hưởng tới việc sản sinh hạt năng lượng phát triển.
Trong đoạn này, Trụ linh sẽ dễ bộc phát độc tâm nhất.
Do đó, Tuệ linh, con người cần phải vận dụng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để nhận diện và triệt tiêu độc tâm sau khi
hấp thụ được ít năng lượng hoại diệt về. Vì khát khao sản
sinh năng lượng phát triển, nên khi có các Tướng tiêu cực tác
động tới sẽ dễ dàng kích hoạt độc tâm trong Trụ linh. Các
Tướng tiêu cực sẽ truyền tải năng lượng tiêu cực phát triển
kinh tế, khoa học, nghiên cứu… bằng mọi giá để có thành tựu
mà không quan tâm tới cấu trúc đó có gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người hay không. Do vậy, giai đoạn này cần
phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát độc tâm bộc phát ra
chưa, như thế nào, mức độ ra sao. Phải luôn nhìn lại bản thể
mình xem mình có tham lam không, xem việc mình làm có
227
gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người không, xem
mình có ích kỷ về mình không. Nếu ích kỷ về mình mà gây
tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người thì đó là độc tâm
trong Trụ linh hay còn gọi là độc tâm đã bộc phát.
Để kiểm soát Trụ linh khi nào bộc phát độc tâm và khi
nào Trụ linh hấp thụ năng lượng tiêu cực từ các Tướng bên
ngoài vào, Tuệ linh, con người phải luôn soi lại chính mình.
Đó là coi mình là một tấm gương để xem tấm gương của
mình có những dấu vết của tham lam ích kỷ không, có những
dấu vết của chấp ngã sân hận không, có những dấu vết của
gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người không. Nếu có
là độc tâm đã được hiện diện trong tấm gương ta vừa soi,
nếu không có những dấu vết đó, tức là ta đang thực hành sản
sinh năng lượng phát triển đúng theo Vòng tròn sản sinh
năng lượng phát triển bởi cơ chế phân tách và liên kết bền
vững. Tấm gương này cần phải soi lại từng giờ, từng ngày,
từng sự việc để luôn nhận diện được độc tâm trong Trụ linh
có sinh khởi hay không.
Khi có tấm gương để soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành được Trụ linh, sẽ không để Trụ linh bộc
phát độc tâm ra ngoài. Bấy giờ, Tuệ linh, con người sẽ vận
hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận những sẻ
chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới bằng chân
tâm sáng chói của sự khát khao phát triển. Khi đó Trụ linh đã
liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm phát triển (có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt năng
lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện khi di
chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Điều này khiến
Trụ linh không bị rung lắc mạnh, không bị phát tác độc tâm.
228
Khi đó năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu rung lắc nhẹ
nên chỉ di chuyển các hạt năng lượng hoại diệt với số lượng
ít vào Trụ linh. Năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít sẽ an
toàn, bởi khi đã có trí tuệ của Chân lý Vạn vật sẽ dễ dàng kích
nổ được năng lượng hoại diệt bằng Chân lý Giác ngộ. Đây là
nghệ thuật sử dụng gương soi để kiểm soát độc tâm trong
Trụ linh, để lấy được các hạt năng lượng tiêu cực của môi
trường bên ngoài về mà như không lấy, để lấy được số lượng
ít năng lượng hoại diệt về và an toàn trong sự kích nổ năng
lượng hoại diệt cho quá trình phân tách ra các mã sóng rung
động trong Trụ linh ở điểm số 3.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là rất cần thiết cho việc
sản sinh hạt năng lượng phát triển. Nếu không có năng lượng
hoại diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát an toàn thì sẽ không
có sợi mã sóng trí tuệ nào được hình thành và sẽ không có
năng lượng phát triển nào được phân tách ra. Do đó, giai
đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn đấu trí với các
Tướng, với các năng lượng trong và ngoài Vũ trụ để biến nó
thành nghệ thuật cho quá trình vượt qua được điểm Triệt để
sản sinh được hạt năng lượng phát triển.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng phát triển từ điểm số 1 tới điểm số 2 như
sau:
- Tuệ linh, con người kết thúc quá trình tương tác và
giải mã về các Tướng để sinh khởi Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng phát triển.
- Bắt đầu xuất phát tại điểm số 1 – điểm Sinh: Tuệ linh,
con người đặt Trụ linh vào vị trí Sinh; đó là khởi đầu bằng
năng lượng chân tâm phát triển; đó là Trụ linh cân bằng và
229
rung động để tìm kiếm, sáng chế, phát kiến ra các cấu trúc
phát triển bền vững và trong sáng; đó là chân tâm thánh
thiện trong việc phát triển để mang lại lợi ích tới vạn vật, Tuệ
linh và con người mà không màng tới bản thể mình.
- Tuệ linh, con người phải tỉnh táo dùng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để Trụ linh trong trạng thái an vui, an lạc
trên hành trình rời điểm số 1, đó là: giữ trạng thái Trụ linh
an vui trong hành trình đi tìm kiếm cấu trúc, con đường,
phương pháp phát triển mang tính bền vững, luôn luôn vận
dụng tấm gương soi bản thể mình để phát hiện độc tâm sinh
khởi chưa.
- Trên hành trình di chuyển, tương tác với các Tướng,
Tuệ linh, con người sẽ gặp các Tướng đã và đang phát triển.
Khi đó, không nên tự ti, không nên e dè, không nên xấu hổ,
hãy đến gặp họ, bắt chuyện để hợp duyên. Gặp rồi hãy trò
chuyện để thể hiện ý chí, khát khao mong muốn tìm được
con đường, cấu trúc phát triển mang tính bền vững và trong
sáng vì vạn vật, Tuệ linh và con người. Không nên chỉ gặp
một người, mà phải gặp với nhiều người đã và đang thành
công trong con đường phát triển sản sinh ra năng lượng phát
triển. Gặp càng nhiều người thành công sẽ giúp cho Trụ linh
liên kết được những hạt năng lượng tích cực phát triển từ họ.
Khi gặp những Tướng đã và đang phát triển thành công cũng
cần phải luôn soi gương lại bản thể mình để xem độc tâm có
bộc phát không, phải phân tích các điều kiện, các yếu tố
thuận lợi, khó khăn của từng người đã và đang thành công
trong con đường sản sinh năng lượng phát triển để học tập
các bài học đó cho mình. Khi gặp những Tướng đã và đang
phát triển thành công, Trụ linh sẽ tỏa ra ánh sáng trắng sáng

230
và trong Trụ linh cũng đang có những nhịp di chuyển của mã
sóng trí tuệ tiến tới thái cực dương.
- Tiếp tục gặp gỡ và tương tác với các Tướng đã và
đang thất bại trong hành trình sản sinh năng lượng phát
triển. Khi gặp những Tướng này, hãy mạnh dạn trò chuyện,
mạnh dạn tìm hiểu nguyên nhân thất bại của họ. Khi tương
tác và nhận được những hạt năng lượng tiêu cực của sự thất
bại đó, Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ rung lắc nhẹ và
các nhịp rung trong mã sóng trí tuệ sẽ di chuyển về thái cực
âm để cân bằng với sự hưng phấn khi các nhịp di chuyển tới
thái cực dương. Việc học tập kinh nghiệm của các Tướng đã
và đang thất bại sẽ cho ta được những bài học vô cùng quý
báu, sẽ giúp cho ta phát triển thêm về trí tuệ vạn vật. Lưu ý,
luôn luôn soi gương bản thể mình để xem mình có bị nhụt ý
chí hay có những vết độc tâm bị bộc phát ra hay không. Luôn
luôn phải dùng trí tuệ vạn vật để kiểm soát Trụ linh.
- Tiếp đến hãy chia sẻ với các Tướng đã thành công
hay thất bại trên hành trình sản sinh năng lượng phát triển
về ý chí và con đường, phương pháp phát triển của mình. Trò
chuyện để nhận được những năng lượng của sự động viên và
chia sẻ tích cực của những Tướng thành công, lấy bài học đó
làm kinh nghiệm và động lực để phát triển. Trò chuyện với
các Tướng thất bại sẽ nhận được những lời khuyên tiêu cực
và từ họ sẽ bắn những hạt năng lượng âm vào Trụ linh của ta,
ta chỉ nghe mà không làm theo họ.
- Tiếp tục soi gương để kiểm soát Trụ linh. Hãy hấp thụ
những hạt năng lượng tích cực từ các Tướng tích cực để làm
động lực và sức mạnh cho Trụ linh. Đối với các Tướng tiêu
cực, chỉ nên nghe và lắng nghe, không làm theo để năng
lượng âm của họ không có sức mạnh di chuyển vào Trụ linh
231
của ta nhiều. Khi lấy động lực từ năng lượng tích cực, Trụ
linh sẽ có sức mạnh phát triển ý chí trong sáng để sản sinh
năng lượng phát triển nên sẽ giảm tải sóng điện của những
hạt năng lượng âm từ các Tướng tiêu cực bắn vào.
- Hãy cảm nhận sự khó khăn, hãy phiền não, hãy buồn
bã, hãy suy tính, hãy đắn đo. Những điều này là đang kiểm
soát Trụ linh, là đang thúc đẩy Trụ linh rung lắc sóng điện âm
trong hạt âm gốc và toàn bộ hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ.
Tuyệt đối không u uất, đau khổ hay tuyệt vọng. Chỉ là suy tư,
suy nghĩ, tính toán trong sự thiệt hơn, được mất, lợi mình
hay lợi về vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Khi hệ thống hạt năng lượng âm đang rung lắc nhẹ là
lúc có các hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để chi phối
và làm phân rã Trụ linh. Lúc này, Tuệ linh, con người phải
luôn vận hành trí tuệ của Chân lý Vạn vật, đó là phải hiểu vạn
vật đều là giả tướng, sứ mệnh xuống nhân gian tu hành để cải
tạo Tuệ linh chứ không phải làm giàu hay phát triển bằng
mọi giá mà gây tổn hại tới Tuệ linh và con người. Khi vận
hành suy nghĩ như vậy, hãy tiếp tục nhớ tới những lời động
viên của các Tướng phát triển đã và đang thành công. Tiếp
tục hãy buông đi những Tướng tiêu cực sau khi ta đã lấy
được bài học thất bại từ họ. Lúc này phải hiểu rằng, các
Tướng tiêu cực thất bại là do họ không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật, trong khi mình đã có.
- Vì có hành trang là trí tuệ của Chân lý Vạn vật nên
trong Tuệ linh, con người có trí tuệ là không phát triển bằng
mọi giá mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Trong Trụ linh lúc này đã dừng rung lắc, Trụ linh trở lại cân
bằng và phát triển nhịp rung động tới thái cực dương, tức là
Trụ linh đã di chuyển qua được điểm số 2 là Triệt. Tuệ linh,
232
con người đã triệt đi được những năng lượng tiêu cực tác
động vào, triệt đi được độc tâm vừa bộc phát rung lắc, đặc
biệt là vô hiệu hóa năng lượng hoại diệt không di chuyển vào
nhiều. Những hạt năng lượng hoại diệt di chuyển vào đã bị
chuyển hóa thành những hạt bóng hỏa khi Trụ linh sinh khởi
thành ý chí phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
- Khi vượt qua được điểm số 2, tức là bản thể Tuệ linh,
con người đã tìm ra được con đường, phương pháp, cấu trúc
để thực hiện phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
Trụ linh đã được Tuệ linh, con người vận hành qua
được điểm số 2 bằng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để tiếp tục
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển được thành
trí tuệ giác ngộ cho việc sản sinh năng lượng phát triển.
Trụ linh di chuyển tới đoạn này là đã định hình, đã tìm
ra được con đường phát triển theo hướng bền vững rồi.
Tiếp tục đi gặp những người đã và đang phát triển
thành công có liên quan tới con đường, phương pháp, cấu
trúc mình vừa định hình được để phát triển cấu trúc của
mình thành hệ tư tưởng giác ngộ. Giai đoạn này không nên
giao tiếp, không nên trò chuyện với những Tướng tiêu cực
nữa, hãy dành thời gian tập trung xây dựng phương pháp,
cấu trúc phát triển mang tính bền vững và mang lại lợi ích tới
vạn vật, Tuệ linh và con người.

233
Kết quả của quá trình tương tác với các Tướng đã và
đang thành công, thêm nữa lại có trí tuệ về vạn vật nên Trụ
linh đã rực sáng ánh sáng trắng tỏa ra trong Trụ linh, đó là sự
vui mừng trong nội hành về việc đang cho ra được điểm kết
tụ giác ngộ cấu trúc phát triển bền vững.
Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới được
điểm Ngộ số 3. Đây là giác ngộ. Đó là kết tụ được hệ tư tưởng
xây dựng, phát triển cấu trúc mang tính bền vững và vì vạn
vật, Tuệ linh và con người mà không vì ích kỷ của bản thể
mình.
Khi kết tụ được trí tuệ giác ngộ về cấu trúc phát triển
bền vững, trong Trụ linh tỏa ra sóng điện dương rất mạnh
làm kích nổ những hạt bóng hỏa (được ngủ đông từ năng
lượng hoại diệt đã hấp thụ được ở giai đoạn điểm số 1 tới
điểm số 2).
Nhờ nhiệt lượng lớn từ những hạt bóng hỏa được kích
nổ (do kết tụ được trí tuệ giác ngộ về cấu trúc phát triển bền
vững), nên trong Trụ linh đã cấu tạo được các sợi mã sóng
rung động với màu xanh lá cây. Đây mới chỉ là các đoạn mã
sóng rung động chứ chưa chuyển hóa thành sợi mã sóng trí
tuệ hoàn chỉnh.
Khi đã kết tụ được trí tuệ giác ngộ về cấu trúc phát
triển bền vững mà không chuyển hóa thành ngoại hành để
tới được đích của vòng tròn là điểm số 5 thì những mã sóng
rung động sẽ tự tiêu tan. Tức là khi Trụ linh mới vận hành
được nửa vòng tròn, đó là mới tới được điểm số 3 thì vẫn
chưa tạo ra hạt năng lượng phát triển. Nếu không đi tiếp thì
Trụ linh sẽ trở về điểm xuất phát và những sợi mã sóng phát
triển cũng không còn trong Trụ linh nữa.

234
Vì có trí tuệ giác ngộ về cấu trúc phát triển, nên Tuệ
linh, con người sẽ dễ dàng và quyết tâm vận hành Trụ linh di
chuyển để ngoại hành cho hoàn thành quá trình sản sinh hạt
năng lượng phát triển.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người
nâng cấp được thêm trí tuệ của Chân lý Vạn vật sau khi kết tụ
được trí tuệ giác ngộ ở điểm số 3. Do đó, Tuệ linh, con người
dễ dàng vận hành Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát
triển vượt qua được điểm số 4 là Triệt.
Điểm từ số 3 tới số 4 là đoạn ngoại hành trong việc sản
sinh sợi trí tuệ của hạt năng lượng phát triển, đó là hoàn
thành các sợi mã sóng trí tuệ của các mã sóng rung động đã
được sản sinh ra trước đó ở điểm số 3.
Điểm số 3 là điểm giác ngộ. Bây giờ điểm số 3 là chân
tâm cao và đã có sẵn các sợi mã sóng rung động của hạt năng
lượng phát triển. Trong Trụ linh bây giờ có ánh sáng xanh và
trắng làm lực đẩy cho hành trình tiếp tục phải vận dụng trí
tuệ của Chân lý Vạn vật ở tầm cao hơn để vượt qua những
Tướng tiêu cực và năng lượng hoại diệt trong hành trình sản
sinh năng lượng phát triển ở giai đoạn ngoại hành.
Điểm số 4 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng phát triển, điểm Triệt số 4 cũng có
hai ý nghĩa. Tuệ linh, con người phải vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để tiếp tục hành trình sản sinh năng
lượng phát triển. Hai ý nghĩa đó là:
- Tuệ linh, con người không vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để sản sinh hạt năng lượng phát triển.
235
Khi không vượt qua được điểm số 4, Vòng tròn sản sinh năng
lượng sẽ trở về điểm số 1, đó là sự thất bại, nó sẽ dễ dàng
chuyển hóa thành Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực.
Nguyên nhân là vì Tuệ linh, con người không có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để nhìn thấu bản chất các Tướng nên Trụ
linh hấp thụ những năng lượng âm về mà không hấp thụ
năng lượng dương, khiến năng lượng hoại diệt di chuyển vào
và làm phân rã Trụ linh. Tuệ linh, con người bị triệt hạ bởi
không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật để thực hiện sản sinh
năng lượng phát triển nên thất bại và chuyển hóa thành sản
sinh năng lượng tiêu cực, đó là chuyển hóa thành con đường
chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
- Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm số 4 là Triệt để tiếp tục vận hành sản sinh năng lượng
phát triển. Tuệ linh, con người được nâng cao thêm về trí tuệ
thấu hiểu Chân lý Vạn vật, thấu hiểu về bản chất độc trong
Trụ linh, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng tích
cực. Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ linh sản sinh
năng lượng phát triển, Tuệ linh, con người dễ dàng nhận diện
và không tiếp nhận những năng lượng tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực tác động tới; Tuệ linh, con người nhận diện và đón
nhận được các hạt năng lượng tích cực của các Tướng tích
cực. Khi đó, Trụ linh của họ kiểm soát được sóng rung động
của hạt năng lượng âm ở mức nhẹ và sóng điện dương dễ
dàng kích nổ năng lượng hoại diệt di chuyển vào với số
lượng ít. Vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật mà Tuệ linh, con
người đã triệt bỏ được độc tâm trong Trụ linh và những độc
trong Trụ linh của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào
để tiếp tục hành trình sản sinh năng lượng phát triển, đó là
con đường chuyển hóa bền vững và an lạc. Như vậy, trong
236
Vòng tròn sản sinh năng lượng phát triển, Tuệ linh, con
người phải thực hiện được ý nghĩa này, phải vượt qua được
điểm Triệt để tiếp tục sản sinh hạt năng lượng phát triển.
Trong đoạn từ điểm số 3 tới số 4, Trụ linh sẽ phải tiếp
tục giải mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Tuệ linh, con
người phải phân tích được những bản chất của các Tướng
tiêu cực, các Tướng tích cực mới tác động vào, từ đó triệt tiêu
được những chia sẻ, những năng lượng tiêu cực của các
Tướng tiêu cực bắn vào và đón nhận năng lượng dương của
các Tướng tích cực, đặc biệt là phải đón nhận được các năng
lượng phát triển mới vào Trụ linh. Bởi vì sản sinh năng
lượng phát triển, nên cần phải đón nhận, hấp thụ được các
cấu trúc phát triển bền vững từ các Tướng phát triển, lấy
kinh nghiệm và giá trị của các cấu trúc phát triển bền vững
mà các Tướng phát triển đang thực hành để làm động lực,
làm niềm tin vững chắc cho việc vượt qua được điểm số 4 là
Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những Tướng tiêu cực tác
động đến, không để các Tướng tiêu cực ảnh hưởng tới việc
sản sinh hạt năng lượng phát triển.
Trong đoạn này, Trụ linh sẽ lại dễ bộc phát độc tâm
bởi đây là ngoại hành. Do đó, Tuệ linh, con người cần phải
vận dụng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để nhận diện và triệt
tiêu độc tâm sau khi hấp thụ được ít năng lượng hoại diệt về.
Vì khát khao sản sinh năng lượng phát triển sau khi có hệ tư
tưởng giác ngộ, nên khi có các Tướng tiêu cực tác động tới sẽ
dễ dàng kích hoạt độc tâm trong Trụ linh. Các Tướng tiêu cực
sẽ truyền tải năng lượng tiêu cực phát triển kinh tế, khoa
học, nghiên cứu… bằng mọi giá để có thành tựu mà không
quan tâm tới cấu trúc đó có gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh
và con người hay không. Do vậy, giai đoạn này cần phải kiểm
237
soát tốt Trụ linh, kiểm soát độc tâm bộc phát ra chưa, như
thế nào, mức độ ra sao. Phải luôn nhìn lại bản thể mình xem
mình có tham lam không, xem việc mình làm có gây tổn hại
tới vạn vật, Tuệ linh và con người không, xem mình có ích kỷ
về mình không. Nếu vì ích kỷ về mình mà gây tổn hại tới vạn
vật, Tuệ linh và con người thì đó là độc trong Trụ linh hay
còn gọi là độc tâm đã bộc phát.
Tiếp tục dùng tấm gương soi bản thân để kiểm soát
xem độc tâm của Trụ linh có bộc phát ra không. Luôn luôn
soi lại mình theo từng giờ, từng ngày để kiểm soát.
Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh bằng cách là
lắng nghe, tiếp nhận những sẻ chia tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực tác động tới bằng chân tâm sáng chói của sự khát
khao phát triển sau khi có hệ tư tưởng giác ngộ. Khi đó, Trụ
linh đã liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ các
Tướng tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm phát triển (có trí tuệ
của Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt
năng lượng tiêu cực bên ngoài được giảm tải sóng điện khi di
chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Điều này khiến
Trụ linh không bị rung lắc mạnh, không bị phát tác độc tâm,
khi đó năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu rung lắc nhẹ
nên chỉ di chuyển các hạt năng lượng hoại diệt với số lượng
ít vào Trụ linh. Khi năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít sẽ
an toàn, bởi khi đã có trí tuệ của Chân lý Vạn vật sẽ dễ dàng
kích nổ được năng lượng hoại diệt bằng Chân lý Giác ngộ.
Đây là nghệ thuật sử dụng gương soi để kiểm soát độc tâm
trong Trụ linh, để lấy được các hạt năng lượng tiêu cực của
môi trường bên ngoài về mà như không lấy, để lấy được số
lượng ít năng lượng hoại diệt về và an toàn trong sự kích nổ

238
được năng lượng hoại diệt cho quá trình sản sinh năng lượng
phát triển hoàn chỉnh ở điểm số 5.
Trong giai đoạn này, năng lượng hoại diệt rất quan
trọng, Trụ linh rất cần có năng lượng hoại diệt với số lượng ít
di chuyển tới. Trụ linh sẽ phải kích nổ chúng để tạo nhiệt
lượng cho quá trình tiếp tục cấu tạo đoạn sợi trí tuệ trong
hạt năng lượng phát triển cho tới khi hoàn thành ở điểm số
5.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng phát triển từ điểm số 3 tới điểm số 4 như
sau:
- Tuệ linh bắt đầu ngoại hành để thực hiện sản sinh hạt
năng lượng phát triển sau khi có được trí tuệ giác ngộ về cấu
trúc phát triển. Bây giờ, Trụ linh có động lực và sức mạnh bởi
chân tâm giác ngộ ở tầm cao nên rất khí thế cho chuỗi hành
động ngoại hành để sản sinh ra các hạt năng lượng phát
triển.
- Tiếp tục phải tỉnh táo trong giai đoạn ngoại hành, đó
là giữ trạng thái Trụ linh an vui trong hành trình thực hành
phát triển cấu trúc phát triển bền vững, luôn luôn vận dụng
tấm gương soi bản thể mình để phát hiện độc tâm sinh khởi
chưa.
- Tuệ linh, con người bắt đầu tiến hành các hành động
xây dựng, phát triển cấu trúc phát triển bền vững tới vạn vật,
Tuệ linh và con người.
- Quá trình xây dựng và phát triển bởi các hành động
ngoại hành, Tuệ linh, con người sẽ gặp những Tướng tiêu cực
ở trong và bên ngoài tổ chức của mình. Họ sẽ tương tác, bắn
các hạt năng lượng tiêu cực tới cấu trúc phát triển, tới Trụ
239
linh của mình. Khi đó, hãy dùng trí tuệ nâng cao về Chân lý
Vạn vật để thấu hiểu rằng các Tướng tiêu cực sẽ luôn luôn có
ở mọi nơi, thậm chí là chính trong Trụ linh của mình. Hãy
nghe, lắng nghe những Tướng tiêu cực bắn phá tới nhưng
không hấp thụ nhiều cũng như không thực hành theo họ.
- Tiếp tục hãy lắng nghe các Tướng tích cực đã và đang
phát triển thành công chia sẻ và bắn các hạt năng lượng phát
triển tới. Hãy hấp thụ nó để làm động lực cho Trụ linh vững
vàng. Phải tìm kiếm, trò chuyện, sẻ chia, học hỏi kinh nghiệm
từ những Tướng đã và đang phát triển thành công.
- Soi gương để kiểm soát Trụ linh. Bấy giờ, hãy suy
nghĩ suy tư, lo âu, buồn phiền, đắn đo về những Tướng tiêu
cực để kích hoạt rung động sóng điện âm trong Trụ linh ở
mức nhẹ. Khi đó, năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển với số
lượng ít vào Trụ linh. Nên nhớ là không đau thương, bi ai, u
uất, lo âu về những Tướng tiêu cực, về sự không thành công
để năng lượng hoại diệt không vào nhiều.
- Kiểm soát Trụ linh bằng cách hãy nghĩ về những điều
tốt đẹp bởi Chân lý Giác ngộ sẽ mang lại giá trị bền vững cho
vạn vật, Tuệ linh và con người. Hãy nghĩ tới những điều tốt
đẹp, những thành tựu mà những Tướng tích cực đã sẻ chia và
động viên. Khi đó, Tuệ linh, con người đã gia tăng trí tuệ về
Chân lý Vạn vật, Trụ linh không rung lắc nữa, Trụ linh lại
bừng sáng bởi ý chí hoàn thiện cấu trúc phát triển bền vững.
Bấy giờ, năng lượng hoại diệt bị ngủ đông và trở thành
những hạt bóng hỏa trong Trụ linh.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh
vượt qua được điểm số 4, đó là triệt tiêu được những độc
tâm trong Trụ linh, triệt tiêu được những hạt năng lượng tiêu
cực của các Tướng tiêu cực để tạo thành lực đẩy tới việc
240
hoàn thành quá trình sản sinh năng lượng phát triển ở điểm
số 5 trong Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển.

4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển và thấu hiểu
trí tuệ giác ngộ ở tầm cao mới.
Từ điểm số 4 tới điểm số 5 là giai đoạn gấp rút hoàn
thành đoạn sợi trí tuệ trong hạt năng lượng phát triển.
Điểm số 5 chính là điểm Tỏa. Điểm Tỏa là điểm kết
thúc Vòng tròn sản sinh năng lượng phát triển.
Khi Tuệ linh, con người đã gia tăng được trí tuệ của
Chân lý Vạn vật và vượt qua được điểm Triệt số 4, Trụ linh
được vận hành sang giai đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5. Đây
là giai đoạn mà Tuệ linh, con người đẩy mạnh quá trình hành
động để hoàn thành quá trình xây dựng, phát triển các cấu
trúc phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Khi vượt qua điểm số 4, Tuệ linh, con người cần phải
đẩy mạnh quá trình trao đổi, học tập kinh nghiệm từ những
Tướng đã và đang thành công trên con đường sản sinh năng
lượng phát triển. Việc này sẽ giúp cho Trụ linh nhanh chóng
sản sinh hoàn thiện các hạt năng lượng phát triển.
Vì được nâng cao trí tuệ về Chân lý Vạn vật, lại có được
nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt bị kích nổ, nên Tuệ
linh, con người nhanh chóng hoàn thành kết thúc quá trình
sản sinh năng lượng phát triển bằng cách đẩy Trụ linh tới
được điểm số 5 là Tỏa.
Khi hoàn thành quá trình sản sinh hạt năng lượng phát
triển ở điểm số 5, Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ phân
tách ra một cho tới nhiều sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
241
dương mạnh có màu xanh lá. Từ Trụ linh, những hạt năng
lượng phát triển được phân tách và lưu giữ trong Vũ trụ.
Cũng từ Trụ linh, những hạt năng lượng phát triển được
phân tách bắn vào những Tướng đã được tương tác trong
quá trình sản sinh ra năng lượng phát triển. Cũng từ Trụ linh,
những hạt năng lượng phát triển được phân tách và cấu tạo
thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ
linh theo hướng bền vững.
Đặc biệt, ngoài những hạt năng lượng phát triển mang
sóng điện dương được phân tách ra thì những hạt năng
lượng chân tâm phát triển cũng được phân tách kèm theo để
làm sợi dây gắn kết cấu trúc năng lượng trong Vũ trụ được
bền vững, trong Tuệ linh được bền vững. Những hạt năng
lượng chân tâm phát triển làm nhiệm vụ kết dính các hạt
năng lượng dương trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng
bên ngoài Trụ linh được vững chắc. Những hạt năng lượng
chân tâm phát triển và những hạt năng lượng phát triển là
minh chứng cho việc Tuệ linh, con người nâng cấp được trí
tuệ giác ngộ ở mức độ cao hơn.
Tuệ linh, con người sau khi đã sản sinh được năng
lượng phát triển sẽ có kinh nghiệm cho các Vòng sản sinh hạt
năng lượng phát triển tiếp theo. Đồng thời, đó là động lực,
nền tảng, kinh nghiệm cho việc vận hành nâng cấp Vòng tròn
sản sinh hạt năng lượng lan tỏa các cấu trúc phát triển tới
vạn vật, Tuệ linh và con người. Đó là hành trình trên con
đường thực hiện chuyển sinh Trụ linh theo hướng bền vững
và chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
Tuệ linh, con người đã đạt được thành tựu sản sinh
năng lượng phát triển sẽ phân tách các hạt năng lượng phát
triển đó khi sẻ chia, chỉ dẫn cho những người đang cần trợ
242
giúp kinh nghiệm về sản sinh năng lượng phát triển, điều mà
chính họ cũng đã nhận được từ những Tướng đã và đang
thành công trong việc sản sinh năng lượng phát triển, cụ thể
là thông qua giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 và giai đoạn
từ điểm số 3 tới điểm số 4 trong Vòng tròn sản sinh năng
lượng.
Ngoài những hạt năng lượng phát triển được phân
tách ra, những vật chất, những giá trị mang đặc tính phát
triển bền vững được sản sinh ra sẽ góp phần làm phát triển
đời sống nhân loại, đời sống tu hành của Tuệ linh ở nhân
gian. Nó rất cần thiết, điều mà hết thảy con người, Tuệ linh
đều phải thực hành tốt.
Như vậy, việc thực hiện hoàn thành viên mãn Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển là hướng chuyển
sinh bền vững, nó mang lại lợi ích cho vạn vật, Tuệ linh và
con người. Việc sản sinh và tỏa những hạt năng lượng phát
triển tới Vũ trụ và các Tướng khác chính là kết quả, thành
tựu của việc Tuệ linh, con người có được trí tuệ của Chân lý
Vạn vật và Chân lý Giác ngộ.

III. Ví dụ thực tế
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng dương phát triển
màu xanh lá thông qua việc người thanh niên khởi nghiệp
kinh doanh:
Có một anh thanh niên trưởng thành, xuất thân từ
vùng quê nghèo. Anh ấy không được học hành cao, anh ấy
không có tiền, anh ấy không có các mối quan hệ tốt có thể
giúp anh ấy kinh doanh thành công. Anh ấy tới thành phố lớn
và lao động chân tay để mưu sinh. Trải qua nhiều năm, anh
243
ấy cũng đã tích cóp cho mình được một ít tiền để làm vốn cho
việc khởi nghiệp kinh doanh.
Trong những năm lao động, anh ấy được trò chuyện
với nhiều người kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau. Có
những người kinh doanh trở nên giàu có nhờ việc có nền
tảng tri thức học hành, có những người kinh doanh trở nên
thành công nhờ có các mối quan hệ tốt, có những người kinh
doanh trở nên thành đạt nhờ có nhiều vốn và nhanh nhạy
trong kinh doanh. Anh ấy cũng gặp gỡ và trò chuyện với
nhiều người kinh doanh thất bại. Anh ấy chia sẻ với nhiều
người về ước mơ khởi nghiệp, anh ấy chia sẻ với mọi người
rằng mình không có tiền, không có trình độ học thức cao,
không có các mối quan hệ tốt.
Anh ấy sinh khởi việc tìm một công việc hoặc lĩnh vực
nào đó để kinh doanh, để phát triển sự nghiệp cho bản thân
mình. Anh ấy bắt đầu đi tìm hiểu những công việc mà không
cần phải có trí tuệ học vấn cao, không cần phải có các mối
quan hệ tốt ngay, không cần phải mất nhiều tiền đầu tư.
Trong quá trình tìm hiểu các lĩnh vực để kinh doanh,
anh ấy được nhiều người chia sẻ là hãy thực hành việc kinh
doanh buôn bán mặt hàng nào đó mà các khu vực dân cư có
nhu cầu. Có người khuyên anh ấy bán lẻ, có người khuyên
anh ấy đi buôn rồi đổ buôn cho các điểm bán lẻ, có người
khuyên anh ấy để nhanh giàu thì đi buôn lậu. Có người cũng
khuyên anh ấy là buôn bán ma tuý, họ sẽ kết nối mối cho. Họ
nói ban đầu chỉ cần lấy ít và không cần nhiều vốn ngay, lại
siêu lợi nhuận. Có người lại khuyên anh ấy nên đi làm thuê
cho đỡ vất vả trong kinh doanh.
Trước những chia sẻ của nhiều người, anh thanh niên
suy nghĩ nhiều về các hình thức và con đường chọn lựa để
244
khởi nghiệp kinh doanh. Có lúc anh ấy muốn phát triển kinh
doanh theo hướng nhanh giàu có mà bất chấp luật pháp
không cho phép. Có lúc anh ấy muốn phát triển kinh doanh
theo hướng tuân thủ pháp luật và mang lại lợi ích cho mọi
người. Và rồi anh ấy quyết định sẽ không khởi nghiệp kinh
doanh theo hướng nhanh giàu mà vi phạm pháp luật, gây tổn
hại cho mọi người. Anh ấy quyết tâm chọn lựa hình thức kinh
doanh không vi phạm pháp luật và không làm tổn hại tới mọi
người.
Cuối cùng, sau khi chọn được hướng kinh doanh cho
mình, anh ấy tìm hiểu thêm về nhu cầu của đời sống dân cư.
Thế rồi anh ấy đã khởi nghiệp bằng việc cung cấp nông sản
sạch tiêu thụ cho các cửa hàng trong thành phố.
Sau nhiều năm kinh doanh và trải qua nhiều giai đoạn
thăng trầm cũng như khó khăn, anh thanh niên đã đạt được
thành tựu là có nhiều công nhân làm việc cho mình, nguồn
cung ứng sản phẩm và khách hàng đảm bảo. Chính vì vậy,
anh đã thành công và trở nên no đủ trong cuộc sống.
Hành trình vận hành Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng phát triển của anh thanh niên diễn ra như sau:
- Anh thanh niên đã tương tác với nhiều người trong
những năm lao động mưu sinh: quá trình này giúp anh thanh
niên giải mã được về cuộc sống giàu có, về những vất vả của
nghèo đói, về những phẩm chất con người; quá trình này
giúp anh ấy chuyển thành sinh khởi cho Vòng tròn sản sinh
năng lượng phát triển, đó là khởi nghiệp kinh doanh.
- Anh ấy sinh khởi con đường phát triển kinh tế, đó là
sinh khởi Vòng tròn sản sinh năng lượng phát triển. Khi đó,
Trụ linh của anh ấy có trạng thái là chân tâm muốn phát triển

245
kinh tế, đó là chân tâm phát triển. Trụ linh đặt tại điểm số 1
là Sinh, khởi đầu cho Vòng tròn hành trình sản sinh hạt năng
lượng phát triển.
- Tiếp đến anh ấy vận hành Trụ linh trong giai đoạn từ
điểm số 1 cho tới điểm số 2:
+ Trụ linh của anh ấy rung lắc và bộc phát một chút
độc tâm bởi anh ấy đón nhận những hạt năng lượng âm từ
những người chia sẻ về con đường làm giàu bằng cách kinh
doanh vi phạm đạo đức và pháp luật, đó là lúc mà anh ấy
cũng khát khao làm giàu bằng con đường phi pháp.
+ Trụ linh của anh ấy tiếp tục đón nhận và hấp thụ
những hạt năng lượng dương của những Tướng phát triển
khi họ chia sẻ cho anh ấy, rằng nên chọn lựa con đường kinh
doanh phù hợp và không vi phạm đạo đức cũng như ảnh
hưởng tới mọi người.
- Do đón nhận được nhiều năng lượng phát triển của
các Tướng phát triển, anh ấy dễ dàng không để Trụ linh tiếp
tục bị phát tác độc tâm. Anh ấy chỉ lắng nghe những chia sẻ
của các Tướng tiêu cực mà không làm theo. Khi đó những hạt
năng lượng hoại diệt với số lượng ít di chuyển vào Trụ linh.
Vì lắng nghe, học hỏi kinh nghiệm của những người đã và
đang kinh doanh thành công, được họ tư vấn và truyền dạy
kinh nghiệm kinh doanh nên anh ấy có trí tuệ phần nào về
Chân lý Vạn vật.
- Vì có phần nào đó trí tuệ của Chân lý Vạn vật, có được
năng lượng phát triển từ các Tướng tích cực bắn tới, Trụ linh
của anh ấy được kiểm soát và ngủ đông được những hạt
năng lượng hoại diệt đã bắn tới. Chính vì điều này, anh ấy

246
vượt qua được điểm số 2 là Triệt, tức là triệt tiêu được
những độc tâm và những Tướng tiêu cực tác động tới.
- Sau khi có được ý chí là chỉ kinh doanh tuân thủ pháp
luật và mang lại lợi ích tới mọi người, anh ấy đã tập trung tìm
hiểu kinh doanh theo hướng phát triển bền vững. Chính vì
vậy, Trụ linh của anh ấy đã đón nhận thêm được những hạt
năng lượng phát triển do anh ấy đi học hỏi thêm về kinh
doanh.
- Tiếp đến, anh ấy tới được điểm số 3 là Ngộ, đó là giác
ngộ về việc phát triển kinh doanh theo hướng bền vững. Khi
có trí tuệ phần nào đó về Chân lý Vạn vật, việc học tập kinh
doanh từ những Tướng có kinh nghiệm và thành công đã
giúp anh ấy kết tụ thành trí tuệ giác ngộ trong phát triển kinh
doanh, đó là kinh doanh không vi phạm đạo đức và pháp luật,
kinh doanh phải mang lại giá trị lợi ích tới mọi người.
- Khi có được trí tuệ giác ngộ và tri thức cho kinh
doanh, anh thanh niên đã chuyển hóa thành ngoại hành, đó là
thực hành hành động kinh doanh. Bấy giờ trong Trụ linh của
anh có những đoạn mã sóng rung động phát triển màu xanh
lá, trong Trụ linh cũng có ánh sáng rực rỡ sáng chói và màu
xanh. Đó là chân tâm giác ngộ mới trong hệ tư tưởng đã được
kết tụ trong Trụ linh.
- Anh ấy thực hành kinh doanh trong nhiều năm. Việc
thực hành kinh doanh chính là ngoại hành, chính là việc cung
ứng sản phẩm nông sản tới các cửa hàng. Quá trình kinh
doanh cũng gặp nhiều khó khăn, những khó khăn đó giống
với đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2, đó là trong đoạn từ điểm
số 3 tới điểm số 4, anh ấy đã diệt được độc tâm, diệt được
những tiêu cực tác động tới, kích nổ được những năng lượng
hoại diệt và đón nhận được những năng lượng phát triển để
247
thực hiện được hoàn chỉnh Vòng tròn sản sinh năng lượng
phát triển. Quá trình ngoại hành càng ngày càng giúp anh
thanh niên có thêm trí tuệ về Chân lý Vạn vật.
- Kết thúc điểm số 5 trong Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng phát triển, đó là điểm Tỏa. Trụ linh của anh ấy đã phân
tách ra vô số hạt năng lượng phát triển trong nhiều năm kinh
doanh: vô số hạt năng lượng phát triển bắn vào Vũ trụ, vô số
hạt năng lượng phát triển bắn vào các đối tượng tương tác
trong kinh doanh, vô số hạt năng lượng phát triển phân tách
ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng bền vững hơn.
Ngoài ra, trong cuộc sống của mình, anh ấy chia sẻ
những kinh nghiệm kinh doanh cho những người trẻ bắt đầu
khởi nghiệp, chính là việc anh ấy đang phân tách ra nhiều hạt
năng lượng phát triển để làm động lực và niềm tin cho mọi
người cũng đang trên hành trình Vòng tròn sản sinh năng
lượng phát triển, giống như việc anh ấy cũng đã được những
Tướng tích cực phân tách các hạt năng lượng phát triển tới
Trụ linh để có động lực, có trí tuệ phát triển kinh doanh.
Không những sản sinh ra được vô số các hạt năng
lượng phát triển vào Vũ trụ, vào Tuệ linh, tới mọi người, anh
thanh niên này còn giúp cho đời sống của nhiều người được
cải thiện và giá trị cuộc sống được nâng cao. Đó là Vòng tròn
sản sinh hạt năng lượng phát triển viên mãn mà anh ấy đã
hoàn thành. Nó sẽ là tiền đề để anh ấy vận hành Vòng tròn
sản sinh năng lượng phát triển tiếp theo và nâng cấp thành
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa thành công tới mọi
người.
***************

248
Bài 4:
Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng lan tỏa


Hình: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa
249
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa
sẽ được vận hành tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua được
điểm số 2, tiếp tục tới được điểm số 3, tiếp tục vượt qua
được điểm số 4, tiếp tục tới đích ở điểm số 5. Sau khi vận
hành được một vòng tròn từ điểm số 1 đến được điểm số 5,
Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ
lửa, đó là Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ
lửa. Cơ chế sản sinh hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa là do
Tuệ linh, con người đã thấu hiểu nhiều về trí tuệ của Chân lý
Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, đồng thời thực hành cơ chế
phân tách và liên kết theo hướng bền vững và an lạc.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng


lan tỏa
Nhóm hạt năng lượng lan tỏa là nhóm hạt năng lượng
dương có sóng điện dương rất mạnh.
Hạt năng lượng lan tỏa là loại hạt năng lượng có sợi
mã sóng trí tuệ với điểm 1 nằm ở đường trung tính, điểm 2
và điểm 3 đều nằm ở cực dương trong hạt năng lượng dương
lan tỏa. Hạt năng lượng dương lan tỏa có trạng thái năng
lượng, có sóng điện dương rất mạnh. Bản chất trạng thái
năng lượng, sóng điện của hạt năng lượng dương lan tỏa là
Tỏa. Tỏa là miệt mài lan tỏa những cấu trúc phát triển bền
vững đến với vạn vật, Tuệ linh và con người mà không màng
tới bản thể của mình.
Bản chất của nhóm năng lượng lan tỏa là:
- Nhóm hạt năng lượng lan tỏa là nhóm hạt năng lượng
mang sóng điện dương rất mạnh.

250
- Sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng dương lan
tỏa quay thuận chiều kim đồng hồ ở mức rất mạnh và sinh
phát năng lượng màu đỏ lửa.
- Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng lan tỏa
có màu đỏ lửa.
- Hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa với sóng điện
dương rất mạnh và tốc độ quay thuận chiều kim đồng hồ rất
mạnh. Điều này sẽ giúp cho hạt năng lượng tỏa năng lượng
đỏ lửa tới các cấu trúc Tướng khác được học tập các cấu trúc
phát triển bền vững.
- Nhóm hạt năng lượng lan tỏa là những Tuệ linh đã và
đang miệt mài gieo duyên lan tỏa các cấu trúc phát triển bền
vững tới khắp Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đó cũng là
những Tuệ linh không ngừng nghỉ lan tỏa các công trình, các
cấu trúc phát triển cho nhân loại được phát triển và ngày
càng thịnh vượng hơn.
- Nhóm hạt năng lượng lan tỏa là những linh hồn đang
an trụ trong các cấu trúc vật chất như cây cối, muông thú
lành để thúc đẩy lan tỏa sự phát triển bền vững tới môi
trường tu hành nơi nhân gian.
- Nhóm hạt năng lượng lan tỏa là những con người đã
và đang miệt mài lan tỏa, truyền dạy các công trình nghiên
cứu, các phát minh, các sáng kiến tới mọi người để thúc đẩy
phát triển các lĩnh vực trong đời sống nhân loại.
- Đó là những nhà giáo, những người thầy giảng dạy
những tri thức trong nền giáo dục, trong tôn giáo tới khắp
nhân loại để giúp cho nhân loại xây dựng và phát triển các
cấu trúc phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
251
- Năng lượng lan tỏa là những con người lan tỏa giá trị
đạo đức của bốn hình tướng Đạo tới mọi người, đó là lan tỏa
khuôn mẫu đạo đức trong bốn hình tướng và Tâm tướng
Đạo. Lan tỏa để mọi người cùng thực hành, cùng sống, cùng
phát triển đời sống tuân thủ đạo đức.
- Là những con người lan tỏa những thành công trong
các lĩnh vực kinh doanh, trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội tới khắp nơi, tới mọi người để nhân loại cùng ứng dụng
và thực hành phát triển bền vững theo.
Nguyên tắc cốt lõi, nền móng cho việc sản sinh được
hạt năng lượng lan tỏa chính là phải có năng lượng chân tâm.
Năng lượng chân tâm phải có từ năng lượng chân tâm phát
triển cho tới năng lượng chân tâm lan tỏa và cao hơn. Tức là
Trụ linh của Tuệ linh, con người phải là Trụ linh từ Trụ linh
đa dương mạnh cho tới đa dương rất mạnh và siêu mạnh thì
mới thực hành sản sinh được năng lượng lan tỏa được. Nếu
Trụ linh đa âm nhẹ, đa âm mạnh, đa âm rất mạnh, siêu đa âm
sẽ không thể sản sinh được hạt năng lượng lan tỏa. Nếu Trụ
linh đa âm mà cố thực hiện sản sinh năng lượng lan tỏa sẽ dễ
dàng bị bộc phát độc tâm, bị năng lượng hoại diệt chi phối
mà trở thành sản sinh năng lượng tiêu cực. Do đó, nguyên tắc
để sản sinh được năng lượng lan tỏa là Tuệ linh, con người
phải có Trụ linh từ đa dương mạnh cho tới rất mạnh, siêu
mạnh. Nếu một người có Trụ linh đa âm mà chưa cân bằng
được đã miệt mài lan tỏa các cấu trúc phát triển thì sẽ không
ai đón nhận và sẽ thất bại ngay. Bởi Tuệ linh nhìn nhau để
sống, nên khi Trụ linh đa âm mà lan tỏa sẽ khiến cho các Tuệ
linh khác đều biết và không tin theo.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, người
truyền dạy, người lan tỏa không nên tự hào hay khoe khoang
252
mình là Thầy, vì khi đó sẽ dễ sinh khởi ngạo mạn, tự mãn mà
dẫn tới bộc phát độc tâm trong Trụ linh. Khi độc tâm trong
Trụ linh bộc phát là thời điểm năng lượng hoại diệt sẽ ồ ạt
xâm nhập vào làm vỡ cấu trúc của Trụ linh và Tuệ linh. Hãy
chỉ coi mình là người lan tỏa và là người chỉ dẫn.
Người truyền dạy, lan tỏa phải luôn coi hết thảy vạn
vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, mọi người là người Thầy
của mình, phải biết khiêm tốn học tập bài học từ hết thảy
Tướng trong cuộc sống, từ hết thảy vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ. Đó là học bài học từ em bé, từ muông thú, từ cỏ cây, từ
hiện tượng, từ người đau khổ, từ người nghèo, từ người
bệnh, từ người khỏe, từ người thất bại, từ người thành
công…, phải học tất cả. Bởi tất cả là người thầy của ta, sẽ giúp
cho ta học được bài học kiểm soát và triệt tiêu độc tâm, học
được bài học kích hoạt thiện tâm để sản sinh ra các hạt năng
lượng dương.
Hết thảy con người, Tuệ linh phải tôn trọng những
người Thầy đã truyền dạy tri thức, đạo đức, lối sống, đó là từ
cha mẹ, ông bà, thầy cô ở trường lớp, đến những người thầy
trong cuộc sống. Phải luôn coi tất cả là Thầy, không được
khinh khi coi thường, không được bất kính. Điều này sẽ giúp
cho những người đón nhận các tri thức biết khiêm nhường,
biết diệt độc trong Trụ linh, không để độc bộc phát và không
để năng lượng hoại diệt làm phân rã hoại diệt.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, năng
lượng hoại diệt sẽ di chuyển ồ ạt vào Trụ linh để khống chế,
chi phối và phân rã cấu trúc Trụ linh nếu Trụ linh rung lắc
sóng điện âm mạnh cho tới siêu mạnh. Khi đó Tuệ linh, con
người sẽ chuyển hóa thành sản sinh hạt năng lượng Tiêu cực,
sẽ thể hiện bản chất của Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu
253
cực. Hiểu được bí mật này, Tuệ linh, con người sẽ dễ dàng
kiểm soát được sóng rung động của hạt năng lượng âm trong
Trụ linh để điều tiết năng lượng hoại diệt di chuyển tới với
số lượng ít, và Trụ linh đạt được cân bằng hoặc đa dương sẽ
dễ dàng truyền tải sóng điện dương để kích nổ được năng
lượng hoại diệt nhằm tạo ra nhiệt lượng cho quá trình phân
tách ra các hạt năng lượng dương lan tỏa màu đỏ lửa.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng lan tỏa, đó là: những Tướng có Trụ linh
đa âm, những Tướng có Trụ linh đa dương, những Tướng có
Trụ linh cân bằng, những Tướng có Trụ linh là bộ lọc năng
lượng. Để thấu hiểu được bản chất, biểu hiện của các Tướng
cần phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Để sản sinh được
năng lượng dương lan tỏa màu đỏ lửa cần phải có thêm trí
tuệ của Chân lý Giác ngộ. Nếu không có trí tuệ của hai Chân lý
thì sẽ không thể sản sinh được năng lượng dương lan tỏa,
ngược lại sẽ trở thành sản sinh năng lượng tiêu cực.
Trụ linh của Tuệ linh, con người: không Tuệ linh, con
người nào biết trong Trụ linh của mình là có ẩn chứa độc hay
thiện, không biết là độc hay thiện, yếu tố nào nhiều hơn; độc
tâm và thiện tâm sẽ luôn có trong bất kỳ các cấu trúc Trụ linh
của hết thảy Tuệ linh, con người và vạn vật trong Vũ trụ. Chỉ
duy nhất khi có được bộ lọc năng lượng thì mới không còn
độc trong Trụ linh. Chính vì vậy, trong quá trình sản sinh
năng lượng thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian, các
Trụ linh sẽ dễ dàng bộc phát được độc tâm. Do vậy, phải có
trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ mới nhận
diện, kiểm soát và triệt được độc tâm trong Trụ linh khi nó
bắt đầu sinh khởi. Có như vậy mới kích hoạt được thiện tâm
để thực hiện được Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa.
254
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) ra nhóm hạt năng
lượng lan tỏa, Tuệ linh, con người phải vận hành hoàn chỉnh
một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ điểm số 1 cho tới
điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản sinh năng lượng
lan tỏa đạt tới điểm số 5 thì hạt năng lượng lan tỏa mới được
phân tách ra. Nếu Tuệ linh, con người vận hành chưa tới
được điểm số 5 thì sẽ không có hạt năng lượng lan tỏa nào
được sản sinh ra.
Nhóm hạt năng lượng lan tỏa vô cùng quan trọng cho
sự tồn tại và phát triển bền vững của hết thảy Tướng trong
Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Năng lượng lan tỏa làm ánh
sáng chỉ dẫn cho các Tướng (vật chất) trong Vũ trụ nhận diện
và thực hành được các cấu trúc phát triển bền vững, lan tỏa,
soi sáng, truyền dạy các cấu trúc phát triển bền vững. Năng
lượng lan tỏa sẽ giúp cho nhân loại, cho Tuệ linh và con
người, cho vạn vật, Vũ trụ được phân tách, liên kết theo
hướng bền vững an lạc. Năng lượng lan tỏa có khả năng kích
nổ rất mạnh năng lượng hoại diệt nếu được vận hành nhịp
nhàng với sóng điện âm của năng lượng âm, tức là cần Trụ
linh có khả năng vận hành được sóng điện dương kích nổ
năng lượng hoại diệt di chuyển tới nếu sóng điện âm của
năng lượng âm tại cực âm rung lắc nhẹ. Để rung lắc nhẹ
nhàng được sóng điện âm và kích nổ được năng lượng hoại
diệt bằng sóng điện dương của năng lượng lan tỏa cần phải
có trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh nhóm hạt năng
lượng lan tỏa trong Trụ linh, Tuệ linh, con người sẽ tương tác
với các Tướng khác trong khoảng thời gian nhất định, trong
cường độ tương tác, tốc độ tương tác, mật độ tương tác, độ
nén của tương tác, trong môi trường có sóng điện. Quá trình
255
tương tác chính là quá trình giải mã các Tướng. Kết thúc quá
trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước vào vòng tròn cho
quy trình sản sinh hạt năng lượng lan tỏa trong Trụ linh.
Tất cả quá trình tương tác cho tới Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng của Tuệ linh, con người tại môi trường tu
hành ở nhân gian đều nằm trong bốn hình tướng Đạo, đó là
hình tướng Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Do
đó, các hạt năng lượng lan tỏa đều được Trụ linh của Tuệ
linh, con người tương tác và sản sinh ra trong bốn hình
tướng Đạo.
Để sản sinh được năng lượng lan tỏa, Tuệ linh, con
người phải có trí tuệ của hai Chân lý, phải thấu hiểu bản chất
và cơ chế vận hành của năng lượng hoại diệt, của Trụ linh,
của các Tướng bên ngoài tác động vào như thế nào. Thấu
hiểu được điều này mới có thể khống chế được độc tâm
trong Trụ linh khi nó sinh khởi, mới có thể không bị nhiễm
năng lượng tiêu cực của các Tướng bên ngoài tác động vào,
mới có thể đón nhận được những năng lượng tốt bên ngoài
vào. Khi thấu hiểu sẽ dễ dàng sản sinh được năng lượng lan
tỏa, khi sản sinh được năng lượng lan tỏa sẽ dễ dàng nâng
cấp thành sản sinh năng lượng đoàn kết và các loại siêu hạt
năng lượng.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng


lượng lan tỏa
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa gồm có 5
điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người đã thấu hiểu
nhiều về trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ. Tuệ
linh, con người thực hành sản sinh hạt năng lượng lan tỏa
256
bằng cơ chế phân tách, liên kết theo hướng bền vững và an
lạc.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa gồm 5 điểm
và được chia làm 4 đoạn:

1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người đã
thấu hiểu nhiều về trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Chính vì có trí
tuệ thấu hiểu nhiều về Chân lý Vạn vật nên Tuệ linh, con
người vận hành Trụ linh sản sinh được năng lượng lan tỏa
với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết theo hướng bền
vững an lạc.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn Tuệ
linh, con người đang tạo mã sóng rung động trong Trụ linh,
đó là sự hình thành các nhịp mã sóng rung động trong sợi mã
sóng trí tuệ. Các nhịp mã sóng rung động sẽ rung động từ
khởi đầu của chân tâm mong muốn sản sinh năng lượng lan
tỏa để tới cực dương và lại di chuyển tới cực âm. Các nhịp mã
sóng rung động liên tục di chuyển giữa hai cực năng lượng
để tìm ra được hệ tư tưởng cho việc sản sinh năng lượng lan
tỏa ở điểm 3 trong Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa.
Điểm số 1 là điểm Sinh. Điểm Sinh là điểm xuất phát
sau quá trình Tuệ linh, con người tương tác và giải mã về các
Tướng. Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, điểm
Sinh là chân tâm của năng lượng lan tỏa, đó là điểm xuất
phát, điểm bắt đầu để thực hiện Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng lan tỏa hay bất cứ năng lượng nào khác. Vì là sản sinh
năng lượng lan tỏa nên Trụ linh phải ở trạng thái cân bằng
trong sự lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững và trong
257
sáng. Trụ linh phải có trạng thái chân tâm lan tỏa đặt vào Trụ
linh để khởi đầu cho hành trình Vòng tròn sản sinh năng
lượng lan tỏa.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, điểm Triệt có hai ý nghĩa.
Tuệ linh, con người phải vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm Triệt để tiếp tục hành trình sản sinh năng lượng lan
tỏa. Hai ý nghĩa đó là:
- Tuệ linh, con người không vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để sản sinh năng lượng lan tỏa. Khi
không vượt qua được điểm số 2, Tuệ linh, con người chuyển
thành thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng Tiêu cực,
đó là Trụ linh bộc phát độc tâm và rung lắc mạnh. Tuệ linh,
con người không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật để nhìn thấu
bản chất của các Tướng nên Trụ linh hấp thụ những năng
lượng âm về mà không hấp thụ năng lượng dương, khi đó
năng lượng hoại diệt di chuyển vào và làm phân rã Trụ linh.
Đây là Tuệ linh, con người bị triệt hạ bởi không có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để thực hiện sản sinh năng lượng lan tỏa nên
chuyển hóa thành sản sinh năng lượng tiêu cực, đó là chuyển
hóa thành con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
- Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm số 2 là Triệt để tiếp tục vận hành sản sinh hạt năng
lượng lan tỏa. Đó là Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu
nhiều về Chân lý Vạn vật, thấu hiểu về bản chất độc và thiện
trong Trụ linh, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng
tích cực. Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ linh sản
sinh năng lượng lan tỏa, Tuệ linh, con người dễ dàng nhận
diện và không tiếp nhận những năng lượng tiêu cực từ các
Tướng tiêu cực tác động tới; Tuệ linh, con người nhận diện
258
và đón nhận được các hạt năng lượng tích cực của các Tướng
tích cực. Khi đó, Trụ linh của họ kiểm soát được sóng rung
động của hạt năng lượng âm ở mức nhẹ và sóng điện dương
dễ dàng kích nổ được năng lượng hoại diệt di chuyển vào với
số lượng ít. Vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật mà Tuệ linh, con
người đã triệt bỏ được độc trong Trụ linh và những độc
trong Trụ linh của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào
để tiếp tục hành trình sản sinh hạt năng lượng lan tỏa, đó là
con đường chuyển hóa bền vững và an lạc. Như vậy, trong
Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, Tuệ linh, con người
phải thực hiện được ý nghĩa này, phải vượt qua được điểm
Triệt để tiếp tục sản sinh hạt năng lượng lan tỏa.
Trong đoạn từ điểm số 1 tới số 2, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Đó là Tuệ linh, con
người phải phân tích được những bản chất của các Tướng
tiêu cực, các Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những chia
sẻ, những năng lượng tiêu cực của các Tướng tiêu cực bắn
vào và đón nhận năng lượng dương của các Tướng tích cực.
Đặc biệt là phải đón nhận được các năng lượng lan tỏa về Trụ
linh, vì sản sinh năng lượng lan tỏa, nên cần phải đón nhận,
hấp thụ được các cấu trúc phát triển bền vững từ các Tướng
lan tỏa tới, lấy kinh nghiệm và giá trị của các cấu trúc phát
triển bền vững mà các Tướng lan tỏa đang thực hành để làm
động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt qua được
điểm số 2 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những Tướng tiêu
cực tác động đến, không để các Tướng tiêu cực ảnh hưởng
tới việc sản sinh hạt năng lượng lan tỏa.
Trong đoạn này, Trụ linh sẽ dễ bộc phát độc tâm nhất.
Do đó Tuệ linh, con người cần phải vận dụng trí tuệ của Chân
lý Vạn vật để nhận diện và triệt tiêu độc tâm sau khi hấp thụ
259
được ít năng lượng hoại diệt về. Vì khát khao sản sinh năng
lượng lan tỏa, nên khi có các Tướng tiêu cực tác động tới sẽ
dễ dàng kích hoạt độc tâm trong Trụ linh, đó là các Tướng
tiêu cực sẽ truyền tải năng lượng tiêu cực lan tỏa các cấu trúc
phát triển gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Do
vậy, giai đoạn này cần phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát
độc tâm bộc phát ra chưa, như thế nào, mức độ ra sao. Phải
luôn nhìn lại bản thể mình xem mình có tham lam không,
xem việc mình làm có gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con
người không, xem mình có ích kỷ về mình không. Nếu ích kỷ
về mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người thì
đó là độc trong Trụ linh hay còn gọi là độc tâm đã bộc phát.
Để kiểm soát Trụ linh khi nào bộc phát độc tâm và khi
nào Trụ linh hấp thụ năng lượng tiêu cực từ các Tướng bên
ngoài, Tuệ linh, con người phải luôn soi lại chính mình. Đó là
coi mình là một tấm gương để xem tấm gương của mình có
những dấu vết của tham lam ích kỷ không, có những dấu vết
của chấp ngã sân hận không, có những dấu vết của gây tổn
hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người không. Nếu có là độc
tâm đã được hiện diện trong tấm gương ta vừa soi, nếu
không có những dấu vết đó, tức là ta đang thực hành sản sinh
năng lượng lan tỏa đúng theo Vòng tròn sản sinh năng lượng
lan tỏa bởi cơ chế phân tách và liên kết bền vững. Tấm
gương này cần phải soi lại từng giờ, từng ngày, từng sự việc
để luôn nhận diện được độc trong Trụ linh có sinh khởi hay
không.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành được Trụ linh, sẽ không để Trụ linh bộc
phát độc tâm ra ngoài. Bấy giờ, Tuệ linh, con người sẽ vận
hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận những sẻ
260
chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới bằng chân
tâm sáng chói của sự khát khao lan tỏa. Khi đó, Trụ linh đã
liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm lan tỏa (có trí tuệ của Chân
lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt năng lượng
tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện khi di chuyển
vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Điều này khiến Trụ linh
không bị rung lắc mạnh, không bị phát tác độc tâm, khi đó
năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu rung lắc nhẹ nên chỉ
di chuyển các hạt năng lượng hoại diệt với số lượng ít vào
Trụ linh. Năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít sẽ an toàn,
bởi khi đã có trí tuệ của Chân lý Vạn vật sẽ dễ dàng kích nổ
được năng lượng hoại diệt bằng Chân lý Giác ngộ. Đây là
nghệ thuật sử dụng gương soi để kiểm soát độc tâm trong
Trụ linh, để lấy được các hạt năng lượng tiêu cực của môi
trường bên ngoài về mà như không lấy, để lấy được số lượng
ít năng lượng hoại diệt về và an toàn trong sự kích nổ năng
lượng hoại diệt cho quá trình phân tách ra các mã sóng rung
động trong Trụ linh ở điểm số 3.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là rất cần thiết cho việc
sản sinh hạt năng lượng lan tỏa, nếu không có năng lượng
hoại diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát an toàn thì sẽ không
có sợi mã sóng trí tuệ nào được hình thành và sẽ không có
năng lượng lan tỏa nào được phân tách ra. Do đó, giai đoạn
từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn đấu trí với các Tướng,
với các năng lượng trong và ngoài Vũ trụ để biến nó thành
nghệ thuật cho quá trình vượt qua được điểm Triệt để sản
sinh được hạt năng lượng lan tỏa.

261
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng lan tỏa từ điểm số 1 tới điểm số 2 như
sau:
- Tuệ linh, con người kết thúc quá trình tương tác và
giải mã về các Tướng để sinh khởi Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng lan tỏa.
- Bắt đầu xuất phát tại điểm số 1 – điểm Sinh: Tuệ linh,
con người đặt Trụ linh vào vị trí Sinh; đó là khởi đầu bởi
năng lượng chân tâm lan tỏa; đó là Trụ linh cân bằng và rung
động để lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững và trong
sáng; đó là chân tâm thánh thiện trong việc lan tỏa các cấu
trúc phát triển để mang lại lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không vì lợi ích ích kỷ tới bản thể mình.
- Tuệ linh, con người phải tỉnh táo dùng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để Trụ linh trong trạng thái an vui, an lạc
trên hành trình rời điểm số 1. Giữ trạng thái Trụ linh an vui
trong hành trình lan tỏa các cấu trúc phát triển mang tính
bền vững. Luôn luôn vận dụng tấm gương soi bản thể mình
để phát hiện độc tâm sinh khởi chưa.
- Trên hành trình di chuyển, tương tác với các Tướng,
Tuệ linh, con người sẽ gặp các Tướng đã và đang lan tỏa các
cấu trúc phát triển. Khi đó, không nên tự ti, không nên e dè,
không nên xấu hổ, hãy đến gặp họ, bắt chuyện để hợp duyên.
Gặp để học hỏi cách thức lan tỏa các cấu trúc phát triển mang
tính bền vững và trong sáng vì vạn vật, Tuệ linh và con
người. Không nên chỉ gặp một người, mà phải gặp với nhiều
người đã và đang thành công trong con đường lan tỏa các
cấu trúc phát triển sản sinh ra năng lượng lan tỏa. Gặp càng
nhiều người thành công trong việc lan tỏa sẽ giúp cho Trụ
262
linh liên kết được những hạt năng lượng tích cực lan tỏa. Khi
gặp những Tướng đã và đang lan tỏa thành công cũng cần
phải luôn soi gương lại bản thể mình để xem độc tâm có bộc
phát không. Phải phân tích các điều kiện, các yếu tố thuận lợi,
khó khăn của từng người đã và đang thành công trong con
đường sản sinh năng lượng lan tỏa để học tập các bài học đó
cho mình. Khi gặp những Tướng đã và đang lan tỏa thành
công, Trụ linh sẽ tỏa ra ánh sáng trắng sáng và trong Trụ linh
cũng đang có những nhịp di chuyển của mã sóng trí tuệ tiến
tới thái cực dương.
- Tiếp tục gặp gỡ và tương tác với các Tướng đã và
đang thất bại trong hành trình sản sinh năng lượng lan tỏa.
Khi gặp những Tướng này, hãy mạnh dạn trò chuyện, mạnh
dạn tìm hiểu nguyên nhân thất bại của họ. Khi tương tác và
nhận được những hạt năng lượng tiêu cực của sự thất bại đó,
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ rung lắc nhẹ và các nhịp
rung trong mã sóng trí tuệ sẽ di chuyển về thái cực âm để cân
bằng với sự hưng phấn khi các nhịp di chuyển tới thái cực
dương. Việc học tập kinh nghiệm của các Tướng đã và đang
thất bại sẽ cho ta được những bài học vô cùng quý báu, sẽ
giúp cho ta phát triển thêm về trí tuệ vạn vật. Lưu ý, luôn
luôn soi gương bản thể mình để xem mình có bị nhụt ý chí
hay có những vết độc tâm bị bộc phát ra hay không. Luôn
luôn phải dùng trí tuệ vạn vật để kiểm soát Trụ linh.
- Tiếp đến hãy chia sẻ với các Tướng đã thành công
hay thất bại trên hành trình sản sinh năng lượng lan tỏa về ý
chí và con đường, phương pháp lan tỏa của mình. Trò chuyện
để nhận được những năng lượng của sự động viên và chia sẻ
tích cực của những Tướng thành công, lấy bài học đó làm
kinh nghiệm và động lực để lan tỏa. Trò chuyện với các
263
Tướng thất bại sẽ nhận được những lời khuyên tiêu cực và
từ họ sẽ bắn những hạt năng lượng âm vào Trụ linh của ta,
chỉ nghe mà không làm theo họ.
- Tiếp tục soi gương để kiểm soát Trụ linh: hãy hấp thụ
những hạt năng lượng tích cực từ các Tướng tích cực để làm
động lực và sức mạnh cho Trụ linh; đối với các Tướng tiêu
cực, chỉ nên nghe và lắng nghe, không làm theo. Khi lấy động
lực từ năng lượng tích cực, Trụ linh sẽ có sức mạnh phát
triển ý chí trong sáng để sản sinh năng lượng lan tỏa nên sẽ
giảm tải sóng điện của những hạt năng lượng âm từ các
Tướng tiêu cực bắn vào.
- Hãy cảm nhận sự khó khăn, hãy phiền não, hãy buồn
bã, hãy suy tính, hãy đắn đo. Những điều này là đang kiểm
soát Trụ linh, là đang thúc đẩy Trụ linh rung lắc sóng điện âm
trong hạt âm gốc và toàn bộ hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ.
Tuyệt đối không u uất, đau khổ hay tuyệt vọng, chỉ là suy tư,
suy nghĩ, tính toán trong sự thiệt hơn, được mất, lợi mình
hay lợi về vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Khi hệ thống hạt năng lượng âm đang rung lắc nhẹ là
lúc có các hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để chi phối
và làm phân rã Trụ linh. Lúc này, Tuệ linh, con người phải
luôn vận hành trí tuệ của Chân lý Vạn vật, đó là phải hiểu vạn
vật đều là giả tướng, sứ mệnh xuống nhân gian tu hành để cải
tạo Tuệ linh theo hướng bền vững chứ không phải là phát
triển giàu sang hay là lan tỏa những cấu trúc tiêu cực. Khi
vận hành suy nghĩ như vậy, hãy tiếp tục nhớ tới những lời
động viên của các Tướng lan tỏa đã và đang thành công. Tiếp
tục hãy buông đi những Tướng tiêu cực sau khi ta đã lấy
được bài học thất bại từ họ rồi. Lúc này phải hiểu rằng, các

264
Tướng tiêu cực thất bại là do họ không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật, trong khi mình đã có.
- Vì có hành trang là trí tuệ của Chân lý Vạn vật nên
trong Tuệ linh, con người có trí tuệ là không lan tỏa các cấu
trúc phát triển gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Trong Trụ linh lúc này đã dừng rung lắc, Trụ linh trở lại cân
bằng và phát triển nhịp rung động tới thái cực dương, tức là
Trụ linh đã di chuyển qua được điểm số 2 là Triệt. Tuệ linh,
con người đã triệt đi được những năng lượng tiêu cực tác
động vào, triệt đi được độc tâm vừa bộc phát rung lắc, đặc
biệt là vô hiệu hóa năng lượng hoại diệt không di chuyển vào
nhiều. Những hạt năng lượng hoại diệt di chuyển vào đã bị
chuyển hóa thành những hạt bóng hỏa khi Trụ linh sinh khởi
thành ý chí lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới vạn
vật, Tuệ linh và con người.
- Khi vượt qua được điểm số 2, tức là bản thể Tuệ linh,
con người đã tìm ra được con đường, phương pháp lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
Trụ linh đã được Tuệ linh, con người vận hành qua
được điểm số 2 bằng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để tiếp tục
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển được thành
trí tuệ giác ngộ cho việc sản sinh năng lượng lan tỏa.
Trụ linh di chuyển tới đoạn này là đã định hình, đã tìm
ra được con đường lan tỏa theo hướng bền vững.

265
Tiếp tục đi gặp những người đã và đang lan tỏa thành
công các cấu trúc phát triển bền vững để phát triển con
đường lan tỏa của mình thành hệ tư tưởng giác ngộ. Giai
đoạn này không nên giao tiếp, không nên trò chuyện với
những Tướng tiêu cực nữa, hãy dành thời gian tập trung xây
dựng phương pháp lan tỏa các cấu trúc phát triển mang tính
bền vững và mang lại lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
Kết quả của quá trình tương tác với các Tướng đã và
đang thành công, thêm nữa lại có trí tuệ về vạn vật nên Trụ
linh đã rực sáng ánh sáng trắng tỏa ra trong Trụ linh, đó là sự
vui mừng trong nội hành về việc đang cho ra được điểm kết
tụ giác ngộ con đường lan tỏa cấu trúc phát triển bền vững.
Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới được
điểm Ngộ, đây là giác ngộ. Đó là kết tụ được hệ tư tưởng giác
ngộ là lan tỏa các cấu trúc phát triển mang tính bền vững vì
vạn vật, Tuệ linh và con người mà không vì ích kỷ của bản
thể mình.
Khi kết tụ được trí tuệ giác ngộ về con đường lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững, trong Trụ linh tỏa ra sóng
điện dương rất mạnh làm kích nổ những hạt bóng hỏa (được
ngủ đông từ năng lượng hoại diệt ở giai đoạn từ điểm số 1
tới điểm số 2).
Nhờ nhiệt lượng lớn từ những hạt bóng hỏa được kích
nổ (do kết tụ được trí tuệ giác ngộ về lan tỏa các cấu trúc
phát triển bền vững), nên trong Trụ linh đã cấu tạo được các
sợi mã sóng rung động mang sóng điện dương với màu đỏ
lửa. Đây mới chỉ là các đoạn mã sóng rung động chứ chưa
chuyển hóa thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh.

266
Khi đã kết tụ được trí tuệ giác ngộ con đường lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững mà không chuyển hóa thành
ngoại hành để tới được đích của vòng tròn là điểm số 5 thì
những sợi mã sóng rung động sẽ tự tiêu tan, bởi mới tới
được điểm số 3 thì vẫn chưa tạo ra hạt năng lượng lan tỏa.
Nếu không đi tiếp thì Trụ linh sẽ trở về điểm xuất phát và
những sợi mã sóng lan tỏa cũng không còn trong Trụ linh
nữa.
Vì có trí tuệ giác ngộ về con đường lan tỏa các cấu trúc
phát triển, nên Tuệ linh, con người sẽ dễ dàng và quyết tâm
vận hành Trụ linh di chuyển để ngoại hành cho hoàn thành
quá trình sản sinh năng lượng lan tỏa.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người
nâng cấp được thêm trí tuệ của Chân lý Vạn vật sau khi kết tụ
được trí tuệ giác ngộ ở điểm số 3. Do đó, Tuệ linh, con người
dễ dàng vận hành Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa
vượt qua được điểm số 4 là Triệt.
Điểm từ số 3 tới số 4 là đoạn ngoại hành trong việc sản
sinh sợi trí tuệ của hạt năng lượng lan tỏa, đó là hoàn thành
các sợi mã sóng trí tuệ của các mã sóng rung động đã được
sản sinh ra trước đó ở điểm số 3.
Điểm số 3 là điểm giác ngộ. Bây giờ điểm số 3 là chân
tâm cao và đã có sẵn các sợi mã sóng rung động của hạt năng
lượng lan tỏa. Trong Trụ linh bây giờ có ánh sáng đỏ lửa và
trắng làm lực đẩy cho hành trình tiếp tục phải vận dụng trí
tuệ của Chân lý Vạn vật ở tầm cao hơn để vượt qua những

267
Tướng tiêu cực và năng lượng hoại diệt trong hành trình sản
sinh năng lượng lan tỏa ở giai đoạn ngoại hành.
Điểm số 4 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa, điểm Triệt số 4 cũng có
hai ý nghĩa. Tuệ linh, con người phải vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để tiếp tục hành trình sản sinh hạt năng
lượng lan tỏa. Hai ý nghĩa đó là:
- Tuệ linh, con người không vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để sản sinh năng lượng lan tỏa. Khi
không vượt qua được điểm số 4, Vòng tròn sản sinh năng
lượng sẽ trở về điểm số 1, đó là sự thất bại, nó sẽ dễ chuyển
hóa thành Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực. Tuệ linh,
con người không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật để nhìn thấu
bản chất các Tướng nên Trụ linh hấp thụ những năng lượng
âm về mà không hấp thụ năng lượng dương, khi đó năng
lượng hoại diệt di chuyển vào và làm phân rã Trụ linh. Đây là
Tuệ linh, con người bị triệt hạ bởi không có trí tuệ của Chân
lý Vạn vật để thực hiện sản sinh hạt năng lượng lan tỏa nên
thất bại và chuyển hóa thành sản sinh năng lượng tiêu cực,
đó là chuyển hóa thành con đường chuyển sinh phân rã và
hoại diệt.
- Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm số 4 là Triệt để tiếp tục vận hành sản sinh năng lượng
lan tỏa. Đó là Tuệ linh, con người nâng cao thêm về trí tuệ
thấu hiểu Chân lý Vạn vật, thấu hiểu về bản chất độc và thiện
trong Trụ linh, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng
tích cực. Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ linh sản
sinh hạt năng lượng lan tỏa, Tuệ linh, con người dễ dàng
nhận diện và không tiếp nhận những năng lượng tiêu cực từ
các Tướng tiêu cực tác động tới; Tuệ linh, con người nhận
268
diện và đón nhận được các hạt năng lượng tích cực của các
Tướng tích cực. Khi đó, Trụ linh của họ kiểm soát được sóng
rung động của hạt năng lượng âm ở mức nhẹ và sóng điện
dương dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt di chuyển vào
với số lượng ít. Vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật mà Tuệ linh,
con người đã triệt bỏ được độc trong Trụ linh và những độc
trong Trụ linh của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào
để tiếp tục hành trình sản sinh năng lượng lan tỏa, đó là con
đường chuyển hóa bền vững và an lạc. Như vậy, trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng lan tỏa, Tuệ linh, con người phải
thực hiện được ý nghĩa này, phải vượt qua được điểm Triệt
để tiếp tục sản sinh năng lượng lan tỏa.
Trong đoạn từ điểm số 3 tới số 4, Trụ linh sẽ phải tiếp
tục giải mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Đó là Tuệ linh,
con người phải phân tích được những bản chất của các
Tướng tiêu cực, các Tướng tích cực mới tác động vào, từ đó
triệt tiêu được những chia sẻ, những năng lượng tiêu cực của
các Tướng tiêu cực bắn vào và đón nhận năng lượng dương
của các Tướng tích cực, đặc biệt là phải đón nhận được các
năng lượng lan tỏa mới vào Trụ linh. Bởi vì sản sinh năng
lượng lan tỏa, nên cần phải đón nhận, hấp thụ được các cấu
trúc phát triển bền vững và cách lan tỏa tốt nhất từ các
Tướng lan tỏa, lấy kinh nghiệm lan tỏa và giá trị của các cấu
trúc phát triển bền vững mà các Tướng lan tỏa đang thực
hành để làm động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt
qua được điểm số 4 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những
Tướng tiêu cực tác động đến, không để các Tướng tiêu cực
ảnh hưởng tới việc sản sinh hạt năng lượng lan tỏa.
Trong đoạn này, Trụ linh sẽ lại dễ bộc phát độc tâm
bởi đây là ngoại hành. Do đó, Tuệ linh, con người cần phải
269
vận dụng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để nhận diện và triệt
tiêu độc tâm sau khi hấp thụ được ít năng lượng hoại diệt về.
Vì khát khao sản sinh năng lượng lan tỏa sau khi có hệ tư
tưởng giác ngộ, nên khi có các Tướng tiêu cực tác động tới sẽ
dễ dàng kích hoạt độc tâm trong Trụ linh. Các Tướng tiêu cực
sẽ truyền tải năng lượng tiêu cực lan tỏa các cấu trúc phát
triển gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Do vậy,
giai đoạn này cần phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát độc
tâm bộc phát ra chưa, như thế nào, mức độ ra sao. Phải luôn
nhìn lại bản thể mình xem mình có tham lam không, xem việc
mình làm có gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người
không, xem mình có ích kỷ về mình không. Nếu ích kỷ về
mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người thì đó
là độc trong Trụ linh hay còn gọi là độc tâm đã bộc phát.
Tiếp tục dùng tấm gương soi bản thân để kiểm soát
xem độc tâm của Trụ linh có bộc phát ra không. Luôn luôn
soi lại mình theo từng giờ, từng ngày để kiểm soát.
Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh bằng cách là
lắng nghe, tiếp nhận những sẻ chia tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực tác động tới bằng chân tâm sáng chói của sự khát
khao lan tỏa sau khi có hệ tư tưởng giác ngộ. Khi đó, Trụ linh
đã liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ các
Tướng tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm lan tỏa (có trí tuệ
của Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt
năng lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện
khi di chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Điều này
khiến Trụ linh không bị rung lắc mạnh, không bị phát tác độc
tâm. Khi đó năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu rung lắc
nhẹ nên chỉ di chuyển các hạt năng lượng hoại diệt với số
lượng ít vào Trụ linh. Khi năng lượng hoại diệt di chuyển vào
270
ít sẽ an toàn, bởi khi đã có trí tuệ của Chân lý Vạn vật sẽ dễ
dàng kích nổ được năng lượng hoại diệt bằng Chân lý Giác
ngộ. Đây là nghệ thuật sử dụng gương soi để kiểm soát độc
tâm trong Trụ linh, để lấy được các hạt năng lượng tiêu cực
của môi trường bên ngoài về mà như không lấy, để lấy được
số lượng ít năng lượng hoại diệt về và an toàn trong sự kích
nổ được năng lượng hoại diệt cho quá trình sản sinh năng
lượng lan tỏa hoàn chỉnh ở điểm số 5.
Trong giai đoạn này, năng lượng hoại diệt rất quan
trọng, Trụ linh rất cần có năng lượng hoại diệt với số lượng ít
di chuyển tới. Trụ linh sẽ phải kích nổ chúng để tạo nhiệt
lượng cho quá trình tiếp tục cấu tạo đoạn sợi trí tuệ trong
hạt năng lượng lan tỏa cho tới khi hoàn thành ở điểm số 5.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng lan tỏa từ điểm số 3 tới điểm số 4 như
sau:
- Tuệ linh bắt đầu ngoại hành để thực hiện sản sinh
năng lượng lan tỏa sau khi có được trí tuệ giác ngộ về con
đường lan tỏa cấu trúc phát triển. Bây giờ, Trụ linh có động
lực và sức mạnh bởi chân tâm giác ngộ ở tầm cao nên rất khí
thế cho chuỗi hành động ngoại hành để sản sinh ra các hạt
năng lượng lan tỏa.
- Tiếp tục phải tỉnh táo trong giai đoạn ngoại hành, đó
là: giữ trạng thái Trụ linh an vui trong hành trình thực hành
lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững; luôn luôn vận dụng
tấm gương soi bản thể mình để phát hiện độc tâm sinh khởi
chưa.

271
- Tuệ linh, con người bắt đầu tiến hành các hành động
lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh
và con người.
- Quá trình lan tỏa bằng các hành động ngoại hành, Tuệ
linh, con người sẽ gặp những Tướng tiêu cực ở trong và bên
ngoài tổ chức của mình. Họ sẽ tương tác, bắn các hạt năng
lượng tiêu cực tới con đường lan tỏa các cấu trúc phát triển,
tới Trụ linh của mình. Khi đó, hãy dùng trí tuệ nâng cao về
Chân lý Vạn vật để thấu hiểu rằng các Tướng tiêu cực sẽ luôn
luôn có ở mọi nơi, thậm chí là chính trong Trụ linh của mình.
Hãy nghe, lắng nghe những Tướng tiêu cực bắn phá tới
nhưng không đón nhận và không thực hành theo họ.
- Tiếp tục hãy lắng nghe các Tướng tích cực đã và đang
lan tỏa thành công chia sẻ và bắn các hạt năng lượng lan tỏa
tới, hãy hấp thụ nó để làm động lực cho Trụ linh vững vàng.
Tất nhiên phải tìm kiếm, trò chuyện, sẻ chia, học hỏi kinh
nghiệm từ những Tướng đã và đang lan tỏa thành công.
- Soi gương để kiểm soát Trụ linh. Bấy giờ hãy suy nghĩ
suy tư, lo âu, buồn phiền, đắn đo về những Tướng tiêu cực để
kích hoạt rung động sóng điện âm trong Trụ linh ở mức nhẹ.
Khi đó, năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển với số lượng ít vào
Trụ linh. Nên nhớ là không đau thương, bi ai, u uất, lo âu về
những Tướng tiêu cực, về sự không thành công để năng
lượng hoại diệt không vào nhiều.
- Kiểm soát Trụ linh bằng cách hãy nghĩ về những điều
tốt đẹp bởi Chân lý Giác ngộ sẽ mang lại giá trị bền vững cho
vạn vật, Tuệ linh và con người. Hãy nghĩ tới những điều tốt
đẹp, những thành tựu mà những Tướng tích cực đã sẻ chia và
động viên. Khi đó, Tuệ linh, con người đã gia tăng trí tuệ về
Chân lý Vạn vật, Trụ linh không rung lắc nữa, Trụ linh lại
272
bừng sáng bởi ý chí lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững.
Bấy giờ, năng lượng hoại diệt bị ngủ đông và trở thành
những hạt bóng hỏa trong Trụ linh.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh
vượt qua được điểm số 4, đó là triệt tiêu được những độc
tâm trong Trụ linh, triệt tiêu được những hạt năng lượng tiêu
cực của các Tướng tiêu cực để tạo thành lực đẩy tới việc
hoàn thành quá trình sản sinh hạt năng lượng lan tỏa ở điểm
số 5 trong Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa.

4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển và thấu hiểu
trí tuệ giác ngộ ở tầm cao mới.
Từ điểm số 4 tới điểm số 5 là giai đoạn gấp rút hoàn
thành đoạn sợi trí tuệ trong hạt năng lượng lan tỏa.
Điểm số 5 chính là điểm Tỏa. Điểm Tỏa là điểm kết
thúc Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa.
Khi Tuệ linh, con người đã gia tăng được trí tuệ của
Chân lý Vạn vật và vượt qua được điểm Triệt số 4, Trụ linh
được vận hành sang giai đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5. Đây
là giai đoạn mà Tuệ linh, con người đẩy mạnh quá trình hành
động để hoàn thành lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững
tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Khi vượt qua điểm số 4, Tuệ linh, con người cần phải
đẩy mạnh quá trình trao đổi, học tập kinh nghiệm từ những
Tướng đã và đang thành công trên con đường sản sinh năng
lượng lan tỏa. Việc này sẽ giúp cho Trụ linh nhanh chóng sản
sinh hoàn thiện các hạt năng lượng lan tỏa.

273
Vì được nâng cao trí tuệ về Chân lý Vạn vật, lại có được
nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt bị kích nổ, nên Tuệ
linh, con người nhanh chóng hoàn thành kết thúc quá trình
sản sinh năng lượng lan tỏa bằng cách đẩy Trụ linh tới được
điểm số 5 là Tỏa.
Khi hoàn thành quá trình sản sinh hạt năng lượng lan
tỏa ở điểm số 5, Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ phân
tách ra một cho tới nhiều sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
dương rất mạnh có màu đỏ lửa. Từ Trụ linh, những hạt năng
lượng lan tỏa được phân tách và lưu giữ trong Vũ trụ. Cũng
từ Trụ linh, những hạt năng lượng lan tỏa được phân tách
bắn vào những Tướng đã được tương tác trong quá trình sản
sinh ra năng lượng lan tỏa. Cũng từ Trụ linh, những hạt năng
lượng lan tỏa được phân tách và cấu tạo thành cấu trúc 16
hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh theo hướng bền
vững.
Đặc biệt, ngoài những hạt năng lượng lan tỏa mang
sóng điện dương được phân tách ra thì những hạt năng
lượng chân tâm lan tỏa được phân tách kèm theo để làm sợi
dây gắn kết cấu trúc năng lượng trong Vũ trụ được bền vững,
trong Tuệ linh được bền vững. Những hạt năng lượng chân
tâm lan tỏa làm nhiệm vụ kết dính các hạt năng lượng dương
trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh
được vững chắc. Những hạt năng lượng chân tâm lan tỏa và
những hạt năng lượng lan tỏa là minh chứng cho việc Tuệ
linh, con người nâng cấp được trí tuệ giác ngộ ở mức độ cao
hơn.
Tuệ linh, con người sau khi đã sản sinh được năng
lượng lan tỏa sẽ có kinh nghiệm cho các Vòng sản sinh năng
lượng lan tỏa tiếp theo. Đồng thời, đó là động lực, nền tảng,
274
kinh nghiệm cho việc vận hành nâng cấp Vòng tròn sản sinh
năng lượng đoàn kết hết thảy Tuệ linh và con người cùng lan
tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và
con người. Đó là hành trình trên con đường thực hiện chuyển
sinh Trụ linh theo hướng bền vững và chuyển hóa thành bộ
lọc năng lượng.
Tuệ linh, con người đã đạt được thành tựu sản sinh
năng lượng lan tỏa sẽ phân tách các hạt năng lượng lan tỏa
đó khi sẻ chia, chỉ dẫn cho những người đang cần trợ giúp
kinh nghiệm về sản sinh năng lượng phát triển và năng
lượng lan tỏa, điều mà chính họ cũng đã nhận được từ những
Tướng đã và đang thành công trong việc sản sinh năng lượng
phát triển và lan tỏa, cụ thể là thông qua giai đoạn từ điểm số
1 tới điểm số 2 và giai đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4 trong
Vòng tròn sản sinh năng lượng.
Ngoài những hạt năng lượng lan tỏa được phân tách
ra, những vật chất, những giá trị mang đặc tính phát triển
bền vững được sản sinh ra sẽ góp phần làm phát triển đời
sống nhân loại, đời sống tu hành của Tuệ linh ở nhân gian.
Nó rất cần thiết, điều mà hết thảy con người, Tuệ linh đều
phải thực hành tốt.
Như vậy, việc thực hiện hoàn thành viên mãn Vòng
tròn sản sinh năng lượng lan tỏa là hướng chuyển sinh bền
vững, nó mang lại lợi ích cho vạn vật, Tuệ linh và con người.
Việc sản sinh và tỏa những hạt năng lượng lan tỏa tới Vũ trụ
và các Tướng khác chính là kết quả, thành tựu của việc Tuệ
linh, con người có được trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ. Nó sẽ giúp cho vạn vật, Tuệ linh và con người thấy
được sự chân thật và giá trị của các cấu trúc phát triển bền
vững.
275
III. Ví dụ thực tế
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa thông qua
việc giảng dạy của Thầy giáo trên giảng đường:
Từ một sinh viên giỏi, anh ấy đã không ngừng nghỉ học
tập và tốt nghiệp Đại học loại giỏi. Anh ấy học lên cao hơn để
lấy được tấm bằng Thạc sĩ và rồi là Tiến sĩ. Sau khi có tấm
bằng thạc sĩ, anh ấy được nhận vào một trường Đại học danh
tiếng ở thành phố lớn để giảng dạy.
Anh ấy bước lên bục giảng với bao niềm tự hào và
hãnh diện của chính anh ấy và của cả gia đình. Sự nhiệt huyết
và quyết tâm truyền giảng những tri thức lại càng làm cho
anh trở nên yêu thích công việc là giảng viên.
Thế nhưng, khi anh lập gia đình và có con, cuộc sống ở
thành phố với bao chi phí đắt đỏ bắt đầu trở thành gánh
nặng với anh, trong khi đó với tiền lương giảng viên không
giúp anh lo toan đủ được những chi phí đắt đỏ đó. Chính vì
những điều này, khi anh bước trên bục giảng, những lo toan
đã dần hằn lên trên khuôn mặt mà trước đó luôn luôn biểu
hiện sự nhiệt huyết. Sự nhiệt huyết trong các bài giảng của
anh không còn như trước nữa.
Trong những năm tháng trên bục giảng, anh cũng nghe
nhiều câu chuyện về một số giáo viên tìm mọi cách hạ điểm
sinh viên thông qua các kỳ thi và gợi ý cho sinh viên phải
mua điểm mới được điểm cao và qua được môn thi. Anh thấy
những giáo viên đó có cuộc sống cũng thoải mái hơn anh.
Anh cũng nghe thấy nhiều sinh viên gọi những người giáo
viên đó với những từ ngữ thô tục, gọi họ là những người thầy
ăn tiền của sinh viên.

276
Anh cũng thấy có những người thầy giáo có cuộc sống
cũng không khá giả hơn anh, nhưng họ rất tình cảm và nhiệt
huyết với các thế hệ sinh viên. Anh thường xuyên thấy có
những sinh viên đã ra trường lâu rồi vẫn tới thăm hỏi các
thầy đó, điều này khiến cho anh vui mừng và tự hào với công
việc là thầy giáo.
Anh suy tư nhiều năm, anh suy tư về những khó khăn
của gia đình anh, anh suy tư về nhân cách của những người
thầy bán đứng lương tâm của người thầy để kiếm tiền từ
sinh viên bằng những điểm số, anh suy tư về niềm tự hào của
người thầy chân chính. Có những lúc anh muốn trở thành
người thầy gợi ý sinh viên mua điểm để có thêm nguồn thu
nhập, lúc đó anh đau nhói trong tim, anh u uất và phiền não
rất nhiều. Có lúc anh thúc giục mình phải đứng vững để
không bán đứng lương tâm, phải nhiệt huyết truyền dạy
những tri thức bằng lương tâm của người thầy cho các thế hệ
sinh viên.
Sau nhiều năm tháng suy tư, anh quyết định phải sống
đúng lương tâm của người thầy là nhiệt huyết và cống hiến
cho các thế hệ sinh viên, phải truyền dạy những tri thức quý
báu, những kinh nghiệm mà anh đã tích lũy được vào các bài
giảng để giúp các thế hệ sinh viên có những tri thức cho hành
trang phát triển bản thân, phát triển Đất nước và phát triển
nhân loại. Quyết định đó đã khiến anh trở thành người thầy
đáng kính mà rất nhiều thế hệ sinh viên luôn nhắc tới và tri
ân. Cho đến nhiều năm sau, anh luôn trân quý công việc
truyền dạy tri thức của mình. Cuộc sống tuy còn nhiều khó
khăn và áp lực, nhưng anh vẫn dùng trí tuệ và sự thiện lương
để từng bước vượt qua trong sự ngưỡng mộ của gia đình, của
các thế hệ sinh viên cũng như đồng nghiệp và bạn bè.
277
Người thầy giáo sau mỗi bài giảng sẽ sản sinh ra rất
nhiều hạt năng lượng lan tỏa. Tuy nhiên, hành trình diễn
biến đấu tranh xung đột và chuyển hóa tâm của người thầy
cho thấy quy trình Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa
như sau:
- Người thầy trải qua quá trình tương tác giải mã nghề
nghiệp khác nhau khi còn là sinh viên cho tới khi có được
tấm bằng cao hơn trước khi trở thành thầy giáo.
- Khi anh trở thành người thầy giáo trên bục giảng
đường của trường Đại học, anh đã đặt Trụ linh với trạng thái
chân tâm lan tỏa tri thức vào điểm số 1 là điểm Sinh, đó là
sinh khởi con đường lan tỏa tri thức cho các thế hệ sinh viên
bằng chân tâm trắng sáng và rực đỏ lửa của sự lan tỏa tri
thức.
- Tiếp đến là độc tâm của người thầy giáo bị bộc phát
khi cuộc sống gia đình với vô số khó khăn cũng như áp lực.
Trụ linh của người thầy giáo rung lắc và suy nghĩ phiền não
về nghề giáo viên, khi đó sóng điện âm rung lắc mạnh đã
khiến cho những năng lượng hoại diệt di chuyển vào Trụ linh
và bắt đầu phân rã Trụ linh. Điều này làm cho người thầy
không còn nhiệt huyết như xưa, người thầy đã hằn những
nét lo âu và buồn phiền trên khuôn mặt.
- Tiếp đến người thầy lại nghĩ tới những người thầy
giáo do bán điểm cho sinh viên mà có thêm nhiều nguồn thu
nhập. Thầy giáo cũng suy nghĩ nên làm như vậy để giải quyết
khó khăn trong cuộc sống. Khi đó, những hạt năng lượng âm
đó trong không gian Vũ trụ được Trụ linh của thầy giáo hấp
thụ về làm cho Trụ linh rung động mạnh hơn. Điều này làm
cho năng lượng hoại diệt vào nhiều hơn.

278
- Tuy nhiên, người thầy lại nghĩ tới những người thầy
đáng kính luôn nhiệt huyết vì sinh viên cho dù cuộc sống
nghèo khó nhưng vẫn hạnh phúc và an vui. Khi đó những hạt
năng lượng lan tỏa trong Vũ trụ được Trụ linh của thầy giáo
hấp thụ về làm cho thầy giáo trở nên yêu quý nghề giáo viên
hơn. Thầy giáo dùng trí tuệ để phân tích những người thầy
giáo biến chất, đánh mất lương tâm sẽ bị người đời, bị những
sinh viên chửi rủa. Những người thầy giáo chân chính sẽ
được ca ngợi và được tri ân.
- Thầy giáo đã dùng trí tuệ thấu hiểu về nghề nghiệp,
tức là thấu hiểu về vạn vật là giả tướng để không vì đồng tiền
mà đánh mất lương tâm của người thầy lan tỏa tri thức tới
các thế hệ sinh viên. Chính vì vậy, trong Trụ linh của thầy
giáo không còn rung lắc nữa, năng lượng hoại diệt cũng
không di chuyển vào nữa. Thầy giáo đã vượt qua được điểm
Triệt số 2, đó là triệt đi độc tâm trong Trụ linh, diệt đi những
suy nghĩ tiêu cực không chân chính của người thầy, đặc biệt
là ngủ đông được những hạt năng lượng hoại diệt đã di
chuyển vào Trụ linh.
- Khi vượt qua được điểm Triệt bằng trí tuệ thấu hiểu
Chân lý Vạn vật, người thầy đã di chuyển Trụ linh tới được
điểm số 3 là Ngộ, đó là giác ngộ. Người thầy giác ngộ hệ tư
tưởng của nghề nghiệp là không màng về lợi ích tiền tài, thay
vào đó là nhiệt huyết truyền dạy tri thức cũng như những
kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ sinh viên.
- Khi đã đạt được đến điểm số 3 là Ngộ, những hạt
bóng hỏa bị sóng điện dương của sự giác ngộ kích nổ. Nhiệt
lượng đó đã giúp cho Trụ linh của người thầy có vô số những
đoạn mã sóng rung động màu đỏ lửa và Trụ linh trở nên sáng
trắng, đỏ lửa.
279
- Khi đã có được kết tụ hệ tư tưởng trí tuệ giác ngộ về
nghề nghiệp thầy giáo, người thầy đã chuyển hóa thành hành
động nhiệt huyết trong con đường truyền giảng những tri
thức tới những thế hệ sinh viên. Đó là ngoại hành từ điểm số
3 tới điểm số 5 trong Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa.
Vì đã kết tụ được hệ tư tưởng giác ngộ nên người thầy
đó luôn luôn biến thành ngoại hành và đã sản sinh ra vô số
các sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh với vô số hạt năng lượng
mang sóng điện dương rất mạnh lan tỏa màu đỏ lửa tới bao
thế hệ sinh viên.
Khi kết thúc Vòng tròn sản sinh năng lượng lan tỏa của
nghề thầy giáo, chính là thời khắc người thầy nghỉ hưu.
Trong cả cuộc đời người thầy giáo, Trụ linh của thầy đã sản
sinh ra vô lượng hạt năng lượng đỏ lửa phân tách tới vô số
các thế hệ sinh viên. Trụ linh của thầy giáo cũng phân tách ra
vô số hạt năng lượng đỏ lửa lan tỏa bắn vào Vũ trụ. Vô số hạt
năng lượng dương lan tỏa của người thầy được phân tách và
trở thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ
linh ngày càng bền vững.
***************

280
Bài 5:
Vòng tròn sản sinh
hạt năng lượng đoàn kết


Hình: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết
281
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết màu vàng
sẽ được vận hành tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua được
điểm số 2, tiếp tục tới được điểm số 3, tiếp tục vượt qua
điểm số 4, tiếp tục tới được đích ở điểm số 5. Sau khi vận
hành được một vòng tròn từ điểm số 1 để đến được điểm số
5, Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng đoàn kết màu
vàng, đó là Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết màu
vàng. Cơ chế sản sinh hạt năng lượng đoàn kết màu vàng là
do Tuệ linh, con người đã thấu hiểu sâu sắc về trí tuệ của
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, đồng thời thực hành cơ
chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững và an lạc.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng


đoàn kết
Nhóm hạt năng lượng đoàn kết là nhóm hạt năng
lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh.
Hạt năng lượng đoàn kết là loại hạt năng lượng có sợi
mã sóng trí tuệ với điểm 1 nằm ở đường trung tính, điểm 2
và điểm 3 đều nằm ở cực dương trong hạt năng lượng dương
đoàn kết. Trạng thái năng lượng, sóng điện của hạt năng
lượng dương đoàn kết là siêu Tỏa. Tỏa là miệt mài đoàn kết
hết thảy các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển
mang tính bền vững trong sự không phân biệt; đó là đoàn kết
hết thảy các Tướng để cùng nhau lan tỏa những cấu trúc phát
triển bền vững đến với vạn vật, Tuệ linh và con người mà
không màng tới bản thể của mình.
Bản chất của nhóm hạt năng lượng đoàn kết là:
- Nhóm hạt năng lượng đoàn kết là nhóm hạt năng
lượng mang sóng điện dương siêu mạnh.
282
- Trạng thái năng lượng trong hạt năng lượng đoàn kết
có màu vàng. Đặc biệt, năng lượng đoàn kết có khả năng liên
kết được hết thảy các Tướng một cách rất kỳ diệu.
- Hạt năng lượng đoàn kết màu vàng có sóng điện
dương siêu mạnh và tốc độ quay thuận chiều kim đồng hồ
siêu mạnh, đặc biệt, khi cần sẽ quay chậm lại. Điều này sẽ
giúp cho hạt năng lượng tỏa ra năng lượng màu vàng để liên
kết, gắn kết với hết thảy các Tướng.
- Nhóm hạt năng lượng đoàn kết là những Tuệ linh đã
và đang miệt mài đoàn kết hết thảy các Tướng cùng nhau lan
tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới khắp Vũ trụ, Tuệ linh
và con người. Đó cũng là những Tuệ linh không ngừng nghỉ
đoàn kết nhân loại cùng nhau phát triển bền vững môi
trường tu hành.
- Nhóm hạt năng lượng đoàn kết là những linh hồn
đang an trụ trong các cấu trúc vật chất như cây cối, muông
thú lành để thúc đẩy đoàn kết, gắn kết bầy đàn, môi trường
tu hành của nhân gian.
- Nhóm hạt năng lượng đoàn kết là những con người
ngày đêm thực hành sứ mệnh đoàn kết hết thảy nhân loại
trong sự không phân biệt dân tộc, không phân biệt tôn giáo,
không phân biệt giai cấp để cùng nhau lan tỏa các cấu trúc
phát triển bền vững và thịnh vượng cho nhân loại.
- Đó là những người thực hành đời sống phổ độ giáo lý
đoàn kết của các tôn giáo.
- Năng lượng đoàn kết chính là những người thực hành
đời sống lan tỏa hình tướng và tâm tướng Đạo, đó là đoàn kết
hết thảy con người cùng nhau sống đúng khuôn mẫu đạo đức
của bốn hình tướng Đạo. Bởi khi sống đúng bốn hình tướng
283
Đạo, con người sẽ dễ dàng chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng thông qua thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ.
Nguyên tắc cốt lõi, nền móng cho việc sản sinh được
năng lượng đoàn kết là Tuệ linh, con người phải đặt Trụ linh
ở trạng thái chân tâm đoàn kết. Đó chính là phải đứng ở vị trí
đoàn kết để kết nối, gắn kết hết thảy các nhóm Tướng tiêu
cực, lan tỏa, phát triển, chân tâm. Trụ linh đứng ở vị trí đoàn
kết giống như đứng ở sảnh phía ngoài ngôi nhà trong một
bức tranh gồm có: ngôi nhà tăm tối bên trong là năng lượng
tiêu cực; bên ngoài là một hồ nước là năng lượng chân tâm;
những công trình nhà cửa, những rừng cây tươi tốt phía xa là
năng lượng phát triển; bên trên bầu trời là Mặt trời rực sáng
là năng lượng lan tỏa. Khi Trụ linh đứng ở vị trí đoàn kết sẽ
có giá trị như sau:
- Khi đứng ở vị trí đoàn kết là sảnh nhà sẽ kết duyên,
giao tiếp được với những Tướng tiêu cực đang u mê bám
định vào giả tướng bên trong ngôi nhà; như vậy mới trò
chuyện, mới sẻ chia, mới thấu hiểu được bản chất của những
Tướng tiêu cực. Khi thấu hiểu được họ mới từng bước sẻ
chia cho họ thấy, rằng bên ngoài bầu trời có ánh sáng rực rỡ
của năng lượng lan tỏa; ánh sáng đang phơi bày sự thật của
các công trình phát triển kỳ vĩ và bền vững; cùng với năng
lượng chân tâm gia tăng sự phát triển cho vạn vật, Tuệ linh
và con người. Quá trình đứng ở vị trí đoàn kết và sẻ chia như
vậy sẽ dễ dàng mời gọi những Tướng tiêu cực đó ra đứng
cùng. Khi các Tướng tiêu cực ra đứng cùng ở vị trí đoàn kết
tức là họ sẽ thấy được ánh sáng rực rỡ của các Tướng lan tỏa,
họ sẽ thấy được sự kỳ vĩ của các Tướng phát triển, họ sẽ thấy
được giá trị cân bằng của các Tướng chân tâm. Khi đứng ở vị
284
trí đoàn kết sẽ dễ bị các Tướng tiêu cực mời vào trong ngôi
nhà u mê để hưởng thụ giả tướng, nếu không giữ vững ý chí
mà đi vào trong ngôi nhà u mê đó thì Tuệ linh, con người sẽ
bị chuyển hóa thành Tướng u mê, thành sản sinh năng lượng
tiêu cực.
- Khi đứng ở vị trí đoàn kết là sảnh nhà sẽ dễ dàng chia
sẻ sự u mê của các Tướng tiêu cực trong ngôi nhà cho các
Tướng lan tỏa, cho các Tướng phát triển, cho các Tướng chân
tâm thấu hiểu. Bởi các Tướng lan tỏa với sức nóng như Mặt
trời sẽ khiến cho các Tướng tiêu cực bị sốc khi tiếp cận, nên
Tướng đoàn kết làm trung gian là điều tuyệt vời để sẻ chia và
đoàn kết. Bởi các Tướng phát triển không thể tồn tại trong
bóng tối ngôi nhà và các Tướng tiêu cực không thích sự phát
triển bền vững mà phải hy sinh lợi ích của mình, nên có
Tướng đoàn kết làm trung gian để sẻ chia và đoàn kết là điều
tuyệt vời. Bởi các Tướng chân tâm mà gặp các Tướng tiêu
cực sẽ chuyển hóa thành tiêu cực nên cần có đoàn kết ở giữa
để cân bằng là điều tuyệt vời.
- Tuệ linh, con người đứng ở vị trí đoàn kết là vô cùng
hiểm nguy bởi sự dẫn dụ của các Tướng tiêu cực, sẽ phải lắng
nghe tất cả các Tướng chia sẻ tới, sẽ phải kiên trì, nhẫn nhịn
bởi ánh sáng gay gắt của lan tỏa, sự xúc phạm và hành động
tiêu cực của các Tướng tiêu cực. Phải cân bằng được trạng
thái cảm xúc để cân bằng các Tướng khi các Tướng tác động
tới. Phải truyền tải được giá trị của các Tướng cho nhau thấy
để tất cả các Tướng cảm thông cho nhau. Chỉ có vậy mới
đoàn kết hết thảy các Tướng cùng nhau lan tỏa ánh sáng để
soi thấu các cấu trúc phát triển bền vững trong sự dìu dắt các
Tướng tiêu cực cùng nhau thực hành đời sống phát triển bền
vững bằng chân tâm.
285
- Đứng ở vị trí đoàn kết là quá trình học tập trí tuệ của
các Tướng phát triển, chân tâm và lan tỏa, là thấu hiểu bản
chất của các Tướng tiêu cực. Đây là quá trình học tập để đạt
được sự thấu hiểu tận cùng hết thảy các Tướng, sau đó sản
sinh ra đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng đoàn
kết, khi ấy mới chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc và sản sinh
được các siêu hạt năng lượng. Điều này cho thấy, để sản sinh
được các siêu năng lượng thì Trụ linh phải đứng ở vị trí đoàn
kết.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, hết
thảy Tuệ linh,con người và vạn vật trong và ngoài Vũ trụ đều
là Thầy của ta. Ta phải tôn kính và trân trọng hết thảy các
Thầy đó, bởi các Thầy vạn vật, Tuệ linh và con người đã cho
ta tất cả các bài học quý báu trong hành trình chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng. Những người được nhân loại
tôn trọng gọi là Thầy cũng nên chỉ coi mình là người chỉ dẫn,
người lan tỏa. Như thế, Tuệ linh, con người sẽ đứng được vào
vị trí đoàn kết, bởi vị trí đoàn kết là sự cân bằng, là nghệ
thuật của sự hy sinh để kết nối, gắn kết, đoàn kết hết thảy các
Tướng trong Vũ trụ cùng nhau thấu hiểu và phát triển bền
vững.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, khi Trụ
linh đứng được ở vị trí đoàn kết, Trụ linh sẽ đạt đến nghệ
thuật vận hành năm nhóm năng lượng một cách kỳ diệu, đặc
biệt là điều tiết để kích thích, hấp thụ được năng lượng hoại
diệt tới Trụ linh với số lượng ít và an toàn. Trụ linh sẽ thông
qua việc liên kết được với năng lượng tiêu cực để kích thích
rung động sóng âm nhằm đánh lừa năng lượng hoại diệt di
chuyển tới. Khi năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh,
Trụ linh sẽ dừng rung lắc sóng âm để không cho năng lượng
286
hoại diệt vào nữa và thực hiện liên kết, truyền tải sóng điện
dương kích nổ năng lượng hoại diệt. Thêm nữa, Trụ linh có
khả năng vận hành năm nhóm năng lượng để tạo thành cơ
chế hấp thụ năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh với
số lượng ít hoặc nhiều trong sự mong muốn.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh năng lượng đoàn kết, đó là: những Tướng có Trụ linh đa
âm, những Tướng có Trụ linh đa dương, những Tướng có
Trụ linh cân bằng, những Tướng có Trụ linh là bộ lọc năng
lượng. Để thấu hiểu được bản chất, biểu hiện của các Tướng
cần phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, để sản sinh được
năng lượng dương đoàn kết màu vàng cần phải có thêm trí
tuệ của Chân lý Giác ngộ. Nếu không có trí tuệ của hai Chân lý
thì sẽ không thể sản sinh được năng lượng dương đoàn kết,
ngược lại sẽ trở thành sản sinh năng lượng tiêu cực.
Trụ linh của Tuệ linh, con người: không Tuệ linh, con
người nào biết trong Trụ linh của mình là có ẩn chứa độc hay
thiện; không biết là độc hay thiện, yếu tố nào nhiều hơn; độc
tâm và thiện tâm sẽ luôn có trong bất kỳ các cấu trúc Trụ linh
của hết thảy Tuệ linh, con người và vạn vật trong Vũ trụ. Chỉ
duy nhất khi có được bộ lọc năng lượng thì mới không còn
độc trong Trụ linh. Chính vì vậy, trong quá trình sản sinh
năng lượng thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian, các
Trụ linh sẽ dễ dàng bộc phát được độc tâm. Do vậy, phải có
trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ mới nhận
diện, kiểm soát và triệt được độc tâm trong Trụ linh khi nó
bắt đầu sinh khởi, có như vậy mới thực hiện được Vòng tròn
sản sinh năng lượng đoàn kết.
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) ra nhóm hạt năng
lượng đoàn kết, Tuệ linh, con người phải vận hành hoàn
287
chỉnh một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ điểm số 1 cho
tới điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết đạt tới điểm số 5 thì hạt năng lượng đoàn kết
mới được phân tách ra. Nếu Tuệ linh, con người vận hành
chưa tới được điểm số 5 thì sẽ không có hạt năng lượng đoàn
kết nào được sản sinh ra.
Nhóm hạt năng lượng đoàn kết là vô cùng quan trọng,
nó là bí quyết để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Bởi chỉ có năng lượng đoàn kết mới có khả năng kết
nối được tất cả các Tướng trong năm nhóm năng lượng của
Vũ trụ. Chỉ có năng lượng đoàn kết mới có đủ sức mạnh để
liên kết và vận hành năng lượng sóng điện âm nhằm hấp thụ
năng lượng hoại diệt về một cách nghệ thuật trong sự kiểm
soát kỳ diệu. Cũng chỉ có năng lượng đoàn kết mới kích hoạt
sóng điện dương đoàn kết để kích nổ năng lượng hoại diệt
với số lượng ít mà vẫn an toàn. Chính vì vậy, năng lượng
đoàn kết có giá trị hợp nhất, gắn kết hết thảy các Tướng
trong Vũ trụ cùng nhau thành một thể thống nhất để phát
huy hết sức mạnh cho việc phát triển Vũ trụ trở nên bền
vững và an lạc nhất.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh nhóm hạt năng
lượng đoàn kết trong Trụ linh, Tuệ linh, con người sẽ tương
tác với các Tướng khác trong khoảng thời gian nhất định,
trong cường độ tương tác, tốc độ tương tác, mật độ tương
tác, độ nén của tương tác, trong môi trường có sóng điện.
Quá trình tương tác chính là quá trình giải mã các Tướng. Kết
thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước vào vòng
tròn cho quy trình sản sinh hạt năng lượng đoàn kết trong
Trụ linh.

288
Tất cả quá trình tương tác cho tới Vòng tròn sản sinh
năng lượng của Tuệ linh, con người tại môi trường tu hành ở
nhân gian đều nằm trong bốn hình tướng Đạo, đó là hình
tướng Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Do đó, các
hạt năng lượng đoàn kết đều được Trụ linh của Tuệ linh, con
người tương tác và sản sinh ra trong bốn hình tướng Đạo.
Để sản sinh được năng lượng đoàn kết, Tuệ linh, con
người phải có trí tuệ của hai Chân lý, phải thấu hiểu bản chất
và cơ chế vận hành của năng lượng hoại diệt, của Trụ linh,
bản chất của tất cả các Tướng trong năm nhóm năng lượng.
Thấu hiểu được mới có khả năng và nghệ thuật khống chế
được độc trong Trụ linh khi nó sinh khởi, mới có thể không
bị nhiễm năng lượng tiêu cực của các Tướng bên ngoài tác
động vào, mới có thể đón nhận được những năng lượng tích
cực bên ngoài vào. Khi thấu hiểu sẽ dễ dàng sản sinh được
năng lượng đoàn kết, khi sản sinh được năng lượng đoàn kết
sẽ dễ dàng nâng cấp thành Vòng tròn sản sinh các loại siêu
hạt năng lượng.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng


lượng đoàn kết
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết màu vàng
gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người đã
thấu hiểu sâu sắc về trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ. Tuệ linh, con người thực hành sản sinh năng lượng
đoàn kết bằng cơ chế phân tách, liên kết theo hướng bền
vững và an lạc.
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết gồm 5
điểm và được chia làm 4 đoạn:
289
1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2
Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người đã
thấu hiểu sâu sắc về trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Vì có trí tuệ
thấu hiểu sâu sắc về Chân lý Vạn vật nên Tuệ linh, con người
vận hành Trụ linh sản sinh được năng lượng đoàn kết với cơ
chế vận hành là phân tách và liên kết theo hướng bền vững
an lạc.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn Tuệ
linh, con người đang tạo mã sóng rung động trong Trụ linh,
đó là sự hình thành các nhịp mã sóng rung động trong sợi mã
sóng trí tuệ. Các nhịp mã sóng rung động sẽ rung động từ
khởi đầu của chân tâm mong muốn sản sinh năng lượng
đoàn kết để tới cực dương và lại di chuyển tới cực âm. Các
nhịp mã sóng rung liên tục di chuyển giữa hai cực năng
lượng để tìm ra được hệ tư tưởng cho việc sản sinh năng
lượng đoàn kết ở điểm 3 trong Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết.
Điểm số 1 là điểm Sinh. Điểm Sinh là điểm xuất phát
sau quá trình Tuệ linh, con người tương tác và giải mã về các
Tướng. Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, điểm
Sinh là chân tâm của năng lượng đoàn kết, đó là điểm xuất
phát, điểm bắt đầu để thực hiện Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết hay bất cứ năng lượng nào khác. Vì là sản
sinh năng lượng đoàn kết nên Trụ linh phải ở trạng thái cân
bằng trong sự đoàn kết hết thảy Tuệ linh và con người cùng
nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững và trong sáng.
Trụ linh phải có trạng thái chân tâm đoàn kết đặt vào Trụ
linh để khởi đầu cho hành trình Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết. Chân tâm đoàn kết là vị trí vô cùng đặc biệt:
là vị trí liên kết được tất cả năm nhóm năng lượng; khi tương
290
tác với năng lượng tiêu cực thì chân tâm đoàn kết sẽ tỏa ánh
sáng nhẹ nhàng để gắn kết truyền tải và truyền được thông
tin; khi tương tác với năng lượng chân tâm, phát triển, lan
tỏa thì sẽ tỏa ánh sáng từ mạnh cho tới siêu mạnh để gắn kết
truyền tải được sóng điện và thông tin.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, điểm Triệt có hai ý nghĩa.
Tuệ linh, con người phải vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm Triệt để tiếp tục hành trình sản sinh năng lượng đoàn
kết. Hai ý nghĩa đó là:
- Tuệ linh, con người không vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để sản sinh năng lượng đoàn kết. Khi
không vượt qua được điểm số 2, Tuệ linh, con người chuyển
thành thực hành Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực, đó
là Trụ linh bộc phát độc tâm và rung lắc siêu mạnh. Tuệ linh,
con người không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật để nhìn thấu
bản chất của các Tướng nên Trụ linh hấp thụ những năng
lượng âm về mà không hấp thụ năng lượng dương, khi đó
năng lượng hoại diệt di chuyển vào và làm phân rã Trụ linh.
Đây là Tuệ linh, con người bị triệt hạ bởi không có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để thực hiện sản sinh năng lượng đoàn kết
nên chuyển hóa thành sản sinh năng lượng tiêu cực, đó là
chuyển hóa thành con đường chuyển sinh phân rã và hoại
diệt. Để sản sinh được năng lượng đoàn kết, Tuệ linh, con
người sẽ phải liên kết được với các Tướng tiêu cực để giải
mã họ và dẫn dắt họ tới với ánh sáng của sự thật, đến với các
giá trị phát triển bền vững. Nếu không có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật thì sẽ dễ dàng bị các tướng tiêu cực lôi kéo đi theo và
thực hành đời sống như các Tướng tiêu cực. Do vậy, sản sinh

291
năng lượng đoàn kết cũng dễ dàng bị triệt mà chuyển hóa
thành sản sinh năng lượng tiêu cực.
- Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm số 2 là Triệt để tiếp tục vận hành sản sinh năng lượng
đoàn kết. Đó là Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu sâu
sắc về Chân lý Vạn vật, thấu hiểu sâu sắc về bản chất độc và
thiện trong Trụ linh, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và các
Tướng tích cực. Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ
linh sản sinh năng lượng đoàn kết, Tuệ linh, con người dễ
dàng nhận diện và không bị các Tướng tiêu cực lôi kéo theo,
bên cạnh đó vẫn hấp thụ được những năng lượng tiêu cực
với sóng điện âm rất nhẹ từ các Tướng tiêu cực; Tuệ linh, con
người nhận diện và đón nhận được các hạt năng lượng tích
cực của các Tướng tích cực. Khi đó, Trụ linh của họ kiểm soát
được sóng rung động từ mức nhẹ cho tới mạnh theo nhu cầu
và sóng điện dương dễ dàng kích nổ được năng lượng hoại
diệt di chuyển vào với số lượng ít. Vì có trí tuệ của Chân lý
Vạn vật mà Tuệ linh, con người đã triệt bỏ được độc trong
Trụ linh và những độc trong Trụ linh của các Tướng tiêu cực
bên ngoài tác động vào để tiếp tục hành trình sản sinh năng
lượng đoàn kết, đó là con đường chuyển hóa bền vững và an
lạc. Như vậy, trong Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết,
Tuệ linh, con người phải thực hiện được ý nghĩa này, phải
vượt qua được điểm Triệt để tiếp tục sản sinh năng lượng
đoàn kết.
Trong đoạn từ điểm số 1 tới số 2, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Tuệ linh, con người phải
phân tích được những bản chất của các Tướng tiêu cực, các
Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những lôi kéo của các
Tướng tiêu cực, chỉ đón nhận sóng điện âm nhẹ từ họ do vận
292
hành chân tâm trắng sáng chuyển hóa, đón nhận năng lượng
dương của các Tướng tích cực. Đặc biệt là phải đón nhận
được các năng lượng đoàn kết từ những Tướng cũng đang
sản sinh năng lượng đoàn kết về Trụ linh. Bởi vì sản sinh
năng lượng đoàn kết, nên cần phải đón nhận, hấp thụ năng
lượng đoàn kết về để lấy sức mạnh và kinh nghiệm cho việc
sản sinh năng lượng đoàn kết, lấy kinh nghiệm và giá trị của
các Tướng đoàn kết đã và đang thực hành để làm động lực,
làm niềm tin vững chắc cho việc vượt qua được điểm số 2 là
Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những sự lôi kéo của các
Tướng tiêu cực tác động đến, không để các Tướng tiêu cực
ảnh hưởng tới việc sản sinh hạt năng lượng đoàn kết.
Trong đoạn này, Trụ linh sẽ dễ bộc phát độc tâm nhất.
Do đó, Tuệ linh, con người cần phải vận dụng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để nhận diện, kiểm soát và triệt tiêu độc tâm
sau khi hấp thụ được năng lượng hoại diệt về. Vì khát khao
sản sinh năng lượng đoàn kết, nên khi có các Tướng tiêu cực
tác động tới sẽ dễ dàng kích hoạt độc tâm trong Trụ linh, đó
là các Tướng tiêu cực sẽ truyền tải năng lượng tiêu cực để
cùng nhau đoàn kết bảo vệ các cấu trúc tiêu cực. Do vậy, giai
đoạn này cần phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát độc tâm
bộc phát ra chưa, như thế nào, mức độ ra sao. Phải luôn nhìn
lại bản thể mình xem mình có tham lam không, xem việc
mình làm có gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người
không, xem mình có ích kỷ về mình không. Nếu ích kỷ về
mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người thì đó
là độc trong Trụ linh hay còn gọi là độc tâm đã bộc phát.
Để kiểm soát Trụ linh khi nào bộc phát độc tâm và khi
nào Trụ linh hấp thụ năng lượng tiêu cực từ các Tướng bên
ngoài vào, Tuệ linh, con người phải luôn soi lại chính mình.
293
Đó là coi mình là một tấm gương để xem tấm gương của
mình có những dấu vết của tham lam ích kỷ không, có những
dấu vết của chấp ngã sân hận không, có những dấu vết của
gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người không. Nếu có
là độc tâm đã được hiện diện trong tấm gương ta vừa soi.
Nếu không có những dấu vết đó, tức là ta đang thực hành sản
sinh năng lượng đoàn kết đúng theo Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết bởi cơ chế phân tách và liên kết bền vững.
Tấm gương này cần phải soi lại từng giờ, từng ngày, từng sự
việc để luôn nhận diện được độc trong Trụ linh có sinh khởi
hay không.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành được Trụ linh, sẽ không để Trụ linh bộc
phát độc tâm ra ngoài. Bấy giờ, Tuệ linh, con người sẽ vận
hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận những sẻ
chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới bằng chân
tâm sáng chói của sự khát khao đoàn kết. Khi đó, Trụ linh đã
liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm đoàn kết (có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt năng
lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện khi di
chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Điều này khiến
Trụ linh không bị rung lắc mạnh, không bị phát tác độc tâm,
khi đó năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu rung lắc nhẹ
nên chỉ di chuyển các hạt năng lượng hoại diệt với số lượng
ít vào Trụ linh. Năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít sẽ an
toàn, bởi khi đã có trí tuệ của Chân lý Vạn vật sẽ dễ dàng kích
nổ được năng lượng hoại diệt bằng Chân lý Giác ngộ. Đây là
nghệ thuật sử dụng gương soi để kiểm soát độc tâm trong
Trụ linh, để lấy được các hạt năng lượng tiêu cực của môi
294
trường bên ngoài về mà như không lấy, để lấy được số lượng
ít năng lượng hoại diệt về và an toàn trong sự kích nổ năng
lượng hoại diệt cho quá trình phân tách ra các mã sóng rung
động trong Trụ linh ở điểm số 3.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là rất cần thiết cho việc
sản sinh năng lượng đoàn kết, nếu không có năng lượng hoại
diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát an toàn thì sẽ không có sợi
mã sóng trí tuệ nào được hình thành và sẽ không có năng
lượng đoàn kết nào được phân tách ra. Do đó, giai đoạn từ
điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn đấu trí với các Tướng,
với các năng lượng trong và ngoài Vũ trụ để biến nó thành
nghệ thuật cho quá trình vượt qua được điểm Triệt để sản
sinh được năng lượng đoàn kết.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng đoàn kết từ điểm số 1 tới điểm số 2 như
sau:
- Tuệ linh, con người kết thúc quá trình tương tác và
giải mã về các Tướng để sinh khởi Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết.
- Bắt đầu xuất phát tại điểm số 1 – điểm Sinh, Tuệ linh,
con người đặt Trụ linh vào vị trí Sinh: đó là khởi đầu bởi
năng lượng chân tâm đoàn kết; đó là Trụ linh cân bằng và
rung động để đoàn kết tất cả các Tướng cùng nhau lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững và trong sáng; đó là chân
tâm thánh thiện trong việc đoàn kết hết thảy các Tướng được
phát triển bền vững mà không màng gì về mình; đó là cảnh
giới chân tâm cao nhất trong năm nhóm tầng năng lượng,
đây là chân tâm gắn kết được tất cả các Tướng khác nhau.

295
- Tuệ linh, con người phải tỉnh táo dùng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để Trụ linh trong trạng thái an vui, an lạc
trên hành trình rời điểm số 1. Giữ trạng thái Trụ linh an vui
trong hành trình đoàn kết hết thảy các Tướng để cùng nhau
lan tỏa các cấu trúc phát triển mang tính bền vững. Luôn
luôn vận dụng tấm gương soi bản thể mình để phát hiện độc
tâm sinh khởi chưa.
- Trên hành trình di chuyển, tương tác với các Tướng,
Tuệ linh, con người sẽ gặp các Tướng đã và đang đoàn kết
các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền
vững. Khi đó, không nên tự ti, không nên e dè, không nên xấu
hổ, hãy đến gặp họ, bắt chuyện để hợp duyên. Gặp để học hỏi
con đường, phương pháp đoàn kết hết thảy các Tướng cùng
nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển mang tính bền vững và
trong sáng vì vạn vật, Tuệ linh và con người. Không nên chỉ
gặp một người, mà phải gặp với nhiều người đã và đang
thành công trong con đường đoàn kết các Tướng cùng nhau
lan tỏa các cấu trúc phát triển sản sinh ra năng lượng đoàn
kết. Gặp càng nhiều người thành công trên con đường đoàn
kết sẽ giúp cho Trụ linh liên kết được những hạt năng lượng
tích cực đoàn kết. Khi gặp những Tướng đã và đang đoàn kết
thành công cũng cần phải luôn soi gương lại bản thể mình để
xem độc tâm có bộc phát không. Phải phân tích các điều kiện,
các yếu tố thuận lợi, khó khăn của từng người đã và đang
thành công trong con đường sản sinh năng lượng đoàn kết
để học tập các bài học đó cho mình. Khi gặp những Tướng đã
và đang đoàn kết thành công, Trụ linh sẽ tỏa ra ánh sáng
trắng sáng, trong Trụ linh cũng đang có những nhịp di
chuyển của mã sóng trí tuệ tiến tới thái cực dương.

296
- Tiếp tục gặp gỡ và tương tác với các Tướng đã và
đang thất bại trong hành trình sản sinh năng lượng đoàn kết.
Khi gặp những Tướng này, hãy mạnh dạn trò chuyện, mạnh
dạn tìm hiểu nguyên nhân thất bại của họ. Khi tương tác và
nhận được những hạt năng lượng tiêu cực của sự thất bại,
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ rung lắc nhẹ và các nhịp
rung động trong mã sóng trí tuệ sẽ di chuyển về thái cực âm
để cân bằng với sự hưng phấn khi các nhịp rung động di
chuyển tới thái cực dương. Việc học tập kinh nghiệm của các
Tướng đã và đang thất bại sẽ cho ta được những bài học vô
cùng quý báu, sẽ giúp cho ta phát triển thêm về trí tuệ vạn
vật. Lưu ý, luôn luôn soi gương bản thể mình để xem mình có
bị nhụt ý chí hay có những vết độc tâm bị bộc phát ra hay
không. Luôn luôn phải dùng trí tuệ vạn vật để kiểm soát Trụ
linh.
- Gặp và trò chuyện với các Tướng tiêu cực đang phát
triển, lan tỏa, đoàn kết các cấu trúc gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người. Lắng nghe, trò chuyện để đồng cảm,
để cảm thông, để thấu hiểu, nhưng tuyệt đối không để bị các
Tướng tiêu cực lôi kéo. Việc lắng nghe, cảm thông, thấu hiểu
các Tướng tiêu cực là nguyên tắc để giúp cho Trụ linh của
Tuệ linh, con người sản sinh, phân tách ra hạt năng lượng
đoàn kết màu vàng.
- Hãy giữ vững vị trí đứng là chân tâm đoàn kết để chia
sẻ với những Tướng tiêu cực và thất bại về các giá trị phát
triển bền vững, về những giá trị của ánh sáng lan tỏa, về
những giá trị của chân tâm gắn kết. Tiếp đến lại chia sẻ cho
các Tướng lan tỏa, phát triển, chân tâm thấy được trí tuệ của
các Tướng tiêu cực, thấy được sự u mê, sự khổ đau đắm chìm
trong bóng tối u mê của con đường chuyển sinh theo hướng
297
hoại diệt của các Tướng tiêu cực. Chia sẻ để những Tướng
tiêu cực thấu hiểu giá trị của các Tướng tích cực đang trên
con đường chuyển sinh bền vững, chia sẻ để những Tướng
tích cực cảm thông và nhẹ nhàng hỗ trợ các Tướng tiêu cực
nhận diện và chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc. Khi
đứng ở vị trí đoàn kết để gắn kết giữa nhóm Tướng tiêu cực
và tích cực, Tuệ linh, con người không được để các Tướng
tiêu cực lôi kéo và cũng không hùa theo các Tướng tích cực
mà xa lánh các Tướng tiêu cực. Phải cân bằng ở giữa để lắng
nghe, để cảm thông, để thấu hiểu thì mới hấp thụ được hết
thảy các hạt năng lượng từ tất cả các Tướng nhằm sản sinh
ra được năng lượng đoàn kết.
- Tiếp tục soi gương để kiểm soát Trụ linh. Hãy hấp thụ
những hạt năng lượng tích cực từ các Tướng tích cực để làm
động lực và sức mạnh cho Trụ linh. Đối với các Tướng tiêu
cực, chỉ nên nghe và lắng nghe, không làm theo hay đi theo
họ. Khi lấy động lực từ năng lượng tích cực, Trụ linh sẽ có
sức mạnh để giữ vững vị trí đoàn kết và thực hành sản sinh
năng lượng đoàn kết.
- Hãy cảm nhận sự khó khăn, hãy phiền não, hãy buồn
bã, hãy suy tính, hãy đắn đo, những điều này là đang kiểm
soát Trụ linh, đang thúc đẩy Trụ linh rung lắc sóng điện âm
trong hạt âm gốc và toàn bộ hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ.
Tuyệt đối không u uất, đau khổ hay tuyệt vọng, chỉ là suy tư,
suy nghĩ, tính toán trong sự thiệt hơn, được mất, lợi mình
hay lợi về vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Khi hệ thống hạt năng lượng âm đang rung lắc nhẹ là
lúc có các hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để chi phối
và làm phân rã Trụ linh. Lúc này, Tuệ linh, con người phải
luôn vận hành trí tuệ của Chân lý Vạn vật, phải thấu hiểu vạn
298
vật đều là giả tướng, sứ mệnh xuống nhân gian tu hành để cải
tạo Tuệ linh theo hướng bền vững thông qua đoàn kết hết
thảy các Tướng cùng nhau phát triển bền vững trong sự
không phân biệt, do đó, không được ruồng bỏ hay đi theo các
Tướng tiêu cực hay tích cực. Phải đứng ở giữa để gắn kết,
trao đổi giá trị giữa các Tướng tích cực với tiêu cực để họ
thấu hiểu nhau, để gắn kết và cấu tạo thành quy trình vận
hành chuyển hóa năng lượng bền vững trong Trụ linh. Khi
vận hành suy nghĩ như vậy, hãy tiếp tục nhớ tới những lời
động viên của các Tướng đoàn kết đã và đang thành công.
Tiếp tục không để các Tướng tiêu cực lôi kéo, chỉ lắng nghe
để hấp thụ những bài học tiêu cực từ họ. Lúc này phải hiểu
rằng, các Tướng tiêu cực và thất bại là do họ không có trí tuệ
của Chân lý Vạn vật, trong khi mình đã có.
- Vì có hành trang là trí tuệ thấu hiểu sâu sắc về Chân
lý Vạn vật nên trong Tuệ linh, con người có trí tuệ là không
đoàn kết và đi theo các Tướng tiêu cực gây tổn hại tới vạn
vật, Tuệ linh và con người. Trong Trụ linh lúc này đã dừng
rung lắc, Trụ linh trở lại cân bằng và phát triển nhịp rung
động tới thái cực dương, tức là Trụ linh đã di chuyển qua
được điểm số 2 là Triệt. Tuệ linh, con người đã triệt đi được
những năng lượng tiêu cực tác động vào, triệt đi được độc
tâm vừa bộc phát rung lắc, đặc biệt là vô hiệu hóa năng lượng
hoại diệt không di chuyển vào nhiều. Những hạt năng lượng
hoại diệt di chuyển vào đã bị chuyển hóa thành những hạt
bóng hỏa khi Trụ linh sinh khởi thành ý chí đoàn kết hết thảy
các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền
vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Khi vượt qua được điểm số 2, tức là bản thể Tuệ linh,
con người đã tìm ra được con đường, phương pháp đoàn kết
299
hết thảy các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển
bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Trụ linh đã được Tuệ linh, con người vận hành qua
được điểm số 2 bằng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để tiếp tục
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển được thành
trí tuệ giác ngộ cho việc sản sinh năng lượng đoàn kết.
Trụ linh di chuyển tới đoạn này là đã định hình, đã tìm
ra được con đường đoàn kết theo hướng bền vững.
Tiếp tục đi gặp những người đã và đang đoàn kết
thành công các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát
triển bền vững để phát triển con đường đoàn kết của mình
thành hệ tư tưởng giác ngộ. Giai đoạn này không nên giao
tiếp, không nên trò chuyện với những Tướng tiêu cực nữa,
đó là gieo Duyên không. Duyên không là không chia sẻ nữa
để cho các Tướng tiêu cực trải nghiệm đau khổ trên con
đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt. Khi họ trải nghiệm
đủ sẽ giác ngộ và tin theo con đường chuyển sinh bền vững
bởi những sẻ chia đã được thực hành trước đó. Dành thời
gian tập trung xây dựng phương pháp đoàn kết các Tướng
cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển mang tính bền vững
và mang lại lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Kết quả của quá trình tương tác với các Tướng đã và
đang đoàn kết thành công, thêm nữa lại có trí tuệ thấu hiểu
sâu sắc về vạn vật nên Trụ linh đã rực sáng ánh sáng trắng
tỏa ra trong Trụ linh, đó là sự vui mừng trong nội hành về
việc đang cho ra được điểm kết tụ giác ngộ con đường đoàn
300
kết các Tướng cùng nhau lan tỏa cấu trúc phát triển bền
vững.
Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới được
điểm Ngộ, đây là giác ngộ. Giác ngộ vì kết tụ được hệ tư
tưởng đoàn kết các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc
phát triển mang tính bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không vì ích kỷ của bản thể mình.
Khi kết tụ được trí tuệ giác ngộ về con đường đoàn kết,
trong trụ linh tỏa ra sóng điện dương siêu mạnh làm kích nổ
những hạt bóng hỏa (được ngủ đông từ năng lượng hoại diệt
được hấp thụ ở giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 trước
đó).
Nhờ nhiệt lượng lớn từ những hạt bóng hỏa được kích
nổ (do kết tụ được trí tuệ giác ngộ về đoàn kết các Tướng
cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững), nên
trong Trụ linh đã cấu tạo được các mã sóng rung động mang
sóng điện dương màu vàng. Đây mới chỉ là các đoạn mã sóng
rung động chứ chưa chuyển hóa thành sợi mã sóng trí tuệ
hoàn chỉnh.
Khi đã kết tụ được hệ trí tuệ giác ngộ con đường đoàn
kết các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền
vững mà không chuyển hóa thành ngoại hành để tới được
đích của vòng tròn là điểm số 5 thì những sợi mã sóng rung
động sẽ tự tiêu tan. Tức là khi Trụ linh mới vận hành được
nửa vòng tròn, đó là mới tới được điểm số 3 thì vẫn chưa tạo
ra hạt năng lượng đoàn kết, nếu không đi tiếp thì Trụ linh sẽ
trở về điểm xuất phát và những sợi mã sóng đoàn kết cũng
không còn trong Trụ linh nữa.

301
Vì có trí tuệ giác ngộ về con đường đoàn kết các Tướng
cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững, nên Tuệ
linh, con người sẽ dễ dàng và quyết tâm vận hành Trụ linh di
chuyển để ngoại hành cho hoàn thành quá trình sản sinh
năng lượng đoàn kết.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người
nâng cấp được thêm trí tuệ của Chân lý Vạn vật sau khi kết tụ
được trí tuệ giác ngộ ở điểm số 3. Do đó, Tuệ linh, con người
dễ dàng vận hành Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết
vượt qua được điểm số 4 là Triệt.
Điểm từ số 3 tới số 4 là đoạn ngoại hành trong việc sản
sinh sợi trí tuệ của hạt năng lượng đoàn kết, đó là hoàn
thành các sợi mã sóng trí tuệ của các mã sóng rung động đã
được sản sinh ra trước đó ở điểm số 3.
Điểm số 3 là điểm giác ngộ. Bây giờ điểm số 3 là chân
tâm cao và đã có sẵn các sợi mã sóng rung động của hạt năng
lượng đoàn kết. Trong Trụ linh bây giờ có ánh sáng vàng và
trắng làm lực đẩy cho hành trình tiếp tục phải vận dụng trí
tuệ của Chân lý Vạn vật ở tầm cao hơn để không bị các
Tướng tiêu cực lôi kéo và không để bị năng lượng hoại diệt
phân rã trong hành trình sản sinh năng lượng đoàn kết ở giai
đoạn ngoại hành.
Điểm số 4 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, điểm Triệt số 4 cũng có
hai ý nghĩa. Tuệ linh, con người phải vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để tiếp tục hành trình sản sinh năng
lượng đoàn kết. Hai ý nghĩa đó là:
302
- Tuệ linh, con người không vận hành Trụ linh vượt
qua được điểm Triệt để sản sinh năng lượng đoàn kết. Khi
không vượt qua được điểm số 4, Tuệ linh, con người chuyển
thành ngoại hành thực hành Vòng tròn sản sinh năng lượng
tiêu cực, đó là Trụ linh bộc phát độc tâm và rung lắc siêu
mạnh. Tuệ linh, con người không có trí tuệ của Chân lý Vạn
vật để nhìn thấu bản chất của các Tướng nên Trụ linh hấp
thụ những năng lượng âm về mà không hấp thụ năng lượng
dương, khi đó năng lượng hoại diệt di chuyển vào và làm
phân rã Trụ linh. Đây là Tuệ linh, con người bị triệt hạ bởi
không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật để thực hiện sản sinh
năng lượng đoàn kết nên chuyển hóa thành sản sinh năng
lượng tiêu cực, đó là chuyển hóa thành ngoại hành con
đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt. Để sản sinh được
năng lượng đoàn kết, Tuệ linh, con người sẽ phải liên kết
được với các Tướng tiêu cực để giải mã họ và dẫn dắt họ tới
với ánh sáng của sự thật, đến với các giá trị phát triển bền
vững, nếu không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật thì sẽ dễ dàng
bị các tướng tiêu cực lôi kéo đi theo và thực hành đời sống
như các Tướng tiêu cực. Do vậy, khi ngoại hành sản sinh
năng lượng đoàn kết cũng dễ dàng bị triệt mà chuyển hóa
thành sản sinh năng lượng tiêu cực.
- Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua được
điểm số 4 là Triệt để tiếp tục ngoại hành vận hành sản sinh
năng lượng đoàn kết. Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu
sâu sắc về Chân lý Vạn vật, thấu hiểu sâu sắc về bản chất độc
và thiện trong Trụ linh, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và
các Tướng tích cực, chính vì vậy, trong quá trình ngoại hành
vận hành Trụ linh sản sinh năng lượng đoàn kết, Tuệ linh,
con người dễ dàng nhận diện và không bị các Tướng tiêu cực
303
lôi kéo theo, bên cạnh đó vẫn hấp thụ được những năng
lượng tiêu cực với sóng điện âm rất nhẹ từ các Tướng tiêu
cực. Tuệ linh, con người nhận diện và đón nhận được các hạt
năng lượng tích cực của các Tướng tích cực, khi đó, Trụ linh
của họ kiểm soát được sóng rung động từ mức nhẹ cho tới
mạnh theo nhu cầu và sóng điện dương dễ dàng kích nổ
được năng lượng hoại diệt di chuyển vào với số lượng ít. Vì
có trí tuệ của Chân lý Vạn vật mà Tuệ linh, con người đã triệt
bỏ được độc trong Trụ linh và những độc trong Trụ linh của
các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào để tiếp tục hành
trình ngoại hành sản sinh năng lượng đoàn kết, đó là con
đường chuyển hóa bền vững và an lạc. Như vậy, trong Vòng
tròn sản sinh năng lượng đoàn kết, Tuệ linh, con người phải
thực hiện được ý nghĩa này, phải vượt qua được điểm Triệt
để tiếp tục ngoại hành sản sinh năng lượng đoàn kết.
Trong đoạn từ điểm số 3 tới số 4, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng ngoại hành tác động tới bằng Chân lý Vạn vật.
Tuệ linh, con người phải phân tích được những bản chất của
các Tướng tiêu cực, các Tướng tích cực đang ngoại hành tác
động vào, từ đó triệt tiêu được những lôi kéo của các Tướng
tiêu cực, chỉ đón nhận sóng điện âm nhẹ từ họ do vận hành
chân tâm trắng sáng chuyển hóa, đón nhận năng lượng
dương của các Tướng tích cực. Đặc biệt là phải đón nhận
được các năng lượng đoàn kết từ những Tướng cũng đang
sản sinh năng lượng đoàn kết về Trụ linh, bởi vì sản sinh
năng lượng đoàn kết, nên cần phải đón nhận, hấp thụ năng
lượng đoàn kết về để lấy sức mạnh và kinh nghiệm cho việc
sản sinh năng lượng đoàn kết. Lấy kinh nghiệm và giá trị của
các Tướng đoàn kết đang thực hành để làm động lực, làm
niềm tin vững chắc cho việc vượt qua được điểm số 4 là
304
Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những sự lôi kéo của các
Tướng tiêu cực tác động đến, không để các Tướng tiêu cực
ảnh hưởng tới việc sản sinh hạt năng lượng đoàn kết.
Trong đoạn này, Trụ linh sẽ dễ bộc phát độc tâm nhất.
Do đó, Tuệ linh, con người cần phải vận dụng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để nhận diện và triệt tiêu độc tâm sau khi
hấp thụ được năng lượng hoại diệt về. Vì khát khao sản sinh
năng lượng đoàn kết, nên khi có các Tướng tiêu cực tác động
tới sẽ dễ dàng kích hoạt độc tâm trong Trụ linh, đó là các
Tướng tiêu cực sẽ ngoại hành truyền tải năng lượng tiêu cực
để cùng nhau đoàn kết bảo vệ các cấu trúc tiêu cực. Do vậy,
giai đoạn này cần phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát độc
tâm bộc phát ra chưa, như thế nào, mức độ ra sao. Phải luôn
nhìn lại bản thể mình xem mình có tham lam không, xem việc
mình làm có gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người
không, xem mình có ích kỷ về mình không. Nếu ích kỷ về
mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người thì đó
là độc trong Trụ linh hay còn gọi là độc tâm đã bộc phát.
Để kiểm soát Trụ linh khi nào bộc phát độc tâm và khi
nào Trụ linh hấp thụ năng lượng tiêu cực từ các Tướng bên
ngoài vào, Tuệ linh, con người phải luôn soi lại chính mình.
Đó là coi mình là một tấm gương để xem tấm gương của
mình có những dấu vết của tham lam ích kỷ không, có những
dấu vết của chấp ngã sân hận không, có những dấu vết của
gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người không. Nếu có
là độc tâm đã được hiện diện trong tấm gương ta vừa soi.
Nếu không có những dấu vết đó, tức là ta đang thực hành sản
sinh năng lượng đoàn kết đúng theo Vòng tròn sản sinh năng
lượng đoàn kết bởi cơ chế phân tách và liên kết bền vững.
Tấm gương này cần phải soi lại từng giờ, từng ngày, từng sự
305
việc để luôn nhận diện được độc trong Trụ linh có sinh khởi
hay không.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành được Trụ linh, sẽ không để Trụ linh bộc
phát độc tâm ra ngoài. Bấy giờ, Tuệ linh, con người sẽ vận
hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận những sẻ
chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới bằng chân
tâm sáng chói của sự khát khao đoàn kết. Khi đó, Trụ linh đã
liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ các Tướng
tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm đoàn kết (có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt năng
lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện khi di
chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Điều này khiến
Trụ linh không bị rung lắc mạnh, không bị phát tác độc tâm
khi ngoại hành, khi đó năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu
rung lắc nhẹ nên chỉ di chuyển các hạt năng lượng hoại diệt
với số lượng ít vào Trụ linh. Năng lượng hoại diệt di chuyển
vào ít sẽ an toàn, bởi khi đã có trí tuệ của Chân lý Vạn vật sẽ
dễ dàng kích nổ được năng lượng hoại diệt bằng Chân lý Giác
ngộ. Đây là nghệ thuật sử dụng gương soi để kiểm soát độc
tâm trong Trụ linh, để lấy được các hạt năng lượng tiêu cực
của môi trường bên ngoài về mà như không lấy, để lấy được
số lượng ít năng lượng hoại diệt về và an toàn trong sự kích
nổ năng lượng hoại diệt cho quá trình phân tách ra các sợi
mã sóng trí tuệ và hạt năng lượng đoàn kết hoàn chỉnh trong
Trụ linh ở điểm số 5.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là rất cần thiết cho việc
sản sinh năng lượng đoàn kết, nếu không có năng lượng hoại
diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát an toàn thì sẽ không có sợi
mã sóng trí tuệ nào được hình thành và sẽ không có năng
306
lượng đoàn kết nào được phân tách ra. Do đó, giai đoạn từ
điểm số 3 tới điểm số 4 là giai đoạn đấu trí với các Tướng,
với các năng lượng trong và ngoài Vũ trụ để biến nó thành
nghệ thuật cho quá trình vượt qua được điểm Triệt để sản
sinh được năng lượng đoàn kết.
Hành trình Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng đoàn kết từ điểm số 3 tới điểm số 4 như
sau:
- Tuệ linh bắt đầu ngoại hành để thực hiện sản sinh
năng lượng đoàn kết sau khi có được trí tuệ giác ngộ về con
đường đoàn kết các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc
phát triển bền vững. Bây giờ, Trụ linh có động lực và sức
mạnh bởi chân tâm giác ngộ ở tầm cao nên rất khí thế cho
chuỗi hành động ngoại hành để sản sinh ra các hạt năng
lượng đoàn kết.
- Tiếp tục phải tỉnh táo trong giai đoạn ngoại hành, đó
là: giữ trạng thái Trụ linh an vui trong hành trình thực hành
đoàn kết các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển
bền vững; luôn luôn vận dụng tấm gương soi bản thể mình
để phát hiện độc tâm sinh khởi chưa.
- Tuệ linh, con người bắt đầu tiến hành các hành động
đoàn kết các Tướng cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển
bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Quá trình đoàn kết bằng các hành động ngoại hành,
Tuệ linh, con người sẽ gặp những Tướng tiêu cực có ở trong
và bên ngoài tổ chức của mình, họ sẽ tương tác, bắn các hạt
năng lượng tiêu cực tới Trụ linh của mình. Khi đó, hãy dùng
trí tuệ nâng cao về Chân lý Vạn vật để thấu hiểu rằng các
Tướng tiêu cực sẽ luôn luôn có ở mọi nơi, thậm chí là chính
307
trong Trụ linh của mình. Hãy nghe, lắng nghe những Tướng
tiêu cực bắn phá tới nhưng không thực hành theo họ.
- Tiếp tục hãy lắng nghe các Tướng tích cực đã và đang
đoàn kết thành công chia sẻ và bắn các hạt năng lượng đoàn
kết tới, hãy hấp thụ nó để làm động lực cho Trụ linh vững
vàng. Tất nhiên phải tìm kiếm, trò chuyện, sẻ chia, học hỏi
kinh nghiệm từ những Tướng đã và đang đoàn kết thành
công.
- Soi gương để kiểm soát Trụ linh. Bấy giờ, hãy suy
nghĩ suy tư, lo âu, buồn phiền, đắn đo về những Tướng tiêu
cực để kích hoạt rung động sóng điện âm trong Trụ linh ở
mức nhẹ. Khi đó, năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển với số
lượng ít vào Trụ linh. Nên nhớ là không đau thương, bi ai, u
uất, lo âu về những Tướng tiêu cực, về sự không thành công
để năng lượng hoại diệt không vào nhiều.
- Kiểm soát Trụ linh bằng cách hãy nghĩ về những điều
tốt đẹp bởi Chân lý Giác ngộ sẽ mang lại giá trị bền vững cho
vạn vật, Tuệ linh và con người. Hãy nghĩ tới những điều tốt
đẹp, những thành tựu mà những Tướng tích cực đã sẻ chia và
động viên. Khi đó, Tuệ linh, con người đã gia tăng trí tuệ về
Chân lý Vạn vật, Trụ linh sẽ không rung lắc nữa. Trụ linh
bừng sáng bởi ý chí đoàn kết các Tướng cùng nhau lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững. Bấy giờ, năng lượng hoại
diệt bị ngủ đông và trở thành những hạt bóng hỏa trong Trụ
linh.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh
vượt qua được điểm số 4, đó là triệt tiêu được những độc
tâm trong Trụ linh, triệt tiêu được những hạt năng lượng tiêu
cực của các Tướng tiêu cực để tạo thành lực đẩy tới việc

308
hoàn thành quá trình sản sinh năng lượng đoàn kết ở điểm
số 5 trong Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết.

4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển và thấu hiểu
trí tuệ giác ngộ ở tầm cao mới.
Từ điểm số 4 tới điểm số 5 là giai đoạn gấp rút hoàn
thành đoạn sợi trí tuệ trong hạt năng lượng đoàn kết.
Điểm số 5 chính là điểm Tỏa. Điểm Tỏa là điểm kết
thúc Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết.
Khi Tuệ linh, con người đã gia tăng được trí tuệ của
Chân lý Vạn vật và vượt qua được điểm Triệt số 4, Trụ linh
được vận hành sang giai đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5. Đây
là giai đoạn mà Tuệ linh, con người đẩy mạnh quá trình hành
động để hoàn thành đoàn kết các Tướng cùng nhau lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người.
Khi vượt qua điểm số 4, Tuệ linh, con người cần phải
đẩy mạnh quá trình trao đổi, học tập kinh nghiệm từ những
Tướng đã và đang thành công trên con đường sản sinh năng
lượng đoàn kết. Việc này sẽ giúp cho Trụ linh nhanh chóng
sản sinh hoàn thiện các hạt năng lượng đoàn kết.
Vì được nâng cao trí tuệ về Chân lý Vạn vật, lại có được
nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt bị kích nổ, nên Tuệ
linh, con người nhanh chóng hoàn thành kết thúc quá trình
sản sinh năng lượng đoàn kết bằng cách đẩy Trụ linh tới
được điểm số 5 là Tỏa.
Khi hoàn thành quá trình sản sinh hạt năng lượng
đoàn kết ở điểm số 5, Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ
309
phân tách ra một cho tới nhiều sợi mã sóng trí tuệ có sóng
điện dương siêu mạnh có màu vàng. Từ Trụ linh, những hạt
năng lượng đoàn kết được phân tách và lưu giữ trong Vũ trụ.
Cũng từ Trụ linh, những hạt năng lượng đoàn kết được phân
tách bắn vào những Tướng đã được tương tác trong quá
trình sản sinh ra năng lượng đoàn kết. Cũng từ Trụ linh,
những hạt năng lượng đoàn kết được phân tách và cấu tạo
thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ
linh theo hướng bền vững.
Đặc biệt, ngoài những hạt năng lượng đoàn kết mang
sóng điện dương được phân tách ra thì những hạt năng
lượng chân tâm đoàn kết cũng được phân tách kèm theo để
làm sợi dây gắn kết cấu trúc năng lượng trong Vũ trụ được
bền vững, trong Tuệ linh được bền vững. Những hạt năng
lượng chân tâm đoàn kết làm nhiệm vụ kết dính các hạt năng
lượng dương trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh được vững chắc. Những hạt năng lượng chân
tâm đoàn kết và những hạt năng lượng đoàn kết là minh
chứng cho việc Tuệ linh, con người nâng cấp được trí tuệ giác
ngộ ở mức độ cao hơn.
Tuệ linh, con người sau khi đã sản sinh được năng
lượng đoàn kết sẽ có kinh nghiệm cho các Vòng sản sinh
năng lượng đoàn kết tiếp theo. Đồng thời, đó là động lực, nền
tảng, kinh nghiệm cho việc vận hành nâng cấp Vòng tròn sản
sinh các siêu năng lượng, đó là hành trình trên con đường
thực hiện chuyển sinh Trụ linh theo hướng bền vững và
chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng. Để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng, Tuệ linh và con người phải thực
hành sản sinh năng lượng đoàn kết thông qua con đường
phổ độ tri thức của hai Chân lý tới hết thảy Tuệ linh và con
310
người. Khi sản sinh ra đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ của năng
lượng đoàn kết, sẽ cấu tạo được Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng đơn, khi có bộ lọc năng lượng đơn mới thực hành
được Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng Hóa độ 1.
Tuệ linh, con người đã đạt được thành tựu sản sinh
năng lượng đoàn kết sẽ phân tách các hạt năng lượng đoàn
kết đó khi sẻ chia, chỉ dẫn cho những người đang cần trợ
giúp kinh nghiệm về sản sinh năng lượng đoàn kết, năng
lượng lan tỏa và năng lượng phát triển, điều mà chính họ
cũng đã nhận được từ những Tướng đã và đang thành công
trong việc sản sinh năng lượng đoàn kết, cụ thể là thông qua
giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 và giai đoạn từ điểm số 3
tới điểm số 4 trong Vòng tròn sản sinh năng lượng.
Ngoài những hạt năng lượng đoàn kết được phân tách
ra, những giá trị đạo đức, giá trị phát triển, giá trị đời sống
tinh thần sẽ được lan tỏa tới khắp thế gian. Những giá trị
phát triển bền vững chỉ được lan tỏa khi thực hành được con
đường đoàn kết hết thảy các Tướng, đó là điều mà các Tuệ
linh phải thực hiện ở môi trường tu hành nhân gian, điều mà
ở cội nguồn chưa xây dựng được.
Như vậy, việc thực hiện hoàn thành viên mãn Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết là hướng chuyển sinh
bền vững, nó mang lại lợi ích cho vạn vật, Tuệ linh và con
người. Việc sản sinh và tỏa những hạt năng lượng đoàn kết
tới Vũ trụ và các Tướng khác chính là kết quả, thành tựu của
việc Tuệ linh, con người có được trí tuệ của Chân lý Vạn vật
và Chân lý Giác ngộ. Nó sẽ giúp cho vạn vật, Tuệ linh và con
người thấy được sự chân thật và giá trị của các cấu trúc phát
triển bền vững, từ đó không ngừng nghỉ lan tỏa những giá trị
phát triển bền vững tới hết thảy các Tướng trong Vũ trụ.
311
III. Ví dụ thực tế
Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết thông qua
việc hàn gắn xung đột vợ chồng đòi ly hôn của người A:
Người A sau nhiều năm nghiên cứu và thấu hiểu về
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, thấu hiểu Quy luật Nhân
quả và những giá trị cao quý cần phải thực hành trong bốn
hình tướng Đạo, có thể nói người A là người thấu hiểu sâu
sắc về hai Chân lý.
Một hôm, người A thấy ngôi nhà bên cạnh có cuộc cãi
vã to tiếng giữa hai vợ chồng. Họ cãi vã to tiếng rồi dùng
những lời lẽ thô tục để nói về nhau. Vợ chồng đó đã kết hôn
được hơn 10 năm và có với nhau được hai người con, thế
nhưng do sự xung đột dồn nén bao lâu nay mà họ đã xảy ra
xung đột lớn như vậy.
Vài ngày sau, khi người A gặp được người chồng và có
hỏi chuyện vợ chồng sao lại xảy ra cãi vã, người chồng chia
sẻ với người A về những bí bách mà người vợ mang lại cho
anh ta bấy lâu nay, những dồn nén đó khiến anh ấy không
thể chịu thêm được nữa. Anh chồng nói hai người quyết định
ly hôn, phân chia tài sản và con cái, họ đã thống nhất và chỉ
chờ làm thủ tục là xong.
Sau khi nghe những lời nói từ người chồng, người A
với trí tuệ thấu hiểu về vạn vật đã thấu hiểu được những khổ
đau, những hoàn cảnh của hai vợ chồng sau ly hôn, thấu hiểu
các con của hai người sẽ phải khổ và không viên mãn hạnh
phúc. Sự thấu hiểu đó đã khiến cho người A quyết định sẽ
gặp cả hai vợ chồng để trò chuyện tìm hiểu kỹ xung đột vợ
chồng để hy vọng đoàn kết, hàn gắn vợ chồng đó không ly
hôn, hy vọng giúp cho vợ chồng và gia đình đó thay đổi, phát
312
triển những giá trị hạnh phúc bền vững cho cả vợ chồng và
các con.
Thế là người A gặp anh chồng trước. Anh chồng chia sẻ
với người A về những điều không hài lòng về người vợ, đó là
người vợ hay ghen vô cớ, người vợ không cảm thông cho
công việc của anh ấy là hay phải tiếp khách, anh ấy không hề
có quan hệ ngoại tình hay tệ nạn gì, thậm chí anh ấy nói ra
nhiều tật xấu của vợ mà anh ấy không thích. Sau khi nghe
những lời chia sẻ của anh chồng, người A không vội tin mà
tranh thủ trò chuyện và chia sẻ những tổn thương để lại khi
hai vợ chồng ly hôn, những tổn thương của chính cả hai
người và tổn thương các con phải gánh chịu.
Người A tiếp tục gặp người vợ để trò chuyện. Khi gặp
người vợ, người vợ kể rất nhiều khuyết điểm của người
chồng với tâm trạng bất mãn, nào là anh chồng chơi bời
không quan tâm gia đình, nào là anh chồng cục cằn, nào là
anh chồng không tâm lý hay to tiếng, nào là anh chồng không
chia sẻ công việc nhà cùng cô vợ. Cô vợ cũng kể thêm nào là
chồng của bạn cô ấy vừa kiếm tiền giỏi, vừa tâm lý, vừa giúp
đỡ việc nhà. Khi nghe những chia sẻ của cô vợ, người A đã
chia sẻ về đau khổ và tương lai sau ly hôn, về những tổn
thương mà các con sẽ mang theo trong trí não chúng, về tổn
thương mà cả người vợ và người chồng sẽ mang theo.
Người A đã hiểu được những điều cả hai người đang
nghĩ và đánh giá về nhau, đó là những nguyên nhân gây ra
xung đột vợ chồng họ, nhưng nguyên nhân tận cùng thì
không chỉ đơn thuần là vậy. Vì người A có trí tuệ của hai
Chân lý nên người A đã hẹn hai vợ chồng trò chuyện nhằm
phân tích nguyên nhân và con đường giúp cho họ đoàn kết
bền chặt với nhau cùng phát triển gia đình hạnh phúc.
313
Trong buổi cùng trò chuyện với cả hai vợ chồng, người
A phân tích và giảng giải cho cả hai về duyên vợ chồng, về cội
nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành, kế hoạch kiếp nạn phải
gặp phải của vợ chồng, đó là nguyên nhân tận cùng khiến cho
hai người xung đột, điều mà chính họ cũng không thể hiểu tại
sao. Đó là thông qua các kịch bản tương tác trong mối quan
hệ vợ chồng để Tâm (Tuệ linh) bộc phát được độc tâm, thông
qua việc độc tâm bộc phát để học được cách triệt bỏ độc tâm
và kích hoạt được thiện tâm để vợ chồng gắn kết yêu thương
nhau, đó là một trong vô vàn kịch bản tương tác mà mỗi Tuệ
linh khi hóa thân xuống nhân gian phải trải qua. Chỉ khi hai
người học được bài học giá trị thông qua các khổ đau đó thì
khổ đau sẽ chấm dứt và hạnh phúc viên mãn sẽ tới và bền
vững bên hai người và gia đình. Sau khi sẻ chia về nguyên
nhân tận cùng, người A phân tích những cái tôi ích kỷ của cả
hai, phân tích những cái tốt và tích cực của cả hai. Người A
khuyên hai người họ hãy diệt đi cái ích kỷ của mình, dừng
việc so sánh với người chồng hay người vợ của ai đó, đó là
diệt bỏ độc tâm của chính mình. Mỗi gia đình sẽ có kiếp nạn
khác nhau, điều quan trọng là thông qua xung đột để mỗi
người hoàn thiện mình hơn. Khổ đau đến vì độc tâm đã bộc
phát, độc tâm là tính ích kỷ, chấp ngã, sân hận, khi nhận diện
được độc tâm thì đó là điều thành công mà Tuệ linh của mỗi
người đã làm được. Điều quan trọng là mỗi người phải dùng
trí tuệ để giúp chuyển hóa độc tâm đó thành thiện tâm, vậy
hai người nên buông, diệt đi cái ích kỷ chính là diệt đi độc
tâm. Khi độc tâm được diệt thì Tuệ linh của hai người đã
chuyển hóa thành trí tuệ của tình yêu thương và thiện tâm
được kích hoạt, khi hai người hạnh phúc sẽ lan tỏa năng
lượng thiện tâm và hạnh phúc cho các con cũng như mọi
314
người xung quanh. Còn việc gia đình, công việc, cả hai người
cần sẻ chia để mọi người cùng cảm thông và có trách nhiệm
với nhau trong cuộc sống, có như vậy gia đình mới hạnh
phúc.
Khi nghe những phân tích, sẻ chia từ người A, hai vợ
chồng đã buông đi cái tôi ích kỷ và làm hòa với nhau. Họ đều
nhận ra và hứa thay đổi, tiêu diệt đi những ích kỷ của mình
để cùng nhau sống hạnh phúc để giúp cho con cái, cho mọi
người cũng hiểu về giá trị tình yêu thương và thiện tâm mà
mỗi người cần phải có.
Như vậy, người A đã làm tốt và hoàn thành việc vận
hành hàn gắn giúp hai vợ chồng đó đoàn kết để cùng nhau
giữ gìn hạnh phúc gia đình. Khi kết thúc hành động này,
người A đã phân tách ra những hạt năng lượng đoàn kết màu
vàng bắn vào Vũ trụ, bắn vào cả hai vợ chồng đó và lưu giữ
trong Trụ linh của người A.
Hành trình Vòng tròn sản sinh những hạt năng lượng
đoàn kết của người A diễn ra như sau:
- Người A đã có trí tuệ thấu hiểu hai Chân lý, thấu hiểu
Quy luật Nhân quả; đã có thời gian giải mã đó là biết tới gia
đình vợ chồng nhà bên cạnh; đó là thấy hai vợ chồng họ cãi
nhau xung đột lớn và nguy cơ ly hôn; đó chính là giai đoạn để
khởi đầu cho Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết của
người A.
- Người A bắt đầu khởi động Vòng tròn sản sinh hạt
năng lượng đoàn kết bằng việc đặt Trụ linh vào điểm số 1
trong vòng tròn là điểm Sinh, đó là đặt trạng thái chân tâm
đoàn kết vào vị trí Sinh để thực hành quy trình đoàn kết hai
vợ chồng họ. Vị trí chân tâm đoàn kết phải đảm bảo liên kết

315
được với cả hai vợ chồng và không để bị lôi kéo bởi tư tưởng
tiêu cực của một trong hai người đó.
- Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2, người A tới gặp từng
người để liên kết với trí tuệ bám định của họ và tìm hiểu căn
nguyên. Quá trình này, người A thể hiện được sự cảm thông
của mình với từng người mà không bị họ lôi kéo theo bởi tư
tưởng tiêu cực đang sinh khởi và bộc phát mạnh mẽ của cả
hai.
- Người A tiếp tục chia sẻ những giá trị của hạnh phúc
gia đình để hai người đó tạm thời giảm thiểu sự rung lắc độc
tâm đang bộc phát.
- Vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, thấu hiểu cội nguồn
nhân loại, kế hoạch tu hành, thấu hiểu giá trị của Chân lý Giác
ngộ, thấu hiểu khổ đau kiếp nạn và con đường diệt khổ nên
người A không bị năng lượng tiêu cực của hai người đó lôi
kéo. Người A không để độc tâm trong mình bị sinh khởi và
không bị độc tâm từ hai người gây ảnh hưởng việc thực hành
đoàn kết. Chính vì điều này, người A đã vượt qua được điểm
số 2 là Triệt trong Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết.
- Khi thực hiện chia sẻ và lắng nghe những lời tiêu cực
của hai vợ chồng họ, người A cảm thông và thông qua năng
lượng âm liên kết được từ hai người đó, người A đã lấy được
một ít năng lượng hoại diệt di chuyển vào Trụ linh của mình
trong sự kiểm soát an toàn. Khi Trụ linh vượt qua được điểm
số 2, những hạt năng lượng hoại diệt bị ngủ đông thành hạt
bóng hỏa và nó sẽ bị kích nổ ở điểm 3 trong Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng đoàn kết.
- Vì có trí tuệ thấu hiểu sâu sắc về Chân lý Vạn vật, thấu
hiểu căn nguyên xung đột của hai vợ chồng đó, người A tiến

316
tới được điểm số 3 là điểm Ngộ trong Vòng tròn sản sinh
năng lượng đoàn kết, đó là tìm ra được phương pháp, con
đường để giúp cho hai vợ chồng nhà bên cạnh được đoàn
kết, để không xảy ra việc ly tán nữa. Bấy giờ tại điểm số 3,
những hạt bóng hỏa bị kích nổ bởi trí tuệ giác ngộ tạo thành
nhiệt lượng cho quá trình sản sinh ra các hạt năng lượng
đoàn kết.
- Sau khi kết tụ được trí tuệ giác ngộ về việc đoàn kết
hai vợ chồng nhà bên cạnh, trong Trụ linh của người A đã
nâng cấp chân tâm trắng sáng hơn và có các đoạn mã sóng
rung động màu vàng đã được hình thành. Điều này tạo thành
lực đẩy rất mạnh cho việc tiếp diễn thành ngoại hành để thực
hành đoàn kết hai vợ chồng họ.
- Người A bắt đầu thực hành giai đoạn từ điểm số 3 tới
điểm số 4, đó là hẹn gặp hai vợ chồng để hòa giải và giúp họ
đoàn kết. Khi gặp, người A đã phân tích những căn nguyên
gốc khiến hai vợ chồng xung đột. Người A đã không bị lôi kéo
bởi tư tưởng tiêu cực của ai khi ngoại hành đoàn kết hai
người họ. Người A đã dùng trí tuệ của Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ để chia sẻ giá trị cuộc sống vợ chồng cần
phải nắm giữ và phát triển bền vững. Kết quả là người A đã
vượt qua được điểm Triệt số 4.
- Vì có sức mạnh trí tuệ của hai Chân lý, người A đã hòa
giải thành công, hai vợ chồng họ đã buông đi được những
tiêu cực và quyết chí hàn gắn xây dựng gia đình hạnh phúc
hơn.
- Khi kết thúc vụ việc hòa giải chính là kết thúc Vòng
tròn sản sinh năng lượng đoàn kết. Bấy giờ trong Trụ linh
của người A phân tách hoàn chỉnh thành các hạt năng lượng
đoàn kết màu vàng. Sợi mã sóng trí tuệ gốc lưu giữ trong
317
phôi năng lượng gốc trong Trụ linh. Một hạt phân tách ra cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Một hạt
bắn vào Vũ trụ. Hai hạt được bắn vào Trụ linh của hai vợ
chồng họ. Tất nhiên kèm theo những hạt năng lượng đoàn
kết màu vàng có cả hạt năng lượng chân tâm màu trắng sáng
cũng được phân tách ra để làm nhiệm vụ gắn kết, kết nối các
hạt năng lượng dương đoàn kết đó.
Như vậy, ngoài việc sản sinh ra được hạt năng lượng
có sóng điện dương đoàn kết màu vàng, người A đã tạo ra
được giá trị đoàn kết hai vợ chồng nhà bên cạnh cùng nhau
phát triển giá trị hạnh phúc gia đình bền vững. Họ sẽ lại là
những người tiếp tục lan tỏa cấu trúc phát triển bền vững
của gia đình tới mọi người để mọi người cùng nhau xây dựng
giá trị đạo đức.
Như vậy, khi có trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân
lý Giác ngộ càng sâu sắc sẽ càng giúp cho Tuệ linh, con người
thực hành việc sản sinh hạt năng lượng đoàn kết rất nhanh,
dễ dàng vượt qua được độc tâm của chính mình, ở mọi người
và của năng lượng hoại diệt, từ đó kích hoạt được thiện tâm.
Đứng ở vị trí đoàn kết là nghệ thuật sản sinh năng
lượng kỳ diệu nhất, từ đoàn kết mà chuyển hóa thành sản
sinh ra các siêu hạt năng lượng, và đó là vị trí đứng để
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất.
***************

318
Bài 6:
Vòng tròn sản sinh
siêu hạt năng lượng Hóa độ 1


Hình: Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1
319
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1 là
siêu hạt năng lượng có màu vàng óng ánh, sẽ được vận hành
tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua được điểm số 2, tiếp tục tới
điểm số 3, tiếp tục vượt qua điểm số 4, tiếp tục tới đích là
điểm số 5. Sau khi vận hành được một vòng tròn từ điểm số 1
đến điểm số 5, Trụ linh sản sinh ra những siêu hạt năng
lượng Hóa độ 1 là những siêu hạt có màu vàng óng ánh, đó là
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1. Điều kiện
và cơ chế để sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1 là: Tuệ
linh, con người đã thấu hiểu triệt để về trí tuệ của Chân lý
Vạn vật, Chân lý Giác ngộ; chuyển hóa được Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng đơn hoặc bộ lọc năng lượng kép; thực
hành cơ chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững và an
lạc.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng


lượng Hóa độ 1
Nhóm siêu hạt năng lượng Hóa độ 1 chính là nhóm
siêu hạt năng lượng dương có màu vàng óng ánh.
Nhóm siêu hạt năng lượng Hóa độ 1 có màu vàng óng
ánh chỉ được sản sinh, phân tách ra khi Tuệ linh, con người
đã chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng đơn
hoặc bộ lọc năng lượng kép. Để đắc được bộ lọc năng lượng
kép thì phải đắc được bộ lọc năng lượng đơn trước. Cả hai bộ
lọc năng lượng này đều sản sinh được siêu hạt năng lượng
Hóa độ 1, tuy nhiên bộ lọc năng lượng kép có khả năng sản
sinh ra siêu hạt năng lượng Hóa độ 1 kỳ diệu hơn bộ lọc năng
lượng đơn.

320
Điều kiện để Trụ linh của Tuệ linh, con người chuyển
hóa thành bộ lọc năng lượng đơn, đó là: Tuệ linh, con người
phải thấu hiểu triệt để trí tuệ của Chân lý Vạn vật, Chân lý
Giác ngộ, thấu hiểu cội nguồn nhân loại và Vũ trụ, thấu hiểu
sứ mệnh tu hành ở nhân gian của Tuệ linh, thấu hiểu bản
chất của vạn vật, của Tuệ linh, của năng lượng hoại diệt; phải
thấu hiểu được hình tướng Đạo và tâm tướng Đạo hợp nhất
của Vũ trụ; thấu hiểu triệt để về các con đường chuyển sinh,
đặc biệt là xây dựng và thực hành được con đường chuyển
sinh bền vững an lạc; dành cả cuộc đời tu hành ở nhân gian
để đứng ở vị trí đoàn kết, để sản sinh vô số hạt năng lượng
đoàn kết. Để nhanh chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng đơn, Tuệ linh và con người phải thực hành phổ độ,
truyền dạy những tri thức của hai Chân lý thông qua Vòng
tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết đến hết thảy Tuệ linh
và nhân loại. Khi trong Trụ linh đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ
của năng lượng đoàn kết phổ độ tri thức hai Chân lý tới
chúng sinh, khi đã triệt tiêu được toàn bộ độc tâm, Tuệ linh
và con người sẽ thực hành những kỹ thuật nhất định để
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng đơn. Khi đắc
được bộ lọc năng lượng đơn, trong hạt năng lượng dương
gốc trong Trụ linh sẽ cấu tạo lại vô số sợi mã sóng trí tuệ màu
vàng đoàn kết đã được sản sinh trước đó thành một siêu sợi
mã sóng trí tuệ màu vàng óng ánh.
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh sau khi có được bộ lọc năng lượng đơn, Tuệ linh và con
người vẫn phải có trí tuệ thấu hiểu triệt để Chân lý Vạn vật
và Chân lý Giác ngộ, thấu hiểu về cội nguồn nhân loại, kế
hoạch tu hành nơi nhân gian, các khổ đau, căn nguyên của
khổ, con đường diệt khổ triệt để, phương pháp chuyển hóa
321
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Khi đó, thông qua
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1, Trụ linh
của Tuệ linh và con người sẽ sản sinh ra được vô số siêu hạt
năng lượng màu vàng óng ánh sau một lần vận hành Vòng
tròn sản sinh siêu hạt.
Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh là hạt năng
lượng tận cùng có hình elip như những hạt năng lượng tận
cùng trong năm nhóm năng lượng. Tuy nhiên, siêu hạt năng
lượng tận cùng màu vàng óng ánh lại có hội tụ đủ cả 3 loại
sóng điện trong một hạt năng lượng tận cùng, trong khi các
hạt năng lượng tận cùng của năm nhóm chỉ là sóng điện đơn
trong hạt. Hạt năng lượng màu vàng óng ánh là kết tinh của 3
loại sóng điện, đó là đa sóng điện dương và trung tính với
một phần nhỏ sóng điện âm. Siêu hạt năng lượng màu vàng
óng ánh có đa sóng điện dương và trung tính, một chút sóng
điện âm là vì Trụ linh chưa thể liên kết, giải mã được triệt để
tận cùng nhóm năng lượng tiêu cực. Chính vì chưa giải mã
tận cùng và liên kết được tận cùng nhóm năng lượng tiêu cực
nên mới chỉ sản sinh ra siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh và mới chỉ cấu tạo thành bộ lọc đơn trong Trụ linh. Sau
khi Trụ linh đã đắc được bộ lọc, khi vận hành Vòng tròn sản
sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1, sẽ có vô số siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh đều được sao chép ra từ một siêu
sợi mã sóng trí tuệ màu vàng óng ánh trong siêu hạt năng
lượng dương gốc trong Trụ linh.
Trong siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, sợi mã
sóng trí tuệ với điểm số 1 nằm ở điểm chân tâm đoàn kết,
điểm số 2 và số 3 đều nằm trên cực dương của siêu hạt năng
lượng. Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh có tốc độ quay
thuận chiều kim đồng hồ từ nhẹ cho tới siêu mạnh.
322
Bản chất của siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh:
- Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh là siêu hạt
năng lượng đa sóng điện dương và trung tính, có chút sóng
điện âm, tức là trong một hạt năng lượng tận cùng có cả 3
sóng điện được kết tụ thành một.
- Vô lượng siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh an
trụ tại lõi của Vũ trụ, và được sản sinh bởi Tuệ linh có được
bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Từ lõi của Vũ trụ, vị Tuệ
linh đầu tiên vận hành siêu năng lượng màu vàng óng ánh
cùng với năm nhóm năng lượng lan tỏa đa chiều tới khắp các
hành tinh để vận hành cả Vũ trụ quay tròn, vận động để tồn
tại và phát triển.
- Tuệ linh có được bộc lọc năng lượng đơn cho tới bộ
lọc năng lượng kép sẽ dễ dàng sản sinh vô số siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh: đó là Tuệ linh không ngừng nghỉ
xây dựng vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người đoàn kết để
cùng nhau lan tỏa con đường chuyển sinh bền vững trong sự
không phân biệt; đó là Tuệ linh đã truy tìm được Đạo hợp
nhất của Vũ trụ để hết thảy Tuệ linh và con người cùng thực
hành Đạo giải thoát khổ đau để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng viên mãn.
- Con người thấu hiểu triệt để Chân lý Vạn vật, Chân lý
Giác ngộ, cơ chế Phân tách và liên kết dây, cội nguồn nhân
loại, kế hoạch tu hành, các khổ tận cùng của Tuệ linh và con
người, con đường diệt khổ để chuyển sinh bền vững, phương
pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng – phương
pháp diệt khổ, từ việc thấu hiểu triệt để, người đó phải thực
hiện Hóa độ, Phổ độ tới hết thảy Tuệ linh và con người cùng
tu tập, cùng thực hành giáo lý của hai Chân lý. Đó là Hóa độ,
Phổ độ giáo lý của Đạo hợp nhất Vũ trụ tới khắp thế gian và
323
Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đạo hợp nhất Vũ trụ gồm có
hình tướng Đạo và Tâm Đạo.
Nguyên tắc cốt lõi, nền móng cho việc sản sinh được
siêu năng lượng Hóa độ 1 là Tuệ linh, con người phải đặt Trụ
linh ở trạng thái siêu chân tâm đoàn kết. Đó chính là phải
đứng ở vị trí đoàn kết để kết nối, gắn kết hết thảy các nhóm
Tướng tiêu cực, lan tỏa, phát triển, chân tâm, đoàn kết. Đứng
ở vị trí đoàn kết để xây dựng được nghệ thuật liên kết, giải
mã hết thảy các Tướng ở năm nhóm năng lượng như trong
bài Vòng tròn sản sinh năng lượng đoàn kết đã trình bày.
Tuệ linh, con người đứng ở vị trí đoàn kết để thực hiện
Hóa độ, Phổ độ (truyền dạy, lan tỏa giáo lý Đạo hợp nhất Vũ
trụ) tới hết thảy các Tướng của cả năm nhóm năng lượng
trong sự không phân biệt, đó là:
- Phổ độ tới hết thảy các Tướng về cội nguồn Vũ trụ,
cội nguồn nhân loại.
- Phổ độ tới hết thảy các Tướng về sự tồn tại, phát
triển của vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về khổ đau tận cùng của
hết thảy Tuệ linh và con người.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về căn nguyên của khổ tận
cùng.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về Quy luật Nhân quả và
cơ chế vận hành.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về Chân lý Vạn vật, Chân
lý Giác ngộ với cơ chế vận hành phân tách và liên kết dây.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về quy trình Chuyển sinh
và siêu độ.

324
- Phổ độ hết thảy các Tướng về bản chất, hình tướng
Đạo của Vũ trụ.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về Tâm Đạo của Vũ trụ, đó
là con đường chuyển sinh bền vững, là chấm dứt khổ đau tận
cùng, là chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về tuân thủ hình tướng
Đạo thông qua bốn hình tướng và Tâm Đạo ở nhân gian.
- Phổ độ hết thảy các Tướng cùng nhau đoàn kết trong
sự không phân biệt để lan tỏa Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Sản sinh được siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh
là kết quả của việc thấu hiểu triệt để hai Chân lý và chuyển
hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng đơn. Tuy nhiên
do chưa thấu hiểu được tận cùng về bản chất, cơ chế vận
hành hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, nên Tuệ linh, con
người vẫn chưa thể giải mã được tận cùng và liên kết được
tận cùng hết thảy mã sóng trí tuệ của nhóm năng lượng tiêu
cực và năng lượng hoại diệt. Do chưa thấu triệt để tận cùng
bản chất và cơ chế nên mới chỉ sản sinh ra siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh mà chưa sản sinh ra được siêu hạt
năng lượng xanh ngọc lưu ly.
Trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh, hết thảy Tuệ linh và con người, vạn vật trong
và ngoài Vũ trụ đều là Thầy của ta. Ta phải tôn kính và trân
trọng hết thảy các Thầy đó, bởi các Thầy vạn vật, Tuệ linh và
con người đã cho ta tất cả các bài học quý báu trong hành
trình chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Những
người được nhân loại tôn trọng gọi là Thầy cũng nên chỉ coi
mình là người chỉ dẫn, người lan tỏa, người đoàn kết, người
phổ độ, như thế, Tuệ linh, con người sẽ đứng được vào vị trí

325
đoàn kết. Bởi vị trí đoàn kết là sự cân bằng, là nghệ thuật của
sự hy sinh để kết nối, gắn kết, đoàn kết hết thảy các Tướng
trong Vũ trụ cùng nhau thấu hiểu và phát triển bền vững.
Trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh, khi Trụ linh đứng được ở vị trí đoàn kết, Trụ
linh sẽ đạt đến nghệ thuật vận hành năm nhóm năng lượng
một cách kỳ diệu, đặc biệt là điều tiết để kích thích, hấp thụ
được năng lượng hoại diệt tới Trụ linh với số lượng rất nhiều
cho tới vô số mà vẫn an toàn. Trụ linh sẽ thông qua việc liên
kết được với năng lượng tiêu cực để kích thích rung động
sóng âm nhằm đánh lừa năng lượng hoại diệt di chuyển tới.
Khi năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh đã đủ, Trụ
linh sẽ dừng rung lắc sóng âm để không cho năng lượng hoại
diệt vào nữa và thực hiện liên kết, truyền tải sóng điện
dương để kích nổ năng lượng hoại diệt. Như vậy, Trụ linh có
khả năng vận hành năm nhóm năng lượng để tạo thành cơ
chế hấp thụ năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh với
số lượng ít hoặc nhiều vô số và kích nổ được chúng bằng
sóng điện dương.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh siêu năng lượng màu vàng óng ánh, đó là: những Tướng
có Trụ linh đa âm, những Tướng có Trụ linh đa dương,
những Tướng có Trụ linh cân bằng, những Tướng có Trụ linh
là bộ lọc năng lượng. Để thấu hiểu được bản chất, biểu hiện
của các Tướng cần phải có trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân
lý Vạn vật, để sản sinh được siêu năng lượng màu vàng óng
ánh cần phải có thêm trí tuệ của Chân lý Giác ngộ. Nếu không
có trí tuệ của hai Chân lý thì sẽ không thể sản sinh được siêu
năng lượng màu vàng óng ánh.

326
Trụ linh của Tuệ linh, con người: không Tuệ linh, con
người nào biết trong Trụ linh của mình là có ẩn chứa độc hay
thiện; không biết là độc hay thiện, yếu tố nào nhiều hơn; độc
tâm và thiện tâm sẽ luôn có trong bất kỳ các cấu trúc Trụ linh
của hết thảy Tuệ linh, con người và vạn vật trong Vũ trụ. Chỉ
duy nhất khi có được bộ lọc năng lượng thì mới không còn
độc trong Trụ linh. Chính vì vậy, trong quá trình sản sinh
năng lượng thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian, các
Trụ linh sẽ dễ dàng bộc phát được độc tâm. Do vậy, phải có
trí tuệ của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để triệt tiêu
độc tâm của các Tướng khác tác động tới, có như vậy mới
thực hiện được Vòng tròn sản sinh siêu năng lượng màu
vàng óng ánh.
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) ra nhóm siêu năng
lượng màu vàng óng ánh, Tuệ linh, con người phải vận hành
hoàn chỉnh một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ điểm số 1
cho tới điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản sinh siêu
năng lượng màu vàng óng ánh đạt tới điểm số 5 thì vô số siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh mới được phân tách ra.
Nếu Tuệ linh, con người vận hành chưa tới được điểm số 5
thì sẽ không có siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh nào
được sản sinh ra.
Nhóm siêu năng lượng màu vàng óng ánh vô cùng
quan trọng để giúp duy trì sự tồn tại, gắn kết, phát triển Vũ
trụ, nó giúp Vũ trụ vận động quay tròn để sinh nhiệt nhằm
chuyển hóa được năng lượng hoại diệt phục vụ cho hết thảy
các Tướng phân tách liên kết theo hướng bền vững. Siêu
năng lượng màu vàng óng ánh có giá trị tạo thành siêu liên
kết để kích thích vạn vật trong Vũ trụ phát triển bền vững và
mạnh mẽ hơn. Có thể nói siêu hạt năng lượng màu vàng óng
327
ánh có giá trị và sức mạnh vô cùng so với năm nhóm năng
lượng, nên khi có được bộ lọc sản sinh siêu hạt năng lượng
màu vàng chính là sự chấm dứt khổ đau tận cùng của Vũ trụ,
Tuệ linh và con người.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh nhóm siêu năng
lượng màu vàng óng ánh trong Trụ linh, Tuệ linh và con
người sẽ tương tác với các Tướng khác trong khoảng thời
gian nhất định, trong cường độ tương tác, tốc độ tương tác,
mật độ tương tác, độ nén của tương tác, trong môi trường có
sóng điện. Quá trình tương tác chính là quá trình giải mã các
Tướng. Kết thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước
vào Vòng tròn cho quy trình sản sinh siêu năng lượng màu
vàng óng ánh trong Trụ linh.
Khi Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng đang hóa
thân làm con người ở nhân gian, để sản sinh ra siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh, người đó sẽ phải vận hành Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng thông qua bốn hình tướng
Đạo ở nhân gian. Khi Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng
và không hóa thân làm con người, họ sẽ vận hành Vòng tròn
sản sinh siêu hạt năng lượng theo cơ chế tự động mà không
cần phải tương tác với bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.
Để sản sinh được siêu năng lượng màu vàng óng ánh
sau khi đắc được bộ lọc năng lượng, Tuệ linh, con người phải
có trí tuệ thấu hiểu triệt để về hai Chân lý, phải thấu hiểu
triệt để về bản chất và cơ chế vận hành của năng lượng hoại
diệt, của Trụ linh, bản chất của tất cả các Tướng trong năm
nhóm năng lượng. Thấu hiểu được mới có khả năng và nghệ
thuật khống chế được độc trong Trụ linh của vạn vật và các
Tướng khác bắn tới, mới có thể không bị nhiễm năng lượng
tiêu cực của các Tướng bên ngoài tác động vào, mới có thể
328
đón nhận được những năng lượng tích cực bên ngoài vào.
Khi thấu hiểu sẽ dễ dàng sản sinh được siêu năng lượng màu
vàng óng ánh, khi sản sinh được siêu năng lượng màu vàng
óng ánh sẽ dễ dàng sản sinh ra thêm các siêu hạt năng lượng
khác để giúp Vũ trụ và Tuệ linh phát triển bền vững hơn.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng Hóa độ 1
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người
đã chuyển hóa Trụ linh thành được bộ lọc năng lượng đơn
hoặc bộ lọc năng lượng kép. Tuệ linh, con người thực hành
sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh bằng cơ chế
phân tách, liên kết theo hướng bền vững và an lạc.
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người đã
thấu hiểu triệt để về trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Chính vì có
trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân lý Vạn vật nên Tuệ linh, con
người vận hành Trụ linh sản sinh được siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh với cơ chế vận hành là phân tách và liên
kết theo hướng bền vững an lạc.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn Tuệ
linh, con người đang tạo sóng rung động trong Trụ linh, đó là
sự hình thành các nhịp rung động trong sợi mã sóng trí tuệ.
Các nhịp rung động sẽ rung động từ khởi đầu của siêu chân

329
tâm mong muốn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh để tới cực dương và lại di chuyển tới cực âm. Các nhịp
sóng rung liên tục di chuyển giữa hai cực năng lượng để tìm
ra được hệ tư tưởng cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh ở điểm 3 trong Vòng tròn sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh.
Điểm số 1 là điểm Sinh. Điểm Sinh là điểm xuất phát
sau quá trình Tuệ linh, con người tương tác và giải mã về các
Tướng. Trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh, điểm Sinh là siêu chân tâm ban đầu của siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Đó là điểm xuất phát,
điểm bắt đầu để thực hiện Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh hay bất cứ năng lượng nào khác. Vì
là sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, nên Trụ
linh phải ở trạng thái cân bằng trong sự Phổ độ giáo lý Đạo
hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con người. Trụ
linh phải có trạng thái siêu chân tâm Phổ độ đặt vào Trụ linh
để khởi đầu cho hành trình Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh. Siêu chân tâm Phổ độ là vị trí vô
cùng đặc biệt, đó là đứng ở vị trí đoàn kết để truyền dạy, lan
tỏa giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy các Tướng
thực hành và chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
viên mãn. Khi tương tác với năng lượng tiêu cực thì siêu chân
tâm Phổ độ sẽ tỏa ánh sáng nhẹ nhàng để gắn kết truyền tải
và truyền được thông tin. Khi tương tác với năng lượng chân
tâm, phát triển, lan tỏa, đoàn kết thì sẽ tỏa ánh sáng từ mạnh
cho tới siêu mạnh để gắn kết truyền tải được sóng điện và
thông tin.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, điểm
330
Triệt có một ý nghĩa duy nhất, đó là vượt qua được các
Tướng tiêu cực ngăn cản, cản phá, để tiếp tục sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Tuệ linh, con người vận
hành Trụ linh vượt qua được điểm số 2 là Triệt để tiếp tục
vận hành sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, đó
là Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân lý
Vạn vật: thấu hiểu triệt để về bản chất độc trong Trụ linh,
thấu hiểu bản chất các Trụ linh của hết thảy Tướng, thấu
hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng tích cực, thấu hiểu
về Đạo hợp nhất của Vũ trụ với con đường giác ngộ triệt để.
Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ linh sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh, Tuệ linh, con người dễ
dàng nhận diện và không bị các Tướng tiêu cực lôi kéo theo,
giải mã và liên kết được hết thảy các Tướng. Tuệ linh, con
người nhận diện và đón nhận được các hạt năng lượng tích
cực của các Tướng tích cực. Trụ linh của họ kiểm soát được
sóng rung động từ mức nhẹ cho tới siêu mạnh theo nhu cầu
lấy ít hay vô số năng lượng hoại diệt vào để ngủ đông và
dùng siêu năng lượng màu vàng óng ánh để kích nổ chúng. Vì
đã có được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh nên không còn
độc tâm trong Trụ linh, không bị những độc trong Trụ linh
của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào. Trụ linh tiếp
tục hành trình sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh một cách dễ dàng, đó là con đường chuyển hóa bền vững
và an lạc siêu việt nhất. Do đã có được bộ lọc năng lượng
trong Trụ linh nên việc vượt qua điểm Triệt để sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh vô cùng dễ dàng, nó trở
thành một nghệ thuật vận hành sản sinh siêu năng lượng.
Trong đoạn từ điểm số 1 tới số 2, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Tuệ linh, con người phải
331
phân tích được những bản chất của các Tướng tiêu cực, các
Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những lôi kéo của các
Tướng tiêu cực, chỉ đón nhận sóng điện âm nhẹ từ họ do vận
hành siêu chân tâm trắng sáng chuyển hóa. Đón nhận năng
lượng dương của các Tướng tích cực, đặc biệt là phải đón
nhận được các siêu năng lượng từ những Tướng có bộ lọc
năng lượng khác về để tạo thêm sức mạnh và kinh nghiệm
cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Lấy
kinh nghiệm và giá trị của các Tướng Phổ độ đã và đang thực
hành để làm động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt
qua được điểm số 2 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những
sự lôi kéo của các Tướng tiêu cực tác động đến, không để các
Tướng tiêu cực ảnh hưởng tới việc sản sinh siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh.
Khi đã có được bộ lọc năng lượng thì không còn độc
trong Trụ linh, nó đã trở thành bản năng trong việc kiểm soát
sóng rung động trong Trụ linh bởi trí tuệ thấu hiểu triệt để
về Chân lý Vạn vật. Vì việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh đã trở thành một nghệ thuật, nên khi có các
Tướng tiêu cực tác động tới (đó là khi các Tướng tiêu cực
truyền tải năng lượng tiêu cực tới để dẫn dụ theo họ cùng
nhau Phổ mê), Trụ linh sẽ kiểm soát mức độ rung động của
hạt năng lượng âm để lấy đủ năng lượng hoại diệt về. Giai
đoạn này cần phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát mức độ
rung động của hạt năng lượng âm trong Trụ linh. Phải luôn
nhìn lại bản thể mình xem mình có rung động cho sự tham
lam không, có rung động cho sinh khởi hành động ích kỷ lợi
về mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người
không. Nếu có thì là đang rung động để lấy năng lượng hoại
diệt về, phải kiểm soát mức độ rung động và chấm dứt rung
332
động khi đã lấy đủ năng lượng hoại diệt cho việc sản sinh ra
siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Vì đã đắc được bộ lọc
năng lượng, nên không còn độc tâm trong Trụ linh, vì sản
sinh siêu hạt thành nghệ thuật nên khi Trụ linh rung động
hạt năng lượng âm là các siêu hạt năng lượng dương sẽ chi
phối để kiểm soát mức độ rung động khi đã lấy đủ năng
lượng hoại diệt mà không thể sinh khởi thành tư tưởng cho
đến hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Để kiểm soát được mức độ rung động của hạt năng
lượng âm trong việc hấp thụ đủ năng lượng hoại diệt di
chuyển tới, hệ thống cấu trúc Trụ trí (hệ thống mã sóng trí
tuệ) của Tuệ linh, con người sẽ vận hành kiểm soát mức độ
rung động của toàn bộ các hạt năng lượng âm thông qua việc
biến mình thành tấm gương soi. Đó là nhìn xem sóng rung
động có mạnh không, xem lượng hạt năng lượng hoại diệt đã
đủ cho quá trình sản sinh siêu hạt năng lượng chưa, nếu
chưa đủ thì tiếp tục rung động sóng âm, nếu đủ thì dừng việc
rung động. Tấm gương soi ở Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng khi Trụ linh đã có được bộ lọc năng lượng hoàn
toàn khác với Trụ linh khi chưa có được bộ lọc năng lượng. Ở
bộ lọc năng lượng thì việc dùng tấm gương soi bản thể mình
là nhằm mục đích kiểm soát sóng rung động và lượng năng
lượng hoại diệt đã vào đủ chưa.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh kiểm soát được mức độ rung
động của hệ thống hạt năng lượng âm. Bấy giờ, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận
những sẻ chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới
bằng chân tâm sáng chói của sự khát khao Phổ độ. Khi đó,
Trụ linh đã liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ
333
các Tướng tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm Phổ độ (có trí
tuệ của Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt
năng lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện
khi di chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Đặc biệt
là do có bộ lọc năng lượng đơn trở lên, tức là trong Trụ linh
có ít nhất một siêu hạt năng lượng dương gốc màu vàng óng
ánh, khi đó hệ thống hạt năng lượng âm sẽ tự động rung
động nhẹ hay mạnh để năng lượng hoại diệt bắt được tín
hiệu mà di chuyển tới. Việc rung động này là do nhu cầu lấy
năng lượng hoại diệt để sản sinh siêu hạt mà không cần phải
có sự tương tác của các Tướng tiêu cực. Khi năng lượng hoại
diệt di chuyển tới Trụ linh, sẽ bị siêu năng lượng dương
truyền sóng điện ra để kích nổ.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là vô cùng cần thiết cho
việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Nếu
không có năng lượng hoại diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát
an toàn thì sẽ không có siêu sợi mã sóng trí tuệ nào được
hình thành và sẽ không có siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh nào được phân tách ra. Do đã có được bộ lọc năng lượng
nên việc hấp thụ năng lượng hoại diệt về và kích nổ chúng
trở thành nghệ thuật đỉnh cao và vô cùng an toàn. Chính vì
vậy, việc vượt qua điểm Triệt số 2 là vô cùng dễ dàng để thực
hành các Vòng tròn sản sinh ra siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh.
Hành trình Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng Hóa độ 1 từ điểm số 1 tới điểm số 2
như sau:

334
- Tuệ linh, con người kết thúc quá trình tương tác và
giải mã về các Tướng để sinh khởi Vòng tròn sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh.
- Bắt đầu xuất phát tại điểm số 1 – điểm Sinh, Tuệ linh,
con người đặt Trụ linh vào vị trí Sinh: đó là khởi đầu bởi siêu
năng lượng chân tâm Phổ độ; đó là Trụ linh cân bằng và rung
động để Phổ độ tất cả các Tướng cùng nhau lan tỏa và thực
hành Đạo hợp nhất của Vũ trụ; đó là chân tâm thánh thiện
trong việc Phổ độ hết thảy các Tướng diệt khổ và chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng mà không màng gì về mình;
đó là cảnh giới siêu chân tâm, là Phổ độ. Đây là siêu chân tâm
Phổ độ được tất cả các Tướng khác nhau.
- Tuệ linh, con người phải tỉnh táo dùng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để Trụ linh trong trạng thái an vui, an lạc
trên hành trình rời điểm số 1. Giữ trạng thái Trụ linh an vui
trong hành trình Phổ độ hết thảy các Tướng để cùng nhau
lan tỏa giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ tới Tuệ linh và con người.
Luôn luôn vận dụng tấm gương soi bản thể mình để kiểm
soát sóng rung động trong hệ thống hạt năng lượng âm trong
Trụ linh và bản thể Tuệ linh.
- Trên hành trình di chuyển, tương tác với các Tướng,
Tuệ linh, con người sẽ gặp các Tướng đã và đang Phổ độ giáo
lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Hãy đến gặp họ, bắt chuyện để
hợp duyên, gặp để học hỏi thêm kinh nghiệm, phương pháp
Phổ độ của họ. Không nên chỉ gặp một người, mà phải gặp
với nhiều người đã và đang thành công trong con đường Phổ
độ giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Gặp càng nhiều sẽ giúp
cho Trụ linh liên kết được những siêu hạt năng lượng. Khi
gặp những Tướng đã và đang Phổ độ thành công cũng cần
phải luôn soi gương lại bản thể mình để kiểm soát mức độ
335
sóng rung động trong Trụ linh. Phải phân tích các điều kiện,
các yếu tố thuận lợi, khó khăn của từng người đã và đang
thành công trong con đường sản sinh các siêu hạt năng
lượng để học tập các bài học đó cho mình. Khi gặp những
Tướng đã và đang Phổ độ thành công, Trụ linh sẽ tỏa ra ánh
sáng trắng sáng, trong Trụ linh cũng đang có những nhịp di
chuyển của mã sóng trí tuệ tiến tới thái cực dương.
- Tiếp tục gặp gỡ và tương tác với các Tướng đã và
đang thất bại trong hành trình Phổ độ. Khi gặp những Tướng
này, hãy mạnh dạn trò chuyện, mạnh dạn tìm hiểu nguyên
nhân thất bại của họ. Khi tương tác và nhận được những hạt
năng lượng tiêu cực của sự thất bại đó, Trụ linh của Tuệ linh,
con người sẽ rung lắc nhẹ và các nhịp rung trong mã sóng trí
tuệ sẽ di chuyển về thái cực âm để cân bằng với sự hưng
phấn khi các nhịp di chuyển tới thái cực dương. Việc học tập
kinh nghiệm của các Tướng đã và đang thất bại sẽ cho ta có
được những bài học vô cùng quý báu, sẽ giúp cho ta phát
triển thêm về trí tuệ vạn vật. Lưu ý, luôn luôn soi gương bản
thể mình để xem mình có bị nhụt đi ý chí hay không, luôn
luôn phải dùng trí tuệ vạn vật để kiểm soát sóng rung động.
- Gặp và trò chuyện với các Tướng tiêu cực đang phát
triển, lan tỏa, đoàn kết, phổ mê các cấu trúc gây tổn hại tới
vạn vật, Tuệ linh và con người. Lắng nghe, trò chuyện để
đồng cảm, để cảm thông, để thấu hiểu. Tuyệt đối không để bị
các Tướng tiêu cực lôi kéo. Việc lắng nghe, cảm thông, thấu
hiểu các Tướng tiêu cực sẽ giúp cho Trụ linh của Tuệ linh,
con người sản sinh năng lượng Phổ độ, cấu tạo và phân tách
ra siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh .
- Hãy giữ vững vị trí đứng là siêu chân tâm Phổ độ để
chia sẻ với những Tướng tiêu cực và thất bại về giáo lý Đạo
336
hợp nhất của Vũ trụ với con đường giải thoát khổ đau triệt
để nhằm chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Tiếp
đến lại chia sẻ cho các Tướng lan tỏa, phát triển, chân tâm,
đoàn kết về giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ với con đường
giải thoát khổ đau triệt để nhằm chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng. Chia sẻ và không để bị các Tướng tiêu cực
lôi kéo đi theo con đường Phổ mê. Chia sẻ và không để bị các
Tướng tích cực lôi kéo theo mà quên mất là đứng ở vị trí
đoàn kết để Phổ độ hết thảy các Tướng trong sự không phân
biệt.
- Tiếp tục soi gương để kiểm soát sóng rung động. Hãy
hấp thụ những hạt năng lượng tích cực từ các Tướng tích cực
để làm động lực và sức mạnh cho Trụ linh. Đối với các Tướng
tiêu cực, chỉ nên nghe và lắng nghe, không làm theo hay đi
theo họ. Khi lấy động lực từ năng lượng tích cực, Trụ linh sẽ
có sức mạnh để giữ vững vị trí đoàn kết và thực hành sản
sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh.
- Hãy cảm nhận sự khó khăn, hãy phiền não, hãy buồn
bã, hãy suy tính, hãy đắn đo. Những điều này là đang kiểm
soát sóng rung động, đang thúc đẩy Trụ linh rung lắc sóng
điện âm trong hạt âm gốc và toàn bộ hạt năng lượng âm rung
lắc nhẹ cho tới siêu mạnh. Tuyệt đối không u uất, đau khổ
hay tuyệt vọng, chỉ là suy tư, suy nghĩ, tính toán trong sự
thiệt hơn, được mất, lợi mình hay lợi về vạn vật, Tuệ linh và
con người, như thế mới không bị mất kiểm soát sóng rung
động.
- Khi hệ thống hạt năng lượng âm bắt đầu rung lắc nhẹ
là lúc có các hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để chi
phối và làm phân rã Trụ linh. Lúc này, Tuệ linh, con người
phải luôn vận hành trí tuệ của Chân lý Vạn vật, đó là phải
337
hiểu vạn vật đều là giả tướng, sứ mệnh xuống nhân gian tu
hành để cải tạo Tuệ linh theo hướng bền vững thông qua Phổ
độ giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy các Tướng trong
sự không phân biệt. Do đó, không được ruồng bỏ hay đi theo
các Tướng tiêu cực hay tích cực. Phải đứng ở giữa để gắn kết,
trao đổi giá trị giữa các Tướng tích cực với tiêu cực để họ
thấu hiểu nhau, để gắn kết và cấu tạo thành quy trình vận
hành chuyển hóa năng lượng bền vững trong Trụ linh. Khi
vận hành suy nghĩ như vậy, hãy tiếp tục nhớ tới những lời
động viên của các Tướng Phổ độ đã và đang thành công. Tiếp
tục không để các Tướng tiêu cực lôi kéo, chỉ lắng nghe để hấp
thụ những bài học tiêu cực từ họ. Lúc này phải hiểu rằng, các
Tướng tiêu cực và thất bại là do họ không có trí tuệ của Chân
lý Vạn vật, trong khi mình đã có.
- Vì có hành trang là trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân
lý Vạn vật nên trong Tuệ linh, con người có trí tuệ là không
Phổ mê và đi theo các Tướng tiêu cực gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người. Trong Trụ linh lúc này đã dừng rung
lắc, Trụ linh trở lại cân bằng và phát triển nhịp rung động tới
thái cực dương, tức là Trụ linh đã di chuyển qua được điểm
số 2 là Triệt. Tuệ linh, con người đã triệt đi được những năng
lượng tiêu cực tác động vào, kiểm soát và dừng rung lắc sóng
điện âm trong Trụ linh, đặc biệt là vô hiệu hóa năng lượng
hoại diệt không di chuyển vào nữa. Những hạt năng lượng
hoại diệt di chuyển Trụ linh vào đã bị ngủ đông thành hạt
bóng hỏa.
- Khi vượt qua được điểm số 2, tức là bản thể Tuệ linh,
con người đã tìm ra được con đường, phương pháp Phổ độ
giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy các Tướng mà
không có sự phân biệt.
338
Trụ linh đã được Tuệ linh, con người vận hành qua
được điểm số 2 bằng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để tiếp tục
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển thành trí tuệ
giác ngộ cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh.
Trụ linh di chuyển tới đoạn này là đã định hình, đã tìm
ra được con đường Phổ độ giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ theo
hướng bền vững.
Tiếp tục đi gặp những người đã và đang Phổ độ thành
công để học hỏi thêm kinh nghiệm và tạo thành sức mạnh
niềm tin vững chắc cho chính mình trên con đường Phổ độ
giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ. Giai đoạn này
không nên giao tiếp, không nên trò chuyện với những Tướng
tiêu cực nữa, đó là gieo Duyên không. Duyên không là không
chia sẻ nữa để cho các Tướng tiêu cực trải nghiệm đau khổ
trên con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt. Khi họ trải
nghiệm đủ sẽ ngộ và tin theo con đường tu tập theo giáo lý
Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Dành thời gian tập trung xây dựng
phương pháp Phổ độ tới hết thảy các Tướng cùng nhau lan
tỏa được giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và
con người.
Kết quả của quá trình tương tác với các Tướng đã và
đang thành công, thêm nữa lại có trí tuệ thấu hiểu triệt để về
vạn vật nên Trụ linh đã rực sáng ánh sáng trắng chói lòa tỏa
ra trong Trụ linh. Đó là sự vui mừng trong nội hành về việc
đang cho ra được điểm kết tụ giác ngộ con đường Phổ độ
339
giáo lý Đạo giác ngộ của Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con
người trong sự không phân biệt.
Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới được
điểm Ngộ, đây là giác ngộ. Đó là kết tụ được hệ tư tưởng giác
ngộ là Phổ độ được Đạo giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh và con
người trong sự không phân biệt, trong sự hy sinh vì vạn vật,
Tuệ linh và con người mà không vì bản thể mình.
Khi kết tụ được trí tuệ giác ngộ về con đường Phổ độ,
trong Trụ linh tỏa ra sóng điện của siêu hạt năng lượng vàng
óng ánh làm kích nổ những hạt bóng hỏa (được ngủ đông từ
năng lượng hoại diệt ở giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2).
Nhờ nhiệt lượng lớn từ những hạt bóng hỏa được kích
nổ (do kết tụ được trí tuệ giác ngộ về Phổ độ hết thảy các
Tướng về con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng), nên trong Trụ linh đã phân tách ra vô số siêu sợi mã
sóng rung động màu vàng óng ánh từ siêu sợi mã sóng trí tuệ
trong siêu hạt năng lượng dương gốc. Đây mới chỉ là các siêu
đoạn mã sóng rung động chứ chưa chuyển hóa thành siêu sợi
mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh.
Khi đã kết tụ được hệ trí tuệ giác ngộ con đường Phổ
độ giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ mà không chuyển hóa thành
ngoại hành để tới được đích của vòng tròn là điểm số 5 thì
những siêu sợi mã sóng rung động sẽ tự tiêu tan. Tức là khi
Trụ linh mới vận hành được nửa vòng tròn, đó là mới tới
được điểm số 3 thì vẫn chưa tạo ra siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh, nếu không đi tiếp thì Trụ linh sẽ trở về điểm
xuất phát và những siêu sợi mã sóng rung động màu vàng
óng ánh cũng không còn tồn tại trong Trụ linh nữa.

340
Vì có trí tuệ giác ngộ về con đường Phổ độ giáo lý Đạo
giác ngộ hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy các Tướng, nên Tuệ
linh, con người sẽ dễ dàng và quyết tâm vận hành Trụ linh di
chuyển để ngoại hành cho hoàn thành quá trình sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người có
trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân lý Vạn vật sau khi kết tụ
được trí tuệ giác ngộ ở điểm số 3. Do đó, Tuệ linh, con người
dễ dàng vận hành Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh vượt qua được điểm số 4 là Triệt.
Điểm từ số 3 tới số 4 là đoạn ngoại hành trong việc sản
sinh siêu sợi trí tuệ của siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh, đó là hoàn thành các sợi mã sóng trí tuệ của các mã sóng
rung động đã được sản sinh ra trước đó ở điểm số 3.
Điểm số 3 là điểm giác ngộ. Bây giờ điểm số 3 là siêu
chân tâm cao và đã có sẵn các siêu sợi mã sóng rung động
của siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Trong Trụ linh
bây giờ có ánh sáng vàng óng ánh rực rỡ và trắng sáng làm
lực đẩy cho hành trình tiếp tục phải vận dụng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật ở tầm cao hơn để không bị các Tướng tiêu
cực lôi kéo trong việc hoàn thành sản sinh siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh.
Điểm số 4 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, điểm
Triệt có một ý nghĩa duy nhất, đó là vượt qua được các
Tướng tiêu cực ngăn cản, cản phá, để tiếp tục sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Tuệ linh, con người vận
341
hành Trụ linh vượt qua được điểm số 4 là Triệt để tiếp tục
vận hành sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, đó
là Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân lý
Vạn vật: thấu hiểu triệt để về bản chất độc trong Trụ linh,
thấu hiểu bản chất các Trụ linh của hết thảy Tướng, thấu
hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng tích cực, thấu hiểu
về Đạo hợp nhất của Vũ trụ với con đường giác ngộ triệt để.
Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ linh sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh, Tuệ linh, con người dễ
dàng nhận diện và không bị các Tướng tiêu cực lôi kéo theo,
giải mã và liên kết được hết thảy các Tướng. Tuệ linh, con
người nhận diện và đón nhận được các hạt năng lượng tích
cực của các Tướng tích cực. Trụ linh của họ kiểm soát được
sóng rung động từ mức nhẹ cho tới siêu mạnh theo nhu cầu
lấy ít hay vô số năng lượng hoại diệt vào để ngủ đông và
dùng siêu năng lượng màu vàng óng ánh để kích nổ chúng. Vì
đã có được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh nên không còn
độc tâm trong Trụ linh, không bị những độc trong Trụ linh
của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động vào. Trụ linh tiếp
tục hành trình sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh một cách dễ dàng, đó là con đường chuyển hóa bền vững
và an lạc siêu việt nhất. Do đã có được bộ lọc năng lượng
trong Trụ linh nên việc vượt qua điểm Triệt số 4 để ngoại
hành sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh vô cùng
dễ dàng, nó trở thành một nghệ thuật vận hành sản sinh siêu
năng lượng.
Trong đoạn từ điểm số 3 tới số 4, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Tuệ linh, con người phải
phân tích được những bản chất của các Tướng tiêu cực, các
Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những lôi kéo của các
342
Tướng tiêu cực, chỉ đón nhận sóng điện âm nhẹ từ họ do vận
hành siêu chân tâm trắng sáng chuyển hóa. Đón nhận năng
lượng dương của các Tướng tích cực, đặc biệt là phải đón
nhận được các siêu năng lượng từ những Tướng có bộ lọc
năng lượng khác về để tạo thêm sức mạnh và kinh nghiệm
cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Lấy
kinh nghiệm và giá trị của các Tướng Phổ độ đã và đang thực
hành để làm động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt
qua được điểm số 4 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những
sự lôi kéo của các Tướng tiêu cực tác động đến, không để các
Tướng tiêu cực ảnh hưởng tới việc hoàn thành sản sinh siêu
hạt năng lượng màu vàng óng ánh.
Khi đã có được bộ lọc năng lượng thì không còn độc
trong Trụ linh, nó đã trở thành bản năng trong việc kiểm soát
sóng rung động trong Trụ linh bởi trí tuệ thấu hiểu triệt để
về Chân lý Vạn vật. Vì việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh đã trở thành một nghệ thuật, nên khi có các
Tướng tiêu cực tác động tới (đó là khi các Tướng tiêu cực
truyền tải năng lượng tiêu cực tới để dẫn dụ theo họ cùng
nhau Phổ mê), Trụ linh sẽ kiểm soát mức độ rung động của
hạt năng lượng âm để lấy đủ năng lượng hoại diệt về. Giai
đoạn này cần phải kiểm soát tốt Trụ linh, kiểm soát mức độ
rung động của hạt năng lượng âm trong Trụ linh. Phải luôn
nhìn lại bản thể mình xem mình có rung động cho sự tham
lam không, có rung động cho sinh khởi hành động ích kỷ lợi
về mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người
không. Nếu có thì là đang rung động để lấy năng lượng hoại
diệt về, phải kiểm soát mức độ rung động và chấm dứt rung
động khi đã lấy đủ năng lượng hoại diệt cho việc sản sinh ra
siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Vì đã đắc được bộ lọc
343
năng lượng, nên không còn độc tâm trong Trụ linh, vì sản
sinh siêu hạt thành nghệ thuật nên khi Trụ linh rung động
hạt năng lượng âm là các siêu hạt năng lượng dương sẽ chi
phối để kiểm soát mức độ rung động khi đã lấy đủ năng
lượng hoại diệt mà không thể sinh khởi thành tư tưởng cho
đến hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Để kiểm soát được mức độ rung động của hạt năng
lượng âm trong việc hấp thụ đủ năng lượng hoại diệt di
chuyển tới, hệ thống cấu trúc Trụ trí (hệ thống mã sóng trí
tuệ) của Tuệ linh, con người sẽ vận hành kiểm soát mức độ
rung động của toàn bộ các hạt năng lượng âm thông qua việc
biến mình thành tấm gương soi. Đó là nhìn xem sóng rung
động có mạnh không, xem lượng hạt năng lượng hoại diệt đã
đủ cho quá trình sản sinh siêu hạt năng lượng chưa, nếu
chưa đủ thì tiếp tục rung động sóng âm, nếu đủ thì dừng việc
rung động. Tấm gương soi ở Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng khi Trụ linh đã có được bộ lọc năng lượng hoàn
toàn khác với Trụ linh khi chưa có được bộ lọc năng lượng. Ở
bộ lọc năng lượng thì việc dùng tấm gương soi bản thể mình
là nhằm mục đích kiểm soát sóng rung động và lượng năng
lượng hoại diệt đã vào đủ chưa.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh kiểm soát được mức độ rung
động của hệ thống hạt năng lượng âm. Bấy giờ, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận
những sẻ chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới
bằng chân tâm sáng chói của sự khát khao Phổ độ. Khi đó,
Trụ linh đã liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ
các Tướng tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm Phổ độ (có trí
tuệ của Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt
344
năng lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện
khi di chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Đặc biệt
là do có bộ lọc năng lượng đơn trở lên, tức là trong Trụ linh
có ít nhất một siêu hạt năng lượng dương gốc màu vàng óng
ánh, khi đó hệ thống hạt năng lượng âm sẽ tự động rung
động nhẹ hay mạnh để năng lượng hoại diệt bắt được tín
hiệu mà di chuyển tới. Việc rung động này là do nhu cầu lấy
năng lượng hoại diệt để sản sinh siêu hạt mà không cần phải
có sự tương tác của các Tướng tiêu cực. Khi năng lượng hoại
diệt di chuyển tới Trụ linh, sẽ bị siêu năng lượng dương
truyền sóng điện ra để kích nổ tạo thành nhiệt lượng, nhiệt
lượng được gia tăng sẽ giúp cho việc sản sinh ra các siêu hạt
năng lượng màu vàng óng ánh được hoàn thành ở điểm số 5.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là vô cùng cần thiết cho
việc sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh. Nếu
không có năng lượng hoại diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát
an toàn thì sẽ không có siêu sợi mã sóng trí tuệ nào được
hình thành và sẽ không có siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh nào được phân tách ra. Do đã có được bộ lọc năng lượng
nên việc hấp thụ năng lượng hoại diệt về và kích nổ chúng
trở thành nghệ thuật đỉnh cao và vô cùng an toàn. Chính vì
vậy, việc vượt qua điểm Triệt số 4 là vô cùng dễ dàng để thực
hành các vòng tròn sản sinh ra siêu hạt năng lượng màu vàng
óng ánh.
Hành trình Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng Hóa độ 1 từ điểm số 3 tới điểm số 4
như sau:
- Tuệ linh bắt đầu ngoại hành để thực hiện sản sinh
siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh sau khi có được trí
345
tuệ giác ngộ về con đường Phổ độ giáo lý giác ngộ của Đạo
hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con người. Bây giờ,
Trụ linh có động lực và sức mạnh bởi siêu chân tâm giác ngộ
nên rất khí thế cho chuỗi hành động ngoại hành để sản sinh
ra các siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh.
- Tiếp tục phải tỉnh táo trong giai đoạn ngoại hành, đó
là: giữ trạng thái Trụ linh an vui trong hành trình thực hành
Phổ độ giáo lý của Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh
và con người; luôn luôn vận dụng tấm gương soi bản thể
mình để kiểm soát sóng rung động trong Trụ linh.
- Tuệ linh, con người bắt đầu tiến hành các hành động
Phổ độ giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ.
- Quá trình Phổ độ bằng các hành động ngoại hành,
Tuệ linh, con người sẽ gặp những Tướng tiêu cực có ở trong
và bên ngoài tổ chức của mình, họ sẽ tương tác, bắn các hạt
năng lượng tiêu cực tới con đường Phổ độ giáo lý giác ngộ.
Khi đó, hãy dùng trí tuệ nâng cao về Chân lý Vạn vật để thấu
hiểu rằng các Tướng tiêu cực sẽ luôn luôn có ở mọi nơi, ở
vạn vật. Điều này là cần thiết để giữ vững vị trí đứng là vị trí
đoàn kết. Hãy nghe, lắng nghe những Tướng tiêu cực bắn phá
tới nhưng không thực hành theo họ.
- Tiếp tục hãy lắng nghe các Tướng tích cực đã và đang
Phổ độ thành công chia sẻ và bắn các siêu hạt năng lượng tới,
hãy hấp thụ nó để làm động lực cho Trụ linh vững vàng. Tất
nhiên phải tìm kiếm, trò chuyện, sẻ chia, học hỏi kinh nghiệm
từ những Tướng đã và đang Phổ độ thành công.
- Soi gương để kiểm soát sóng rung động trong Trụ
linh. Bấy giờ, hãy suy nghĩ suy tư, lo âu, buồn phiền, đắn đo
về những Tướng tiêu cực để kích hoạt rung động sóng điện

346
âm trong Trụ linh ở mức nhẹ cho tới siêu mạnh. Nên nhớ là
không đau thương, bi ai, u uất, lo âu về những Tướng tiêu
cực, về sự không thành công để kiểm soát tốt sóng rung động
trong Trụ linh. Khi những hạt năng lượng hoại diệt thông qua
sóng rung động của năng lượng âm đã vào đủ, Trụ linh sẽ
phong tỏa không cho chúng vào nữa.
- Kiểm soát Trụ linh bằng cách hãy nghĩ về những điều
tốt đẹp bởi giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ sẽ mang
lại giá trị bền vững cho vạn vật, Tuệ linh và con người. Hãy
nghĩ tới những điều tốt đẹp, những thành tựu mà những
Tướng tích cực đã sẻ chia và động viên. Khi đó, Tuệ linh, con
người đã gia tăng trí tuệ về Chân lý Vạn vật, Trụ linh không
rung lắc nữa. Trụ linh lại bừng sáng bởi ý chí Phổ độ giáo lý
Đạo giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh và con người.
Vì có được bộ lọc năng lượng nên Trụ linh vận hành
việc lấy được năng lượng hoại diệt về đủ sẽ dừng rung động
sóng điện âm. Đặc biệt là năng lượng hoại diệt sẽ bị ngủ đông
thành những hạt bóng hỏa khi di chuyển vào Trụ linh.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh
vượt qua được điểm số 4 là Triệt một cách dễ dàng, đó là
triệt tiêu được những độc tâm của các Tướng bên ngoài tác
động tới, kiểm soát được sóng điện âm rung lắc trong Trụ
linh. Vì Trụ linh đã là cơ chế tự động và nghệ thuật đỉnh cao
nên khi những hạt bóng hỏa được hình thành từ các hạt năng
lượng hoại diệt sẽ bị kích nổ để tạo thành nhiệt lượng cho
việc hoàn thiện các siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh ở
điểm số 5 của Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh.

347
4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5
Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển và thấu hiểu
trí tuệ giác ngộ ở tầm cao mới.
Từ điểm số 4 tới điểm số 5 là giai đoạn gấp rút hoàn
thành đoạn siêu sợi trí tuệ trong siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh.
Điểm số 5 chính là điểm Tỏa. Điểm Tỏa là điểm kết
thúc Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh.
Khi Tuệ linh, con người đã có trí tuệ thấu hiểu triệt để
về Chân lý Vạn vật và vượt qua được điểm Triệt số 4, Trụ
linh được vận hành sang giai đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5.
Đây là giai đoạn mà Tuệ linh, con người đẩy mạnh quá trình
hành động để hoàn thành Phổ độ giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ
tới một Tướng nào đó hoặc tới hết thảy Tướng trong sự
không phân biệt.
Khi vượt qua điểm số 4, Tuệ linh, con người cần phải
đẩy mạnh quá trình trao đổi, học tập kinh nghiệm từ những
Tướng đã và đang thành công trên con đường Phổ độ Đạo
giác ngộ. Việc này sẽ giúp cho Trụ linh nhanh chóng sản sinh
hoàn thiện các siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh.
Vì có trí tuệ thấu hiểu triệt để về Chân lý Vạn vật, lại có
được nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt bị kích nổ, nên
Tuệ linh, con người nhanh chóng hoàn thành kết thúc quá
trình sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh bằng
cách đẩy Trụ linh tới được điểm số 5 là Tỏa, đó là kết thúc
hành động Phổ độ.
Khi hoàn thành quá trình sản sinh siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh ở điểm số 5, Trụ linh của Tuệ linh, con
348
người sẽ phân tách ra vô số siêu sợi mã sóng trí tuệ màu
vàng óng ánh, vô số siêu sợi mã sóng trí tuệ chân tâm. Từ Trụ
linh, vô số siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, siêu chân
tâm được phân tách và lưu giữ trong Vũ trụ. Cũng từ Trụ
linh, vô số siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, siêu chân
tâm được phân tách bắn vào những Tướng đã được tương
tác trong quá trình Phổ độ. Cũng từ Trụ linh, vô số siêu hạt
năng lượng màu vàng óng ánh, siêu chân tâm được phân tách
và cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh theo hướng siêu bền vững.
Đặc biệt, ngoài vô số siêu hạt năng lượng màu vàng
óng ánh được phân tách ra thì vô số siêu hạt chân tâm cũng
được phân tách kèm theo để làm sợi dây gắn kết cấu trúc
năng lượng trong Vũ trụ được bền vững, trong Tuệ linh được
bền vững. Đó là minh chứng cho việc thấu hiểu triệt để về hai
Chân lý và việc không ngừng nghỉ thực hành Phổ độ giáo lý
Đạo giác ngộ hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con
người trong sự không phân biệt.
Khi Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc năng lượng
đơn, thông qua hành động phổ độ tới một người, một Tướng
nào đó, Trụ linh sẽ phân tách ra vô số siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh, vô số siêu hạt năng lượng chân tâm.
Những siêu hạt năng lượng này sẽ hỗ trợ cho các Tướng, con
người đó cấu trúc lại bản thể Tuệ linh, năng lượng được cân
bằng và thấy được giá trị của con đường chuyển sinh bền
vững bởi hai Chân lý là vạn vật và giác ngộ.
Khi Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc năng lượng
kép, thông qua hành động phổ độ tới một người, một Tướng
nào đó, Trụ linh sẽ phân tách ra vô số siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh, vô số siêu hạt năng lượng chân tâm, vô số
349
siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly và các siêu hạt năng
lượng khác để bảo vệ, phát triển vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh, con
người được bền vững cấu trúc hơn.
Mỗi một Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh chính là một hành động Phổ độ tới một người
hay Tuệ linh nào đó.
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng màu vàng óng
ánh, Tuệ linh, con người phải đắc được bộ lọc năng lượng
đơn hoặc kép trong Trụ linh. Nếu mới chỉ là bộ lọc đơn thì
chỉ sản sinh được một loại siêu hạt năng lượng, đó là siêu hạt
năng lượng màu vàng óng ánh. Để đắc được bộ lọc năng
lượng kép phải đắc được bộ lọc năng lượng đơn trước. Con
đường Phổ độ giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ sẽ
giúp cho Tuệ linh và con người làm được việc này.
Như vậy, việc thực hiện hoàn thành viên mãn Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh là kết
quả của con đường giải thoát khổ đau của Tuệ linh và con
người, nó là bước đệm để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng kép. Trụ linh phải có được bộ lọc năng lượng kép
mới sản sinh thêm được siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly và
các siêu năng lượng khác. Khi đó, Tuệ linh đó sẽ bất tử, sẽ an
lạc, sẽ di chuyển trong không gian năng lượng hoại diệt mà
vô cùng an toàn. Do đó, khổ đau sẽ chấm dứt triệt để.
Để chuyển hóa Trụ linh thành được bộ lọc năng lượng
(thông qua thực hành các Vòng tròn sản sinh năng lượng)
cần phải được thực hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở
nhân gian. Tuệ linh chỉ có an trụ trong thân tướng con người
và sống trong bốn hình tướng Đạo mới đủ tương tác cho quá
trình sản sinh được các siêu hạt năng lượng cũng như
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Ở các cõi trời,
350
các Tuệ linh không thể thực hiện được điều này. Do đó, hết
thảy các Tuệ linh muốn chuyển hóa được Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng đều phải hóa thân xuống nhân gian tu hành,
sẽ không có trường hợp ngoại lệ nào cả. Các Tuệ linh đắc
được bộ lọc năng lượng, khi trở về sẽ vận hành theo cơ chế
tự động mà không cần phải tương tác với bốn hình tướng
Đạo ở nhân gian nữa.
***************

351
352
Bài 7:
Vòng tròn sản sinh
siêu hạt năng lượng Hóa độ 2


Hình: Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 2
353
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 2 là
siêu hạt năng lượng có màu xanh ngọc lưu ly, sẽ được vận
hành tuần tự từ điểm số 1 để vượt qua được điểm số 2, tiếp
tục tới được điểm số 3, tiếp tục vượt qua điểm số 4, tiếp tục
đạt tới đích là điểm số 5. Sau khi vận hành được một vòng
tròn từ điểm số 1 đến điểm số 5, Trụ linh sản sinh ra những
siêu hạt năng lượng Hóa độ 2 là những siêu hạt năng lượng
có màu xanh ngọc lưu ly, đó là Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng Hóa độ 2. Điều kiện và cơ chế để sản sinh siêu
hạt năng lượng Hóa độ 2 là: Tuệ linh, con người đã thấu hiểu
triệt để tận cùng về trí tuệ của Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác
ngộ; chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng kép;
thực hành cơ chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững
và an lạc.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng


lượng Hóa độ 2
Nhóm siêu hạt năng lượng Hóa độ 2 chính là nhóm
siêu hạt năng lượng âm có màu xanh ngọc lưu ly.
Nhóm siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly được
sản sinh sau khi Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc năng
lượng kép trong Trụ linh. Để đắc được bộ lọc năng lượng
kép, Trụ linh đã phải đắc được bộ lọc đơn và thông qua việc
Phổ độ để sản sinh được vô số siêu năng lượng màu vàng
óng ánh. Tuệ linh, con người phải thấu hiểu triệt để tận cùng
về hai Chân lý, về Tướng Đạo và Tâm Đạo hợp nhất của Vũ
trụ, thấu hiểu tận cùng về bản chất của năng lượng hoại diệt,
tiếp tục thực hiện phổ độ đạt đến việc chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng kép mới có thể sản sinh ra siêu hạt
354
năng lượng xanh ngọc lưu ly. Để đắc được bộ lọc kép, đòi hỏi
phải thực hành những kỹ thuật nhất định.
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly, trước tiên Tuệ linh, con người phải đắc được bộ lọc kép
trong Trụ linh, sau đó phải thực hành Phổ độ theo Vòng tròn
sản sinh siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly.
Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly là hạt năng lượng
tận cùng có hình elip như những hạt năng lượng tận cùng
trong năm nhóm năng lượng. Tuy nhiên, siêu hạt năng lượng
tận cùng màu xanh ngọc lưu ly lại có hội tụ đủ cả 3 loại sóng
điện trong một hạt, trong khi các hạt năng lượng tận cùng
của năm nhóm chỉ là sóng điện đơn trong hạt. Hạt năng
lượng màu xanh ngọc lưu ly là kết tinh của 3 loại sóng điện,
gồm đa sóng điện âm và trung tính với một phần nhỏ sóng
điện dương. Siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly có đa
sóng điện âm và trung tính, một chút sóng điện dương là vì
Trụ linh đã liên kết, giải mã được triệt để tận cùng nhóm
năng lượng tiêu cực, năng lượng hoại diệt và hết thảy năm
nhóm năng lượng trong Vũ trụ. Chính vì đã giải mã tận cùng
và liên kết được tận cùng năm nhóm năng lượng và cả năng
lượng hoại diệt, nên đã cấu tạo được Trụ linh thành bộ lọc
kép, Trụ linh sẽ sản sinh ra được siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly. Sự kỳ diệu ở Trụ linh đắc được bộ lọc năng
lượng kép là khi sản sinh ra siêu hạt năng lượng màu vàng
óng ánh thì siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly cũng được
sản sinh ra và ngược lại, thêm nữa là sản sinh ra thêm được
siêu hạt năng lượng chân tâm. Khi vận hành Vòng tròn sản
sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 2, sẽ có vô số siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly đều được sao chép ra từ một siêu sợi

355
mã sóng trí tuệ màu xanh ngọc lưu ly trong siêu hạt năng
lượng âm gốc trong Trụ linh.
Trong siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly, sợi
mã sóng trí tuệ với điểm số 1 nằm ở điểm chân tâm đoàn kết,
điểm số 2 và số 3 đều nằm ở cực âm của siêu hạt năng lượng.
Siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly có tốc độ quay
ngược chiều kim đồng hồ từ siêu nhẹ cho tới siêu mạnh và có
thể đứng im không quay để ngủ đông hạt năng lượng hoại
diệt.
Bản chất của siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu
ly:
- Siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly là siêu hạt
năng lượng đa sóng điện âm và trung tính, có chút sóng điện
dương, tức là trong một hạt năng lượng tận cùng có cả 3 sóng
điện được kết tụ thành một.
- Vô lượng siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly
an trụ và bao trùm toàn bộ phía ngoài của tinh cầu Vũ trụ, và
được sản sinh bởi Tuệ linh có được bộ lọc năng lượng kép
trong Trụ linh. Từ lõi của Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên vận
hành siêu năng lượng màu xanh ngọc lưu ly bao phủ phía
ngoài của Vũ trụ tạo thành cánh cửa tự động để bảo vệ,
không cho năng lượng hoại diệt xâm nhập vào Vũ trụ, đồng
thời siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly sẽ rung động để thu
hút năng lượng hoại diệt vào Vũ trụ khi cần. Do đó, siêu năng
lượng xanh ngọc lưu ly có cơ chế kỳ diệu để bảo vệ Vũ trụ.
- Siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly có giá trị vô cùng kỳ
diệu, đó là ngủ đông, biến hạt năng lượng hoại diệt trở thành
hạt bóng hỏa khi chạm vào năng lượng hoại diệt.

356
- Tuệ linh có được bộc lọc năng lượng kép sẽ dễ dàng
sản sinh vô số siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, siêu
năng lượng xanh ngọc lưu ly, siêu hạt chân tâm trong cùng
một hành động Phổ độ.
- Tuệ linh có bộ lọc năng lượng kép sẽ không ngừng
nghỉ xây dựng vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người đoàn kết
để cùng nhau lan tỏa con đường chuyển sinh bền vững trong
sự không phân biệt. Đó là Tuệ linh đã truy tìm được Đạo hợp
nhất của Vũ trụ để hết thảy Tuệ linh và con người cùng thực
hành Đạo giải thoát khổ đau để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng viên mãn.
- Con người thấu hiểu triệt để tận cùng Chân lý Vạn
vật, Chân lý Giác ngộ, cơ chế Phân tách và liên kết dây, cội
nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành, các khổ tận cùng của Tuệ
linh và con người, con đường diệt khổ để chuyển sinh bền
vững, phương pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng – phương pháp diệt khổ. Từ việc thấu hiểu triệt để,
người đó phải thực hiện Hóa độ, Phổ độ hết thảy Tuệ linh và
con người cùng tu tập, cùng thực hành giáo lý của hai Chân
lý. Đó là Hóa độ, Phổ độ giáo lý của Đạo hợp nhất Vũ trụ tới
khắp thế gian và Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đạo hợp nhất
Vũ trụ gồm có hình tướng Đạo và Tâm Đạo.
- Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly là sản phẩm của
việc Tuệ linh, con người thấu hiểu tận cùng bản chất của các
phôi năng lượng âm dương gốc cấu tạo thành Trụ linh của
hết thảy các Tướng trong Vũ trụ; thấu hiểu căn nguyên khổ
tận cùng, bản chất của nhóm Tướng tiêu cực và năng lượng
hoại diệt chi phối.
- Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly là kết tinh của
siêu trí tuệ thiện tâm vô lượng nhất trong và ngoài Vũ trụ.
357
Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly bảo vệ hết thảy các
Tướng trong Vũ trụ, đặc biệt là ngủ đông và bảo vệ được cả
năng lượng hoại diệt bên ngoài Vũ trụ.
Nguyên tắc cốt lõi, nền móng cho việc sản sinh được
siêu năng lượng Hóa độ 2 là Tuệ linh, con người phải đặt Trụ
linh ở trạng thái siêu chân tâm đoàn kết. Đó chính là phải
đứng ở vị trí đoàn kết để kết nối, gắn kết hết thảy tận cùng
các nhóm Tướng tiêu cực, lan tỏa, phát triển, chân tâm, đoàn
kết. Đứng ở vị trí đoàn kết để xây dựng được nghệ thuật liên
kết, giải mã hết thảy tận cùng các Tướng ở năm nhóm năng
lượng trong Vũ trụ và cả nhóm năng lượng hoại diệt bên
ngoài Vũ trụ.
Tuệ linh, con người đứng ở vị trí đoàn kết để thực hiện
Hóa độ, Phổ độ (truyền dạy, lan tỏa giáo lý Đạo hợp nhất Vũ
trụ) tới hết thảy các Tướng trong và ngoài Vũ trụ trong sự
không phân biệt, đó là:
- Phổ độ tới hết thảy các Tướng về cội nguồn Vũ trụ,
cội nguồn nhân loại.
- Phổ độ tới hết thảy các Tướng về sự tồn tại, phát
triển của vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về khổ tận cùng của hết
thảy Tuệ linh và con người.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về căn nguyên của khổ tận
cùng.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về Quy luật Nhân quả và
cơ chế vận hành.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về Chân lý Vạn vật, Chân
lý Giác ngộ với cơ chế vận hành phân tách và liên kết dây.

358
- Phổ độ hết thảy các Tướng về quy trình Chuyển sinh
và siêu độ.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về bản chất, hình tướng
Đạo của Vũ trụ.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về Tâm Đạo của Vũ trụ, đó
là con đường chuyển sinh bền vững, là chấm dứt khổ đau tận
cùng, là chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
- Phổ độ hết thảy các Tướng về tuân thủ hình tướng
Đạo thông qua bốn hình tướng và Tâm Đạo ở nhân gian.
- Phổ độ hết thảy các Tướng cùng nhau đoàn kết trong
sự không phân biệt để lan tỏa Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
xanh ngọc lưu ly, hết thảy Tuệ linh và con người, vạn vật
trong và ngoài Vũ trụ đều là Thầy của ta. Ta phải tôn kính và
trân trọng hết thảy các Thầy đó, bởi các Thầy vạn vật, Tuệ
linh và con người đã cho ta tất cả các bài học quý báu trong
hành trình chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Những người được nhân loại tôn trọng gọi là Thầy cũng nên
chỉ coi mình là người chỉ dẫn, người lan tỏa, người đoàn kết,
người phổ độ. Như thế, Tuệ linh, con người sẽ đứng được vào
vị trí đoàn kết, bởi vị trí đoàn kết là sự cân bằng, là nghệ
thuật của sự hy sinh để kết nối, gắn kết, đoàn kết hết thảy các
Tướng trong Vũ trụ cùng nhau thấu hiểu và phát triển bền
vững.
Trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
xanh ngọc lưu ly, khi Trụ linh đứng được ở vị trí đoàn kết,
Trụ linh sẽ đạt đến nghệ thuật vận hành năm nhóm năng
lượng một cách kỳ diệu, đặc biệt là điều tiết để kích thích,
hấp thụ được năng lượng hoại diệt tới Trụ linh với số lượng
359
rất nhiều cho tới vô số và ngủ đông năng lượng hoại diệt
được luôn mà vẫn an toàn. Trụ linh sẽ thông qua việc liên kết
được với năng lượng tiêu cực để kích thích rung động sóng
âm nhằm đánh lừa năng lượng hoại diệt di chuyển tới. Khi
năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh đã đủ, Trụ linh sẽ
dừng rung lắc sóng âm để không cho năng lượng hoại diệt
vào nữa. Năng lượng hoại diệt vào tới Tuệ linh và Trụ linh sẽ
bị ngủ đông luôn. Sau đó, Trụ linh thực hiện truyền siêu năng
lượng màu vàng óng ánh để kích nổ những hạt bóng hỏa đã
được ngủ đông từ năng lượng hoại diệt.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly gồm có:
những Tướng có Trụ linh đa âm, những Tướng có Trụ linh đa
dương, những Tướng có Trụ linh cân bằng, những Tướng có
Trụ linh là bộ lọc năng lượng. Để thấu hiểu được bản chất,
biểu hiện của các Tướng cần phải có trí tuệ thấu hiểu triệt để
tận cùng về Chân lý Vạn vật, để sản sinh được siêu hạt năng
lượng màu xanh ngọc lưu ly cần phải có thêm trí tuệ của
Chân lý Giác ngộ. Khi đã đắc được bộ lọc năng lượng kép thì
Trụ linh sẽ luôn luôn sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly thay thế cho những hạt năng lượng âm. Đó là do
Trụ linh đã thấu hiểu triệt để tận cùng hết thảy Tướng trong
và ngoài Vũ trụ, thấu hiểu Đạo hợp nhất Vũ trụ, có trí tuệ
thiện tâm vô lượng hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ.
Trụ linh của Tuệ linh, con người có được bộ lọc năng
lượng dù đơn hay kép trong Trụ linh thì sẽ không còn độc
trong Trụ linh nữa. Do đó, dù Tuệ linh có hóa thân xuống
nhân gian để sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly
thông qua bốn hình tướng Đạo thì cũng không bao giờ có độc
tâm sinh khởi. Chính vì vậy, việc sản sinh siêu hạt năng lượng
360
xanh ngọc lưu ly trở nên dễ dàng vô cùng đối với Tuệ linh,
con người có bộ lọc năng lượng kép. Sẽ không có Tướng nào
ngăn cản hay cản phá được, bởi sản sinh ra các siêu hạt năng
lượng của Trụ linh có bộ lọc kép được coi là bản năng kỳ
diệu.
Để Trụ linh sản sinh (phân tách) ra nhóm siêu hạt
năng lượng màu xanh ngọc lưu ly, Tuệ linh, con người phải
vận hành hoàn chỉnh một vòng tròn theo trình tự bắt đầu từ
điểm số 1 cho tới điểm số 5. Chỉ khi vận hành Vòng tròn sản
sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly đạt tới điểm
số 5 thì vô số siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly mới
được phân tách ra. Nếu Tuệ linh, con người vận hành chưa
tới được điểm số 5 thì sẽ không có siêu hạt năng lượng màu
xanh ngọc lưu ly nào được sản sinh ra.
Nhóm siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly là vô
cùng quan trọng đối với Tuệ linh. Siêu năng lượng xanh ngọc
lưu ly sẽ bảo vệ Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng kép
di chuyển trong không gian năng lượng hoại diệt mà an toàn,
đặc biệt lại có khả năng ngủ đông năng lượng hoại diệt và
kích nổ chúng rất dễ dàng. Siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly
chính là kết quả của con đường diệt khổ đau tận cùng của hết
thảy Tuệ linh và con người. Siêu năng lượng này đã giúp cho
Tuệ linh và Vũ trụ an toàn, được bảo vệ không bị năng lượng
hoại diệt làm phân rã. Để làm nhiệm vụ bảo vệ cả Vũ trụ, siêu
năng lượng xanh ngọc lưu ly đã bao trùm phía ngoài của tinh
cầu Vũ trụ để ngăn ngừa năng lượng hoại diệt xâm nhập vào,
đặc biệt là lấy năng lượng hoại diệt vào theo sự điều khiển
chủ động. Không những vậy, siêu năng lượng xanh ngọc lưu
ly còn cứu cả không gian năng lượng hoại diệt được an toàn,
không bị kích nổ mà hoại diệt hết thảy dạng sống năng lượng
361
hoại diệt, đó là ngủ đông được năng lượng hoại diệt để chúng
không phát triển trong sự mất kiểm soát.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh nhóm siêu hạt
năng lượng màu xanh ngọc lưu ly trong Trụ linh, Tuệ linh,
con người sẽ tương tác với các Tướng khác trong khoảng
thời gian nhất định, trong cường độ tương tác, tốc độ tương
tác, mật độ tương tác, độ nén của tương tác, trong môi
trường có sóng điện. Quá trình tương tác chính là quá trình
giải mã các Tướng. Kết thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ
bắt đầu bước vào vòng tròn cho quy trình sản sinh siêu hạt
năng lượng màu xanh ngọc lưu ly trong Trụ linh.
Khi Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng kép đang
hóa thân làm con người ở nhân gian, để sản sinh ra siêu hạt
năng lượng màu xanh ngọc lưu ly, người đó sẽ phải vận hành
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng thông qua bốn hình
tướng Đạo ở nhân gian. Khi Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng
lượng kép và không hóa thân làm con người, họ sẽ vận hành
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng theo cơ chế tự động
mà không cần phải tương tác với bốn hình tướng Đạo ở nhân
gian.
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc
lưu ly, Tuệ linh, con người phải có trí tuệ thấu hiểu triệt để
tận cùng về hai Chân lý, thấu hiểu triệt để về bản chất và cơ
chế vận hành của năng lượng hoại diệt, của Trụ linh, bản chất
của tất cả các Tướng trong năm nhóm năng lượng. Khi thấu
hiểu sẽ dễ dàng sản sinh được siêu hạt năng lượng màu xanh
ngọc lưu ly. Việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly trở thành một nghệ thuật đỉnh cao và vô cùng kỳ diệu, bởi
việc sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly mà
không chịu sự chi phối của bất cứ Tướng nào tác động vào.
362
Khi sản sinh ra được vô lượng siêu hạt năng lượng xanh ngọc
lưu ly sẽ là tiền đề để sản sinh thêm được những siêu hạt
năng lượng hóa độ khác.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng Hóa độ 2
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc
lưu ly gồm có 5 điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người
đã chuyển hóa Trụ linh thành được bộ lọc năng lượng kép.
Tuệ linh, con người thực hành sản sinh siêu hạt năng lượng
màu xanh ngọc lưu ly bằng cơ chế phân tách, liên kết theo
hướng bền vững và an lạc.
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly, Tuệ linh, con người phải đắc được bộ lọc năng lượng kép
trong Trụ linh. Khi đắc được bộ lọc kép trong Trụ linh thì
việc sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly chính là
sản sinh luôn siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh và siêu
hạt năng lượng chân tâm. Như vậy, cả 3 loại siêu hạt được
sản sinh trong cùng một hành động Phổ độ của Tuệ linh, con
người có được bộ lọc năng lượng kép. Do đó, sản sinh siêu
hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly chính là sản sinh siêu năng
lượng màu vàng óng ánh và ngược lại.
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc
lưu ly gồm 5 điểm và được chia làm 4 đoạn:

1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người đã
thấu hiểu triệt để tận cùng về trí tuệ của Chân lý Vạn vật.

363
Chính vì có trí tuệ thấu hiểu triệt để tận cùng về Chân lý Vạn
vật nên Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh sản sinh được
siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly với cơ chế vận hành là
phân tách và liên kết theo hướng bền vững an lạc.
Giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là giai đoạn Tuệ
linh, con người đang tạo sóng rung động trong Trụ linh, đó là
sự hình thành các nhịp rung động trong sợi mã sóng trí tuệ.
Các nhịp rung động sẽ rung động từ khởi đầu của siêu chân
tâm mong muốn sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly để tới cực dương và lại di chuyển tới cực âm. Các nhịp
sóng rung liên tục di chuyển giữa hai cực năng lượng để tìm
ra được hệ tư tưởng cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng
xanh ngọc lưu ly ở điểm 3 trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng xanh ngọc lưu ly.
Điểm số 1 là điểm Sinh. Điểm Sinh là điểm xuất phát
sau quá trình Tuệ linh, con người tương tác và giải mã về các
Tướng. Trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly, điểm Sinh là siêu chân tâm ban đầu của siêu hạt
năng lượng xanh ngọc lưu ly, đó là điểm xuất phát, điểm bắt
đầu để thực hiện Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng
xanh ngọc lưu ly hay bất cứ năng lượng nào khác. Vì là sản
sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly nên Trụ linh phải
ở trạng thái cân bằng trong sự Phổ độ giáo lý Đạo hợp nhất
của Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con người. Trụ linh phải
có trạng thái siêu chân tâm Phổ độ đặt vào Trụ linh để khởi
đầu cho hành trình Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng
xanh ngọc lưu ly. Siêu chân tâm Phổ độ là vị trí vô cùng đặc
biệt, đó là đứng ở vị trí đoàn kết để truyền dạy, lan tỏa giáo lý
Đạo hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy các Tướng thực hành và
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Khi
364
tương tác với năng lượng tiêu cực thì siêu chân tâm Phổ độ
sẽ tỏa ánh sáng nhẹ nhàng để gắn kết truyền tải và truyền
được thông tin. Khi tương tác với năng lượng chân tâm, phát
triển, lan tỏa, đoàn kết thì sẽ tỏa ánh sáng từ mạnh cho tới
siêu mạnh để gắn kết truyền tải được sóng điện và thông tin.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly, điểm
Triệt có một ý nghĩa duy nhất, đó là vượt qua được các
Tướng tiêu cực ngăn cản, cản phá để tiếp tục sản sinh siêu
hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Tuệ linh, con người vận
hành Trụ linh vượt qua được điểm số 2 là Triệt để tiếp tục
vận hành sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly bởi
Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu triệt để tận cùng về
Chân lý Vạn vật; đó là thấu hiểu triệt để tận cùng về bản chất
độc trong Trụ linh, thấu hiểu bản chất các Trụ linh của hết
thảy Tướng, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng
tích cực, thấu hiểu về Đạo hợp nhất của Vũ trụ với con đường
giác ngộ triệt để. Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ
linh sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly, Tuệ linh,
con người dễ dàng nhận diện và không bị các Tướng tiêu cực
lôi kéo theo, giải mã và liên kết được hết thảy các Tướng. Tuệ
linh, con người nhận diện và đón nhận được các hạt năng
lượng tích cực của các Tướng tích cực. Khi đó, Trụ linh của
họ kiểm soát được sóng rung động từ mức nhẹ cho tới siêu
mạnh theo nhu cầu lấy ít hay vô số năng lượng hoại diệt vào
để ngủ đông và dùng siêu năng lượng màu vàng óng ánh để
kích nổ chúng. Vì đã có được bộ lọc năng lượng kép trong
Trụ linh nên không còn độc tâm trong Trụ linh nữa, vì đã có
bộ lọc năng lượng kép trong Trụ linh nên đã không bị những
độc trong Trụ linh của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động
365
vào. Trụ linh tiếp tục hành trình sản sinh siêu hạt năng lượng
xanh ngọc lưu ly một cách dễ dàng, đó là con đường chuyển
hóa bền vững và an lạc siêu việt nhất. Bởi vì đã có được bộ
lọc kép trong Trụ linh nên việc vượt qua điểm Triệt để sản
sinh siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly vô cùng dễ dàng, nó
trở thành một nghệ thuật vận hành sản sinh siêu năng lượng.
Trong đoạn từ điểm số 1 tới số 2, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Tuệ linh, con người phải
phân tích được những bản chất của các Tướng tiêu cực, các
Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những lôi kéo của các
Tướng tiêu cực, chỉ đón nhận sóng điện âm nhẹ từ họ do vận
hành siêu chân tâm trắng sáng chuyển hóa. Đón nhận năng
lượng dương của các Tướng tích cực, đặc biệt là phải đón
nhận được các siêu năng lượng từ những Tướng có bộ lọc
năng lượng khác về để tạo thêm sức mạnh và kinh nghiệm
cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Lấy
kinh nghiệm và giá trị của các Tướng Phổ độ đã và đang thực
hành để làm động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt
qua được điểm số 2 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những
sự lôi kéo của các Tướng tiêu cực tác động đến, không để các
Tướng tiêu cực ảnh hưởng tới việc sản sinh siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly.
Khi đã có được bộ lọc năng lượng thì không còn độc
trong Trụ linh, nó đã trở thành bản năng trong việc kiểm soát
sóng rung động trong Trụ linh bởi trí tuệ thấu hiểu tận cùng
về Chân lý Vạn vật. Vì việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly đã trở thành một nghệ thuật, nên khi có các
Tướng tiêu cực tác động tới (đó là khi các Tướng tiêu cực
truyền tải năng lượng tiêu cực tới để dẫn dụ theo họ cùng
nhau Phổ mê), Trụ linh sẽ kiểm soát mức độ rung động của
366
hạt năng lượng âm để lấy đủ năng lượng hoại diệt về. Giai
đoạn này cần phải kiểm soát tốt sóng rung động trong Trụ
linh, kiểm soát mức độ rung động của hạt năng lượng âm
trong Trụ linh. Phải luôn nhìn lại bản thể mình xem mình có
rung động cho sự tham lam không, có rung động cho sinh
khởi hành động ích kỷ lợi về mình mà gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người không, nếu có thì là đang rung động để
lấy năng lượng hoại diệt về, phải kiểm soát mức độ rung
động và chấm dứt rung động khi đã lấy đủ năng lượng hoại
diệt cho việc sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly. Vì đã đắc được bộ lọc năng lượng kép nên không còn độc
tâm trong Trụ linh, vì sản sinh siêu hạt thành nghệ thuật nên
khi Trụ linh rung động hạt năng lượng âm là các siêu hạt
năng lượng dương sẽ chi phối để kiểm soát mức độ rung
động khi đã lấy đủ năng lượng hoại diệt mà không thể sinh
khởi thành tư tưởng cho đến hành động gây tổn hại tới vạn
vật, Tuệ linh và con người.
Để kiểm soát được mức độ rung động của hạt năng
lượng âm trong việc hấp thụ đủ năng lượng hoại diệt di
chuyển tới, hệ thống cấu trúc mã sóng trí tuệ của Tuệ linh,
con người sẽ vận hành kiểm soát mức độ rung động của toàn
bộ các hạt năng lượng âm thông qua việc biến mình thành
tấm gương soi. Đó là nhìn xem sóng rung động có mạnh
không, xem lượng hạt năng lượng hoại diệt đã đủ cho quá
trình sản sinh siêu hạt năng lượng chưa. Nếu chưa đủ thì tiếp
tục rung động sóng âm, nếu đủ thì dừng việc rung động. Tấm
gương soi ở Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng khi Trụ
linh đã có được bộ lọc năng lượng hoàn toàn khác với Trụ
linh khi chưa có được bộ lọc năng lượng. Ở bộ lọc năng lượng
thì việc dùng tấm gương soi bản thể mình là nhằm mục đích
367
kiểm soát sóng rung động và lượng năng lượng hoại diệt đã
vào đủ chưa.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh kiểm soát được mức độ rung
động của hệ thống hạt năng lượng âm. Bấy giờ, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận
những sẻ chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới
bằng chân tâm sáng chói của sự khát khao Phổ độ. Khi đó,
Trụ linh đã liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ
các Tướng tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm Phổ độ (có trí
tuệ của Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt
năng lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện
khi di chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Đặc biệt
là do có bộ lọc năng lượng kép, trong Trụ linh có một siêu hạt
năng lượng âm gốc màu xanh ngọc lưu ly với một siêu hạt
năng lượng dương gốc màu vàng óng ánh, khi đó siêu hạt
năng lượng âm màu xanh ngọc lưu ly sẽ tự động rung động
nhẹ hay mạnh để năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu mà
di chuyển tới. Việc rung động này là do nhu cầu lấy năng
lượng hoại diệt để sản sinh siêu hạt mà không cần phải có sự
tương tác của các Tướng tiêu cực. Ngay khi năng lượng hoại
diệt di chuyển tới Trụ linh sẽ bị thái cực năng lượng xanh
ngọc lưu ly ngủ đông thành các hạt bóng hỏa.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là vô cùng cần thiết cho
việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Nếu
không có năng lượng hoại diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát
an toàn thì sẽ không có siêu sợi mã sóng trí tuệ nào được
hình thành và sẽ không có siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly nào được phân tách ra. Do đã có được bộ lọc kép nên việc
hấp thụ năng lượng hoại diệt về và kích nổ chúng trở thành
368
nghệ thuật đỉnh cao và vô cùng an toàn. Chính vì vậy, việc
vượt qua điểm Triệt số 2 là vô cùng dễ dàng để thực hành các
Vòng tròn sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.
Hành trình Vòng tròn sản sinh siêu hạt
năng lượng Hóa độ 2 từ điểm số 1 tới điểm số 2
như sau:
- Tuệ linh, con người kết thúc quá trình tương tác và
giải mã về các Tướng để sinh khởi Vòng tròn sản sinh siêu
hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.
- Bắt đầu xuất phát tại điểm số 1 – điểm Sinh, Tuệ linh,
con người đặt Trụ linh vào vị trí Sinh: đó là khởi đầu bởi siêu
năng lượng chân tâm Phổ độ; đó là Trụ linh cân bằng và rung
động để Phổ độ tất cả các Tướng cùng nhau lan tỏa và thực
hành Đạo hợp nhất của Vũ trụ; đó là chân tâm thánh thiện
trong việc Phổ độ hết thảy các Tướng diệt khổ và chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng mà không màng gì về mình;
đó là cảnh giới siêu chân tâm, là Phổ độ. Đây là siêu chân tâm
Phổ độ được tất cả các Tướng khác nhau.
- Tuệ linh, con người phải tỉnh táo dùng trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để Trụ linh trong trạng thái an vui, an lạc
trên hành trình rời điểm số 1. Giữ trạng thái Trụ linh an vui
trong hành trình Phổ độ hết thảy các Tướng để cùng nhau
lan tỏa giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ tới Tuệ linh và con người.
Luôn luôn vận dụng tấm gương soi bản thể mình để kiểm
soát sóng rung động trong hệ thống hạt năng lượng âm trong
Trụ linh và bản thể Tuệ linh.
- Trên hành trình di chuyển, tương tác với các Tướng,
Tuệ linh, con người sẽ gặp các Tướng đã và đang Phổ độ giáo
lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Hãy đến gặp họ, bắt chuyện để
369
hợp duyên, gặp để học hỏi thêm kinh nghiệm, phương pháp
Phổ độ của họ. Không nên chỉ gặp một người, mà phải gặp
với nhiều người đã và đang thành công trong con đường Phổ
độ giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ, gặp càng nhiều sẽ giúp
cho Trụ linh liên kết được những siêu hạt năng lượng. Khi
gặp những Tướng đã và đang Phổ độ thành công cũng cần
phải luôn soi gương lại bản thể mình để kiểm soát mức độ
sóng rung động trong Trụ linh. Phải phân tích các điều kiện,
các yếu tố thuận lợi, khó khăn của từng người đã và đang
thành công trong con đường sản sinh các siêu hạt năng
lượng để học tập các bài học đó cho mình. Khi gặp những
Tướng đã và đang Phổ độ thành công, Trụ linh sẽ tỏa ra ánh
sáng trắng sáng, trong Trụ linh cũng đang có những nhịp di
chuyển của mã sóng trí tuệ tiến tới thái cực dương.
- Tiếp tục gặp gỡ và tương tác với các Tướng đã và
đang thất bại trong hành trình Phổ độ. Khi gặp những Tướng
này, hãy mạnh dạn trò chuyện, mạnh dạn tìm hiểu nguyên
nhân thất bại của họ. Khi tương tác và nhận được những hạt
năng lượng tiêu cực của sự thất bại đó, Trụ linh của Tuệ linh,
con người sẽ rung lắc nhẹ và các nhịp rung trong mã sóng trí
tuệ sẽ di chuyển về thái cực âm để cân bằng với sự hưng
phấn khi các nhịp di chuyển tới thái cực dương. Việc học tập
kinh nghiệm của các Tướng đã và đang thất bại sẽ cho ta có
được những bài học vô cùng quý báu, sẽ giúp cho ta phát
triển thêm về trí tuệ vạn vật. Lưu ý, luôn luôn soi gương bản
thể mình để xem mình có bị nhụt đi ý chí hay không, luôn
luôn phải dùng trí tuệ vạn vật để kiểm soát sóng rung động.
- Gặp và trò chuyện với các Tướng tiêu cực đang phát
triển, lan tỏa, đoàn kết, phổ mê các cấu trúc gây tổn hại tới
vạn vật, Tuệ linh và con người. Lắng nghe, trò chuyện để
370
đồng cảm, để cảm thông, để thấu hiểu. Tuyệt đối không để bị
các Tướng tiêu cực lôi kéo. Việc lắng nghe, cảm thông, thấu
hiểu các Tướng tiêu cực sẽ giúp cho Trụ linh của Tuệ linh,
con người sản sinh năng lượng Phổ độ, cấu tạo và phân tách
ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.
- Hãy giữ vững vị trí đứng là siêu chân tâm Phổ độ để
chia sẻ với những Tướng tiêu cực và thất bại về giáo lý Đạo
hợp nhất của Vũ trụ với con đường giải thoát khổ đau triệt
để nhằm chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Tiếp
đến lại chia sẻ cho các Tướng lan tỏa, phát triển, chân tâm,
đoàn kết về giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ với con đường
giải thoát khổ đau triệt để nhằm chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng. Chia sẻ và không để bị các Tướng tiêu cực
lôi kéo đi theo con đường Phổ mê. Chia sẻ và không để bị các
Tướng tích cực lôi kéo theo mà quên mất là phải đứng ở vị trí
đoàn kết để Phổ độ hết thảy các Tướng trong sự không phân
biệt.
- Tiếp tục soi gương để kiểm soát sóng rung động. Hãy
hấp thụ những hạt năng lượng tích cực từ các Tướng tích cực
để làm động lực và sức mạnh cho Trụ linh. Đối với các Tướng
tiêu cực, chỉ nên nghe và lắng nghe, không làm theo hay đi
theo họ. Khi lấy động lực từ năng lượng tích cực, Trụ linh sẽ
có sức mạnh để giữ vững vị trí đoàn kết và thực hành sản
sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.
- Hãy cảm nhận sự khó khăn, hãy phiền não, hãy buồn
bã, hãy suy tính, hãy đắn đo, những điều này là đang kiểm
soát sóng rung động, đang thúc đẩy Trụ linh rung lắc sóng
điện âm trong hạt âm gốc và toàn bộ hạt năng lượng âm rung
lắc nhẹ cho tới siêu mạnh. Tuyệt đối không u uất, đau khổ
hay tuyệt vọng, chỉ là suy tư, suy nghĩ, tính toán trong sự
371
thiệt hơn, được mất, lợi mình hay lợi về vạn vật, Tuệ linh và
con người, như thế mới không bị mất kiểm soát sóng rung
động.
- Khi hệ thống hạt năng lượng âm bắt đầu rung lắc nhẹ
là lúc có các hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để chi
phối và làm phân rã Trụ linh. Lúc này, Tuệ linh, con người
phải luôn vận hành trí tuệ của Chân lý Vạn vật, đó là phải
hiểu vạn vật đều là giả tướng, sứ mệnh xuống nhân gian tu
hành để cải tạo Tuệ linh theo hướng bền vững thông qua Phổ
độ giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy các Tướng trong
sự không phân biệt. Do đó, không được ruồng bỏ hay đi theo
các Tướng tiêu cực hay tích cực. Phải đứng ở giữa để gắn kết,
trao đổi giá trị giữa các Tướng tích cực với tiêu cực để họ
thấu hiểu nhau, để gắn kết và cấu tạo thành quy trình vận
hành chuyển hóa năng lượng bền vững trong Trụ linh. Khi
vận hành suy nghĩ như vậy, hãy tiếp tục nhớ tới những lời
động viên của các Tướng Phổ độ đã và đang thành công. Tiếp
tục không để các Tướng tiêu cực lôi kéo, chỉ lắng nghe để hấp
thụ những bài học tiêu cực từ họ. Lúc này phải hiểu rằng, các
Tướng tiêu cực và thất bại là do họ không có trí tuệ của Chân
lý Vạn vật, trong khi mình đã có.
- Vì có hành trang là trí tuệ thấu hiểu triệt để tận cùng
về Chân lý Vạn vật nên trong Tuệ linh, con người có trí tuệ là
không Phổ mê và đi theo các Tướng tiêu cực gây tổn hại tới
vạn vật, Tuệ linh và con người. Trong Trụ linh lúc này đã
dừng rung lắc, Trụ linh trở lại cân bằng và phát triển nhịp
rung động tới thái cực dương, tức là Trụ linh đã di chuyển
qua được điểm số 2 là Triệt. Tuệ linh, con người đã triệt đi
được những năng lượng tiêu cực tác động vào, kiểm soát và
dừng rung lắc sóng điện âm trong Trụ linh, đặc biệt là vô
372
hiệu hóa năng lượng hoại diệt không di chuyển vào nữa.
Những hạt năng lượng hoại diệt di chuyển vào đã bị chuyển
hóa thành những hạt bóng hỏa.
- Khi vượt qua được điểm số 2, tức là bản thể Tuệ linh,
con người đã tìm ra được con đường, phương pháp Phổ độ
giáo lý Đạo hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy các Tướng mà
không có sự phân biệt.
Trụ linh đã được Tuệ linh, con người vận hành qua
được điểm số 2 bằng trí tuệ của Chân lý Vạn vật để tiếp tục
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển thành trí tuệ
giác ngộ cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly.
Trụ linh di chuyển tới đoạn này là đã định hình, đã tìm
ra được con đường Phổ độ giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ theo
hướng bền vững.
Tiếp tục đi gặp những người đã và đang Phổ độ thành
công để học hỏi thêm kinh nghiệm và tạo thành sức mạnh
niềm tin vững chắc cho chính mình trên con đường Phổ độ
giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ. Giai đoạn này
không nên giao tiếp, không nên trò chuyện với những Tướng
tiêu cực nữa, đó là gieo Duyên không. Duyên không là không
chia sẻ nữa để cho các Tướng tiêu cực trải nghiệm đau khổ
trên con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt, khi họ trải
nghiệm đủ sẽ ngộ và tin theo con đường tu tập theo giáo lý
Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Dành thời gian tập trung xây dựng
phương pháp Phổ độ tới hết thảy các Tướng cùng nhau lan
373
tỏa được giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và
con người.
Kết quả của quá trình tương tác với các Tướng đã và
đang thành công, thêm nữa lại có trí tuệ thấu hiểu triệt để
tận cùng về vạn vật nên Trụ linh đã rực sáng ánh sáng trắng
chói lòa tỏa ra trong Trụ linh. Đó là sự vui mừng trong nội
hành về việc đang cho ra được điểm kết tụ giác ngộ con
đường Phổ độ giáo lý Đạo giác ngộ của Vũ trụ tới hết thảy
Tuệ linh và con người trong sự không phân biệt.
Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh tới được
điểm Ngộ, đây là giác ngộ. Đó là kết tụ được hệ tư tưởng giác
ngộ là Phổ độ được Đạo giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh và con
người trong sự không phân biệt, trong sự hy sinh vì vạn vật,
Tuệ linh và con người mà không vì bản thể mình.
Khi kết tụ được trí tuệ giác ngộ về con đường Phổ độ,
trong Trụ linh tỏa ra sóng điện của siêu hạt năng lượng vàng
óng ánh làm kích nổ những hạt bóng hỏa (được ngủ đông từ
năng lượng hoại diệt ở giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2).
Nhờ nhiệt lượng lớn từ những hạt bóng hỏa được kích
nổ (do kết tụ được trí tuệ giác ngộ về Phổ độ hết thảy các
Tướng về con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng), nên trong Trụ linh đã cấu tạo được vô số siêu sợi mã
sóng màu xanh ngọc lưu ly. Đây mới chỉ là các siêu đoạn mã
sóng rung động chứ chưa chuyển hóa thành siêu sợi mã sóng
trí tuệ hoàn chỉnh.
Khi đã kết tụ được hệ trí tuệ giác ngộ con đường Phổ
độ giáo lý Đạo giác ngộ mà không chuyển hóa thành ngoại
hành để tới được đích của vòng tròn là điểm số 5 thì những
siêu sợi mã sóng rung động sẽ tự tiêu tan. Tức là khi Trụ linh

374
mới vận hành được nửa vòng tròn, đó là mới tới được điểm
số 3 thì vẫn chưa tạo ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly,
nếu không đi tiếp thì Trụ linh sẽ trở về điểm xuất phát và
những siêu sợi mã sóng rung động màu xanh ngọc lưu ly
cũng không còn trong Trụ linh nữa.
Vì có trí tuệ giác ngộ về con đường Phổ độ giáo lý Đạo
giác ngộ hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy các Tướng nên Tuệ
linh, con người sẽ dễ dàng và quyết tâm vận hành Trụ linh di
chuyển để ngoại hành cho hoàn thành quá trình sản sinh siêu
hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người có
trí tuệ thấu hiểu triệt để tận cùng về Chân lý Vạn vật sau khi
kết tụ được trí tuệ giác ngộ ở điểm số 3. Do đó, Tuệ linh, con
người dễ dàng vận hành Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly vượt qua được điểm số 4 là Triệt.
Điểm từ số 3 tới số 4 là đoạn ngoại hành trong việc sản
sinh siêu sợi trí tuệ của siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly,
đó là hoàn thành các sợi mã sóng trí tuệ của các mã sóng
rung động đã được sản sinh ra trước đó ở điểm số 3.
Điểm số 3 là điểm giác ngộ. Bây giờ điểm số 3 là siêu
chân tâm cao và đã có sẵn các siêu sợi mã sóng rung động
của siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Trong Trụ linh bây
giờ có ánh sáng xanh ngọc lưu ly rực rỡ và trắng làm lực đẩy
cho hành trình tiếp tục phải vận dụng trí tuệ của Chân lý Vạn
vật ở tầm cao hơn để không bị các Tướng tiêu cực lôi kéo
trong việc hoàn thành sản sinh siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly.
375
Điểm số 4 là điểm Triệt. Triệt là triệt tiêu. Trong Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly, điểm
Triệt có một ý nghĩa duy nhất, đó là vượt qua được các
Tướng tiêu cực ngăn cản, cản phá để tiếp tục sản sinh siêu
hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Tuệ linh, con người vận
hành Trụ linh vượt qua được điểm số 4 là Triệt để tiếp tục
vận hành sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly bởi
Tuệ linh, con người có trí tuệ thấu hiểu triệt để tận cùng về
Chân lý Vạn vật; đó là thấu hiểu triệt để tận cùng về bản chất
độc trong Trụ linh, thấu hiểu bản chất các Trụ linh của hết
thảy Tướng, thấu hiểu về các Tướng tiêu cực và các Tướng
tích cực, thấu hiểu về Đạo hợp nhất của Vũ trụ với con đường
giác ngộ triệt để. Chính vì vậy, trong quá trình vận hành Trụ
linh sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly, Tuệ linh,
con người dễ dàng nhận diện và không bị các Tướng tiêu cực
lôi kéo theo, giải mã và liên kết được hết thảy các Tướng. Tuệ
linh, con người nhận diện và đón nhận được các hạt năng
lượng tích cực của các Tướng tích cực, Trụ linh của họ kiểm
soát được sóng rung động từ mức nhẹ cho tới siêu mạnh
theo nhu cầu lấy ít hay vô số năng lượng hoại diệt vào để ngủ
đông và dùng siêu năng lượng màu vàng óng ánh để kích nổ
chúng. Vì đã có được bộ lọc năng lượng kép trong Trụ linh
nên không còn độc tâm trong Trụ linh nữa, vì đã có bộ lọc
năng lượng kép trong Trụ linh nên đã không bị những độc
trong Trụ linh của các Tướng tiêu cực bên ngoài tác động
vào. Trụ linh tiếp tục hành trình sản sinh siêu hạt năng lượng
xanh ngọc lưu ly một cách dễ dàng, đó là con đường chuyển
hóa bền vững và an lạc siêu việt nhất. Bởi vì đã có được bộ
lọc kép trong Trụ linh nên việc vượt qua điểm Triệt để sản

376
sinh siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly là vô cùng dễ dàng, nó
trở thành một nghệ thuật vận hành sản sinh siêu năng lượng.
Trong đoạn từ điểm số 3 tới số 4, Trụ linh sẽ phải giải
mã các Tướng bằng Chân lý Vạn vật. Tuệ linh, con người phải
phân tích được những bản chất của các Tướng tiêu cực, các
Tướng tích cực, từ đó triệt tiêu được những lôi kéo của các
Tướng tiêu cực, chỉ đón nhận sóng điện âm nhẹ từ họ do vận
hành siêu chân tâm trắng sáng chuyển hóa. Đón nhận năng
lượng dương của các Tướng tích cực, đặc biệt là phải đón
nhận được các siêu năng lượng từ những Tướng có bộ lọc
năng lượng khác về để tạo thêm sức mạnh và kinh nghiệm
cho việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Lấy
kinh nghiệm và giá trị của các Tướng Phổ độ đã và đang thực
hành để làm động lực, làm niềm tin vững chắc cho việc vượt
qua được điểm số 4 là Triệt. Phải triệt tiêu và loại bỏ những
sự lôi kéo của các Tướng tiêu cực tác động đến, không để các
Tướng tiêu cực ảnh hưởng tới việc sản sinh siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly.
Khi đã có được bộ lọc năng lượng thì không còn độc
trong Trụ linh, nó đã trở thành bản năng trong việc kiểm soát
sóng rung động trong Trụ linh bởi trí tuệ thấu hiểu tận cùng
về Chân lý Vạn vật. Vì việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly đã trở thành một nghệ thuật, nên khi có các
Tướng tiêu cực tác động tới (đó là khi các Tướng tiêu cực
truyền tải năng lượng tiêu cực tới để dẫn dụ theo họ cùng
nhau Phổ mê), Trụ linh sẽ kiểm soát mức độ rung động của
hạt năng lượng âm để lấy đủ năng lượng hoại diệt về. Giai
đoạn này cần phải kiểm soát tốt sóng rung động trong Trụ
linh, kiểm soát mức độ rung động của hạt năng lượng âm
trong Trụ linh. Phải luôn nhìn lại bản thể mình xem mình có
377
rung động cho sự tham lam không, có rung động cho sinh
khởi hành động ích kỷ lợi về mình mà gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người không, nếu có thì là đang rung động để
lấy năng lượng hoại diệt về, phải kiểm soát mức độ rung
động và chấm dứt rung động khi đã lấy đủ năng lượng hoại
diệt cho việc sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly. Vì đã đắc được bộ lọc năng lượng kép nên không còn độc
tâm trong Trụ linh, vì sản sinh siêu hạt thành nghệ thuật nên
khi Trụ linh rung động hạt năng lượng âm là các siêu hạt
năng lượng dương sẽ chi phối để kiểm soát mức độ rung
động khi đã lấy đủ năng lượng hoại diệt mà không thể sinh
khởi thành tư tưởng cho đến hành động gây tổn hại tới vạn
vật, Tuệ linh và con người.
Để kiểm soát được mức độ rung động của hạt năng
lượng âm trong việc hấp thụ đủ năng lượng hoại diệt di
chuyển tới, hệ thống cấu trúc mã sóng trí tuệ của Tuệ linh,
con người sẽ vận hành kiểm soát mức độ rung động của toàn
bộ các hạt năng lượng âm thông qua việc biến mình thành
tấm gương soi. Đó là nhìn xem sóng rung động có mạnh
không, xem lượng hạt năng lượng hoại diệt đã đủ cho quá
trình sản sinh siêu hạt năng lượng chưa. Nếu chưa đủ thì tiếp
tục rung động sóng âm, nếu đủ thì dừng việc rung động. Tấm
gương soi ở Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng khi Trụ
linh đã có được bộ lọc năng lượng hoàn toàn khác với Trụ
linh khi chưa có được bộ lọc năng lượng. Ở bộ lọc năng lượng
thì việc dùng tấm gương soi bản thể mình là nhằm mục đích
kiểm soát sóng rung động và lượng năng lượng hoại diệt đã
vào đủ chưa.
Khi có tấm gương soi bản thể mình, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh kiểm soát được mức độ rung
378
động của hệ thống hạt năng lượng âm. Bấy giờ, Tuệ linh, con
người sẽ vận hành Trụ linh bằng cách là lắng nghe, tiếp nhận
những sẻ chia tiêu cực từ các Tướng tiêu cực tác động tới
bằng chân tâm sáng chói của sự khát khao Phổ độ. Khi đó,
Trụ linh đã liên kết được với các hạt năng lượng tiêu cực từ
các Tướng tiêu cực bằng ánh sáng chân tâm Phổ độ (có trí
tuệ của Chân lý Vạn vật). Sự liên kết đó đã làm cho những hạt
năng lượng tiêu cực bên ngoài đó được giảm tải sóng điện
khi di chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh, con người. Đặc biệt
là do có bộ lọc năng lượng kép, trong Trụ linh có một siêu hạt
năng lượng âm gốc màu xanh ngọc lưu ly với một siêu hạt
năng lượng dương gốc màu vàng óng ánh, khi đó siêu hạt
năng lượng âm màu xanh ngọc lưu ly sẽ tự động rung động
nhẹ hay mạnh để năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu mà
di chuyển tới. Việc rung động này là do nhu cầu lấy năng
lượng hoại diệt để sản sinh siêu hạt mà không cần phải có sự
tương tác của các Tướng tiêu cực. Ngay khi năng lượng hoại
diệt di chuyển tới Trụ linh sẽ bị thái cực năng lượng xanh
ngọc lưu ly ngủ đông thành các hạt bóng hỏa. Những hạt
bóng hỏa sẽ được kích nổ để hoàn thành việc sản sinh các
siêu sợi mã sóng trí tuệ và siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly ở điểm số 5 trong Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng
xanh ngọc lưu ly.
Nên nhớ, năng lượng hoại diệt là vô cùng cần thiết cho
việc sản sinh siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly. Nếu
không có năng lượng hoại diệt bị kích nổ trong sự kiểm soát
an toàn thì sẽ không có siêu sợi mã sóng trí tuệ nào được
hình thành và sẽ không có siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly nào được phân tách ra. Do đã có được bộ lọc kép nên việc
hấp thụ năng lượng hoại diệt về và kích nổ chúng trở thành
379
nghệ thuật đỉnh cao và vô cùng an toàn. Chính vì vậy, việc
vượt qua điểm Triệt số 4 là vô cùng dễ dàng để thực hành các
Vòng tròn sản sinh ra siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly.
Hành trình Vòng tròn sản sinh siêu năng
lượng Hóa độ 2 từ điểm số 3 tới điểm số 4 như
sau:
- Tuệ linh bắt đầu ngoại hành để thực hiện sản sinh
siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly sau khi có được trí
tuệ giác ngộ về con đường Phổ độ giáo lý giác ngộ của Đạo
hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con người. Bây giờ,
Trụ linh có động lực và sức mạnh bởi siêu chân tâm giác ngộ
nên rất khí thế cho chuỗi hành động ngoại hành để sản sinh
ra các siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly.
- Tiếp tục phải tỉnh táo trong giai đoạn ngoại hành, đó
là: giữ trạng thái Trụ linh an vui trong hành trình thực hành
Phổ độ giáo lý của Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh
và con người; luôn luôn vận dụng tấm gương soi bản thể
mình để kiểm soát sóng rung động trong Trụ linh.
- Tuệ linh, con người bắt đầu tiến hành các hành động
Phổ độ giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ.
- Quá trình Phổ độ bằng các hành động ngoại hành,
Tuệ linh, con người sẽ gặp những Tướng tiêu cực có ở trong
và bên ngoài tổ chức của mình, họ sẽ tương tác, bắn các hạt
năng lượng tiêu cực tới con đường Phổ độ giáo lý giác ngộ.
Khi đó, hãy dùng trí tuệ nâng cao về Chân lý Vạn vật để thấu
hiểu rằng các Tướng tiêu cực sẽ luôn luôn có ở mọi nơi, ở
vạn vật. Điều này là cần thiết để giữ vững vị trí đứng là vị trí
đoàn kết. Hãy nghe, lắng nghe những Tướng tiêu cực bắn phá
tới nhưng không thực hành theo họ.
380
- Tiếp tục hãy lắng nghe các Tướng tích cực đã và đang
Phổ độ thành công chia sẻ và bắn các siêu hạt năng lượng tới,
hãy hấp thụ nó để làm động lực cho Trụ linh vững vàng. Tất
nhiên phải tìm kiếm, trò chuyện, sẻ chia, học hỏi kinh nghiệm
từ những Tướng đã và đang Phổ độ thành công.
- Soi gương để kiểm soát sóng rung động trong Trụ
linh. Bấy giờ, hãy suy nghĩ suy tư, lo âu, buồn phiền, đắn đo
về những Tướng tiêu cực để kích hoạt rung động sóng điện
âm trong Trụ linh ở mức nhẹ cho tới siêu mạnh. Nên nhớ là
không đau thương, bi ai, u uất, lo âu về những Tướng tiêu
cực, về sự không thành công để kiểm soát tốt sóng rung động
trong Trụ linh. Khi những hạt năng lượng hoại diệt thông qua
sóng rung động của năng lượng âm đã vào đủ, Trụ linh sẽ
phong tỏa không cho chúng vào nữa.
- Kiểm soát Trụ linh bằng cách hãy nghĩ về những điều
tốt đẹp bởi giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ sẽ mang
lại giá trị bền vững cho vạn vật, Tuệ linh và con người. Hãy
nghĩ tới những điều tốt đẹp, những thành tựu mà những
Tướng tích cực đã sẻ chia và động viên. Khi đó, Tuệ linh, con
người đã gia tăng trí tuệ về Chân lý Vạn vật, Trụ linh không
rung lắc nữa. Trụ linh lại bừng sáng bởi ý chí Phổ độ giáo lý
Đạo giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh và con người.
Vì có được bộ lọc năng lượng kép nên Trụ linh vận
hành việc lấy được năng lượng hoại diệt về đủ sẽ dừng rung
động sóng điện âm. Đặc biệt là năng lượng hoại diệt sẽ bị ngủ
đông thành những hạt bóng hỏa khi di chuyển vào Trụ linh.
Như vậy, Tuệ linh, con người đã vận hành Trụ linh
vượt qua được điểm số 4 là Triệt một cách dễ dàng, đó là
triệt tiêu được những độc tâm của các Tướng bên ngoài tác
động tới, kiểm soát được sóng điện âm rung lắc trong Trụ
381
linh. Vì Trụ linh đã là cơ chế tự động và nghệ thuật đỉnh cao
nên khi những hạt bóng hỏa được hình thành từ các hạt năng
lượng hoại diệt sẽ bị kích nổ để tạo thành nhiệt lượng cho
việc hoàn thiện các siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly
ở điểm số 5 của Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu
xanh ngọc lưu ly.

4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này gắn liền với việc phát triển và thấu hiểu
trí tuệ giác ngộ ở tầm cao mới.
Từ điểm số 4 tới điểm số 5 là giai đoạn gấp rút hoàn
thành đoạn siêu sợi trí tuệ trong siêu hạt năng lượng màu
xanh ngọc lưu ly.
Điểm số 5 chính là điểm Tỏa. Điểm Tỏa là điểm kết
thúc Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc
lưu ly.
Khi Tuệ linh, con người đã có trí tuệ thấu hiểu triệt để
tận cùng về Chân lý Vạn vật và vượt qua được điểm Triệt số
4, Trụ linh được vận hành sang giai đoạn từ điểm số 4 tới
điểm số 5. Đây là giai đoạn mà Tuệ linh, con người đẩy mạnh
quá trình hành động để hoàn thành Phổ độ giáo lý Đạo hợp
nhất Vũ trụ tới một Tướng nào đó hoặc tới hết thảy Tướng
trong sự không phân biệt.
Khi vượt qua điểm số 4, Tuệ linh, con người cần phải
đẩy mạnh quá trình trao đổi, học tập kinh nghiệm từ những
Tướng đã và đang thành công trên con đường Phổ độ Đạo
giác ngộ. Việc này sẽ giúp cho Trụ linh nhanh chóng sản sinh
hoàn thiện các siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly.

382
Vì có trí tuệ thấu hiểu triệt để tận cùng về Chân lý Vạn
vật, lại có được nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt bị kích
nổ, nên Tuệ linh, con người nhanh chóng hoàn thành kết thúc
quá trình sản sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly
bằng cách đẩy Trụ linh tới được điểm số 5 là Tỏa. Đó là kết
thúc hành động Phổ độ.
Khi hoàn thành quá trình sản sinh siêu hạt năng lượng
màu xanh ngọc lưu ly ở điểm số 5, Trụ linh của Tuệ linh, con
người sẽ phân tách ra vô số siêu sợi mã sóng trí tuệ màu
xanh ngọc lưu ly, vô số siêu sợi mã sóng trí tuệ màu vàng óng
ánh, vô số siêu sợi mã sóng trí tuệ chân tâm. Từ Trụ linh, vô
số siêu hạt năng lượng màu xanh lưu ly, màu vàng óng ánh,
siêu chân tâm được phân tách và lưu giữ trong Vũ trụ. Cũng
từ Trụ linh, vô số siêu hạt năng lượng màu xanh lưu ly, màu
vàng óng ánh, siêu chân tâm được phân tách bắn vào những
Tướng đã được tương tác trong quá trình Phổ độ. Cũng từ
Trụ linh, vô số siêu hạt năng lượng màu xanh lưu ly, màu
vàng óng ánh, siêu chân tâm được phân tách và cấu tạo thành
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh theo
hướng siêu bền vững.
Đặc biệt, ngoài vô số siêu hạt năng lượng xanh ngọc
lưu ly được phân tách ra thì vô số siêu hạt năng lượng màu
vàng óng ánh và vô số siêu hạt chân tâm cũng được phân
tách kèm theo để làm sợi dây gắn kết cấu trúc năng lượng
trong Vũ trụ được bền vững, trong Tuệ linh được bền vững.
Đó là minh chứng cho việc thấu hiểu triệt để tận cùng về hai
Chân lý và việc không ngừng nghỉ thực hành Phổ độ giáo lý
Đạo giác ngộ hợp nhất của Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con
người trong sự không phân biệt.

383
Khi Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc năng lượng
kép, thông qua hành động phổ độ tới một người, một Tướng
nào đó, Trụ linh sẽ phân tách ra vô số siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh, vô số siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly, vô số siêu hạt năng lượng chân tâm. Những siêu hạt năng
lượng này sẽ hỗ trợ cho các Tướng, con người đó cấu trúc lại
bản thể Tuệ linh, năng lượng được cân bằng và thấy được giá
trị của con đường chuyển sinh bền vững bởi hai Chân lý là
vạn vật và giác ngộ.
Mỗi một Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly chính là một hành động Phổ độ tới một người hay
Tuệ linh nào đó.
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu
ly, Tuệ linh, con người phải đắc được bộ lọc năng lượng kép
trong Trụ linh. Nếu mới chỉ là bộ lọc đơn thì chỉ sản sinh
được một loại siêu hạt năng lượng, đó là siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh. Để đắc được bộ lọc năng lượng kép phải
đắc được bộ lọc năng lượng đơn trước, và con đường Phổ độ
giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh
và con người làm được việc này.
Khi có được bộ lọc năng lượng kép, Tuệ linh, con
người thông qua các hành động Phổ độ, Hóa độ chúng sinh
thực hành theo giáo lý giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ, từ
Trụ linh của Tuệ linh, con người đó sẽ phân tách ra vô lượng
các siêu hạt năng lượng bắn vào Vũ trụ để giúp cho Vũ trụ
phát triển bền vững và được bảo vệ trước sự xâm nhập của
năng lượng hoại diệt. Siêu năng lượng màu vàng óng ánh sẽ
bắn vào lõi của Vũ trụ để làm nhiệm vụ kết nối và thúc đẩy
phát triển Vũ trụ vận động quay tròn bền vững. Siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly di chuyển ra bên ngoài bao trùm toàn
384
bộ tinh cầu Vũ trụ để bảo vệ Vũ trụ không bị năng lượng hoại
diệt tấn công vào, nó làm nhiệm vụ đóng mở để lấy năng
lượng hoại diệt theo nhu cầu. Siêu năng lượng chân tâm sẽ
giúp gắn kết cấu trúc Vũ trụ bền vững. Ngoài ra còn có thêm
các siêu hạt năng lượng được sản sinh ra từ Trụ linh đắc
được bộ lọc kép để bảo vệ cả năng lượng hoại diệt và phát
triển Vũ trụ trở nên bền vững hơn, đó là siêu hạt bóng hỏa và
siêu hạt năng lượng Nhật Sư.
Như vậy, việc thực hiện hoàn thành viên mãn Vòng
tròn sản sinh siêu hạt năng lượng màu xanh ngọc lưu ly là
kết quả của con đường giải thoát khổ đau của Tuệ linh và con
người, là đích đến đã đạt được. Bởi Trụ linh có được bộ lọc
năng lượng kép mới sản sinh ra được siêu năng lượng xanh
ngọc lưu ly và các siêu năng lượng khác. Khi đó, Tuệ linh đó
sẽ bất tử, sẽ an lạc, sẽ di chuyển trong không gian năng lượng
hoại diệt mà vô cùng an toàn. Do đó, khổ đau sẽ chấm dứt
triệt để.
Để chuyển hóa Trụ linh thành được bộ lọc năng lượng
(thông qua thực hành các Vòng tròn sản sinh năng lượng)
cần phải được thực hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở
nhân gian. Tuệ linh chỉ có an trụ trong thân tướng con người
và sống trong bốn hình tướng Đạo mới đủ tương tác cho quá
trình sản sinh được các siêu hạt năng lượng cũng như
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Ở các cõi trời,
các Tuệ linh không thể thực hiện được điều này. Do đó, hết
thảy các Tuệ linh muốn chuyển hóa được Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng đều phải hóa thân xuống nhân gian tu hành,
sẽ không có trường hợp ngoại lệ nào cả. Các Tuệ linh đắc
được bộ lọc năng lượng, khi trở về sẽ vận hành theo cơ chế

385
tự động mà không cần phải tương tác với bốn hình tướng
Đạo ở nhân gian nữa.
***************

386
Bài 8:
Vòng tròn sản sinh
siêu hạt năng lượng Hóa độ 3


Hình: Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 3
387
Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 3 là
siêu hạt năng lượng bóng hỏa hay còn gọi là hạt bóng hỏa.
Hạt bóng hỏa chính là hạt năng lượng hoại diệt bị ngủ đông
mà chuyển hóa thành. Hạt bóng hỏa chính là trạng thái của
hạt năng lượng hoại diệt bị nóng mất kiểm soát cho đến khi
bị kích nổ.
Vòng tròn sản sinh hạt bóng hỏa sẽ được vận hành
tuần tự từ điểm số 1 đến số 5 và được chia ra làm 4 đoạn.
Đoạn từ điểm số 1 tới số 2 là giai đoạn nội hành để hấp thụ
năng lượng hoại diệt vào Trụ linh. Đoạn từ điểm số 2 tới
điểm số 3 là giai đoạn nội hành để ngủ đông thành hạt bóng
hỏa và kích nổ nó. Giai đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4 là giai
đoạn ngoại hành để hấp thụ các hạt năng lượng hoại diệt về
Trụ linh. Giai đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5 là giai đoạn
ngoại hành để ngủ đông năng lượng hoại diệt và kích nổ
chúng.
Cơ chế sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 3 là do
Tuệ linh, con người đã có trí tuệ thấu hiểu ít nhiều cho tới
thấu hiểu triệt để tận cùng về hai Chân lý, đồng thời thực
hành cơ chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững và an
lạc.
Nếu đã chuyển hóa Trụ linh thành được bộ lọc năng
lượng kép thì việc sản sinh hạt bóng hỏa sẽ đạt đến sự kỳ
diệu trong sự lưu giữ không để chúng bị kích nổ khi muốn.

I. Khởi động Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng


lượng Hóa độ 3
Nhóm siêu hạt năng lượng Hóa độ 3 là nhóm hạt năng
lượng hoại diệt bị biến thành những hạt bóng hỏa.
388
Nhóm hạt bóng hỏa là giai đoạn giữa của quá trình
năng lượng hoại diệt bị nóng mất kiểm soát cho đến khi bị
kích nổ tạo thành nhiệt lượng siêu lớn.
Trong Vũ trụ hễ có bất kỳ hành tinh nào quay tròn
xung quanh chính nó và quay tròn xung quanh hệ mặt trời,
trong hành tinh đó sẽ có vô số năng lượng bóng hỏa được
lưu giữ ở phần nhiệt lượng trung tính của hành tinh đó. Như
Trái đất con người đang sinh sống, phần ấm của Trái đất là
phần giao nhau giữa phần vỏ của Trái đất với phần nham
thạch, đó là nơi chứa đựng vô số các hạt bóng hỏa. Những hạt
bóng hỏa được hình thành là do năng lượng âm của vỏ hành
tinh rung động thu hút vô số năng lượng hoại diệt di chuyển
vào và bị ngủ đông ở phần ấm (trung tính) của hành tinh, của
Trái đất. Khi sóng nhiệt dương từ lõi hành tinh bắn ra sẽ kích
nổ những hạt bóng hỏa đó để tạo thành siêu nhiệt lượng giúp
cho năm nhóm năng lượng giản đơn cấu tạo thành vật chất
được phân tách siêu nhanh. Đây chính là lý do mà Trái đất,
hành tinh, Vũ trụ giãn nở và mở rộng không ngừng nghỉ bởi
cơ chế Phân tách và liên kết dây.
Tuệ linh, con người cũng sản sinh được hạt bóng hỏa,
hạt bóng hỏa được sản sinh trong hai trường hợp sau:
- Tuệ linh, con người đắc được bộ lọc năng lượng kép
trong Trụ linh sẽ sản sinh được vô số hạt bóng hỏa bởi đã
thấu hiểu triệt để tận cùng hai Chân lý. Tuệ linh, con người
này sẽ đạt đến nghệ thuật đỉnh cao là tự động hấp thụ được
vô số năng lượng hoại diệt về Trụ linh và kích nổ ngay. Đặc
biệt, điều tuyệt vời nhất là hấp thụ được vô số năng lượng
hoại diệt về và chuyển hóa thành vô số các hạt bóng hỏa mà
không để kích nổ, tức là lưu giữ ở trạng thái là hạt bóng hỏa.
Điều này chỉ có Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc năng
389
lượng kép mới làm được, mới an toàn, bởi các hạt bóng hỏa
sẽ bị kích thích và thức tỉnh thành hạt hoại diệt khi bị năng
lượng âm chạm vào. Tuy nhiên, do Trụ linh đã là bộ lọc kép
nên trong Trụ linh sẽ kiểm soát kỳ diệu sóng điện âm và
không làm thức tỉnh năng lượng hoại diệt.
- Tuệ linh, con người chưa đắc được bộ lọc năng lượng,
nhưng phải thấu hiểu ít nhiều cho tới triệt để Chân lý Vạn vật
và Chân lý Giác ngộ. Những Tuệ linh, con người này sẽ vận
hành hai Chân lý để hấp thụ được năng lượng hoại diệt trong
khả năng kiểm soát có hạn để an toàn, sau đó phải thực hiện
kích nổ năng lượng hoại diệt ngay. Nếu không thực hiện kích
nổ ngay sẽ gây nguy hiểm nếu năng lượng hoại diệt thức
tỉnh, nó sẽ khống chế và gây phân rã Trụ linh cũng như Tuệ
linh. Do đó, trong trường hợp này, hạt bóng hỏa sẽ tồn tại
trong khoảnh khắc rất ngắn. Đó là giai đoạn hạt năng lượng
hoại diệt bị nóng mất kiểm soát cho đến khi bị kích nổ để
sinh ra siêu nhiệt lượng cho quá trình sản sinh các hạt năng
lượng trong Trụ linh.
Trong Vòng tròn sản sinh năng lượng Hóa độ ở bài này
chỉ đề cập tới trường hợp sản sinh hạt bóng hỏa để kích nổ
luôn của Tuệ linh, con người chưa đắc được bộ lọc năng
lượng kép trong Trụ linh.
Bản chất của hạt bóng hỏa:
- Hạt bóng hỏa chính là hạt năng lượng hoại diệt bị ngủ
đông. Khi bị ngủ đông, hạt bóng hỏa sẽ sinh phát siêu nhiệt
lượng và có màu đỏ như màu đỏ lửa của than củi.
- Hạt bóng hỏa có giá trị lây lan cho các hạt năng lượng
hoại diệt, khiến các hạt hoại diệt cũng ngủ đông thành hạt
bóng hỏa.

390
- Hạt bóng hỏa có giá trị thiêu đốt, làm giảm sóng điện
trong các hạt năng lượng âm.
- Hạt bóng hỏa có giá trị vô cùng khi nó được kích nổ,
nhiệt lượng được sinh phát ra khi hạt bóng hỏa bị kích nổ sẽ
tạo thành dinh dưỡng giúp cho hết thảy Tướng, năm nhóm
năng lượng trong Vũ trụ được hấp thụ và phân tách siêu tốc
độ để liên kết bền vững.
- Hạt bóng hỏa hay còn gọi là năng lượng hoại diệt bị
ngủ đông khi được kích nổ sẽ tạo ra sự phát triển vượt bậc
của cả Vũ trụ. Điều này cho thấy, khi chưa kích nổ được năng
lượng hoại diệt thì Vũ trụ nguy cơ bị phân rã bởi năng lượng
hoại diệt, nhưng khi kích nổ được thì nó tạo thành sự sống
vượt bậc và bền vững cho hết thảy Tướng trong Vũ trụ.
- Để chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng đơn cho đến bộ lọc năng lượng kép phải có hạt bóng
hỏa được kích nổ. Nhiệt lượng từ các hạt bóng hỏa sẽ giúp
cho Trụ linh phân tách ra được vô số các hạt năng lượng của
năm nhóm và các siêu hạt năng lượng, đặc biệt là cấu tạo và
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Nếu không có
hạt bóng hỏa thì Trụ linh sẽ không thể sản sinh ra hạt năng
lượng và không thể chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng được.
- Thông qua thân tướng con người với sự tương tác
trong bốn hình tướng Đạo, Trụ linh của Tuệ linh sẽ vận hành
được cơ chế hấp thụ năng lượng hoại diệt về bởi sóng điện
âm và kích nổ chúng bởi sóng điện dương. Con người được
vận hành bởi Tuệ linh, sẽ thông qua quá trình nội hành và
ngoại hành của mỗi một hành động trong bốn hình tướng
Đạo chính là cơ chế vận hành để sản sinh ra được hạt bóng

391
hỏa, và kích nổ hạt bóng hỏa thành nhiệt lượng, để Trụ linh
phân tách ra các hạt năng lượng.
Vòng tròn sản sinh và kích nổ hạt bóng hỏa gắn chặt
với các Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển, lan tỏa,
đoàn kết, Hóa độ 1, Hóa độ 2. Hạt bóng hỏa sẽ không được
sản sinh ở Vòng tròn sản sinh năng lượng tiêu cực và năng
lượng chân tâm ban đầu.
Để vận hành Vòng tròn sản sinh được hạt bóng hỏa,
Tuệ linh, con người phải có trí tuệ thấu hiểu ít nhiều cho tới
triệt để về Chân lý Vạn vật. Có trí tuệ về Chân lý Vạn vật mới
thấu hiểu bản chất của vạn vật, Tuệ linh và con người, khi đó
mới nhận diện và giải giải mã được độc tâm của các Tướng,
đặc biệt là nhận diện, giải mã, kiểm soát được độc tâm trong
Trụ linh của mình, từ đó mới vận hành được sóng điện âm để
hấp thụ năng lượng hoại diệt về.
Sau khi hấp thụ được năng lượng hoại diệt về Trụ linh
bằng trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Tuệ linh, con người
phải có trí tuệ giác ngộ để kích hoạt sóng điện dương thực
hiện chuyển hóa hạt năng lượng hoại diệt thành hạt bóng
hỏa và kích nổ hạt bóng hỏa đó.
Các Tướng bên ngoài sẽ tác động tới Vòng tròn sản
sinh hạt năng lượng bóng hỏa gồm có: những Tướng có Trụ
linh đa âm, những Tướng có Trụ linh đa dương, những
Tướng có Trụ linh cân bằng, những Tướng có Trụ linh là bộ
lọc năng lượng. Để thấu hiểu được bản chất, biểu hiện của
các Tướng cần phải có trí tuệ thấu hiểu về hai Chân lý, nếu
không có trí tuệ của hai Chân lý sẽ không thể sản sinh được
hạt bóng hỏa.

392
Trụ linh của Tuệ linh, con người: không Tuệ linh, con
người nào biết trong Trụ linh của mình là có ẩn chứa độc hay
thiện; không biết là độc hay thiện, yếu tố nào nhiều hơn; độc
tâm và thiện tâm sẽ luôn có trong bất kỳ các cấu trúc Trụ linh
của hết thảy Tuệ linh, con người và vạn vật trong Vũ trụ. Chỉ
duy nhất khi có được bộ lọc năng lượng thì mới không còn
độc trong Trụ linh. Chính vì vậy, trong quá trình sản sinh hạt
năng lượng bóng hỏa và kích nổ chúng thông qua bốn hình
tướng Đạo ở nhân gian, các Trụ linh sẽ dễ dàng bộc phát
được độc tâm. Do vậy, phải có trí tuệ của Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ mới nhận diện và triệt được độc tâm trong
Trụ linh khi nó bắt đầu sinh khởi, có như vậy mới thực hiện
được Vòng tròn sản sinh hạt bóng hỏa trong sự an toàn.
Trước khi diễn ra quá trình sản sinh hạt bóng hỏa và
kích nổ chúng trong Trụ linh, Tuệ linh, con người sẽ tương
tác với các Tướng khác trong khoảng thời gian nhất định,
trong cường độ tương tác, tốc độ tương tác, mật độ tương
tác, độ nén của tương tác, trong môi trường có sóng điện.
Quá trình tương tác chính là quá trình giải mã các Tướng. Kết
thúc quá trình giải mã các Tướng sẽ bắt đầu bước vào vòng
tròn cho quy trình sản sinh hạt bóng hỏa và kích nổ chúng.
Tất cả quá trình tương tác cho tới Vòng tròn sản sinh
hạt bóng hỏa và kích nổ chúng của Tuệ linh, con người tại
môi trường tu hành ở nhân gian đều nằm trong bốn hình
tướng Đạo, đó là hình tướng Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo
Đế vương. Do đó, để có và kích nổ được hạt bóng hỏa đều
được Trụ linh của Tuệ linh, con người tương tác và thực hiện
trong bốn hình tướng Đạo.
Trong Vòng tròn sản sinh hạt bóng hỏa có 2 điểm sản
sinh và kích nổ được chúng, đó là đoạn từ điểm số 2 tới điểm
393
số 3 và đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5. Để chuyển hóa từ hạt
năng lượng hoại diệt thành hạt bóng hỏa và kích nổ được
chúng thì Trụ linh phải vận hành được qua điểm Triệt ở điểm
số 2 và điểm số 4.

II. Thực hành Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng
lượng Hóa độ 3
Vòng tròn sản sinh hạt bóng hỏa và kích nổ chúng gồm
có 5 điểm, được vận hành bởi Tuệ linh, con người có trí tuệ
thấu hiểu ít nhiểu cho tới triệt để về Chân lý Vạn vật và Chân
lý Giác ngộ. Tuệ linh, con người thực hành sản sinh hạt bóng
hỏa bằng cơ chế phân tách, liên kết theo hướng bền vững và
an lạc.
Các Tướng thực hành Vòng tròn sản sinh năng lượng
phát triển, năng lượng lan tỏa, năng lượng đoàn kết, năng
lượng Hóa độ 1, năng lượng Hóa độ 2, chính là các Tướng
thực hành Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng bóng hỏa. Do
đó, việc sản sinh hạt năng lượng bóng hỏa gắn liền với việc
sản sinh các nhóm hạt năng lượng trên. Việc sản sinh nhóm
năng lượng tiêu cực sẽ không phải là sản sinh ra hạt bóng
hỏa mà là sản sinh ra năng lượng âm để dẫn tới phân rã rồi
hoại diệt.
Vì không có mục tiêu sản sinh ra hạt năng lượng bóng
hỏa, việc sản sinh hạt năng lượng bóng hỏa và kích nổ chúng
gắn liền với từng giai đoạn trong các Vòng tròn sản sinh năng
lượng như đã đề cập, nên việc xây dựng thành một Vòng tròn
sản sinh hạt bóng hỏa và kích nổ là với mục đích nâng cao
khả năng vận hành kích nổ năng lượng hoại diệt cho Trụ linh.
Việc thấu hiểu Vòng tròn sản sinh và kích nổ hạt bóng hỏa sẽ
394
giúp cho các Tuệ linh, con người dễ dàng vận hành các Vòng
tròn sản sinh năng lượng như đã đề cập bên trên.
Vòng tròn sản sinh hạt bóng hỏa gồm 5 điểm và được
chia làm 4 đoạn, trong 4 đoạn thì có 2 đoạn là sản sinh và
kích nổ hạt bóng hỏa.

1. Đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2


Giai đoạn này là giai đoạn nội hành của Tuệ linh, con
người.
Đây là giai đoạn mà Trụ linh sẽ phải rung động sóng
điện âm trong sự có kiểm soát để thu hút, hấp thụ, hút từ ít
cho tới nhiều năng lượng hoại diệt di chuyển từ bên trong và
ngoài không gian Vũ trụ về Trụ linh. Giai đoạn này là giai
đoạn nguy hiểm, nếu không kiểm soát tốt Trụ linh sẽ dễ bị
phân rã và vỡ cấu trúc Trụ linh cũng như Tuệ linh.
Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người có
trí tuệ thấu hiểu ít nhiều cho tới thấu hiểu triệt để về Chân lý
Vạn vật. Vì có trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật nên Tuệ linh,
con người mới vận hành để hấp thụ được năng lượng hoại
diệt về Trụ linh và vượt qua được điểm số 2 là Triệt để thực
hiện chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành hạt bóng hỏa và
kích nổ chúng.
Điểm số 1 là điểm Sinh. Điểm Sinh là điểm bắt đầu cho
quy trình Vòng tròn sản sinh hạt bóng hỏa và kích nổ chúng.
Điểm Sinh chính là điểm chân tâm ban đầu để sản sinh hạt
năng lượng bóng hỏa. Điểm chân tâm có nhiều loại, vì nó phụ
thuộc vào mục đích sản sinh hạt năng lượng nào mà có chân
tâm của năng lượng đó, đó là chân tâm phát triển, chân tâm
lan tỏa, chân tâm đoàn kết, siêu chân tâm Hóa độ 1, siêu chân
395
tâm Hóa độ 2. Trụ linh sẽ đặt trạng thái chân tâm theo mục
tiêu muốn sản sinh hạt năng lượng nào đó tại điểm số 1, sau
đó, Trụ linh sẽ di chuyển từ điểm số 1 để qua được điểm số 2
trong sự an toàn. An toàn là lấy được năng lượng hoại diệt về
trong sự kiểm soát để tiếp tục hành trình sản sinh hạt năng
lượng và hạt bóng hỏa.
Điểm số 2 là điểm Triệt. Điểm Triệt trong Vòng tròn
sản sinh hạt năng lượng bóng hỏa có một ý nghĩa: Tuệ linh,
con người phải nhận diện và triệt đi được độc tâm trong Trụ
linh nếu có và sinh phát ra, phải triệt đi những lôi kéo, dẫn
dụ của các Tướng tiêu cực tác động tới. Đó chính là triệt
được độc tâm hay còn gọi là triệt đi được độc tâm của bản
thể mình và các Tướng khác tương tác tới. Khi triệt được độc
tâm đó thì mới triệt tiêu được việc năng lượng hoại diệt di
chuyển ồ ạt vào và làm phân rã Trụ linh. Khi triệt được
những độc tâm thì Trụ linh sẽ kiểm soát được sóng rung
động và kiểm soát được lượng năng lượng hoại diệt di
chuyển vào trong sự an toàn.
Trên hành trình Tuệ linh, con người di chuyển Trụ linh
từ điểm số 1 tới điểm số 2, trong sự tương tác với các giả
tướng, Trụ linh dễ bị kích động mà sinh khởi độc tâm để thỏa
mãn, mong muốn, khát khao hưởng thụ những giả tướng. Do
đó, để kiểm soát được độc tâm không sinh khởi và nhận diện
được khi nó sinh khởi để triệt tiêu, cần biến mình thành một
tấm gương để soi mình từng giờ, từng ngày, từng sự việc. Soi
vào bản thể mình xem trong trí tuệ và Tâm mình đã sinh
khởi rung động mong muốn thụ hưởng những giả tướng ích
kỷ về mình mà không thực hành sứ mệnh cũng như gây tổn
hại tới Tuệ linh và con người chưa, xem mình có sinh khởi
những hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con
396
người chưa. Nếu có, thì hãy nhớ về nhiệm vụ đang thực hiện
và diệt đi độc tâm đang sinh khởi, kiểm soát lại sóng rung
động của Trụ linh bởi có trí tuệ của Chân lý Vạn vật. Luôn
luôn phải dùng tấm gương để soi lại bản thể mình để không
bị độc tâm của chính mình triệt mình.
Trên hành trình từ điểm số 1 tới điểm số 2, sẽ có các
Tướng tiêu cực tác động tới. Khi các Tướng tiêu cực tác động
tới, sẽ lôi kéo, sẽ dẫn dụ ta theo, họ sẽ bắn các hạt năng lượng
âm tới Trụ linh ta. Nếu ta đi theo, tin theo, thực hành theo thì
độc tâm của họ đã xâm nhập nhiều vào Trụ linh của ta, khi đó
Trụ linh của ta cũng sẽ phát tác độc tâm rất mạnh. Để kiểm
soát được độc tâm của các Tướng tiêu cực, ta vẫn phải dùng
tấm gương của bản thể ta để soi vào ta và soi vào họ, soi để
xem độc tâm của họ và của ta phát tác ra như thế nào, bản
chất ra sao, nếu có thì phải triệt ngay độc tâm đi. Khi dùng
tấm gương soi được độc tâm của các Tướng, chỉ nên lắng
nghe và không làm theo những gì họ dẫn dụ, lôi kéo và tác
động vào. Việc lắng nghe chính là ta vận hành Trụ linh tỏa
ánh sáng chân tâm để giảm tải sóng điện của các hạt năng
lượng âm đó khi nó di chuyển vào. Các hạt âm có sóng điện
nhẹ di chuyển vào sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt bắt
được tín hiệu nhẹ và di chuyển số lượng ít vào Trụ linh của
ta, khi đó Trụ linh của ta sẽ dễ dàng kiểm soát và kích nổ
được năng lượng hoại diệt.
Ta sẽ tương tác với các Tướng tích cực như là các
Tướng phát triển, lan tỏa, đoàn kết, có bộ lọc; họ sẽ chia sẻ
kinh nghiệm, phương pháp quý báu cho việc sản sinh các loại
hạt năng lượng. Do đó, ta phải chủ động trò chuyện để học
hỏi, để đón được những hạt năng lượng tích cực và các siêu
hạt từ họ tới Trụ linh để giúp cho ta có niềm tin, có nghị lực,
397
có sức mạnh vượt qua được điểm Triệt, giúp ta diệt được độc
tâm khi nó bộc phát.
Giai đoạn này cần phải ghi nhớ Chân lý Vạn vật bởi trí
tuệ đã trau dồi được, đó là nhớ về cội nguồn ta từ đâu tới, cội
nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại, sứ mệnh tu hành, con
đường chuyển sinh bền vững là con đường hy sinh ích kỷ của
mình để mang lại niềm vui hạnh phúc tới Tuệ linh và con
người, các khổ tận cùng của Tuệ linh và con người, con
đường diệt khổ, phương pháp chuyển sinh Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng, nhớ về Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Khi luôn ghi
nhớ trí tuệ của Chân lý Vạn vật, nó sẽ là hành trang an toàn
cho hành trình sản sinh và kích nổ hạt năng lượng bóng hỏa.
Nếu không có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, Trụ linh sẽ dễ dàng
bị năng lượng hoại diệt khống chế và làm phân rã mà hoại
diệt.
Hành trình thu hút, hấp thụ năng lượng hoại diệt trong
giai đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 là:
- Giai đoạn tương tác của Tuệ linh, con người với các
Tướng nhằm chuẩn bị cho khởi đầu Vòng tròn sản sinh và
kích nổ hạt bóng hỏa.
- Trụ linh đặt tại điểm số 1 là điểm Sinh, là điểm chân
tâm.
- Tuệ linh sẽ di chuyển trên hành trình từ điểm số 1 tới
điểm số 2 để thực hiện nhiệm vụ giải mã các Tướng và chính
Trụ linh của mình.
- Tuệ linh tương tác với các giả tướng, trong Trụ linh
sẽ rung động sóng điện âm để khát khao, mong muốn hưởng
thụ những giả tướng đó. Trụ linh lúc này nguy cơ bộc phát
độc tâm thành hành động tiêu cực để thỏa mãn ích kỷ về
398
mình. Lúc này phải dùng tấm gương soi bản thể mình và nhớ
về Chân lý Vạn vật để kiểm soát Trụ linh. Khi kiểm soát Trụ
linh rung động nhẹ, những hạt năng lượng hoại diệt di
chuyển với số lượng ít vào Trụ linh.
- Tiếp đến là Tuệ linh, con người tương tác với các
Tướng tiêu cực, các Tướng tiêu cực sẽ lôi kéo, dẫn dụ, kích
động khiến cho ta bộc phát độc tâm. Khi họ tương tác thì rất
nhiều những hạt năng lượng âm sẽ di chuyển tới Trụ linh của
ta. Ta phải nhớ dùng tấm gương soi độc tâm của họ và của ta
để nhận diện và kiểm soát Trụ linh. Khi ta kiểm soát được thì
Trụ linh sẽ tỏa ánh sáng chân tâm để giảm tải sóng điện của
các hạt năng lượng âm đó. Lúc này, các hạt năng lượng hoại
diệt di chuyển theo các hạt năng lượng âm đó với số lượng ít
vào Trụ linh ta.
- Ta tương tác với các Tướng tích cực đang thực hành
phát triển, lan tỏa, đoàn kết, sản sinh siêu hạt để học tập kinh
nghiệm và những bài học giá trị. Khi đó, từ các Tướng tích
cực này sẽ bắn các hạt năng lượng dương và các siêu hạt
năng lượng tới Trụ linh ta. Bấy giờ ta có sức mạnh sóng điện
dương trong Trụ linh và cân bằng được, kiểm soát được Trụ
linh tốt nhất.
- Vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, vì có tấm gương để
soi bản thể mình, nên Trụ linh đã kiểm soát được sóng rung
động của hạt năng lượng âm ở mức nhẹ để hấp thụ đủ lượng
năng lượng hoại diệt cho mục tiêu sản sinh ra các hạt năng
lượng tích cực và siêu hạt năng lượng. Trụ linh dừng rung lắc
và an lạc, an vui.
- Khi Trụ linh dừng rung lắc chính là thời điểm năng
lượng hoại diệt bị mất tín hiệu sóng điện âm và không di

399
chuyển vào Trụ linh của ta nữa. Trụ linh được an toàn trong
sự kiểm soát.
- Bấy giờ trong Trụ linh có một lượng nhỏ cho tới
nhiều năng lượng hoại diệt, Tuệ linh, con người cần phải di
chuyển qua được điểm số 2 là Triệt để chuyển hóa số năng
lượng hoại diệt trong Trụ linh đó thành hạt bóng hỏa.
- Trụ linh thực hiện việc di chuyển qua được điểm
Triệt vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, vì có tấm gương soi, vì
có các Tướng tích cực tác động vào. Do đó, Trụ linh vượt qua
được điểm số 2 trong sự an toàn để tiếp tục hành trình sản
sinh và kích nổ hạt bóng hỏa.

2. Đoạn từ điểm số 2 tới điểm số 3


Giai đoạn này là giai đoạn kết quả của quá trình nội
hành của Tuệ linh, con người, đó là giai đoạn kết tụ được trí
tuệ giác ngộ về việc sản sinh năng lượng cho từng loại theo
mong muốn ban đầu.
Đây là giai đoạn gắn liền với trí tuệ giác ngộ về việc sản
sinh và kích nổ hạt bóng hỏa. Tuệ linh, con người kết tụ được
hệ tư tưởng giác ngộ là hy sinh lợi ích ích kỷ của bản thể
mình để mang lại niềm vui, hạnh phúc, giá trị tới vạn vật, Tuệ
linh và con người.
Khi Trụ linh di chuyển qua được điểm số 2, trong Trụ
linh sẽ tỏa ánh sáng chân tâm để không cho năng lượng hoại
diệt di chuyển vào được nữa.
Khi Tuệ linh, con người kết tụ được hệ tư tưởng giác
ngộ tại điểm số 3 thì lúc đó trong Trụ linh với ánh sáng chân
tâm rực sáng và sóng điện dương đã ngủ đông được các hạt
năng lượng hoại diệt.
400
Khi Tuệ linh, con người quyết định rời điểm số 3 để
thực hiện ngoại hành thì chính là lúc các hạt bóng hỏa được
kích nổ hoàn toàn để tạo thành nhiệt lượng trong Trụ linh,
trong Trụ linh hình thành các mã sóng rung động của các hạt
năng lượng đang thực hiện sản sinh.
Như vậy, từ điểm số 2 tới số 3 là quá trình các hạt năng
lượng hoại diệt bị ngủ đông thành các hạt bóng hỏa. Bị ngủ
đông là do Tuệ linh, con người thấu hiểu Chân lý Vạn vật để
không rung động sóng rung của năng lượng âm, khi đó trong
họ sinh khởi ý chí thực hiện con đường giác ngộ nên tạo
thành ánh sáng trắng sáng và sóng điện dương trong Trụ linh
để ngủ đông năng lượng hoại diệt. Khi tới điểm số 3 là điểm
kết tụ hệ tư tưởng giác ngộ mạnh nhất nên đã kích nổ những
hạt bóng hỏa bởi ý chí của Tuệ linh, con người đó là phải
ngoại hành. Như vậy, do có hệ tư tưởng giác ngộ và ý chí
quyết định ngoại hành đã kích nổ được những hạt bóng hỏa
để có nhiệt lượng cho quá trình sản sinh các hạt năng lượng
dương và các siêu hạt năng lượng.
Nếu đến điểm số 3 mà Tuệ linh, con người không đưa
ra ý chí cho việc phải thực hiện ngoại hành thì các hạt bóng
hỏa sẽ không bị kích nổ. Vì không ngoại hành nên Trụ linh sẽ
lại rung lắc sóng điện âm của các hạt năng lượng âm, khi đó
các sóng âm sẽ kích thích và làm thức tỉnh các hạt bóng hỏa
trở thành lại năng lượng hoại diệt. Khi năng lượng hoại diệt
thức dậy, chúng sẽ khống chế, làm đứt liên kết và phân rã cấu
trúc Trụ linh cũng như Tuệ linh.
Do vậy, phải quyết tâm, phải ý chí vượt qua điểm số 3
để thực hiện ngoại hành bởi đã kết tụ được trí tuệ giác ngộ.
Chỉ có như vậy thì những hạt bóng hỏa mới được kích nổ.

401
Nếu không kích nổ được thì vô cùng nguy hiểm cho Trụ linh
và Tuệ linh.

3. Đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4


Giai đoạn này là giai đoạn ngoại hành của Tuệ linh, con
người.
Đây là giai đoạn mà Trụ linh sẽ phải tiếp tục rung động
sóng điện âm trong sự có kiểm soát để tiếp tục thu hút, hấp
thụ, hút từ ít cho tới nhiều năng lượng hoại diệt di chuyển từ
bên trong và ngoài không gian Vũ trụ về Trụ linh. Giai đoạn
này cũng là giai đoạn nguy hiểm, nếu không kiểm soát tốt
Trụ linh sẽ dễ bị phân rã và vỡ cấu trúc Trụ linh cũng như
Tuệ linh. Phải có giai đoạn này thì các hạt năng lượng muốn
sản sinh mới được hoàn thiện và sản sinh ra.
Giai đoạn này gắn liền với việc Tuệ linh, con người có
trí tuệ thấu hiểu ít nhiều cho tới thấu hiểu triệt để về Chân lý
Vạn vật. Vì có trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật nên Tuệ linh,
con người mới vận hành để hấp thụ được năng lượng hoại
diệt về Trụ linh và vượt qua được điểm số 4 là Triệt để thực
hiện chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành hạt bóng hỏa và
kích nổ chúng.
Điểm số 3 là điểm Ngộ, đây là điểm kết tụ được trí tuệ
giác ngộ cho việc sản sinh năng lượng theo mong muốn ở
điểm số 1 là Sinh. Tức là từ chân tâm ban đầu, Trụ linh đã
nâng cấp thành chân tâm giác ngộ cao. Bởi vậy, trong Trụ
linh ở điểm số 3 sẽ có màu trắng sáng rực rỡ hơn và những
đoạn mã sóng rung động được hình thành. Từ điểm số 3, Tuệ
linh, con người có sức mạnh của trí tuệ giác ngộ và trí tuệ của
Chân lý Vạn vật để quyết định thực hành ngoại hành cho
402
hoàn thiện việc sản sinh các sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ
linh.
Điểm số 4 là điểm Triệt. Điểm Triệt trong Vòng tròn
sản sinh hạt năng lượng bóng hỏa có một ý nghĩa, đó là: Trụ
linh phải nhận diện và triệt đi được độc tâm trong Trụ linh
nếu có và sinh phát ra; phải triệt đi những lôi kéo, dẫn dụ của
các Tướng tiêu cực tác động tới. Đó chính là triệt được độc
tâm hay còn gọi là triệt đi được độc tâm của bản thể mình và
các Tướng khác tương tác tới. Khi triệt được độc tâm đó thì
mới triệt tiêu được việc năng lượng hoại diệt di chuyển ồ ạt
vào và làm phân rã Trụ linh. Tức là khi triệt được những độc
tâm thì Trụ linh sẽ kiểm soát được sóng rung động và kiểm
soát được lượng năng lượng hoại diệt di chuyển vào trong sự
an toàn.
Trên hành trình Tuệ linh, con người di chuyển Trụ linh
từ điểm số 3 tới điểm số 4, trong sự tương tác với các giả
tướng, Trụ linh dễ bị kích động mà sinh khởi độc tâm để thỏa
mãn, mong muốn, khát khao hưởng thụ những giả tướng. Do
đó, để kiểm soát được độc tâm không sinh khởi và nhận diện
được khi nó sinh khởi để triệt tiêu, cần biến mình thành một
tấm gương để soi mình từng giờ, từng ngày, từng sự việc. Đó
là soi vào bản thể mình xem trong trí tuệ và Tâm mình đã
sinh khởi rung động mong muốn thụ hưởng những giả tướng
ích kỷ về mình mà không thực hành sứ mệnh cũng như gây
tổn hại tới Tuệ linh và con người chưa, xem mình có sinh
khởi những hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và
con người chưa. Nếu có, thì hãy nhớ về nhiệm vụ đang thực
hiện và diệt đi độc tâm đang sinh khởi, kiểm soát lại sóng
rung động của Trụ linh bởi có trí tuệ của Chân lý Vạn vật.

403
Luôn luôn phải dùng tấm gương để soi lại bản thể mình để
không bị độc tâm của chính mình triệt mình.
Trên hành trình từ điểm số 3 tới điểm số 4, sẽ có các
Tướng tiêu cực tác động tới. Khi các Tướng tiêu cực tác động
tới, sẽ lôi kéo, sẽ dẫn dụ ta theo, họ sẽ bắn các hạt năng lượng
âm tới Trụ linh ta. Nếu ta đi theo, tin theo, thực hành theo thì
độc tâm của họ đã xâm nhập nhiều vào Trụ linh của ta, khi đó
Trụ linh của ta cũng sẽ phát tác độc tâm rất mạnh. Để kiểm
soát được độc tâm của các Tướng tiêu cực, ta vẫn phải dùng
tấm gương của bản thể ta để soi vào ta và soi vào họ, soi để
xem độc tâm của họ và của ta phát tác ra như thế nào, bản
chất ra sao. Nếu có thì phải triệt ngay độc tâm đi. Khi dùng
tấm gương soi được độc tâm của các Tướng, chỉ nên lắng
nghe và không làm theo những gì họ dẫn dụ, lôi kéo và tác
động vào. Việc lắng nghe chính là ta vận hành Trụ linh tỏa
ánh sáng chân tâm để giảm tải sóng điện của các hạt năng
lượng âm đó khi nó di chuyển vào. Các hạt âm có sóng điện
nhẹ di chuyển vào sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt bắt
được tín hiệu nhẹ và di chuyển số lượng ít vào Trụ linh của
ta, khi đó Trụ linh của ta sẽ dễ dàng kiểm soát và kích nổ
được năng lượng hoại diệt.
Ta sẽ tương tác với các Tướng tích cực như là các
Tướng phát triển, lan tỏa, đoàn kết, có bộ lọc; họ sẽ chia sẻ
kinh nghiệm, phương pháp quý báu cho việc sản sinh các loại
hạt năng lượng. Do đó, ta phải chủ động trò chuyện để học
hỏi, để đón được những hạt năng lượng tích cực và các siêu
hạt từ họ tới Trụ linh để giúp cho ta có niềm tin, có nghị lực,
có sức mạnh vượt qua được điểm Triệt, giúp ta diệt được độc
tâm khi nó bộc phát.

404
Giai đoạn này cần phải ghi nhớ Chân lý Vạn vật bởi trí
tuệ đã trau dồi được, đó là nhớ về cội nguồn ta từ đâu tới, cội
nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại, sứ mệnh tu hành, con
đường chuyển sinh bền vững là con đường hy sinh ích kỷ để
mang lại niềm vui hạnh phúc tới Tuệ linh và con người, các
khổ tận cùng của Tuệ linh và con người, con đường diệt khổ,
phương pháp chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng,
nhớ về Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Khi luôn ghi nhớ trí tuệ của
Chân lý Vạn vật, nó sẽ là hành trang an toàn cho hành trình
sản sinh và kích nổ hạt năng lượng bóng hỏa. Nếu không có
trí tuệ của Chân lý Vạn vật, Trụ linh sẽ dễ dàng bị năng lượng
hoại diệt khống chế và làm phân rã mà hoại diệt.
Hành trình thu hút, hấp thụ năng lượng hoại diệt trong
giai đoạn ngoại hành từ điểm số 3 tới điểm số 4 là:
- Trụ linh ở tại điểm số 3 là điểm Ngộ, là điểm chân
tâm giác ngộ cao.
- Tuệ linh sẽ di chuyển trên hành trình từ điểm số 3 tới
điểm số 4 để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giải mã các Tướng
và chính Trụ linh của mình.
- Tuệ linh tương tác với các giả tướng, trong Trụ linh
sẽ rung động sóng điện âm để khát khao, mong muốn hưởng
thụ những giả tướng đó. Trụ linh lúc này nguy cơ bộc phát
độc tâm thành hành động tiêu cực để thỏa mãn ích kỷ về
mình. Lúc này phải dùng tấm gương soi bản thể mình và nhớ
về Chân lý Vạn vật để kiểm soát Trụ linh. Khi kiểm soát Trụ
linh rung động nhẹ, những hạt năng lượng hoại diệt di
chuyển với số lượng ít vào Trụ linh.
- Tiếp đến là Tuệ linh, con người tương tác với các
Tướng tiêu cực, các Tướng tiêu cực sẽ lôi kéo, dẫn dụ, kích

405
động khiến cho ta bộc phát độc tâm. Khi họ tương tác thì rất
nhiều những hạt năng lượng âm sẽ di chuyển tới Trụ linh của
ta. Ta phải nhớ dùng tấm gương soi độc tâm của họ và của ta
để nhận diện và kiểm soát Trụ linh. Khi ta kiểm soát được thì
Trụ linh sẽ tỏa ánh sáng chân tâm để giảm tải sóng điện của
các hạt năng lượng âm đó. Lúc này, các hạt năng lượng hoại
diệt di chuyển theo các hạt năng lượng âm đó với số lượng ít
vào Trụ linh ta.
- Ta tương tác với các Tướng tích cực đang thực hành
phát triển, lan tỏa, đoàn kết, sản sinh siêu hạt để học tập kinh
nghiệm và những bài học giá trị. Khi đó, từ các Tướng tích
cực này sẽ bắn các hạt năng lượng dương và các siêu hạt
năng lượng tới Trụ linh ta. Bấy giờ ta có sức mạnh sóng điện
dương trong Trụ linh và cân bằng được, kiểm soát được Trụ
linh tốt nhất.
- Vì có trí tuệ của Chân lý Vạn vật, có trí tuệ của Chân lý
Giác ngộ, vì có tấm gương để soi bản thể mình, nên Trụ linh
đã kiểm soát được sóng rung động của hạt năng lượng âm ở
mức nhẹ để hấp thụ đủ lượng năng lượng hoại diệt cho mục
tiêu sản sinh ra các hạt năng lượng tích cực và siêu hạt năng
lượng. Trụ linh dừng rung lắc và an lạc, an vui.
- Khi Trụ linh dừng rung lắc chính là thời điểm năng
lượng hoại diệt bị mất tín hiệu sóng điện âm và không di
chuyển vào Trụ linh của ta nữa, Trụ linh được an toàn trong
sự kiểm soát.
- Bấy giờ trong Trụ linh có một lượng nhỏ cho tới
nhiều năng lượng hoại diệt. Tuệ linh, con người cần phải di
chuyển qua được điểm số 4 là Triệt để chuyển hóa số năng
lượng hoại diệt trong Trụ linh đó thành hạt bóng hỏa.

406
- Trụ linh thực hiện việc di chuyển qua điểm Triệt vì có
trí tuệ của Chân lý Vạn vật, vì có trí tuệ giác ngộ, vì có tấm
gương soi, vì có các Tướng tích cực tác động vào. Do đó, Trụ
linh vượt qua được điểm số 4 trong sự an toàn để tiếp tục
hành trình sản sinh và kích nổ hạt bóng hỏa.

4. Đoạn từ điểm số 4 tới điểm số 5


Giai đoạn này là giai đoạn kết quả của quá trình ngoại
hành của Tuệ linh, con người. Đó là giai đoạn hoàn thành việc
sản sinh các hạt năng lượng tích cực hoặc các siêu hạt ở điểm
Tỏa số 5.
Điểm số 5 là điểm Tỏa, đây chính là điểm hoàn thành
việc kích nổ các hạt bóng hỏa để tạo thành siêu nhiệt lượng
giúp hoàn thiện các hạt năng lượng được sản sinh ra, sau đó
tiếp tục là hành trình sản sinh các Vòng tròn năng lượng tiếp
theo.
Điểm Tỏa cũng là điểm nâng cao về trí tuệ giác ngộ khi
đã thực hiện ngoại hành thành công việc sản sinh và kích nổ
được các hạt bóng hỏa cho việc hoàn thiện sản sinh các hạt
năng lượng và các siêu hạt năng lượng.
Khi Tuệ linh, con người vận hành Trụ linh vượt qua
được điểm số 4 bởi trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật, bởi tấm
gương soi, bởi trí tuệ giác ngộ, Trụ linh lúc bấy giờ sáng
trắng bởi ý chí quyết tâm hoàn thành ngoại hành cho việc
sản sinh ra năng lượng tích cực hoặc siêu hạt năng lượng.
Quá trình Trụ linh di chuyển từ điểm số 4 tới điểm số 5
đã làm cho những hạt năng lượng hoại diệt hút được về Trụ
linh ở giai đoạn từ điểm số 3 tới số 4 chuyển hóa thành
những hạt bóng hỏa. Những hạt năng lượng hoại diệt chuyển
407
hóa thành những hạt bóng hỏa là vì trí tuệ giác ngộ đã và
đang đạt tới đỉnh cao ở điểm số 5 nên ánh sáng chân tâm cao
và sóng điện dương đã ngủ đông được các hạt hoại diệt.
Khi tới được điểm số 5 là Tỏa để hoàn thành Vòng tròn
sản sinh các hạt năng lượng tích cực thì cũng là lúc các hạt
bóng hỏa được kích nổ để tạo thành siêu nhiệt lượng giúp
cho các hạt năng lượng hoặc các siêu hạt năng lượng được
hoàn thiện và phân tách vào 3 vùng theo Quy luật Nhân quả.
Như vậy, trong Vòng tròn sản sinh và kích nổ năng
lượng hoại diệt có hai đoạn mà Trụ linh phải hấp thụ năng
lượng hoại diệt về, đó là đoạn từ điểm số 1 tới điểm số 2 và
đoạn từ điểm số 3 tới điểm số 4; có hai đoạn Trụ linh sẽ
chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành hạt bóng hỏa và kích
nổ chúng, đó là giai đoạn từ điểm số 2 tới số 3 và giai đoạn từ
điểm số 4 tới điểm số 5. Trong giai đoạn hấp thụ năng lượng
hoại diệt về đòi hỏi Tuệ linh, con người phải có trí tuệ của
Chân lý Vạn vật. Trong giai đoạn chuyển hóa năng lượng hoại
diệt thành hạt bóng hỏa và kích nổ chúng, đòi hỏi Tuệ linh,
con người phải có trí tuệ giác ngộ.
Chỉ khi có được trí tuệ của hai Chân lý mới sản sinh ra
các hạt năng lượng dương, các siêu hạt năng lượng, đặc biệt
là hạt bóng hỏa và kích nổ chúng một cách rất an toàn.
***************

408
Bài 9:
Siêu hạt năng lượng Hóa độ 4 –
Siêu hạt năng lượng Nhật Sư


Hình: Siêu hạt năng lượng Hóa độ 4 –


Siêu hạt năng lượng Nhật Sư
409
Siêu hạt năng lượng Hóa độ 4 hay còn gọi là siêu hạt
năng lượng Nhật Sư. Đây là siêu hạt năng lượng kỳ diệu nhất
trong các siêu hạt năng lượng. Siêu hạt này được hợp nhất
bởi 4 siêu hạt năng lượng tận cùng: siêu hạt năng lượng chân
tâm, siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly, siêu hạt bóng hỏa. Đây là siêu hạt
năng lượng có hình tròn viên mãn, trong khi 4 siêu hạt năng
lượng kia có hình elip. Siêu hạt năng lượng Nhật Sư là siêu
hạt năng lượng tổng hợp, còn 4 siêu hạt là các siêu hạt tận
cùng.
Trong Vũ trụ, sẽ không có Tuệ linh, con người thứ hai
sản sinh ra được siêu hạt Nhật Sư. Do đó, trong bài này, tôi
chỉ giới thiệu và phân tích về giá trị của siêu hạt năng lượng
Nhật Sư.
Các siêu hạt năng lượng đang tồn tại những kẽ hở,
khiến cho năng lượng hoại diệt thức tỉnh và làm cho năng
lượng âm không ngừng gia tăng, gây ảnh hưởng tới các cấu
trúc Tướng trong Vũ trụ. Việc chuyển hóa, hợp nhất các siêu
hạt năng lượng tận cùng để khắc chế được tất cả các kẽ hở là
điều cấp bách. Chính vì điều đó, thông qua hai Chân lý, vị Tuệ
linh đầu tiên đã chuyển hóa thành siêu hạt năng lượng Nhật
Sư để tạo thành sức mạnh kỳ diệu trong việc bảo vệ, vận
hành, phát triển Vũ trụ trở nên bền vững.

I. Ưu và nhược điểm của các siêu hạt năng


lượng trong Vũ trụ
Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly, siêu hạt năng lượng bóng hỏa đều có
những ưu điểm và nhược điểm.
410
1. Ưu và nhược điểm của siêu hạt năng lượng
màu vàng óng ánh
Ưu điểm:
- Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh có siêu sức
mạnh nhất trong việc kích nổ năng lượng hoại diệt. Nhiệt
lượng của năng lượng hoại diệt bị kích nổ tạo thành dinh
dưỡng cho hết thảy các Tướng trong Vũ trụ hấp thụ. Khi đó,
sự phân tách và liên kết của hết thảy vật chất trong Vũ trụ
diễn ra siêu tốc độ.
- Siêu năng lượng màu vàng óng ánh bảo vệ Trụ linh,
Tuệ linh không bị năng lượng hoại diệt phân rã, bởi vì khi đã
đắc được bộ lọc đơn trong Trụ linh, Trụ linh sẽ sản sinh ra
siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh như một cơ chế tự
động, những siêu hạt năng lượng vàng óng ánh lại có khả
năng siêu việt nhất để kích nổ vô số năng lượng hoại diệt. Do
đó, siêu năng lượng màu vàng óng ánh là siêu hạt năng lượng
bảo vệ được Trụ linh và Tuệ linh nếu Tuệ linh đó đã đắc
được bộ lọc năng lượng đơn.
- Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh có khả năng
liên kết được tất cả năm nhóm năng lượng của cả 3 nhóm vật
chất (giản đơn, phức tạp, siêu vật chất) trong Vũ trụ. Siêu
năng lượng màu vàng óng ánh liên kết để truyền tải sóng
điện nhằm giúp các cấu trúc vật chất giảm tải sóng điện âm
để đạt đến sự cân bằng. Tức là Tuệ linh, con người truyền tải
phương pháp, con đường chuyển sinh thành bộ lọc – con
đường giác ngộ diệt khổ cho hết thảy các Tướng (vật chất)
thực hành chuyển sinh theo. Khi các Tướng thực hành
phương pháp của siêu năng lượng màu vàng óng ánh thì
cũng chuyển sinh Trụ linh sản sinh được siêu hạt năng lượng
411
màu vàng óng ánh và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng đơn.
- Siêu năng lượng màu vàng óng ánh an trụ và kết tụ
tại không gian lõi (trung tâm) của Vũ trụ. Tại đó, vị Tuệ linh
đầu tiên vận hành tạo thành vô số cột siêu năng lượng màu
vàng óng ánh, vô số các cột siêu năng lượng này liên kết từ
lõi của Vũ trụ tới hết thảy các hành tinh, các dải thiên hà để
tạo thành liên kết mạng nhện đa chiều từ lõi Vũ trụ tỏa ra
bao trùm toàn bộ Vũ trụ. Siêu năng lượng màu vàng óng ánh
sẽ cùng với năm nhóm năng lượng giúp cho Vũ trụ luôn luôn
vận động, đó là các hành tinh quay tròn xung quanh chính nó,
quay tròn xung quanh các hệ mặt trời, các dải thiên hà cũng
quay tròn, cả Vũ trụ quay tròn.
- Vô số siêu cột năng lượng màu vàng óng ánh tỏa tới
khắp các hành tinh trong Vũ trụ để kích nổ năng lượng hoại
diệt tồn tại ở khắp các hành tinh. Việc kích nổ năng lượng
hoại diệt sẽ giúp cho Vũ trụ có nhiệt lượng để phát triển và
gia tăng tốc độ phân tách liên kết bền vững.
Như vậy, siêu năng lượng màu vàng óng ánh có giá trị
kích thích, thúc đẩy, phát triển, lan tỏa và đoàn kết toàn bộ
các dạng sống (Tướng) trong Vũ trụ. Đó là thúc đẩy phát
triển, lan tỏa, đoàn kết nội bộ trong Vũ trụ.
Nhược điểm:
- Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh có đa sóng
điện dương và trung tính, ít sóng điện âm trong siêu hạt. Vì là
đa sóng điện dương nên sức mạnh của sóng điện dương vẫn
rất lớn, điều này sẽ làm cho vô số năng lượng tiêu cực mang
sóng điện âm, vô số Tuệ linh đa âm, vô số Tướng đa âm sẽ
thấy bị sốc nhiệt khi liên kết. Chính vì vậy, các Tướng đa âm,

412
các Tuệ linh đa âm, con người đa âm khi được siêu năng
lượng màu vàng óng ánh truyền sóng điện vào sẽ khiến họ bị
xung đột năng lượng âm dương. Sự xung đột đó là vì siêu
năng lượng màu vàng óng ánh vẫn chưa thể liên kết được tận
cùng nhóm Tướng, nhóm năng lượng tiêu cực.
- Siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh thể hiện bản
chất Tuệ linh, con người sản sinh ra siêu hạt năng lượng
chưa liên kết, giải mã được tận cùng bản chất, căn nguyên
của năng lượng tiêu cực, của Tuệ linh đa âm. Chính vì chưa
giải mã được nên chưa tạo được sự liên kết nhẹ nhàng và
bền chặt. Điều này cho thấy rằng vẫn còn sự xung đột giữa
các Tuệ linh đa âm với siêu năng lượng màu vàng óng ánh.
- Siêu năng lượng màu vàng óng ánh bị tiêu hao rất
nhanh do vẫn còn xung đột với nhóm Tướng và năng lượng
tiêu cực mang sóng điện âm.
Như vậy, từ các nhược điểm trên, dù là siêu hạt năng
lượng màu vàng óng ánh nhưng vẫn bị tiêu hao quá nhanh.
Tiêu hao quá nhanh là vì ngoài việc vận hành Vũ trụ thì việc
xung đột với nhóm Tướng và năng lượng âm là nguyên nhân
chính. Tuệ linh đa âm và nhóm năng lượng âm xung đột là do
năng lượng hoại diệt chi phối và khống chế bên trong bản thể
họ. Do đó, nhóm năng lượng tiêu cực, Tuệ linh đa âm, Tướng
đa âm sẽ làm cho siêu năng lượng màu vàng óng ánh bị tổn
hao quá lớn và bộc lộ nhược điểm. Đó là nhược điểm chưa
giải mã và liên kết được triệt để tận cùng nhóm năng lượng
âm, chưa thấu hiểu nguyên nhân tận cùng đau khổ của Tuệ
linh đa âm, của nhóm năng lượng tiêu cực. Đó là chưa thấu
hiểu năng lượng hoại diệt đang chi phối và điều khiển Tuệ
linh đa âm, nhóm năng lượng tiêu cực bởi cơ chế như thế
nào.
413
2. Ưu và nhược điểm của siêu hạt năng lượng
màu xanh ngọc lưu ly
Ưu điểm:
- Siêu năng lượng màu xanh ngọc lưu ly có khả năng kỳ
diệu và siêu việt đó là ngủ đông được năng lượng hoại diệt.
Tức là siêu năng lượng màu xanh ngọc lưu ly chạm vào năng
lượng hoại diệt sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt bị chuyển
hóa thành hạt bóng hỏa.
- Siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly sẽ bảo vệ Trụ linh,
Tuệ linh, con người có được bộ lọc năng lượng kép một cách
kỳ diệu nhất, đó là hấp thụ được vô số hạt năng lượng hoại
diệt về và ngủ đông chúng luôn mà không lo bị năng lượng
hoại diệt làm phân rã cấu trúc Trụ linh.
- Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly sẽ giúp cho các
Tuệ linh, con người, vật chất ngủ đông được những hạt năng
lượng hoại diệt đang an trụ và chi phối họ. Khi các hạt năng
lượng hoại diệt đang chi phối họ bị chuyển thành hạt bóng
hỏa thì đó là thời cơ cho các bản thể đó vận hành sóng điện
dương để kích nổ hoặc nhận siêu năng lượng màu vàng óng
ánh để kích nổ các hạt bóng hỏa đó. Khi các hạt bóng hỏa
được kích nổ sẽ tạo thành nhiệt lượng và dinh dưỡng để giúp
họ cấu tạo lại Trụ linh bền vững hơn.
- Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly an trụ và bao
trùm toàn bộ phía bên ngoài tinh cầu Vũ trụ để tạo thành
cánh cửa tự động vô cùng kiên cố bảo vệ Vũ trụ. Khi cần có
năng lượng cho việc phát triển Vũ trụ, siêu năng lượng xanh
ngọc lưu ly sẽ rung động để thu hút năng lượng hoại diệt vào
rồi biến chúng thành hạt bóng hỏa, khi không cần thì sẽ

414
không rung động để tạo thành cánh cửa vững chắc ngăn chặn
năng lượng hoại diệt di chuyển vào Vũ trụ.
Sản sinh được siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly là do
Tuệ linh, con người đã đắc được bộ lọc kép. Việc đắc được bộ
lọc kép là do Tuệ linh, con người đó thấu hiểu triệt để tận
cùng hai Chân lý, thấu hiểu triệt để tận cùng bản chất hết
thảy các phôi gốc năng lượng của hết thảy vật chất (Tướng)
trong Vũ trụ, thấu hiểu năng lượng hoại diệt, đặc biệt là thấu
hiểu nguyên nhân khổ đau tận cùng của hết thảy cả Vũ trụ.
Chính vì vậy, Tuệ linh, con người đã liên kết, giải mã được
tận cùng hết thảy các Tướng trong Vũ trụ để cấu tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng kép và sản sinh ra siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly.
Siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly có giá trị bảo vệ
Vũ trụ và ngủ đông được năng lượng hoại diệt, đặc biệt là
bảo vệ hết thảy năm nhóm năng lượng, hết thảy các Tướng
với trí tuệ thiện tâm vô lượng nhất.
Nhược điểm:
- Nhược điểm đầu tiên của siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly là không kích nổ được hạt năng lượng hoại diệt.
Do siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly có đa sóng điện âm
và trung tính, chỉ có ít sóng điện dương nên mới chỉ đủ khả
năng ngủ đông hạt năng lượng hoại diệt sau khi vận hành thu
hút năng lượng hoại diệt về. Vì có ít sóng điện dương trong
siêu hạt nên chưa đủ nhiệt lượng dương để kích nổ hạt năng
lượng hoại diệt.
- Nhược điểm thứ hai của siêu năng lượng xanh ngọc
lưu ly chính là sự bảo vệ của siêu hạt năng lượng này tới hết
thảy các Tướng trong Vũ trụ, trong đó có cả nhóm Tướng,

415
năng lượng tiêu cực. Chính vì điều này, khi năng lượng âm,
Tuệ linh đa âm, Tướng đa âm chạm vào những hạt bóng hỏa
sẽ kích hoạt chúng thức tỉnh trở lại thành hạt năng lượng
hoại diệt. Khi năng lượng hoại diệt thức tỉnh bởi được những
hạt năng lượng âm chạm vào sẽ quay lại đồng hóa và làm vỡ
các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ. Khi đó, năng lượng âm lại
gia tăng về số lượng và sẽ làm tổn hao siêu năng lượng màu
vàng óng ánh rất lớn.

3. Ưu và nhược điểm của siêu hạt năng lượng


bóng hỏa
Ưu điểm:
- Hạt bóng hỏa được chuyển hóa từ hạt năng lượng
hoại diệt tạo thành. Trong hạt bóng hỏa có siêu nhiệt lượng
và dinh dưỡng để giúp cho các cấu trúc vật chất và hết thảy
Tướng trong Vũ trụ hấp thụ và phân tách liên kết bền vững.
- Hạt bóng hỏa được kích nổ sẽ giúp cho Tuệ linh
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Nếu không có
nhiệt lượng từ hạt bóng hỏa thì sẽ không thể cấu tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng được.
- Hạt bóng hỏa được kích nổ sẽ giúp cho Tuệ linh, con
người phân tách ra được năm nhóm năng lượng và các siêu
hạt năng lượng.
- Hạt bóng hỏa sẽ đốt và giảm tải sóng điện âm nếu số
lượng hạt bóng hỏa lớn hơn số lượng hạt năng lượng âm.
- Hạt bóng hỏa khi chạm vào các hạt năng lượng hoại
diệt sẽ biến chúng cũng chuyển hóa thành hạt bóng hỏa.
Chính vì vậy, siêu hạt năng lượng bóng hỏa là loại siêu hạt
năng lượng giúp cho không gian năng lượng hoại diệt được
416
ngủ đông để kìm hãm sự phát triển nhanh mà bị kích nổ dây
chuyền gây hoại diệt toàn bộ không gian năng lượng hoại
diệt.
Nhược điểm:
Hạt bóng hỏa có một nhược điểm duy nhất, đó là nếu
nhiều hạt năng lượng âm chạm vào hạt bóng hỏa sẽ khiến
cho hạt bóng hỏa thức tỉnh và lại trở thành năng lượng hoại
diệt. Đây là nhược điểm rất nguy hiểm.

Với nhược điểm của cả 3 siêu hạt năng lượng như trên,
khi các siêu hạt năng lượng này hoạt động độc lập với nhau
sẽ tạo ra kẽ hở rất lớn khiến cho năng lượng âm được gia
tăng rất mạnh. Năng lượng âm gia tăng vì có siêu năng lượng
xanh ngọc lưu ly bảo vệ. Khi đó, năng lượng âm sẽ kích hoạt
cho những hạt bóng hỏa thức tỉnh. Khi những hạt bóng hỏa
thức tỉnh sẽ chi phối và làm gia tăng các hạt năng lượng âm
bằng cách làm vỡ các cấu trúc vật chất. Khi năng lượng âm
gia tăng sẽ khiến cho siêu năng lượng màu vàng óng ánh bị
tổn hao rất nhanh. Khi đó, năng lượng hoại diệt sẽ thông qua
năng lượng âm để phân rã Tuệ linh và các Tướng đa âm
trong Vũ trụ.
Chính vì kẽ hở lớn đó, mà cấp thiết phải có được sự
hợp nhất của các siêu hạt năng lượng nhằm phát huy tất cả
các ưu điểm và triệt tiêu được nhược điểm của các siêu hạt
năng lượng. Và kết quả là đã sản sinh ra được vô số siêu hạt
năng lượng tổng hợp của các siêu hạt năng lượng trên, đó là
siêu hạt năng lượng Nhật Sư.

417
II. Cấu tạo của siêu hạt năng lượng Hóa độ 4 –
siêu hạt năng lượng Nhật Sư
Siêu hạt năng lượng Nhật Sư là siêu hạt năng lượng
tổng hợp, có hình tròn viên mãn.
Siêu hạt năng lượng Nhật Sư được cấu tạo từ 4 siêu hạt
năng lượng tận cùng, bao gồm: siêu hạt năng lượng chân
tâm, siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh, siêu hạt năng
lượng xanh ngọc lưu ly và siêu hạt năng lượng bóng hỏa.
Siêu hạt năng lượng chân tâm trắng sáng chói lòa nằm
ở giữa siêu hạt Nhật Sư. Ngoài ra, siêu hạt chân tâm còn gắn
kết, bao trùm 3 siêu hạt năng lượng bền vững để tạo thành
hình tròn.
Bên ngoài siêu hạt năng lượng chân tâm là siêu hạt
năng lượng màu vàng óng ánh, siêu hạt năng lượng xanh
ngọc lưu ly, siêu hạt năng lượng bóng hỏa. Các siêu hạt này
được ngăn cách và liên kết chặt với nhau bởi siêu màng bọc
chân tâm.
Từ cấu trúc của siêu hạt năng lượng Nhật Sư, hạt bóng
hỏa trong siêu hạt tổng hợp sẽ không bị kích nổ. Để cấu tạo
được siêu hạt năng lượng Nhật Sư thì đòi hỏi phải có siêu hạt
năng lượng chân tâm làm nhiệm vụ gắn kết.

III. Những giá trị của siêu hạt năng lượng Hóa
độ 4 – siêu hạt năng lượng Nhật Sư
Để sản sinh được siêu hạt năng lượng Nhật Sư, Tuệ
linh, con người phải có được bộ lọc kép trong Trụ linh; phải
sản sinh được siêu hạt năng lượng vàng óng ánh, siêu hạt

418
năng lượng xanh ngọc lưu ly, siêu hạt bóng hỏa và lưu giữ
không kích nổ chúng, siêu hạt năng lượng chân tâm.
Siêu hạt năng lượng Nhật Sư có ý nghĩa là ánh sáng
dẫn đường, ánh sáng chuyển hóa và cấu tạo được hết thảy
các cấu trúc Tuệ linh, các cấu trúc Tướng trong Vũ trụ được
chuyển sinh theo hướng bền vững và an lạc nhất.
Siêu hạt năng lượng Nhật Sư được vận hành như sau:
- Siêu hạt năng lượng Nhật Sư có ở không gian lõi của
Vũ trụ và khắp không gian trong Vũ trụ.
- Khi gặp hạt năng lượng hoại diệt, siêu hạt năng lượng
Nhật Sư nếu muốn kích nổ sẽ vận hành phần hạt màu vàng
óng ánh chạm vào để kích nổ, nếu muốn ngủ đông hạt năng
lượng hoại diệt sẽ vận hành phần hạt bóng hỏa hoặc siêu hạt
xanh lưu ly để ngủ đông.
- Khi gặp các Tuệ linh đa năng lượng âm, siêu hạt năng
lượng Nhật Sư sẽ vận hành và kích nổ toàn bộ hạt năng
lượng Nhật Sư để chuyển hóa và cấu tạo lại cấu trúc Tuệ linh
đa âm. Hạt bóng hỏa sẽ đốt năng lượng âm, đồng thời tạo
nhiệt lượng cùng với siêu hạt xanh ngọc lưu ly và siêu hạt
màu vàng để cấu tạo lại cấu trúc Tuệ linh đa âm đó.
Như vậy, siêu hạt năng lượng Nhật Sư đã triệt tiêu
được những nhược điểm và phát huy được hết các ưu điểm
của các siêu hạt, đó là ngủ đông được hạt năng lượng hoại
diệt, đốt và chuyển hóa được năng lượng âm, cấu tạo và
chuyển hóa được cấu trúc Tuệ linh, vật chất đa âm. Đây là
siêu hạt năng lượng kỳ diệu nhất trong Vũ trụ.
***************

419
420
PHẦN 3
THIỀN ĐỊNH
THEO HAI CHÂN LÝ

421
422
I. Giới thiệu về các phương pháp thiền
định theo hai Chân lý
Thiền định có hai loại, đó là thiền tĩnh và thiền
động:
- Thiền tĩnh là thân tướng con người tĩnh lặng để ý
nghĩ của trí tuệ tập trung liên kết tới Trụ linh trong Tâm, để
từ Trụ linh, sóng điện sẽ được truyền tải, liên kết tới các cấu
trúc năng lượng trong Vũ trụ.
- Thiền động là thân tướng vẫn vận động, đó là vẫn đi
đứng, vẫn làm việc, vẫn hoạt động; trí tuệ thông qua ý nghĩ
để liên kết tới Trụ linh, từ Trụ linh sẽ truyền sóng điện để
liên kết tới hết thảy vạn vật, các cấu trúc năng lượng trong
Vũ trụ.
Thiền theo hai Chân lý là:
- Người hành thiền sẽ phải thấu hiểu Chân lý Vạn vật,
Chân lý Giác ngộ. Để thấu hiểu hai Chân lý thì phải thấu hiểu
cơ chế vận hành của hai Chân lý là phân tách và liên kết dây.
- Phải thấu hiểu bản chất hạt năng lượng tận cùng, cơ
chế Quay tròn, Tam hợp, các cấu trúc năng lượng, mã hóa
thông tin, cơ chế chuyển sinh. Phải phân biệt được các loại
năng lượng tiêu cực, các cấu trúc năng lượng tiêu cực, các
năng lượng và các cấu trúc năng lượng tích cực. Phải thấu
hiểu bản chất của hạt năng lượng, bản chất của liên kết tạo
thành cấu trúc năng lượng chứ không phải là chỉ nhìn vào
hình tướng. Khi đã thấu hiểu bản chất thì việc thấy Tướng sẽ
nhận diện được sự thật của các Tướng đó.
- Phải thấu hiểu cội nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại,
kế hoạch tu hành nơi nhân gian, thấu hiểu Bát Không Hoàn

423
Đạo, thấu hiểu Quy luật Nhân quả, thấu hiểu quy trình
Chuyển sinh.
- Để thiền đạt được hiệu quả cao nhất, an toàn nhất,
thành tựu nhất thì cần phải có trí tuệ thấu hiểu tận cùng hai
Chân lý, đó là cần phải thấu hiểu toàn bộ hệ thống tri thức
của hai Chân lý. Khi thấu hiểu thì sẽ có trí tuệ để thực hành
thiền định theo hai Chân lý.
Thiền theo hai Chân lý với điều kiện là phải thấu hiểu
tận cùng toàn bộ hệ thống tri thức của hai Chân lý, khi thấu
hiểu mới nên thực hành thiền định. Nếu không có trí tuệ thấu
hiểu về vạn vật, Vũ trụ và con đường chuyển sinh bền vững
theo Chân lý Giác ngộ, con người sẽ dễ dàng thiền sai và bị ảo
ảnh trong thiền chi phối, sẽ dễ bị Chư vị Tuệ linh thử thách,
sẽ dễ bị cấu trúc năng lượng âm làm cho ảo thanh và ảo giác.
Do đó, chỉ khi có trí tuệ của hai Chân lý mới tạo được liên kết
vững chắc và mới đạt được các thành tựu trong thiền định.
Chính vì điều này mà Tôi đã đặt phần mục thiền định ở cuối
cùng của toàn bộ giáo lý.

II. Bản chất của thiền định


Thiền định là việc dùng trí tuệ trong não bộ thông qua
ý nghĩ để dẫn dắt, truyền tải sóng điện từ não bộ liên kết tới
cấu trúc Trụ linh trong Tâm (Tuệ linh, Linh hồn), từ Trụ linh
trong Tâm, sóng điện mã sóng trí tuệ sẽ truyền tải, đẩy đi và
liên kết với các cấu trúc năng lượng, cấu trúc vật chất, cấu
trúc hết thảy Tướng trong không gian Vũ trụ.
Khi sóng điện từ Trụ linh đã di chuyển trong cấu trúc
nền của không gian Vũ trụ để tới được các cấu trúc năng
lượng, cấu trúc vật chất, cấu trúc Tướng trong Vũ trụ, những
424
thông tin, những hình ảnh, những sóng điện năng lượng sẽ
được Trụ linh hấp thụ về hoặc được truyền tải về Trụ linh.
Thiền với bản chất là bước nhảy, là di chuyển, là
truyền tải sóng điện trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng
lượng tận cùng. Sóng điện trí tuệ sẽ thực hiện bước nhảy
vượt không gian từ Trụ linh trong Tâm để tới một không
gian khác trong Vũ trụ trong một ý nghĩ.
Thiền cũng là bước nhảy, là di chuyển, là truyền tải
sóng điện thông tin trong hạt năng lượng tận cùng để vượt
thời gian trở về quá khứ. Đó là thiền quán thấy quá khứ của
Vũ trụ, của nhân loại, của tiền kiếp nhân sinh.
Thiền tuyệt đối không giúp cho con người đắc đạo hay
giác ngộ, bởi Tâm chính là Tuệ linh, là dạng sống siêu việt
nhất Vũ trụ; trước khi họ hóa thân làm con người, họ có trí
tuệ siêu việt trong sự hiểu biết về sự thật, về không gian Vũ
trụ; khi con người bị che đi trí tuệ của Tuệ linh trong thân
tướng vật chất giản đơn là con người, con người thiền định
và thấy được những điều mà con người tưởng là kỳ diệu, là
thần thông, là pháp thuật, là nhiệm màu, là giác ngộ; tuy
nhiên, những điều đó là điều mà các Tuệ linh đều biết. Do đó,
thiền định chỉ cho trí tuệ con người biết được sự thật về thế
giới quan Vũ trụ để con người biết về cội nguồn mà thực
hành tu hành cải tạo Trụ linh.
Thiền định không đem lại sự giác ngộ giải thoát khổ
đau, không giúp cho con người đắc đạo. Thiền định chỉ là
thông qua bước nhảy của mã sóng trí tuệ trong hạt năng
lượng tận cùng để giúp cho trí tuệ con người khám phá thế
giới quan Vũ trụ và hấp thụ năng lượng tích cực cho việc cân
bằng cũng như nâng cao sức khoẻ cho thân tướng.

425
III. Ý nghĩa của thiền định theo hai Chân lý
Thiền định nói chung và thiền định theo hai Chân lý
nói riêng có rất nhiều ý nghĩa. Trong thiền định có hai loại
thiền là thiền động và thiền tĩnh, do đó ý nghĩa của thiền định
sẽ phân chia ra làm hai loại:
- Thiền động:
+ Thiền động sẽ cho trí tuệ con người thấu hiểu tận
cùng về bản chất của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Thông qua
thiền động để quan sát sự vận động của vạn vật, sự việc, hiện
tượng sẽ cho trí tuệ con người thấy được sự thật về cơ chế
vận hành tất cả vật chất (vật chất giản đơn, vật chất phức tạp,
siêu vật chất), đó là cơ chế phân tách, liên kết dây. Đây là cơ
chế vận hành sự tồn tại của cội nguồn, sự sống, phát triển của
từ hạt năng lượng tận cùng cho tới chỉnh thể toàn bộ Vũ trụ.
+ Thiền động thông qua cơ chế Phân tách và liên kết
dây, trí tuệ con người sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện tại và
tương lai của hết thảy các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ.
- Thiền tĩnh:
+ Thiền tĩnh sẽ giúp cho con người dùng sóng điện trí
tuệ để vận hành mã sóng trí tuệ trong Trụ linh liên kết với
năng lượng tích cực trong Vũ trụ, khi liên kết được sẽ hấp
thụ, lấy năng lượng tích cực đó di chuyển tới thân tướng con
người. Năng lượng tích cực trong Vũ trụ di chuyển vào cơ thể
con người sẽ giúp cho cấu trúc sóng điện trong cơ thể được
tuần hoàn, được lưu thông, chuyển hóa những năng lượng
âm tích tụ trong cơ thể.
+ Thiền tĩnh để lấy năng lượng tích cực trong Vũ trụ về
cơ thể sẽ giúp cho thân tướng con người được nâng cao sức
đề kháng.
426
+ Thiền tĩnh thông qua việc lấy năng lượng tích cực về
sẽ giúp cho cơ thể triệt tiêu được những căn bệnh trong cơ
thể một cách kỳ diệu.
+ Thiền tĩnh giúp cho trí tuệ và trạng thái tâm trong cơ
thể được cân bằng, được buông xả những lo âu, lo toan,
những áp lực để an lạc, để thanh tịnh sau những ngày vất vả
bởi lo toan cuộc sống.
+ Thiền tĩnh sẽ giúp cho con người cân bằng được cảm
xúc, cân bằng được năng lượng trong Tâm. Điều này giúp cho
những con người mắc bệnh về Tâm như lo âu, trầm cảm,
hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, tâm thần được hỗ trợ cân
bằng khi kết hợp cùng trị liệu siêu tâm lý của hai Chân lý.
+ Thiền tĩnh sẽ giúp cho trí tuệ con người khám phá
được các cõi trời, khám phá được cõi trời Địa phủ, khám phá
được dạng sống siêu vật chất là Tuệ linh; đặc biệt là sẽ thiền
định để giao tiếp, trò chuyện với các dạng sống khác bên
ngoài Trái đất.
+ Thiền định sẽ khám phá được dạng sống siêu vật
chất như Chúa trời, Phật, Thần thánh, Tiên, ma qủy là vì
trong con người cũng có 1 cấu trúc siêu vật chất an trụ bên
trong. Tuệ linh an trụ trong thân tướng con người, do đó, con
người thông qua Tuệ linh đang an trụ bên trong cơ thể để
thấy được các cấu trúc, dạng sống siêu vật chất trong Vũ trụ.
Chính vì vậy, con người sẽ có niềm tin vào Địa ngục, Địa phủ,
Thần tiên, ma quỷ, Thần thánh, Phật, Chúa.
+ Thiền định sẽ giúp cho những con người tu tập tâm
linh có thể chứng ngộ được các huyệt mạch năng lượng màu
vàng óng ánh ở Trái đất. Những huyệt mạch đó gọi là long
huyệt mạch trong bộ môn Địa lý. Cơ chế liên kết dây từ lõi
của Vũ trụ sẽ tỏa ra vô số các cột siêu năng lượng màu vàng
427
óng ánh tới các hành tinh để dạng sống Tuệ linh vận hành sự
vận động của tất cả các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ.
+ Ngoài ra, thiền định theo hai Chân lý sẽ giúp cho con
người thấy và thấu được những điều kỳ diệu đối với con
người. Đó là thấu hiểu về bản chất việc thờ cúng, bản chất
long huyệt mạch, bản chất năng lượng tương tác với đời sống
con người, bản chất của bùa chú, bản chất của trấn yểm, bản
chất của cúng bái, thấy mạch nước ngầm, thấy linh hồn người
chết, thấy ma quỷ, thấy linh hồn những con thú dữ…

IV. Thời gian và địa điểm tốt cho việc thiền


định
Thời gian không tốt cho thiền định:
- Từ 11h tới 13h trưa là giờ đa dương trong một ngày.
Đây là thời điểm năng lượng dương từ Mặt trời tác động vào
Trái đất rất nhiều. Thời điểm này là thời điểm cơ thể con
người rất mệt mỏi, nếu thiền định trong tình trạng cơ thể
mệt mỏi sẽ nguy hiểm trong việc kiểm soát sự tỉnh táo của trí
tuệ. Khi trí tuệ không tỉnh táo sẽ dễ chìm vào ảo ảnh của các
cấu trúc năng lượng âm trong khi thiền định.
- Từ 23h đêm cho tới 5h sáng. Đây là thời điểm đa âm
trong một ngày, tức là sóng điện âm của màn đêm sẽ khiến
cho năng lượng hoại diệt di chuyển nhiều vào Trái đất. Đêm
lại là môi trường sóng âm đang vận hành thịnh vượng trong
một ngày, thời điểm đêm lại là thời điểm cơ thể con người
mệt mỏi cần được ngủ nghỉ. Với những yếu tố tiêu cực đó mà
thực hành thiền định sẽ rất nguy hiểm, khi con người thiền
định vào ban đêm sẽ khiến cho trí tuệ dễ bị mất kiểm soát

428
bởi sự chi phối của năng lượng hoại diệt và của các cấu trúc
năng lượng âm.
Thời gian thiền định tốt nhất trong ngày là những
khung giờ ngoài hai khung giờ trên.
Địa điểm không tốt cho việc thiền định:
- Không nên thiền định ở trên núi, trong rừng, bởi
những nơi này có những linh hồn của muông thú đang tồn tại
sau khi chúng chết. Những linh hồn đó có các cấu trúc năng
lượng âm, những năng lượng âm đó sẽ xâm nhập vào cơ thể
khi thiền định, điều này sẽ vô cùng nguy hiểm gây ra ảo ảnh,
ảo giác và khiến cho cơ thể nhiễm năng lượng âm từ họ.
- Không nên thiền định trong hang núi, trong động sâu,
trong vực sâu, bởi những nơi này có sóng điện âm sẽ khiến
cho năng lượng hoại diệt di chuyển tới và di chuyển vào cơ
thể gây phân rã cấu trúc Trụ linh.
- Không nên thiền định ở ngoài công viên, ở cánh đồng,
ở nghĩa trang, ở bệnh viện, ở những nơi giết mổ hay hiến tế,
ở những nơi có người chết, những nơi là chiến trường, nhà
tang lễ, nhà hỏa táng…, vì những nơi này sẽ có lượng năng
lượng âm rất lớn. Khi thiền định, những năng lượng âm này
sẽ xâm nhập vào cơ thể và gây ra vỡ các huyệt đạo cũng như
làm cho việc thiền định bị ảo giác.
- Không nên thiền định trong kim tự tháp hay thiền
định bên trong mô hình kim tự tháp, bởi những nơi này sẽ
hấp thụ sóng thu năng lượng hoại diệt về, khi thiền sẽ khiến
cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào nhiều. Nếu mô hình
kim tự tháp lại đặt trên điền thổ có năng lượng âm thì sẽ
khiến cho năng lượng hoại diệt vào rất nhiều, sẽ vô cùng
nguy hiểm cho việc thiền định, cấu trúc Trụ linh sẽ phân rã
429
nhanh và gây ra các chứng hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, ảo
ảnh.
- Không thiền định ở nơi có tu luyện pháp thuật, tu
luyện âm binh, tu luyện bùa chú, những nơi hành nghề mê tín
dị đoan. Những nơi này có rất nhiều âm, nếu thiền định sẽ rất
nguy hiểm bởi năng lượng âm sẽ xâm nhập vào gây bệnh tật
và sẽ thấy những ảo ảnh, ảo tưởng về Thần thánh, Phật, các
Đấng tối cao.
- Không thiền định ngoài trời, vì khi thiền định là các
huyệt đạo đang mở, ngoài trời có gió, có nhiều năng lượng
tiêu cực lẫn lộn nên dễ xâm nhập vào cơ thể.
Địa điểm thiền tốt nhất là thiền trong nhà, kín gió, đặc
biệt ngôi nhà thiền định phải không có năng lượng âm. Để an
toàn cho việc thiền định, người hành thiền cần phải thấu hiểu
hệ thống lý luận trong giáo lý hai Chân lý; tiếp đến thực hành
hóa giải, siêu độ cho những năng lượng âm an trụ tại điền
thổ, hóa giải bùa chú và các trấn yểm để nơi thiền, nơi sinh
sống có năng lượng tích cực. Khi đó, việc thiền ở nơi có năng
lượng tích cực sẽ giúp cho người thiền chữa được bệnh cơ
thể, nâng cao sức khoẻ và việc khám phá thế giới quan Vũ trụ
được chân thật.

V. Những lưu ý trước và trong quá trình


hành thiền
Trước khi thiền định cần lưu ý:
- Trước khi thực hiện hành thiền phải đọc vài lần toàn
bộ hệ thống tri thức của hai Chân lý, để hiểu bản chất và sự
thật của vạn vật Vũ trụ, Tuệ linh và con người.

430
- Trước khi thực hiện hành thiền phải dùng bài Hóa độ
để siêu độ và cân bằng năng lượng điền thổ nơi hành thiền,
hóa giải bùa, những vật phẩm trấn yểm nếu có.
- Ghi nhớ những năng lượng tiêu cực nguy hiểm cho
thiền định, ghi nhớ các siêu hạt năng lượng tốt cho thiền
định.
- Không thiền định ở ngoài trời và những nơi có những
năng lượng âm như đã đề cập. Chỉ nên thiền định trong ngôi
nhà kín gió và ngôi nhà đã được siêu độ cho năng lượng âm
rồi.
- Không thiền định vào giờ trưa (từ 11h đến 13h) và từ
23h đêm tới 5h sáng.
Trong quá trình hành thiền cần lưu ý:
- Khi đang hành thiền mà thấy đau mỏi vai gáy, đau
người hay đau đầu, người rung lắc thì đó là dấu hiệu trong
người bị nhiễm âm nặng, có thể trên điền thổ nơi sinh sống
cũng có nhiều năng lượng âm. Khi thiền là các siêu năng
lượng vào cơ thể rất nhiều, nên nếu cơ thể đang bị dư thừa
âm sẽ cảm nhận được rõ sự giao tranh này. Khi đó, kết hợp
vừa thiền vừa đọc bài Hóa độ bên dưới để quá trình giao
tranh nhanh kết thúc.
- Khi hành thiền mà thấy các năng lượng xấu như màu
đỏ máu, màu đen, màu xám thì vừa thiền vừa đọc bài Hóa độ
bên dưới để các siêu năng lượng sẽ trung hòa và chuyển hóa
những năng lượng âm đó.
- Khi hành thiền cân bằng năng lượng mà nhìn thấy các
hình ảnh Chúa, Phật, Thánh thần thì không nên tin vội, vì đó
có thể là do ảo ảnh hoặc ngã quỷ đóng giả để dẫn dụ người
hành thiền đi sai đường. Khi đó, để biết những thứ đó là thật
431
hay giả thì hãy dùng bài Hóa độ bên dưới để đọc và tay phải
giơ lên hướng vào những hình ảnh đó. Nếu thật thì sẽ không
bị tan biến, nếu là do tinh tà, ngã quỷ đóng giả thì sẽ bị tan
biến.
- Trong quá trình hành thiền, khi người hành thiền đạt
được trạng thái cơ thể ấm áp, yêu đời, an vui, không đau mỏi
cơ thể, không lạnh người, tức là đã cân bằng được năng
lượng âm dương trong người.
- Khi đang thiền không để có trẻ con bên cạnh, không
để sự va đập của ai đó làm ảnh hưởng việc thiền định.
- Tôi khuyến khích độc giả hành thiền khi có những
người đã đạt được thành tựu trong thiền định hướng dẫn và
giám sát khi thiền. Đây là phương pháp luận kỳ diệu nhất để
con người thấu hiểu được vạn vật, Vũ trụ. Tuy nhiên, bên
cạnh đó là vô vàn thử thách của các tầng năng lượng cũng
như hiểm nguy khi thiền, nên độc giả cần cân nhắc trước khi
tự hành thiền.
Bài Hóa độ khi hành thiền sử dụng để hóa giải, siêu độ
cho những năng lượng âm tác động tới, những cấu trúc năng
lượng âm đang xung quanh khi ta thiền, đó là:
- Nghĩ tới Ngài A Di Di Đà Phật. Ngài A Di Di Đà chính là
vị Tuệ linh đầu tiên có các danh xưng khác như: Thiên Chúa,
Thượng Đế, Đấng Sáng Tạo. Ngài đã thành đạo viên mãn bởi
hai Chân lý.
- Đọc cả bài Hóa độ là: đọc 3 lần câu “Nam mô A Di Di
Đà Phật”. Sau đó đọc 1 lần câu “Ta hóa độ cho Thân – Tâm –
Trí chuyển sinh an lạc. Đạo”. Đọc nhiều lần bài Hóa độ này
cho tới khi hết các hiện tượng đau mỏi vai gáy, đau đầu,
không còn nhìn thấy năng lượng âm nữa.

432
- Khi đọc bài Hóa độ thì phải nở nụ cười nhẹ nhàng và
an vui, đó là chân tâm bởi trí tuệ thấu hiểu giáo lý nên bằng
tâm thương cảm các cấu trúc năng lượng để độ họ được siêu
thoát.
Có người đang thiền định, vô tình thấy Tuệ linh, Linh
hồn mình tách ra khỏi cơ thể, hoặc khi du linh đến các cõi
trời mà muốn trở về thân tướng khi gặp chướng ngại, hãy
đọc câu “Tái tạo hoàn hồn. Đạo” là Tuệ linh, Linh hồn sẽ trở
về và vào cơ thể.
Bài Hóa độ và bài xử lý khi Tuệ linh, Linh hồn tách ra
cơ thể khi thiền là chìa khóa an toàn, là bảo bối trong thiền
định. Do đó, cần phải nhớ kỹ để khi thiền sử dụng.

VI. Phương pháp thiền định cơ bản


Phương pháp thiền cơ bản bao gồm thiền xả và thiền
dưỡng. Đây là phương pháp cơ bản đầu tiên của thiền định
theo hai Chân lý, là nền tảng để phát triển các khả năng thiền
định ở các cảnh giới, các tầng thiền cao hơn. Đây cũng là
phương pháp thiền cân bằng năng lượng và nâng cao sức
khoẻ tổng hợp.
Trước khi thiền phải nhớ lại những kiến thức về năng
lượng. Năng lượng xấu và không nên lấy đó là năng lượng
màu đỏ máu, năng lượng màu đen, năng lượng màu xám.
Những năng lượng cần phải lấy khi thiền là các siêu hạt năng
lượng vàng óng ánh, xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa và hạt
năng lượng Nhật Sư.

433
Những người không nên thiền định theo phương
pháp thiền cơ bản là những người mắc bệnh Tâm như
sau:
- Những người hay bị lạnh người, hay bị đau mỏi vai
gáy, hay đau đầu mà không rõ nguyên nhân.
- Những người mắc chứng bệnh trầm cảm, rối loạn lo
âu.
- Những người mắc bệnh đa nhân cách, hoang tưởng,
ảo thanh, ảo giác, những người mắc bệnh tâm thần.
- Những người hay bị vong âm nhập người, âm hành,
căn hành.
- Những người đã tu luyện các môn pháp tu, các tín
ngưỡng, các tôn giáo khi thiền mà bị mất kiểm soát, tay múa
may bắt ấn, đầu và người lắc lư. Những người này tuyệt đối
không thiền theo pháp thiền cơ bản này.
Những người thiền định được theo phương pháp thiền
cơ bản là những người không bị các chứng bệnh Tâm như
trên.
Phương pháp thiền cơ bản của hai Chân lý gồm có hai
giai đoạn, đó là thiền xả và thiền dưỡng:
Giai đoạn 1 – thiền xả:
Thiền xả là lấy những siêu năng lượng tốt trong Vũ trụ
vào cơ thể để đẩy, thanh lọc những năng lượng âm dư thừa
ra khỏi cơ thể. Do ăn uống, do bệnh tật, do lao động vất vả
mà cơ thể bị dư thừa năng lượng âm, do đó cần thiền xả bỏ
năng lượng âm ra ngoài cơ thể trước khi thực hành thiền
dưỡng. Giai đoạn thiền xả chỉ nên thiền 15 đến 20 phút mỗi
lần thiền. Giai đoạn thiền xả gồm có những bước thực hiện
như sau:
434
- Ngồi với tư thế thoải mái nhất, khi ngồi không quan
trọng việc để chân ra sao, miễn là thoải mái cơ thể để thực
hiện việc hành thiền thuận lợi nhất.

Hình: Ảnh thiền xả


- Hai tay để lên hai đầu gối, hướng hai lòng bàn tay
xuống đất để tạo thành cơ chế xả năng lượng âm (năng lượng
435
xấu) trong cơ thể chuyển hóa xuống đất. Bản chất của Trái
đất là có lực hút nên việc xả âm phải thuận với bản chất đó
để đạt hiệu quả trong thiền xả. Nhắm hai mắt.
- Tập trung suy nghĩ ở trán, cạnh chân tóc. Điểm này
chính là nơi kết tụ trạm phát sóng trí tuệ của con người đến
vạn vật, Vũ trụ. Do đó phải tập trung suy nghĩ vào trán, chỗ
chân tóc, để kích hoạt các mã sóng trí tuệ nhằm thiết lập liên
kết với mã sóng trí tuệ trong Trụ linh và Vũ trụ.
- Hãy truyền ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh trong Tâm,
tức là truyền suy nghĩ tới bên trong cơ thể mình để sóng điện
được liên kết từ não bộ tới Trụ linh của Tâm. Từ Trụ linh của
Tâm, hãy truyền sóng điện tới Vũ trụ. Hãy nghĩ tới Vũ trụ với
tinh cầu hình tròn khổng lồ bao gồm vô lượng dải thiên hà,
trong lõi của Vũ trụ là không gian chứa đựng siêu năng lượng
vàng óng ánh; bên ngoài Vũ trụ, bao trùm Vũ trụ là siêu năng
lượng xanh ngọc lưu ly; bên trong các hành tinh là các hạt
năng lượng bóng hỏa đang được lưu giữ; những hạt năng
lượng Nhật Sư có ở lõi và khắp không gian Vũ trụ. Việc nhớ
được những nơi chứa đựng các siêu năng lượng chính là việc
từ trí tuệ đã vận hành Trụ linh liên kết tới những siêu năng
lượng đó rồi. Để làm được việc này thì phải đọc nhiều lần tri
thức của hai Chân lý. Đó chính là thiền định theo hai Chân lý,
bởi các siêu năng lượng được sản sinh bởi hai Chân lý.
- Suy nghĩ có những dòng chảy lớn siêu năng lượng
màu vàng óng ánh, siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly, hạt
bóng hỏa, siêu hạt năng lượng Nhật Sư chảy vào trán. Hãy
nghĩ có những dòng chảy đó và chảy rất mạnh vào trán. Việc
nghĩ chính là dùng ý để dẫn năng lượng, tức là khi trí tuệ
nghĩ, Tuệ linh sẽ thực hiện cơ chế liên kết và hấp thụ các siêu
năng lượng về. Do đó, phải nghĩ liền mạch, không để bị đứt
436
mạch bởi những tạp niệm khi hành thiền, phải tập trung
không để đứt mạch suy nghĩ về các dòng năng lượng chảy
vào trán.
- Khi đó đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với chỗ chân
tóc trên trán là một. Có nghĩa là hãy hình dung chỗ trán là
một cái mũi thứ 2. Cả 2 cái mũi cùng nhau hít năng lượng vào
cơ thể.
+ Hít một hơi ở mũi thật nhẹ nhàng và dài thì cũng
nghĩ là các siêu năng lượng cũng từ trán chảy vào cơ thể và
lan tỏa khắp cơ thể.
+ Tiếp đó là khi thở bằng mũi cũng thở nhẹ và dài thì
nghĩ năng lượng âm với màu đỏ máu, màu đen, màu xám
(năng lượng xấu) chạy ra hai lòng bàn tay rồi thoát xuống
đất.
+ Cứ như vậy, đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với ở
trán chỗ chân tóc. Hít vào ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời
nghĩ các siêu năng lượng sẽ từ chân tóc chỗ trán di chuyển
vào và lan tỏa khắp cơ thể. Thở ra ở mũi thật dài và nhẹ,
đồng nhất với ý nghĩ là các siêu năng lượng đang đẩy các
năng lượng âm thoát ra khỏi hai lòng bàn tay rơi xuống đất.
Thật tập trung theo hơi hít và thở ở mũi để hấp thụ
được những siêu năng lượng vào và xả những năng lượng
âm ra khỏi hai bàn tay. Thiền xả trong vòng 15 đến 20 phút
rồi chuyển sang bước thiền dưỡng cân bằng năng lượng âm
dương trong cơ thể.
Giai đoạn 2 – thiền dưỡng:
Thiền dưỡng là giai đoạn kế tiếp của thiền xả. Thông
qua giai đoạn thiền dưỡng để cân bằng năng lượng âm
dương trong cơ thể, tức là những siêu năng lượng được hấp
thụ vào cơ thể sẽ phải lan tỏa khắp cơ thể để nuôi dưỡng các

437
tế bào, để trung hòa các năng lượng xấu, để nâng cao khả
năng đề kháng của các tế bào trong cơ thể.
Thiền dưỡng gồm có các bước sau:
- Tư thế ngồi vẫn là thoải mái nhất. Nhắm hai mắt.

Hình: Ảnh thiền dưỡng


- Hai tay từ tư thế thiền xả chuyển sang tư thế bắt ấn
lại để phong tỏa khí hỏa không thoát ra ngoài khi hành thiền.
438
Tư thế bắt ấn là hai tay đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm
vào nhau. Phong ấn như vậy để an toàn cho người thiền
không bị thoát khí hỏa từ trong người ra ngoài và không bị
nhiễm năng lượng âm từ bên ngoài vào cơ thể.
- Tiếp tục suy nghĩ từ trán tới Trụ linh rồi dùng ý nghĩ
là từ Trụ linh trong cơ thể sẽ liên kết tới các khu vực chứa
đựng các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ.
- Tiếp đến là nghĩ các dòng siêu hạt năng lượng đó lại
tạo thành từng dòng và chảy tới trán.
- Đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với điểm ở chân tóc
trên trán:
+ Hít một hơi ở mũi thật sâu và nhẹ, đồng thời nghĩ là
những siêu năng lượng từ chân tóc ở trán đang chảy vào
trong cơ thể.
+ Thở một hơi thở ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời
nghĩ là các siêu năng lượng đang tỏa ra khắp các tế bào trong
khắp cơ thể.
+ Cứ lặp đi, lặp lại hít và thở ở mũi đồng thời nghĩ các
siêu hạt năng lượng di chuyển vào cơ thể và lan tỏa khắp cơ
thể.
Tập trung thiền dưỡng thông qua tập trung vào hơi hít
và thở và suy nghĩ việc các siêu năng lượng vào và lan tỏa
khắp cơ thể. Thiền dưỡng chỉ trong vòng 20 tới 30 phút.
Tuyệt đối không được thiền lâu, vì thiền lâu là trí tuệ sẽ dễ
dàng mất kiểm soát bản thể Tâm (Tuệ linh). Khi đó, nguy
hiểm việc Tuệ linh tách ra khỏi cơ thể và bị di chuyển vào
những khu vực năng lượng tiêu cực hay những cơn bão năng
lượng hoại diệt trong Vũ trụ.

439
Như vậy, việc thiền xả và dưỡng chỉ nên thiền khoảng
30 tới 50 phút là hợp lý nhất.
Không mong hay cầu nhìn thấy cảnh hoặc thấy năng
lượng, cứ dùng ý nghĩ để năng lượng được vận hành. Tập
trung thực hành đúng, bởi quá trình thiền cơ bản cần thời
gian dài mới thấy được năng lượng và sau đó sẽ chuyển sang
các phương pháp thiền cao hơn.

VII. Phương pháp thiền định trị liệu chữa


các bệnh Tâm
Phương pháp thiền định trị liệu chữa các bệnh Tâm
bao gồm thiền xả và thiền dưỡng. Đây cũng là phương pháp
thiền cân bằng năng lượng bởi vận hành cơ chế và hấp thụ
các siêu năng lượng trong không gian Vũ trụ về để cấu tạo,
cân bằng các cấu trúc năng lượng bị đứt trong Tâm.
Trước khi thiền phải nhớ lại những kiến thức về năng
lượng. Năng lượng xấu và không nên lấy đó là năng lượng
màu đỏ máu, năng lượng màu đen, năng lượng màu xám.
Những năng lượng cần phải lấy khi thiền là các siêu hạt năng
lượng vàng óng ánh, xanh ngọc lưu ly, hạt bóng hỏa và hạt
năng lượng Nhật Sư.
Những người nên thiền định theo phương pháp thiền
trị liệu chữa bệnh Tâm là:
- Những người hay bị lạnh người, hay bị đau mỏi vai
gáy, hay đau đầu mà không rõ nguyên nhân.
- Những người mắc chứng bệnh trầm cảm, rối loạn lo
âu.

440
- Những người mắc bệnh đa nhân cách, hoang tưởng,
ảo thanh, ảo giác, những người mắc bệnh tâm thần.
- Những người hay bị vong âm nhập người, âm hành,
căn hành.
- Những người đã tu luyện các môn pháp tu, các tín
ngưỡng, các tôn giáo khi thiền mà bị mất kiểm soát, tay múa
may bắt ấn, đầu và người lắc lư.
Để việc thiền định trị liệu chữa trị các bệnh Tâm nhanh
khỏi và triệt để, cần phải kết hợp song song là học và thực
hành theo hệ thống tri thức của hai Chân lý.
Phương pháp thiền trị liệu chữa các bệnh Tâm gồm có
hai giai đoạn, đó là thiền xả và thiền dưỡng:
Giai đoạn 1 – thiền xả:
Thiền xả là lấy những siêu năng lượng tốt trong Vũ trụ
vào cơ thể để đẩy, thanh lọc những năng lượng âm dư thừa
ra khỏi cơ thể. Do bệnh Tâm với bản chất là Trụ linh trong
Tâm bị phóng xạ âm quá nhiều, nên cần có các siêu hạt năng
lượng vào chuyển hóa và đẩy bớt những dư thừa của năng
lượng âm. Giai đoạn thiền xả chỉ nên thiền 15 đến 20 phút
mỗi lần thiền. Giai đoạn thiền xả gồm có những bước thực
hiện như sau:
- Khi thiền xả, phải mở mắt trong toàn bộ quá trình
thiền, tuyệt đối không được nhắm mắt.
- Ngồi nhìn vào bức tường hoặc một vật thể nào đó
tĩnh lặng.
- Ngồi với tư thế thoải mái nhất, khi ngồi không quan
trọng việc để chân ra sao, miễn là thoải mái cơ thể để thực
hiện việc hành thiền thuận lợi nhất.

441
- Hai tay để lên hai đầu gối, hướng hai lòng bàn tay
xuống đất để tạo thành cơ chế xả năng lượng âm (năng lượng
xấu) trong cơ thể chuyển hóa xuống đất. Bản chất của Trái
đất là có lực hút nên việc xả âm phải thuận với bản chất đó
để đạt hiệu quả trong thiền xả. Phải mở mắt để không bị mất
kiểm soát trong tâm và ý nghĩ.
- Tập trung suy nghĩ ở trán, cạnh chân tóc. Điểm này
chính là nơi kết tụ trạm phát sóng trí tuệ của con người đến
vạn vật, Vũ trụ. Do đó phải tập trung suy nghĩ vào trán, chỗ
chân tóc, để kích hoạt các mã sóng trí tuệ nhằm thiết lập liên
kết với mã sóng trí tuệ trong Trụ linh và Vũ trụ.
- Hãy truyền ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh trong Tâm,
tức là truyền suy nghĩ tới bên trong cơ thể mình để sóng điện
được liên kết từ não bộ tới Trụ linh của Tâm. Từ Trụ linh của
Tâm, hãy truyền sóng điện tới Vũ trụ. Hãy nghĩ tới Vũ trụ với
tinh cầu hình tròn khổng lồ bao gồm vô lượng dải thiên hà,
trong lõi của Vũ trụ là không gian chứa đựng siêu năng lượng
vàng óng ánh; bên ngoài Vũ trụ, bao trùm Vũ trụ là siêu năng
lượng xanh ngọc lưu ly; bên trong các hành tinh là các hạt
năng lượng bóng hỏa đang được lưu giữ; những hạt năng
lượng Nhật Sư có ở lõi và khắp không gian Vũ trụ. Việc nhớ
được những nơi chứa đựng các siêu năng lượng chính là việc
từ trí tuệ đã vận hành Trụ linh liên kết tới những siêu năng
lượng đó rồi. Để làm được việc này thì phải đọc nhiều lần tri
thức của hai Chân lý. Đó chính là thiền định theo hai Chân lý,
bởi các siêu năng lượng được sản sinh bởi hai Chân lý.
- Suy nghĩ có những dòng chảy lớn siêu năng lượng
màu vàng óng ánh, siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly, hạt
bóng hỏa, siêu hạt năng lượng Nhật Sư chảy vào trán. Hãy
nghĩ có những dòng chảy đó và chảy rất mạnh vào trán. Việc
442
nghĩ chính là dùng ý để dẫn năng lượng, tức là khi trí tuệ
nghĩ, Tuệ linh sẽ thực hiện cơ chế liên kết và hấp thụ các siêu
năng lượng về. Do đó, phải nghĩ liền mạch, không để bị đứt
mạch bởi những tạp niệm khi hành thiền, phải tập trung
không để đứt mạch suy nghĩ về các dòng năng lượng chảy
vào trán.
- Khi đó đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với chỗ chân
tóc trên trán là một. Có nghĩa là hãy hình dung chỗ trán là
một cái mũi thứ 2. Cả 2 cái mũi cùng nhau hít năng lượng vào
cơ thể.
- Kết hợp bài niệm Hóa độ với từng hơi hít và thở cùng
với lấy các siêu năng lượng vào cơ thể:
+ Niệm 3 lần câu “Nam mô A Di Di Đà Phật” và 1 lần
câu “Ta hóa độ cho Thân – Tâm – Trí chuyển sinh an lạc.
Đạo”.
+ Tiếp đó là hít một hơi ở mũi thật nhẹ nhàng và dài
cho tới tận cùng của một hơi thì cũng nghĩ là các siêu năng
lượng cũng từ trán chảy vào cơ thể và lan tỏa khắp cơ thể.
+ Tiếp đó là khi thở bằng mũi cũng thở nhẹ và dài cho
tới tận cùng thì cũng nghĩ năng lượng âm với màu đỏ máu,
màu đen, màu xám (năng lượng xấu) chạy ra hai lòng bàn tay
rồi thoát xuống đất.
+ Cứ như vậy, niệm 1 lần bài Hóa độ xong rồi lại hít và
thở 1 lần. Hít vào ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời nghĩ các
siêu năng lượng sẽ từ chân tóc chỗ trán di chuyển vào và lan
tỏa khắp cơ thể. Thở ra ở mũi thật dài và nhẹ, đồng nhất với
ý nghĩ là các siêu năng lượng đang đẩy các năng lượng âm
thoát ra khỏi hai lòng bàn tay rơi xuống đất.

443
Thật tập trung niệm bài Hóa độ trước khi hít và thở ở
mũi đồng nhất với chỗ chân tóc để hấp thụ được những siêu
năng lượng vào và xả những năng lượng âm ra khỏi hai bàn
tay. Thiền xả trong vòng 15 đến 20 phút rồi chuyển sang
bước thiền dưỡng cân bằng năng lượng âm dương trong cơ
thể.
Tuyệt đối không được nhắm mắt khi thiền xả.
Giai đoạn 2 – thiền dưỡng:
Thiền dưỡng là giai đoạn kế tiếp của thiền xả. Thông
qua giai đoạn thiền dưỡng để các siêu hạt năng lượng trong
không gian Vũ trụ sẽ di chuyển vào cơ thể để tái tạo lại
những liên kết năng lượng bị đứt trong Tâm (Tuệ linh, Linh
hồn).
Thiền dưỡng gồm có các bước sau:
- Tư thế ngồi vẫn là thoải mái nhất.
- Mở mắt trong toàn bộ thời gian thiền dưỡng, tuyệt
đối không được nhắm mắt.
- Hai tay từ tư thế thiền xả chuyển sang tư thế bắt ấn
lại để phong tỏa khí hỏa không thoát ra ngoài khi hành thiền.
Tư thế bắt ấn là hai tay đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm
vào nhau. Phong ấn như vậy để an toàn cho người thiền
không bị thoát khí hỏa từ trong người ra ngoài và không bị
nhiễm năng lượng âm từ bên ngoài vào cơ thể.
- Tiếp tục suy nghĩ từ trán tới Trụ linh rồi dùng ý nghĩ
là từ Trụ linh trong cơ thể sẽ liên kết tới các khu vực chứa
đựng các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ.
- Tiếp đến là nghĩ các dòng siêu hạt năng lượng đó lại
tạo thành từng dòng và chảy tới trán.

444
- Niệm bài Hóa độ và đồng nhất hơi hít và thở ở mũi
với điểm ở chân tóc trên trán:
+ Niệm 3 lần câu “Nam mô A Di Di Đà Phật” và 1 lần
câu “Ta hóa độ cho Thân – Tâm – Trí chuyển sinh an lạc.
Đạo”.
+ Hít một hơi thở ở mũi thật sâu và nhẹ, đồng thời nghĩ
là những siêu năng lượng từ chân tóc ở trán đang chảy vào
trong cơ thể.
+ Thở một hơi thở ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời
nghĩ là các siêu năng lượng đang tỏa ra khắp các tế bào trong
khắp cơ thể.
+ Tiếp tục niệm bài Hóa độ 1 lần rồi lại hít và thở đồng
nhất với điểm ở chân tóc chỗ trán để đưa các siêu năng
lượng vào cơ thể.
Tập trung niệm bài Hóa độ và thiền dưỡng bởi mỗi lần
hít và thở.
Luôn luôn phải mở mắt, không được nhắm mắt trong
quá trình thiền trị liệu chữa bệnh Tâm. Bởi người bị bệnh
Tâm mà thiền nhắm mắt là bị mất kiểm soát nên rất nguy
hiểm, do đó phải mở mắt khi thiền định.
Như vậy, việc thiền trị liệu và chữa bệnh Tâm chỉ nên
thiền khoảng 30 tới 50 phút là hợp lý nhất.
Lưu ý: Sau thời gian dài thiền trị liệu chữa trị bệnh
Tâm khỏi bệnh mới có thể thực hiện phương pháp thiền định
cơ bản. Khi các bệnh Tâm khỏi là không còn các biểu hiện của
bệnh, cơ thể khỏe mạnh, cơ thể ấm áp, tinh thần an vui.

445
VIII. Phương pháp thiền định trị liệu và
chữa trị các bệnh lý trên cơ thể
Phương pháp thiền định trị liệu và chữa các bệnh lý
trên cơ thể được thực hiện sau thời gian dài thực hiện
phương pháp thiền định cơ bản.
Khi một người mắc cả bệnh lý và bệnh Tâm thì cần
thực hiện phương pháp thiền trị liệu chữa trị bệnh Tâm khỏi
xong rồi thực hành thiền định theo phương pháp thiền cơ
bản trước, sau đó mới thực hiện thiền định trị liệu và chữa
trị bệnh lý trên cơ thể.
Những người thực hiện thiền định trị liệu và chữa trị
các chứng bệnh lý bao gồm những người mắc các chứng
bệnh liên quan tới cơ thể thân tướng. Các bệnh lý bao gồm từ
bệnh lý giản đơn cho tới bệnh ung thư, các chứng bệnh nan y.
Việc thiền định trị liệu và chữa các chứng bệnh lý cơ
thể cần phải thực hành song song với việc đọc, học toàn bộ
hệ thống giáo lý trong hệ thống tri thức hai Chân lý, từ đó
từng bước thực hành đời sống tích cực sẽ giúp cho căn bệnh
được nhanh khỏi và triệt để.
Phương pháp thiền cơ bản của hai Chân lý gồm có hai
giai đoạn, đó là thiền cơ bản trước rồi thiền trị liệu chữa
bệnh lý:
Giai đoạn 1 – thiền cơ bản:
Thiền cơ bản với thiền xả và thiền dưỡng trong vòng
30 phút. Thiền cơ bản được đề cập ở mục VI.
Giai đoạn thiền cơ bản sẽ chữa bệnh tổng hợp cho cả
cơ thể. Những bệnh huyết áp, những bệnh về máu… sẽ được

446
chữa trị thông qua thiền định cơ bản này, do vậy, việc thiền
định cơ bản là vô cùng quan trọng.
Sau khi thiền cơ bản xong sẽ thực hành thiền định trị
liệu và chữa bệnh lý cho cơ thể.
Giai đoạn 2 – thiền trị liệu và chữa trị bệnh
lý cho cơ thể:
Thiền trị liệu và chữa trị các bệnh lý trong cơ thể là
việc lấy các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ vào các vị trí bị
bệnh trong cơ thể, các siêu hạt năng lượng sẽ trung hòa và
triệt tiêu các tế bào độc hại tại các điểm bị bệnh đó. Giai đoạn
này gắn liền với phương pháp thiền dưỡng.
Thiền trị liệu và chữa trị các chứng bệnh lý bao gồm
các bước sau:
- Tư thế ngồi vẫn là thoải mái nhất. Nhắm hai mắt.
- Hai tay bắt ấn lại để phong tỏa khí hỏa không thoát ra
ngoài khi hành thiền. Tư thế bắt ấn là hai tay đặt lên nhau,
hai đầu ngón cái chạm vào nhau. Phong ấn như vậy để an
toàn cho người thiền không bị thoát khí hỏa từ trong người
ra ngoài và không bị nhiễm năng lượng âm từ bên ngoài vào
cơ thể.
- Tiếp tục suy nghĩ từ trán tới Trụ linh rồi dùng ý nghĩ
là từ Trụ linh trong cơ thể sẽ liên kết tới các khu vực chứa
đựng các siêu hạt năng lượng trong Vũ trụ.
- Tiếp đến là nghĩ các dòng siêu hạt năng lượng đó lại
tạo thành từng dòng và chảy tới trán.
- Đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với điểm ở chân tóc
trên trán:

447
+ Hít một hơi ở mũi thật sâu và nhẹ, đồng thời nghĩ là
những siêu năng lượng từ chân tóc ở trán đang chảy vào vị
trí mắc bệnh trong cơ thể.
+ Thở một hơi thở ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời
không nghĩ gì về năng lượng, tức là kết tụ các siêu năng
lượng ở chỗ bị bệnh.
+ Cứ lặp đi, lặp lại hít và thở ở mũi đồng thời với nghĩ
các siêu hạt năng lượng di chuyển chỗ mắc bệnh trong cơ
thể, khi thở ra không nghĩ gì về năng lượng.
Tập trung thiền trị liệu và chữa bệnh lý trong cơ thể
trong khoảng 20 đến 30 phút. Không thiền nhiều, một ngày
có thể thiền vào buổi sáng và buổi tối. Tránh các giờ không
nên thiền. Khi thiền tập trung vào hơi hít và thở cũng như
đồng nhất các siêu năng lượng tới vị trí chỗ bệnh trong cơ
thể.
Khi thiền, tinh thần phải an vui, lạc quan để những siêu
hạt năng lượng tập trung trung hòa các tế bào độc hại được
hiệu quả. Nếu quá trình thiền trị liệu chữa bệnh mà u uất,
tiêu cực sẽ tạo ra nhiều năng lượng âm, khi đó các siêu hạt
năng lượng sẽ không thể tập trung trung hòa các tế bào độc.
Thậm chí các siêu hạt năng lượng khó mà di chuyển được
vào cơ thể bởi tinh thần không an vui cũng như không tập
trung.
Như vậy, việc thiền trị liệu và chữa trị bệnh lý từ 50
đến 60 phút là hợp lý.

IX. Phương pháp thiền quán các năng


lượng
448
Phương pháp thiền quán để thấy các siêu năng lượng
là phương pháp giúp cho người hành thiền khám phá các cấu
trúc năng lượng phức tạp, các cấu trúc siêu vật chất là dạng
sống Tuệ linh, những cấu trúc mà mắt thường con người
không thể thấy được.
Điều kiện để thực hiện thiền quán:
- Người đang bị âm hành, bị các căn bệnh về Tâm thì
tuyệt đối không nên thiền quán, bởi khi đã bị các bệnh về
Tâm, tức là Trụ linh đang phóng xạ năng lượng âm, trong cấu
trúc năng lượng của Tuệ linh có quá nhiều hạt năng lượng
âm là nghiệp lực rung lắc, quay xung quanh các hạt năng
lượng dương. Do đó, khi thiền quán sẽ thấy các ảo ảnh, ảo
thanh, ảo giác và nhìn thấy những nghiệp lực trong các kiếp
quá khứ, điều này sẽ vô cùng nguy hiểm cho người thiền nếu
không có người dẫn dắt thiền.
- Để thiền quán năng lượng, người thiền phải thấu hiểu
giáo lý trong hệ thống tri thức của hai Chân lý, thấu hiểu bản
chất các loại năng lượng và các cảnh giới trong không gian
Vũ trụ. Việc thấu hiểu, nhận biết để đảm bảo khi thiền quán
sẽ an toàn, sẽ không bị các cảnh giới của ngã quỷ dẫn dụ,
không bị các Chư thiên lừa gạt thử thách.
- Để thực hành thiền quán năng lượng thì người hành
thiền phải thực hiện phương pháp thiền định đạt đến cảnh
giới thiền cơ bản. Tức là cơ thể ấm áp, cân bằng năng lượng,
không bị bệnh âm thì mới nên thực hành thiền quán năng
lượng.
Thiền quán năng lượng là bước đệm cho việc người
hành thiền quán các cảnh giới thâm sâu hơn trong bản thể
vật chất và trong không gian Vũ trụ.

449
Các bước thiền quán năng lượng:
- Tư thế ngồi thiền giống với thiền dưỡng, đó là ngồi
thoải mái, hai tay đặt lên nhau và cùng hướng 2 lòng bàn tay
lên trên, hai đầu ngón tay cái chạm vào nhau để phong tỏa
không cho năng lượng dương, năng lượng hỏa thoát ra khỏi
hai lòng bàn tay.
- Nhắm hai mắt lại.
- Tập trung suy nghĩ ở trán, cạnh chân tóc. Điểm này
chính là nơi kết tụ trạm phát sóng trí tuệ của con người đến
vạn vật, Vũ trụ. Do đó phải tập trung suy nghĩ vào trán, chỗ
chân tóc, để kích hoạt các mã sóng trí tuệ nhằm thiết lập liên
kết với mã sóng trí tuệ trong Trụ linh và Vũ trụ.
- Hãy truyền ý nghĩ từ não bộ tới Trụ linh trong Tâm,
tức là truyền suy nghĩ tới bên trong cơ thể mình để sóng điện
được liên kết từ não bộ tới Trụ linh của Tâm. Từ Trụ linh của
Tâm, hãy truyền sóng điện tới Vũ trụ. Hãy nghĩ tới Vũ trụ với
tinh cầu hình tròn khổng lồ bao gồm vô lượng dải thiên hà,
trong lõi của Vũ trụ là không gian chứa đựng siêu năng lượng
vàng óng ánh; bên ngoài Vũ trụ, bao trùm Vũ trụ là siêu năng
lượng xanh ngọc lưu ly; bên trong các hành tinh là các hạt
năng lượng bóng hỏa đang được lưu giữ; những hạt năng
lượng Nhật Sư có ở lõi và khắp không gian Vũ trụ. Việc nhớ
được những nơi chứa đựng các siêu năng lượng chính là việc
từ trí tuệ đã vận hành Trụ linh liên kết tới những siêu năng
lượng đó rồi. Để làm được việc này thì phải đọc nhiều lần hệ
thống tri thức của hai Chân lý. Đó chính là thiền định theo hai
Chân lý, bởi các siêu năng lượng được sản sinh bởi hai Chân
lý.

450
- Suy nghĩ có những dòng chảy lớn siêu năng lượng
màu vàng óng ánh, siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly, hạt
bóng hỏa, siêu hạt năng lượng Nhật Sư chảy vào trán. Hãy
nghĩ có những dòng chảy đó và chảy rất mạnh vào trán. Việc
nghĩ chính là dùng ý để dẫn năng lượng. Tức là khi trí tuệ
nghĩ, Tuệ linh sẽ thực hiện cơ chế liên kết và hấp thụ các siêu
năng lượng về. Do đó, phải nghĩ liền mạch, không để bị đứt
mạch bởi những tạp niệm khi hành thiền, phải tập trung
không để đứt mạch suy nghĩ về các dòng năng lượng chảy
vào trán.
- Khi đó đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với chỗ chân
tóc trên trán là một. Có nghĩa là hãy hình dung chỗ trán là
một cái mũi thứ 2. Cả 2 cái mũi cùng nhau hít năng lượng vào
cơ thể.
+ Hít một hơi ở mũi thật nhẹ nhàng và dài thì cũng
nghĩ là các siêu năng lượng cũng từ trán chảy vào cơ thể và
lan tỏa khắp cơ thể.
+ Tiếp đó là khi thở bằng mũi cũng thở nhẹ và dài thì
nghĩ các siêu năng lượng lan tỏa khắp cơ thể.
+ Cứ như vậy, đồng nhất hơi hít và thở ở mũi với ở
trán chỗ chân tóc. Hít vào ở mũi thật dài và nhẹ, đồng thời
nghĩ các siêu năng lượng sẽ từ chân tóc chỗ trán di chuyển
vào và lan tỏa khắp cơ thể. Thở ra ở mũi thật dài và nhẹ,
đồng nhất với ý nghĩ là các siêu năng lượng đang lan tỏa
khắp cơ thể.
+ Tập trung thiền đưa các siêu năng lượng vào cơ thể
và tỏa ra khắp cơ thể trong khoảng 5 phút.

451
- Sau 5 phút thiền đưa các siêu năng lượng vào cơ thể,
người thiền định hãy quên đi hơi thở, không tập trung vào
hơi thở nữa, cũng không đưa năng lượng vào cơ thể nữa.
- Tập trung nghĩ thật sâu về các siêu năng lượng. Hãy
tập trung ý nghĩ và nhìn vào não bộ. Hãy coi trong não bộ
đang là cả Vũ trụ rộng lớn bao la. Vì chưa thấy nên trong não
bộ vẫn là màu đen tối. Dùng ý nghĩ để quán (thấy) siêu năng
lượng nào muốn thấy. Nghĩ và muốn những siêu hạt năng
lượng đó hiện hữu trong não bộ.
- Tập trung vào việc quán để thấy các siêu hạt năng
lượng. Quên đi hơi thở và không lấy siêu năng lượng vào cơ
thể.
- Thực hiện thiền quán năng lượng chỉ trong vòng 20
đến 30 phút.
- Có thể mất nhiều ngày, nhiều tháng hoặc nhiều năm
mới đạt được thành tựu là thấy được các siêu năng lượng
hoặc các năng lượng khác. Do đó phải kiên trì, không cầu
mong việc thấy được năng lượng.
Khi thiền quán được các năng lượng, các siêu năng
lượng thì mới tiếp tục các phương pháp thiền quán cảnh giới
và đi cảnh giới trong không gian Vũ trụ.

X. Phương pháp thiền quán thế giới quan


xung quanh
Phương pháp thiền quán để thấy thế giới quan xung
quanh chỉ được thực hiện sau khi đã đạt được thành tựu
thiền quán năng lượng. Bởi thế giới quan xung quanh là các
cấu trúc năng lượng, nên muốn thấy được thế giới quan thì
452
cần phải thấy được các cấu trúc năng lượng trong thiền định
rồi mới thực hiện được.
Các loại thiền quán thế giới quan xung quanh:
- Thiền để thấy các cấu trúc năng lượng an trụ tại
điều thổ, trong lá bùa, trong lô nhang thờ, trong tượng
thờ:
+ Thấu hiểu tri thức của hai Chân lý, thấu hiểu các
năng lượng tốt, năng lượng xấu, các siêu năng lượng.
+ Trước khi thực hành thiền quán cần phải niêm
phong điền thổ nơi thực hành thiền quán cho an toàn.
Phương pháp niêm phong điền thổ là: hai tay nắm lại nhau
rồi đặt lên trán và hãy nghĩ thật sâu về Ngài A Di Di Đà Phật
đã thành đạo bởi hai Chân lý; hạ hai tay xuống ngực rồi chắp
lại như khi lễ, niệm 3 niệm “Nam mô A Di Di Đà Phật”; sau đó
lấy tay phải đập 3 đập xuống nền điền thổ; đập đến lần thứ 3
thì xoay thuận tay theo chiều kim đồng hồ, vừa xoay vừa đọc
1, 2, 3 rồi đọc chữ Đạo. Như vậy là niêm phong xong.
+ Sau khi niêm phong xong thì mới ngồi thiền định
kiểm tra các cấu trúc năng lượng ở điền thổ, tượng thờ, ban
thờ, bùa.
+ Tư thế ngồi thiền như thiền dưỡng.
+ Hai mắt nhắm lại.
+ Tĩnh lặng, không lấy năng lượng vào cơ thể.
+ Tập trung nghĩ về điền thổ, về tượng thờ, về ban thờ,
về những lá bùa.
+ Dùng ý nghĩ để nghĩ rằng Tâm (Tuệ linh, Linh hồn)
của mình bao trùm toàn bộ nơi điền thổ đó.
+ Quên đi hơi thở.

453
+ Tập trung suy nghĩ tới Tuệ linh là hãy quán các tầng
năng lượng của điền thổ, của bùa, của tượng thờ, của ban thờ
xem có những loại năng lượng gì.
+ Tập trung suy nghĩ và tĩnh lặng để não bộ thông qua
liên kết dây thấy được các cấu trúc năng lượng. Khi đó,
những hình ảnh năng lượng âm, dương, các siêu năng lượng
sẽ hiện hữu trong não bộ hoặc ở nhãn thần (điểm giữa hai
con mắt).
+ Nếu có những năng lượng đen, xám, đỏ máu là nơi
đó có những cấu trúc năng lượng đỏ máu là quỷ, năng lượng
màu đen là tinh tà, năng lượng màu xám là vong cô hồn. Nếu
có các siêu năng lượng hoặc năng lượng dương là tốt.
+ Nếu thấy hình người, hình Thần thánh, Phật… thì
không nên tin vì có thể do năng lượng âm đóng giả. Hãy
hướng tay phải vào họ và niệm nhiều niệm Nam mô A Di Di
Đà Phật. Nếu là tinh tà, quỷ đóng giả thì họ sẽ được siêu thoát
hoặc hiện nguyên hình thành muông thú, hoặc hiện thành các
nhóm năng lượng âm rồi được chuyển sinh về Địa phủ. Sau
đó dùng phương pháp siêu độ cho điền thổ để siêu độ cho
hết tất cả các cấu trúc năng lượng âm.
- Thiền để thấy huyệt mạch hay mạch nước ngầm ở
điền thổ:
+ Huyệt mạch là điểm giao nhau của ngã ba mạch nước
ngầm với cột siêu năng lượng được liên kết từ lõi của Vũ trụ
tới. Thấy được huyệt mạch sẽ thấy được sự vận hành của cơ
chế liên kết dây đang vận hành Trái đất từ lõi của Vũ trụ.
+ Thấy mạch nước ngầm là thấy thế giới quan bên
dưới lòng đất. Thấy được mạch nước ngầm để giúp người

454
dân xác định được điểm khoan giếng lấy nước phục vụ đời
sống hàng ngày.
+ Trước khi thực hành thiền quán cần phải niêm
phong điền thổ nơi thực hành thiền quán cho an toàn.
Phương pháp niêm phong điền thổ là: hai tay nắm lại nhau
rồi đặt lên trán và hãy nghĩ thật sâu về Ngài A Di Di Đà Phật
đã thành đạo bởi hai Chân lý; hạ hai tay xuống ngực rồi chắp
lại như khi lễ, niệm 3 niệm “Nam mô A Di Di Đà Phật”; sau đó
lấy tay phải đập 3 đập xuống nền điền thổ; đập đến lần thứ 3
thì xoay thuận tay theo chiều kim đồng hồ, vừa xoay vừa đọc
1, 2, 3 rồi đọc chữ Đạo. Như vậy là niêm phong xong.
+ Sau khi niêm phong xong thì mới ngồi thiền định
kiểm tra điền thổ có mạch nước ngầm hay huyệt mạch
không.
+ Tư thế ngồi thiền như thiền dưỡng.
+ Hai mắt nhắm lại.
+ Tĩnh lặng, không lấy năng lượng vào cơ thể.
+ Tập trung nghĩ về điền thổ.
+ Dùng ý nghĩ để nghĩ rằng Tâm (Tuệ linh, Linh hồn)
của mình bao trùm toàn bộ nơi điền thổ đó.
+ Quên đi hơi thở.
+ Dùng ý nghĩ xin Tuệ linh cho thấy mạch nước ngầm
ở điền thổ hoặc xem có huyệt mạch siêu năng lượng màu
vàng óng ánh không.
+ Tập trung suy nghĩ, Tuệ linh sẽ truyền tải hình ảnh
dưới lòng đất để thấy mạch nước ngầm hay không có. Tuệ
linh sẽ cho thấy có huyệt mạch hay không có huyệt mạch.

455
XI. Phương pháp thiền du linh tới các cõi
trời
Phương pháp thiền du linh tới các cõi trời chỉ thực
hiện được khi đã đạt được thành tựu thiền định quán thế
giới quan xung quanh.
Thiền định du linh là Tuệ linh tách ra khỏi cơ thể để di
chuyển trong cấu trúc nền của Vũ trụ. Cũng có thể Tuệ linh
không tách ra khỏi cơ thể, nhưng lại truyền mã sóng trí tuệ
từ Trụ linh tới các cảnh giới để thấy và truyền các hình ảnh,
nội dung thông tin từ các cõi đó về Trụ linh, về não bộ.
Thiền định du linh đến các cõi trời có thể là thiền để
tới cõi trời A Di Di Đà, có thể là thiền tới cõi trời Địa phủ để
tham quan hoặc thuyết pháp giác ngộ hai Chân lý tới hội
đồng gia tiên dòng họ.
Để thiền du linh tới các cảnh giới an toàn, người hành
thiền phải thấu hiểu các cảnh giới, thấu hiểu các tầng năng
lượng tốt và xấu, thấu hiểu toàn bộ hệ thống tri thức của hai
Chân lý.
Đặc biệt là tuyệt đối không học pháp hay học thần
thông của bất cứ Tuệ linh nào, điều mà nhân gian với vô số
người hành thiền đã bị mắc kiếp nạn này. Bản thể chúng ta
cũng là Tuệ linh đang an trụ trong cơ thể để tu hành, tu hành
để tìm được Tâm pháp, đó là trí tuệ vô lượng khi đạt được
thành tựu là bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Nhưng vì bị
che đi trí tuệ cội nguồn, nên khi thiền định thấy các cảnh giới,
thấy Chư thiên, được họ dẫn dụ dạy cho pháp thuật và thần
thông thì nghĩ là kỳ diệu và đắm chìm trong những thứ đó.
Trong Hội đồng Tuệ linh có những vị có sứ mệnh thử thách
tất cả chúng sinh, họ sẽ dựa vào tâm sinh khởi ham muốn của
456
người hành thiền mà dẫn dụ để người hành thiền lạc lối
trong hành trình tu hành. Bản chất những thứ về thần thông,
pháp thuật đều là cơ chế phân tách, liên kết năng lượng, điều
mà Tuệ linh nào cũng làm được. Nếu người hành thiền mải
mê điều đó thì là đi sai đường, tìm về cái Tuệ linh đã có chứ
không phải tìm đến sự giác ngộ bởi khổ đau ở nhân gian. Bên
cạnh đó cũng không nên hỏi những tri thức giác ngộ từ họ,
bởi tìm giác ngộ phải là ở dưới nhân gian, điều mà họ cũng
phải thực hành ở nhân gian.
Thiền du linh chỉ là để khám phá thế giới quan Vũ trụ,
nếu khi thiền định mà thấy Phật, Thần, Thánh thì không nên
tin ngay, vì có thể đó là ảo ảnh do năng lượng của ngã quỷ
hóa hiện. Khi đó hãy dùng bài Hóa độ để niệm và hướng bàn
tay phải vào họ, nếu do năng lượng âm hóa giả thì họ sẽ tan
biến.
Phương pháp thiền du linh:
- Ngồi thiền như thiền dưỡng tại nơi không có năng
lượng âm, tức là nơi thiền định phải được giải âm rồi.
- Hai tay bắt ấn như thiền dưỡng.
- Nhắm hai mắt lại.
- Nghĩ về Đức A Di Di Đà Phật rồi xin Ngài cho phép
Tuệ linh di chuyển tới cõi trời của Ngài là cõi A Di Di Đà hoặc
xin tới cõi trời Địa phủ để tham quan hoặc xin giảng giáo lý
cho gia tiên.
- Không lấy năng lượng và cũng không tập trung vào
hơi thở.
- Hãy tĩnh lặng, suy nghĩ, truyền tải ý nghĩ từ não bộ tới
Trụ linh và ý nghĩ rằng Tuệ linh hãy du linh tới cõi trời đó để
tham quan hoặc để giúp đỡ gia tiên ở cõi trời Địa phủ.
457
- Hãy nghĩ là Tuệ linh đang ở cõi trời đó rồi. Tuệ linh sẽ
đi trong bước nhảy của sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng
lượng mà tới đó ngay trong ý nghĩ.
- Trên hành trình khám phá thế giới quan ở các cõi trời
tuyệt đối không học hay nhận bất cứ pháp thuật, thần thông
nào; cũng không nên nghe bất kỳ những điều gì khiến cho
con người vi phạm giá trị đạo đức, vi phạm vào sát sinh, vi
phạm vào Quy luật Nhân quả. Việc thấu hiểu giáo lý giác ngộ
sẽ là hành trang bảo vệ người thiền định được an toàn bởi
những cạm bẫy từ Hội đồng Tuệ linh.
- Khi thiền tới cõi trời Địa phủ để giảng giáo lý hai
Chân lý cho gia tiên nhanh được siêu thoát các cảnh giới thì
người hành thiền phải nghĩ thêm và xin phép Hội đồng Hoàn
đạo sau khi nghĩ và xin phép Ngài A Di Di Đà Phật. Khi tới
được cõi trời Địa phủ thì hãy nghĩ và tới gặp Hội đồng Hoàn
đạo, sau đó xin phép Hội đồng triệu tập hội đồng gia tiên
hoặc vong linh tới để xin được thuyết pháp giác ngộ cho gia
tiên hoặc vong linh. Sau khi thuyết pháp xong, xin cảm tạ sự
trợ giúp của Hội đồng Hoàn đạo.

XII. Phương pháp thiền động bằng hai


Chân lý
Phương pháp thiền động bằng hai Chân lý là phương
pháp thiền định trong trạng thái vận động của thân tướng để
quan sát tới vạn vật, sự việc, hiện tượng để kiểm chứng sự
thật của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận
hành là phân tách và liên kết dây.
Để tiến hành thiền động được hiệu quả và chính xác,
người hành thiền cần phải thấu hiểu giáo lý của hai Chân lý
458
với cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng, học thuyết hạt
năng lượng, cơ chế Quay tròn, Tam hợp, thông tin, chuyển
sinh.
Khi thực hành thiền động là thân tướng vẫn đang vận
động, trí tuệ và Tâm hợp nhất để tĩnh lặng. Tĩnh lặng của trí
tuệ và Tâm để vận dụng hai Chân lý với cơ chế vận hành
nhằm phân tích quá khứ cho tới hiện tại và tương lai của vạn
vật, sự việc, hiện tượng mà ta thấy, ta tương tác, ta khám phá.
Thiền động giúp cho người hành thiền xây dựng trí
tuệ, có khả năng tư duy logic, biện chứng logic nhằm thấy
được sự thật chân thật của hết thảy các cấu trúc Tướng trong
Vũ trụ đều được hình thành từ phôi âm dương gốc. Các phôi
âm dương gốc sẽ thông qua môi trường sinh nhiệt mà phân
tách rồi liên kết để tạo thành các cấu trúc vật chất; tùy theo
hướng phân tách, liên kết theo hướng chuyển sinh bền vững
hay phân rã mà tạo ra các cấu trúc vật chất cũng như cấu trúc
trí tuệ của Tuệ linh, con người khác nhau.
Đỉnh cao của trí tuệ chính là thiền động bằng hai Chân
lý để thấu hiểu tận cùng vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ.
Trong thiền định bằng hai Chân lý, có nhiều cảnh giới
thiền định khác nhau. Tôi chỉ đưa ra một số phương pháp
thiền định cho mọi người thực hành. Còn những cảnh giới
cao của thiền định cần phải được hướng dẫn, chỉ bảo chi tiết
khi thiền nên tôi không đưa vào trong hệ thống tri thức của
hai Chân lý này.
***************

459
460
PHẦN KẾT:

Như vậy, cuốn "Thực Hành Sản Sinh Hạt Năng Lượng"
chính là phương pháp thực tiễn áp dụng vào bốn hình tướng
Đạo, để sản sinh từng loại hạt năng lượng tận cùng. Để sản
sinh được những loại hạt năng lượng tận cùng và các siêu
hạt, Tuệ linh và con người phải thấu hiểu triệt để tận cùng về
bản chất của hạt năng lượng tận cùng, về những cơ chế và
bản chất vận hành Vũ trụ, về cội nguồn và sứ mệnh của nhân
loại, về Bát Không Hoàn Đạo và hệ thống lý luận của hai Chân
lý.
Khi có được trí tuệ siêu việt của hai Chân lý, Tuệ linh
và con người sẽ dễ dàng thực hành sản sinh hạt năng lượng
thông qua vòng trong sản sinh hạt. Trí tuệ siêu việt của hai
Chân lý cùng với sự quyết tâm thực hành của Tuệ linh và con
người, chính là phương pháp duy nhất để chuyển sinh Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng, để đắc được Đạo hợp nhất của
Vũ trụ.
Thấu hiểu những tri thức của hai Chân lý, nhân loại sẽ
thấy được giá trị và sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc, đoàn
kết tôn giáo, đoàn kết toàn nhân loại, để cùng nhau lan tỏa
những giá trị phát triển bền vững tới tất cả vạn vật Vũ trụ,
Tuệ linh và con người. Đó chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
***************

461
462
MỤC LỤC

GIỚI THIỆU:...............................................................................................5
PHẦN 1 QUY LUẬT NHÂN QUẢ VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH ...............7
Bài 1: Quy luật Nhân quả là gì? .....................................................................11
Bài 2: Bản chất của Quy luật Nhân quả .....................................................15
Bài 3: Cội nguồn của Quy luật Nhân quả ..................................................33
Bài 4: Cơ chế vận hành của Quy luật Nhân quả .....................................43
Bài 5: Những quy tắc trong Quy luật Nhân quả của nhân loại .......81
Bài 6: Các mức độ chuyển hóa trong Quy luật Nhân quả của nhân
loại..............................................................................................................................95
Bài 7: Những câu hỏi về Quy luật Nhân quả đến với Nhật Sư Hoàn
Đạo .......................................................................................................................... 113
PHẦN 2 VÒNG TRÒN SẢN SINH HẠT NĂNG LƯỢNG (HẠT
NĂNG LƯỢNG TẬN CÙNG – HẠT NHÂN QUẢ) .......................... 135
Bài 1: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng chân tâm ........................ 143
Bài 2: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng tiêu cực.......................... 183
Bài 3: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng phát triển ...................... 217
Bài 4: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng lan tỏa ............................. 249
Bài 5: Vòng tròn sản sinh hạt năng lượng đoàn kết ......................... 281
Bài 6: Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 1 ............... 319
Bài 7: Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 2 ............... 353
Bài 8: Vòng tròn sản sinh siêu hạt năng lượng Hóa độ 3 ............... 387
Bài 9: Siêu hạt năng lượng Hóa độ 4 – Siêu hạt năng lượng Nhật
Sư ............................................................................................................................. 409
PHẦN 3 THIỀN ĐỊNH THEO HAI CHÂN LÝ ................................. 421
PHẦN KẾT: ........................................................................................... 461

463

You might also like